Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bí mật hai thùng đồ cổ

Collapse
X

Bí mật hai thùng đồ cổ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    BẤT NGỜ DƯỚI HANG TRĂN VÀ ĐÊM VƯỢT TRÙNG DƯƠNG

    Về đến trong rẩy, Nam cởi bỏ bộ quần áo đi đường rồi ra hồ tắm, anh nhìn ra ngoài sân và quanh nhà tìm con Đốm, nhưng không thấy bóng nó đâu. Đi tắm lên, Nam sang nhà Ba Du, thấy Ba Du đang dọn cỏ gần vườn cây, thấy Nam đi tới liền hỏi:
    -Lên thị xã có gì lạ không chú Nam?
    -Tới nhà thăm bà cô Ngọc Minh, ăn cơm trưa rồi về, ngoài ra cũng không đi đâu, anh Ba có thấy con Đốm qua đây không?
    -Hồi sáng nó chạy qua đây với con Ki, lúc chiều tui ra gần con suối thấy nó sục sạo mấy bụi cây gần đó, nó không có bên nhà sao?
    Nam lắc đầu, anh mượn cây rựa và quay trở lại khu rừng chồi gần chổ Ba Du gặp nó lúc chiều, đứng bên ngoài lớn tiếng kêu nó gần chục lần, nhưng vẩn không thấy có động tỉnh nào. Anh đi vào bên trong những bụi cây và dây leo để tìm con chó, nhớ lại mấy con kiến đen ở đây cắn rất đau, Nam vừa đi, vừa tránh né mấy cái tổ của nó.
    Lùng sục khắp các gốc cây, tảng đá trong khu rừng, những bước chân anh giẫm lên cành khô kêu răng rắc, làm vài con chim đậu trên cây hoảng hốt bay vụt ra ngoài. Nam vào đến trung tâm của đám rừng chồi, mặc cho dây leo giăng mắc, quấn quít các thân cây như mạng nhện che lối, anh dùng rựa phát quang để đi qua, mồ hôi đổ ra thấm ướt áo, sau đó Nam ra bờ hồ và đi dọc rặng cây ven bờ, nhưng cũng không tìm thấy dấu vết của con Đốm.
    Thấy trời bắt đầu tối, Nam đi trở ra ngoài vì thấy không thể mò mẩm trong bóng đêm. Ra bờ hồ rửa sạch bụi bậm bám trên người, anh đem cây rựa trả lại cho Ba Du, thấy Nam vào nhà mà không có con chó, dáng điệu buồn bả, Ba Du hỏi:
    -Không tìm thấy nó hả chú Nam?
    Anh lắc đầu:
    -Trong đó tối quá, không thấy rỏ, nên tôi đi ra … không biết nó có chạy vào rừng cao su rồi quên đường về không?
    -Lúc chiều nó cũng ở loanh quanh gần khu rừng chồi, chắc không đi quá xa, thôi tui với chú Nam chịu khó đi lên phía rừng cao su tìm thử xem, để tui cầm theo cái đèn
    Thấy Ba Du nhiệt tình, lo lắng giúp anh tìm con Đốm, anh gật đầu và cả hai lội qua rẩy khoai đến ranh lô cao su, bóng tối lan ra che phủ những thân cây, tiếng côn trùng bắt đầu kêu rả rích. Ba Du chiếu ngọn đèn pin cũ về phía những bụi cỏ, Nam vừa đi vừa kêu thật lớn, nhưng không có động tĩnh nào đáp lại.Trời tối hẳn, cả hai quay về, Ba Du kêu Nam ở lại ăn cơm tối, anh lắc đầu đi cắt ngang qua rẩy và con suối về nhà.
    Nấu bửa tối và ngồi ăn một mình, Nam suy nghĩ không biết con Đốm chạy đi đâu, buồi chiều nó còn quanh đó rồi đột nhiên biến mất, chắc chắn là nó không bao giờ bỏ đi, còn mấy tay du kích thì cả ngày hôm nay đâu có đi tuần trong này … vậy mà tìm cả buổi chiều vẩn không thấy nó.
    Bửa tối ăn xong, Nam đang ngồi trên khúc gổ trước sân thì Ba Du và con Ki qua, anh ra đốt đống lửa trên sân, hi vọng con Đốm nhận ra ánh sáng để tìm đường về nhà, Nam nói với Ba Du:
    -Chắc nó không đi đâu xa, nếu sáng mai anh Ba không bận công việc, mình đi tìm con chó thêm một buổi sáng nửa
    -Lúc này tui đang rảnh, nên ngày mai tui với chú Nam đi xung quanh khu này để tìm nó về, còn hai ngày tới, mình sẽ ra đập mở ba cửa lớn thêm cho nước mau hạ xuống, cố gắng làm thật nhanh chóng
    Nam gật đầu, và phần nào câu chuyện của Hai Tuất kể về người đàn ông hỏi mua cái chén cũ ở nhà ông ta với giá cao, làm anh và Ba Du thấy vững tâm, ngồi hút xong điếu thuốc lá, Ba Du dẩn con Ki đi về nhà, ngồi nghĩ ngợi thêm một lúc, anh ra dập tắt đống lửa và vào nhà.
    Buổi sáng Nam và Ba Du trở lại rừng cao su để tìm con Đốm, có cả con Ki đi theo nhưng nó thì thích chạy lùng sục tìm bắt mấy con rắn mối, thằn lằn khắp nơi. Sau độ nửa tiếng, không thấy có dấu hiệu gì của con Đốm ở đây, nên quay về.
    Cả hai quay về tìm ở phía sau khu vườn cây nhà Ba Du, ra sục sạo tận mấy bụi tre nằm tận trong cùng giáp với khu vực đồi đá lởm chởm, nơi mà con chó của anh và Ba Du cũng khó vượt qua.
    Nam tỏ ra thất vọng, mặt trời lên cao đang phả ra hơi nóng oi bức, cả hai quay về nhà uống nước và ngồi hút thuốc trước sân, anh thấy buồn vì coi như đã mất nó.
    Anh cầm cây rựa đi về nhà, còn Ba Du chuẩn bị xách thùng ra tưới cho đám bắp non mới nhú lên.
    Đi ngang qua đám rừng chồi, như có linh tính thúc giục, anh lại vào đó lần nửa để tìm con chó, vì nghĩ nó chỉ có thể mất tích ở đâu đó gần nhà, mà rừng chồi là chỗ Nam nghĩ đến đầu tiên.
    Dùng rựa gạt những nhánh cây che phía trước, Nam đi chầm chậm dưới tàng lá và quan sát tìm dấu vết, ban ngày ánh nắng chiếu xuyên qua vòm cây giúp anh nhìn quanh các tảng đá, gốc cây rỏ hơn buổi chiều hôm qua. Những con kiến đen bị đánh động hung hăng bò ra khỏi tổ, vài con bám được lên bàn chân và cắn đau nhói, Nam cố chịu đựng cơn đau và đi tới, dùng rựa chặt những cành cây rậm che kín mặt đất bên dưới.
    Ra gần đến bớ hồ, anh chú ý dưới một bụi cây có vài nhánh bị gảy, mặt đất có dấu vết xáo trộn, Nam ngồi xổm trên mấy tảng đá, thấy có những đốm màu nâu đen dính trên đó, nó giống như vết máu khô, trên một nhánh gãy còn dính một miếng vảy nhỏ như da rắn. Anh lần theo dấu vết trên đám lá khô, và cúi xuống thấy bên dưới hốc đá có một hang khá to, cái hang mà lần trước hai con chó thò mủi vô đánh hơi, cẩn thận Nam lấy rựa chọc vào đó hai, ba lần để xem có rắn hay con vật nào trong đó, không thấy có động tỉnh gì, anh dùng tay lật hai phiến đá ra hai bên, miệng hang bây giờ hiện ra to hơn và có lốm đốm dấu máu khô đen và vài túm lông nhỏ.
    Đầu óc Nam tỉnh hẳn, anh đưa cây rựa vào thử, có vẻ cái hang rất sâu, vậy là có thể con Đốm bị con vật nào đó tấn công và giết chết ở đây. Anh nhanh chóng chạy ra ngoài, thấy Ba Du đang còn giẫy cỏ gần đó, Nam kêu lớn:
    -Anh Ba, anh Ba lại đây xem!
    Ba Du bỏ cuốc đi tới chỗ Nam, anh đưa miếng da nhỏ cho Ba Du xem và nói:
    -Tôi thấy có vết máu khô, cái này và một cái hang trong đám bụi rậm
    Anh dẩn Ba Du vào đến nơi có cái hang, quan sát mấy vết máu ở rải rác xung quanh, Ba Du gật đầu nói:
    -Có lẻ con Đốm bị trăn giết và ăn thịt ở chỗ này, cái hang của nó đó
    Nam nghe Ba Du nói con Đốm bị trăng ăn thịt, anh nhìn Ba Du và cái hang sâu hun hút bán tín, bán nghi, ở trong này cả mấy tháng rồi, đi ra đi vào rừng chồi này vài lần rồi mà có thấy con trăn nào đâu. Nhưng anh cũng không đưa ra được câu giải thích nào cho sự mất tích của con Đốm, Ba Du ngồi xuống nhìn kỹ các dấu vết còn lại bên trên mặt đất, và cửa hang rộng, rồi nhìn Nam nói:
    -Con trăng nuốt con Đốm và nó đang ở trong cái hang này
    Nam nghe Ba Du nói một cách quyết đoán nên anh tin chắc là đúng như vậy, vì Ba Du rất cẩn thận, không hay nói nếu không thấy chắc chắn.
    Cả hai đi về nhà Ba Du bàn cách bắt và giết con trăn này vì cái hang của nó nằm ngay trên khu vực chôn giấu cái hai thùng và riêng Ba Du thì lo sợ là sau con chó Đốm, đến lúc con Ki sẽ có lúc bị nó ăn thịt, việc này cấp bách, Ba Du đưa ra ý kiến:
    -Con trăn này chắc lớn, làm hang gần sông, hồ thường là trăn gấm, nó mới vừa ăn con Đốm, chắc phải gần nửa tháng mới tiêu hết, nhưng nếu nhử mối sống gần hang, có thể nó sẽ bò ra để bắt mồi …
    -Đặt mồi trong bẫy bằng gà sống được không anh Ba?
    -Ừ, phải đóng cái bẫy tre, cột con gà trong đó, khi nó bò vô đó, cửa sẽ sập xuống, nhưng để chắc ăn, vì gặp con trăn lớn nó có thể phá bẫy để thoát ra, mình gài thêm dây thòng lòng để không cho nó xổng
    Nam nghĩ Ba Du biết về cách đặt bẫy thú, rồi thêm phần tức giận con trăn nên nói:
    -Bửa nay làm cái bẫy luôn, tôi sẵn có dây dù lớn mình hay xài hôm trước được không?
    -Ừ, chắc được, bây giờ đi chặt tre sau nhà làm luôn chú Nam
    Ba Du lựa những cây tre già, thẳng đốn xuống cho Nam vác ra bên ngoài, rồi chặt ra thành từng đoạn ngắn hơn theo sự chỉ dẩn của Ba Du. Cả hai làm việc không ngơi tay, chỉ dừng lại uống nước hoặc ăn cũ khoai, cây trái hái trong vườn nhà … mục tiêu là đến cuối ngày hôm nay làm xong cái bẫy.
    Ba Du khéo léo dùng dây lạt dẻo và các thanh tre nhỏ đóng chốt, và cột chắc các đoạn tre lại với nhau. Đến gần cuối buổi, cái bẫy tre dài gần thước, cao và ngang cỡ 5 - 6 tấc đã xong, Ba Du thử độ nhạy của cái cửa, thấy nó đóng sập xuống khá trơn tru khi con mồi bị lôi đi và nói:
    -Chú Nam về đem sợi dây qua đây
    Đem sợi dây qua cho Ba Du, thấy cái bẫy chưa được chắc chắn lắm, Ba Du chỉ cho anh làm thêm một hàng tre nằm ngang có khe trống ở giữa và chia cái bẫy ra làm hai phần, dây thòng lòng sẽ đặt ở đó, khi con trăn bò qua bắt mồi, thòng lọng sẽ siết lại và làm nó nghẹt thở, Nam gật đầu nói:
    -Sáng mai tôi bắt con gà qua
    -Sẵn bây giờ trời sắp tối, chút nửa tui với chú Nam khiêng nó ra đám rừng để trong đó, tránh ngày mai du kích đi tuần tra bất ngờ ngang qua đây
    Khiêng cái bẫy vừa làm xong bỏ vào giữa đám cây, thấy hưng phấn, cả hai rủ nhau ra hồ tắm, nhưng chiều nay dạt lên phía bờ gần nhà Ba Du, tránh đến gần khu rừng chồi.
    Sáng sớm, Nam ra cái chuồng sau nhà bắt một con gà trống lớn, và cầm theo cuộn dây dù to qua bên Ba Du. Đang ngồi hút thuốc chờ trước sân, thấy Nam mang qua đầy đủ dây và mồi sống, Ba Du cầm rựa cùng anh đi về khu rừng.
    Đến gần cái hang, Ba Du xem xét chọn nơi thuận lợi đặt lồng bẩy gần một cây khá cao, gốc to cở hơn bắp chân, dùng rựa chặt bớt những cành, lá vướng víu. Đứng lên trên cái bẫy, Ba Du ngoắc Nam đến gần, cả hai kéo ngọn nó cong xuống như cánh cung rồi buông ra để thử độ dẻo dai, Ba Du gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Sau đó chỉ Nam cách buộc con gà ở ngăn bên trong và chọn vài cục đá nặng để trên nóc bẫy làm vật dằn, Ba Du cắt cuộn dây ra làm đôi, cột thành nút thòng lọng gài bằng mấy chốt tre nằm ở ngay giữa bẫy, đầu còn lại cột chặt vào ngọn cây bị kéo cong xuống để làm cần vọt, thấy lực kéo của nó quá mạnh, Ba Du bỏ thêm hai cục đá to lên nóc, rồi lấy cành cây phủ kín xung quanh, thấy có vẻ đã ổn, cả hai vạch cây cối rậm rạp đi ra bên ngoài.
    Nam quay về lấy thùng ra tưới cho đám bắp non mới trỉa hạt tuần trước, nhưng đầu óc anh cứ tập trung nghe ngóng về phía khu rừng. Gần bên con suối, Ba Du đang dọn đống đá cuội bị lũ cuốn trôi xuống từ mùa mưa năm rồi, mỗi lúc con Ki chạy ra gần đó, Ba Du lại đuổi nó về nhà.
    Một ngày yên tỉnh trôi qua, cuối buổi chiều Nam đi vào khu rừng xem tình hình, mọi thứ vẩn còn nguyên vẹn như buổi sáng, con gà trống nghe có tiếng động, dáo dác đứng lên kêu lục cục vài tiếng. Anh trở ra qua nhà Ba Du, nhìn Nam là biết con trăn vẩn chưa bò ra nên nói:
    -Nó mới bắt con Đốm, nên chắc chưa đói … chờ thêm vài ngày nữa xem sao
    Nam lủi thủi đi về, không có con Đốm, căn nhà vắng teo như những ngày đầu mới lên, quanh quẩn ra vào, anh lại nhớ Ngọc Minh. Hẹn với cô cuối tuần này rảnh sẽ vào thăm, nhưng có nhiều bất ngờ xảy ra, sắp tới cũng khó mà biết trước còn bất ngờ nào ở phía trước hay không, Nam hy vọng đó là may mắn chứ không phải rủi ro.
    Đi loanh quanh góc rẩy phía gần rừng cao su, thấy đám cỏ mọc lên cao gần đến ngực tạo thành bức tường màu xanh rậm rạp bít bùng, Nam dùng rựa phạt quang một khoảng trống nhìn qua lô cao su bên kia, trong rừng cao su hoàn toàn vắng vẻ và chẳng có người công nhân nào, anh nghĩ nếu có ai núp ở đây để theo dõi anh và Ba Du thì rất kín đáo, khó mà bị phát hiện.
    Vòng qua nhà Ba Du, con Ki thấy Nam từ từ chạy đến ve vẩy đuôi, đứng trước hiên nhìn ra hồ thấy Ba Du kéo chiếc xuồng lên bờ và đang coi mấy chỗ bị rò rỉ nước, anh ra sau vườn hái ổi, xoài chín ra ngồi ăn trên tảng đá to trước nhà, lặng lẻ nhìn màu nắng vàng đang lung linh trải rộng khắp nơi, khu rừng chồi vẩn yên tỉnh lạ thường.
    Buổi chiều anh đào một mớ trùng đất và ra bờ hồ ngồi câu, thỉnh thoảng Nam lại nhìn chổ mặt nước có tàng lá mọc che bên trên, trên mặt hồ phẳng phiu không có động tĩnh nào. Xa xa ở phía gần nhà, Ba Du có lẻ đã trám xong mấy nơi thấm nước, đang ngồi trên chiếc xuồng bơi thử ra ngoài hồ.
    Giật cái cần lên vài lần, chỉ thấy toàn cá rô, lũ cá này hay đi từng đàn tranh nhau ăn mồi, mấy con khác khó mà đến gần, cá rô chiên giòn cũng ngon lắm, thêm chút rượu là đưa cay ngon lành. Khúc phía trên Ba Du cột xuồng vào bụi cây trên bờ, đang xuống hồ tắm và bơi ra xa bên ngoài, chút nắng chiều còn vương lại chiếu lấp lánh trên sóng nước lô xô.
    Có tiếng con chó Ki sủa vang lên bên phía bên kia đám rừng, Nam dỏng tai lắng nghe tiếng nó sủa mỗi lúc một dữ dội, anh bỏ cái cần và đi lên bờ, chạy vòng ra gần phía con suối, con Ki đứng bên ngoài đang nhe răng gầm gừ. Nam nhìn vào phía trong thấy cành lá rung chuyển và có tiếng cành khô bị gãy kêu răng rắc, anh liền xông qua đám bụi rậm, càng đến gần chỗ cái bẫy, tiếng động nghe càng lớn, vào đến bên trong dưới bóng tối lờ mờ của tàng lá rậm rạp, mắt anh mở lớn và kinh hoàng nhìn thấy con trăn to dài bị dây thòng lọng thít chặt bên dưới cổ đang cuộn chặt con gà và phá tan nát cái lồng tre, thân mình to lớn của nó bị sợi dây dù cột trên ngọn cây cong vòng xuống kéo trì lại, cây lá, đất cát bắn tung ra tứ phía, con Ki chỉ dám đứng sủa từ xa, hai con mắt của nó cũng lộ rỏ nét kinh sợ con trăn. Nam vội vả chạy ra ngoài bờ hồ kêu lớn:
    -Anh Ba, vào trong này nhanh lên, nhanh lên, nó dính bẫy rồi …
    Ba Du đang bơi ra nghe Nam gọi thất thanh và tiếng con Ki sủa dai dẳng nên đoán ra chắc có chuyện, liền nhanh chóng bơi vào, anh đưa tay kéo Ba Du lên bờ và nói:
    -Nó dính bẫy rồi, to ghê lắm, nó đang tìm cách thoát ra
    Nhìn quanh không có vũ khí nào, Ba Du và Nam cầm hai cái mái chèo chạy nhanh vào đám rừng, bên trong tiếng động của cành lá bị con trăn quật gảy nghe răng rắc.
    Xông vào đến nơi, thấy mấy đoạn tre của cái bẫy văng ra tứ tung, sức mạnh kinh hồn của con trăn kéo gảy ngang thân cây gần bên trên, bây giờ nó đang cố bò xuống hang, chỉ còn phân nửa khúc thân dài ở bên ngòai. Nam và Ba Du vung mái chèo đập mạnh xuống thân mình màu xám đen loang lổ, to như cột nhà, con Ki lao vào cắn nhưng bị cái đuôi dài của nó quật một phát văng ra bên kia, nó bị đau nên kêu ăng ẳng chạy lui ra ngoài. Con trăn bị đánh đau nên mau chóng bò thoát xuống hang, anh và Ba Du nắm sợi dây kéo ngược lại, nhưng không địch lại sức mạnh của nó, bây giờ con trăn bị sợi thòng lọng cột trên thân cây gẫy làm mắc kẹt ở cửa hang. Nam và Ba Du ra sức kéo con trăn ra lần nửa, sợi dây căng cứng, không nhút nhích, Ba Du lắc đầu nói:
    -Nó mạnh lắm, không kéo lại nó đâu, hy vọng là thòng lọng không bị đứt, bây giờ cũng tối rồi, sáng mai mình vô lại xem sau.
    Sáng sớm trời còn tờ mờ Ba Du đã qua đến, cả hai cẩn thận nhìn xung quanh rồi đi vào khu rừng chồi. Sợi dây thòng lọng căng cứng, con trăn vẩn đang bị kẹt dưới hang, Nam quay về nhà cầm theo cái cuốc và xẻng, anh và Ba Du ra sức đào mở rộng cửa hang, càng đào xuống sâu, bị đá cuội nằm bên dưới lớp đất chận lại, khiến kế hoạch phá hang của nó không thành công. Xác con gà bị nó xiết chết, xương cốt vở vụn chiêu hôm qua nằm rải rác trên đất đang bốc mùi.
    Trở ra bên ngoài, Ba Du và Nam quay về nhà, ngồi hút thuốc trước sân, bàn cách triệt hạ con trăn càng sớm, càng tốt, Ba Du rủ anh ra bờ hồ nơi con suối chảy qua:
    -Mình lấy xuồng bơi dọc mé khu rừng xem sao chú Nam
    Ngồi trên xuồng bơi chầm chậm dưới những tàn cây che bên trên, đến gần khoảng giữa, Nam chú ý thấy có vùng nước đùng đục nổi lên giữa làn nước trong xanh xung quanh, anh kêu Ba Du và lấy tay chỉ:
    -Bên dưới chỗ này bùn đất đang bị khuấy lên … nên nước bị đục
    Ba Du chăm chăm nhìn xuống gật đầu:
    -Để tui lặn xuống bên dưới …
    Cởi bỏ cái áo kaki, Ba Du nhảy xuống mặt nước và từ từ chìm xuống, Nam bên trên chú ý theo dõi, vài phút sau Ba Du trồi lên, rồi lấy hơi và lặn xuống lần nửa, và lại trồi lên, không thấy ba Du nói gì, Nam ngồi chờ đợi, lấy thêm hơi, Ba Du buông tay khỏi be xuồng và chìm xuống, lần này kéo dài gần năm phút, rồi một đám bọt khí nổi lên mặt nước theo Ba Du, lên xuồng sau vài giây thở ra nặng nề, Ba Du gật đầu nhìn Nam:
    -Cái hang của nó có chỗ thông ra hồ, nó đang giẫy giụa trong đó nên làm đục nước
    Nam cởi bỏ áo, lấy hơi thật sâu rồi lặn xuống tìm chỗ nước đang bị khuấy đục lên, xuống đến đáy anh lờ mờ thấy dòng nước đùng đục thoát ra từ dưới một thân cây, anh kéo nó qua một bên nhưng không lay chuyển vì nó quá to, dùng tay thò lòn qua bên dưới thấy có khỏang trống, biết đó là cửa ra, anh nhanh chóng trồi lên vì hết hơi.
    Cả hai bơi vào bờ, vì biết bây giờ không thể làm gì nó, đành phải chờ đợi thêm vài ngày cho nó đuối sức hoặc dây thòng lọng làm nó nghẹt thở, nhìn xuống mặt nước nơi đó, màu nước đục mỗi lúc một dầy đặc, con trăn đang dùng sức mạnh của nó chiến đấu và cố thoát khỏi sợi dây. Ai tinh ý bơi ngang qua gần đó sẽ thấy sự khác thường của màu nước, Nam đang còn suy nghỉ, thì con Ki nhìn ra hồ sủa, Ba Du đang ngồi hút thuốc chú ý nhìn ra. Nam nghĩ ngay đến Tư Có và mấy tay du kích sắp đi tuần qua hồ, anh chạy xuống lòng suối, lấy cái xẻng nhanh tay đào xúc cát, sỏi làm đục ngầu dòng nước chảy ra hồ và lan rộng ra vùng nước xung quanh, chiếc xuồng chở Tư Có và hai tay du kích lướt qua, ông ta nhìn Ba Du và Nam đang đứng dưới lòng suối xúc cát bùn thẩy lên bờ, và dòng nước đục ngầu chảy ra hòa tan với nước hồ thành vệt vàng nâu lớn. Chờ cho chiếc xuồng đi khuất, Ba Du gọi anh đến gần:
    -Mình còn phải canh chừng lúc mấy tay đó quay về, bây giờ chú Nam đem cần qua đây ngồi câu, tui về nhà kiếm cái gì để ăn chiều nay
    -Anh Ba chờ một chút xách cá về luôn
    Nam chạy về chỗ cũ, đem cần qua và đưa mấy con cá rô cho Ba Du, anh nhìn trời, đoán chắc mới khoảng ba, bốn giờ chiều, hơn một tiếng nửa Tư Có mới quay trở về.
    Ngồi thủng thỉnh vừa câu, vừa quan sát phía trên thượng lưu, mấy con cá dưới hồ bây giờ không còn làm Nam bận tâm, anh suy nghĩ không biết làm cách nào để giải quyết con trăn cho nhanh, nhớ lại lúc nó vùng vẩy phá tan cái bẩy, cành cây xung quanh gãy đổ như bị cơn bão quét qua, Nam vẩn còn cảm giác kinh sợ. Chắc hang ổ của nó ở đó đã lâu, nên không thấy bọn chồn cáo, chuột, sóc, chim chóc … sinh sống trong rừng chồi, con nào vào trong đó cũng bị nó giết chết, có thể cả mấy con cá dưới hồ cũng không thoát khỏi hàm răng sắc như dao của nó.
    Ba Du trở ra mang theo chai nước và mớ trái cây vừa hái ngoài vườn, Nam cắt miếng đu đủ ăn và uống ngụm nước cho đỡ gắt cổ họng, Ba Du nói:
    -Tối mai mình ra ngoài đập mở cửa lớn thêm
    -Lúc này mình phải che giấu công việc cho thật kín, ở phía giáp ranh rừng cao su bên đất của tôi, có nhiều bụi cây cao rậm lắm, nếu có ai ngồi ở đó quan sát về phía nhà tôi và nhà anh Ba, rất khó để phát hiện ra họ
    Ba Du gật đầu:
    -Mọi ngày ra rẩy làm việc bình thường, buổi tối cũng phải cẩn thận
    Nhìn thấp thoáng phía xa trên hồ, anh thấy bóng dáng chiếc xuồng đang bơi về, Nam và Ba Du ra con suối vét cát, sỏi thảy lên bờ và làm khuấy đục dòng nước. Lát sau chiếc xuồng bơi qua, Tư Có và mấy tay du kích đi thẳng về ngoài xã.
    Quay vào trong đám bụi cây lần nửa, Nam và Ba Du nắm đoạn cây dây thòng lọng kéo mạnh nhiều lần, con trăn dưới hang vẩn kháng cự lại rất mạnh mẽ.
    Trong bửa com tối, Ba Du hé lộ cho Nam biết là có cảm giác bị theo dõi từ xa, ban ngày cũng như ban đêm, điều đó không biết thật sự có đúng không, hay chỉ là vì nhạy cảm, và lo âu của Ba Du. Điều này khó biết, vì xung quanh nhà Ba Du và anh là rừng chồi, lô cao su, đồi trống, hồ nước … có nhiều nơi để ẩn nấp, cho đến bây giờ thì ít có ai lui tới khu này nhiều như du kích và công an xã.
    Mực nước hồ đang hạ thấp, còn vài ngày nửa qua tháng ba, là mùa nắng khô khốc của miền đất đỏ bazan. Ba Du vào trong rừng chồi xem tình hình con trăn sống, chết dưới hang, rồi cầm rựa ra chỗ rẩy giáp ranh với lô cao su dọn bớt những bụi cây cỏ mọc um tùm quanh đó.
    Nam cuốc đất trong vườn sau nhà, anh đoán chắc tình hình con trăn vẩn không thay đổi, có lẽ do dây thòng lọng siết chặt phía dưới cổ, nên không đủ làm nó ngạt thở chết, nhưng nó cũng không đủ sức làm đứt sợi dây dù to. Trăn và rắn có thể nhịn ăn nhiều ngày nhưng vẩn sống, huống chi con trăn này vừa có bửa ăn khá to là con Đốm.
    Như đã hẹn trước buổi tối, Nam xuống bờ hồ chờ Ba Du bơi xuồng tới, thiếu tai mắt canh chừng của con Đốm và những nghi ngờ mà Ba Du vừa nói làm anh cẩn thận hơn.
    Ba Du và chiếc xuồng trờ tới trong bóng đêm, Nam nhảy lên bơi ra ngoài hồ và đi về phía cái đập.
    Đến chỗ cập xuồng dưới gốc cây me tây, Nam cầm cái tay quay và ra dấu anh sẽ lên quay trục cáp, còn Ba Du ở lại canh chừng. Đã hơn mười hai giờ khuya, xung quanh trạm mọi vật thật yên tĩnh, trong tàng lá tối đen trên ngọn cây me cao, vài tiếng chim cú mèo rúc lên nghe thê lương.
    Nam khom người thật thấp đi đến phía sau trạm, dừng lại nghe ngóng một lát rồi lom khom chạy lên mặt đập tới chỗ những trụ bê-tông, sau khi tìm được vị trí đầu trục, anh đưa tay quay vào, và lấy hết sức quay cái cửa lên vài vòng, bất chợt trong khoảng tối, thấy có người đang ngồi ngủ dựa vào phía bên kia cái cột, rồi một khuôn mặt quay qua nhìn anh nhe rằng cười, làm Nam kinh ngạc và súyt nửa thì anh làm rơi cái tay quay xuống nền bê-tông. Định thần nhìn kỹ lại, Nam nhận ra đó là người đàn bà mất trí anh gặp đứng trước quán Năm Bình, anh đưa tay lên miệng ra dấu im lặng, bà ta lại cười và vẩn ngồi im trong bóng tối giữa hai cây cột bê-tông.
    Anh nhanh tay quay cái cửa thứ nhất lên, đến cái cửa thứ hai, hơi bị vướng vì hai cái chân của bà ta duỗi dài ra, nên Nam phải bước tránh qua một bên, và đưa tay quay vào thao tác, sau cùng đến cái cửa thứ ba.
    Xong công việc, Nam đưa tay lên miệng ra dấu cho bà ta giữ im lặng, trong bóng tối chỉ thấy hai con mắt của bà ta mở to nhìn anh như cười, quan sát động tĩnh xung quanh, không nghe tiếng Ba Du báo động, biết là an toàn, anh nhanh chóng chạy xuống và ra phía gốc cây me rồi lên xuồng, phụ Ba Du đẩy chiếc xuồng ra xa và bơi về.
    Về đến nhà, Nam mới nói cho Ba Du nghe lúc lên đập gặp người đàn bà mất trí ở quán Năm Bình, Ba Du hơi sững người và lộ vẻ lo lắng, nhưng không hỏi gì thêm, cả hai rẽ đi theo hai hướng về nhà trong đêm tối âm u.
    Buổi sáng ra bờ hồ gần khu rừng chồi nhìn xuống, vẩn thấy vùng nước đùng đục cuộn lên trên mặt hồ, hôm nay là ngày thứ ba, con trăn vẩn chưa chết, Ba Du gặp Nam nói:
    -Mình vô trong đó kéo dây thòng lọng thật mạnh để nó siết con trăn chặt hơn bên dưới hang hy vọng làm nó chết sớm hơn
    Đi vào trong đám rừng chồi, cả hai dùng hết sức kéo sợi dây căng cứng thật lâu, đến lúc thấy cả hai bắp tay căng lên và người mệt lử, Nam và Ba Du gần như thấy bất lực vì không làm gì được con trăn đang ở dưới hang sâu, ngồi nghỉ một lát sau cả hai đi trở ra bên ngoài.
    Buổi chiều dặn Nam ở nhà, Ba Du chèo xuồng ra ngoài xã để dò xét tình hình sau bửa tối hôm qua Nam lên đập gặp người đàn bà mất trí ngủ ở đó, còn Nam thì nghĩ, nếu sáng hôm sau bà ta mà nói cho mọi người biết anh lên đập tối qua, chừng đó cũng đủ cho hôm nay công an và du kích vào đây bắt anh rồi.
    Nhớ tới đợt bắp mới đang lên xanh, anh cầm thùng ra và xách nước từ cái giếng ra tưới,vừa làm việc, vừa theo dỏi trên hồ, vì sợ mấy tay du kích, công an lại bất ngờ đi tuần tra, nhưng trong bụng thì vẩn chờ đợi Ba Du ra xã về xem tình hình ra sao. Đến gần giữa trưa, Ba Du về đến nơi, Nam ra hồ chờ Ba Du tấp vào bờ và hỏi ngay:
    -Tình hình ra sao anh Ba?
    Ba Du mỉm cười:
    -Không có gì, đến quán Năm Bình uống cà phê, đang ngồi nói chuyện, thấy bà ta đi qua đi lại trước quán vài lần, chắc bà ta mất trí rồi, không nhớ gì vụ tối hôm qua đâu …
    Nghe Ba Du nói, anh thấy nhẹ người rồi mỉm cười nhớ lại lúc gặp bà ta tóc tai bù xù như đám rể tre và nhe hàm răng cười trong bóng tối, ai mà yếu bóng vía, chắc phải la lên và bỏ chạy …
    Buổi tối Nam ngủ mơ thấy người đàn bà mất trí đi lang thang một mình lạc vào trong rẩy, một tay cắp cái giỏ mây, vừa đi vừa hát, thấy Nam đi ngang qua, bà ta đưa tay vẩy chào và sau đó quay ra đuổi theo những con chuồn chuồn bay lờ lững khắp nơi và rồi bà ta biến đi đâu mất, lúc đó anh thấy mình cũng đi lang thang tìm con Đốm trong đám mây sương mù bao phủ khu rừng chồi, nhưng chỉ nghe tiếng nó sủa văng vẳng từ nơi nào đó rất xa vọng về.
    Sáng dậy, anh cố nhớ lại giấc mơ kỳ lạ đó, và nghĩ có lẻ do bị ám ảnh vì chuyện mất con Đốm và đêm đó gặp bà ta trên con đập.
    Hôm nay ngày thứ tư, mực nước hạ xuống thấp hơn, vùng nước đục lại càng thấy rỏ, Nam lo sợ nên lấy xẻng ra suối xúc cát, đá cuội quăng lên bờ, mùa khô nên dòng nước bắt đầu cạn kiệt, nên không còn bao nhiêu nước chảy ra hồ.
    Con trăn quái này dai dẳng quá, tình trạng vài ngày nửa mấy tay du kích đi tuần ngang qua hồ sẽ nhận ra sự khác biệt của hai vùng nước đục và trong này, và nếu tò mò tìm hiểu thì có nguy cơ bị lộ, nếu không kịp ra suối làm cho đục dòng nước chảy ra hồ.
    Ba Du vẩn lặng lẻ làm việc ngoài rẩy sáng chiều, buổi tối lại qua ngồi nói chuyện với Nam, cũng trong tâm trạng chờ đợi cho con trăng chết ngạt dưới hồ, hút xong điếu thuốc rồi là đi về.
    Đến ngày thứ năm, buổi chiều anh ra xem, vùng nước tại nơi đó đang dần trong trẻo lại, Nam lấy xuồng của Ba Du và cần câu bơi đến gần, cố quan sát cho kỹ hơn, đúng là nước đã trong xanh trở lại, chắc nó đuối sức rồi, sau nhiều ngày bị sợi dây siết chặc làm nó không bò đi đâu được, rồi từ từ làm nó ngộp thở.
    Chờ cho trời tối hẳn, anh xách hai con cá vừa câu được qua cho Ba Du rồi cười nói:
    -Chắc nó ngộp thở chết rồi, tôi thấy nước ở chổ đó đang trong xanh trở lại
    Nét mặt Ba Du vui hẳn lên:
    -Ngày mai mình vào trong đó xem lại, sau đó tui sẽ lặn xuống hồ xem cho chắc ăn …
    -Sáng mai nếu con trăn đã chết, mình bắt đầu lại công việc tìm hai cái thùng nhé anh Ba, mực nước đã bắt đầu xuống nhiều, lặn xuống xem cái hang đó ra sao, hồi sáng tôi ngồi so sánh lại với vị trí nơi anh và Ba Du, nhiều khả năng chỉ có thể là Tư Có.
    Sáng dậy, ăn uống xong rồi, Nam vác cuốc ra làm việc như mọi ngày, nhìn sang đất Ba Du, không thấy bóng dáng người nào. Mặt trời lên khá cao, anh nghỉ tay rồi ra chỗ cột chiếc xuồng, Ba Du đang đứng nhìn mặt hồ, mực nước sáng nay xuống nhiều, làm lộ ra những bờ đất đỏ xung quanh hồ, ai thường xuyên qua lại bằng xuồng sẽ dể nhận ra điều này, Ba Du chỉ tay về khu rừng nói:
    -Tui vừa vô đó xem, có lẻ nó chết thật rồi, kéo sợi dây không thấy căng cứng như mấy ngày trước, gần đến trưa vắng mình lặn xuống xem bên dưới
    Anh và Ba Du tản ra đi làm việc, tay thì làm, nhưng đầu óc Nam cứ nghĩ đến lúc lặn xuống cái chỗ cửa hang thông ra bên ngoài, có thể đó là tâm điểm làm thay đổi tình hình việc tìm kiếm, đang giẫy cỏ chợt nghe tiếng Ba Du gọi từ xa, Nam nhìn trời thấy đã gần trưa, anh đi ra bờ hồ. Lấy xuồng bơi đến nơi có tàng lá rậm rạp, không khí bờ hồ vắng lặng dưới ánh nắng trưa chói chang, anh cột xuồng vào nhánh cây cho nó khỏi trôi, Ba Du mặc quần ngắn lặn xuống trước, Nam xuống tiếp theo sau, mực nước không còn sâu, nên anh thấy lặn xuống dể dàng hơn. Bên dưới Ba Du xuống chạm đáy, đưa tay ra hiệu cho anh đến gần, và chỉ vào thân cây to nằm chắn lối ra cửa hang, Nam hiểu ý, cả hai dùng tay lăn nó khỏi vị trí cũ, nhưng một phần thân của nó bị lấp dưới bùn, cát nên vẩn nằm im tại chỗ. Cả hai trồi lên để thở, rồi lặn lại xuống và thử lay chuyển nó, nhưng như lần trước vần không thành công, Ba Du nói:
    -Chú Nam lên bờ ngồi chờ, tui lên xuồng về lấy xẻng
    Độ mười phút sau, chiếc thuyền quay lại, Ba Du cầm xẻng đưa cho anh, rồi nhanh chóng lặn xuống, đến nơi thân cây bị lấp, cả hai ra sức gạt, xúc lớp bùn đất ra hai bên, nhưng dưới nước, không làm được lâu, cứ ai hết hơi thì trồi lên nghỉ, rồi trở xuống và tiếp tục công việc.
    Cuối cùng sau gần nửa tiếng, lớp đất bùn đã được xúc, gạt ra hai bên, và trong lần cố gắng cuối cùng, thân cây bị anh và Ba Du đẩy bật sang một bên, làm dòng nước bị khuấy lên đục ngầu.
    Trồi lên để thở vài phút, vì tò mò và phấn khởi nên Nam và Ba Du lại nhanh chóng lặn xuống, đến nơi thấy cửa hang đã mở lớn ra, mấy ngày vừa qua, có lẻ do sức mạnh của con trăn lúc nó vùng vẩy, giẫy chết trong đó làm đất, cát sụp xuống thêm. Ba Du đưa tay thử vào bên trong và kéo mạnh làm những tảng đất đá khác rơi ra, nên cái hang rộng thêm, rồi thò cả nửa người vào bên trong, Nam hết hơi nên lên trước, lát sau Ba Du trồi lên thở hổn hển nói:
    -Nó chết ở trong đó, tay tui sờ trúng thân mình nó rồi!
    Anh phấn khích, nhanh chóng lặn xuống và nhoài thân người vào cửa hang, rồi đưa tay sờ soạng cái khối đen mờ mờ trong làn nước, mấy ngón tay anh cảm nhận được lớp da sần sùi bên ngoài, Nam thấy khiếp sợ vì thân mình to lớn của nó, cũng may là nó chết rồi.
    Buổi trưa ăn xong, Nam lăn ra ngủ vì quá mệt, đến chiều khi Ba Du qua kêu thì mới tỉnh lại, nhìn Nam còn đang say ngủ, Ba Du cười nói:
    -Tui cắt dây phía trên, lôi nó ra khỏi hang, và cột thân mình của nó luôn vào cái cây dưới đó, con trăn này dài cỡ năm thước, thân hình nó rất to, vào sâu bên trong, hang rộng ra và có không khí vì nó thông lên trên rừng chồi
    Nam nghe xong tỉnh ngủ, bên trong hang sao giống với chỗ vòm đá mà anh đã nghe kể, nếu đúng là như vậy, thì đây là sự ngẩu nhiên hiếm hoi và may mắn lớn, Ba Du chắc cũng đang suy nghĩ tương tự, mỉm cười nói:
    -Mực nước trong đó còn hơi cao, chờ một, hai ngày nửa thì lặn xuống để coi có đúng là nơi chôn hai cái thùng gổ không
    Còn Nam nóng lòng muốn xuống đó nên nói:
    -Bây giờ tôi xuống lần nửa để xem cái hang, anh Ba khỏi xuống theo
    Để khỏi bị ai chú ý, anh luồn vào khu rừng chồi và vạch cành lá đi ra bờ hồ, mặc quần ngắn lặn xuống, Ba Du lấy cần ra ngồi câu chỗ gần đó. Nam xuống đến cửa hang và lặn sâu vào bên trong, đúng như Ba Du nói, nó mở rộng ra và có khoảng trống trên vòm hang ăn thông lên trên, trước khi chết, con trăn vùng vẩy cố thoát khỏi sợi dây làm một phần hang bị lở xuống, dưới đáy hang tối om có lớp bùn đất dầy, không biết có cái gì bên dưới. Anh bơi ra và trồi lên, đến ngồi bên chỗ Ba Du đang câu cá, Nam gật đầu xác nhận:
    -Rất giống nơi chôn hai cái thùng, nước xuống thấp thêm nửa thì dể tìm hơn …
    Ba Du cười rất tươi và vổ vai anh:
    -Nếu đúng như vậy thì mình rất may mắn đó chú Nam
    Hai ngày nay, anh và Ba Du hay ra hồ nhìn mực nước, ai cũng tỏ vẻ hưng phấn và hồi hộp, Nam nghĩ trong đầu, nếu không tìm thấy hai cái thùng đồ cổ ở đó thì chắc là nổi thất vọng rất lớn, và cả hai có thể chấm dứt luôn việc tìm kiếm.
    Đến ngày thứ ba, mực nước đã hạ xuống nhiều, để cho chắc ăn, và tránh không để bị mấy tay du kích, công an đi xuồng tuần tra đột ngột phát hiện, Nam và Ba Du chờ đến buổi chiều gần tối là lúc mà ít ai ra vào trong vùng hồ, cả hai cầm theo xẻng đi xuyên rừng chồi ra bờ hồ và lặn xuống.
    Chui qua cửa hang, Ba Du lấy trong túi nhựa ra đoạn đèn cầy và bật quẹt đốt, vách hang lộ ra dưới ánh sáng, bề rộng mổi chiều khoảng hơn một thước, nhiều tảng đá nằm bên trên tạo thành cái vòm, mực nước còn cao ngang bụng. Nam lấy cái xẻng xúc sâu xuống lớp bùn, cát bên dưới, lưỡi cái xẻng đụng vào những vật cứng, anh thò tay xuống thăm dò, nhưng thường gặp phải lớp đá do trần hang bị ngập nước lâu ngày và con trăn làm sụp xuống. Cái hang nhờ có đường thông lên trên mặt đất nên không bị ngột ngạt lắm, Ba Du dò phía bên kia cũng đụng phải nền đá, cuội, Nam cầm cái xẻng ra góc còn lại bên trái, phía này đất đá lở xuống nhiều, anh xúc lớp đất bùn trong góc qua một bên, được một lúc, lại thêm cát đất trên vách lở thêm xuống, anh kiên nhẩn xúc đổ nó qua chỗ khác. Nhìn lên trần, thấy bị hỏm rộng vào bên trong, anh đoán đất, đá ở đó đã lở xuống phủ lấp nền hang, nên anh từ từ xúc cho hết lớp đất, bùn, Ba Du im lặng soi đèn cho Nam hì hục làm.
    Còn nơi này thôi, anh cắm mủi xẻng xuống và di chuyên nó qua lại, có vẻ bên dưới cũng chỉ là lớp đá, cuội, đưa cái xẻng vào sát góc còn lại và ấn mạnh xuống, lần này có tiếng va chạm với lớp ván gổ, Nam xúc lớp đất ở nơi đó ra và ngồi xuống thăm dò, lát sau anh moi lên miếng vải bố dưới ánh nến chập chờn, và gật đầu nhìn Ba Du, đưa tay sờ kỹ lại lần nửa, Nam nhận ra lớp gổ bên trên, liền nói:
    -Chắc đúng là nắp thùng gổ rồi anh Ba
    Ba Du nghe anh nói, hai mắt mở to, đưa Nam cầm đèn cầy và lặn hẳn xuống rồi đưa hai tay sờ rộng ra, lát lâu sau ngóc đầu lên và đưa cho Nam xem mảnh vải bố lớn, anh gật đầu cười và hỏi:
    -Lớp bạt phủ trên nắp thùng gổ phải không anh Ba?
    Ba Du cười gật mạnh cái đầu:
    -Đúng vậy chú Nam, hai cái thùng ở dưới đó
    Nam muốn hét lên thật lớn, anh bắt tay Ba Du thật chặt, rồi để yên tâm hơn, anh lặn xuống sờ vào hai cái thùng lần nửa. Ba Du chỉ tay ra ngoài, cả hai trồi lên và đi ra khỏi khu rừng, Nam đi lảo đảo một phần vì bị ngột ngạt vì ở lâu trong hang, và vì tâm trạng quá vui sướng, còn Ba Du thì liên tục vào vổ vai anh và cười:
    -Thôi, về nhà tui nhé chú Nam, mình làm vài ly ăn mừng đi!
    Lúc ngồi lai rai buổi tối, Nam và Ba Du bàn cách lấy các món đồ trong hai cái thùng lên một cách an toàn, Ba Du và anh đều đồng ý nên làm vào buổi tối , và trước nhất phải đào sẳn cái hầm nhỏ sau vườn nhà Ba Du để cất giấu ở đó vì xung quanh có nhiều cây cối rậm rạp che khuất, ít ai lai vãng đến gần mà không bị con Ki phát hiện. Bàn thêm chuyện xa hơn sau khi đã đem hết đồ cổ trong hai cái thùng lên, Ba Du nói với Nam tìm cách vận chuyển về Saigon:
    -Không thể một lần đem vài ba món lên xe về thành phố, rất mất công và đi lại qua trạm nhiều lần có thể bị để ý
    -Có thể giấu các món đồ trong giữa mấy bao đậu, bắp rồi móc ngoặc với mấy tay lái xe chở từng chuyến về dưới, nhưng cũng rất hên, xui may rủi khi qua trạm, nếu họ tình nghi bắt dừng lại để khám và phát hiện ra, thì tôi với anh Ba bị nguy hiểm, các món đồ sành sứ thì lại rất dể bể
    Ba Du gật đầu và ngồi suy nghĩ, lát sau nói:
    -Mai chú Nam ra xã mua thêm đèn cầy để khi cần sử dụng, rồi ghé vô quán Năm Bình uống cà phê nghe ngóng tình hình xem sao, còn tui vào trong buôn có việc cần gặp Điểu Rút, Điểu Sơn, có cần nhắn gì cho Ngọc Minh thì lấy giấy viết thư, sáng mai tui cầm theo đưa cho Ngọc Minh …
    -Có chuyện cần họ trong đó giúp đỡ hay sao, anh Ba có định nói cho họ biết về hai cái thùng?
    -Chắc việc này phải nhờ trong đó giúp một tay, chú Nam yên tâm, hai người đó có thể tin được Nam ngồi viết vài dòng lên mặt sau tờ lịch nhỏ cho Ngọc Minh, anh nói vì bận một số công việc nên chưa thể vào buôn thăm, nhưng hứa sẽ vào đó khi mọi việc xong xuôi, nếu cố có nghe được chuyện lạ từ Ba Du hay Điều Rút, Điểu Sơn, thì giữ im lặng. Uống thêm vài ly rượu, Nam bắt tay Ba Du ra về, tối nay anh quá sung sướng vì thành công đang ngấp nghé ngoài của nhà, anh đoán chắc Ba Du đã nghĩ ra cách vận chuyển các món sành sứ cổ an toàn về Saigon.
    Sáng dậy, chuẩn bị ra xã, Nam ra bờ hồ thì Ba Du đã chèo xuồng đi từ rất sớm, anh đóng cửa nhà lại và lội bộ theo con đường ngoằn ngoèo, vắng vẻ ra xã. Đến nơi anh vào một tiệm bách hóa mua vài cây đèn cầy và diêm quẹt, gói thuốc lá.
    Mới chín giờ sáng, chợ xã đang nhóm họp, kẻ mua, người bán toàn là dân sống trong vùng, trên đường khá vắng, lưa thưa vài người và vài chiếc xe đạp qua lại.
    Anh đến quán Năm Bình, cái bàn phía bên ngoài có hai người đàn ông có vẻ là nông dân ngồi uống cà phê, hút thuốc nói chuyện. Năm Bình đã vào xưởng trong nông trường nên không có ở nhà, thấy Nam vào quán, bà xã ông ta nói:
    -Cậu Nam uống đen hả?
    Anh gật đầu, lát sau bà ta bê ly cà- phê ra để trên bàn và hỏi:
    -Hôm nay anh Ba Du đâu không thấy ra đây?
    -Anh Ba bận công việc trong đó chị Năm
    Ngồi uống gần hết ly cà phê, tính về nhà sớm, bổng người đàn bà mất trí xuất hiện ngay cửa quán, bà ta đứng bên hàng hiên nhìn Nam cười, rồi đột nhiên đưa hai tay lên làm động tác như đang quay gầu giếng nước. Hai ông nông dân thấy lạ nên ngưng nói chuyện và chăm chú nhìn bà ta, một ông cười nói:
    -Bà này chắc khùng
    Người đàn bà cứ nhìn Nam cười và hai tay cứ quay đều, anh hơi khớp vì nghĩ bà ta đang diễn tả lại cách anh quay tay trục ở trên đập. Bà xã Năm Bình từ trong đi ra, thấy bà ta đứng ngay trước quán và làm hoài một động tác kỳ cục kia nên cũng bật cười nói:
    -Bà khùng này trên thị xã vô đây, hôm kia bị công an bắt về đồn vì thấy bã ngủ ở trên đập nước, nên bắt nhốt mấy ngày để điều tra, mấy ông trong trạm nghi ngờ bã phá mấy cánh cửa, sau đó biết bã bị điên thiệt nên mới thả ra chiều hôm qua đó
    Nam uống hết ly trà, gọi bà xã Năm Bình đến trả tiền, ra khỏi quán, anh cầm ít tiền lẻ cho người đàn bà đó, vẩn giữ nụ cười đó trên môi, bà ta cầm tiền rồi bỏ đi về phía chợ, anh suy nghĩ, tội nghiệp quá, sau năm 75, nhiều người tâm trí đang bình thường bổng trở nên điên loạn, cuộc đời họ sao nhiều xót xa quá.
    Đến gần trụ sở ủy ban xã, Tư Có và một tay công an từ bên trong vừa đi ra, ông ta nhíu mắt nhìn anh đi bên đường. Nam đi thẳng ra và rẽ ngang qua trạm gác, thấy cửa nẻo đóng kín, ba cái cửa hình như đã được đóng bớt lại, vì nghe tiếng nước không còn chảy mạnh ào ạt.
    Nam theo con đường cũ đi về, anh nghĩ có lẻ mấy tay công nhân trực bắt gặp người đàn bà mất trí ban đêm ở đó, và sau đó phát hiện ba cánh cửa đã được kéo lên quá cao, nên họ đóng lại để chận bớt lượng nước xả ra, và báo cho bên công an, nên bà ta bị bắt oan hết mấy ngày, có thể bên công an đang âm thầm điều tra về vụ này.
    Về đến nhà, anh ra bờ hồ, không thấy chiếc xuồng, Ba Du vẩn chưa về đến. Nam qua nhà Ba Du, ra sau vườn cây tìm nơi kín đáo để chôn giấu hai cái thùng, đi qua mấy bụi chuối, chổ mấy cây ăn trái và sau cùng đến hàng tre rậm rạp, và phía sau nó là chân dảy đồi lởm chởm đá và cây rừng. Anh đào thử, lưỡi xẻng bị vấp phải nền đất cứng, nên rất khó đào sâu xuống bên dưới, anh quay trở lại khu vườn, thấy mặt đất gần mấy cây mít khô ráo, cầm xẻng đào thử thấy nó cứng, chắc nhưng vẩn đào xuống được. Nam quyết định làm cái hầm tại đó, nên hì hục một mình làm đến giữa trưa, nghe tiếng con Ki sủa, đoán Ba Du về tới, anh nghĩ tay và đi ra bờ hồ,
    Ba Du cột chiếc xuồng vào cành cây, rồi nói vắn tắt:
    -Điểu Sơn và Điểu Rút sẽ giúp mình vụ này, tui có đưa tờ giấy cho Ngọc Minh, đọc xong sau đó có nhắn chú Nam giử sức khỏe và cẩn thận, còn ra ngoài xã có tin gì không chú Nam?
    -Công nhân của trạm gác bắt gặp cái bà mất trí ngủ ở trên đập, họ nghi bà ta phá mấy cánh cửa, bửa nay họ đã đóng bớt lại rồi, bà xã Năm Bình nói công an bắt nhốt bà ta để điều tra, sau đó thấy bà ta bị mất trí nên thả ra
    Ba Du lắng nghe Nam nói rồi nhận xét:
    -Mình phải cẩn thận nhiều, có thể bên công an và du kích vẩn còn đang điều tra
    Lên đến nhà, anh dẩn Ba Du ra sau vườn, chỉ cái hố đang đào dở, Ba Du nhìn kỹ bên dưới rồi gật đầu. Chiều anh qua đào tiếp cho xong cái hầm, mỗi cạnh gần một thước, sâu gần thước rưởi, Ba Du chặt tre làm vách chèn bốn bên để đất không bị sụp xuống và nắp che bên trên rồi nói:
    -Tối nay khoảng 10 giờ, mình bắt đầu lấy mấy món đồ cổ lên, chắc cũng phải hết ba, bốn ngày mới xong, tối khi ra khu rừng chồi, nhớ mang theo cái gùi, dây, gom theo nhiều cỏ khô để lót cho đồ không bị bể
    Ngừng một chút, Ba Du giải thích cho Nam tại sao lại nhờ hai người S’tiêng giúp:
    -Vì nghi ngờ bị theo dõi, nên tui nhờ Điểu Sơn âm thầm ẩn trên đồi phía sau nhà để quan sát và phòng ngừa chuyện bắt trắc xảy ra, trưa nay Điểu Sơn bắt đầu băng rừng ra đây, có lẽ chiều tối mới ra đến, mỗi ngày mình đem đồ ăn, nước uống ra phiá sau vườn tiếp tế cho Điểu Sơn, ban ngày tui và chú Nam cứ ra rẩy làm việc như thường …
    -Còn chuyện chở mấy món đồ cổ này về Saigon bằng cách nào?
    Ba Du hơi suy nghĩ rồi trả lời:
    -Cũng có cách, sẽ bàn sau
    Nam thấy khá yên tâm vì sự cẩn thận phòng xa của Ba Du, buổi chiều gần tối, anh qua bên nhà Ba Du lần nửa, Ba Du đang quăng cho bầy gà nắm bắp và nhìn tụi nó tranh giành nhau ăn kêu quang quác.
    -Điểu Sơn đã ra tới, tui mới đem nước, thức ăn ra ngoài sau vườn, không có gì thay đổi, khoảng 10 giờ tối mình ra đó, tui sẽ báo hiệu bằng ba tiếng cú kêu – Ba Du nói
    Nam gật đầu nhìn ra sau vườn nhà Ba Du, tiếng côn trùng bắt đầu kêu rả rích trong bóng tối dưới tàng lá và bụi cỏ.
    Màn đêm đã buông xuống, trong căn nhà Nam nằm lắng nghe bên ngoài, chờ có tíếng cú kêu làm ám hiệu ra khu rừng chồi của Ba Du, xung quanh ngôi nhà tranh mọi thứ thật tĩnh lặng, anh nghe rõ tiếng bọn thằn lằn tặc lưỡi cắn nhau trên mái lá, đám chuột rượt đuổi trong các bụi cỏ.
    Ba tiếng cú kêu từ rừng chồi vọng lên, Nam đeo gùi lên lưng, cầm rựa ra cửa sau đi xuống đó. Vào bên trong đã thấy ánh đèn pin tự chế sáng mờ mờ, Ba Du ra dấu cho Nam đưa cuộn dây, ra gần bờ hồ, tìm một cái cây to và cột một đầu vào đó, rồi chỉ vào cái bình nhỏ gần đó nói:
    -Chú Nam uống nước nấu với lá cây trong buôn cho tỉnh táo, bây giờ mình xuống đó
    Cả hai lặn xuống không khó khăn, vì hôm nay mực nước xuống đã nhiều, vào bên trong hang, Nam đốt hai cây đèn cầy lên, Ba Du đưa tay sờ nắp cái thùng nằm dưới khoảng tấc nước, rồi cẩn thận lấy rựa bẩy nó lên, cái thùng được đóng bằng gổ dầy, tốt nên Ba Du loay hoay một lúc lâu mà vẩn không mở ra được. Nam đến gần đưa bàn tay mò xuống xung quanh nắp, thấy nó được đóng đinh quá chắc chắn, suy nghĩ một lúc, anh nói:
    -Chắc phải đào đất, cát quanh cái thùng rồi kéo nó xích lên bên trên để mở cho dể hơn
    Thấy không còn cách nào khác, Ba Du gật đầu. Nam lấy xẻng, Ba Du dùng rựa cẩn thận xúc, đào hơn một giờ, cái thùng mới lộ ra một phần, Ba Du ra dấu cho anh cùng thử nhấc lên, nó vẩn không nhúc nhích, Nam lại đào tiếp tục dưới ánh đèn cầy, mồ hôi bắt đầu túa ra.
    Sau khi thêm độ nửa giờ vất vả, Nam ra dấu ngưng tay, rồi cả hai lại thử lôi nó lên, lần này cái thùng chuyển động và từ từ được đưa lên khỏi mặt nước. Ba Du nhẹ nhàng lấy cái rựa mở từng góc và sau cùng nắp thùng cũng bật lên, Nam cầm bỏ nó ra một bên, đưa cây đền cầy đến gần, bên trong còn phủ lớp vải bạt dầy, Ba Du lật bỏ nó ra, những cái chén màu trắng, hoa văn xanh dương được chèn bằng vải dạ bóng lên dưới ánh sáng lung linh của hai ngọn nến.
    Nam lấy từng cái chén xếp vào gùi và chèn bằng cỏ khô, được khoảng mười cái, thấy gần đầy gùi, Ba Du xếp mười cái chén khác vào gùi kia, ra dấu đi lên và tắt hai cây đèn. Cả hai theo cửa hang ra bên ngoài và trồi lên mặt nước, Nam nắm sợi dây từ từ lên bờ, Ba Du bám theo sau. Ngồi im trong bóng đêm dưới những tàng cây, dừng lại sau vài phút nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, Ba Du vạch lá thận trọng đi ra, quan sát bốn bề thấy yên tĩnh, quay lại ra dấu cho Nam, rồi cả hai nhanh chóng đi về nhà.
    Ra sau khu vườn, nghe hai tiếng cắc kè kêu, báo hiệu an toàn của Điểu Sơn, Nam và Ba Du đi đến gần cái hố bên dưới gốc cây mít, Ba Du mở đèn pin, rồi lấy tất cã những cái chén trong hai cái gùi cẩn thận bỏ xuống bên dưới. Điểu Sơn xuất hiện từ sau bóng tối dầy đặc của bụi tre, Nam đưa tay ra bắt bàn tay ông ta và gật đầu, cho biết mọi việc yên ổn, Ba Du nhìn Điểu Sơn nói nhỏ:
    -Đêm nay xong rồi, tối mai làm tiếp
    Cả ba đi vào nhà, con Ki đến gần đánh hơi người đàn ông S’tiêng, nhưng Ba Du nhắc nó:
    -Ki, người quen đó, mày đi ra ngoài
    Nó nhìn Ba Du rồi ngoan ngoản chui qua cái lổ bên hông nhà ra ngoài sân, Nam âm thầm lẻn ra cửa sau đi về, trời đêm khuya gió thổi nhẹ từng cơn, anh thấy thấm lạnh nhưng trong đầu vui khắp khởi khi băng ngang qua rẩy về nhà.
    Công việc tối qua làm người mệt mỏi, sáng nay Nam dậy muộn, tìm đôi dép nhựa dưới phản để xỏ chân vào, nhìn lại hai bàn chân còn lấm lem dấu đất bùn đỏ.
    Nhớ lại tối hôm qua, lúc mở cái nắp thùng đầu tiên ra và lấy những cái chén quí giá ra bên ngoài, Nam có cảm giác như đang ở trong một giấc mơ, tinh thần anh hết sức khoan khoái, xong công việc này rồi, phải cho Ngọc Minh biết để cùng ăn mừng. Mở cửa ra ngoài sân, Nam nhìn về phía rẩy bên kia con suối, Ba Du đang tưới cho hàng bắp như chưa hề có chuyện gì xảy ra vào tối qua.
    Ăn xong bửa sáng, anh cũng xách thùng ra tưới cho những hàng bắp lên xanh mướt. Công việc kéo dài qua gần hết buổi chiều, Nam ra sau vườn cắt quầy chuối chín, rồi qua chổ mấy cây điều, từ ngày vào đây, anh ít chú ý chăm sóc cho những cây điều đã được chủ cũ trồng từ nhiều năm trước, nên cũng không có được bao nhiêu trái, thỉnh thoảng lúc ra vào trong vườn, thấy những trái chín, Nam hái lấy hột, để khi rảnh nướng ăn. Anh ra đào trùng làm mồi sau khi xong mấy công việc kia , rồi xách cần qua gần chổ buộc chiếc xuồng ngồi câu cá.
    Mực nước hồ hạ thấp, người đi câu bây giờ phải quăng cần ra ngoài xa, xung quanh bờ hồ lộ ra màu đất đỏ xen lẩn các tảng đá, nên chổ anh và Ba Du lên xuống hồ tối hôm qua để lại một số dấu vết, cũng may là chỗ đó ở dưới tàng lá và cây bụi mọc rậm rạp chìa ra mặt nước nên từ xa khó nhận ra, lát sau Ba Du ra hồ tắm, và nói với Nam:
    -Cố gắng kết thúc công việc trong tối nay và ngày mai nghe chú Nam
    Anh gật đầu, cầm hai con cá đưa cho Ba Du đem về, rồi đem số còn lại và cần câu đi ngang lòng suối rồi lội tắt ngang qua rẩy về nhà.
    Tối nay Nam ra đến bờ hồ sớm, kín đáo lấy thuốc lá ra hút trong lúc chờ Ba Du tới. Gần giữa khuya, nghe tiếng sột soạt nhẹ và Ba Du xuất hiện, ngạc nhiên thấy anh ngồi đợi sẵn, đưa cho anh chai nước, Nam cầm lấy uống vài ngụm cho tỉnh táo, xong rồi cả hai nắm sợi dây lặn xuống hồ.
    Vào được bên trong hang, Ba Du đốt hai cây đèn cầy lên, lấy xẻng xúc đất cát xung quanh cái thùng còn lại, anh cũng xúc trong góc nơi lớp đất đá trên vách rơi xuống chèn cứng, dùng tay dọn từng hòn đá ra chỗ khác, rồi dùng xẻng đào xung quanh cái thùng. Lát sau Ba Du ra dấu cho Nam thử khiêng nó lên, cố gắng hết mình sau vài phút, cả hai đưa được nó lên trên, hai cái thùng chiếm gần hết chỗ trong hang nhỏ chật chội, nên Ba Du lấy hết các món đồ còn lại trong thùng đầu tiên gồm vài chục cái dĩa sứ lớn nhỏ bỏ vào gùi, đeo nó lên vai và mang lên bờ.
    Còn lại một mình, Nam lấy rựa mở nắp thùng, loay hoay khá lâu đến lúc Ba Du lặn trở xuống mới mở nó ra được, Ba Du dở lớp vài bạt phủ bên trên ra, dưới ánh hai ngọn nến là những cái bình, lọ, ấm trà rất đẹp, Nam đem hết ra bên ngoài để xem lớp bên dưới, anh lấy lớp vải lót dầy ra, bên dưới những cái tô, thố, bát xếp thành hai lớp nằm ở đáy thùng.
    Ba Du xếp những cái lọ, bình xen kẽ với từng lớp cỏ khô vào cái gùi của mình, rồi kế tiếp là những cái tô lớn nhỏ và ba ấm trà được chèn kỹ càng bằng lớp vải, sau đó đeo gùi lên vai và lên bờ, số còn lại để tối mai.
    Ba Du phải đi trở ra khu rừng thêm một lần nửa để mang hết số dĩa còn ngoài đó về, trong lúc Nam bỏ các món kia lần lượt xuống hầm, Điểu Sơn ngồi gần đó giúp soi ngọn đèn pin mờ mờ xuống bên dưới, Ba Du quay lại, cùng Nam bỏ những cái dĩa xuống và đậy cái nắp lên trên hầm, xong xuôi Điểu Sơn lấp đất lại và rải lớp lá khô lên trên để che giấu. Xong công việc, Nam ra dấu chào Ba Du và Điểu Sơn đi về.
    Sáng sớm anh ra bắt hai con gà, cầm một con qua cho Ba Du và nói:
    -Anh Ba và Điểu Sơn thịt con này, tôi còn một con ở bên nhà
    Quay về nhà, anh lấy cơm nguội hôm qua ra ăn với cá trê kho ớt, mùi cay, nóng làm mồ hôi đổ lấm tấm. Xong bửa sáng, Nam sách cuốc ra đào khoai lang mấy nơi còn xót lại, đến hôm nay chắc số này cũng đã quá ngày thu hoạch, anh gùi về nhà xem số nào còn tốt xắc ra luộc phơi khô, vừa ăn, vừa đem vào cho trong buôn.
    Tối nay là ngày cuối kết thúc công việc mang số đồ sanh sứ còn lại trong cái thùng gổ về cất giấu sau nhà Ba Du, rồi kế đến là lúc tìm cách vận chuyển tất cả về Saigon. Nên ban ngày tuy phải làm việc như một ông nông dân cần cù, siêng năng, nhưng tâm trí Nam lại luôn nghĩ về những món đồ cổ đã lấy lên khỏi đáy hồ, và kế hoạch sắp tới của riêng anh và Ngọc Minh, còn với Ba Du thì anh phải chờ hỏi lại sau.
    Buổi chiều xuống chầm chậm, món gà kho gừng giúp bửa cơm chiều thêm ngon miệng, anh ăn thêm luôn vài trái chuối chín để có sức làm việc tối nay.
    Nam háo hức đến sớm ngồi dựa gốc cây chờ Ba Du, nhớ lại con Đốm và thấy thương nó, nhờ nó hy sinh mạng sống mà anh và Ba Du mới tìm ra chổ chôn giấu hai thùng đồ cổ. Anh nghĩ sau này nếu có về Saigon sống, anh sẽ nuôi một con chó khác và cũng đặt tên là Đốm để tưởng nhớ lại sự hy sinh của nó.
    Ba Du vào đến, bửa cuối nên có vẻ phấn chấn, cả hai nhanh nhẹn lặn xuống hang và mang hết những món quí giá còn lại và xẻng, rựa đem về. Lên trên bờ, Nam tháo sợi dây đang cột vào cái cây ra và cùng Ba Du đi về, định bụng ngày mai sẽ trở lại để dọn dẹp các thứ còn lại và xóa hết các dấu tích của mấy ngày vừa qua.
    Cả hai ra phía sau và đi sâu vào bên trong vườn, Điểu Sơn đang chờ sẵn bên cái hầm đã mở nắp, Nam cẩn thận bỏ những cái bình, lọ xuống và phủ lớp vải bố lên trên, rồi đậy nắp hầm lại, Ba Du và Điểu Sơn dùng xẻng phủ lớp đất lên và ngụy trang trên cùng với lớp lá khô mục, rồi cả ba đi về nhà.
    Giữa buổi sáng, Nam trở lại khu rừng chồi, len lỏi qua các bụi cây ra bờ hồ, dọn dẹp và xóa sạch các vết đất bùn trên bờ thật kỹ lưỡng, rồi quay ra ngoài. Đến nhà Ba Du, trời đang nắng gắt nhưng nhìn ra ngoài rẩy, Ba Du đang đi rải phân tro cho từng luống bắp, thấy Nam đứng chờ dưới bóng mát hàng mít, Ba Du nghỉ tay đi vào
    -Điểu Sơn hôm nay còn ở đây không? – anh hỏi
    -Tui nói Điểu Sơn ở lại thêm một, hai ngày rồi cùng vô trong đó với chú Nam và tui luôn
    Cả hai ra sau vườn và đến hàng tre, Ba Du húyt sáo hai tiếng và len lỏi qua giữa các thân cây đến chân đồi, Điểu Sơn mắc võng dưới vòm tre rậm đang bước ra, ông ta bắt tay Ba Du và Nam:
    -Chiều nay nhờ Ba Du hay chú Nam đưa tui về buôn được rồi
    Thấy Điểu Sơn muốn về sớm, Ba Du đành gật đầu:
    -Ừ, tui sẽ đưa Điểu Sơn về, tụi tui cám ơn anh nhiều lắm, kế hoạch kế tiếp như tui đã bàn với Điểu Sơn và Điểu Rút, chắc sẽ làm vào tuần sau
    Điểu Sơn hơi suy nghĩ, nhưng rồi gật đầu nói:
    -Ba Du tính đem đồ về Saigon bằng cách đó khá khó khăn, nguy hiểm, nhưng tui nghĩ chắc được, Điểu Rút cũng sẽ đồng ý
    -Nếu cách đó được, tui sẽ giải thích cho chú Nam biết
    Buổi chiều Nam lại qua nhà Ba Du để chào Điểu Sơn trước khi ông ta trở về trong buôn, những tia nắng cuối cùng làm ửng hồng góc chân trời phía tây khu rừng già, dưới các tàn cây bóng tối chập choạng xuống dần.
    Ba Du và Nam đến mở cái nắp hầm lấy vài món cho Điểu Sơn va Điểu Rút làm kỹ niệm, Nam lấy cái xẻng gạt lớp lá, đất bên trên ra ngoài, Ba Du cúi xuống nhấc nắp tre bỏ lên trên, rồi lựa ba, bốn món đồ sành sứ lấy ra, thì có tiếng quát lớn từ phía sau lưng:
    -Mẹ đứng im, đưa hai tay lên cao cho tao thấy, đứa nào nhúc nhích tao bắn vở sọ!
    Nam kinh ngạc đứng im bất động và hai tay dơ cao, Ba Du cũng trong tình thế đó, anh nghe giọng nói này khá quen, còn Ba Du đã đoán ra là ai, ông ta gằn gằn nói tiếp:
    -Mẹ tụi mày tổ chức phá hoại đập nước, rồi lén lút ăn cắp mấy món đồ cổ về giấu ở đây, tao nghi ngờ và theo dõi tụi mày cho đến hôm nay thì …
    Nam im lặng đứng nghe Tư Có nói, đầu óc đang rối bời, rồi bổng nhiên đang nói đến đó thì nghe Tư Có thở mạnh ra một tiếng, có tiếng thân người ngã đánh huỵch trên mặt đất, anh nhìn qua vai thấy Ba Du đã nhanh nhẹn xoay người ra phía sau, anh cũng vội vã xoay lại để nhìn, Tư Có đang nằm sóng soài trên mặt đất trong bóng tối của hàng mít, vùng cổ bị cắm một mủi tên đen nhỏ, khẩu súng K-54 ngắn văng ra bên cạnh. Nam thấy như trút khỏi vai cục đá nặng ngàn cân, bóng Điểu Sơn bước ra sau bụi tre rậm, trên tay còn cầm một ống trúc dài đen bóng dùng để thổi tên độc khi đi săn trong rừng, Ba Du bước đến gần Điểu Sơn xúc động nói:
    -Điều Sơn đã cứu mạng tui và chú Nam, cám ơn anh rất nhiều …bây giờ thì Tư Có đã biết rồi
    -Ông ta chỉ bị tên độc làm bất tỉnh chừng nửa tiếng thôi, chưa chết đâu Ba Du
    Ca ba đứng suy nghĩ về tình huống bất ngờ này, không thể giết chết và thủ tiêu Tư Có, cũng không thể thả ông ta ra được, làm gì với tay đội trưởng du kích xã đây, giữa lúc Nam và Ba Du thấy bí, Điều Sơn lên tiếng:
    -Chút nửa tui dẩn Tư Có vô rừng, nhốt vô hang kín rồi sẽ tính sau, bây giờ trói và bịt mắt ông ta lại, khi trời đã tối Ba Du lấy xuồng chở tui và ông ta về bờ hồ gần rừng nhé
    Anh và Ba Du thấy tạm ổn và nhẹ người, Nam cắt dây dù và miếng vải kaki đưa cho Ba Du, rồi phụ trói Tư Có và bịt mắt lại, Điểu Sơn rút mủi tên tre nhỏ sau gáy của ông ta ra, lấy khẩu súng K-54 và cái ống nhòm đang đeo trên cổ bỏ vào gùi. Ba Du lấy hai cái chén và hai cái dĩa rất đẹp cho Điểu Sơn, trịnh trọng nói:
    -Cám ơn Điêu Sơn rất nhiều, cái này xin tặng trước cho Điểu Sơn và Điểu Rút làm kỹ niệm
    Nam ra bờ hồ lấy xuồng chèo xích lên phía trên gần bờ đá lởm chởm, nơi này khuất, từ phía sau vườn nhà Ba Du ra đến đây cây cối rất um tùm, anh trở lại chỗ cũ, Tư Có nhúc nhích cục cựa, la ú ớ, chờ cho ông ta tỉnh hẳn, Ba Du và Điểu Sơn xốc nách Tư Có ra phía bờ hồ nơi chiếc xuồng đang chờ sẵn. Tư Có có vẻ muốn chống cự, nhưng còn yếu nên bị dìu đi và đưa lên xuồng, Ba Du cột hai chân Tư Có lại phòng bắt trắc, hai người đàn ông chèo về phía thượng lưu.
    Quay lại trong vườn, Nam xóa kỹ mọi dấu vết xung quanh cái hầm vì biết chắc chắn ngày mai, xã sẽ cho người tìm kiếm Tư Có khắp nơi, rồi nhớ lại từ cuối buổi chiều đên bây giờ không thấy con Ki đâu hết, có lẻ vì vậy mà Tư Có mới vào đến trong này mà vẩn không bị phát hiện.
    Nam vừa đi quanh nhà Ba Du, vừa kêu tên nó, nhưng bóng tối xung quanh vẩn im lìm, anh cầm cái đèn pin đi xa hơn về phía gần rừng cao su, đến giữa hai luống khoai mì, Nam thấy con Ki đang nằm ngay ở đó, anh chạy nhanh tới, nó nằm im lặng như chết, sờ tay vào thân mình nó thấy còn ấm, nhanh chóng bế về nhà, đốt cái đèn lên, đặt nó nằm lên tấm phản, quanh miệng con Ki sùi lớp bọt mép trắng, anh đoán nó bị Tư Có đánh bã làm cho nó mê man, có lẻ vì vậy mà nó chưa chết, Nam bắt đầu thấy ghét ông ta.
    Để nó nằm đó chờ tỉnh lại, anh chạy về khu rừng chồi, lấy cái tay quay rồi ra bờ hồ quăng thật mạnh ra xa phía giữa hồ, về nhà xem mọi ngóc ngách còn thứ nào dính dáng đến chuyện này, anh đốt lửa lên và bỏ vào cho cháy tiêu, không để lại dấu vết nào.
    Quay qua nhà Ba Du, Nam nhóm bếp lửa, lấy vài củ khoai to bỏ vào than nướng, con Ki sau một lúc nằm bất động bay giờ nhúc nhích mấy cái chân, năm phút sau nó mới ngóc đầu dậy và muốn đứng lên, nhưng còn bị ảnh hưởng bã mê, nên lại loạng choạng nằm xuống.
    Chờ đến tối khuya, Ba Du và chiếc xuồng mới về tới, con Ki thấy chủ về nó ngóc dậy kêu ư ứ, Ba Du ngạc nhiên trố mắt nhìn, Nam giải thích:
    -Tui tìm thấy nó nằm ngoài rẩy gần rừng cao su, có lẻ bị Tư Có đánh bã, mang nó về hơn cả tiếng bây giờ mới tĩnh lại
    Ba Du tới gần nó vuốt ve và vỗ vỗ cái đầu, rồi quay qua nói với Nam:
    -Chắc chắn du kích, công an ngày mai sẽ đi tìm Tư Có, khi họ hỏi chú Nam cứ bình tình trả lời không thấy, không biết, mình phải kiên nhẩn chờ rất lâu để họ thôi tìm kiếm Tư Có, lúc đó mọi việc sẽ trở lại như bình thường rồi tìm cách mang mấy món đồ cổ về Saigon.

    (còn tiếp)

    Comment


    • #17
      Sáng hôm sau, từ ngoài xã du kích và công an đổ xô đi tìm Tư có khắp nơi, các đội tuần tra bung ra xa tận các buôn làng và các khu rừng xung quanh, công an vào tận trong nhà Nam và Ba Du để hỏi và lục soát kỹ khu rừng chồi vài lần, nhưng không tìm thấy gì.
      Trong lúc này Nam rất muốn vào buôn thăm Ngọc Minh, nhưng phải gác lại vì công an và du kích đang lùng sục, tìm kiếm khắp nơi trong các khu rừng quanh hồ. Chắc Điểu Sơn cũng hé lộ chuyện này cho Điểu Rút biết, và Ngọc Minh trong buôn phần nào cũng đã đoán ra.
      Dân chúng ngoài xã bàn tán xôn xao, tin đồn bắt đầu bay ra khắp nơi, có người nói Tư Có đi săn bị Fulro bắt đem vào rừng sâu trên biên giới Miên, người nói Tư Có bị dân trong đồn điền cũ giết chết và giấu xác dưới hồ để trả thù, thậm chí còn đồn ông ta tổ chức vượt biên và đã đi thoát rồi.
      Buổi chiều Hai Tuất bơi xuồng qua chơi, thấy Nam và Ba Du đang hì hục xách nước tưới cho bắp, cả ba ngồi trên mấy tảng đá bên rẩy Ba Du nói chuyện Tư Có mất tích đến nay đã gần một tháng, cả công an huyện tham gia điều tra, tìm kiếm mà vẩn không có tăm hơi nào.
      Tuần sau, buổi chiều thứ hai, Ba Du xách con cá chép to rũ Nam qua nhà Hai Tuất lai rai, bà xã Hai Tuất ra tay làm món cá nướng tốc hành mang lên, Hai Tuất rót rượu ra ba cái ly:
      -Mình vô đi, cũng lâu rồi anh Ba với chú Nam mới qua đây nhậu
      -Bên này còn bàn tán về vụ Tư Có không anh Hai?
      Hai Tuất nhìn Ba Du gật đầu:
      -Dân cũng còn đồn lai rai, mấy vụ này họ nói dai lắm … đến bây giờ không ai thấy Tư Có ở đâu
      -Xung quanh đây toàn rừng núi, tay này cũng hay đi săn, nhiều khi y cũng đi lạc qua bên kia biên giới Miên …
      Hai Tuất ngồi nghe rồi gật gù:
      -Cũng không chừng, trong rừng rắn độc, hầm hố, mìn bẩy còn sót lại sau chiến tranh cũng nhiều và nguy hiểm lắm
      Uống hết ly rượu, Hai Tuất trầm trầm nói tiếp:
      -Lúc còn chiến tranh, Tư Có là tay du kích nổi tiếng dữ dằn và lạnh lùng, dân trong đồn điền rất sợ y, ai chống đối lại là ban đêm bị bắt đem ra rừng xử, nhiều người bị mất tích luôn không thấy trở về, ờ… Ba Du có để ý năm nay sao nước trong hồ xuống nhanh quá, mới tháng ba mà đã xuống gần bằng cuối tháng tư năm rồi
      -Không để ý lắm, sau tết lo công việc, hết chuyện này lại bắt qua chuyện kia … ừ, mà anh Hai nói đúng, tui thấy nó xuống nhanh hơn mọi năm
      -Năm nay có vẻ bị hạn sớm, mấy ông ngòai đó xả nước nhiều hơn mọi năm
      Nam nhìn ra cây lêkima thấy có nhiều trái chín, anh xin Hai Tuất một ít về ăn:
      -Tôi xin mấy trái lêkima đem về nhé anh Hai
      -Ừ, hái đi chú Nam, lấy cây sào tre phía sau nhà đó
      Hái gần chục trái lêkima chín, Nam đem vào trong nhà:
      -Cho anh Ba phân nửa đem về ăn
      Ba Du vói tay lấy hai trái to nhất, đưa Hai Tuất một, trái còn lại bẻ ra ăn ngon lành:
      -Ngọt và bùi lắm
      Nam cũng đang ăn một trái to, Hai Tuất nói đúng, đang đói mà ăn một trái lêkima to, ngọt lịm vào là thấy no ngang hông
      -Thôi, còn mồi nhiều này, chú Nam vô uống lai rai tiếp chứ - Hai Tuất cười nói rồi hỏi Ba Du – lúc này Ba Du và chú Nam có hay vào trong buôn không?
      -Cũng lâu rồi không vào, tính vài ngày nửa xong công việc thì vô thăm trong đó
      -Tỉnh mà cho phá rừng để trồng thêm cao su, chắc trong buôn họ cũng khó sống, đất đai dần thu hẹp lại, như mình thì còn chạy về thành phố kiếm sống được, còn họ thì biết chạy đi đâu …
      Uống thêm vài ly với Hai Tuất, thấy trời bắt đầu mờ mờ tối, Ba Du và Nam từ giã chủ nhà ra về, lúc bơi qua hồ, Ba Du cười nói:
      -Sáng mai ra quán Năm Bình
      -Ừ, nhưng giữa tuần mình vào buôn nhé anh Ba
      Giữa buổi sáng, Ba Du và Nam đang ngồi trong quán cà phê của Năm Bình, ông ta vào xưởng ép mủ cao su trong nông tường sáng nay, nên không có ở nhà. Vụ Tư Có mất tích không còn bị dân bàn tán, đồn đại xôn xao như lúc đầu. Ở bàn kế bên hai tay công nhân nông trường đang chia nhau phần nhu yếu phẩm mới được mua, bịch đường cát, bao bột ngọt nhỏ, mấy gói thuốc lá, chai nước mắm … có vẻ rất chi li. Bà xã Năm Bình nghe tiếng khách hàng gọi tính tiền, từ trong đi ra, hai tay công nhân trả tiền xong, cầm mấy gói hàng đi ra.
      -Mấy hôm nay, mấy ông du kích, công an xã còn đi tìm Tư Có không chị Năm – Ba Du hỏi
      -Nghe nói trên huyện và xã phối hợp với bộ đội biên phòng tìm phía rừng dọc biên giới, thôi tìm trong rừng cao su rồi
      Nam nhìn ra đường cố tìm người đàn bà mất trí, nhưng không thấy bà ta đâu. Gần trưa anh và Ba Du đi về, ngang qua cái trạm, cửa lớn nhỏ đóng kín, ban ngày hình như không có người trực.
      Cả hai đến bên gốc cây me, lấy xuồng bơi về nhà.
      Từ sau buổi chiều tối bị Tư Có đột ngột xuất hiện và bắt quả tang sau vườn nhà Ba Du, số lượng các món đồ lấy lên từ hai cái thùng gổ, Nam và Ba Du cũng chưa đếm lại vì những diễn biến đột ngột, nên để nó nằm yên tại đó, sau này đem về Saigon xem lại sau.
      Buổi chiều Ba Du qua hẹn anh ngày mai vào buôn, Ba Du và Nam ra ngồi ngoài hiên, và nói cho anh nghe cách vận chuyển về thành phố:
      -Tui tính toán kỹ càng, có nhiều cách mang mấy món đồ này về Saigon, đi lẻ tẻ thì lâu và qua lại trạm nhiều lần dể bị phát hiện, giấu trong bao hàng thì hên xui, nếu bị xét hỏi và tịch thu thì rất uổng, còn nếu chúng ta có quen tay cán bộ lớn nào ở huyện nhờ chở về thành phố, nếu ông ta chịu, thì chắc cũng phải mất hơn phân nửa, có khi còn mất hết và bị bắt, chuyện này không thể làm được, cuối cùng chỉ còn là chở trong quan tài …
      Nghe đến đây Nam có vẻ sửng sốt, Ba Du nhìn anh nói tiếp:
      -Tất cả được bỏ trong hòm và chở đi duy nhất một lần …
      Nam mỉm cười vì thấy hơi khôi hài, vì người chết thì nằm trong cái hòm và chở ra nghĩa địa chôn một lần thôi, ai đâu mà hơi sức chôn hai, ba lần … Ba Du nói tiếp:
      -Lâu rồi, lúc chú Nam chưa lên đây, có một lần vô buôn ngồi nói chuyện với Điểu Rút và Điểu Sơn, tui có nghe họ kể lại là người S’tiêng biết một loại rể cây bí mật mọc trong rừng biên giới giáp tỉnh Phước Long, bà ngoại Ngọc Minh biết công dụng của nó và sau này truyền bí mật lại cho Điểu Rút, rể của nó giả ra uống sẽ làm nạn nhân hôn mê, liệt trong 12 tiếng, sau đó cho uống một loại thuốc lá khác để tỉnh lại … tui sẽ nhờ Điểu Rút tìm loại rể này, và uống vô giả chết, sau khi báo cho ngoài xã vô chứng nhận để xin giấp phép đem về Bình Dương, sau 12 tiếng chú Nam và Điểu Rút sẽ cho tui uống thuốc giải, và đem hết các món đồ cổ bỏ vô hòm đóng nắp lại thật kỹ, rồi thuê xe chở thẳng xuống Bình Dương, ở đó có người nhà đào huyệt chờ sẳn, đến tối mở hòm lấy hết đồ ra,và chôn cái hòm không xuống đất
      -Còn anh Ba thì sao?
      -Sau khi tỉnh lại vào buổi tối, Điểu Sơn sẽ dẩn tui đi xuyên rừng qua huyện khác, ra đường đón xe đò về nhà người quen ở Saigon, không về nhà cũ nửa
      Nam nghe thấy có lý nhưng không chắc là loại thuốc từ loại rể cây đó đúng là hết tác dụng sau 12 tiếng không, có ai đã thử chưa để xem kết quả ra sao, Ba Du có vẻ liều lĩnh, nhưng nghĩ cho cùng, trong lúc này, kế hoạch đó là hay nhất, anh gật đầu:
      -Mai mình vào buôn để gặp Điểu Rút và Điểu Sơn vì việc này?
      Ba Du gật đầu, mỉm cười nói:
      -Những món đồ cổ đó rất có giá, tui nghĩ kế hoạch này sẽ thành công
      Hôm nay Nam và Ba Du vào buôn sớm, ghé vào tìm Điểu Sơn xong cả ba đi qua nhà Điểu Rút, anh nhanh chân bước lên thang, gặp bà Tranh đang ngồi xe chỉ để dệt vải thổ cẩm, thấy Nam, Ba Du và Điểu Sơn đến, bà ta gọi:
      -Ngọc Minh ơi, có Nam vô nè, con dẩn Nam ra vườn kêu cậu về có Ba Du và Điểu Sơn đến nhà
      Ngọc Minh từ nhà trong đi ra, cô cười nhưng có vẻ hơi lo, cả hai ra vườn kêu Điểu Rút về, còn Nam và cô ra suối ngồi nói chuyện, cô hỏi:
      -Ngoài đó yên chưa anh, Ngọc Minh thấy lo quá
      -Xong rồi, không có chuyện gì đâu, chuyện hai thùng đồ cổ lúc trước anh chưa nói cho Ngọc Minh biết vì không chắc có tìm được nó không, rồi lúc tìm ra thì chút xíu nửa là bị bắt, cũng nhờ anh Ba lo đề phòng trước và may mắn Điểu Sơn giải thoát kịp thời, chắc Ngọc Minh mấy ngày trước có nghe cậu nói lại?
      -Ngọc Minh có nghe cậu nói lại và biểu phải thật bí mật không cho ai hay
      -Bửa nay vào là bàn cách đem mấy món đó về Saigon, nếu xong được việc này, chúng ta cũng về dưới đó luôn, anh có kế hoạch rồi, đồ cổ có giá lắm, sau khi bán, chúng ta sẽ có số tiền lớn đủ để vượt biên, Ngọc Minh đi với anh nhé
      Nghe nói tới vượt biên, đôi mắt cô mở lớn nhìn Nam, không biết nói gì, vì xưa nay cô sống trong buôn làng xa xôi này, chỉ nghĩ đến về sống ở Saigon là đã xa lạ rồi, huống hồ theo Nam vượt biển ra nước ngoài, hiểu tâm trạng Ngọc Minh, Nam cầm tay cô nói như năn nỉ:
      -Chúng ta phải ra đi vì ở lại không có tương lai, chắc có anh Ba cùng đi …
      Ngọc Minh ngồi suy nghĩ, cô yêu Nam rồi, và cũng biết anh rất yêu cô, đâu thể chia lìa
      -Có cần anh nói với cậu và mợ không?
      Ngọc Minh cười trong lo âu:
      -Ngọc Minh sẽ nói một mình, mấy hôm nay thấy cậu và chú Điểu Sơn bận rộn lắm, hết ra rẩy rồi vô rừng, chiều tối mới về nhà
      Nam nghĩ đến Tư Có, không biết hai người đàn ông S’tiêng giải quyết ông ta ra sao, nhưng chắc chắn là họ sẽ không giết ông ta, anh nói với Ngọc Minh:
      -Ừ, thôi mình về nhé Ngọc Minh
      Anh nắm tay cô đi về nhà, Ba Du đang ngồi nói chuyện với hai người đàn ông S'tiêng. Nam và Ngọc Minh đi vào gian bếp, trưa nay anh và Ba Du về sớm, Ngọc Minh cầm hai ống cơm lam đưa anh, cô nói nhỏ:
      -Anh Nam cẩn thận nghe, nhớ giữ sức khỏe, buôn ở xa mình khó liên lạc với nhau
      Nam gật đầu nói:
      -Ngọc Minh đừng quá lo, chắc mọi việc cũng sắp xong rồi
      Anh chào bà Tranh và cầm gùi đi ra, Ba Du cũng chào rồi cùng hai người đàn ông S’tiêng xuống thang, Ngọc Minh đứng bên cửa nhà đưa tay vẩy và nhìn theo. Lúc tiễn anh và Ba Du ra gần đến đầu buôn, Điểu Rút nói:
      -Nam cẩn thận nghe, có tui và Điểu Sơn hổ trợ rồi
      Anh gật đầu, đưa tay chào hai người đàn ông S’tiêng, Nam nghĩ không có họ, chắc hôm nay anh và Ba Du đã nằm dưới lòng đất hoặc ngồi sau song sắt rồi.
      Lên xuồng bơi về, Ba Du nói cho anh nghe về chuyện vừa bàn trong buôn:
      -Điểu Rút đã đồng ý rồi, hai ngày nửa cả Điểu Sơn, Điêu Rút sẽ bí mật ra ngoài này, gần 8 giờ sáng, tui sẽ uống thuốc mê, sau đó chú Nam ra xã báo cho ngòai đó biết, sau khi có người ở ủy ban và của công an vào xem và xác nhận, lúc ra xã làm giấy chứng tử, chú Nam nhờ Năm Bình qua ủy ban xin cho nhanh, đến giữa khuya, Điểu Rút sẽ cho tui uống thuốc giải, ván hòm sẽ được đem ra gần phía sau nhà đóng thành quan tài, sau đó sẽ lấy các món đồ lên cho vô và đóng nắp lại, đến sáng xe từ Bình Dương lên chở về dưới, chỉ có chú Nam và người em của tui theo trên xe, lúc xe đưa quan tài về Bình Dương sẽ dùng giấy tờ của ủy ban xã và công an cấp để qua các trạm trên đường, sau khi về đến nhà, sẽ quàng quan tài tại nhà một ngày, buổi tối chú Nam và người em sẽ mở nắp lấy hết đồ ra, và bỏ đá vào và đóng nắp lại, sáng mai đem chôn trong vườn nhà.
      Nam gật đầu đồng ý với kế hoạch mạo hiểm này của Ba Du, anh không dám hỏi tiếp nếu như thuốc độc của Điểu Rút làm Ba Du mê man vĩnh viển thì sao, Ba Du nói:
      -Ngay mai tui về Bình Dương sắp xếp công việc, chiều lên trở lại
      Sáng Nam bơi xuồng đưa Ba Du ra ngoài xã sớm và quay về nhà, anh vác cuốc ra rẩy dọn cỏ, rồi đào mớ trùng để làm mồi câu, bên ngoài thì ai nhìn vào cũng thấy anh đang bận bịu với công việc, nhưng trong lòng thì anh đang suy nghĩ miên man những công việc căng thẳng sắp tới.
      Chiều vừa ngồi câu, vừa suy nghĩ xem có công việc nào cần làm, nhưng theo kế hoạch thì mọi thứ đã đâu ra đó, ngày mốt là hành động. Ba Du về Bình Dương và trở lên sớm, ra ngồi gần Nam bên bờ hồ nói chuyện:
      -Ngọc Minh chắc biết hết mọi chuyện?
      -Tôi có nói cho Ngọc Minh biết về hai cái thùng đồ cổ và chuyện suýt nửa bị Tư Có bắt, còn chuyện này cần nói với anh Ba, tôi tính sau khi bán những món đồ cổ này, mình sẽ có số tiền lớn, đủ để vượt biên, tôi có nói với Ngọc Minh rồi, và Điểu Rút chắc cũng đồng ý chuyện này, riêng tôi rất mong anh Ba đi cùng tôi và Ngọc Minh, ở lại đây sau này chắc tương lai không có, ý anh Ba ra sao?
      Ba Du suy nghĩ một lúc lâu, rồi gật đầu trả lời:
      -Tui ở lại thì cũng không biết làm gì, cuộc sống bây giờ đang rất khó khăn, tui sẽ dẩn con trai đi với chú Nam và Ngọc Minh
      Nam nghe nói mừng quá, anh đưa tay ra siết chặt tay Ba Du và cười:
      -Có anh Ba cùng đi thì tôi thêm yên tâm
      Hai ngày đi qua nhanh chóng, chiều tối hôm đó Điểu Sơn, Điểu Rút đã có mặt ở phía sau nhà Ba Du và ẩn mình trong rừng chồi trên đồi đá. Tối đó Nam thao thức không ngủ được, nhưng không dám bước ra sân vì sợ bị chú ý, đến giữa khuya mệt mỏi quá, anh cũng thiếp đi.
      Trời hừng sáng, Nam dậy rửa mặt và kiếm củ khoai và trái cây ăn, rồi đi qua nhà Ba Du, vừa lúc Ba Du từ trong vườn sau nhà đi ra, tay cầm cái lon đựng thuốc nước nâu đen, Ba Du kéo ống quần lên chỉ cho anh thấy hai dấu như bị rắn cắn ở bắp chân và nói:
      -Chú Nam ra xã báo là qua nhà thấy tui bị rắn độc cắn nằm mê man, báo ủy ban xong nhớ qua cho Năm Bình hay để nhờ xin giấy chứng nhận để đi đường, tui uống xong là lên phản nằm, chú Nam chờ nửa tiếng sau ra ngoài đó là vừa
      Ba Du cầm cái lon uống và lên cái phản nằm, Nam đứng quan sát Ba Du, thấy sắc diện từ từ đổi sang màu xanh xám và chừng mười phút sau thì hầu như không còn thấy nhịp thở, anh coi lại chỗ có dấu rắn cắn, vùng da xung quanh bắt đầu xám đen lại, con Ki tưởng Ba Du nằm ngủ, nó ra gần cửa nằm im lìm.
      Chờ khoảng nửa tiếng, Nam lấy xuồng bơi ra xã, đến nơi thấy ủy ban mới bắt đầu làm việc, anh bước vào trong gặp một bà đang ngồi sau cái bàn với đống giấy tờ. Nam đến báo là người hàng xóm vừa bị rắn cắn sáng nay, anh qua nhà thì phát hiện đã chết nên ra báo cho xã biết, bà ta hỏi Nam tên gì, ở ấp nào rồi kêu anh ngồi chờ, sau đó qua báo bên công an.
      Lát sau tay công an viên qua lấy lời khai của anh. Xong phần thủ tục giấy tờ này, Nam xin chạy qua nhà Năm Bình báo cho ông ta hay. Đang tính vào xưởng, nghe Nam báo Ba Du mới bị rắn cắn chết sáng nay, Năm Bình kinh ngạc hỏi, anh trả lời vắn tắt và nhờ Năm Bình trưa nay xin giấy chứng tử giùm để đi đường, rồi quay lại chở một công an viên và một bà bên y tế vào trong rẩy để làm giấy chứng nhận.
      Trong lúc họ làm biên bản, Nam xin qua bên kia hồ để thông báo cho ông hàng xóm Hai Tuất qua trong nhà giùm, anh về Saigon báo cho thân nhân Ba Du, thật sự theo lời Ba Du chỉ dẩn, anh xuống xe ở Bình Dương tới gần trưa thì quay lên, chiều người em rể của Ba Du sẽ tự vào đây một mình.
      Đến chiều mọi việc diễn ra suông sẻ, vì một người lính “ngụy” như Ba Du chết thì không làm công an hay ủy ban quan tâm nhiều, nhất là nhà cửa, ruộng rẩy của nạn nhân đang ở nơi mà vài tháng nửa nông trường sẽ thu hồi lại, nhất cử lưỡng tiện, họ khỏi phải lo lắng chuyện di dời sau này.
      Năm Bình vào thăm thấy Ba Du nằm im, người phủ lớp mền, mặt buồn so, Hai Tuất khuôn mặt lộ vẻ u sầu, cả ngày bơi qua lại mấy lần đến tối khuya mới về.
      Ông em rể vừa lên tới, đã được Ba Du cho biết trước nên ngồi im trong góc nhà, có ai hỏi thì mới trả lời.
      Nhà anh và Ba Du nằm ở chỗ hoang vu, trong hóc bò tó này thì đâu có bao nhiêu hàng xóm, mấy cái nhà phía bên ngoài là của dân đi kinh tế mới, họ bỏ trốn về thành phố gần hết, đâu còn ai.
      Anh về nhà bắt hai con gà làm thịt để mọi người ăn buổi tối, ở nhà Ba Du bây giờ chỉ còn lại Nam và người em rể Ba Du. Đem con gà luộc ra sau vườn cho hai người đàn ông S’tiêng, anh và ông ta ăn tối một phần con gà kia, một phần nắm trong nồi cháo dành cho Ba Du tối nay.
      Bên ngoài trời đã rất khuya, Điểu Rút từ sau vườn đi vào đến gần chỗ Ba Du nằm im lìm như ngủ, lấy bàn tay sờ ngực Ba Du xong, Điểu Rút lấy trong gùi ra gói lá cây khô bỏ vào trong ấm nước rồi bỏ lên bếp nấu. Khoảng nửa tiếng sau, ông ta lấy cái ấm xuống, rót nước từ trong ấm ra cái tô, và chờ Ba Du tỉnh lại, chờ thêm năm phút, tay chân Ba Du bắt đầu cử động nhẹ sau đó mở mắt ra từ từ, Điểu Rút ra dấu nhờ Nam đở Ba Du ngồi dậy và đưa cái tô nước có màu như trà loảng cho Ba Du uống. Độ mười phút sau, Ba Du tỉnh táo hơn và ra dấu chào mọi người, người em rể đến gần đưa tô cháo gà nóng, Ba Du đang rất đói nên cầm lấy ăn rất ngon miệng.
      Thấy Ba Du lấy lại sức khỏe, mọi người mỉm cười và biết là Ba Du vừa vượt qua sự thử thách lớn, Nam chỉ tay cho Ba Du đi ra phía sau vườn. Bây giờ phải nhanh chóng lấy những tấm ván hai người đàn ông S’tiêng dấu sẵn ở bờ hồ phía trên về đóng thành quan tài và bỏ các món đồ vào đó trước khi trời sáng càng sớm, càng tốt.
      Nam và Điểu Sơn lấy xuồng bơi đi trong đêm tối lên phía trên hồ, và chở các tấm ván dầy đã được chuẩn bị sẵn đem về sau nhà Ba Du ráp lại, chiếc xuồng nhỏ không chở hết một lần, nên Nam và người em rể Ba Du phải đi thêm chuyến nửa, còn Điểu Rút và Điểu Sơn lo đóng ráp lại thành áo quan rồi cùng Ba Du mở hầm lấy các món đồ lên.
      Trong đêm tối, tiếng búa đóng đinh vào gổ nghe lộc cộc, may là xung quanh nhà toàn cây cối, bụi rậm, chẳng còn hàng xóm nào ở gần đây trừ Nam. Sau cùng cái hòm được năm người đàn ông đưa vào nhà, nhẹ nhàng đặt trên tấm phản.
      Nam cùng Điểu Sơn và Ba Du ra lấy xuồng bơi về phía thượng lưu, từ đó Điểu Sơn dẩn Ba Du đi cắt rừng qua một huyện của tỉnh Tây Ninh đón xe về Saigon, Nam chèo xuồng về nhà, chờ trời sáng xe gia đình người em rể Ba Du thuê chạy vào tận trong rẩy để chở quan tài đi.
      Trời sáng Hai Tuất bơi xuồng qua sớm, Năm Bình cũng đã có mặt, cầm tờ giấy chứng tử và giấy phép đi đường của ủy ban và công an cấp đưa cho Nam. Nửa tiếng sau, chiếc xe được một người nhà của Năm Bình dẩn đường qua rừng cao su chạy vào trong rẩy đậu gần nhà Ba Du, sáu người đàn ông chầm chậm khiêng quan tài ra xe. Nam ngồi phía sau cùng áo quan, người em Ba Du ngồi lên phía trên gần tài xế, chiếc xe từ từ lăn bánh về qua con đường nó vừa chạy vào, ngang qua xã và ra thẳng quốc lộ về Chơn Thành, Bình Dương.
      Chiếc xe chạy chậm trên quốc lộ còn vắng vẻ, mỗi lần dừng lại các trạm xét hỏi dọc đường, cả hai nhẩy xuống vào trạm xuất trình giấy tờ cho nhân viên trạm, thấy giấy báo tử và nhìn ra thùng xe thấy quan tài, mấy tay du kích và công an phẩy tay cho đi.
      Đến quá trưa, chiếc xe về đến Bình Dương và rẻ vào một con đường đất đỏ đi sâu vào bên trong giửa những hàng tre, trúc mọc xanh mát bên đường, và cuối cùng dừng lại trong khu vườn cây cối xanh um tùm. Quan tài được khiêng vào để ở nhà trên, cũng có đầy đủ bàn hương, tượng Phật, nhang khói được thắp lên nghi ngút.
      Nam cùng người em rể tên Đan của Ba Du, đến lúc sau này anh mới biết cũng là một đồng đội của Ba Du, trong một dịp về phép dưới Saigon cùng Ba Du, người bạn này đến nhà gặp cô em gái Ba Du, tình yêu giữa hai người phát sinh, và sau đó là một đám cưới. Từ đồng đội, nay họ trở thành anh em, Nam nghĩ đúng là hữu duyên.
      Chiều tối, Ba Du đội nón lụp sụp từ bên ngoài đi vào, vui vẽ bắt tay Nam và người em. Ba người ra sau nhà ăn cơm, và chờ cho đêm xuống thật khuya, mở nắp hòm và chuyển tất cả những món đồ cổ ra sau nhà giấu xuống cái hầm đã đào sẵn rồi đóng nắp lại.
      Buổi sáng Nam ở lại cho đến khi hoàn tất công việc chôn cất và quay trở lên Bình Long.
      Buổi chiều còn có một mình trong rẩy, anh qua nhà Ba Du tìm con Ki, thấy Nam nó mừng quýnh, anh đi ra sau vườn, không khí âm u, vắng lặng, ngôi nhà từ đây vô chủ.
      Lúc này trong thời gian chờ tin tức từ Saigon, cứ vài ngày Nam lại vào buôn, cả nhà Điểu Rút rất quý mến anh và đều đồng ý để Ngọc Minh đi vượt biên cùng anh và Ba Du.
      Nam nói cho nghe kế hoạch ra đi của anh và Ba Du, sau khi bán những món đồ cổ đó, và Ngọc Minh sẽ cùng đi với anh, hai người đàn ông S’tiêng rất hài lòng vì mối tình của Nam và Ngọc Minh kết thúc tốt đẹp
      Theo lời dặn của Ba Du, mỗi tuần anh về Saigon một lần để biết tin mà Ba Du nhờ người quen đem đến nhà Nam, sẵn đó anh nói cho gia đình biết về Ngọc Minh và hứa có dịp sẽ đưa cô về thăm nhà và giới thiệu cho mẹ và bà chị, hai đứa em.
      Hơn tháng sau, qua giữa tháng tư Nam về nhà và có cái thư của Ba Du nhắn gặp anh ở một địa chỉ bên quận 4.
      Sáng hôm sau anh chạy xe đạp qua đó, đi vào một con hẻm và tìm đến địa chỉ căn nhà nằm khuất sâu bên trong, căn nhà vắng vẻ chỉ có mình Ba Du, bắt tay Nam, Ba Du nói:
      -Sau khi coi kỹ những món đồ cổ đó, đã có người mua hết với một số vàng lớn, và theo sự giới thiệu của họ, tôi đã gặp những người Hoa trong Chợ Lớn đang đóng thuyền vượt biên, thấy họ có tổ chức rất tốt và theo họ nói có giấy phép đi bán chính thức, nên giá rất cao, tính toán lại số vàng mình có, tui, chú Nam và hai, ba người nửa đi theo vẩn còn lại một số, chú Nam tính sao?
      -Tôi và Ngọc Minh cùng đi, hai đứa em còn nhỏ nên ở lại, bà chị cũng ở lại với bà già, còn anh Ba thì đi với ai?
      -Tui sẽ dẩn con trai cùng đi, bây giờ chỉ còn hai cha con, má tui và bà chị ở lại, số vàng còn lại tui và chú Nam chia ra, mình sẽ giúp đở cho những người đã giúp mình …
      Nam gật đầu đồng ý, vì thấy anh và Ba Du nợ những người Thượng tốt bụng đó, không có mấy người đàn ông S’tiêng này, và người em rể của Ba Du, công việc nguy hiểm của anh và Ba Du chắc chắn thất bại rồi.
      Anh quay về Bình Long, nhanh chóng vào buôn cho Ngọc Minh, gia đình Điểu Rút, Điểu Sơn biết tin vui và nói Ngọc Minh chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra đi.
      Hai tuần sau khi về nhà, Nam nhận được tin Ba Du báo tuần sau, thứ bẩy có người chờ đón anh và Ngọc Minh ở trong bưu điện quận 5 vào lúc hai giờ chiều, Nam sẽ ăn mặc theo chỉ dẩn của Ba Du để dể nhận diện, và nhắn với Điêu Rút, Điểu Sơn là sáng thứ 7 đó, cả hai người đàn ông S’tiêng xuống Saigon cùng với Ngọc Minh, Ba Du sẽ gặp họ tại một nơi sẽ cho biết sau.
      Nam nói cho bà chị và mẹ anh biết tình hình đã chuẩn bị xong, chiều anh chạy qua nhà Huy thăm gia đình nó, xem như anh âm thầm từ giả lần cuối, rồi qua xóm lò heo thăm Ý, đến cửa thấy đứa em nhỏ nó chơi trước sân, Nam hỏi:
      -Kiên, anh Ý có nhà không?
      Nó không trả lời Nam mà chạy vào trong nhà, lát sau bà chị lớn của nó đi ra:
      -Nam vào trong nhà đi
      Thấy bà chị Ý nhìn anh hơi lạ, đoán Ý đã vượt biên rồi, dẩn xe vào trong sân, và ngồi vào cái bàn trong phòng khách, Nam hỏi dò:
      -Ý nó đi rồi hả chị?
      -Ừ, hai anh em nó mới đi cách đây hai ngày, nó dặn chị, khi nào em đến thì nói nó sẽ viết thư về nếu đến được đảo …
      Nam nghe và hiểu ý thằng bạn, nó chỉ viết thư về nhà khi chiếc ghe vượt biên đến được đảo và còn sống, anh chào bà chị của Ý và lấy xe ra về, thấy buồn vì phải chia tay khi bạn bè lần lượt ra đi.
      Tối về nằm suy nghĩ và sắp xếp việc hẹn đón Ngọc Minh tuần sau về nhà lần đầu thăm gia đình, cũng có thể là lần cuối, Nam thấy địa điểm gặp nhau thuận lợi và ít bị đế ý vào ban ngày là Thảo Cầm Viên, sau đó Nam sẽ dẩn cô về nhà, đến buổi chiều cả hai sẽ đi xe vào bưu điện Chợ Lớn chờ gặp người dẩn đường.
      Buổi sáng Nam ra bến xe mua vé trở lên sớm, chiều về đến nhà nhìn thấy con Ki nằm trước sân, lúc này nó qua bên nhà anh ở hẳn, nó có vẻ buồn vì không thấy chủ cũ trở về.
      Thức dậy ăn uống qua loa, Nam lấy nước và cây rựa, trái cây bỏ vào gùi, ra lấy xuồng bơi lên thượng lưu. Đến nơi anh giấu xuồng vào dưới bụi cây và nhanh chóng đi vào rừng, bây giờ chỉ còn một mình nên lúc nào Nam cũng cẩn thận và đi thật nhanh, không nghỉ chân ở dọc đường như trước đây.
      Vào đến buôn, Nam đi ngay đến nhà Điểu Rút, Ngọc Minh đang ở nhà nấu bếp, sau khi cho cô biết ngày về Saigon để ra đi, anh nói muốn gặp cậu Điểu Rút và Điểu Sơn, cô trả lời;
      -Cậu và mợ ra rẩy, trưa nay về, anh Nam ở lại và ăn trưa luôn, chú Điểu Sơn chắc cũng đi rẩy
      Nam ngồi chờ nhìn Ngọc Minh nấu cơm, anh hỏi:
      -Có việc gì cho anh làm không?
      -Anh Nam ngồi nghỉ đi chút ăn cơm
      Trưa Điểu Rút và bà vợ ngoài rẩy về, Ngọc Minh dọn cơm ra mời mọi người, Nam nói:
      -Thứ bẩy tuần sau là Ngọc Minh phải xuống Saigon với cháu rồi, còn anh Ba Du muốn gặp lại cậu và chú Điểu Sơn luôn, cháu sắp xếp chỗ mình gặp ở Thảo Cầm Viên, sau đó Ngọc Minh về nhà cháu chút xíu, rồi vào Chợ Lớn gặp anh Ba được không cậu?
      -Ừ, vậy cũng được
      -Thứ sáu cháu sẽ về nhà trước, sáng thứ bẩy cậu và Ngọc Minh xuống sớm nhé
      Bà Tranh ngồi nghe rồi lộ vẻ buồn bã nhìn cô cháu, Điểu Rút gật đầu nói:
      -Để cậu xin giấy đi khám bịnh sốt rét ở thành phố cho Ngọc Minh
      -Anh Ba có con chó ngoài đó, thứ tư hay thứ năm cháu đem nó vào buôn cho cậu nuôi giùm nhé
      -Chú Nam đem vô đi, tui nuôi cho – bà Tranh trả lời
      Ăn trưa xong, hai người S’tiêng lại ra rẩy, Nam và Ngọc Minh ngồi nói chuyện, mải đến khi xế chiều, Nam cầm tay Ngọc Minh từ giả ra về.
      Loay hoay đã qua hết tuần, đến sáng thứ năm, Nam kêu con Ki ra bờ hồ và bế nó lên xuồng, thấy nó có vẻ lo lắng, Nam vuốt ve làm cho nó yên tâm và chèo xuồng lần cuối vào buôn để chào từ giả. Anh nắm sợi dây và dẩn con Ki đi qua khu rừng vắng lặng, nhìn những nơi đã trở nên quá quen thuộc với mình sau nhiều lần đi qua đây, một chút u buồn vương vấn trong lòng.
      Bửa gặp cuối cùng với nhà Điểu Rút và Điểu Sơn diễn ra âm thầm, Điểu Rút đem chóe rượu cần ra uống và nói:
      -Nam bây giờ cháu là người trong gia đình cậu rồi, nên mọi người ở đây luôn thương nhớ cháu đó
      -Có đi đâu thì cháu luôn nhớ và biết ơn cậu và Điểu Sơn đã giúp cháu và anh Ba rất nhiều và mợ Tranh nửa
      Bà Tranh rươm rướm nước mắt nói:
      -Hai đứa con đi được thì luôn bên nhau nghe, nhớ viết thơ về cho nhà cậu, mợ và chú Điểu Sơn nghe Ngọc Minh
      Mắt Ngọc Minh đỏ hoe long lanh giọt lệ, cô gật đầu, Nam nhìn hai người đàn ông S’tiêng nói:
      -Ngày mai cháu về Saigon trước, phần của cháu sau khi bán những món đồ cổ, ngoài để trả cho chủ tàu, một ít cho gia đình, cháu xin gửi lại cho cậu và Điểu Sơn đề phòng thân, cháu và Ngọc Minh đi thoát là đủ rồi, anh Ba chắc cũng sẽ gửi lại cho cậu và Điểu Sơn một phần
      Hai người đàn ông S’tiêng gật đầu, cám ơn và bắt chặt tay Nam.
      Anh chào từ biệt, hẹn ngày mai gặp lại dưới thành phố, đến gần con Ki đang nằm kế bên Ngọc Minh, anh vuốt ve nó và nói:
      -Ở đây nghe Ki, tao đi về đây
      Nó nằm im không nhúc nhích, chỉ có đôi mắt nó nhìn Nam thật buồn bã, chắc nó biết anh sẽ đi khỏi nơi này vĩnh viển, anh quay đi mà trái tim thấy trĩu nặng và thật cay trong đôi mắt.
      Thứ sáu Nam về nhà ở Phú Nhuận, nhận được thư của Ba Du báo bên chủ tàu sẽ cho người ra đón trong bưu điện, và dặn Nam mật khẩu khi bị hỏi, sau đó anh sẽ dẩn Điểu Rút đi theo để gặp Ba Du.
      Anh nói cho gia đình biết Ngọc Minh sẽ đến thăm vào ngày mai trước khi đi, sau đó sẽ có người cầm một số vàng đến gửi cho gia đình, Nam nói với người mẹ già tóc đã bạc nhiều và bà chị ngồi kế bên:
      -Mẹ và chị hai cất số vàng này để sử dụng lúc cần, nếu may con và Ngọc Minh đi được thì con sẽ gửi thư về nhé
      Thứ bẩy Nam chạy xe đạp đến Thảo Cầm viên sớm, mua vé vào cửa và đi loanh quanh gần cửa chính, đến gần trưa Ngọc Minh và ông cậu xuất hiện bên ngoài, anh ra lấy xe chở Ngọc Minh về thăm nhà, hẹn ông cậu Điểu Rút đến một giờ trưa sẽ gặp nhau ở Bưu Điện thành phố, gần nhà thờ Đức Bà, Điểu Rút gật đầu vì vẩn còn nhớ nơi đó.
      Chở Ngọc Minh vào con hẻm trong xóm, nhiều người quen ngạc nhiên và cười nhìn Nam chở cô bồ mặc đồ như công nhân, vai đeo cái túi vải màu xanh về nhà.
      Anh mở cổng dẩn Ngọc Minh vào nhà và giới thiệu với gia đình, mọi người trong nhà có vẻ thích Ngọc Minh vì cô cười rất tươi.
      Bà chị dọn bửa trưa lên, Nam và cô bạn gái cùng ngồi ăn với mọi người trong gia đình có thể là lần cuối.
      Nghỉ ngơi sau buổi trưa, Nam chào tất cả và cùng Ngọc Minh tất tả đi ra đường, đón xe buýt trên đường Hai Bà Trưng ra quận 1, cả hai xuống xe ở một ngả tư và đi bộ thêm một đoạn đến nơi hẹn với Điểu Rút.
      Anh lững thững dẩn Điểu Rút và Ngọc Minh đi về phía chợ Bến Thành, rồi đón tuyến xe buýt đi thẳng về quận 5. Chiếc buýt cũ kỹ chạy chậm chạp trên đại lộ Trần Hưng Đạo, buổi trưa thành phố mỏi mệt dưới cái nắng oi bức của mặt trời, trên xe còn nhiều hàng ghế trống không. Ngọc Minh tò mò nhìn những căn nhà phố cao qua ô cửa xe, và những người dân Saigon qua lại trên vỉa hè, thỉnh thoảng cô nhìn Nam rồi cười.
      Xuống xe gần Bưu điện quận 5, Nam dẩn Ngọc Minh và Điểu Rút vào bên trong tìm băng ghế như đang ngồi nghỉ chân, mười phút sau một người đàn ông nói giọng tàu đến ngồi kế bên Nam, ông ta lấy thuốc lá ra hút và hỏi mượn hộp quẹt, anh lấy hộp quẹt trong túi quần ra và trả lời bằng mật khẩu, ông ta đốt điếu thuốc rồi gật đầu đứng lên đi ra ngoài. Nam dẩn Ngọc Minh và Điểu Rút lững thững đi theo sau người đàn ông qua khu chợ bán đồ lạc son nhỏ và đi thẳng ra phía sau một ngôi chợ lớn, có nhiều người ra vào mua bán, ông ta chỉ tay ra dấu Điểu Rút ra ngồi ở cái quán nước trong hẻm nhỏ, sau đó dẩn anh cùng Ngọc Minh đi sâu vào phía bên trong, đến một căn nhà chất đầy thùng giấy, gổ bên ngoài, rồi qua một khoảng sân tối đến căn phòng nhỏ ở trong góc, mở cửa cho Nam và Ngọc Minh vào, bên trong Ba Du đang ngồi chờ sau cái bàn gổ với cậu con trai nhỏ, mỉm cười nhìn anh và Ngọc Minh:
      -Chú Nam và Ngọc Minh khỏe không, Điểu Rút ở ngoài đó hả?
      -Đang ngồi ngoài quán nước gần đầu hẻm chờ gặp anh Ba
      -Gia, con chào cô chú đi, ở trong này với chú Nam và cô Minh, ba đi ra ngoài chút nửa ba về
      Ba Du gửi cậu con trai nhỏ cho Nam, và đi ra ngoài, vài phút sau, một bà trung niên mở cửa đem cái ấm nước và hai ca nhựa để trên bàn, rồi đi ra.
      Đến chiều tối Ba Du mới quay vào, trên tay cầm ba ổ bánh mì, vài cái bánh ú đưa cho Nam, Ngọc Minh và con trai, cô nhìn Ba Du hỏi:
      -Cậu Điểu Rút về rồi hả chú Ba?
      -Chưa về, ở lại đêm nay, vì giờ này ra bến không còn xe về Bình Long, tui kiếm chỗ cho cậu Điểu Rút ngủ lại tối nay rồi, chú Nam và Ngọc Minh ăn đi, đêm nay mình ra ghe lớn đi luôn đó
      Mỗi người ăn một ổ bánh mì và thêm vài cái bánh ú, Nam uống thêm ca nước nên có cảm giác chắc bụng hơn. Lắng nghe xung quanh rất yên tĩnh, không có âm thanh nào, cái bóng đèn nê-on tỏa ra ánh sáng màu trắng mờ mờ chỉ soi sáng được nửa căn phòng, Nam hỏi Ba Du:
      -Mình đang ở trong quận 5, Chợ Lớn hả anh Ba, không biết mấy giờ rồi?
      Ba Du gật đầu trả lời:
      -Khoảng 7 giờ tối, chút nửa sẽ có một gia đình người Hoa đến và gần 10 giờ khuya, mình sẽ ra bờ kinh, ghe nhỏ chở ra Cần Giờ, tại đó sẽ lên tàu lớn đi thẳng ra cửa biển Vũng Tầu và ra hải phận quốc tế.
      Ngọc Minh ngồi nói chuyện với cậu con trai của Ba Du, cô hỏi chuyện đi học ở trường, nó cười trả lời và có vẻ thích nghe Ngọc Minh kể chuyện về những con vật sống trong rừng núi quanh buôn.
      Bên ngoài đã khuya, không gian hoàn toàn im vắng, có tiếng bước chân bên ngoài, cánh cửa phòng bật mở, mọi người nhìn ra khoảng hành lang tối mờ mờ, người phụ nữ trung niên ban chiều dẩn năm người vào, họ gồm một cặp vợ chồng độ khoảng 35 - 40 tuổi, ba người kia là hai cô gái nhỏ và một thanh niên cở tuổi 18 – 20. Cả năm người lặng lẽ đến ngồi trên băng ghế ở góc trong và thì thầm nói chuyện với nhau, Nam nghe tiếng và đoán họ là người tàu trong Chợ Lớn.
      Cậu con trai của Ba Du tò mò nhìn hai cô gái nhỏ mới đến, ngồi im lặng trên cái ghế kế bên bà mẹ và hai túi vải buộc kín miệng, một lát sau cô gái nhỏ nhất có lẻ buồn ngủ nên nghẹo đầu dựa vào vai người mẹ ngủ ngon lành.
      Độ nửa tiếng sau, cánh cửa lại mở, lần này một người đàn ông dáng thấp lùn, lấy tay ngoắc Ba Du ra nói vài câu, Ba Du quay vào nói nhỏ với Nam và Ngọc Minh:
      -Mình đi ra ghe
      Cả bốn đi theo ông ta ra phía trước căn nhà, một chiếc xe tải nhỏ màu đen có mui kín đậu trong bóng tối, Ba Du dẩn cậu con trai bước lên cái thùng kín mít, Nam và Ngọc Minh khom người lên sau, hai người đàn ông lấy những cái thùng giấy chèn bên ngoài lên tận nóc mui, có tiếng đóng cánh cửa xe, vài giây sau chiếc xe nổ máy chạy ra đường phố.
      Ngồi trong thùng xe kín và tối đen, Nam nhận ra chiếc xe quẹo vài lần và sau đó đi thẳng, khoảng mười, mười lăm phút sau, nó từ từ dừng lại, một người đàn ông mở cửa phía sau xe, ông ta khiêng những cái thùng bỏ xuống đất, Ba Du và con trai xuống trước, Nam cầm tay Ngọc Minh bước xuống theo sau.
      Anh nhìn xuống con kinh phía trước mặt, vài chiếc ghe có mui kín nằm gần kè đá tối om, người đàn ông ra dấu cho Ba Du theo ông ta bước trên tám ván dài lên chiếc to nhất, mọi người dò dẩm trong bóng đêm, theo chân ông ta vào bên trong lòng ghe, và ngồi vào một góc. Nam nghe xung quanh có tiếng nói chuyện nho nhỏ, chắc họ là những người lên trước. Độ mười lăm phút sau, có thêm nhiều bóng người đi xuống và im lặng ngồi vào một góc gần đó, sau cùng hai cánh cửa trước mui được đóng kín lại, trong lòng chiếc ghe hoàn toàn tối om.
      Tiếng máy tàu bắt đầu nổ xình xịch, chiếc ghe nhẹ nhàng lui ra giữa con kinh, và quay mủi âm thầm chạy trên dòng nước đen tịch mịch. Ngọc Minh ngồi dựa vào vách ghe kế bên và nắm chặt tay Nam, chạy được một đoạn dài, chiếc ghe bắt đầu ra sông lớn vì anh cảm nhận nó dập dềnh khi lướt lên những cơn sóng, cứ thế nó chạy băng băng rất lâu trong bóng đêm.
      Nam đoán đã hơn một tiếng đồng hồ, nhìn qua khe hở nhỏ của miếng ván bên hông, bên ngoài là dòng sông lớn, nhìn vào trong bờ chỉ thấy lờ mờ những hàng cây dầy đặc trong đêm tối, chắc chiếc ghe đã chạy ra đến Cần Giờ.
      Chiếc ghe chạy rất lâu trên sông, Nam không biết là đã được bao lâu, cuối cũng tiếng máy cũng chậm lại, có vẻ đã đến nơi, nó rẻ vào một đoạn kinh vắng vẻ, cây cối um tùm, và dừng lại bên một chiếc tàu lớn đang đậu gần hàng cây cao, rậm rạp. Hai cánh cửa lại được mở ra, có ánh sáng cái đèn pin nhỏ và một người bước xuống ra dấu cho từng người một đi lên. Nam dẩn Ngọc Minh theo ánh đèn ra bên ngoài, theo sau Ba Du đang bế cậu con trai đưa lên sàn chiếc tàu lớn cho một người ở bên trên và nắm dây lưới leo lên, kế đến Nam cũng nắm dây leo lên, và lập tức phải đi xuống khoang theo chỉ tay của người đàn ông, một lát sau, bóng Ngọc Minh xuất hiện và bước xuống, một tay cô nắm chặt cái túi vải đeo trên vai.
      Nam cầm tay dẩn cô đi mò mẫm trong cái khoang khá rộng tìm Ba Du. Trong bóng tối có nhiều người đang ngồi bệt trên sàn gổ, một cánh tay thò ra nắm lấy tay anh, Ba Du ra dấu cho Nam và Ngọc Minh đến ngồi kế bên.
      Lát sau thêm khoảng chục người lớn, nhỏ nửa bước xuống khoang, rồi mọi thứ im lặng như tờ, không khí trong khoang nặng nề, những giây phút chờ đợi cho con tàu xuất bến có vẻ sao quá dài. Vài phút sau, nắp hầm được hạ xuống, tiếng máy nổ rì rào phía sau lái, chiếc tàu từ từ hướng mủi ra giữa dòng sông, trực chỉ ra cửa biển nhấp nhô sóng.
      Nam ngồi quàng tay qua vai Ngọc Minh đang ngả đầu dựa vào bờ vai của anh. Tất cả đều im lặng, chỉ còn nghe tiếng sóng rào rào chạy dạt vào lườn con tàu, thỉnh thoảng có tiếng chân đi ở sàn gổ bên trên.
      Chiếc tàu bắt đầu tăng tốc độ và lắc lư, Nam đưa tai áp sát mạn, rất lâu sau, anh nghe tiếng sóng ào ạt vổ mạnh vào lườn tàu, hình như đã ra tới cửa biển, bên ngoài trời vẩn còn tối om.
      Nam định chợp mắt trong chốc lát, nhưng trong lòng hồi hộp nên không ngủ được, còn Ngọc Minh thì đang say sưa ngủ có lẻ vì cả ngày hôm nay quá mệt mỏi, căng thẳng. Ba Du ôm cậu con trai vào lòng, hai mắt nó nhắm nghiền, cu cậu chắc cũng quá mệt, trong khoang nhiều người mệt mỏi dựa đầu vào thành tàu hay nằm lăn ra ngủ trên sàn gổ.
      Chiếc tàu phăng phăng lướt trên sóng nhiều giờ, tiếng bước chân đi lại phía trên dồn dập và nghe rỏ hơn, Nam cố nhìn qua khe hở cái sàn gổ, thấy ánh sáng lờ mờ, có lẻ trời đã gần sáng. Những cơn sóng hình như mạnh hơn, làm chiếc tàu đôi lúc lắc lư, nhưng tiếng máy của nó vẩn nổ đều và giòn tan, chiếc tàu mạnh mẽ hướng mủi cắt lên những con sóng biển tiến ra khơi.
      Nhiều tiếng sau, nắp hầm thông lên boong được mở lên, ánh sáng và gió mát ùa vào, một người đàn ông đi xuống thông báo:
      -Tàu đã ra đến hải phận quốc tế, bà con ở tại chổ, có người đưa thức ăn và nước xuống
      Mọi người choàng tỉnh và reo mừng, Nam cười và bắt chặt tay Ba Du, quay qua nói với Ngọc Minh:
      -Chúng ta ra khỏi hải phận Việt Nam rồi, vài ngày nửa tàu sẽ đến trại tỵ nạn trên đảo
      Ngọc Minh mỉm cười sung sướng, cô theo Nam, Ba Du và nhiều người khác sau một đêm, ngày căng thẳng, ngột ngạt dưới khoang, náo nức lên phía trên ngắm mặt biển trong xanh rực rở dưới ánh nắng.
      Những ngày kế tiếp, chiếc tàu hướng mủi về phía tây – nam lướt đi trên mặt biển lặng sóng tháng 4, Nam và Ngọc Minh ngắm những cánh chim hải âu bay nhẹ nhàng trên bầu trời xanh tự do và biển sóng chập chùng.
      Buổi trưa, sau bốn ngày lênh đênh trên biển, chiếc tàu chạy vào hải phận một nước Đông Nam Á, từ xa một tàu tuần duyên chạy đến, nhìn đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em đứng lô nhô trên boong, nhân viên trên chiếc tàu kia đã biết là dân vượt biên, họ thảy sợi dây thừng qua cho mấy người đàn ông ở mủi tàu và ra dấu buộc chặt lại và kéo chiếc tàu vượt biên vào một cái đảo có bải cát dài và hàng dừa xanh. Rất đông người đang đứng trên bờ nhìn ra, vài người cười và vẩy tay chào đón họ.
      Trong một góc đảo gần ghềnh đá, xác những chiếc ghe, thuyền của những người vượt biên may mắn được những chiếc thuyền khác của ngư dân, tàu buôn … cứu họ thoát khỏi lưỡi hái của tử thần và kéo vào đây, bây giờ bị sóng đánh tan nát nằm xiêu vẹo, bi thảm.

      * * *

      Gần một tháng sau ngày Nam vượt biên, Hai Tuất đột nhiên phát hiện là Nam không còn ra rẩy làm việc hay câu cá ngoài hồ. Ủy ban xã cho người vào lục xoát căn nhà tranh trống rổng chỉ còn lại vài bao bắp, đậu và những củ khoai nằm lăn lóc gần xó bếp, họ cho người vào tiếp thu.
      Và một buổi chiều, Điểu Sơn đến tìm Hai Tuất tại ngôi nhà bên bờ hồ, nghe người đàn ông S’tiêng nói, đến lúc này ông ta mới biết là Ba Du và Nam đã vượt biên, và đến được trại tị nạn trên đảo, Hai Tuất hướng đôi mắt buồn bã về phía bờ hồ bên kia, nhìn căn nhà tranh nhỏ bé đứng chơ vơ trên dốc đồi. Trước khi ra về, Điểu Sơn cầm một gói giấy bên trong có một số tiền khá lớn, và nói là của Ba Du gửi cho ông ta, số tiền này đủ cho Hai Tuất và bà xã mua một căn nhà ở Saigon và còn lại một số để làm vốn.

      Bây giờ đang tháng 6, thời gian này là mùa mưa ở Việt nam, những cơn mưa rừng xối xả trên vùng cao nguyên tây nam dọc biên giới kéo dài không ngớt, từ ngày này qua ngày khác, làm cho những cánh rừng thêm xanh và âm u.
      Một buổi sáng mặt trời lên cao và tỏa ánh nắng ấm áp sau nhiều ngày mưa như trút nước xuống những buôn làng trên dảy Trường Sơn, tỉnh Đắc Lắc, những người phụ nữ của một buôn thượng M’nông ở gần biên giới Miên ra rẩy để trỉa bắp, trồng lúa, họ bắt gặp một người đàn ông có khuôn mặt xương xẩu, tóc tai, râu ria dài, bù xù như người rừng, bộ quần áo kaki rách tơi tã. Ông ta đi chân không từ cánh rừng chồi về gần nơi họ đang cày, cuốc, thấy người đàn ông đi đứng như người mất hồn, đôi mắt lạc thần và tiến về phía họ, vài người phụ nữ hoảng sợ la hét, bỏ chạy về làng, lát sau vài thanh niên trong buôn cầm rựa, gậy chạy đến với tư thế sẵn sàng đánh trả nếu người đàn ông kia tấn công họ, nhưng người đàn ông mang nét rừng rú, hoang dại đó đi gần tới chỗ họ rồi đứng lại, và miệng lẩm nhẩm những câu mà những người dân trong ngôi làng M’nông này không hiểu ông ta muốn nói gì, vài người nghe loáng thóang đoán ông ta là người Kinh .
      Một người thanh niên sau một hồi lâu quan sát, thấy ông ta có vẻ vô hại, đói khát nên dắt về buôn. Họ gọi già làng tới, trong buôn nhiều người lớn, bé hiếu kỳ kéo đến xem người rừng lạc vào làng, vài đứa trẻ tinh nghịch nắm kéo cái áo rách tả tơi của ông ta rồi cười thích thú, vài đứa khác lấy những thanh tre khều khều hai ống quần tua rua và đôi chân trần bị gai góc, đá nhọn cắt tạo thành những vết thương đang nhiễm trùng làm độc.
      Già làng gọi vài người mang nước uống và thức ăn đến cho ông ta, được dân làng cho vài củ khoai, người đàn ông vố lấy ăn ngấu nghiến, rồi ngửa cổ uống sạch nước trong cái ống lồ ô to, có lẻ ông ta quá đói khát sau những ngày lang thang qua các cánh rừng già.
      Sau đó, dân trong buôn báo cho đồn biên phòng đến dẩn ông ta đi, tại đồn biên phòng, ông ta không trả lời những câu hỏi của mấy tay bộ đội đang cố tìm hiểu xem ông ta tên gì, từ đâu đến ... mà chỉ hướng đôi mắt lạc thần nhìn ra bên ngoài và luôn miệng lẩm bẩm những câu vô nghĩa. Họ lục xoát và tìm thấy cái bóp ở túi quần sau, trong mớ giấy tờ hoen ố, rả rời vì thấm nước có cái thẻ ghi họ, tên là Nguyễn Văn Có, chức vụ đội trưởng du kích, xã Minh Thạnh, huyện Bù Đăng, Bình Long.

      * * *
      Những ngày tự do và thư thả trên đảo, Nam cùng Ba Du lúc rảnh hay ngồi nói chuyện với nhau và nhắc lại những lúc nguy nan, kịch tính trong lúc đi tìm hai cái thùng đổ cổ.
      Nhớ lại chuyện Tư Có được Điểu Sơn dẩn đi vào rừng, không biết số phận ông ta ra sao nên Nam tò mò hỏi:
      -Điểu Sơn dẩn Tư Có vào rừng nhốt ở đâu và xử ông ta ra sao, có giết ông ta không?
      -Điểu Sơn biết rất rành mạch các khu rừng quanh buôn vì hay vào đó đặt bẩy, đào củ và tìm cây thuốc, nên khám phá ra vài cái hang bí mật ở giữa khu rừng, trong đó Điểu Sơn và Điểu Rút cất giấu những món tìm được khi đi rừng như súng, dao rừng, pin, dù … còn xót lại trong những năm chiến tranh, và Tư Có bị nhốt ở một trong những chỗ đó, họ không giết Tư Có mà cho ông ta uống một loại rể cây sẽ làm ông ta bị mất trí nhớ và quên hết mọi thứ, vì vậy Điểu Rút và Điểu Sơn vẩn sống yên ổn trong buôn.
      Ngừng lại vài giây nhìn ra biển xanh dập dờn sóng ngoài khơi xa, Ba Du rít hơi thuốc lá và nói tiếp:
      -Trước thời gian chú Nam lên mua rẩy, có lẻ Tư Có cũng đang âm thầm tìm kiếm hai thùng đồ cổ dựa theo tin tức mà những công nhân ở đồn điền trong thời chiến tranh làm nằm vùng cho việt cộng kể lại, nhưng họ chỉ không biết chính xác vị trí là ở nơi nào, rồi khi chú Nam lên đây xin sang nhượng lại khu đất đó, ông ta tiếp tục theo dõi mọi hành động của chú Nam, nhưng chưa tìm thấy bằng chứng nào, cho đến khi người đàn bà mất trí bị công an xã bắt vì đến ngủ trên đập và mấy cái cửa đập bị mở lên quá lớn, nước hồ tụt xuống nhanh bất thường, ông ta bắt đầu nghi ngờ nhiều hơn, và âm thầm theo dõi từ khoảng xa, và đêm đó phát hiện ra tui và chú Nam bên cái hầm giấu đồ cổ sau nhà tui, nhưng vì bản chất tham lam nên ông ta không báo lại cho bên công an và du kích xã biết, vì muốn chiếm riêng toàn bộ hai thùng đó, do đó nếu tối hôm đó không có Điểu Sơn nằm phục phía sau nhà, ông ta sẵn sàng giết chết tui và chú Nam để đoạt lấy các món đồ cổ đó …
      Nghe Ba Du kể lại, Nam cảm thấy vẩn còn thấy “lạnh gáy” vì tình huống chạm mặt tử thần chiều tối ngày đó, nhờ Ba Du dự liệu kỹ càng nên cả hai mới còn sống mà ngồi trên hòn đảo này.
      Rồi anh chợt nhớ đến hôm cùng Ngọc Minh đi lên thị xã An Lộc thăm bà cô, lúc chiều ra bến xe Ngọc Minh cho tay vào cái túi rồi đến vổ vai tay du kích đang hung hăng với người đàn ông ăn xin, và ngay sau đó bổng nhiên hắn trở nên “hiền hậu” sau cái vổ vai đó của Ngọc Minh. Nam đoán chắc là cô phải có bí mật gì đó, giống như mấy món thuốc chế từ rể cây rừng mà Điểu Rút, Điểu Sơn cho Ba Du uống để ngưng thở như người chết và cho Tư Có uống để xóa mọi ký ức và trí nhớ mà không cần phải giết ông ta.
      Một buổi chiều chỉ có Nam và Ngọc Minh ngồi kế bên nhau trên bãi biển, nhìn ánh nắng lấp lánh trên những con sóng từ ngoài xa vổ vào những ghềnh đá, anh cười và hỏi cô:
      -Ngọc Minh nè, hôm mà mình lên thị xã thăm bà cô đó, sao buổi chiều đó Ngọc Minh hay vậy, chỉ một cái vổ vai nhẹ mà tay du kích đó tha cho ông ăn xin vậy, nói anh nghe đi?
      -Ừ, em nói anh nghe thôi, tuyệt đối bí mật, đừng nói lại cho ai biết đó nghe, nếu nói cho ai biết, là em nghỉ chơi đó
      Nam cười gật đầu và hứa:
      -Ừa, hứa sẽ không cho ai biết chuyện này, Ngọc Minh nói đi
      -Đó là bột phấn được làm từ một loại hoa mọc ở vùng cao nguyên, khi ai hít trúng nó, sẽ bị lơ mơ một thời gian ngắn, bà ngoại của em biết rất nhiều loại cây cỏ trong rừng có thể dùng làm thuốc, và thường chế những loại rễ, lá cây thành thuốc chửa bịnh cho nhiều người trong làng, bà ngoại chỉ truyền những bí mật này lại cho cậu Điểu Rút, và sau đó cậu có chỉ lại một số cây lá cho chú Điều Sơn, loại bột đó em bỏ trong túi là mang theo dùng để phòng thân chứ không hại ai đâu.
      Nam nhìn Ngọc Minh mỉm cười, trong đầu anh thầm nghĩ, đâu ngờ cô người yêu nhỏ bé trong buôn Thượng ở vùng rừng núi xa xôi mang hai dòng máu, vừa Việt vừa S’tiêng trông rất hiền hòa đó lại có nhiều thứ bí mật kinh khủng đến như vậy.

      HẾT

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X