Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Người Y sĩ, người lính Mũ Đỏ Tô Phạm Liệu

Collapse
X

Người Y sĩ, người lính Mũ Đỏ Tô Phạm Liệu

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Người Y sĩ, người lính Mũ Đỏ Tô Phạm Liệu

    Y Sĩ Nhẩy Dù TÔ PHẠM LIỆU:
    "Ra đi không mang va-ly . . ."

    Hoàng Gia Viễn

    Cách đây đã lâu, lâu lắm, gần 30 năm về trước, vào một buổi chiều thứ Bảy giữa mùa hè năm 1976, tôi gặp Tô Phạm Liệu lần đầu tiên ở Colorado, anh đi theo một số bạn bè từ Denver xuống thăm tôi. Khi đó vợ chồng tôi còn thuê một căn nhà nhỏ ở gần hồ Prospect Lake, Colorado Springs, cách thành phố Denver khoảng 70 dặm. Căn nhà có gian bếp nhỏ, cũ kỹ, chỉ đủ chỗ cho hai vợ chồng tôi và đôi, ba người khách ngồi ăn cơm thanh đạm là cùng, thế mà bạn bè cuối tuần cứ ùn ùn kéo tới. Cứ tự nhiên như người Hà Nội, như ăn nhà hàng La Pagode, chẳng cần thắc mắc điều chi.

    Không đủ chỗ thù tiếp bạn bè có khi lên tới 20 người từ xa tới, chúng tôi đôi khi phải trải tấm vải nhựa xuống mặt thảm giữa phòng khách, chén chú, chén anh, chén thù, chén tạc. Bắt chước người xưa: "Dục phá thành sầu dụng tửu binh". Cái sầu mất nước, cái sầu bỏ lại vợ con, cha mẹ, bỏ lại bạn bè. Cái sầu phiêu lạc nơi đất khách quê người, cái sầu đang đánh đấm tưng bừng mà sao bỗng nhiên có những ông xếp lớn ù té chạy như người bị ma đuổi, sau những câu hứa hẹn chắc như cua gạch là sẽ ở lại chiến đấu cho tới cùng . . .

    Trong đám bạn bè hôm đó có dăm ba mạng pilot, hai ba mống hải quân và mấy ông lính nhảy dù. Đầy đủ Hải, Lục, Không quân. Mặt mũi tên nào cũng còn trẻ măng, chỉ mới xấp xỉ ba chục. Trong số đó có lẽ Tô Phạm Liệu lớn tuổi hơn cả, khi ấy anh khoảng 35. So với tụi tôi dù tuổi tác, học hành bằng cấp có phần chênh lệch nhưng anh chẳng hề câu nệ. Không quân và Nhảy Dù như có một cái liên hệ tình cảm đặc biệt, chỉ sau một vài ly sương sương là bắt đầu mày tao, chi tớ, coi như là bạn vàng từ thuở còn ở truồng tắm mưa. Chúng tôi ngồi uống rượu tới gần sáng, nói chuyện đời lính, chuyện trên trời dưới đất, ngậm ngùi nhắc tới bạn bè vắng mặt, cười vỡ nhà với những câu chuyện bù khú. Tô Phạm Liệu uống rượu không biết say, nói chuyện không biết mệt, anh thao thao bất tuyệt:

    "Tao là lính Nhẩy Dù. Ông về từ Charlie mùa hè đỏ lửa 72 đó mày biết không? Tụi mày bỏ bom cũng được, khá đấy, tao thấy thằng A-1 bị trúng hỏa tiễn mà thương nó, nó tan từng mảnh trước mắt tao. . . Hình như cái thằng thiếu úy đẹp trai, trẻ măng sắp lấy con gái tiệm ăn Hương Giang (?) gì ở Pleiku thì phải. . . Bác sĩ đếch gì, ông là lính nhẩy dù. Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi . . ."
    oOo
    Tô Phạm Liệu dáng người khá to lớn, đẹp trai, trắng trẻo, nói chuyện dí dỏm, có duyên. Khi mới gặp, tôi không ngờ anh là lính tác chiến, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 11 Nhẩy dù, vì trong đầu óc tôi vẫn in đậm hình ảnh những người lính trận mang nét mặt sạm nắng, gân guốc, phong trần. Đâu có ai dáng dấp phong nhã như Tô Phạm Liệu "gươm đàn nửa gánh, non song một chèo", đầy tâm hồn văn nghệ, sính thơ phú.

    Tuy cùng một tên họ với thi sĩ Tô Đông Pha làm quan dưới đời nhà Tống bên Tầu, lừng danh kim cổ qua hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, nhưng ông quan tu-líp họ Tô tên Liệu, không có tài làm thơ, ông chỉ thích kể lại chuyện "tiền Charlie" và "hậu Charlie" (một địa danh nổi tiếng cùng với đồn B5, B6, do Tiểu đoàn 11 Nhảy dù trấn đóng để cản đường tiến của cộng quân vào tây nguyên) với những trận đánh biển người của địch quân mà mỗi lần nhắc tới người nghe như cảm được nỗi ngậm ngùi đau xót trong từng tiếng nói, từng thớ thịt trên mặt khi ông nhắc đến tên bạn bè.

    Đốc tờ Tô có biệt tài đọc thơ, đọc phú, dù thơ phú lượm lặt ở những buổi trà dư tửu hậu, hay tự phịa ra, anh vẫn làm cho mọi người thích thú vì luôn hàm chứa tính hài hước, tiếu lâm. Những lần bạn bè họp mặt có anh là không khí trở nên vui nhộn, sống động, dù các bà khó tính, giữ chồng như giữ của, mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu, nhăn nhó kinh niên, cũng ôm bụng cười hả hê, cười chảy nước mắt. Và dù ông chồng có ngồi lại đụng ly, đụng chén với bạn bè tới sáng những bà thuộc loại chằng lửa cũng chẳng lườm, chẳng nguýt, chẳng mặt nặng, mày nhẹ, mặt xưng, mày xỉa.

    Trong cái chặng đường phiêu bạt của cuộc đời di tản buồn, tôi và một nhóm bạn bè cũ, mới, bỗng nhiên cảm thấy gần gũi nhau, thương nhau hơn. Thương cho thân phận lãng nhách đột nhiên bị đẩy vào giữa cái xã hội vàng thau lẫn lộn, bạc tình, bạc nghĩa, ăn cháo, đá bát, qua cầu rút ván, coi đồng đô la to bằng cái thúng. Gặp nhau thì khoe khoang, ganh tỵ. Hột chị nhỏ, hột em to, hột chị tròn, hột em méo . . . Trước cái sự đời lố lăng đó, Tô Phạm Liệu tức cảnh sinh tình, anh thường châm chọc:

    Chồng chị giầu chị đeo vàng, đeo ngọc.
    Chồng em nghèo em nắm chắc con cu.
    Một mai bóng xế trăng lu,
    Ngọc vàng chị mất mà con cu em vẫn còn.

    Anh thường cất giọng cười sảng khoái sau những lần ngâm thơ tiếu lâm như vậy. Hoặc những khi nhái thơ ông Nguyên Sa:

    Nắng Saigon anh đi mà chợt "rét"
    Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
    "Lụa Hà Đông 5 ngàn đồng một thước
    Mà sao em nỡ xé 4, 5 mầu"

    Anh vui với đời sống bình dị, không đua đòi, chỉ thích gần bạn bè nhất là những người đã một thời lao vào lửa đạn với anh. Tôi nhớ có dạo anh lên một bệnh viện thuộc một thành phố nhỏ phía bắc Dakota để tu nghiệp ngành chuyên môn, nhưng chỉ 3 tháng sau anh bỏ dở, quay về lại Denver. Tô Phạm Liệu không thể sống thiếu bạn bè. Tôi cũng đoán trước được điều đó.
    Anh cảm thấy thoải mái khi ngồi quay quần, không kiểu cọ, khách sáo giữa đám bạn bè cười nói tự nhiên. Nhưng cũng có đôi khi tôi chợt thấy anh thừ người trước ly rượu, mắt nhìn vào bóng tối mông lung bên ngoài khung cửa sổ. Như nỗi đau buồn nào từ những ngày tháng xa xưa bỗng dưng trở lại mà những ly rượu cay, những tiếng cười hào sảng không đủ che dấu vết thương nhức nhối trong lòng. Hình ảnh đồn Chalie và người anh cả Trung tá Nguyễn Đình Bảo mà chính tay anh đã băng bó trước khi hy sinh. Những đêm băng rừng lội suối, dìu đồng đội bị đầy thương tích, mà anh nhiều lần nhắc tới như hiện về trong ký ức. Anh thường cất giọng ngâm bài "Nhớ Rừng" của Thế Lữ:

    Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
    Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
    Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
    Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
    . . . .
    Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
    Ta lâng ngắm giang san ta đổi mới.
    . . . .
    Hoặc bài "Tống Biệt Hành" của Thâm Tâm:

    Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
    Chí lớn chưa về bàn tay không
    Thì không bao giờ nói trở lại!
    Ba năm mẹ già cũng đừng trông.
    . . . .
    Ta biết người buồn sáng hôm nay
    Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay
    Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
    Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

    Người đi? Ừ nhỉ! người đi thực!
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay
    Chị thà coi như là hạt bụi
    Em thà coi như hơi rượu cay.
    . . . .
    Khoảng năm 1980, 1981 Tô Phạm Liệu hành nghề ở một bệnh viện sát biên giới hai tiểu bang Kansas-Colorado. Tôi nhớ hầu như mỗi tuần anh đều lái xe ba bốn tiếng để về Denver, chúng tôi một nhóm bạn bè lại hú nhau tụ tập, chén chú, chén anh, chuyện trò thâu đêm suốt sáng. Khoảng cuối thập niên 1980 anh đổi đi làm việc ở một bệnh viện cựu chiến binh Mỹ ở thành phố Alexandria, Louisiana, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, chỉ thỉnh thoảng gọi điện thoại hoặc nhắn tin thăm hỏi. Lần chót tôi gặp lại anh vào mùa hè năm 1993, anh trở lại Denver thăm bạn bè và đó có lẽ cũng là lần chót chúng tôi ngồi chung bàn tiệc với nhau. Sức khỏe anh suy sụp một cách nhanh chóng, trông anh gầy hẳn đi vì bệnh gan tàn phá cơ thể. Tháng Tư năm 1997, tôi lo lắng gọi điện thoại hỏi thăm, giọng anh yếu ớt, mệt mỏi. Tuy vậy, tôi vẫn còn nghe tiếng cười ngạo nghễ từ đầu dây bên kia: "Tao không dễ chết đâu mày. Ông còn chống cự dài dài, còn lâu ông mới ngỏm". Tôi hứa sẽ có dịp ghé thăm anh. Anh dặn dò: "Mày xuống đây tao gọi thằng LXN, thằng KQ viết văn của tụi mày ở dưới New Orlean, nó làm đồ nhậu hết sẩy, thỉnh thoảng nó vẫn bê lên tao một bao crawfish ngồi lai rai cả buổi . . . Mày đừng lo, ông bệnh nhưng ông vẫn uống như rồng . . . Sư mày. Xuống đây. Còn lâu ông mới thua mày".
    oOo
    Tô Phạm Liệu vĩnh biệt bạn bè ra đi vào giữa đêm 29 tháng 7, 1997. Tôi không ngờ anh đi mau như vậy. Tôi ân hận mãi vì thời gian đó phải đi công tác xa nhà liên miên nên không xếp đặt thì giờ được để thăm anh và gặp mặt anh lần chót.

    Thời giai trôi qua như vó câu, nào ngờ thấm thoát đã gần 8 năm. Có những buổi chiều cuối tuần vắng lặng, tôi ngồi một mình, chợt nhớ tới anh, sao cảm thấy trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ những chiều thứ bảy dáng Tô Phạm Liệu lừng lững mặc bộ đồ hoa dù, chiếu mũ đỏ đội lệch trên trán, bước ngang khu sân cỏ trước nhà tôi với một đám bạn bè, cười nói. Tôi nhớ những đêm ngoài trời tuyết giá, tôi say mèm, người như sợi bún, nằm ngủ trên ghế salon, anh đắp nhẹ chiếc mền lên tôi và nói: "Ngủ đi mày, sáng mai nhậu tiếp. Mẹ. Chưa nhậu đã xỉn".

    Người Y sĩ, người lính Mũ Đỏ Tô Phạm Liệu: "Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi..." Anh đã ra đi vĩnh viễn, ra đi chẳng cần . . .va-ly hành lý. Ngoài hình bóng người vợ trẻ, đứa con thơ, chắc chắn anh còn mang theo tình bạn bè, tình chiến hữu, tình những người lính Mũ Đỏ. Tôi cũng tin rằng nếu được chọn lựa, anh sẽ chọn chiếc áo hoa dù đút túi mang theo, mãi mãi như hành trang quí báu về bên kia thế giới. Và dù có yên nghỉ nơi nào, nếu còn được nghe tiếng phi cơ chiến đấu bay ngang chắc chắn anh cũng sẽ đưa tay vẫy chào . . .


    Để Tưởng Nhớ Tô Phạm Liệu Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19/6

    Hoàng Gia Viễn


    ---
    Poster: Trần Cù Lũ
    E-Mail: Sipa88@aol.com

  • #2
    Tô Phạm Liệu - Bác Sĩ Quân Y Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù





    Nguyên văn bởi AcDieu225
    Y Sĩ Nhẩy Dù TÔ PHẠM LIỆU:
    "Ra đi không mang va-ly . . ."

    Hoàng Gia Viễn

    Cách đây đã lâu, lâu lắm, gần 30 năm về trước, vào một buổi chiều thứ Bảy giữa mùa hè năm 1976, tôi gặp Tô Phạm Liệu lần đầu tiên ở Colorado, anh đi theo một số bạn bè từ Denver xuống thăm tôi. Khi đó vợ chồng tôi còn thuê một căn nhà nhỏ ở gần hồ Prospect Lake, Colorado Springs, cách thành phố Denver khoảng 70 dặm. Căn nhà có gian bếp nhỏ, cũ kỹ, chỉ đủ chỗ cho hai vợ chồng tôi và đôi, ba người khách ngồi ăn cơm thanh đạm là cùng, thế mà bạn bè cuối tuần cứ ùn ùn kéo tới. Cứ tự nhiên như người Hà Nội, như ăn nhà hàng La Pagode, chẳng cần thắc mắc điều chi.

    Không đủ chỗ thù tiếp bạn bè có khi lên tới 20 người từ xa tới, chúng tôi đôi khi phải trải tấm vải nhựa xuống mặt thảm giữa phòng khách, chén chú, chén anh, chén thù, chén tạc. Bắt chước người xưa: "Dục phá thành sầu dụng tửu binh". Cái sầu mất nước, cái sầu bỏ lại vợ con, cha mẹ, bỏ lại bạn bè. Cái sầu phiêu lạc nơi đất khách quê người, cái sầu đang đánh đấm tưng bừng mà sao bỗng nhiên có những ông xếp lớn ù té chạy như người bị ma đuổi, sau những câu hứa hẹn chắc như cua gạch là sẽ ở lại chiến đấu cho tới cùng . . .

    Trong đám bạn bè hôm đó có dăm ba mạng pilot, hai ba mống hải quân và mấy ông lính nhảy dù. Đầy đủ Hải, Lục, Không quân. Mặt mũi tên nào cũng còn trẻ măng, chỉ mới xấp xỉ ba chục. Trong số đó có lẽ Tô Phạm Liệu lớn tuổi hơn cả, khi ấy anh khoảng 35. So với tụi tôi dù tuổi tác, học hành bằng cấp có phần chênh lệch nhưng anh chẳng hề câu nệ. Không quân và Nhảy Dù như có một cái liên hệ tình cảm đặc biệt, chỉ sau một vài ly sương sương là bắt đầu mày tao, chi tớ, coi như là bạn vàng từ thuở còn ở truồng tắm mưa. Chúng tôi ngồi uống rượu tới gần sáng, nói chuyện đời lính, chuyện trên trời dưới đất, ngậm ngùi nhắc tới bạn bè vắng mặt, cười vỡ nhà với những câu chuyện bù khú. Tô Phạm Liệu uống rượu không biết say, nói chuyện không biết mệt, anh thao thao bất tuyệt:

    "Tao là lính Nhẩy Dù. Ông về từ Charlie mùa hè đỏ lửa 72 đó mày biết không? Tụi mày bỏ bom cũng được, khá đấy, tao thấy thằng A-1 bị trúng hỏa tiễn mà thương nó, nó tan từng mảnh trước mắt tao. . . Hình như cái thằng thiếu úy đẹp trai, trẻ măng sắp lấy con gái tiệm ăn Hương Giang (?) gì ở Pleiku thì phải. . . Bác sĩ đếch gì, ông là lính nhẩy dù. Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi . . ."
    oOo
    Tô Phạm Liệu dáng người khá to lớn, đẹp trai, trắng trẻo, nói chuyện dí dỏm, có duyên. Khi mới gặp, tôi không ngờ anh là lính tác chiến, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 11 Nhẩy dù, vì trong đầu óc tôi vẫn in đậm hình ảnh những người lính trận mang nét mặt sạm nắng, gân guốc, phong trần. Đâu có ai dáng dấp phong nhã như Tô Phạm Liệu "gươm đàn nửa gánh, non song một chèo", đầy tâm hồn văn nghệ, sính thơ phú.

    Tuy cùng một tên họ với thi sĩ Tô Đông Pha làm quan dưới đời nhà Tống bên Tầu, lừng danh kim cổ qua hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, nhưng ông quan tu-líp họ Tô tên Liệu, không có tài làm thơ, ông chỉ thích kể lại chuyện "tiền Charlie" và "hậu Charlie" (một địa danh nổi tiếng cùng với đồn B5, B6, do Tiểu đoàn 11 Nhảy dù trấn đóng để cản đường tiến của cộng quân vào tây nguyên) với những trận đánh biển người của địch quân mà mỗi lần nhắc tới người nghe như cảm được nỗi ngậm ngùi đau xót trong từng tiếng nói, từng thớ thịt trên mặt khi ông nhắc đến tên bạn bè.

    Đốc tờ Tô có biệt tài đọc thơ, đọc phú, dù thơ phú lượm lặt ở những buổi trà dư tửu hậu, hay tự phịa ra, anh vẫn làm cho mọi người thích thú vì luôn hàm chứa tính hài hước, tiếu lâm. Những lần bạn bè họp mặt có anh là không khí trở nên vui nhộn, sống động, dù các bà khó tính, giữ chồng như giữ của, mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu, nhăn nhó kinh niên, cũng ôm bụng cười hả hê, cười chảy nước mắt. Và dù ông chồng có ngồi lại đụng ly, đụng chén với bạn bè tới sáng những bà thuộc loại chằng lửa cũng chẳng lườm, chẳng nguýt, chẳng mặt nặng, mày nhẹ, mặt xưng, mày xỉa.

    Trong cái chặng đường phiêu bạt của cuộc đời di tản buồn, tôi và một nhóm bạn bè cũ, mới, bỗng nhiên cảm thấy gần gũi nhau, thương nhau hơn. Thương cho thân phận lãng nhách đột nhiên bị đẩy vào giữa cái xã hội vàng thau lẫn lộn, bạc tình, bạc nghĩa, ăn cháo, đá bát, qua cầu rút ván, coi đồng đô la to bằng cái thúng. Gặp nhau thì khoe khoang, ganh tỵ. Hột chị nhỏ, hột em to, hột chị tròn, hột em méo . . . Trước cái sự đời lố lăng đó, Tô Phạm Liệu tức cảnh sinh tình, anh thường châm chọc:

    Chồng chị giầu chị đeo vàng, đeo ngọc.
    Chồng em nghèo em nắm chắc con cu.
    Một mai bóng xế trăng lu,
    Ngọc vàng chị mất mà con cu em vẫn còn.

    Anh thường cất giọng cười sảng khoái sau những lần ngâm thơ tiếu lâm như vậy. Hoặc những khi nhái thơ ông Nguyên Sa:

    Nắng Saigon anh đi mà chợt "rét"
    Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
    "Lụa Hà Đông 5 ngàn đồng một thước
    Mà sao em nỡ xé 4, 5 mầu"

    Anh vui với đời sống bình dị, không đua đòi, chỉ thích gần bạn bè nhất là những người đã một thời lao vào lửa đạn với anh. Tôi nhớ có dạo anh lên một bệnh viện thuộc một thành phố nhỏ phía bắc Dakota để tu nghiệp ngành chuyên môn, nhưng chỉ 3 tháng sau anh bỏ dở, quay về lại Denver. Tô Phạm Liệu không thể sống thiếu bạn bè. Tôi cũng đoán trước được điều đó.
    Anh cảm thấy thoải mái khi ngồi quay quần, không kiểu cọ, khách sáo giữa đám bạn bè cười nói tự nhiên. Nhưng cũng có đôi khi tôi chợt thấy anh thừ người trước ly rượu, mắt nhìn vào bóng tối mông lung bên ngoài khung cửa sổ. Như nỗi đau buồn nào từ những ngày tháng xa xưa bỗng dưng trở lại mà những ly rượu cay, những tiếng cười hào sảng không đủ che dấu vết thương nhức nhối trong lòng. Hình ảnh đồn Chalie và người anh cả Trung tá Nguyễn Đình Bảo mà chính tay anh đã băng bó trước khi hy sinh. Những đêm băng rừng lội suối, dìu đồng đội bị đầy thương tích, mà anh nhiều lần nhắc tới như hiện về trong ký ức. Anh thường cất giọng ngâm bài "Nhớ Rừng" của Thế Lữ:

    Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
    Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
    Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
    Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
    . . . .
    Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
    Ta lâng ngắm giang san ta đổi mới.
    . . . .
    Hoặc bài "Tống Biệt Hành" của Thâm Tâm:

    Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
    Chí lớn chưa về bàn tay không
    Thì không bao giờ nói trở lại!
    Ba năm mẹ già cũng đừng trông.
    . . . .
    Ta biết người buồn sáng hôm nay
    Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay
    Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
    Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

    Người đi? Ừ nhỉ! người đi thực!
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay
    Chị thà coi như là hạt bụi
    Em thà coi như hơi rượu cay.
    . . . .
    Khoảng năm 1980, 1981 Tô Phạm Liệu hành nghề ở một bệnh viện sát biên giới hai tiểu bang Kansas-Colorado. Tôi nhớ hầu như mỗi tuần anh đều lái xe ba bốn tiếng để về Denver, chúng tôi một nhóm bạn bè lại hú nhau tụ tập, chén chú, chén anh, chuyện trò thâu đêm suốt sáng. Khoảng cuối thập niên 1980 anh đổi đi làm việc ở một bệnh viện cựu chiến binh Mỹ ở thành phố Alexandria, Louisiana, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, chỉ thỉnh thoảng gọi điện thoại hoặc nhắn tin thăm hỏi. Lần chót tôi gặp lại anh vào mùa hè năm 1993, anh trở lại Denver thăm bạn bè và đó có lẽ cũng là lần chót chúng tôi ngồi chung bàn tiệc với nhau. Sức khỏe anh suy sụp một cách nhanh chóng, trông anh gầy hẳn đi vì bệnh gan tàn phá cơ thể. Tháng Tư năm 1997, tôi lo lắng gọi điện thoại hỏi thăm, giọng anh yếu ớt, mệt mỏi. Tuy vậy, tôi vẫn còn nghe tiếng cười ngạo nghễ từ đầu dây bên kia: "Tao không dễ chết đâu mày. Ông còn chống cự dài dài, còn lâu ông mới ngỏm". Tôi hứa sẽ có dịp ghé thăm anh. Anh dặn dò: "Mày xuống đây tao gọi thằng LXN, thằng KQ viết văn của tụi mày ở dưới New Orlean, nó làm đồ nhậu hết sẩy, thỉnh thoảng nó vẫn bê lên tao một bao crawfish ngồi lai rai cả buổi . . . Mày đừng lo, ông bệnh nhưng ông vẫn uống như rồng . . . Sư mày. Xuống đây. Còn lâu ông mới thua mày".
    oOo
    Tô Phạm Liệu vĩnh biệt bạn bè ra đi vào giữa đêm 29 tháng 7, 1997. Tôi không ngờ anh đi mau như vậy. Tôi ân hận mãi vì thời gian đó phải đi công tác xa nhà liên miên nên không xếp đặt thì giờ được để thăm anh và gặp mặt anh lần chót.

    Thời giai trôi qua như vó câu, nào ngờ thấm thoát đã gần 8 năm. Có những buổi chiều cuối tuần vắng lặng, tôi ngồi một mình, chợt nhớ tới anh, sao cảm thấy trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ những chiều thứ bảy dáng Tô Phạm Liệu lừng lững mặc bộ đồ hoa dù, chiếu mũ đỏ đội lệch trên trán, bước ngang khu sân cỏ trước nhà tôi với một đám bạn bè, cười nói. Tôi nhớ những đêm ngoài trời tuyết giá, tôi say mèm, người như sợi bún, nằm ngủ trên ghế salon, anh đắp nhẹ chiếc mền lên tôi và nói: "Ngủ đi mày, sáng mai nhậu tiếp. Mẹ. Chưa nhậu đã xỉn".

    Người Y sĩ, người lính Mũ Đỏ Tô Phạm Liệu: "Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi..." Anh đã ra đi vĩnh viễn, ra đi chẳng cần . . .va-ly hành lý. Ngoài hình bóng người vợ trẻ, đứa con thơ, chắc chắn anh còn mang theo tình bạn bè, tình chiến hữu, tình những người lính Mũ Đỏ. Tôi cũng tin rằng nếu được chọn lựa, anh sẽ chọn chiếc áo hoa dù đút túi mang theo, mãi mãi như hành trang quí báu về bên kia thế giới. Và dù có yên nghỉ nơi nào, nếu còn được nghe tiếng phi cơ chiến đấu bay ngang chắc chắn anh cũng sẽ đưa tay vẫy chào . . .


    Để Tưởng Nhớ Tô Phạm Liệu Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19/6

    Hoàng Gia Viễn


    ---
    Poster: Trần Cù Lũ
    E-Mail: Sipa88@aol.com

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X