Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bí mật hai thùng đồ cổ

Collapse
X

Bí mật hai thùng đồ cổ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Bí mật hai thùng đồ cổ

    BÍ MẬT HAI THÙNG ĐỒ CỔ

    truyện dài: Vũ Phan


    NGƯỜI QUẢN GIA ĐỒN ĐIỀN CAO SU VÀ HAI THÙNG ĐỒ CỔ

    Vùng bán sơn địa phía đông nam Việt Nam là một cao nguyên đất đỏ bạt ngàn, loại thổ nhưỡng ở đây rất hợp với cây cao su, cà phê, trà...

    Người Pháp đem cây cao su vào Việt Nam để trồng thử từ khá sớm, bắt đầu từ những năm của thập niên 20 – 30. Sau đó thấy thành công, họ thành lập các đồn điền cao su rộng lớn trên vùng đất đỏ bazan này, trài dài từ Pleiku xuống cho đến tận Bình Long, Tây Ninh bằng cách mộ phu từ các tỉnh miền Bắc, vùng ven biển miền Trung vào khai phá các cánh rừng già nằm trên vùng cao nguyên phì nhiêu này.

    Sau nhiều thập niên tận dụng lợi thế đất đai, và nhân công rẻ mạt từ các miền quê Việt Nam, cùng với sự hổ trợ của nhà cầm quyền Pháp, đa số các chủ đồn điền cao su là Pháp kiều trở nên rất giàu có.

    Họ xây lên rất nhiều cơ ngơi, nhà cửa đồ sộ, nguy nga ngay trong các đồn điền này. Và chỉ một thời gian sau, họ thường đem cả gia đình từ Pháp qua trú ngụ, và hẳn nhiên họ có cả nhà cửa tại Saigon, Đà lạt, Nha Trang… để gia đình, con cái về sinh sống, học hành và vui chơi, nghỉ mát.

    Nam là một thanh niên đang sống với gia đình ở Saigon, do hoàn cảnh khó khăn sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, lại thêm ba anh mất sớm, nên phải nghỉ học nửa chừng. Vì vậy Nam phải bươn chải, lăn lộn ra đời kiếm sống, phụ giúp người chị nuôi bà mẹ hay đau yếu và hai em nhỏ.

    Nam có nghề buôn nông thổ sản, anh hay đi về giữa Saigon với các tỉnh đông nam bộ và tây nguyên nên rất quen thuộc với những con đường đất đỏ bụi mịt mù trong mùa nắng, lầy lội như cháo dưới những cơn mưa nặng hạt ở vùng cao bán sơn địa này.

    Nhờ có sức khỏe tốt và đầu óc nhanh nhạy, bắt đầu từ đó, anh và gia đình có cuộc sống tạm ổn. Nam giao thiệp rộng rải với giới buôn bán trong nghề, kể cả dân phá “sơn lâm”, chuyên mua bán, vận chuyển gổ, nông sản lậu…

    Nam còn nhớ khi ba anh còn sống trước năm 75, lúc đó vào khoảng những thập niên 50 – 60. Ông là tài xế lái xe bồn chở xăng dầu cho một công ty của Pháp ở Saigon. Trong mấy lúc nhậu nhẹt, lai rai với bạn bè, ba anh thường kể về những chuyến xe chở xăng dầu đến giao cho các đồn điền cao su tại các tỉnh Bình Long, Phước Long, Ban Mê Thuột. Các ông chủ đồn điền này vài tháng lại gọi về văn phòng công ty ở Saigon yêu cầu cung cấp hàng để họ chạy máy móc, xe cộ…

    Trong số đó, có đồn điền của một ông chủ Tây ở Hớn Quản, Bình Long, ông ta lấy một cô vợ Việt Nam rất đẹp ở Saigon, đồn điền này khá lớn, trải dài trên một vùng đồi đất đỏ, chạy dọc gần khu vực rừng núi với biên giới Campuchia.

    Cứ khoảng hai tháng, ba anh lại lái xe bồn lên trên đó để giao xăng dầu. Trong thời gian này chiến tranh ở Việt Nam còn chưa khốc liệt, các đồn điền cao su tư nhân vẩn hoạt động. Mỗi chuyến đi bắt đầu từ sáng sớm và mất đến bốn, năm tiếng đồng hồ, vào khoảng đầu giờ chiều xe mới đến đó, và phải mất thêm vài tiếng nửa để chuyển hết số xăng, dầu vào bồn chứa của đồn điền.

    Sau một thời gian dài làm công việc này, ông quen thân với người quản gia người Việt làm cho một ông chủ đồn điền, nên thỉnh thoảng họ mời ông ăn uống, thăm hỏi về công việc và gia đình.

    Rồi có đôi lúc, vì công việc quá trễ, ông phải ngủ lại qua đêm trong đồn điền. Những lúc này ba anh được nghe họ kể về sự giàu có của ông chủ Tây này, như nhà cửa, xe cộ… và những món đồ cổ Trung Hoa, các nước Đông Dương… quí giá mà ông ta sưu tầm được.

    Sau đó nhiều năm, cuộc chiến bắt đầu lan rộng ra khắp miền nam, quân du kích miền bắc lén lút xâm nhập vào vùng rừng núi, các khu đồn điền cao su và các trận đánh lớn với quân đội VNCH thường xuyên xảy ra.

    Các chủ đồn điền người Pháp lo lắng trước tình hình chiến tranh ngày càng dữ dội, họ tìm cách bán tài sản và lần lượt bỏ về Saigon hay chính quốc. Các chuyến xe bồn chở xăng dầu cho các đồn điền này cũng dần dần chấm dứt.

    Rồi ba anh kể tiếp, về Saigon bẵng đi một dạo, ông tình cờ gặp lại người quản gia cũ của đồn điền cao su Tây ở Bình Long, ông này tên Thức.

    Do cả hai biết và thân nhau từ nhiều năm về trước, ông Thức rủ ông về nhà chơi và lai rai tâm sự. Sau nhiều buổi nhậu chén anh, chén chú qua lại, trong một lần gặp nhau ở nhà ông Thức, ông ta bất ngờ kể cho ba anh về bí mật hai thùng đồ cổ của ông chủ Tây còn chôn giấu trong khu vực một cánh rừng có con suối chảy qua gần đồn điền.

    Người quản gia cho biết, khi thấy tình hình chiến tranh đang lan dần tới, người chủ bắt đầu chuyển những tài sản quí giá về Saigon.

    Rồi một bửa tối, bất ngờ ông Thức được chủ Tây gọi lên nhà riêng, đêm đã khuya mà còn bị kêu lên có công việc, làm ông Thức thêm suy nghĩ. Bà vợ Việt của ông chủ và hai đứa con Tây lai đã về Saigon hơn một tuần nay, không khí trong căn biệt thự rất vắng vẻ.

    Khi bước vào phòng làm việc, ông Thức thấy hai cái thùng gỗ khá lớn đặt nằm ngay giữa phòng. Gọi ông đến gần, ông chủ mới nói ý định là ông sẽ không đem những món đồ cổ này về Saigon, vì một số lý do, nên tối nay sẽ chở ra gần con suối ở góc phía tây bắc của đồn điền và chôn giấu ở đó. Có một điều là ông Thức không hiểu tại sao ông chủ Tây không chở luôn về Saigon, vì tình hình tuy có căng thẳng, nhưng khả dĩ xe cộ vẫn đi lên xuống được. Nhưng đã quen với công việc của người quản gia, nên ông gật đầu không thắc mắc.

    Hai người cẩn thận khiêng hai cái thùng gổ lên chiếc xe Jeep đang đậu sát cửa nhà. Trên xe đã có sẵn xẻng, cuốc và miếng vải bố nhà binh màu xám, kế bên là khẩu súng trường, rồi ông vòng ra phía trước, ngồi vào sau tay lái và nổ máy.

    Chiếc xe Jeep chạy theo hướng chỉ tay của ông chủ, âm thầm lướt qua các con đường đất đỏ dưới những tàn cây cao su trong đêm tối. Công nhân cạo mủ trong đồn điền đã bỏ đi gần hết vì sợ chiến tranh, khu nhà ở của họ chìm trong bóng tối âm u.

    Khi đã đến khu vực chỉ định, ông chủ Tây ra dấu cho xe dừng lại, rồi ông và ông chủ Tây khiêng hai thùng gổ nặng đi xuống bờ suối dốc cạnh đám rừng, tại đó có một hố đào sẵn trong lòng đất, phía dưới một vòm đá thấp. Sau khi nhẹ nhàng để hai thùng gổ nằm yên bên dưới, ông phủ tấm vải bố lên trên, ông chủ Tây không nói lời nào, cẩn thận lấp đất kín hai cái thùng lại và quay trở về.

    Về đến căn biệt thự, ông chủ Tây mới nói với ông là phải tuyệt đối giử kín, vì sau này khi chiến tranh kết thúc, ông ta sẽ quay trở lại sống trong đồn điền, đến lúc này thì ông Thức mới hiểu.

    Tháng sau, tình hình trong khu đồn điền căng thẳng hơn. Ông chủ Tây thấy vậy liền bỏ về Saigon, còn ông thì phải ở lại để coi sóc mọi thứ.

    Rồi những ngày sau đó, các toán lính bắc việt với vũ khí xuất hiện càng lúc càng đông trong khu rừng cao su, họ đào hầm hố nhiều nơi, không khí chiến tranh rất ngột ngạt…

    Vào một buổi trưa trong cái nắng lay lắt đầu mùa mưa, một trận đánh lớn nổ ra dử dội giữa quân bắc việt với lính VNCH, nhà cửa, kho tàng, máy móc… bị cháy rụi, đồn điền cao su bị bom, đạn tàn phá tơi tả, và đến lúc này ông Thức cùng gia đình cũng phải bỏ chạy về Saigon.

    Cuộc chiến tranh dai dẳng kéo dài 20 năm và chấm dứt sau ngày 30/4/75.

    Sau đó cuộc sống ở miền nam bị đảo lộn hoàn toàn, chính quyền cộng sản mới xóa bỏ mọi quyền tư hữu, họ tịch thu tất cả các loại tài sản, nhà máy, đất đai, phương tiện sản xuất, và khu đồn điền này trở thành nông trường cao quốc doanh. Vùng đất rừng xung quanh bị bom đạn cày xới tan nát trong chiến tranh nay trở thành các khu kinh tế mới, người dân Saigon bị đưa lên đây trồng khoai mì, khoai lang, bắp… để có cái ăn chống đói.

    Nam vì tò mò, nên tìm đọc lại những tài liệu về các đồn điền cao su của người Pháp tại khu vực Bình Long, giáp với vùng biên giới của Campuchia. Trong các chuyến đi buôn về khu vực này, anh giả vờ lân la hỏi thăm những nông dân sống lâu đời ở đây, họ nói nông trường cao su này là đồn điền Pháp ngày xưa, và chỉ cho anh xem ngôi biệt thự to lớn của ông chủ Tây, bây giờ gần như chỉ còn là đống đổ nát, hoang tàn. Nam bùi ngùi nhìn những bức tường rêu phong, loang lổ dấu đạn, bom, rồi tưởng tượng đến sự nguy nga của nó, cùng những món đồ cổ quí giá được trưng bày trong những tủ gổ sang trọng ngày trước…

    Sau khi suy nghĩ, tính toán kỷ càng, Nam quyết phiêu lưu với việc tìm kiếm hai thùng đồ cổ bị quên lãng này, dù anh biết khả năng thành công là rất ít.

    Sau 20 năm chiến tranh, bom đạn cày xới khắp khu vực đồn điền cao su và vùng rừng núi xung quanh, không chắc nó còn nguyên vẹn, địa điểm con suối thì mơ hồ, ở vùng này có cả chục con suối lớn nhỏ… Nhưng Nam quyết chí thử thời vận, nếu thành công thì cuộc đời sẽ thay đổi vĩnh viển, còn thất bại thì anh cũng không mất mát bao nhiêu.

    Tháng sau, Nam hỏi sang nhượng lại miếng đất rẩy của một ông nông dân ở khu vực phía tây-bắc, nằm gần ranh nông trường cao su. Ở trong khu rẩy này vì khuất và xa, nên cây cối còn rậm rạp bao quanh một cái hồ lớn do con suối ngày xưa, đã bị nông trường xây một cái đập chận ngang để lấy nước tưới tiêu.

    Có người thắc mắc hỏi, anh trả lời là muốn mua rẩy để tự canh tác, rồi sau đó đem nông sản về bán lại ở Saigon kiếm lời nhiều hơn, vì đi buôn càng lúc càng khó khăn.

    Nhờ quen biết mấy tay cán bộ ở địa phương, rồi chịu khó đút lót chút đỉnh cho mấy tay cán bộ ở xã này cũng đang cần “cải thiện”, nên việc mua bán, sang nhượng đất rẩy xong dể dàng.

    Sau khi hoàn tất giấy tờ mua đất, Nam xách ba-lô trong có vài bộ đồ vừa để mặc hàng ngày và khi làm rẩy, một số thuốc men linh tinh phòng khi đau yếu, các vật dụng cần thiết như diêm quẹt, dao nhỏ, đèn cầy… Và một túi xách tay có khoảng chục ký gạo, đường, muối, cá khô. Vì đã có vài lần được người chủ cũ dẫn vào đó, nên anh cũng đã rành đường đi, nước bước.

    Anh quá giang một chiếc xe máy cày của nông trường có rờ-mọc phía sau, thường dùng để chở công nhân đi một đoạn đường đến một lối mòn rẽ trái, anh xuống đi bộ thêm gần ba, bốn cây số nửa để đến khu rẩy nằm trên vùng chân đồi thấp thoai thoải về phía bờ một hồ nước.

    Người chủ cũ cũng tốt bụng, ông ta để lại tất cả cuốc, rựa, dao và linh tinh nồi niêu, xoong chảo cho anh xài.

    Những ngày đầu ở chỗ mới, Nam vác rựa đi dọc con suối nằm cuối miếng đất để nắm địa hình, nó chảy qua đây từ khu rừng cao su của nông trường nằm xa về phía bên trái hồ nước. Dòng nước len lỏi ra khỏi rừng cây, rồi chảy qua gần vùng rừng chồi tái sinh, và trườn róc rách như con rắn xuyên qua các tảng đá đen nằm giữa ranh miếng đất của Nam và đất bên kia, cuối cùng nó đổ vào hồ nước.

    Phần đất ở đây dốc và thường có nước từ con suối, nên các bụi cây và dây leo lên rậm rạp, mọc chen lấn với những khối đá lớn, nhỏ rải rác khắp nơi, vì người chủ cũ thấy nó là “khúc xương, khó nuốt”, không trồng trọt gì được, nên ông ta để nguyên, không khai phá.

    Nam nhìn lại khu rừng, có dòng suối chảy kề bên và so sánh, thấy thế đất khá giống như những gì ông Thức kể về cái đêm cùng ông chủ Tây đem chôn hai cái thùng đó.

    Hằng ngày anh cầm cuốc hay rựa đi ra vùng bờ hồ, chặt cây và cuốc, đào như đang dọn đất rẩy để chuẩn bị gieo trồng. Trong khu vực hẻo lánh này, cũng ít người qua lại, thỉnh thoảng Nam gặp vài người đi ở phía bên kia bờ hồ gần một cái làng nhỏ, lát sau, cái bóng nho nhỏ của họ khuất vào trong đám cây cối um tùm, quang cảnh lại trở nên vắng vẻ như cũ.

    Chiều anh trở về căn nhà tranh của chủ rẩy trước dựng lên làm chỗ ở, vừa là nơi chứa cuốc xẻng, phân bón và nông sản sau khi thu hoạch.

    Buổi tối ở vùng rừng núi đến nhanh, ăn qua loa cho xong bửa, Nam ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ to bên hàng hiên. Nhìn ra hồ nước, cảnh vật xung quanh im lìm, chỉ có tiếng côn trùng kêu rỉ rả. Khi màn đêm âm u buông xuống trên vùng bán sơn địa thưa người, trong ngôi nhà tranh nhỏ của anh nằm bên hồ nước, không khí lặng lẻ, u tịch pha chút lạnh lẽo.

    Anh nhận thấy việc truy tìm hai thùng đồ cổ này không dể dàng chút nào, sáng nay thử lội xuống chỗ suối chảy ra hồ nước, ở đoạn đó đáy dốc xuống sâu, sau nhiều lần lặn xuống, Nam phát hiện bên dưới làn nước lạnh và ngổn ngang nhiều thân cây, cành lá bị ngâm trong nước lâu ngày bám đầy rong rêu đã mục rã, anh thấy rờn rợn, nên không dám lặn sâu hơn nên vội vã trồi lên.

    Ngồi suy nghĩ đến gần khuya, sương đêm vùng rừng núi xuống dầy đặc, Nam thấy lạnh và cùng lúc cơn buồn ngủ kéo đến làm nặng hai mi mắt, anh vứt bỏ điếu thuốc hút dở và đứng dậy đi vào nhà.

    Đã hơn một tháng kể từ ngày Nam đến đây, thời gian trôi qua nhanh chóng.

    Gần cuối năm nên thỉnh thoảng cũng còn vài cơn cơn mưa kéo về vào buổi chiều và tối, nhìn những hạt mưa lạnh rơi xuống những luống bắp, đậu xanh, khoai rồi quét qua mặt hồ tạo nên làn bụi nước trắng xóa, chạy dài như những cơn trốt nhỏ chơi trò trốn tìm với nhau, làm Nam thêm nhớ nhà và cô bạn gái cũ ở năm cuối trường trung học.

    Cô bạn gái đó tên Thủy học ở một trường nữ sinh gần trường của anh, nàng có khuôn mặt nhỏ nhắn và nụ cười thu hút. Gia đình nàng từ Đà Nẵng chạy giặc vào Saigon năm 72, và họ mua căn nhà khang trang ở phường kế bên.

    Anh quen Thủy vào dịp học sinh các trường phải đi lao động mùa hè bắt buộc của chính quyền cộng sản ở một công trường đào kênh ở Thủ đức. Tuy hai người ở hai đội khác nhau, nhưng trên đường từ lán trại ra chỗ làm thì cách một khoảng xa, từ đó Nam có dịp làm quen và bất ngờ khi biết Thủy học gần trường của anh, cô cũng tỏ ra thích thú khi nghe anh nói cả hai học gần trường nhau.

    Từ đó họ thành bạn thân, và Nam cũng đã thầm yêu cô bạn này ngay trong lần gặp đầu tiên.

    Nơi công trường lao động tay lấm, chân bùn vào mùa hè đó, đã để lại trong tâm hồn Nam một kỷ niệm rất đẹp và nó khắc sâu mãi mãi vào cuộc đời anh.

    Tốp bạn của Thủy gồm nhiều cô nữ sinh đẹp và dễ thương nên nổi bật trong các đội đi lao động. Cho dù sau năm 75, cuộc sống rất khắc khổ dưới thời cộng sản cầm quyền, nhưng tâm hồn của những chàng thanh niên Saigon như Nam vẫn còn chất chứa nhiều lãng mạn, chân thực. Vì vậy quanh Thủy thường có nhiều chàng trai hay đến nói chuyện, làm quen, nhưng có lẽ do học gần trường nhau và Nam có vẻ ngoài hiền lành và nụ cười dể mến, nên Thủy lại thích trò chuyện với anh.

    Nam nhớ buổi chiều đó, suốt trên đường từ công trường về lán trại, anh cùng cô bạn gái mới quen vừa đi vừa nói chuyện. Đường về dài và phải lội trên những bờ ruộng nhỏ, đi qua những cây cầu khỉ trơn trợt, rất vất vả, nhưng sao hôm đó Nam thấy con đường về quá ngắn! Đến chỗ chiếc cầu sắt nhỏ sơn đen bắc ngang dòng kênh hẹp với màu nước cuộn phù sa vàng nâu, anh định nói chia tay Thủy và rẽ xuống chân cầu là nơi bọn con trai thường tắm sau mỗi chiều đi làm về. Nhưng thấy Thủy vẩn đi theo, trên tay cô cầm cái lon guigoz đựng thức ăn đem theo từ buổi sáng, Nam không biết nói sao, nên đành im lặng và bước xuống dòng nước đang chảy bên cầu tắm rửa như mọi khi.

    Chỗ tắm chiều nay vắng vẻ, không rõ mấy thằng bạn đi đâu cả rồi. Thủy nhìn anh xuống tắm dưới dòng kinh, rồi cười rất tự nhiên làm anh thêm bối rối, còn cô ngồi trên bờ vốc nước rửa tay chân.

    Trong khung cảnh thiên nhiên, buổi chiều dần xuống lặng lẻ trên dòng kênh, và hòa mình với màu xanh cây cỏ hoang vu trong gió, chỉ có hai người. Nam trầm người xuống dòng nước rửa sạch lớp bùn đất còn dính trên tóc, vai… rồi quay vào bờ. Chiều nay vẻ đẹp của Thủy làm anh ngẩn ngơ không hồn, anh vào bờ ngồi kế bên cô khoát nước rửa sạch hai bàn tay, chợt Thủy lấy cái lon múc nước dội nhè nhẹ và lấy tay kỳ cọ vai anh rồi cười nói:

    -Để Thủy xối nước cho anh Nam nhe!

    Anh quay qua nhìn Thủy và mỉm cười, hai tai như bị ù đi và mặt nóng bừng lên. Nam sung sướng quá, muốn giây phút đó kéo dài vĩnh viển, cả người anh như bay bổng lên mây, cảm giác thiên đường dường như đang rất gần!

    Giây phút đó Nam không biết nó kéo dài bao lâu, bộ óc anh bị tê liệt như vừa có một dòng điện mạnh phóng qua, nhưng nạn nhân của cú sốc đó không chết hay bất tỉnh, ý thức về không gian trong anh vẫn tồn tại dù rất mơ hồ.

    Bỗng nhiên có tiếng gọi tên anh từ trên chiếc cầu vọng xuống, Nam ngửng đầu lên nhìn, một thằng bạn ở cùng đội bị lọt lại phía sau, lúc này hắn ta mới lò dò về đến đây và đang tính đi xuống chân cầu để tắm như mọi khi. Thấy Nam được cô bạn gái đẹp dội nước lên lưng, hắn ta nhìn chằm chặp rồi cười, anh cảm thấy ngượng nghịu quá, không biết phản ứng ra sao, nhưng trong bụng thì vui sướng cực độ, nên cũng chỉ biết nhìn Thủy đang e thẹn mỉm cười.

    Chiều đó khi về đến lán trại của bọn con trai đóng trong một ngôi trường tiểu học nhỏ, mấy thằng bạn trong đội nghe thằng kia kể, liền xúm lại hỏi và chọc quê Nam hết cả buổi tối.

    Mấy ngày sau đó, có mấy thằng luôn đi kè kè theo anh, để tìm cách làm quen với mấy cô bạn của Thủy.

    Xong nửa tháng lao động hè, Nam hỏi xin địa chỉ và đến nhà thăm Thủy vài lần. Gia đình Thủy khá giả nên ở căn nhà xây lớn, mỗi lần đến nhà Thủy ngồi chơi, nói chuyện và sau khi ra về, anh ngậm ngùi nhớ đến cái xóm nghèo của mình, rồi vì thấy không thuận lợi, nên một thời gian sau đó Nam cũng ít ghé đến thăm Thủy, và mối tình cũng nhạt phai dần.

    Thêm tâm hồn anh hướng nội, hay suy nghĩ, Nam thấy cuộc sống dưới thời cộng sản quá kham khổ, nhìn những bửa ăn độn bo bo, khoai, sắn … mọi người bơ phờ, ngơ ngác làm anh không tha thiết mấy với chuyện tình yêu.

    Tuy thế khi rảnh rổi, anh hay nhớ đến cô bạn gái dể thương và kỷ niệm buổi chiều bên chiếc cầu sắt nhỏ. Những lúc trống trải, cô đơn, cây đàn gui-ta cũ là người bạn thân thiết của Nam, nhưng những muộn phiền của cuộc tình ngày đó vẩn còn đeo đẳng anh theo thời gian.

    Một hôm Nam đi chơi với mấy thằng bạn thân vừa về đến cửa nhà, bà chị bên trong đi ra gặp anh về liền nói:

    -Nam, có cô Thủy bạn mày vào chơi nhà cô bạn học cùng trường trong xóm mình nè!

    Nhìn người chị nhưng không biết nên nói câu gì, anh dựng chiếc xe đạp vào vách rồi đi vào nhà. Đâu ai biết, trong tim anh đang có nỗi buồn tựa như nỗi khổ hàng triệu người dân Saigon khác đang sống khắc khoải từng ngày sau năm 75.

    Mấy tháng sau, cô bạn trong xóm học chung với Thủy, ghé vào nhà cho anh biết là Thủy đã vượt biên, từ đó Nam không còn được biết tin tức nào về cô bạn gái mà anh đã thầm yêu.

    Từ ngày lên đây, Nam cũng trồng được vài sào đậu xanh, bắp, khoai lang, ít khoai mì… nhằm che mắt chính quyền và dân địa phương. Ở những vùng quê này, mọi dấu hiệu khác thường dể gây chú í, nên anh cũng tỏ ra siêng năng “lao động” để được yên ổn.

    Từ ngày chính quyền cộng sản vào đến miền Nam, người dân từ các vùng quê cho đến các thành phố lớn, ai cũng sợ bị người khác dòm ngó, tố cáo, nó không giống như không khí tự do, thoải mái ở Saigon trước năm 75.

    Ban ngày, ngoài lúc phải làm rẩy, thời gian còn lại anh thường rảo quanh khu bờ hồ và nơi con suối lớn chảy qua gần khu rừng chồi, nhưng cũng không tìm thấy dấu hiệu gì mới, tình hình giậm chân tại chỗ làm anh hơi nản chí.

    Sáng nay Nam tính vòng qua khu rừng chồi, băng qua con suối đi xa hơn về bờ hồ phía trên để xem ở đó có dấu hiệu gì lạ, anh xách theo cây rựa, bắp, khoai luộc và bình nước uống, rồi đi tắt ngang rẫy ra bờ hồ.

    Trong khu rừng chồi tái sinh cây cối lên um tùm, các bụi cây, cỏ dại mọc lan ra khắp nơi, ở xung quanh đó vẩn còn những hố bom, đạn đại bác cây cỏ mọc đầy và nước cạn xâm xấp dưới đáy. Mặt trời đã lên cao, nắng nóng khá oi bức, Nam ra bờ hồ ngồi nghỉ và uống nước dưới bóng cái cây to, kế bên con suối chảy ra từ rừng cao su.

    Hơi nước từ mặt hồ phả lên khá dể chịu, anh ngạc nhiên vì thấy có một chiếc xuồng gổ đang cột vào bụi cây ven bờ, từ chỗ đó có một con đường mòn nhỏ chạy khuất vào hàng cây. Nam còn đang suy nghĩ thì có tiếng bước chân đến từ phía sau lưng, anh quay lại và nghe một người đàn ông hỏi:

    -Chú vô đây tìm ai?

    Nam nhìn người đàn ông vừa mới đến, ông ta dong dỏng cao, trạc khoảng 35 - 40 tuổi, khuôn mặt có bộ râu tua tủa và đôi mắt soi mói, nước da ngăm đen của người làm rẩy lâu năm, đầu đội cái nón vải cũ, vành nón rách te tua.

    Cái áo nhà binh màu xanh ông ta đang mặc có hai, ba miếng vá, quần kaki đen cụt ngang gối, đôi chân trần đi trên đám cỏ xanh, tay cầm một thanh gổ dài như mái chèo, Nam nhìn ông ta trả lời:

    -Nhà tôi ở rẫy bên kia… tôi vòng qua đây đi quanh hồ

    Không chờ Nam trả lời hết câu, người đàn ông hỏi tiếp:

    -Tôi ở đây lâu rồi, nhìn thấy chú lạ quá, mua rẫy ở đây lâu chưa?

    Ông ta vừa hỏi vừa đi xuống bờ hồ, bỏ mái chèo vào chiếc xuồng và xiết chặt sợi dây cột vào mấy thân cây, rồi đi trở lên bờ.

    -Tôi ở Saigon lên đây mua đất làm rẩy được gần hai tháng, nhà anh chắc ở gần đây?

    Ông ta chỉ tay về hướng có con đường nhỏ từ bờ hồ chạy ngược lên hàng cây:

    -Rẩy của tôi ở phía này, từ con suối đi lên, tui ở đây gần năm năm rồi, khu này ít người ở, bửa nay mới biết chú mới đến mua rẩy trong này, lúc trước thỉnh thoảng có gặp ông Năm Lọ làm rẩy ở bên đó.

    Nam gật đầu và đưa gói thuốc lá ra mời, ông ta rút điếu thuốc, tự châm lửa từ cái hộp quẹt của mình, rồi tìm chỗ ngồi trên một mô đất dưới bóng cây. Ông ta nói chuyện với Nam bằng giọng Nam bộ và hỏi:

    -Chú ở quận nào dưới Saigon?

    Nam trả lời:

    -Tôi ở Phú Nhuận, gần cầu Kiệu, còn anh là dân ở đây hay chỗ khác đến?

    -Trước 75 tôi ở quận Gò Vấp, sau này đi kinh tế mới nên lên đây… ở dưới thành phố lúc này khó khăn quá.

    Nhận thấy ông ta cũng khá cởi mở, anh nói:

    -Tôi tên Nam, còn anh tên gì, thứ mấy?

    -Tôi tên Du, thứ ba.

    Trời nắng nóng, Nam cầm bình nước đưa ra mời, ông ta nhìn Nam, lắc đầu nói:

    -Tôi mới uống ở trong nhà ra…

    Ông ta thận trọng, có thể vì thấy anh lạ, Nam ngửa cổ làm vài hớp cho đỡ khát, bất ngờ ông ta đứng dậy và nói:

    -Lúc nào có dịp đi ngang qua đây chú vô nhà tui chơi nghe, ở đây ít người, có hàng xóm qua lại đỡ vắng vẻ…

    -Dạ, hôm nào có dịp tôi ghé lại nhà anh Ba.

    Nam đổi sang gọi ông ta bằng thứ như ở miền tây, và nhìn theo người đàn ông bước đi nhanh nhẹ trên con đường mòn nhỏ về phía căn nhà tranh.

    Đói bụng, anh lấy mấy củ khoai, bắp luộc đem theo từ sáng ra ăn trưa. Buổi trưa, mặt nước hồ thênh thang, tỏa ra hơi mát lạnh, lâu lâu ở phía xa có chiếc xuồng nhỏ và người ngồi giăng câu bơi chậm rải. Thường thì ở những hồ nước thông với những con suối từ các khu rừng vắng đổ ra có nhiều cá to.

    Nghỉ một lát sau bửa trưa, Nam đi dọc ngang dòm ngó khắp khu đất của mình, từ bờ hồ rồi vào trong cánh rừng cao su vắng bóng người trên dãy đồi cao cho đến tận chiều. Nhìn mặt trời đang dần lặn xuống ở khu rừng phía tây, Nam đi ngược ra lại bờ hồ ở phía trên đất của Ba Du, xuyên qua trảng cỏ nhỏ, rồi đến gần chân dốc đồi đá và rừng cây để quan sát. Các con suối đổ ra hồ nơi này thì nhỏ, Nam thấy không đúng với vị trí được ông quản gia đồn điền kể lại.

    Buổi chiều nay Nam đã đi gần hết khu vực quanh bờ hồ, cũng không tìm thấy có gì mới, anh quay về nhà vì trời cũng đã bắt đầu tối. Đi ngang qua chỗ anh gặp Ba Du lúc trưa, không thấy chiếc xuồng cột ở bụi cây, Nam đoán có lẽ ông ta đã chèo thuyền đi câu cá đâu đó trong lòng hồ rồi.

    Buổi gặp Ba Du vào ban sáng chiếm hết suy nghĩ của Nam vào tối hôm đó, anh suy đoán nhiều về người đàn ông này. Ở Ba Du như ẩn giấu điều gì đó, anh nghĩ sau năm 75, thời thế đảo lộn, thân phận con người cũng ba chìm, bảy nổi, nhiều người muốn che giấu danh tính, lý lịch của mình vì nhiều lý do. Linh tính và sự nhạy bén làm anh đoán ông ta không phải là nông dân, có thể vẻ bề ngoài đen đúa đó che dấu được người khác, và làm họ khó nhận ra thân phận thật của Ba Du.

    Mấy ngày hôm nay Nam làm việc quanh quẩn gần nhà, dọn cỏ cho đám đậu xanh và bắp vừa trỉa xuống từ mấy tuần trước.

    Xong công việc, anh ra bìa rẫy nơi có bụi trúc, chặt vài cây về làm cần, Nam có ý định đến ngồi câu ở quanh khu vực con suối chảy vào hồ để có dịp quan sát xung quanh và khu rừng chồi mà không bị ai để ý, và nếu có câu được cá thì có thêm nguồn thực phẩm cũng tốt.

    Buổi trưa, sau khi cơm nước xong, Nam xách cần câu ra ngồi dưới bóng râm của bụi cây lớn bên bờ hồ. Ánh nắng gay gắt chạy lăn tăn trên mặt hồ, Nam móc mồi vào lưỡi câu rồi quăng xuống, làn nước hồ trong xanh xao động nhẹ. Chọn mô đất khô ráo để ngồi, anh muốn tránh xa bọn kiến đen sát thủ đang đi săn mồi thành từng đoàn dài vì sợ những cái hàm sắc của chúng.

    Nam quan sát khung cảnh bát ngát xung quanh, nơi đây thật yên tĩnh, nhìn ra xa trên hồ, anh cố tìm Ba Du và chiếc xuồng, nhưng mặt nước vẩn mênh mông vắng lặng, một vài cánh cò trắng nhỏ bay la đà kiếm ăn ở khúc trên thượng lưu hồ.

    Mùa mưa vừa dứt nên lúc này các con suối chảy ra từ trong rừng vẫn còn nước. Nam theo dõi cái phao làm bằng miếng cao su đang trôi lờ đờ trên mặt hồ, thả mồi nãy giờ khá lâu mà chưa thấy cá cắn câu. Anh dựa lưng vào gốc cây cho đỡ mỏi, chợt một cuộn nước xoáy nổi lên chỗ bụi cây rậm rạp ven bờ của khu rừng chồi làm Nam chú ý, kế đến có tiếng sột soạt trong đám cây, rồi vài phút sau không gian trở lại im vắng.

    Cái phao động đậy, cần câu bị cá lôi đi, Nam nhanh tay giật mạnh, trên đầu dây câu một con cá chép khá to đang vung vẩy cái đuôi, anh mỉm cười, vậy là tối nay có món cá rồi.

    Gần về chiều, ngồi nán lại, câu thêm được vài con cá mè nhỏ, anh khoan khoái đứng dậy xách xâu cá đi về, chợt xuồng Ba Du xuất hiện từ xa, ông ta đưa tay chào Nam và gọi to. Anh cũng đưa tay về phía Ba Du đang chèo nhanh đến chỗ anh đứng, tới nơi chiếc xuồng chậm lại và cặp vào bờ, Ba Du tươi cười hỏi:

    -Câu được con cá nào không chú Nam?

    -Cũng được vài ba con anh Ba, đang tính đi về đây!

    Nam nhìn vào khoang xuồng xâm xấp nước, dưới đống lưới cũ màu xanh, có bốn, năm con cá khá to đang nhảy lạch bạch. Ba Du móc gói thuốc lá ra mời anh, cả hai ngồi hút thuốc trên mô đất ven hồ trong không gian hoang vắng của buổi chiều tà, chợt Ba Du lên tiếng:

    -Có mồi rồi, tối nay chú Nam qua bên tui làm sương sương cho vui, tui còn chai rượu thuốc để từ hồi giửa năm đến giờ, bây giờ tui về trước nghe, chừng hơi tối tối chú Nam qua!

    Nói xong Ba Du nhảy xuống xuồng nhanh nhẹ chèo về bờ hồ phía trên gần nhà ông ta, Nam nghĩ Ba Du đúng là dân Saigon, khoái kết bạn và nhậu nhẹt lai rai, nhưng mà có hàng xóm cởi mở, phóng khoáng như ông ta thì cuộc sống ở nơi đèo heo, hút gió này cũng đỡ buồn chán.

    Chiều tối Nam qua nhà Ba Du, hai người ngồi nhậu trên cái phản tre kê cao khỏi mặt đất vài ba tấc trong căn nhà tranh nhỏ, kế bên là gian bếp kê bằng ba hòn đá tròn, vài cái nồi lớn, nhỏ và ấm nước bằng nhôm ám khói đen kịt treo trên vách. Dọc theo vách là cuốc, xẻng, rựa, dao … ở phía trên cao là hai tấm ván gổ cao su dài làm kệ để mấy lọ muối, chai nước tương, nước mắm, mấy trái ớt…

    Món cá dưới hồ nướng than rất “bắt”, rau xanh thì dồi dào vì xung quanh nhà Ba Du có rất nhiều, Nam và Ba Du vừa lai rai, vừa nói chuyện về thời tiết nắng mưa, các loại giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng đất đai ở đây, tình hình cuộc sống cơ cực của dân Saigon hiện nay và nông dân quanh nông trường cao su này…

    Nam ngạc nhiên thấy kiến thức và sự hiểu biết của Ba Du rộng rải và sâu sắc, có rượu ngon và câu chuyện hợp ý, giữa anh và Ba Du dần dần cởi mở hơn. Nam hỏi thăm Ba Du về gia đình ở thành phố, Ba Du bỗng trầm ngâm, rót đầy ly rượu và nốc cạn, rồi kể:

    - Sau năm 75, vì là lính VNCH, nên tui bị đi học tập một thời gian ngắn, gia đình nghèo, do vậy cuộc sóng rất khó khăn, phải bươn chải đủ nghề để nuôi mẹ già, vợ con, mấy năm sau, nhà nước bắt ép người dân lên các vùng kinh tế mới sinh sống, gia đình tui cũng thuộc diện phải ra đi, vì trước đây lúc còn là lính, tui hay đóng quân ở vùng này, nên chọn vô đây, nghĩ vì nó cũng khá gần thành phố, đi về cũng dể dàng hơn, thời gian đầu tui định mang cả gia đình lên, nhưng sau một thời gian, thấy cuộc sống ở đây còn khó khăn hơn ở thành phố nhiều, đau ốm bệnh tật không có thuốc men, bịnh viện… nên tui cho bà già và vợ con quay về lại nhà cũ, còn tui ở đây một mình, làm rẩy mỗi mùa có thêm đậu, khoai, bắp … tiếp tế cho dưới đó.

    Nam ngồi lắng nghe Ba Du nói chuyện, anh hiểu phần nào cuộc sống của những người lính miền Nam sau ngày 30/4, nhìn căn chòi trống hoác, đồ đạc sơ sài, Ba Du kể tiếp:

    -Bà xã tôi sau một thời gian về thành phố ở với bà già và đứa con trai, ra chợ mua bán lặt vặt để kiếm tiền, rồi sau đó vì ăn uống kham khổ quá, và là phụ nữ sức yếu, không may bị bệnh và mất cách đây mấy năm rồi!

    Ba Du nói xong nhìn anh, hai người đàn ông cùng im lặng trong bóng tối mờ mờ của buổi chiều ở vùng rừng núi tịch mịch. Ba Du cầm ly rượu lên cụng nhẹ vào ly của Nam như nhắc anh uống, gắp một miếng cá nướng đưa cay, anh nói qua loa về mình:

    -Tôi cũng đang sống với bà già, bà chị và mấy đưa em ở Phú Nhuận, lúc trước đi buôn đường dài, rồi nhà nước ngày càng làm khó khăn, buôn bán đường dài không được bao nhiêu mà còn dể bị bắt và tù tội, nên tôi tính mua miếng đất rẩy trồng trọt để có chút đậu, bắp… nuôi gia đình.

    Ba Du thắc mắc, nhìn Nam và hỏi:

    -Sao chú biết mà đến vùng này mua đất ở đây?

    Dĩ nhiên Nam đâu dám nói thật cho Ba Du biết lý do, anh cầm ly rượu lên rồi suy nghĩ trả lời:

    -Lúc đi buôn có quen vài người dân ở vùng này, nhờ họ chỉ dẩn, nên mua ở đây luôn cho tiện!

    Nhìn cánh tay phải của Ba Du có dấu sẹo che hàng chữ xâm mờ mờ, Nam tò mò định hỏi, Ba Du cười nói:

    -Trước 75, tôi đi lính biệt động quân, mấy thằng bạn thân trong lính xăm đó!

    Nghe xong Nam cũng cười, đâu ngờ người nông dân hàng xóm của anh là sắc lính dử dội đó, anh dư biết những hàng chữ đó là khẩu hiệu của những người lính biệt động quân khi xung trận, anh thấy cảm phục Ba Du. Chai rượu dần hết sạch theo câu chuyện của hai người đàn ông, bóng tối dần xuống trên dãy rừng xa xa bên kia bờ hồ.

    Cả hai ra trước hàng hiên ngồi hút thuốc trên khúc gỗ dài, những cơn gió chiều cuối năm đem theo hơi lạnh từ vùng rừng núi xa xôi ở phía bắc về làm se sắt lòng người.

    Hút hết điếu thuốc, thấy trời cũng đã tối, Nam đứng dậy và chào Ba Du ra về. Tiếng côn trùng vang lên rền rỉ trong bóng chiều tàn, thỉnh thoảng vài tiếng kêu, lẩn tiếng vổ cánh của các loài chim ăn đêm nghe rỏ trong không gian u tịch. Ba Du đưa tay ra bắt lấy bàn tay của Nam và siết nhẹ, anh cảm thấy có một niềm vui nhỏ trong lòng. Vừa quay người dợm bước xuống con đường mòn, anh nghe Ba Du gọi phía sau:

    -Chờ chút chú Nam!

    Nam hơi ngạc nhiên, dừng lại, Ba Du quay vào trong nhà, lúc sau đi ra đưa cho anh một cái đèn tự chế bằng mấy cục pin quân đội cũ và cây gậy có một đầu nhọn. Ba Du chỉ cho anh sợi dây để đeo cái đèn lên vai, rồi đấu nối sợi dây điện vào cục pin để đèn sáng lên, Nam mỉm cười, cám ơn rồi ra về.

    Nhờ có cái đèn chế bằng mấy cục pin quân đội cũ, và cây gậy làm vũ khí trên tay, Nam thấy yên tâm hơn khi lội bộ trong bóng tối mờ mờ ven con đường dọc bờ hồ.

    Đi cách nhà Ba Du được một đoạn khá xa, Nam theo con đường vòng vào phía trong để tránh đám rừng chồi ở ranh giới giữa rẩy của anh và Ba Du. Trong bóng đêm, đám cây rừng trông âm u kỳ lạ, anh thấy hơi lành lạnh, không biết vì sương đêm hay lo sợ.

    Những ly rượu ban chiều làm Nam hơi chếnh choáng, nhưng nó cũng làm cái gan anh to hơn lúc bình thường. Anh tiếp tục bước nhanh và lia cái đèn về phía đám cây tối đen, khi đến đoạn đường ôm sát những lùm cây um tùm, Nam nghe có tiếng sột soạt con vật nào đó đang chạy trong đó giữa các bụi rậm, làm rung lắc cây lá, rồi sau đó mọi thứ lại im lặng trở lại. Anh hơi tò mò nhưng rồi vội bước nhanh hơn, Nam đi trên các tảng đá để băng qua con suối, về hướng căn nhà nhỏ hiện ra mờ mờ ở khúc quanh trên dốc đồi.

    Trời đã khá khuya, Nam đứng trước cửa nhà nhìn về đám rừng chồi đang chìm trong màn đêm, đầu óc nghĩ ngợi vì những điều lạ lùng, khó hiểu mà anh thấy từ lúc về đây.

    Đây là vùng đất hoang vu, trong thời chiến tranh, bom đạn của các trận đánh nhau tàn phá khắp nơi, và có một điều chắc chắn là nhiều dân thường và lính tráng ở hai bên chết trong khu đồn điền cao su này.

    Nghĩ đến đây Nam thấy ớn lạnh, anh không tin có ma quỷ, nhưng sống một mình cũng thấy cô đơn lạnh lẻo giữa rừng núi, dù sao nơi thâm sơn cùng cốc này có được người hàng xóm như Ba Du thì cũng yên tâm hơn.

    Sáng hôm sau, Nam dậy trễ vì hôm qua uống khá nhiều rượu ở nhà Ba Du, làn gió lạnh của thời gian cuối cùng trong năm làm anh tĩnh táo dần, mặt trời vẩn chưa lên rỏ trên dãy đồi phía đông. Đứng trước căn nhà nhìn về phía đám bắp xanh tốt đã có trái to, khoảng ba, bốn tuần nửa thì vừa thu hoạch.

    Năm nay bắp và đậu xanh trúng mùa, ít bị sâu bệnh và thú hoang như sóc, chim … ra phá phách. Tối qua nghe Ba Du kể, có nhiều năm không rỏ vì lý do gì, đến mùa thu hoạch cuối năm như thời gian này, các loài thú trong rừng tràn ra rẫy cắn phá hằng đêm, đến lúc thu hoạch thì chẳng còn được bao nhiêu.

    Ăn sáng qua loa với cơm nguội và cá kho sẵn từ chiều hôm qua, Nam nấu nước uống trong cái ấm nhôm ám khói đen, bắc trên cái bếp bằng ba cục đá to lấy từ con suối về.

    Buổi sáng đầu ngày, vì đang là mùa khô, Nam ra xách nước từ giếng về đổ vào cái thùng phuy cụt ở sau nhà, ông chủ nhà cũ có lẻ tìm được nó trong khu nhà ở của công nhân trong đồn điền cao su và đem về xài. Bên hông thùng còn dấu những lổ đạn bắn xuyên qua, được ông ta trét kín lại bằng mấy miếng vải bao bố cũ xé nhỏ tẩm nhựa hắc ín, rồi nhét vào đó để nước không chảy ra. Còn việc tắm táp, buổi chiều, anh thường ra ngoài hồ cho đỡ phải vất vã xách nước giếng.

    Xong công việc, anh lấy cái nón vải cũ kỹ đội lên đầu và cầm theo cây rựa, sau khi lội một vòng ra rẩy, Nam đi ngược lên phía bờ hồ nhà Ba Du dưới bầu trời nắng nhẹ buổi sáng, mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn theo từng cơn gió từ phía đông bắc thổi về. Trong các bụi cây và cỏ dại mọc xanh um tùm gần bờ hồ, vài con chim nhỏ vụt bay lên cao khi nghe tiếng chân anh bước loạt soạt đến gần.

    (còn tiếp)

  • #2
    Bí mật hai thùng đồ cổ


    Bỗng Nam nghe có tiếng nói chuyện của hai người đàn ông, từ phía bên phải của khu rừng vọng đến chỗ anh đang đứng quan sát dòng suối. Anh quay về hướng đó, và tự hỏi có ai lại vào đây lúc sáng sớm, nghe tiếng nói chuyện thì không phải Ba Du.

    Một lúc sau, Nam thấy hai người đàn ông, một người trung niên độ khoảng 35 – 40 tuổi, nét mặt xương xương, nước da xanh tái, đầu đội nón vải xám và mặc cái áo bộ đội cũ, cái quần tây bằng vải ni-lông đen, mà mấy ông du kích miền nam hay mặc khi ra làm việc ở trụ sở các địa phương sau ngày "giải phóng". Tay thanh niên còn trẻ, khoảng trên dưới 20 tuổi, hắn ta đeo cây M-16 trên vai, cách ăn mặc làm Nam nhận ngay ra đó là du kích địa phương .

    Anh nhìn người đàn ông thấy hơi quen quen, nhớ lại lúc lên trụ sở xã lúc làm giấy tờ sang nhượng đất, có gặp ông ta một vài lần, lúc đó đang nói chuyện với tay chủ tịch xã, đeo sắc cốt chéo qua vai, chân mang đôi dép râu. Nam nghe ông chủ tịch xã gọi ông ta là Tư Có, có lẻ người đàn ông là đội trưởng du kích ở xã này.

    Hai người kia vừa bước qua khỏi đám rừng cây cũng thấy anh, tay đàn ông trung niên bước đến chỗ Nam đang đứng, tay du kích lẽo đẽo theo sau. Cả hai ngừng nói chuyện, ông ta đi qua đám cỏ cao ngang gối, nhìn Nam với vẻ soi mói:

    - Anh là người mới tháng trước tui gặp lên xã làm giấy tờ chuyển nhượng lại đất này của ông Năm Lọ phải không?

    Nam nhìn thoáng khuôn mặt và đôi mắt nhỏ hơi đục của ông ta:

    - Dạ đúng, lúc đó tôi lên xã để làm xác nhận giấy tờ với ông Năm cho đúng thủ tục và đăng ký với địa phương, có phải anh là xã đội trưởng Tư Có phải không?

    Ông ta gật đầu, nhìn cây rựa Nam đang cầm trong tay:

    - Anh tên gì, đi thăm rẫy hay sao sớm vậy, đậu, bắp… năm nay tốt không?

    - Tôi tên Nam, thấy cũng không tốt lắm!

    Nam không dám nói rẫy bái tốt, làm dân thời buổi bây giờ phải khôn, không thì cũng mệt với mấy ông chính quyền xã vụ thuế má, hay kiếm chuyện bắt đóng góp này nọ cho xã. Tay du kích đứng nhìn Nam lom lom, thỉnh thoảng hắn rít điếu thuốc lá, nhả từng bụm khói khét lẹt và nhìn bâng quơ qua bên kia bờ hồ.

    Tư Có đưa tay xốc lại cái sắc cốt màu nâu đen, anh đoán trong đó có khẩu súng ngắn mà mấy tay đội trưởng du kích hay xài. Ông ta im lặng bước ngang qua mặt Nam và đi ngược về phía căn nhà của anh, tay du kích theo Tư Có đi dọc bờ hồ rồi khuất dần.

    Hôm nay, anh định vào bên trong đám rừng chồi để tìm dấu vết hai thùng đồ cổ của chủ đồn điền Tây chôn giấu, nên Nam rất đề phòng, do đó khi Tư Có và tay du kích xuất hiện ở khu vực này, làm anh thấy thắc mắc.

    Anh suy nghĩ, không biết Tư Có và tay du kích chỉ đi tuần như mọi khi, hay họ đi qua ngọn đồi bên kia để săn bắn, phía bên đó đi thêm khoảng 5 - 10 cây số nửa là đến vùng rừng già rậm rạp ngày xưa thuộc mật khu cũ chạy dài lên tận biên giới Campuchia, còn khu vực này chỉ còn rừng chồi, đâu còn thú rừng mà săn bắn.

    Anh tính khi gặp Ba Du sẽ dọ hỏi về tay đội trưởng này để biết rõ thêm, dù sao Ba Du cũng đã ở đây gần năm, sáu năm, chắc hiểu rõ về Tư Có hơn anh.

    Thấy họ đã đi xa, Nam tiếp tục tìm kiếm quanh khu rừng chồi, ở đây các nhánh cây, tầng lá rậm rạp và dây leo quấn quanh thân cây xù xì, làm đám rừng thêm âm u tối tăm, nó như một bức tường thành màu xanh chắn ngang lối đi từ hướng rẩy của Nam ngược lên phía đất của Ba Du.

    Cách đây gần một tuần, Nam cũng đã lội vào đám rừng, nhưng hôm đó không mang theo rựa, nên anh không vào được bên trong vì đám dây leo và các bụi cây gai góc chằng chịt bên dưới.

    Lần này, anh đi sâu vào giữa khu rừng để tìm kiếm manh mối chỗ chôn giấu hai cái thùng, vì chỗ này không quá xa nơi dòng suối đổ ra hồ nước. Dùng rựa dọn lối đi qua đám dây leo và bụi rậm, Nam thận trọng tiến vào, không khí càng vào sâu bên trong càng im vắng. Nghe tiếng động của chân người dẫm lên cành khô và lá bên dưới, vài con chim nhỏ nhanh nhẹ phóng vọt lên các cành cây cao, rồi tò mò thò đầu xuống quan sát và vung vẩy cái đuôi ngắn ngủn qua lại như thách thức kẻ đang xâm nhập vào lãnh địa của nó.

    Không khí âm u trong khu rừng làm Nam thấy nặng nề, khó thở, anh cầm cây rựa phạt mạnh, chặt đứt những sợi dây leo thòng xuống che khuất lối đi, có lúc phải chặt thêm vài ba nhát nữa, mới dọn được cành lá đế lấy lối đi. Tiến lên thêm một đoạn vào gần bên trong, các bụi cây thưa dần, chỉ còn những thân cây to và các loại dây leo bò quấn quanh từ gốc lên tận bên trên các nhánh.

    Nền đất bên dưới phủ một lớp lá vàng khô, những cái rể cây sần sùi nổi lên trên mặt đất giống những con rắn lớn, lan tỏa trong không khí là mùi ẩm mốc của lá mục, các nhánh cây chết lâu năm đang phân hủy.

    Ở đây không thấy có dấu hiệu của những con thú như mễn, nhím, sóc … Nam bước lên lớp lá khô mục, từ từ quan sát xung quanh và đi ra gần bờ hồ. Trên đầu, các tầng lá giao nhau che kín, thỉnh thoảng mới lộ ra vài khoảng hở với màu trời xanh bên trên.

    Nam cố gắng quan sát để tìm các dấu hiệu khác thường, nhưng ngoài dây leo, bụi rậm mọc trùm lên thân cây, các tảng đá nằm chồng chất khắp nơi, anh không tìm thấy được dấu hiệu nào lạ.

    Nam trở ra theo lối cũ của lúc đi vào, bên trong đó bít bùng và độ ẩm cao làm anh thấy ngột ngạt nên mồ hôi ra ướt đẫm áo. Dùng rựa phạt đứt cành lá, dây leo lòng thòng đang cản lối, Nam cố bước nhanh ra ngoài, bầy kiến rừng đen làm tổ bên dưới những gốc cây và các tảng đá bị đánh động vì có người dẫm lên khu vực sinh sống của tụi nó, liền xông ra và bám vào chân tay Nam để đốt, gây ra những cơn ngứa ngáy, bỏng rát rất khó chịu.

    Anh bước ra như chạy cho đến khi thoát ra được bên ngoài, không khí mát mẻ từ hồ nước theo gió thổi qua thật dể chịu. Hít vài hơi thật sâu vào buồng phổi, Nam lấy tay phủi mạnh những con kiến đang hung hăng đang tìm cách cắn, đốt hai cánh tay và hai bàn chân. Ra đến bờ hồ, Nam lấy tay vốc nước rửa sạch lớp bụi bặm dính trên khuôn mặt và thò tay chân xuống ngâm dưới hồ nước, làm dịu bớt những vết đốt của lũ kiến và côn trùng trong đám rừng.

    *
    * *

    Mặt trời đã lên khá cao, thời tiết tháng chạp vùng bán sơn địa Bình Long vào mùa đông tương đối dễ chịu, tuy nhiên về ban đêm, nhiệt độ cũng xuống thấp nên khá lạnh.

    Mấy hôm nay anh loay hoay nhổ cỏ, chăm sóc, bón thêm phân cho đám đậu xanh đã bắt đầu lên cao, rồi xoay qua làm cỏ, tưới nước cho đám bắp. Nhiều đám đậu và bắp bị bọn cào cào, dế, chuột … tràn ra cắn phá, chưa có kinh nghiệm với mấy vụ này, Nam chưa biết cách phòng trừ đám côn trùng này ra sao.

    Anh mỉm cười và suy nghỉ trong bụng, đi tìm đồ cổ đâu không thấy, biết đâu chừng anh lại trở thành một tay nông dân chính cống. Thành phần mà mấy ông chính quyền cộng sản sau năm 75 hay ca tụng là giai cấp công – nông ưu tú lãnh đạo đất nước, được mạnh mẽ tuyên truyền trên báo chí và ra-điô.

    Chắc phải qua gặp Ba Du để hỏi kinh nghiệm xem cách phòng chống mấy con cào cào, dế … này ra sao, Ba Du đã làm rẫy cũng ba, bốn năm rồi thì chắc biết rành vụ này, còn không thì đến lúc thu hoạch chẳng sót lại bao nhiêu.

    Mang cái đèn tự chế mượn hôm trước qua trả lại Ba Du, Nam đi vòng khu rừng, băng ngang con suối qua phía trên. Những cây bắp trên rẫy Ba Du xanh tốt, và đã có trái to vì được trỉa hạt sớm hơn, đám khoai lang thì Ba Du trồng trên diện tích lớn, đến hôm nay các nhánh của nó bò xanh um trên mặt đất, gần khoảnh đất bên hông nhà, Ba Du trồng đậu xanh, nay cũng đã lên cao ngang đầu gối, đám đậu xanh tốt lắc lư mấy cái ngọn nhỏ theo luồng gió thổi lên từ hồ nước.

    Phía trước căn nhà tranh im lìm, cánh cửa tre đóng kín. Trong sân đàn gà năm, sáu con, cả trống lễn mái đang nhủi đầu bươi dưới gốc mấy cây mít và điều, khi Nam đến gần, cả đàn bỏ chạy ra xa và nghểnh đầu lên kêu táo tác.

    Con chó Ki không nhớ hơi Nam, nó nằm bên trong sủa văng vẳng. Hôm anh đến nhậu với Ba Du chủ nó, lúc đầu nó hậm hực nhưng bị Ba Du la, nên chạy lui ra góc nhà nằm ở đó, thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn anh và Ba Du xem có bỏ cho nó miếng xương cá nào không. Ba Du có vẻ thương nó, vì trong cái hóc bò tó này, nó là bạn chí cốt của Ba Du trước khi anh đến, chứ xung quanh đây có ai nửa đâu, lâu lâu Ba Du lại gắp miếng xương bỏ xuống, nó chạy đến ăn ngon lành lắm.

    Lúc sau nó có vẻ nhận ra người quen, nên nó bớt sủa, và chỉ đứng gườm qua khe vách thưa. Đi theo lối mòn nhỏ ra bờ hồ nơi Ba Du hay cột chiếc xuồng ở đó, Nam dừng lại dưới gốc cây, nhìn ra mặt hồ mênh mông, nhưng không thấy Ba Du và chiếc xuồng đâu, anh đoán chắc Ba Du đã đi đánh bắt cá rồi, nhìn hồ nước mênh mông và rừng cây mọc xanh ven bờ, Nam thấy nếu có dịp chèo lui tới trên cái hồ rộng này để đánh bắt cá như Ba Du cũng thích thú. Anh nghĩ hôm nào rảnh rỗi, qua hẹn trước và xin Ba Du đi theo đánh bắt vài chuyến, sẵn đó quan sát cho biết hết địa thế của bờ hồ quanh khu này.

    Nghe người dân ở đây kể lại, hồ này lớn và dài, phần cuối của nó giáp với những cánh rừng già ngày xưa là chiến khu, từ đó có thể đi theo các con đường mòn xe be vào khai thác gỗ, và của người thượng đi lên tận biên giới Miên.

    Thêm nữa Nam cũng thuộc loại ưa phiêu lưu, xưa nay sống ở thành phố lớn, đã quen với không khí đô thị tiện nghi, đường xá, nhà cửa rộng rãi, nay vào đây, máu thanh niên trẻ nhìn cảnh rừng núi bạt ngàn, sông hồ bát ngát, hoang vắng nên cuồng chân muốn đi đây, đi đó để khám phá.

    Đang mông lung nghĩ ngợi, bỗng Nam chú ý đến dáng một người đàn ông đang đi dọc bờ hồ khá xa ở phía trên, ông ta vừa đi vừa quan sát cây cối, bụi rậm chen lẫn với những tảng đá nằm rải rác khắp nơi, rồi đi một đoạn nữa về phía nhà Ba Du. Nam bắt đầu thấy rõ hơn dáng đi của ông ta, cái sắc cốt đen đeo trên vai và bộ quần áo làm anh nhận ra đó là Tư Có, tay đội trưởng mà mới cách đây vài ngày, ông ta cùng với tay du kích đi lòng vòng trong khu này. Nam ngồi thấp xuống phía sau một thân cây, xung quanh có vài bụi rậm mọc cao quá đầu gối, kín đáo nhìn xem Tư Có làm gì vào đây mà chỉ có một mình.

    Mấy ông du kích ở vùng sâu, vùng xa này có thể hét ra lửa chứ chẳng kém ai đâu, dân thành phố bị đưa lên vùng kinh tế mới trên này, kể cả nông dân cũ có gốc tích ở đây từ ngày xửa ngày xưa cũng sợ, cũng không dám đụng đến.

    Lúc còn chiến tranh, mấy ông du kích này ở trong rừng sâu thiếu thốn đủ thứ, họ sống và tồn tại nhờ vào sự che giấu, giúp đỡ của những người nông dân chân đất ở đây và trong đồn điền cao su. Thế nhưng sau chiến tranh, nhiều nông dân thất vọng vì sự giúp đỡ của họ bị lãng quên, hơn thế, nhiều nơi họ cũng bị đối xử tệ bạc như những người dân khác của chế độ cũ.

    Nam quan sát Tư Có đi từ phía bên hông trái ra cái sân nhỏ trước nhà Ba Du, ông ta gần như cố nhìn vào trong căn nhà. Con Ki im lặng sau khi Nam bỏ đi ra bờ hồ, bây giờ đánh hơi có người lạ đến gần, nó sủa không ngớt, tiếng nó vang vọng trong căn nhà vắng. Tư Có bước đến gần vách tre thưa để nhìn vào phía bên trong, sau một hồi quan sát ông ta cầm khúc cây trên tay đập mạnh vào tấm phên cửa sổ làm con Ki càng sủa dữ hơn. Quay bước ra góc sân trái, Tư Có đứng nhìn đám bắp và đậu xanh đang lên xanh tốt, nét mặt lạnh lẻo như đang suy nghĩ chuyện gì.

    Trước khi rời khỏi sân nhà Ba Du, ông ta nhìn xung quanh bờ hồ, và phía căn nhà của Nam, rồi lội ngang qua rẫy đi về phía rừng cao su của nông trường.
    Đợi bóng Tư Có khuất hẳn, Nam thận trọng đứng dậy quan sát, vì biết đâu còn tay du kích nào đó đi lọt lại phía sau.

    Nam tò mò muốn tìm hiểu xem Tư Có tìm kiếm thứ gì khi ông ta đi qua mấy chỗ đó, anh bước theo lối mòn nhỏ bên bờ hồ, rồi đi dọc hàng cây trước sân nhà Ba Du, con Ki đứng ở phía bên kia gầm gừ nhìn qua, nhưng không sủa, chắc là cái vách phía sau có lỗ hổng nên nó chui ra được. Khi Nam kêu nó, tiếng gầm gừ im bặt, nó quay trở về nằm trước sân nhà, anh đi ngược về hướng Tư Có lúc nảy vừa đi qua, đất chỗ này dần lên cao thoai thoải đến sát dãy đồi. Vừa đi vừa quan sát dấu chân ông đội trưởng còn lưu lại trên đám cỏ bị ngã rạp xuống, ông ta có lúc đi men bờ hồ, lúc lại đi sâu vào bên trong, khó biết ông ta đang tìm cái gì.

    Càng đi sâu về phía trên này, cây cối mọc xen lẩn các tảng đá tạo nên khu rừng chồi nằm giáp với rừng cao su của nông trường, có lẻ ranh đất của Ba Du cũng ra đến chỗ này, nơi có hàng tre mọc dầy kín, nhìn những dấu chân của Tư Có vừa đi qua những bụi cỏ thành một vệt kéo dài từ rừng cao su, Nam đoán ông ta đi ra từ nơi đó.

    Nam đi lên tận nơi cao nhất của dãy đồi, và nhìn về phía sau, thấy căn nhà của Ba Du nằm lẻ loi trên chân dốc chạy thấp dần xuống hồ, phía trước là hàng rào cây xanh che chắn. Xa hơn nữa là con suối chảy ra hồ nước, bây giờ nó như một đường chỉ ngoằn ngoèo cạnh khu rừng chồi rậm, còn căn nhà của anh thì nằm xa hơn về phía dưới.

    Thấy đã đi quá xa, Nam quay trở lại, anh đi ngang đất Ba Du, lội xuống con suối, qua rẫy khoai mì về nhà.

    Nhìn những cụm mấy xám vần vũ trên cao, và những hạt mưa lất phất bay, gió mùa đông bắc đang thổi về, đêm nay và sáng mai chắc trời trở lạnh.

    Về nhà ăn trưa xong, anh nằm ngủ một giấc lấy sức, không gian yên tĩnh của rừng núi và cơn gió dịu mát dẩn anh vào giấc ngủ lúc nào không hay.

    Nam mơ thấy mình câu được một con cá rất lớn, cái cần câu bị cong oằn lại dưới sức nặng của nó, mỗi lần anh cố kéo nó lên khỏi mặt nước, nó liền vùng vẩy chống cự rất mạnh, cái thân to dài màu đen với cái đuôi quẩy mạnh đập xuống làm nước văng tung tóe. Từ nhỏ đến lớn, anh chưa từng gặp con cá nào khỏe và dữ tợn như vậy. Dồn hết sức mạnh của thân người vào hai cánh tay, Nam cố lôi nó vào sát bờ, con cá quấy cái đuôi to của nó và lặn sâu xuống làm nước hồ ở chỗ đó sôi lên sùng sục, con cá tiếp tục vẫy vùng hết sức dũng mãnh, còn Nam thì quyết tâm bắt nó chứ không để sổng. Cứ mỗi lần anh lôi con cá lên gần mặt hồ thì nó lại vùng vẫy cái thân mình đen dài và cái đuôi lớn thật dữ dội chứ không chịu khuất phục. Bất ngờ từ dưới đáy hồ có bóng một con vật bơi lên, cái hàm của nó đớp thẳng vào thân mình đen dài của con cá với một sức mạnh kinh khủng và lôi con mồi sâu xuống mặt nước, đồng thời kéo luôn Nam và cái cần câu xuống hồ làm anh chơi với trong làn nước lạnh mờ tối, cảm giác bị ngộp thở dưới vùng nước mịt mùng đó làm anh choàng tỉnh.

    Vẫn còn bị giấc mơ kinh khủng đó ám ảnh đầu óc, Nam ngồi bật dậy và ra phía sau lấy nước rửa mặt cho tỉnh táo lại đôi chút. Mặt trời đã xuống lưng lửng ngang bầu trời xám xịt, anh đoán chắc khoảng hai, ba giờ chiều.

    Ra khoảnh đất sau nhà gần chỗ cái chuồng gà cũ, Nam lấy xẻng đào lớp đất gần những bụi cỏ kiếm trùng đất làm mồi. Sau một hồi thấy đã đủ, anh lấy miếng lá chuối to bỏ đám trùng vào đó với nắm đất để bọn nó rúc vào và nằm yên trong đó, không bò đi lung tung.

    Ra đến chỗ bờ hồ ngồi câu lần trước, anh móc mồi và quăng xuống, cái phao nhỏ nổi trên mặt hồ và trôi nhẹ ra xa.

    Nhớ lại giấc mơ lúc nằm ngủ trưa, anh cố nhớ lại lúc con cá đen trũi và to mắc vào lưỡi câu, nó vùng vẩy ở đầu dây và lặn sâu xuống hồ, rồi bị một con vật to kỳ lạ, mà anh không kịp nhận ra hình dáng, tấn công rồi lôi nó và cả anh xuống dưới sâu, đúng là một giấc mơ kỳ quái.

    Nam nhìn chăm chú cái phao đang trôi lờ đờ, chiều nay mặt hồ bị những đám mây xám trên bầu trời phản chiếu xuống, nên cả một vùng nước hồ mênh mông mang một màu tối nhờ nhờ.

    Cái phao bị giật giật nhẹ vài cái rồi lại nằm im, Nam chú ý quan sát và đưa tay cầm hờ cần câu, lần này nó bị kéo sâu xuống và cái cần bị lôi theo, anh ghì lại, sức mạnh của con cá làm đoạn trúc trên cùng cong vòng rồi bật lên xuống vài ba lần. Bật đứng dậy, Nam bước lui về phía sau vài bước, nhấc con cá lên khỏi mặt nước và kéo nó vào bờ, con cá chép to với những cái vảy xám bạc trên lưng và đuôi màu đen, nó phải nặng hơn hai ký, đang giãy giụa trên đám cỏ xanh. Lấy sợi dây ni-lon xỏ qua mang nó và thả xuống nước để giữ nó sống, đầu dây còn lại anh buộc vào cây nhỏ sát bờ, phòng khi nó vùng vẫy tẩu thoát.

    Nam móc lại mồi rồi quăng xuống hồ, cả ngày hôm nay anh không thấy bóng dáng Ba Du đâu. Bên kia bờ hồ là khung cảnh tịch mịch, vắng vẻ của ngôi làng nhỏ, mặt trời đang từ từ lặn về phía tây trên cây rừng ở phía xa xa. Lại có cá cắn câu, anh giật mạnh cái cần và lôi con cá lên bờ cỏ, con cá mè to nằm dẫy đành đạch, nắm chặt cái đầu của nó, Nam gỡ cái lưỡi câu ra khỏi mép và xỏ sợi dây qua mang, thả xuống hồ cùng con kia, giống cá chép và mè ở đây to lớn và háu ăn, cái hồ này giống như một vương quốc riêng biệt của tụi nó.

    Từ ngày dòng suối bị ngăn lại thành hồ nước tràn ngập cái thung lũng nhỏ với vô số hang hóc khúc khuỷu dọc hai bên bờ, tạo thành nơi trú ẩn lý tưởng và nguồn thức ăn dồi dào cho bọn cá từ những nhánh suối nhỏ khác trong rừng đổ ra. Do có các điều kiện thuận lợi như vậy, nhiều giống cá có sẵn trong các dòng suối như chép, mè, rô … sinh sản nhanh và đạt kích thước to lớn trong lòng hồ mênh mông.

    Thấy còn nhiều trùng, Nam móc lại mồi, quăng dây câu ra xa và lấy thuốc lá ra hút. Buổi chiều thanh vắng trong cảnh cô tịch dể lay động lòng người. Nhìn căn nhà tranh nhỏ đơn sơ nằm chơ vơ giữa đồi núi, màu xanh bát ngát của rẫy bắp, đậu, khoai chạy dài đến tận rừng cao su chập chùng bên trong làm Nam thấy trống trải, cô đơn.

    Anh lại nhớ về Saigon, nơi anh có một tuổi thơ tuyệt vời trước ngày chiến tranh chấm dứt, ở đó có những thằng bạn sôi nổi, vui vẻ, hay phá phách nhưng học hành rất giỏi, và những cô bạn gái hiền lành, dể thương. Rồi những con đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi về chợ Bến Thành … cùng nhiều nơi khác mang đầy những kỷ niệm thời học trò của anh và tụi bạn.

    Tuổi trẻ của anh đi rong chơi trên các con đường tuyệt đẹp đó của Saigon hoa lệ, mặc dù những năm, tháng đó miền nam đâu đã có hòa bình, anh nhớ nhiều về những ngày yêu dấu đó, nhớ cô bạn gái rất dễ thương đã bỏ Saigon ra đi, Nam lặng lẽ cúi đầu và muốn rơi nước mắt.

    Mặt hồ chiều nay yên tĩnh quá, chỉ có những cơn gió lành lạnh cuối năm phảng phất thổi qua ngàn cây ngọn cỏ. Làn nước xanh trong gợn sóng lăn tăn, đàn cò trắng dăm con chen lẫn vài con lông nâu đang lặn lội dọc phía bên kia bờ hồ, cố vớt vát thêm vài con cá, con tôm… bỏ vào bụng trước khi bay về tổ, nằm xa tít tắp đâu đó phía cánh rừng già ở khu vực thượng lưu của hồ nước.

    Chiếc phao nhỏ lại động đậy và chầm chậm trôi ngang làm Nam chú ý, anh đặt hờ tay lên cần câu phòng con cá nào đó ăn mồi rồi bất ngờ lôi mạnh.
    Chiếc phao bị kéo vụt sâu xuống khỏi mặt nước, anh giật cái cần câu về phía sau và đứng dậy nhấc nó lên. Lần này Nam không cảm thấy có sự vùng vẫy, chống cự như hai lần trước khi cá dính câu, nhưng anh cảm thấy nó trì nặng nặng xuống. Nhìn dây câu căng lên và đầu cần cong chúc xuống, sợ kéo mạnh làm đứt sợi dây, Nam lựa thế lôi con cá từ từ vào bờ, khi thấy nặng tay và căng quá, anh lại lơi nhẹ đôi chút rồi tiếp tục kéo mạnh. Một lúc sau nó có vẻ mệt mỏi, nên không trì lại mạnh như lúc đầu, Nam nhắm thấy đã gần bờ, nên hai tay nắm cái cần câu dồn lực kéo con cá vào. Khi vừa lên khỏi mặt nước, ở đầu dây không phải là một chú cá to như anh chờ đợi, đó là một con ba ba suối màu đen. Nó đang bị lật ngửa trên cỏ, bốn cái chân với các móng vuốt quơ quào trên không, cái đầu nhỏ có cái mũi dài, nó đang cong cái cổ lên như muốn tìm cách lật thân mình trở lại. Nam biết loài này, bình thường thì nó rất nhút nhát, hay tìm nơi vắng vẻ để trốn tránh, nhưng khi bị bắt thì nó rất dữ tợn và tìm cách cắn lại.

    Rất khóai chí, anh nghĩ đến Ba Du, con này mà làm mồi nhậu thì rất đã vì thịt nó rất ngon.

    Nam vẫn để nó dính trên lưỡi câu, rồi vác cần câu lên vai và xách nó cùng hai con cá tòn teng trên sợi dây nhỏ đi về nhà.

    Về đến nơi, anh cẩn thận gỡ con ba ba khỏi dây câu, rồi bỏ vào cái thùng phuy nhỏ có ít nước dưới đáy, chiều nay chiên con cá mè cho bữa tối, còn con kia Nam bỏ luôn vào trong cái thùng nước. Thịt hai con cùng một lúc thì quá dư, để nó với con ba ba sống thêm một, hai hôm nữa, khi nào hẹn Ba Du qua nhậu lai rai để giao hữu, sẽ chiêu đãi cùng một lúc vừa có cá chép, vừa ba ba một bữa cho xôm tụ một chút.

    Nam thấy vui vẻ trở lại, cơn buồn phiền buổi chiều khi ngồi câu cá bên bờ hồ dường như biến mất. Anh thấy khoan khoái vì không ngờ cái hồ nước này có nhiều cá như vậy, bửa ăn thiếu thốn hằng ngày có thêm cá tươi ngon, lại có chỗ để giải trí khi rảnh rổi.

    Anh định sáng sớm mai qua Ba Du hẹn trước, rồi về xem qua bắp và đậu xanh vì đã sắp đến lúc chăm sóc và bón thêm phân, qua khoảng một tháng nữa là đến mùa thu hoạch.

    Còn thiếu món rượu, dù đường đi từ trong này ra ngoài xã cũng xa, nhưng Nam vẫn tính vác gùi lội bộ ra đó đong vài lít đế về để sẵn và nhân tiện mua thêm một số món cần thiết như xà bông cục, diêm quẹt, dầu hôi nếu ngoài đó họ có bán.

    Từ ngày cách mạng vào giải phóng miền nam, nền kinh tế gần như sụp đổ, đâu còn nhiều hàng hóa như trước năm 75 để mua, cuộc sống của người dân hết sức thiếu thốn, cùng cực, nhất là mấy vùng thôn quê.

    Xong bữa ăn tối “thịnh soạn”với món cá rán và rau muống luộc mọc gần bờ hồ, Nam thấy khỏe khoắn. Cuối tháng chạp nên trời trở lạnh về đêm, anh khoác thêm cái áo lính cũ màu xanh lên vai và ra ngồi trên khúc gổ phía trước hút thuốc, ánh đèn dầu mờ mờ từ trong nhà không đủ sáng đến ngoài sân, trời tối nhưng Nam đoán chừng mới khoảng hơn bảy giờ.

    Không hiểu ngày hôm nay Ba Du đi đánh cá hay đi đâu mà không thấy tăm hơi. Những lúc nói chuyện với nhau, anh để ý thấy Ba Du rất ý tứ và giữ lời, không phải chuyện nào cũng nói hết cho Nam nghe. Dù sao thì anh cũng chỉ là người mới quen mà thôi, làm sao có thể biết được tất cả mọi nơi mà Ba Du thường lui tơi, hi vọng sau này khi thân tình hơn, may ra lúc đó Ba Du mới kể cho nghe.

    Đang mơ màng suy nghĩ vẩn vơ, Nam nghe như có tiếng chó sủa vọng đến từ phía nhà Ba Du, tiếng con Ki sủa rất lớn trong không gian vắng vẻ về đêm. Anh nghĩ hay là có ai đến gần rình mò để trộm cắp đồ đạc, dụng cụ làm rẩy và mấy con gà. Nam cố nghe ngóng, rồi nghĩ đến hồi sáng nay, lúc gặp Tư Có đi ngang qua nhà Ba Du với thái độ dò la, tìm hiểu. Ngày mai nếu gặp Ba Du, anh sẽ nói chuyện về việc này để xem Ba Du phản ứng ra sao ….

    Sáng nay trời mờ mờ sương, gió heo may thổi nhè nhẹ mang theo hơi lạnh từ hồ nước tỏa lan khắp vùng. Ăn sáng xong Nam cầm rựa ra khỏi nhà và đi về phía nhà Ba Du.

    Mặt trời bị che lấp trong những đám mây bàng bạc ở phía đông, trên bầu trời thỉnh thoảng những đàn chim giang cánh bay về phương nam, anh nhìn lên, có lẽ đó là những con chim di trú, hằng năm bay về đó để tìm chỗ trú đông.

    Anh lội bộ vòng qua rừng chồi, băng ngang con suối ở ranh giới giữa hai khu rẫy, dòng nước buổi sáng sớm thấm ướt hai bàn chân làm Nam thấy lạnh, anh bước nhanh lên những hòn đá trong lòng suối qua bên kia bờ.

    Khi đi ngang qua chỗ Ba Du hay buộc chiếc xuồng, không thấy nó ở đó, anh đoán Ba Du chắc tối qua chưa về hay sáng nay lại đi sớm.

    Cửa nhà Ba Du vẩn đóng im lìm, con Ki đang nằm bên trong nghe tiếng bước chân Nam đến gần, nó gầm gừ định sủa. Anh kêu tên nó vài lần và đi vòng ra phía sau để xem đêm qua có bọn trộm đạo nào cạy vách nhà vào khua khoắng đồ đạc, hay bắt đàn gà không. Mọi thứ vẩn yên ổn, mấy con gà còn đậu ở trên những cây tre dài gác ngang trong chuồng, để tránh rắn rít và chồn cáo vào buổi tối.

    Nam để ý thấy có cái áo lính cũ Ba Du hay mặc khi đi đánh cá phơi trên cây sào tre khác với hôm qua, vậy là tối qua khi con Ki sủa, Ba Du có về rồi sáng nay lại đi sớm. Có chuyện gì mà Ba Du có vẻ tất bật, anh thử đẩy nhẹ cái phên cửa, nó đã bị gài chốt bên trong.

    Suy nghĩ chốc lát, Nam quay về nhà và đeo cái gùi mây cũ lên vai, bỏ vào đó bình nước nhỏ và cây rựa để phòng khi đi đường rồi lấy cái nón vải đội lên đầu.
    Anh đi dọc theo con đường ven hồ, từ trong này ra đến trung tâm xã nơi có ủy ban, chợ và hàng quán cũng gần bốn, năm cây số, vì vậy dân trong này ít khi muốn ra ngoài đó, trừ khi bị bệnh hoạn hay có dịp nào có xe máy cày hay xe chở hàng của nông trường đi ngang qua đây thì xin quá giang.

    Nam đi ngang qua nhiều khu rẫy trồng đậu, bắp, khoai lang, mì … trên các triền đồi dốc của mấy ông nông dân trong vùng. Lúa rẫy ở đây chỉ trồng được vào mùa mưa, và dựa vào nước trời như của người thượng, nên mỗi năm chỉ trồng có một mùa và cho năng suất rất thấp. Nhìn những căn chòi của họ nằm chơi vơi giữa núi rừng, cũng giống như căn nhà của anh và Ba Du, xung quanh nhà trồng vài cây mít, xoài, điều ăn trái và lấy bóng mát, tàn lá lên xanh tốt.

    Thỉnh thoảng vài đứa trẻ con quần áo sốc xếch, vá víu đang ngồi chơi trước sân nhà với mấy con chó ốm sủa inh ỏi khi thấy có người lạ đi ngang. Ngoài rẫy một vài người đang lui cui cuốc đất, nhổ cỏ bên những luống bắp, đậu, khoai mì … họ còn chẳng buồn nhìn ra con đường nơi Nam vừa đi qua. Không khí thêm thê lương, tiêu điều vì cảnh mùa đông ảm đạm và sự nghèo nàn, buồn bả của những khu kinh tế mới.

    Nam cũng thấy chạnh lòng, nếu không vì máu mạo hiểm đi truy tìm hai thùng đồ cổ, chắc anh cũng không muốn đến sống nơi khỉ ho, cò gáy này.

    Nghe ba anh và những người lớn quen biết trong gia đình nói trứơc năm 75, ở nông thôn, người dân đâu đến nổi đói khổ và thiếu thốn như bây giờ, đến thời này, thì thiếu thốn đủ mọi thứ, dân Saigon và toàn thể dân miền nam nếm mùi đau khổ. Chịu đựng không thấu, nên dân chúng ồ ạt vượt biên tìm tự do, dù họ biết cái chết đang rình rập họ ngoài biển khơi.

    Nghĩ đến đó anh càng quyết tâm hơn, mong mỏi Trời Phật phù hộ cho mọi việc thành công để có cơ hội ra đi tìm cuộc sống mới ở nước ngoài.

    Qua hết ngọn đồi thấp, Nam đã thấy con lộ đất đỏ lớn đi ra từ rừng cao su chạy về trung tâm xã. Tinh thần phấn chấn, anh bước nhanh hơn vì chỉ còn non cây số nữa là đến nơi. Lác đác có vài chiếc máy cày đỏ của Liên Xô kéo theo rơ-móc chạy trên đường, một hai chiếc xe đạp của công nhân cạo mủ trong nông trường lạch cạch chạy qua mặt anh.

    Bên kia đường một tay du kích xã đang đứng dưới bóng cây điệp to nhìn Nam lom lom, có lẽ hắn thấy Nam là người lạ, nhưng khi thấy cái gùi trên lưng anh, hắn không muốn chặn anh lại để hỏi giấy tờ. Nam đi tiếp về phía chợ, tiếng loa rè rè của nông trường đang đọc thông báo phát lương thực cho công nhân.
    Anh đi ngang qua con đập xi-măng lớn được xây chận ngang dòng suối để tích nước trong lòng hồ, gần đó có một căn nhà nhỏ của đội quản lý-bảo vệ, có nhiệm vụ theo dõi việc đóng, mở cửa cống để điều chỉnh mực nước hồ, trong mùa khô thì xả nước tưới tiêu cho dân mấy xã phía dưới trồng trọt. Nam nhìn thoáng qua đó, cửa ra vào và hai cánh cửa sổ mở toang hoang, phía trước có treo một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ đã phai màu. Giờ này buổi sáng mà không thấy ai làm việc trong đó, căn nhà trống không, chỉ có trơ trọi một cái bàn, hai cái ghế gổ và một số các ống tuýp, thanh sắt dài nằm dài trong góc nhà, có lẽ người ta dùng nó để đóng mở các cửa của con đập.

    Anh rẽ phải theo con đường đất đỏ về cái chợ nhỏ, và mấy quán bách hóa nằm cách ủy ban xã khoảng hơn 100 mét. Dọc đường nhiều công nhân nông trường trong bộ áo quần đồng phục xanh đang vác những bao nhỏ đựng lương thực phát theo tiêu chuẩn, khuôn mặt họ đa số gầy gò, khắc khổ.

    Vài đứa trẻ ôm sách và tập vở trên tay, lếch thếch dắt díu nhau đến ngôi trường nhỏ của đồn điền còn sót lại sau chiến tranh.

    Anh đi ngang văn phòng của ủy ban xã ở trong một ngôi nhà tường gạch, mái ngói trên nền xi-măng khá cao lót gạch tàu, nó cũng là nhà kho cũ của đồn điền cao su nhưng chưa bị tàn phá nhiều, nên được sửa chửa lại để có chỗ làm việc với dân.

    Tháng trước khi làm giấy tờ sang nhượng miếng đất rẫy, Nam phải từ Saigon lên đây nhiều lần để làm cho xong mớ thủ tục rắc rối, vì trình độ của mấy ông trong ủy ban quá yếu kém và quan liêu. Hầu như phần đông họ xuất thân từ du kích và cán bộ nằm vùng ở đây, riêng ông bí thư xã là bộ đội phục viên người Nghệ An, tiếng ông ta trọ trẹ, khó nghe.

    Vừa qua khỏi ủy ban, Tư Có chợt xuất hiện từ ngôi nhà gạch nhỏ kế bên, phía trước mái hiên có vài tay du kích đang ngồi trên cái bàn dài quay ra đường, mấy cây súng M-16 dựng vào bức tường vôi vàng ố kế bên. Tư Có đeo sắc cốt và mặc bộ quần áo cũ nhầu nhầu, chân đi dép râu như hôm vào trong chỗ nhà Ba Du.

    Khi hai người đi ngang qua nhau, Tư Có hướng đôi mắt lạnh lẽo nhìn Nam, anh hơi gật đầu và bước thẳng xuống con dốc về phía chợ.

    Ghé vào tiệm tạp hóa nhỏ mua mấy món cần dùng, và hỏi bà chủ quán có bán rượu đế không, bà ta lắc đầu chỉ tay về phía mấy cái quán nhỏ bán cà phê nằm hơi xa ở bên kia đường. Quảy cái gùi lên vai và băng qua con đường đất, thỉnh thoảng mặt đường bốc lên những đám bụi mù theo bánh những chiếc xe vừa chạy qua, hay theo các cơn gió thổi ngang qua rừng cao su về đây.

    Nam vào cái quán đầu, không khí vắng vẻ, trong quán có ba cái bàn và mấy băng ghế gổ bầy sơ sài, sát vách trong là cái bàn dài để mấy cái ly thủy tinh nhỏ, một cái cốc nhựa đựng muỗng cà-phê, vài cái ấm trà, cái ấm nước móp méo, đen kịt trên bếp than đang cháy.

    Một người đàn bà trung niên, có lẽ là chủ quán mặc bộ bà ba nâu ngồi bỏ một chân lên băng ghế ở góc nhà, thấy có người vào quán, bà ta hỏi:

    - Cà phê hay mua gì cậu hai?

    - Quán có rượu đế không dì?

    Bà ta liền đứng dậy, đi về phía cửa vào phòng trong, vừa đi vừa hỏi:

    - Cậu mua mấy lít?

    - Dì cho hai lít!

    - Cậu có đem đồ đựng theo không?

    - Không có, dì cho vô bình nhựa nhỏ rồi tính tiền chung luôn dùm …

    Lát sau bà ta trở ra đưa Nam cái bình nhựa màu đen, tính tiền hai lít rượu và luôn cả cái bình, anh trả tiền rồi bỏ bình vào gùi và ra khỏi quán.

    Thấy đã mua đủ mọi thứ như dự định, anh tính đi về nhà vì sợ cái nắng ban trưa. Vừa bước ra hàng hiên và tính băng qua bên kia đường, anh nhìn thoáng qua cái quán cà-phê kế bên, có hai người đàn ông đang ngồi ở cái bàn kê gần cửa sổ, thấy lưng áo người đàn ông ngồi xoay ra đường có vẻ quen quen, trên đầu ông ta đội cái nón màu xanh, vành nón rách te tua. Nam nhìn kỹ hơn và nhận ra là Ba Du, anh bước qua đường, tiến đến gần chỗ Ba Du và người đàn ông trung niên:

    - Hôm nay anh Ba cũng ra ngoài này hả?

    Ba Du nghe tiếng người quen liền quay qua:

    - Ủa chú Nam, ra xã mua đồ hay đi đâu?

    - Dà, ra mua thêm mấy món đồ dùng còn thiếu, anh Ba ra đây lúc sáng sớm?

    - Ừ! giới thiệu anh Năm đây là chú Nam ở trong rẫy gần nhà tui!

    Nói xong Ba Du quay sang phía Nam nói:

    - Đây là anh Năm Bình làm bên nông trường cao su, còn đây là quán nhà của anh Năm!

    Nam gật đầu chào và quan sát người đàn ông đối diện. Ông ta cũng trạc tuổi Ba Du, nước da hơi tái, con mắt bên trái hình như bị tật, mái tóc dài phủ hai tai và sau gáy điểm những sợi bạc, nét mặt mang vẻ hiền lành.

    Ba Du nhìn Năm Bình và Nam nói tiếp:

    - Trước chiến tranh gia đình anh Năm làm cho đồn điền cao su Tây, cho đến bây giờ thì làm công nhân trong nông trường, chú Nam uống cà-phê nhé?

    Nam gật đầu rồi đảo mắt nhìn xung quanh quán, bàn ghế cũng bày trí tương tự quán kia. Riêng chủ quán bên này là một cô gái trẻ, nghe Ba Du gọi thêm ly cà-phê, cô liền ra sau cái bàn, rót nước sôi từ cái ấm trên bếp vào cái vợt vải màu nâu cho vào ly thủy tinh nhỏ có chút đường trắng ở dưới đáy, và bê nó ra bàn cho khách.

    Nam nhấp một miếng cà-phê đen còn bốc khói, mùi thơm từ trong ly đưa thẳng lên mủi làm tinh thần khoan khoái.

    Chợt Năm Bình nhìn Nam và nói:

    - Cà-phê trồng trong vườn nhà tôi đó, mỗi năm thu hoạch được vài chục ký nên chỉ dùng để uống và đãi bạn bè, vẩn còn dư nên mở quán bán phục vụ bà con công nhân trong này thôi.

    Tiếng Năm Bình có giọng Bắc nhẹ và dễ nghe, cách nói chuyện cũng thân tình, Nam đoán có lẽ gia đình họ di cư từ ngoài Bắc vào trong Nam và làm cho các đồn điền cao su Tây đã nhiều đời. Anh thấy lạ về việc trồng cây cà-phê ở đây nên hỏi Năm Bình:

    - Trong nông trường cũng có trồng cà- phê sao anh Năm?

    Như hiểu được ý của Nam, Năm Bình nói:

    - Trước năm 75, có mấy người bà con ở cùng làng quê ngoài bắc, khi vào trong này họ định cư trên Ban Mê Thuộc, mỗi mùa nó ra quả đều đặn và gia đình hái chế biến ra cà- phê dùng trong nhà. Sau khi bố tôi mất, tôi tiếp tục lấy hạt trồng thêm, nên hiện nay cũng được vài chục cây!

    Nam nghĩ hèn chi mùi của nó thơm quá, rất khác với ly cà- phê ở Saigon, chợt Ba Du nhìn Nam nói:

    - Chú Nam vừa lội bộ ra đây phải không, vậy chút nữa lên xuồng về với tui luôn nghe!

    Anh nhìn Ba Du tỏ vẻ cám ơn và gật đầu, bây giờ anh mới hiểu tại sao sáng sớm hôm nay qua nhà Ba Du mà không thấy chiếc xuồng. Năm Bình nhìn Ba Du mỉm cười nói đùa:

    - Ông này siêng năng và giỏi giang lắm, biết làm đủ thứ, tôi mà có em gái là làm mai cho ổng liền!

    Ba Du cũng cười, đôi mắt hơi nhíu lại dưới vành nón vải rách tua rua:

    - Anh Năm “ca” tui quá, không quen biết anh ở đây thì tui khó sống đến bây giờ!

    Cả hai cùng cười và có vẻ hiểu nhau nhiều, từ lúc biết Ba Du anh chưa nghe Ba Du nói về mấy người quen ở vùng này, còn nhìn qua cách nói chuyện vui vẻ, cởi mở của Năm Bình, anh đoán ông ta là người giao du rộng rãi, quen biết nhiều người trong nông trường và ngoài xã. Nhìn trời đã gần trưa, Ba Du đứng dậy:

    - Cám ơn nhiều nghe anh Năm, tui đi về với chú Nam đây, hôm nào gặp lại!

    Rồi cả hai đứng dậy bắt tay, Năm Bình quay vào trong nhà gọi:

    - Hạ ơi, con đem cái túi của chú Ba ra đây!

    - Dạ!

    Cô gái có lẽ là con Năm Bình, nhanh lẹ đi vào nhà trong và cầm cái túi vải bằng bao cát màu xanh ra đưa cho Ba Du.

    Nam chào chủ quán xong cùng với Ba Du rảo bước về phía bờ hồ, chiếc xuồng của Ba Du gửi một nhà người quen gần đó, đang nằm im dưới bóng mát của cây me tây, cành lá xum xuê của nó vươn ra xa trên mặt nước.

    Ba Du bỏ cái túi vải xuống xuống và ngồi vào phía sau, Nam cũng hạ cái gùi xuống, tháo sợi dây đang cột vào một nhánh me lớn, anh lấy cái mái chèo nhỏ, ngồi vào phía trước xuồng và chèo phụ Ba Du. Chiếc xuồng nhỏ lúc đầu hơi tròng trành làm anh mất thăng bằng, không dám mạnh tay bơi, dăm ba phút sau ở phía lái, Ba Du chèo mạnh và chắc tay nên con thuyền bắt đầu lao nhanh về phía thượng lưu.

    Thời tiết đã gần trưa nhưng trời dịu mát, Nam bỏ cái nón vải xanh ra khỏi đầu cho đỡ nóng. Anh lấy tay vốc nước mát lạnh từ dưới hồ lên rửa mặt, anh quay ra phía sau hỏi:

    - Hôm qua đi đâu cả ngày mà không thấy anh Ba?

    Ba Du ngập ngừng:

    - Tui chèo xuồng qua xã bên kia sửa nhà dùm người quen bên đó, về hơi tối.

    Nhớ lại Tư Có vào trong rẫy đi lần quần xung quanh nhà Ba Du, anh nghĩ nên cho Ba Du biết:

    - Sáng hôm qua tôi tính qua nhà rủ anh chiều xong công việc rồi, thì qua lai rai vì tui có câu được con ba ba, gần tới nơi chợt thấy Tư Có đang từ phía trên đi xuống và dừng lại phía trước nhà anh Ba, rồi vòng ra phía sau, lát sau ông ta bỏ đi về lô cao su.

    - Tư Có đi một mình hay với tụi du kích?
    - Ông ta đi một mình, quan sát trước, sau có vẻ cẩn thận lắm!

    Ba Du lặng lẽ chèo, vừa dỏng tai nghe Nam kể lại chuyện gặp Tư Có ngày hôm qua, và không tỏ ra lo lắng hay sợ sệt, dường như Ba Du đã biết hoặc đã nghe người khác kể về việc này.

    Cả hai chèo mạnh tay nên chiếc xuống lướt nhanh trên mặt hồ vắng, phía sau có tiếng Ba Du hỏi:

    - Hồi nãy chú Nam đi ra ngoài xã có thấy Tư Có ở đó không?

    - Có, thấy ông ta từ đội du kích xã đi ra

    - Sau này chú Nam phải cẩn thận khi gặp Tư Có và đám du kích

    Nam thắc mắc không hiểu tại sao Ba Du nói anh phải cẩn thận khi gặp Tư Có và đám du kích xã, nhưng chắc phải có lý do nào đó.
    Anh mạnh tay chèo, đàng sau Ba Du cũng im lặng nên câu chuyện chấm dứt và tiếp tục bơi, đôi tay rắn chắc của Ba Du nhịp nhàng lèo lái chiếc xuồng lướt nhanh dọc ven bờ.

    Thoáng chốc sau, Nam nhận ra khung cảnh quen thuộc của cây cối, đồi núi dọc bờ, chắc sắp về đến nhà, anh ngoái cổ ra phía sau mời Ba Du lần nữa:

    - Anh Ba, hôm qua tôi câu được con ba ba, hồi nãy ra xã mua hai lít đế rồi, trưa nay anh qua bên này lai rai nhé, có bận bịu việc gì chiều nay không?

    Ba Du đang vui vẻ, tươi tỉnh, nghe có mồi ngon, mỉm cười gật đầu.

    Cho chiếc xuồng cập vào bờ gần nhà của anh chàng hàng xóm trẻ tuổi, Ba Du cột chặt dây xuồng vào bụi cây cho nó khỏi trôi, và cầm cái túi vải lên đi sau. Còn Nam khoác cái gùi trên vai bước nhanh theo lối mòn lên con dốc, anh đảo mắt quan sát xung quanh căn nhà và hàng cây mít trước sân, mọi thứ vẩn nguyên vẹn như lúc sáng sớm anh đi.

    Đẩy mạnh liếp cửa tre bước vào bên trong, anh bỏ cái gùi lên phản, lấy cây chống cái liếp cửa lên để gió và ánh sáng ùa vào, cái bình nhựa đựng rượu để lên kệ bếp, và bỏ cây rựa vào góc nhà.

    Ba Du bước vào sau, leo lên tấm phản ngồi, bỏ cái nón và túi vải ra kế bên, rồi lấy thuốc lá ra châm lửa hút. Nam đi ra phía sau múc nước vốc lên mặt và hai cánh tay xối mạnh rửa sạch bụi đường.

    Mở tấm gỗ đậy trên cái thùng nhốt con ba ba bên trong, anh thò tay định nắm lấy cái mai bắt nó ra làm thịt, con ba ba nhanh nhẹn xoay cái đầu để đớp về phía mấy ngón tay đang huơ bên trên, làm Nam phải rụt tay lại.

    Đang lóng ngóng chưa biết cách nào bắt con thủy quái nhỏ mà hung dữ này, anh nghe tiếng chân Ba Du bước đến cửa, tay cầm một khúc tre ngắn:

    - Để tui bắt nó làm thịt cho!

    Đưa khúc tre ngay cái đầu của con ba ba đang hung hăng chờ cắn bất cứ cái gì đến gần, thấy đầu đoạn tre đưa tới, nó phập mạnh và cắn thật chặt, Ba Du nhấc nó ra ngoài và nói Nam đưa con dao, rồi kê cái cổ của con ba ba lên khúc gỗ chặt mạnh xuống, một dòng máu đỏ phun ra từ cái cổ nhỏ, còn cái đầu nó vẫn cắn chặt vào khúc tre.


    (còn tiếp)
    Last edited by chieutim; 11-05-2016, 01:31 PM.

    Comment


    • #3
      Bí mật hai thùng đồ cổ


      Ba Du kêu anh nấu nồi nước sôi để làm thịt con ba ba, rồi sắn tay áo và múc nước ra cái thùng nhựa nhỏ rửa mặt, tay chân.

      Đúng như lời Năm Bình nói lúc sáng khi uống cà- phê ngoài xã, Ba Du làm thịt con ba ba một cách gọn gàng và nhanh chóng xả thịt nó ra thành từng miếng. Trong lúc nhờ Nam lấy mấy củ xả, nghệ, hái thêm mấy trái ớt, rau trồng xung quanh nhà để làm gia vị.

      Ba Du đúng là có “tay nghề” nên chế biến xào nấu con ba ba thành món xào lăng thơm lừng. Nam ra bên ngoài nhanh tay quơ một mớ rau lang, rau muống về luộc để có thêm chất xanh.

      Xong xuôi, Nam dọn món ba ba lên, cả hai ngồi uống rượu trên cái phản tre thấp, món ba ba xào lăng được bày trong cái thố sành thô to, hai dĩa rau luộc trông rất ngon lành bốc khói nghi ngút kế bên chén xì dầu đỏ tươi màu ớt. Nam cầm cái ly nhỏ sóng sánh rượu đế mời Ba Du, cả hai cùng cạn ly và thưởng thức món ba ba xào lăng. Mùi gia vị thơm, cay nồng, lẩn vị béo ngon của thịt ba ba theo những hớp rượu xuống dạ dày làm Nam và Ba Du thấy bừng nóng trong thời tiết lành lạnh và không gian tĩnh mịch, anh hỏi Ba Du lúc này đang hướng mắt ra phía hồ:

      - Bình thường Tư Có có hay vào trong này không?
      - Có, một tháng vài ba lần, ông ta và đám du kích đi tuần tra, sẵn dịp họ qua tuốt bên trong rừng phía mấy cái buôn thượng để đi săn luôn
      - Mấy lần anh Ba gặp mấy ông đó, có bị hỏi han gì không?
      Ba Du bỏ ly rượu xuống phản, hít thở nhẹ vài cái:
      - Họ biết tui là lính chế độ cũ nên cũng có dòm ngó, sống ở sâu tận trong này họ theo dõi coi có ý đồ gì không, nhưng rồi lâu ngày, họ thấy mình chỉ lo cầy cuốc để nuôi gia đình nên cũng để yên.

      Khuôn mặt Ba Du thoáng nét buồn, có lẻ nhớ đến khoảng đời lính trước năm 75. Phong cách của người lính mặc áo hoa rừng ngày xưa vẩn còn phảng phất ở Ba Du. Nam biết nhiều người lính VNCH sau chiến tranh, dù bị thua trận vì người Mỹ bỏ cuộc ra đi, họ vẩn tự hào về cuộc đời lính tráng của mình và sống hiên ngang.

      - Uống anh Ba!

      Hai người nâng ly, Ba Du uống rất cứng, mỗi người đã làm gần hai xị, Nam thấy đầu óc bắt đầu quay quay, còn Ba Du vẩn tĩnh táo, cầm điếu thuốc lá cháy đỏ, nhìn anh cười và hỏi:

      - Chú Nam quen sống ở thành phố lâu rồi lên trên này thấy buồn không?

      Nam bị hỏi bất ngờ nên hơi bối rối, phần bị hơi men làm chếch choáng nên anh câu giờ chậm chạp nói:

      - Lúc đầu cũng nhớ nhà và Saigon đó anh Ba, mấy hôm nay cũng quen rồi
      - Có bồ bịch, bạn gái gì ở dưới đó chưa?

      Nam thấy Ba Du uống rượu vô cũng vui tính, anh cầm ly rượu đưa lên uống rồi cười:

      - Đâu dám có bồ bịch gì, cuộc sống bây giờ khó khăn quá …

      Anh bỏ lửng câu trả lời, nhìn ra hướng bờ hồ, ngoài trời không có gió nên mặt nước phẳng lặng dưới ánh nắng ban trưa. Thỉnh thoảng những con chim bói cá đậu trên cành cây sát bờ hồ, thoắt phóng xuống nước bắt mồi và bay lên về chỗ cũ, tạo nên cơn sóng nho nhỏ, phía xa đàn cò trắng thư thả bay ngang mặt hồ về rừng, Ba Du chợt nói:

      - Chú câu được con ba ba này thịt ngon quá, mấy lúc đi chài lưới tôi cũng bắt được một, hai con. -Hồ này chắc sâu lắm hả anh Ba?
      - Ừ, tui nghe Năm Bình kể trước năm 1975, ông chủ đồn điền đã có ý định xây cái đập ngăn này để làm thành hồ nước, lúc đó ông ta thuê kỹ sư dưới Saigon lên khảo sát và vẽ bản đồ, nhưng rồi bị chiến tranh nên không làm được, sau này bên nông trường tìm thấy mấy bản vẽ cũ đó, họ làm theo, Năm Bình nói có chỗ sâu lắm!

      Ba Du rít điếu thuốc lá, đôi mắt trên khuôn mặt râu ria phong trần nhìn Nam nói tiếp:

      - Năm 74 tui đóng quân ở phía trên xã bên kia, nhưng đôi lúc cũng hành quân xuyên qua vùng này, rồi vô đồn điền cao su phát thuốc men, khám bệnh cho dân, bên dưới lòng hồ là thung lủng cây cối rậm rạp lắm, nhờ vậy mà tui quen biết nhiều người cũ của đồn điền còn sống ở đây.

      Nam say ngà ngà, nhưng nghe Ba Du nói vẩn hiểu và hỏi lại:

      - Anh Ba có lặn xuống lần nào chưa?
      - Có vài lần lưới bị vướng vô cành cây dưới đó, tui lặn xuống để gở, tùy chỗ sâu, cạn khác nhau, thường mấy chỗ có suối chảy vô hồ, nơi đó nước sâu.
      - Mấy chỗ anh Ba thường đến đánh cá có xa không?

      Ba Du gắp miếng rau luộc chấm nước tương ớt đưa lên miệng nhai ngon lành:

      - Đánh dọc theo hai bên bờ, rồi phía xã bên kia và khúc phía trên hồ gần mé rừng già nhiều cá lớn hơn!

      Có rượu và mồi ngon, Ba Du cao hứng rủ:

      - Hôm nào chú Nam rảnh công việc ở rẩy, theo tui lên phía trên kia đánh cá một lần cho biết!

      Nam nghe đề nghị của Ba Du rất hợp ý nên gật đầu:

      - Rồi, khi nào đi anh Ba cho biết trước một, hai ngày!

      Hai người uống thêm vài ba ly rồi kết thúc buổi nhậu, mặt trời đã xế xế, chắc cũng gần bốn, năm giờ chiều, thấy Ba Du đứng dậy sửa soạn ra về, Nam cầm cái túi vải nhỏ lên thấy nằng nặng nên hỏi :

      - Đồ trong này của Năm Bình cho hả anh Ba?
      - Ừ, sáng nay ra quán uống cà- phê rồi xin một mớ đinh, dây kẽm về sửa nhà cho người quen ở xã bên kia, mấy món này nhờ Năm Bình tìm trong nông trường mới có, còn không thì phải về mua trong Chợ lớn, Saigon.

      Lấy cái nón vải rách đội lên đầu, tay xách cái túi, Ba Du nói tiếp:

      - Tui quen anh Năm trước 75 nên bây giờ thì thân nhau, ông già ảnh chết vì đạn pháo kích của bên kia, bà già thì mới mất sau này, ảnh bị sức nổ làm văng cây xà nhà trúng mắt trái nên bị hư, sau giải phóng anh Năm và gia đình ở lại làm cho nông trường, tui nhờ có ảnh giúp đỡ, nói có đi kinh tế mới thì nên về đây, vì vậy tui quyết định vô đây làm rẩy

      Nam cầm cái đèn pin tự chế trả lại, Ba Du xua tay và cười nói:

      -Chú Nam giữ lại xài đi, tui còn mấy cái ở nhà bên đó, khi nào pin hết đem qua thay cái khác.

      Anh mỉm cười cám ơn, Ba Du bước ra cái sân nhìn mấy trái non đeo kín thân ba cây mít to, cành lá sum xuê và mấy con gà đang bươi dưới gốc rồi nói:

      - Kỳ này làm xong nhà người quen bên đó, tui xin cho chú Nam con chó giống tốt về nuôi để giữ nhà và rẩy, còn không trong này mấy con chồn, cáo thấy vắng người là mò về bắt hết gà.

      Nam thấy vui vẻ vì sự nhiệt tình của người hàng xóm tốt bụng, anh nhìn theo dáng Ba Du nhanh nhẹ lội bộ băng qua đám rau lang, rồi vòng ra khu rừng chồi về phía bờ hồ.

      Dần dần Nam thấy hiểu Ba Du nhiều hơn qua những câu chuyện kể, không phải tự nhiên mà Ba Du về vùng này để làm rẩy sinh sống. Cùng lúc anh cũng nhận ra Ba Du là người sống có tình nghĩa, hay giúp đỡ người khác, có nhiều bạn bè, giao du rộng rải.

      Điều đặc biệt là ít thấy Ba Du nói về Tư Có hay đưa ra nhận xét của mình về tay đội trưởng du kích xã, có lẻ đó là sự thận trọng của một người đàn ông đã là lính chiến từng trải với cuộc sống khó khăn sau khi chiến tranh kết thúc.

      Những tay du kích địa phương nằm vùng như Tư Có sau năm 75 thường trở thành cán bộ tham gia chính quyền tại khu vực xã, huyện mà họ hoạt động trong thời chiến tranh, vì nắm vững địa bàn và người dân ở đó, đó là một thuận lợi của họ.

      Còn Ba Du khi đó là lính biệt động quân, thỉnh thoảng hành quân qua đồn điền này, lại là khu vực hoạt động của Tư Có, không hiểu là họ có bao giờ đụng độ nhau chưa, hay nghe dân địa phương có cảm tình với hai bên, nói cho bên này hay bên kia biết, vì trong lúc chiến tranh khó phân biệt ai theo việt cộng, ai theo Cộng Hòa ở những vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh như ở đây.

      Nam nghĩ không biết có nên kể cho Ba Du về hai thùng đồ cổ được chôn giấu trong lòng hồ, theo như câu chuyện tiết lộ từ ông quản gia trong đồn điền Tây.
      Sau một lúc, anh quyết định một mình thăm dò, tìm kiếm thêm một thời gian nửa xem kết quả ra sao, rồi tùy theo tình hình sẽ tính, Nam hi vọng lúc đó sẽ có hướng giải quyết. Vì thật ra, Nam sợ Ba Du sẽ không tin bí mật này hoặc Ba Du nói cho mấy người quen trong vùng biết, mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối và nguy hiểm cho anh.

      Vì khi chính quyền xã biết được tin này, chắc chắn những người liên quan như anh, Ba Du hay Năm Bình … sẽ bị họ bắt giam, tra khảo về sự thật của nó. Và dĩ nhiên vẩn như xưa nay, câu họ hay nói khi kết tội người khác là “xâm phạm tài sản XHCN”, cho dù nó có từ trên trời rơi xuống, thì đó vẩn là của nhà nước và nhân dân.

      * * *

      Thời gian trôi qua nhanh, tháng chạp chấm dứt bằng những trận mưa dông từ cơn bảo rớt cuối năm ngoài biển Đông thổi vào khu vực rừng núi Xuân Lộc, Phước Long …

      Tiếp đến là những cơn gió từ cao nguyên Buôn Mê Thuộc, Pleiku thổi qua những cánh rừng già âm u tràn về vùng bán sơn địa phía nam lạnh buốt.
      Cứ khoảng nửa tháng, Tư Có dẩn vài tay du kích đi tuần tra ngang qua rẩy của anh và Ba Du, đôi lúc bất chợt ông ta lại đi một mình, loanh quanh từ rừng cao su ra bờ hồ rồi đi mất.

      Khi gặp Nam đang làm việc một mình, Tư Có dừng lại hỏi thăm tình hình an ninh hoặc về thu hoạch đậu, bắp … anh trả lời ậm ừ cho có.

      Một lần khi Nam đang đào mấy luống khoai lang cuối rẩy gần miếng đất của Ba Du, hôm đó Tư Có và hai tay du kích mang hai cây M-16 xuất hiện từ bìa rừng cao su theo con suối đi về phía nhà Ba Du. Lúc đó Ba Du đang đi trong hàng bắp để tỉa bỏ bớt những cái lá khô già và nhổ cỏ, nên từ bên ngoài nhìn vào chỉ thấy ngọn bắp lay động, đoán Ba Du đang ở trong đó, họ đi quanh về phía bờ hồ. Con Ki đang nằm trong sân thấy người lạ đến gần, nó đứng lên sủa dữ dội cho đến khi Tư Có và mấy tay du kích theo lối mòn nhỏ đi xa dần về khu rừng chồi.

      Nam biết Ba Du đã quá quen với việc “thăm viếng” này của mấy tay du kích xã nhiều năm qua, nên cũng không muốn bước ra để xem có chuyện gì.
      Thỉnh thoảng Ba Du ghé vào nhà cho anh con cá, hai người ngồi trên khúc gổ trước sân hút thuốc nói chuyện mưa gió, mùa màng …

      Hôm nay, Ba Du nói công việc giúp sửa chửa nhà cho người quen ở xã bên kia và công việc ruộng rẩy đã xong, chỉ còn chờ đúng ngày là thu hoạch, hỏi anh ngày mai có đi đánh cá trên hồ, thì sáng mai ra chỗ cột xuồng sớm, chỉ cần đem thêm bình nước để uống, các thứ khác thì để Ba Du lo.

      Chuyến đi đánh cá theo Ba Du dự định có thể đến chiều mới về, Nam nghe xong liền đồng ý với vẻ thích thú, ở một chỗ và cứ suy nghĩ đến một công việc hoài cũng chán. Theo Ba Du và chiếc xuồng phiêu lưu xa xa một ngày thì chắc cũng không uổng công, ở trong này cũng hơn ba tháng rồi mà anh cũng chỉ loanh quanh bờ hồ, và ra ngoài xã, chưa đi đâu xa.

      Tối đó Nam chuẩn bị bình nước uống và mớ khoai luộc sẵn dành cho sáng mai.

      Ra đến bờ hồ khi trời còn tờ mờ trong buổi sáng lành lạnh gió đông, Nam đã thấy Ba Du đội cái nón rách lụp sụp đang bỏ lưới, bình nước, tấm ni-lông che mưa vào lòng xuống, cây rựa được quấn vào tấm vải bố cũ kỹ nằm dưới tấm ván, thêm cây xiên cá bằng sắt ba ngạnh bỏ nằm dọc.

      Con Ki đang đứng vẩy đuôi kế bên ông chủ của nó, khi thấy anh đến, nó vểnh tai lên nhìn chứ không còn gầm gừ và sủa, rồi đưa cái mủi vào ngửi ngửi hai ống quần bị thấm ướt khi anh lội bộ qua đám cỏ bị đọng sương xuống đêm qua.

      Ba Du tháo xong sợi dây buộc, lên ngồi ở phía sau chiếc xuồng, Nam lên trước mủi lấy mái chèo và bắt đầu bơi ra ngoài hồ. Con Ki thấy chủ và chiếc xuồng sắp sửa đi, nó ngoan ngoãn chạy lên con dốc về nhà, không cần đợi Ba Du nhắc nhở.

      Hai người đàn ông vung mái chèo đưa chiếc xuồng lướt đi dọc đám cỏ cây ven bờ còn say ngủ trong làn sương mai. Dòng nước mùa này tĩnh lặng, gần như không chuyển động, không như lúc mùa mưa đổ xuống, các con suối trong rừng sâu bị tràn ngập bởi những cơn lũ chảy ra hồ, làm dòng nước dồn về phía con đập ở hạ lưu, mực nước trong hồ có lúc dâng lên cao ngập bờ, nếu công nhân trực ngoài đập không kịp mở các cửa xả.

      Hơi nước từ mặt hồ tỏa lên làm Nam thấy lạnh, anh sửa lại cái nón để tránh những cơn gió đông lạnh lẻo thổi thốc qua. Chiếc xuồng đã đi được khá xa và qua khỏi rẩy của Ba Du, cây cối ở đây mọc ra gần bờ nước, dây leo quấn quanh thân và nhánh cây tạo nên khung cảnh thiên nhiên rất hoang dả. Càng đi sâu vào bên trong, vùng đất chạy dần lên cao tạo thành các dãy đồi thấp nối tiếp, những thân cây to với bộ rể nổi vồng hẳn lên trên mặt đất, chen chúc với các tảng đá ở rải rác khắp nơi.

      Thấp thoáng trong đám rừng chồi, tiếng kêu của những chim vang lên nghe rất lạ tai, thiên nhiên ở đây còn mang vẽ kỳ bí rờn rợn của những khu rừng già âm u.

      Nam thấy bắt đầu nóng bừng lên vì hoạt động cả hai tay để chèo, phía sau lái Ba Du nói:

      - Được hơn nửa đường rồi, chú Nam có mỏi thì nghỉ một chút và uống nước.

      Anh bỏ mái chèo xuống, với tay lấy bình nước làm một ngụm nhỏ cho đỡ khát, Ba Du cũng đưa bình lên miệng cho dòng nước chảy qua cổ họng để hạ nhiệt, rồi tiếp tục khua mái chèo xuống mặt nước hồ trong xanh.

      Nam ngồi quay lại đối diện với Ba Du, và lột bỏ cái nón trên đầu ra, thấy nước thấm vào bên trong xuồng khá nhiều, anh lấy cái lon nhỏ hắt nước ra ngoài, Ba Du nhìn cánh rừng bên kia hồ và nói với Nam:

      -Đến chỗ rừng già rồi, mình bắt đầu chèo ngang hồ qua bờ bên kia, rồi đi thêm chút nửa là đến nơi!

      Nam ngồi quay lại, chèo phụ với Ba Du ở phía sau đang lái chiếc xuồng băng ngang qua hồ nước, anh hỏi:

      - Hồi đi lính, anh Ba có đi qua khu rừng này bao giờ chưa?

      - Khu rừng này hồi đó là mật khu của mấy ông việt công, mỗi lần qua đây là có đánh nhau, bởi vậy bom đạn, mìn trong vùng này còn nhiều lắm
      - Mấy ông việt cộng trong này là dân du kích hay bộ đội ngoài bắc vào anh Ba?

      Ba Du lấy thuốc lá ra hút và đưa nó cho Nam:

      - Có lúc đụng du kích, có lúc gặp bộ đội chủ lực từ biên giới Campuchia xâm nhập qua, đóng trong này thường là lính địa phương quân, nằm dọc biên giới là biệt động quân và biệt kích, khi cần phối hợp hành quân, lính biệt động quân tụi tui cũng về đây hổ trợ cho bộ binh, địa phương quân…

      Hai người đàn ông ngồi trên chiếc xuồng đang lướt ra giữa hồ trông thật nhỏ bé giữa trời nước mênh mông. Mặt trời lên rỏ dần trên dảy đồi xanh mờ mờ xa ở phía đông, vài con diệc trắng siêng năng dậy sớm đang xoải cánh bay gần dảy gò đất nhỏ ven hồ. Ba Du phía sau lái chiếc xuồng gổ qua vùng đất thấp ngập nước, mọc đầy lau lách đang ngã nghiêng trong nắng sớm mai.

      Nam nhìn phong cảnh đẹp như tranh của hồ nước giữa vùng núi rừng hoang vu, và nghĩ thật là khó tin vì những gì mình đang thấy.

      Ba Du đã đi qua đây nhiều lần nên đọc được những ý nghĩ trong đầu của Nam:

      - Hồ nước này con nhiều cảnh đẹp lắm, lúc nào rảnh công việc tui và chú Nam đi hết một vòng mấy chỗ đó cho biết

      Tiến lên phía trên thêm vài trăm mét nửa, Ba Du lơi mái chèo để tốc độ chiếc xuồng chậm lại và nói với Nam:

      - Tới chỗ rồi, nghĩ tay hút điếu thuốc đi rồi mình bắt đầu thả lưới

      Anh ngồi phía trước nhả khói thuốc nhè nhè lên cao, nhìn vào bờ có trảng cỏ nhỏ xanh mọc lan ra đến gần mặt nước, vết đường mòn nhỏ chạy vô sâu bên trong dưới những tàn cây thưa và mất hút tại cửa rừng già. Ba Du hút xong điếu thuốc và lấy bình nước uống với vẻ khoan khoái của một người đã quá quen thuộc với cảnh rừng núi quanh đây.

      Sợ Nam chưa quen cách đánh cá bằng lưới, Ba Du vừa bơi chầm chậm rồi lấy cuộn lưới thả từ từ xuống hồ, để những cái phao bằng mấy miếng cao su nằm trên dây lưới nổi lên đều trên mặt nước. Thả lưới xong và để chiếc xuồng trôi bập bềnh trên hồ, Nam và Ba Du ngồi hút thuốc, vừa theo dõi hàng phao để canh chừng xem có cá dính vào lưới thì đến gở.

      Nam chỉ tay về phía lối mòn chạy từ bờ hồ vào bên trong đến cánh rừng già hỏi Ba Du:

      - Con đường mòn chạy đó chạy đi về hướng biên giới phải không anh Ba?
      - Ừ, theo con đường đó đi khoảng hai, ba tiếng thì gặp buôn của người S’tiêng, rồi từ cái buôn đó đi về hướng tây khoảng hơn hai mươi cây số nửa là đến Tống Lê Chân, cách biên giới khoảng chục cây!
      - Hồi xưa nó là mật khu của mấy ông việt công?
      - Toàn bộ các cánh rừng của tỉnh Bình Long chạy giáp biên giới và lên cao nguyên dãy Trường sơn là mật khu và nơi đóng quân của bộ đội bắc việt, còn phía VNCH thì đóng các tiền đồn, căn cứ đóng dọc theo biên giới.

      Lúc còn chiến tranh, Nam nghe ba anh, ông chú và cậu trong gia đình nói chuyện đánh nhau trên các chiến trường miền trung, cao nguyên, xung quanh Saigon … có lúc các trận đánh ở dọc biên giới Miên thuộc các tỉnh Bình Long, Phước Long, Ban Mê Thuộc … diễn ra rất khốc liệt, được báo chí và mọi người nói đến hàng ngày.

      Ký ức về chiến tranh của anh chỉ nhớ mập mờ đến đó, còn ở Saigon thì lính tráng đi công vụ hay về phép, Nam hay gặp họ lúc ra đường, có người thì mặc đồ xanh, có người mặc đồ rằn ri với nón bê-rê màu đỏ, xanh, nâu …

      - Trước năm 75, anh Ba thường đóng quân ở vùng nào?

      Ba Du nói với vẽ tự hào:

      - Lính biệt động quân thì có mặt ở nhiều nơi, từ Quảng Trị cho đến Kiên Giang, Hà tiên, thường trong vùng rừng núi biên giới xa xôi, hẻo lánh vì họ thiện chiến và quen với lối đánh ở rừng núi.

      Mải ngồi nói chuyện cuộc chiến ngày xưa, cả Nam và Ba Du không để mắt theo dõi hàng phao trên lưới, có mấy cái bị cá dính lưới lôi ra phía ngoài. Cả hai chèo xuồng đến gần rồi nắm dây phao kéo lên, hai con cá mè to bị mắc cái đầu và vùng vẩy trên những ô lưới cước, Ba Du khéo léo gở ra và thảy vào lòng xuồng.

      Bơi dọc theo hàng phao, Nam bắt thêm vài con cá rô, địa điểm trên hồ này có vẻ ngon lành, mới thả lưới khoảng hai mươi phút mà số cá bắt được cũng kha khá.

      - Vô bờ ngồi nghỉ cho khỏe – Ba Du chèo chiếc xuồng lướt qua đám cỏ lau tiến vào gần bờ.

      Nam bước qua vùng cỏ thấp lên chỗ có gò đất cao, nhìn lối mòn do những bước chân người đi qua lại sau bao năm tháng, tạo nên con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo vào cánh rừng, cỏ cây mọc ven hai bên đường cứ chực chờ phủ kín nó.

      Thiên nhiên ở đây rất đẹp nhưng mang vẻ hoang vu, khắc nghiệt, bất cứ sinh vật nào ngã xuống đất đều bị cái màn xanh rậm rạp của cây rừng và vô số những con côn trùng nhào đến ăn tươi, nuốt sống, qua vài mùa mưa rừng, là thân xác biến mất, mọi thứ lại trở về với lòng đất.

      Ba Du ở phía sau cặm mái chèo xuống bờ đất và cột dây xuồng, tay cầm theo cây xiên cá và bình nước ra gò đất ngồi hút thuốc.

      Mặt trời ẩn trong lớp mây bàng bạc trên cao, những cơn gió lành lạnh thổi từ những cánh rừng cao nguyên qua những dãy đồi len lỏi về đây, rồi chạy lướt qua mặt hồ nước.

      Ngồi nghỉ một lúc, Ba Du rủ Nam đi lại chỗ có nhiều cây cỏ, lau lách gần đó, ở đây có bải đất lài lài ngập nước và mực nước không sâu, chừng dưới phân nửa đầu gối.

      Cầm chặt cây xiên cá trong tay, Ba Du đi chầm chậm và quan sát quanh những bụi cỏ rậm rạp:

      - Cá trong chỗ này vắng vẽ nên rất dạn dĩ, hay bơi vô gần bờ kiếm ăn.

      Đám cò, diệc hôm nay thấy có người đang bên dưới bải đất ngập nước, không dám đáp xuống chỗ quen thuộc, nên bay xa về phía dưới kiếm ăn.

      Ba Du nhanh tay phóng cây xiên ba ngạnh vào bụi cỏ, gần những lá súng tròn mọc đặc kín trên mặt nước. Ở đầu cây xiên nước bị khuấy mạnh, Ba Du ấn chặt nó xuống đáy bùn bên dưới, và thận trọng quan sát:

      - Chắc dính rắn ri cá hay ri voi rồi chú Nam, chiều nay về có mồi rồi lai rai – nhìn Nam cười vui vẽ Ba Du từ từ rút cây xiên lên, nắm phía sau cái đầu con rắn nước to cỡ hai, ba ký. Nam đến chỗ chiếc xuồng lấy cái bao vải cũ, dùng tay bóp mạnh cổ nó và nhanh nhẹn bỏ gọn vào bên trong.

      Những loài rắn nước này không có nọc độc, nhưng có hàm răng sắc bén nên cú đớp của nó rất đau, nhưng thịt rất thơm ngon, làm mồi lai rai thì rất “bắt”.
      Bắt xong con rắn, cả hai tiếp tục đi hết một vòng bải bùn cát bị ngập nước như cái ao nhỏ. Nam bẻ một mớ cọng súng mập mạp tươi ngon, dùng nó nấu với canh chua thì tuyệt.

      Trở lại chiếc xuồng, Nam và Ba Du chèo ra chỗ mấy cái phao đang trôi dạt trên mặt hồ, anh nhanh lẹ kéo lưới lên bỏ vào khoang xuồng vì sợ làm xổng con cá chép to mắc lưới, đang vùng vẩy kịch liệt, Ba Du cũng dừng tay chèo, kéo toàn bộ lưới đang có cá, rồi nhắc lên khỏi mặt nước bỏ vào xuồng.

      Nhìn đám cá nằm lẩn lộn trong lưới, cả hai nhìn nhau cười vui vẽ, chưa hết buổi sáng mà được hơn chục con cá chép, mè, rô … bao nhiêu đó ăn cũng phải được bốn năm ngày, lại còn thêm con rắn ri voi to nửa chứ.

      - Chuẩn bị đi về chú Nam - Ba Du phấn khởi nói.

      Chợt Ba Du nhìn về hướng người đàn ông đi từ trong phía cánh rừng già theo con đường ra bờ hồ, Nam nhìn màu da đen của ông ta, lưng mang gùi, tay cầm rựa nên đoán là dân Thượng trong các buôn làng gần đây, khoác bên ngoài là cái áo kaki xám và quần lính cũ bạc màu, dáng đi rất nhanh nhẹ, nhưng không rỏ là ông ta đi đâu ra ngoài bờ hồ này.

      Lái chiếc xuồng đi chậm vào bờ, đôi mắt Ba Du nhìn người đàn ông đang đi về phía họ, khi ông ta ra đến nơi, Ba Du mỉm cười nói:

      - Điểu Sơn ở trong buôn Bù Đon, tui có quen mấy người S’tiêng trong đó

      Người đàn ông đứng trên bờ hồ cười với Ba Du và nhìn Nam gật đầu:

      - Đánh được nhiều cá không Ba Du?
      - Ờ, cũng được kha khá, khỏe không Điểu Sơn, mùa rẩy năm nay ra sao, Điểu Rút và buôn vẩn khỏe hả?
      - Tàm tạm thôi, mọi người vẩn khỏe, hôm nào Ba Du vô buôn chơi nghe.

      Ba Du cầm hai con cá to lên:

      - Cái này cho Điểu Sơn đem về nghe, chừng vài ba hôm nửa rảnh công việc ngoài rẩy, tui sẽ vô
      - Cám ơn nhiều nghe Ba Du
      - Bây giờ đi thăm bẩy hay đi đâu?
      - Ừ, đang đi thăm mấy cái bẩy đặt tối qua, nhìn ra xa xa thấy chiếc xuồng của anh nên đi ra đây

      Ba Du nhìn Nam:

      - Đây là chú Nam hàng xóm của tui ngoài đó, mới ở thành phố lên đây làm rẩy

      Điểu Sơn nhìn anh gật đầu và cười thân thiện:

      - Hôm nào Ba Du vô buôn nhớ dẩn chú Nam vô trong đó uống rượu cần, ăn thịt trâu

      Ba Du và Nam cười và đưa tay chào tạm biệt, chiếc xuồng quay mủi bơi về phía hạ lưu. Hai người đàn ông đẩy mạnh mái chèo cho nó lướt nhanh trên hồ, ánh nắng mặt trời mùa đông yếu ớt chiếu ngay đỉnh đầu. Để Ba Du ngồi phía sau lèo lái, Nam xuống gở đám cá còn dính trong lưới bỏ vào khoang xuồng xâm xấp nước.

      Uống thêm ngụm nước, anh trở lại mủi xuồng, Ba Du cũng đang chèo mạnh đẩy chiếc xuồng ngang qua mặt hồ về lại đường cũ, qua đến bờ hồ bên này, Nam lơi nhẹ tay chèo:

      - Anh Ba quen mấy người Thượng đó lâu chưa?

      Ba Du im lặng, đưa mái chèo khua nước nghe róc rách rồi trả lời:

      - Cũng lâu rồi, từ trước năm 75, buôn của Điểu Sơn, Điểu Rút đã có ở vùng này từ thời Pháp, sau này đến thời VNCH, buôn làng của họ vẩn ở đó, họ được chính phủ giúp đỡ và sau này người Mỹ cũng đến giúp làm đường xá, trường học, trạm xá … và huấn luyện quân sự, trang bị súng đạn để họ bảo vệ buôn làng
      - Họ có phải đi lính như mọi người Việt không?
      - Thường là do họ tự nguyện, ban đầu họ vô lực lượng chiến đấu do người Mỹ huấn luyện và tổ chức để chống lại du kích ngoài đó xâm nhập phá hoại

      Nam thắc mắc:

      - Vậy họ không phải là lính VNCH?
      - Người Mỹ huấn luyện, trang bị súng đạn, vũ khí và cả trả lương cho lực lượng này, khu vực hành quân của họ là dọc các con đường mòn, xâm nhập vô các mật khu của việt công để theo dõi tình hình, vì họ rất giỏi đi rừng và biết rỏ địa bàn, rồi về báo cáo lại cho cố vấn Mỹ, sau này khi Mỹ rút đi, đa số họ tình nguyện vào lính biệt động quân nên vì vậy tui quen biết Điểu Sơn, Điểu Rút.

      Về đến bờ hồ gần nhà, Ba Du nhảy lên cột dây xuồng vào bụi cây rồi cùng Nam dọn lưới, dụng cụ và cầm mớ cá vừa đánh bắt được đi lên con dốc về nhà.
      Con Ki nghe tiếng ông chủ của nó về, liền chạy ra khỏi nhà vẩy đuôi mừng tíu tít sủa vang. Ba Du chỉ cho Nam cái thùng phuy sắt nhỏ ở phía sau nhà, bên trong có nước thường dùng để trữ cá sống mỗi lần đi đánh bắt về. Thấy đàn gà đang tụ lại phía trước sân, Ba Du đến cái ống lồ ô to ở góc bếp, thò tay bốc nắm bắp rải ra bên hông nhà, mấy con gà chạy đến tranh nhau ăn, kêu quang quác.

      Uống thêm cốc nước cho đã cơn khát, Nam ngồi nghĩ trên tấm phản, đôi mắt hướng về phía căn nhà của mình giữa màu xanh của nương rẩy, cây rừng, Ba Du nói:

      - Trưa nay mình làm món rắn ri voi hầm sả, xào lăng, chú Nam ra hái dùm rau, ớt và thêm mấy củ sả

      Ba Du nhanh tay xách cái túi đựng con rắn ra phía sau, lấy cái rựa chặt bỏ đầu và bắt đầu làm bếp. Thấy bụi chuối sau nhà trổ cái bắp non, Ba Du nói anh hái luôn vô để chút nửa làm món gỏi, chà mới nghe thực đơn của người đầu bếp từng mặc áo lính rừng ngày xưa này, Nam đã thấy cơn đói tấn công dồn dập.

      Làm xong mấy thứ Ba Du nhờ, Nam chất củi vào bếp lửa “dã chiến” kê bằng ba hòn đá rồi nhóm lửa, Ba Du nhờ anh nhóm thêm cái bếp nhỏ kế bên để nấu mấy món thịt rắn cho nhanh.

      Nam cười và suy nghĩ, sống ở rừng núi trong thời buổi cả nước ăn “bo bo, khoai mì, khoai lang”, lại được thưởng thức nhiều món của rừng núi, mà nhiều người ở Saigon cũng không mơ thấy nổi, được như vậy cũng sướng.

      Anh hỏi Ba Du:

      - Bên nhà anh Ba còn rượu không, tui về nhà lấy bình còn hơn lít rượu qua uống
      - Chú Nam khỏi phải về lấy chi cho thêm mệt, hôm trước sửa nhà cho ông bạn cũ ở xã bên kia hồ xong, có cho tui một bầu rượu ngâm mít uống ngon lắm.
      Rất thiện nghệ, một mình Ba Du xào nấu trên hai cái bếp dã chiến. Nam ngồi duỗi chân trên cái phản tre và dựa vào vách căn chòi hút thuốc lá, nhìn hồ nước qua cái cửa sổ nhỏ bên hông nhà.

      Mọi vật như đang chìm đắm vào giấc ngủ trưa, tiếng chim kêu từ hàng cây mọc bên bờ hồ, và trong đám rừng chồi vọng ra nghe thật xa vắng.

      Suy nghĩ của anh lại quay trở về với hai thùng đồ cổ đang nằm đâu đó dưới lòng hồ sâu, giấc mơ tìm thấy nó có vẻ thật xa vời. Không biết là anh có hoài phí thời gian, công sức vì câu chuyện người quản gia đồn điền đã kể sáu, bẩy năm về trước. Tại sao ông ta biết chắc là có, nhưng lại không đi tìm nó, hai cái thùng đó là một gia tài lớn đó chứ, nó có thể làm thay đổi cả thân phận và đời người!

      Nam nhớ có những lúc gia đình muốn cho anh đi vượt biên, nhưng số vàng lên đến gần chục cây của người tổ chức đưa ra cho mỗi người tham gia làm cho gia đình anh không kham nổi. Sau đó họ đi trót lọt làm Nam hết sức buồn, ba anh chỉ biết lặng lẻ nhìn con trai mình lủi thủi đi kiếm việc làm để có tiêu chuẩn lương thực gạo, bắp, bo bo … nuôi gia đình.

      - Nhớ nhà hả chú Nam - Ba Du cười và hỏi đột ngột làm anh giật mình
      - Ờ đâu có gì anh Ba …
      - Xong rồi chuẩn bị nhậu đi

      Nam xuống phụ dọn chén dĩa và các món được Ba Du ra công sức, tài nghệ xào nấu lên phản tre, nơi ngồi nhậu tốt nhất là ở đây.

      Ba Du đến cái kệ gổ dọc vách nhà, gần bếp lấy xuống hai cái bầu rượu có vỏ bên ngoài đen bóng và hai cái ly nhỏ.

      - Sửa nhà xong, ông bạn già bên đó cho hai lít rượu ngâm mít và chuối hột, uống cái này không bị nhức đầu!

      Ba Du rút cái nút bằng lá chuối khô đóng chặt ở miệng bầu và rót vào hai cái ly, hai người im lặng uống loại rượu ngâm có vàng vàng, mùi thơm nhẹ, ngọt dịu. Nam thưởng thức món gỏi và xào lăng rồi khen:

      - Ngon quá, anh Ba làm mấy món này không thua mấy quán ở Saigon!

      Ba Du đưa ly rượu lên uống một mình, nhậu với Ba Du không lo bị ép uống như mấy thằng bạn dưới thành phố, nên anh thấy dễ chịu và thích phong cách đó hơn.

      - Hồi đi lính biệt động quân có nhậu dữ không anh Ba?
      - Có, nhưng tùy lúc và tùy người, khi nào về hậu cứ không bị trực, gác thì lai rai rồi về ngủ, tui chỉ nhậu với mấy người bạn thân, không bắt ép ai uống đến gục tại chỗ …

      Nam biết biệt động quân là binh chủng đánh nhau rất gan lì, họ không biết sợ, về thành phố, một số quan niệm “sống nay, chết mai” nên khi uống rượu vào, họ say sưa, quậy phá làm người dân thành phố Saigon đôi lúc cũng sợ sệt, e dè khi gặp họ.

      Nhưng từ ngày quen biết Ba Du, anh thấy phong cách sống của Ba Du rất khác, nói chuyện với anh và người khác rất đàng hoàng, đôi lúc có thể nói là lịch lảm mặc dù trên người là bộ quần áo nông dân cũ rách. Có lẻ tác phong quân đội và nền tảng gia đình làm cho người lính miền nam được người dân yêu mến, trừ mấy ông việt cộng.

      Hơi men lâng lâng, Nam lại thích hỏi về đời lính chiến của Ba Du:

      - Trong đời lính có trận đánh nào mà anh Ba thấy dử dội và nổi tiếng nhất?

      Ba Du nhìn anh như vừa đánh giá, vừa tìm hiểu, trầm ngâm một lúc như để hồi tưởng lại quá khứ của những ngày hành quân khắp bốn vùng chiến thuật, những lúc nằm giữa rừng sâu âm u với cái chết đeo bám quanh mình, những ngày tiền đồn bị bao vây, pháo kích, Ba Du chậm rải nói:

      - Tiểu đoàn của tui có nhiều trận đánh nhau lớn với việt cộng ở khắp các vùng chiến thuật, từ rừng núi cao nguyên xuống đến đồng bằng miền tây, rồi quanh Saigon, những trận đánh ở vùng núi rừng dọc theo biên giới ở các tiền đồn đóng quân là dử dội nhất …

      Ba Du ngừng lại gắp miếng gỏi chấm vào chén nước mắm cay nồng đưa lên miệng nhai chầm chậm và nhấp ly rượu:

      - Trận đánh gay go, nổi tiếng nhất của tiểu đoàn là trận Tống Lê Chân, và sau đó một thời gian ngắn là miền nam sụp đổ

      Ba Du ngưng vài phút và lấy thuốc lá ra hút:

      - Năm 1970 tui nhập ngủ, sau khi được huấn luyện ở quân trường, tui gia nhập tiểu đoàn 31 Biệt Động Quân, rồi từ đó bắt đầu những ngày hành quân đi khắp bốn quân khu, tiểu đoàn 31 tham gia những trận đánh lớn ở Ba Thu, Mỏ Vẹt, Svay Riêng, Krek … trên đất Miên, đầu năm 72 tôi bị thương vì mảnh pháo trúng vai nên phải nằm điều trị ở quân y viện mất mấy tháng, sau khi bình phục tui được bổ sung về tiểu đoàn 92 tân lập để trấn giữ tiền đồn Tống Lê Chân ở tỉnh Bình Long, tiền đồn này nằm ngay vị trí chiến lược hiểm yếu trên tuyến đường chuyển quân xâm nhập từ các mật khu vào An Lộc, Bình Dương về hướng Saigon, nên việt cộng quyết xóa sổ căn cứ, chỉ huy tiểu đoàn lúc đó là thiếu tá Ngôn, một sĩ quan chỉ huy trẻ và gan dạ, trong khi các căn cứ khác dọc biên giói phải rút đi vì bị pháo kích và tấn công, gây áp lực, nhưng căn cứ Tống Lê Chân và tiểu đoàn quyết ở lại tử thủ, lúc đó anh em binh sĩ người S’tiêng cũng khá đông.

      Nam cắt ngang câu chuyện hỏi:

      - Điểu Sơn cũng có mặt ở Tống Lê Chân?

      Đưa điếu thuốc lá lên môi rít nhẹ và thở ra chậm rải, Ba Du gật đầu:

      - Điểu Sơn, Điểu Rút, Điểu Chắt và một số binh sĩ người Miên, M’nông… đều ở lại với tiểu đoàn, lúc đó người Mỹ đã có ý định bỏ Miền Nam vì áp lực của các cuộc biểu tình trong nước, việt cộng biết được sự yếu kém này của người Mỹ khi cắt viện trợ cho VNCH, nên họ đưa quân chủ lực đến bao vây và đánh vào căn cứ, và nghĩ là sẽ tiêu diệt tiểu đoàn 92 trong thời gian ngắn, nhưng cấp chỉ huy của tiểu đoàn là các sĩ quan gan lì và căn cứ được xây dựng rất chắc chắn, nên các đợt tấn công ào ạt ban đầu bị đánh tan, việt cộng xoay qua dùng pháo lớn nhỏ bắn phá ngày đêm để làm mất tinh thần và gây tổn thất cho tiểu đoàn, nhưng căn cứ vẩn đứng vững tháng này qua tháng khác, đa số thời gian lính sống trong giao thông hào, lô cốt được xây trong căn cứ …

      Nam cầm ly cụng và gắp một khúc rắn ri voi xào lăng vào chén của Ba Du.

      - Từ đó Tống Lê Chân là tiền đồn nằm chơ vơ một mình giữa vùng rừng sâu biên giới, những tháng, ngày mưa rừng về đêm nhớ gia đình và Saigon nhiều lắm, mà vẩn phải tỉnh táo canh phòng việt cộng bò vô đánh đặc công, hay đánh “biển người”, tiếp tế lương thực, súng đạn … bằng máy bay hoặc thả dù, nhưng cũng khó khăn vì súng phòng không dầy đặc, thiếu thốn đủ thứ và người bị thương không đưa ra được, nhưng tinh thần tiểu đoàn vẩn cao, việt cộng tràn lên nhiều lần nhưng đều bị thiệt hại nặng, phải rút ra và pháo vô căn cứ dữ dội hơn, sau một thời gian có thêm một số anh em bên không quân bay vào tiếp tế, tải thương bị bắn rơi, họ may mắn sống sót nên ở lại căn cứ. Qua hết năm 73, sau khi ký kết xong hiệp định hòa bình, người Mỹ bắt đầu rút hẳn khỏi Miền Nam, còn việt cộng vẩn bao vây Tống Lê Chân chứ không rút đi, thiếu viện trợ Miền Nam ngày càng yếu, trong lúc đó việt cộng nhận lại được viện trợ tối đa từ các nước cộng sản khác nên mạnh lên và quyết tiêu diệt các căn cứ, tiền đồn nào cản chân họ …

      - Lúc đó Tống Lê Chân có còn được yểm trợ không anh Ba?
      - Có, nhưng yếu dần, phần vì không được bổ sung quân số, súng đạn, lương thực … nhưng tiểu đoàn vẩn ở lại và đánh trả các cuộc tấn công càng lúc càng dồn dập, ủy ban giám sát quốc tế coi như không có, cuối cùng đến khoảng tháng 4/ 1974, tiểu đoàn trưởng âm thầm ra lệnh toàn bộ lính và thương binh của tiểu đoàn rút ra khỏi căn cứ về đến An Lộc an toàn, làm ngạc nhiên tất cả các cấp tướng tá chỉ huy và cố vấn Mỹ, vì tiểu đoàn đã đánh nhau với lực lượng việt cộng đông hơn gấp nhiều lần, tử thủ hơn một năm trời và làm vang danh biệt động quân VNCH!

      Nam thấy được niểm kiêu hãnh và tiếc nuối qua giọng nói của Ba Du, anh thấy cảm phục người lính miền nam, họ đã chiến đấu can trường, dũng mảnh, rất xứng với bộ quân phục và huy hiệu họ mang trên vai.

      Ba Du uống thêm ly rượu giọng trầm trầm:

      - Sau đó, tiểu đoàn về đóng ở Bình Dương và hành quân bảo vệ Saigon cùng các vùng lân cận cho đến ngày 30/4 mới tan rả …

      Ba Du có vẻ buồn, hút thuốc liên tục, con Ki đang nằm gần cửa nhà, nó ngóc đầu nhìn Ba Du và Nam như nghe ngóng câu chuyện của chủ nó. Nam thấy nó ngoan, không chạy lăng xăng hay sủa ồn ào xin ăn, anh lấy một miếng to bỏ xuống cho nó.

      Trong bầu đã cạn sạch đến đáy khi Nam dốc rượu vào hai cái ly, Ba Du rút nút lá chuối cái bầu rượu kia ra uống tiếp, hôm nay mồi nhậu quá ngon. Nam uống cạn ly rượu mới rót:

      - Sau ngày 30/4 có gặp lại mấy ông bạn cũ không anh Ba?
      - Bạn bè cũ đôi khi cũng có gặp nhau ở Saigon, đa số gặp cuộc sống khó khăn, sĩ quan chỉ huy bị đi học tập, lâu lâu nghe anh em có người vượt biên thóat, thấy vừa vui, nhưng cũng buồn.

      Ba Du bổng đổi đề tài nói chuyện, nhìn Nam cười cười:

      - Chú Nam không vượt biên hả?
      - Ồ, có vàng đâu mà đi anh Ba, mấy người quen ở dưới Saigon tổ chức kêu tham gia nhưng ở nhà không có cây vàng nào nên đành thôi, thấy ở Saigon bây giờ ai cũng muốn vượt biên ra nước ngoài …
      -Bạn bè và người quen của tui cũng rủ nhau đóng tàu, nhưng cũng không đủ số cây như bên tổ chức họ yêu cầu nên rồi cũng bỏ dở …

      Ba Du trầm ngâm nhìn ra hồ nước, mặt trời đã lặng về hướng tây trên vùng rừng núi biên giới xa xa, nhớ gia đình và bà mẹ già, cậu con trai nhỏ, và đứa em sống trong cái xóm nhỏ ở Gò Vấp gần đường rầy.

      Mơ về một tương lai tươi sáng ở đất nước này bây giờ có vẻ xa vời, ngày nào còn ở đây là chịu cảnh nghèo đói, bất công, Ba Du nhận định:

      - Nếu còn sống ở xứ này chắc không có hi vọng gì, dân Saigon vượt biên ra nước ngoài tìm tương lai là vì vậy …

      Lần đầu tiên từ lúc quen nhau, hai người đàn ông là hàng xóm, sống trong rừng núi cô quạnh, mới thổ lộ cho nhau biết một phần những suy nghĩ, và ước vọng trong cuộc đời mình.

      Ba Du cũng nhận thấy người hàng xóm trẻ tuổi này cũng dể mến, nói năng lễ phép, rất hiểu và đồng cảm với những người lính Miền Nam sau ngày thất trận.
      Đối với Ba Du đó là niềm đau rất lớn và nó luôn ở trong tim của một người lính đã hết mình vì đất nước, rồi cuối cùng nhìn thấy những gì mình chiến đấu bảo vệ bị sụp đổ.

      Từ đó Ba Du rất ít kể cho ai nghe về đời lính của mình, chỉ khi gặp lại bạn bè cũ trong tiểu đoàn hay những người quen biết trước đây, Ba Du mới đôi lúc tâm sự.

      Nam ngồi nghe với vẽ tư lự, anh thấy mình may mắn vì ở nơi xa xôi này mà có người hàng xóm tốt như Ba Du, tính tình rộng rải, trầm tỉnh. Vì vậy không biết có nên chia sẽ bí mật về hai thùng đồ cổ với Ba Du không, tâm trí Nam lại bị giằng co về chuyện này.

      Một người từng trải như Ba Du nghĩ gì khi nghe một chàng trai còn trẻ nói về “kho tàng đồ cổ”, nghe sao nó lớn lao quá, liệu có đáng tin không, anh biết người có tính thận trọng như Ba Du, ít khi tin tưởng vào điều gì đó có vẻ không thực tế, thiếu nền tảng khoa học.

      Nhìn thấy cái thúng đựng mấy trái bắp đầu mùa tươi ngon còn lớp vỏ xanh, Nam đến gần:

      - Bắp mới hái hôm trước hả anh Ba?
      - Thấy ngon hái xuống định hôm nào luộc ăn, chú Nam lấy ba, bốn trái bỏ nồi nước luộc đi, thay cơm chiều luôn, chút về nhà khỏi nấu!

      Hai người cùng cười, anh tước bớt vỏ rồi lấy cái nồi thêm nước, bỏ bắp vô và nổi lửa trên cái bếp còn mấy cục than to đang còn âm ỉ.

      Ba Du nhìn ngọn lửa cháy bừng bùng có vẻ sảng khoái, kêu Nam bỏ đó qua phản tre ngồi uống tiếp. Con rắn ri voi to quá, làm thành ba món đầy ú, nhưng sức ăn của hai người đàn ông cũng đáng nể nên mấy dĩa mồi cũng vơi nhiều.

      Con Ki hôm nay được Ba Du và Nam “thưởng công” vì giữ nhà giỏi, lúc Ba Du đi vắng, nó loanh quanh từ sân trước ra phía sau như một ông quản gia tận tâm với công việc, Nam kêu:

      - Ki, đến đây!

      Nghe kêu tên, nó chạy đến gần và ngoe nguẩy cái đuôi, anh gắp cho nó khúc thịt rắn bỏ vào cái tô mẻ dưới đất, nó đến ăn ngon lành.

      - Anh Ba, hôm nào kiếm xin con chó về nuôi ở nhà tôi bên đó nhé
      -Ừ, được chú Nam, vài ngày nửa rảnh qua ông bạn già ở xã bên kia hồ, nhà ổng có bầy chó con mới đẻ cũng được gần tháng, xin một con chó nhỏ về nuôi được rồi!


      (còn tiếp)
      Last edited by khongquan2; 11-01-2016, 03:43 PM.

      Comment


      • #4
        CON TRAI NGƯỜI ĐẦU BẾP VÀ CÁI CHÉN MẺ


        Sáng hôm nay không bận công việc ngoài rẩy, Nam vác cần đi câu kiếm vài con cá, anh đến chỗ con suối chảy vào hồ gần bên đám rừng chồi nằm giữa đất của anh và Ba Du.

        Đã qua gần nửa tháng giêng, những trận mưa cuối mùa đông cũng đã chấm dứt từ lâu. Chỉ còn những cơn gió lạnh từ phía bắc tràn về hồ nước trong xanh giữa núi rừng hoang vắng xã Minh Thạnh, khung cảnh nơi anh và Ba Du ở cùng cái làng bên kia hồ, vẩn u tịch như ngày nào.

        Mùa khô đã đến, những con suối đang dần cạn kiệt, những dòng nước ào ạt tuôn ra từ các cánh rừng sâu cuối mùa mưa năm trước, nay chỉ còn lại các mạch nước nhỏ chảy róc rách len lỏi giữa các tảng đá nằm nhô lên trên nền cát.

        Suy nghĩ trong đầu, Nam nhận ra là ở khu vực bán sơn địa này, đến cuối tháng năm mới là đỉnh điểm của mùa khô, lúc đó mực nước hồ sẽ hạ xuống vì tất cả lượng nước ở các con suối chảy không còn nhiều hoặc đã khô cạn rồi.

        Nếu mực nước rút xuống thì độ sâu của hồ cũng giảm, vì vậy nên chờ cho đến thời gian thuận lợi đó, anh có thể lặn xuống thăm dò khu vực bên dưới chắc sẽ dể dàng hơn bây giờ khi nước trong hồ còn cao.

        Việc này phải hỏi lại thêm Ba Du, vì đã ở trong này lâu năm, nên Ba Du có thể cho anh biết sự thay đổi của mực nước hàng năm vào các mùa khô trước.
        Vào tháng này cây cao su và cánh rừng thưa trên các triền đồi lá khô rụng tơi tả, riêng khu rừng chồi, cây cỏ vẩn xanh tươi như đang giữa mùa mưa, nhờ xung quanh có các mạch nước ngầm từ con suối và cái hồ.

        Nam đến ngồi câu trên mô đất cao dưới bóng mát của mấy cái cây gần bờ suối, anh móc mồi và quăng ra xa, nhìn chỗ Ba Du hay buộc chiếc xuồng, Nam thấy nó đang nằm ở đó, phần mủi ghếch lên bờ cỏ. Vậy là Ba Du hôm nay không đi đâu, chắc đang làm cỏ, hoặc bận chăm sóc đám bắp, đậu cũng đang sắp đến ngày thu hoạch.

        Nam nhìn thoáng qua phần rẩy nằm gần phía ngoài này, không thấy bóng dáng Ba Du đâu, có lẻ đang ở đâu đó phía sau nhà, hoặc trong vườn cây ăn trái.
        Anh lấy bao thuốc lá ra hút và nhìn ra phía xa xa trên mặt hồ, chợt nghe tiếng có tiếng động sột xoạc trong bụi cây nhỏ phía sau. Nam quay lại và ngạc nhiên thấy con Ki vừa chạy đến gần bên, nó ve vẩy cái đuôi và đang ngậm trong miệng con thỏ lông xám, hai mắt nhắm nghiền, chắc con thỏ đã bị nó cắn chết. Bộ lông màu trắng, đen, nâu của nó bị thấm ướt vì những giọt sương đêm còn đọng trên các bụi cỏ sáng nay, nó muốn khoe Nam chiến tích vừa mới săn được trong rừng đây.

        Anh kêu nó lại gần, lấy tay vuốt ve cái đầu và bộ lông ướt đẫm nước, con Ki nằm xuống và nhả con mồi ra trên cỏ, Nam nghĩ thầm trong đầu và cười với nó:

        - Mày giỏi quá, sao không đem về nhà cho ông chủ làm mồi chiều lai rai, mà lại đem đến đây cho tao!

        Bây giờ thì nó quen với Nam rồi, không còn sủa dử như ngày đầu tiên khi anh đến nhà Ba Du nhậu, con Ki ngóc đầu lên, cái lưỡi thè ra như cười với Nam, còn cái đuôi thì ve vẩy tỏ vẻ khoan khoái.

        Cái phao động đậy và trôi chầm chậm trên mặt hồ, anh đưa tay nắm cần chờ đợi, con cá đớp mạnh mồi câu và kéo cái phao chìm sâu xuống, Nam giật cái cần, kéo mạnh con cá rô lên khỏi mặt nước và đưa nó vào bờ cỏ.

        Con Ki nhìn thấy con cá đang nhảy lạch bạch trên mặt đất, và dương ra những cái vi đầy gai nhọn, nó chồm tới nhe răng sủa như sắp sửa tấn công, Nam kêu mấy tiếng để nó bình tỉnh lại, rồi móc mồi mới và quăng dây câu xuống nước.

        Nhìn bầu trời trong xanh và vài vệt mây trắng mỏng tít trên cao, Nam đoán chắc mới vào khoảng chín, mười giờ. Con Ki vẩn nằm đó, đưa cái mủi ngửi ngửi con cá đang phùng mang ngáp ngáp và đập nhẹ cái đuôi lên mặt cỏ, nó đã hết hơi rồi nên không còn vùng vẩy sung sức như lúc mới bị quăng lên bờ.
        Bổng con Ki ngóc cái đầu và vểnh hai tai nhọn lên, nó đang nghe ngóng và đánh hơi ra mùi người lạ đến gần, rồi nhìn về chỗ có tàng lá cây rậm rạp mọc chờm ra trên mặt nước từ trong bờ hồ rồi sủa lớn.

        Nam đưa mắt quan sát xung quanh và đang tìm hiểu phản ứng nhanh nhạy của nó. Con Ki thính tai, thính mủi nên nó thường nghe, và đánh hơi từ xa có người đang đến, nếu là Ba Du thì nó sẽ vẩy đuôi mừng rở, chứ đâu sủa lên đinh tai, điếc óc như vậy.

        Anh nghe có tiếng mái chèo khua trên mặt nước, rồi tiếng hai, ba người đàn ông đang nói chuyện lao xao từ phía bên kia của khu rừng, Nam nghĩ ngay đến Tư Có và mấy tay du kích xã, ít có người lạ nào khác vào đây, có lẽ họ đang đi tuần tra trên hồ.

        Ít phút sau, một chiếc xuồng xuất hiện sau những cành lá đong đưa trên mặt nước, Tư Có ngồi giữa, hai tay du kích xã ngồi phía sau lái và mủi đang chèo dọc bờ về phía nhà Ba Du lên thượng lưu. Hai cây súng M-16 nằm trên tấm ván sàn dưới khoang xuồng, Tư Có hình như mang cây súng ngắn dưới cái áo sơ-mi kaki công nhân màu xanh phủ bên ngoài.

        Bơi ngang chỗ Nam đang thả câu, nhận ra anh đang ngồi trên mô đất dưới gốc cây, ông ta chỉ nhìn lướt qua, rồi hướng đôi mắt về phía con dốc đi lên nhà Ba Du. Hai tay du kích trẻ thì nhìn con Ki với vẻ mặt hầm hầm, vì nó cứ nhìn họ rồi sủa mỗi lúc càng thêm dử dội, làm vang động cả mặt hồ khi chiếc xuồng càng đến gần, có vẻ nó không ưa Tư Có và những người đi theo ông ta vào trong này.

        Nam thì im lặng nhìn chiếc xuồng lướt qua, anh nhận ra tay du kích ngồi phía sau lái là người lần đầu anh đã gặp hôm y đi vào trong này với Tư Có. Nhìn khuôn mặt xương xương và cái cằm nhọn hơi nhô ra của hắn ta, anh thấy không ưa được, còn tay ngồi phía trước mủi xuồng thì chừng khoảng hai mươi, hai mươi lăm tuổi, nước da ngăm đen, hơi thấp người và mập mạp.

        Nam cố ghi nhớ những khuôn mặt này, vì biết mình rồi sẽ còn phải gặp họ lâu dài khi vẩn còn sống ở đây.

        Ở những vùng xa xôi, cán bộ địa phương và lực lượng du kích xã, huyện là tai mắt của chính quyền sau năm 75. Thường thì họ hay theo dõi những đối tượng mà được xếp vào tầng lớp mà họ gọi là “ngụy quân, ngụy quyền” và làm việc cho người Mỹ, thành phần mà họ cho là hay chống phá cách mạng. Anh cần nhớ mặt những tay trong đội du kích hay công an để cẩn thận khi giao tiếp lúc ra ngoài xã hay khi gặp ở đâu đó để tránh bị để ý.

        Chiếc xuồng bơi đi một đoạn xa về hướng trên, nhưng con Ki vẩn còn ngóng theo để sủa.

        Chờ cho họ và chiếc xuồng đi khuất, Nam cắm chặt cái cần vào mô đất, và nhấc vài tảng đá đè lên để nó khỏi trôi ra hồ khi cá cắn câu, rồi xách tai con thỏ và kêu con Ki đi về nhà Ba Du. Đến nơi thấy cửa nẻo thì mở, nhưng nhìn từ trước ra sau không có ai, Nam đi ra tìm phía hông nhà, rồi đến bên các luống bắp rậm rạp có các nhánh lá dài xanh rì, nhưng vẩn không thấy Ba Du đâu. Đi vòng ra phía sau, Nam len lỏi vào trong vườn cây, đến chỗ mấy cây chuối mọc ken nhau dầy kín, thấy có dấu chân còn mới giữa những hàng cây ở bên trong, anh bước theo lối đó, vừa đi, vừa gọi:

        - Anh Ba có trong đó không?
        - Chú Nam hả, có chuyện gì không?

        Nam đi tới một bụi chuối to, Ba Du đang cầm cái liềm cắt quầy chuối sắp chín, thấy trên tay Nam có con thỏ và con Ki theo sau, Ba Du cười nói:

        - Ki giỏi lắm, lâu lâu cũng bắt được thỏ, gà rừng lạc vô rẩy
        - Tôi đang ngồi câu gần rừng chồi, nó ngoạm con này chạy đến kế bên … lúc nảy Tư Có đi xuồng với hai tay du kích, con Ki sủa anh Ba có để ý không
        - Nam cười nói tiếp
        - Có, lúc đó tui đang trong vườn kiếm mấy quầy chuối chín, nghe nó sủa tui nhìn ra xem có ai vô không, nhưng không thấy động tỉnh gì nên không đi ra … ông ta có hỏi han gì chú Nam không?
        - Thấy tôi vài lần trước quen rồi nên đi qua luôn, hai tay du kích thì còn trẻ, một tay mặt ốm ốm mà tôi đã gặp một lần ở trong này, tay kia mập, đen, thấp lạ …anh Ba có biết mặt tay đó không?
        - Tay đó tên Mười, hắn ở gần nhà Năm Bình trong nông trường cao su, mới tham gia đội du kích một, hai năm nay

        Ba Du vác quầy chuối lên vai đi trước, Nam và con Ki theo sau, đến nhà, Ba Du bỏ quầy chuối vào trong góc trên miếng ván, cầm con thỏ từ tay Nam bỏ lên cái kệ gổ, Ba Du nói:

        - Chú Nam có thích thỏ thì xách về làm thịt

        Nam chưa quen với vụ này và hơi ái ngại vì thấy Ba Du tính tình rộng rải quá nên cười:

        - Chưa biết cách làm thịt nó ra sao, thôi anh Ba để ở đây đi, tôi đang câu ngoài kia cũng được một, hai con cá rồi

        Ba Du cầm rựa cắt nải chuối xen vài trái đang chín, lấy cọng lá khô cột qua đầu nải thành vòng dây cho dể xách và đưa cho Nam:

        - Chuối trồng trong vườn ngon và ngọt, chú Nam về ăn thử.

        Nam cám ơn và móc ngón tay vào cọng dây cầm nó định bước ra, chợt Ba Du nói thêm:

        - Chiều nay qua nhà ông bạn già ở xã bên kia hồ thăm và xin chó về nuôi, chú Nam có rảnh không?
        - Dạ đi anh Ba
        - Chú Nam cứ ở bên nhà, tôi chèo xuồng ngang qua, khi nghe kêu, chú chạy ra bờ hồ nghe

        Anh cầm nải chuối tòn ten trên tay và đi trở lại chỗ ngồi câu. Thời tiết gần mùa xuân ở vùng bán sơn địa êm dịu, mát mẻ, bầu trời trên cao trong xanh điểm vài vệt mây trắng mỏng vắt ngang qua, trông thật thanh tao, tạo nên một khung cảnh rất hòa hợp với không khí rừng núi tinh khiết, nhẹ nhàng quanh hồ.

        Nam vừa đi, vừa suy nghĩ và bước xuống con đường mòn từ chỗ Ba Du đi về phía hồ nước. Đến chỗ cái cần, anh nhấc nó lên và thay mồi, mấy con cá nhỏ đã rỉa sạch con trùng móc trên lưỡi câu trong lúc Nam bỏ đi qua nhà Ba Du.

        Mải mê ngồi nhìn cánh cò trắng bay nhẫn nha qua mặt hồ ở phía xa xa, Nam không để ý đến bên dưới bóng mát của những nhánh cây rậm rạp từ rừng chồi mọc ra xa bên trên, mặt nước giống như vừa có một con cá to từ dưới bơi lên mặt nước ăn móng, một lúc sau mọi thứ trở lại yên lặng như cũ. Câu thêm được vài chú cá rô và cá mè, Nam lấy cọng dây xỏ vào mang lũ cá, rồi xách cái cần và nải chuối đi về.

        Mặt trời đã lên cao gần đỉnh đầu và bắt đầu tỏa ra hơi nóng hầm hập khắp nơi, lại có tiếng con Ki sủa dồn dập vọng lại từ nhà Ba Du ra phía hồ nước.
        Anh đang đi về nhà theo lối mòn dọc bờ, nghe tiếng sủa, Nam đưa mắt nhìn ra ngoài mặt hồ quan sát, thì ra chiếc xuồng chở Tư Có và hai tay du kích đang quay trở về, sau khi đi tuần tra ngang qua đây rồi lên phía thượng lưu lúc sáng nay, bây giờ thì họ đang quay về xã.

        Chiếc xuồng đi qua va lướt thêm một đoạn xa về phía dưới, Nam thấy Tư Có chỉ tay vào phía gần bờ, hai tay du kích lèo lái chiếc xuồng lách vào bên trong và bơi chậm lại. Ở chỗ đó bờ hồ lỏm vào thành một cai ao nhỏ cạn, do đất cát bên trên bị sạt lở xuống vì những trận mưa rừng dai dẳng sau những năm đầu xây đập chắn. Chiếc xuồng dừng hẳn lại, Tư Có nhìn xuống mặt nước và nói gì đó với hai tay du kích, tên ốm đứng lên cầm trái lựu đạn quăng xa ra, một tiếng nổ vang lên giữa rừng núi, và cột nước bắn tung lên cao trắng xóa khiến chiếc xuồng trồi lên, sụt xuống theo các con sóng.

        Nghe tiếng nổ và thấy nước bắn lên cao, Nam biết bọn họ vừa ném lựu đạn xuống hồ đánh cá, sau vài phút chờ đợi cho những con cá bị sức nổ làm cho ngất ngư phải nổi lên, hai tay du kích ngồi bên trên bơi tới vớt những con cá to nằm phơi bụng trắng xóa trên mặt nước, còn những con nhỏ thì bỏ lại, cho chìm xuống hồ làm mồi nuôi lũ cá khác ở dưới đáy.

        Nhìn từ xa, Tư Có liên tục chỉ tay và quát tháo hai tay du kích vì không kịp làm theo ý của ông ta, thỉnh thoảng còn chửi thề, có lẻ vì tiếc rẻ mấy con cá lớn đang chìm xuống đáy, tay du kích tên Mười liền cởi áo, nhảy ra khỏi xuồng và lặn xuống mò, vài phút sau hắn trồi đầu lên, trên tay cầm con cá bỏ vào xuồng, Tư Có gục gặc cái đầu có vẻ đắc ý, nhưng vẩn còn tiếc nên kêu tay này lặn thêm vài lần nửa để vớt cho hết những con còn lại.

        Trong lúc chờ đợi, ông ta và tay du kích kia ngồi trên xuồng hút thuốc, nhìn xuống hồ coi tay kia lặn mò bên dưới, và chờ hắn ném lên những con cá vừa vớt được dưới đáy.

        Một lát sau, Tư Có cúi xuống nói với tay du kích ở dưới nước, chắc ông ta kêu hắn đi về, thân hình mập mạp của tay du kích tên Mười cố leo lên lại chiếc xuồng, và sau đó họ bơi mất hút về hướng xã.

        Về đến nhà, Nam thảy mấy con cá còn sống vào thùng nước nhỏ ở phía sau, những con vừa chết anh làm thật nhanh và chiên cho bửa trưa, rồi dọn ra ăn với chút cơm độn khoai, bắp.

        Kể cũng lạ sau năm 75, bửa ăn của mọi người trên cả nước thường xuyên thiếu thốn và phải độn với bo bo, khoai lang, mì, bắp … hay bất cứ loại rau củ nào có thể tìm thấy, nhưng ở đây, nhờ có cái hồ này nên dân xung quanh vùng có thêm cá trong bửa ăn, có lẻ ông trời cũng cảm thương vùng quê nghèo khốn khổ này.

        Chính quyền xã dù có muốn ngăn cấm người dân đánh bắt cá cũng khó, vì cái hồ thì quá lớn và lại nằm lọt thỏm giữa bốn bề rừng núi hoang vu, nên họ không quản lý được, mà nếu làm được thì chắc họ đã làm rồi, như vậy nếu người dân xung quanh hồ đánh bắt cá, chắc chắn sẽ bị kết tội “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa”, trong đó có Ba Du và anh.

        Đang thiu thiu ngủ sau bửa cơm trưa, Nam nghe có tiếng gọi của Ba Du từ bờ hồ vọng lên. Nhanh chóng bật dậy và rửa mặt cho tỉnh táo bằng ca nước mát lạnh sau nhà, anh chộp vội cái nón vải đội lên đầu, khép các cánh cửa rồi đi nhanh ra phía bờ hồ.

        Ba Du và chiếc xuồng đang đậu sát bờ, Nam bước lên phía mũi và cầm mái chèo, cả hai bơi ngang hồ sang phía bên kia. Trời mới khoảng hai, ba giờ, nắng buổi chiều tháng giêng đẹp, nhẹ nhàng buông lơi trên vùng đồi núi tây nam dảy Trường Sơn. Nam chưa từng qua bờ hồ của cái xã kế bên này từ lúc vào đây ở, chỉ nhìn thấy nó từ phía bên này hồ khi đi câu hay mấy lúc ngoài rẩy, Ba Du hai tay chèo nhịp nhàng nói:

        - Lúc Tư Có và hai tay du kích sáng nay đi tuần xong quay về chỗ bờ hồ cạn quăng lựu đạn bắt cá, chú Nam còn ở ngoài này hay về nhà rồi?
        - Lúc đó tôi đang đi về nhà
        - Thường thì ông ta hay đánh mìn ở chỗ tui và chú Nam giăng lưới hôm trước, Điểu Sơn có lúc gặp họ trên khúc hồ đó, ít khi ông ta xuống chỗ này lắm

        Ba Du lấy bao thuốc lá ra hút:

        - Chắc buổi trưa nay về ngoài xã có độ nhậu lai rai
        - Anh Ba ở đây lâu có bao giờ uống rượu với Tư Có không?

        Giọng Ba Du mạnh và dứt khoát:

        - Chưa, mấy lần tui ra uống cà- phê ở quán Năm Bình, Tư Có bước vào, nhưng ông ta nói chuyện với vợ chồng chủ quán, sau đó quay qua tui hỏi chuyện một hai câu rồi đi.

        Nam hơi mỉm cười, anh nghỉ thầm, một người lính biệt động quân “dử dằn” như Ba Du chắc không muốn giao du với một tay du kích nằm vùng. Ngược lại, thì Tư Có bây giờ thuộc phe chiến thắng rồi, cũng có chút chức quyền trong cái xã Minh Thạnh này, ông ta cũng không muốn giao du với mấy người lính VNCH như Ba Du.

        Hai bên thuộc hai phe từng đối đầu với nhau trong chiến tranh, sau đó lại thêm chuyện chính quyền mới bắt lính và sĩ quan phe thua trận đi học tập, cải tạo, do vậy Nam nghĩ họ khó mà hợp với nhau được.

        Thấy Nam ngồi ờ phía mủi im lặng có vẻ đang suy nghĩ, Ba Du nhìn anh như dò đoán ý, nhưng rồi quay qua hỏi chuyện khác:

        - Sáng nay chú Nam câu được nhiều cá không?
        - Được bốn, năm con cá rô và hai con cá mè
        - Trong hồ này có cá lăng, cá này thịt ngon lắm, nhưng câu nó rất khó, thường thì phải lấy cá lóc, cá trê, cá rô con làm mồi sống, từ hôm ra câu đến nay có dính con cá lăng nào chưa chú Nam?
        - Chưa biết cách câu, nên chưa được con nào, mới nghe anh Ba nói, hôm nào phải thử

        Chiếc xuồng đã đi ngang qua gần hết cái hồ, Ba Du ngồi đằng sau lái nó đi dọc bờ về phía hạ lưu thêm vài trăm mét. Qua khỏi rặng cây mọc hoang rậm rạp, Nam thấy một căn nhà gổ nằm trên gò đất thấp, xung quanh những luống khoai mì, khoai lang, bắp, đậu lên xanh.

        Ba Du cho chiếc xuồng tấp vào bờ, Nam nhảy xuống, cột sợi dây vào một thân cây gần đó và theo Ba Du bước lên con đường nhỏ chạy giữa màu xanh mát mắt của khu rẩy xung quanh.

        Mọi thứ ở đây được có vẻ chăm sóc, bón phân … đầy đủ nên cành lá sum xuê, tươi tốt, Ba Du đi phía sau, đưa mắt nhìn rồi khen:

        - Hai Tuất siêng và giỏi nên năm nào rẩy cũng khá

        Khi đến gần căn nhà, hai con chó nằm trước cái sân có hàng cây ăn trái bao quanh chồm tới sủa văng vẳng. Cửa nhà mở toang nhưng không thấy ai xuất hiện, mấy con chó nhỏ nằm dưới cái phản gổ, thấy người lạ đến gần liền đua nhau sủa phụ họa với hai con lớn.

        Ba Du và Nam vòng ra bên hông nhà, bầy gà đông đúc đang kiếm ăn bỏ chạy ra vườn phía sau kêu dáo dác.

        - Anh Hai ơi, có nhà không – Ba Du kêu lớn hai, ba lần

        Có tiếng bước chân đi ra từ vườn chuối, nhiều cây đang trổ ra những buồng nhỏ, ngắn ngủn, gần đó là những dây bầu, bí, mướp bò lên xanh mướt trên ba cái giàn tre cao khỏi đầu.

        Nam thấy một người đàn ông cỡ 35 – 45 tuổi đi tới chỗ anh và Ba Du đang đứng, mái tóc điểm bạc ló ra dưới vành nón, dáng đi hơi khập khiễng vì mang cái chân giả bên phải.

        Để tựa cây cuốc vào chỗ gốc mấy dây bầu, ông ta tươi cười khi thấy Ba Du đang đưa mắt lên giàn bầu, bí … sai trái:

        - Bầu bí bên anh trồng bón phân gì mà xanh tốt vậy?

        Hai Tuất nhìn Nam, cả hai cùng gật đầu chào nhau.

        Nở nụ cười cởi mở trên khuôn mặt tròn, phúc hậu, Hai Tuất vừa đi ra phía cửa trước, vừa trả lời bằng giọng bắc nhè nhẹ:

        - Cũng chăm sóc, bón phân bình thường, có lẻ đất bên này tốt nên nó đậu nhiều hơn, vào nhà uống nước đi anh Ba

        Đi đến cái bàn kê sát vách giữa nhà, Hai Tuất ngồi lên băng ghế dài và lấy ba cái ly, rót nước từ cái ấm ra mời khách. Ba Du đến ngồi cùng phía băng ghế với Hai Tuất, chỉ tay về Nam ngồi ở ghế đối diện:

        - Đây là chú Nam hàng xóm của tui ở bên đó, ở Saigon lên đây làm rẩy được hơn ba tháng nay rồi Hai Tuất cười nói một cách rất tự nhiên:

        - Vậy là Ba Du có hàng xóm rồi, tôi bên này loay hoay một mình lâu nay mà chưa có hàng xóm nào về ở gần gần để lúc rảnh qua nhậu lai rai đỡ buồn
        - Anh … có bà xã vui hơn tui và chú Nam rồi!

        Hai người đàn ông cùng cười lớn, Ba Du chợt thôi cười và hỏi:

        - À, bà xã đâu không thấy?
        - Đi ra xã có chút công việc ngoài đó, chắc chiều mới về
        - Mấy chỗ mái và vách sửa tuần rồi có bị lỏng, sút ra nửa không anh Hai?
        - Mấy chỗ đó tốt rồi Ba Du
        - Lúc nảy dưới bờ hồ, không thấy chiếc xuồng của anh đâu hết?

        Hai Tuất cầm ly nước đưa lên uống và nói:

        - Cho ông hàng xóm ở tuốt bên trong làng mượn đi đánh cá, tháng mượn một, hai lần để cải thiện, hai vợ chồng đó và mấy đứa con cũng nghèo lắm, trước năm 75 gia đình họ cũng làm cho đồn điền cao su của Tây

        Ba Du nghe nói ngồi gật gù cái đầu nhè nhẹ, Hai Tuất cười rồi đứng lên dợm bước vào nhà trong, lấy tay vổ vai Ba Du vài cái:

        - Bắt con gà làm lai rai nhé, sẵn dịp hôm nay có chú Nam về đây, mai mốt cũng là hàng xóm với nhau

        Ba Du nghe Hai Tuất mời nhậu cũng cười và đứng dậy:

        - Qua nhà anh hôm nay là xin con chó nhỏ cho chú Nam về nuôi coi nhà, coi rẩy rồi tụi tui đi về …
        - Ừ, chú Nam thấy thích con nào thì bắt về nuôi, chuyên đó tính sau đi, bây giờ mình lai rai trước cái đã nhé

        Hai người đàn ông cùng đứng dậy đi ra chái bếp phía sau nhà, Nam ngồi liếc nhìn xung quanh, nhà Hai Tuất gọn ghẻ, tươm tất, phòng ngoài bày trí như đa số nhà dân vùng này, ngoài cái bàn, ghế còn có tấm phản làm bằng nhiều miếng ván cao su ghép lại, tuy thô sơ nhưng trông chắc chắn. Có thể dùng để ngủ, hay ngồi nghỉ ngơi. Hai bên vách đều có cửa sổ mở ra lấy ánh sáng và gió trời.

        Chái nhà phía sau rộng rải vừa là bếp, vừa làm nơi chứa hoa màu sau khi thu hoạch, và các nông cụ cuốc xẻng, dao, rựa …

        Hàng cây ăn trái chôm chôm, mít … trồng phía trước nhà có lẻ đã lâu năm nên mấy cái gốc của nó, cái nào cũng to, xù xì. Trên cành đơm đầy trái chôm chôm sắp chín khoe màu đỏ vàng rực rất đẹp mắt, trên những cây mít, những trái mít căng tròn đeo từ sát dưới gốc, chen chút nhau đu lên các nhánh trên cao, cây lêkima ở góc sân có nhiều trái chín to tròn, vỏ bên ngoài màu vàng căng bóng trông ngon mắt.

        Khung cảnh phía bên này hồ có vẻ hoang dã hơn, những đám rừng chồi gần nhà Hai Tuất một thời bị chặt phá, khai hoang để trồng trọt, đến nay sau nhiều năm không còn ai canh tác, lại bị bỏ hoang, sau nhiều mùa mưa thì cây cối, dây leo lại mọc xanh um tùm.

        Nam cúi thấp xuống nhìn bốn chú chó con đang nằm dồn đống với nhau dưới gầm tấm phản, hai con bố mẹ là chó đen và vá nên cả bốn cũng đều có màu lông vá đen trắng.

        Anh để ý thấy có một con có đốm vá đen trên mặt, phân nửa bên kia trắng nhìn rất ngộ nghỉnh. Nó nhìn Nam đang búng tay kêu chóc chóc về phía cả đàn, mấy con kia hơi nhác và bò lui ra xa, còn nó ngoắc cái đuôi, rồi chạy đến ngửi tay anh và đứng yên cho anh vuốt ve cái đầu nhỏ có hai cái tai màu đen trắng cụp xuống rất đẹp, anh bắt đầu thấy thích nó.

        Nam đứng lên và ra phía trước nhà, thả tầm mắt nhìn ra xa trên mặt hồ, phong cảnh về chiều buồn buồn với bầu trời xanh lơ, nắng chiều buông nhẹ trên cây cỏ quanh bờ hồ.

        Phía sau chái bếp, Nam nghe có tiếng dao chặt mạnh lên thớt gổ, Ba Du vừa phụ Hai Tuất làm gà vừa trò chuyện, loáng thoáng anh nghe Ba Du nói về Năm Bình, và Tư Có đi tuần qua rẩy với đám du kích, rồi tiếng Hai Tuất hạ nhỏ giọng xuống nên anh nghe không còn được rỏ …

        Chắc Ba Du quen biết chủ nhà đã lâu, nghe và nhìn cách Hai Tuất nói chuyện với Ba Du tự nhiên và thân tình, cũng giống Năm Bình ở quán cà-phê ngoài xã, nên họ có nhiều thứ để nói và chia sẽ với nhau.

        Làn khói mỏng từ chái bếp sau nhà bay lãng đãng theo gió tỏa lan ra không gian im ắng của khu rẩy. Hai người đàn ông đi lên từ phía sau, Ba Du bê dĩa gà luộc chặt thành miếng ngon lành đặt lên bàn và cười nói rất vui vẻ, Hai Tuất đi sau cầm theo chai rượu ngâm mít có màu vàng sánh nhìn như nước trà đậm, với dân nhậu thì có lẻ nó trông rất hấp dẩn.

        Hai Tuất nhìn ra cửa thấy Nam đang đứng dưới gốc cây lêkima tìm mấy trái chín ở những cành thấp bên dưới liền nói vọng ra:

        - Chú Nam ra sau nhà lấy cây sào dài ra hái mấy quả đã chín trên cao ăn ngon hơn

        Nam vòng ra phía sau lấy cây sào đem ra sân, Ba Du cũng hào hứng với vụ hái trái cây nên theo Hai Tuất ra ngắm nghía những trái lêkima chín ở trên cao, Hai Tuất lấy tay chỉ cho anh những trái to và nói:

        - Trái này ăn rất tốt, có thể ăn thay cơm gạo lúc đói, chú Nam hái nhiều nhiều đem về bên đó ăn dần

        Ba Du chợt hỏi:

        - Trái này ở Saigon kêu là trái trứng gà đó phải không?

        Nam vừa đưa cây sào móc trái trên cành trả lời:

        - Ừ, đúng đó anh Ba, cây này trồng mấy năm mới ra trái anh Hai?
        - Hai cây này trồng đã hơn năm năm, đất ở đây tốt nên nó ra quả sớm

        Thấy mớ lêkima đã được khá nhiều, Nam đem cây sào bỏ ra phía sau nhà, rửa tay cho sạch bụi đất và quay trở lại sân trước.

        Hai Tuất cùng Ba Du đem hết bỏ lên tấm phản trong nhà, ông ta vừa thấy Nam từ sau nhà quay lên liền gọi:

        - Nào vô lai rai đi chú Nam

        Anh bước vào bàn, Ba Du rót rượu vào ba cái ly, chủ nhà tỏ thái độ hăng hái và vui vẻ nâng ly mời hai người hàng xóm đến từ bên kia hồ. Mọi người cạn ly, Nam thấy rượu ngâm mít đi qua cổ họng hơi có vị ngọt, dịu, cỏ vẻ dể uống. Hai Tuất nhìn dĩa thịt gà trên bàn, rồi nhìn Ba Du và Nam cười nói:

        - Chú Nam ăn thử thịt gà luộc đi, Ba Du làm đó, ngon lắm, ổng có hoa tay nấu nướng, ở chỗ này vắng vẻ này, thỉnh thoảng mình làm thịt con gà ăn ít ai để ý, dân xóm này đa số là công nhân trong đồn điền Tây ngày xưa, nên cũng ít có chuyện dòm ngó nhau

        Quả thật dĩa thịt gà được Ba Du luộc lên và chặt thành miếng nhỏ rất gọn và vừa một đũa gắp, bên trên còn rắc thêm lá chanh được thái thành sợi nhỏ nhìn rất nghệ thuật, Nam gắp một miếng chấm vào dĩa muối tiêu và đưa vào miệng ăn thử, thịt gà mềm và ngọt trộn lẩn với mùi thơm hăng hăng của vị lá chanh, đúng như Hai Tuất nói, anh khen:

        - Ừ, thịt gà luộc ngon quá

        Ba Du cười khi nghe Nam gật gù khen, nên nhìn qua Hai Tuất:

        - Ở đây nhờ anh có Hai Tuất nuôi mấy con gà, nên thịt nó mới ngon được như vậy, chớ món này đâu có cần chế biến gì nhiều

        Thấy Ba Du khiêm tốn về tài nấu nướng của mình, Hai Tuất gắp một miếng đùi gà to bỏ vào chén cho Ba Du, nốc cạn ly rượu cười:

        - Hồi xưa đi lính trong quân đội huấn luyện, đào tạo ra sao mà bây giờ cái gì ổng cũng làm rất khéo, làm rẩy, đánh cá, làm mộc sửa nhà, đóng xuồng, bẩy thú rừng, còn đi rừng thì không thua gì dân trong buôn
        - Chút đỉnh tài nghệ đó bây giờ chỉ đủ sống ở đây thôi, nhờ có anh, Năm Bình, Điểu Sơn và bà con trong buôn Bù Đon giúp đỡ tui lúc mới lên đây
        - Ba Du cười nói tiếp
        - Lúc còn ở trong đồn điền cao su Tây, lâu lâu thấy mấy ông lính và anh Ba đến làm công tác khám bệnh, phát thuốc men cho dân, ông già tôi mến mấy anh lắm, ổng cứ nói với tôi ra hỏi anh em lính xem có đói bụng không, trong nhà nấu nướng cho mấy anh ăn uống, ông già biết lính tráng rất khổ, xa nhà, đanh nhau chết chóc … vì vậy khi nấu bếp cho chủ đồn điền có cái gì ngon như rượu tây, bánh trái … ổng hay đem về để ở nhà, có dịp mấy anh đi qua, ổng kêu tôi đem ra cho anh em ăn uống chút đỉnh cho vui - giọng Hai Tuất như chùng lại, rồi cạn ly rượu

        Ba Du nhìn Hai Tuất với vẻ chân tình:

        - Lúc đó lội rừng hành quân cả tháng trời, ra đây thấy anh cầm chai rượu, bánh ra cho anh em lính, đang thèm rượu mà có chai rượu tây uống, đã quá trời, nên tụi tui rất mến gia đình và bà con trong đồn điền, riêng tui thì nhớ ông già nhiều lắm

        Hai Tuất nhìn ra cửa sổ về hướng bờ hồ như hồi tưởng lại:

        - Tụi nó pháo kích bừa bải vào trong đồn điền làm người chết, bị thương, nhà cửa sụp đổ … khi lính mấy anh rút đi, bọn nó về nhưng bà con sợ, không dám ra … thời gian sau, lúc hai bên đánh nhau và Tống Lê Chân đang bị bao vây, khi biết tiểu đoàn của anh Ba rút về đến An Lộc sau hơn cả năm trời kẹt trong căn cứ, đa số bà con ở đồn điền lúc đó mừng lắm, còn trong gia đình tôi thì ông già chỉ nói mỗi câu là không thể tin được

        Ba Du trầm ngâm ngồi nghe, đôi mắt hơi nhíu lại, rồi rót thêm rượu vào ba cái ly và nhìn về phía Nam:

        - Ông già anh Hai làm đầu bếp cho gia đình ông chủ đồn điền, thỉnh thoảng khi anh em biệt động quân vô khám bệnh hoặc làm công tác dân sự giúp bà con, ổng cũng hay đến hỏi thăm anh em và gửi cho chai rượu, bánh trái … ông già thương lính lắm, rồi trong đồn điền cũng có một số tay nằm vùng báo cho tụi du kích, gia đình bị tụi nó về làm khó dể, hăm dọa, tội nghiệp năm 74 gần hết chiến tranh gia đình bị trúng đạn pháo kích, ông già mất, anh Hai Tuất bị thương cái chân nên phải về Saigon chửa trị, về sau này tui và ảnh có gặp nhau dưới đó, anh em mừng quá, tội nghiệp ông già …

        Nam ngồi nghe hai ông “bạn già” nói chuyện với nhau rất hợp ý và nhiều cảm xúc, có vẻ vì vậy mà họ rất thân với nhau trong cảnh xã hội thay đổi điên đảo này, Hai Tuất không ăn nhiều, chỉ ngồi uống rượu, lâu lâu lại gắp một miếng cho vào chén Ba Du hoặc Nam. Đong đưa nhẹ cái chân giả dưới gầm bàn Hai Tuất nói:

        - Cái chân này cũng nhờ có Ba Du quen bên chỗ phục hồi chức năng quân đội kiếm cho nên xài tốt và bền đến bây giờ, đồ của đế quốc Mỹ có khác - Hai Tuất cười khôi hài

        Ba Du tỏ ra yêu thích chó, nhìn thấy hai con chó lớn nằm gần cửa, thỉnh thoảng nó đảo mắt nhìn chủ và hai ông khách ngồi nhậu trên bàn đang say sưa nói chuyện, Ba Du thấy vậy gắp hai khúc xương chân kêu tụi nó lại và bỏ xuống.

        Nam bổng chú ý thấy cái chén nhỏ đựng nước mắm gừng trên bàn, nó bị sứt mẻ một mảnh trên miệng và có vài vết rạn nứt, xung quanh có hoa văn xanh dương đậm hơn trên nền xanh lơ, nhìn rất khác lạ với những cái chén kia, cái chén có vẻ cổ xưa.

        Tâm trí anh lại quay về với hai thùng đồ cổ, không biết cái chén anh đang thấy trên bàn có phải là “đồ cổ” không, và nếu là đúng, thì từ đâu Hai Tuất có nó, trong nhà còn cái nào giống như vậy không. Một loạt các câu hỏi bổng xuất hiện trong cái đầu đang lâng lâng vì rượu mít dịu ngọt của Hai Tuất, anh không dám cầm cái chén lên xem vì sợ gây chú ý, và cũng không dám nhìn quá chăm chú vào nó.

        Nam suy nghĩ miên man, Ba Du và Hai Tuất vẩn đang nói chuyện với nhau nên không để ý nảy giờ anh không ăn uống gì, dù dĩa thịt gà trên bàn còn nhiều.

        Đang tự hỏi có cách nào để biết cái chén mẻ đó có đúng là đồ cổ không, vừa lúc trong đầu anh nghĩ ra một phương cách, Ba Du ngưng nói chuyện và rót rượu nâng ly mời:

        - Chú Nam uống và gắp mồi đi chớ!

        Anh và Hai Tuất cầm ly lên và ngửa cổ uống cạn, rượu ngâm mít có vị dịu ngọt rất dể uống, nhưng độ cồn vẩn cao, nên sau khi mỗi người uống hết khoảng một xị, Nam thấy chếnh choáng, mặt mủi đỏ bừng.

        Lấy đũa gắp miếng thịt gà chấm vào chén nước mắm gừng, đưa lên miệng nhai, anh thưởng thức vị béo, cay hòa lẩn với vị ngọt của rượu còn đọng ở cổ họng. Hơi rượu làm anh bạo dạn hơn, Nam nghĩ, nếu hỏi một, hai câu về xuất xứ của nó chắc Hai Tuất hay Ba Du cũng không đoán ra chuyện gì đâu, xem như anh tò mò một chút vì thấy nó lạ. Nam cầm cái chén cũ lên và xoay qua lại vài vòng để nhìn rỏ hoa văn và những ký tự như chữ Hán trên đó rồi hỏi:
        - Cái chén này thấy lạ là, anh Hai Tuất chắc mua nó lâu rồi hả?

        Hai Tuất đang ngồi nói chuyện với Ba Du về thu hoạch mùa đậu và bắp sắp tới, nghe Nam hỏi, liền ngưng câu chuyện dở dang và nói:

        - Cái chén đó có cũng lâu rồi, trước năm 75 lúc ông già còn làm đầu bếp, ông chủ Tây và gia đình bỏ về Saigon vì thấy chiến tranh mỗi lúc một đến gần đồn điền, ba tôi thì ngày ngày vẩn đến dọn dẹp, trông coi nhà bếp, một hôm sau khi khu nhà bị trúng đạn pháo làm sập một góc và một phần nhà bếp, ổng đến dọn dẹp mấy món đồ đạc bị vở nát, thì thấy vài cái chén cũ nằm lăn lóc, sứt mẻ nằm trong góc tường đổ, ổng thấy lạ nên tiếc đem về xài … bộ chú Nam biết coi đồ cổ hả - Hai Tuất vừa hỏi vừa cười, ánh mắt như dò hỏi.

        - Dạ không, thấy nó là lạ nên hỏi cho biết thôi
        - Ba Du còn nhớ ông chủ đồn điền Tây không – Hai Tuất hỏi


        (còn tiếp)
        Last edited by khongquan2; 11-13-2016, 06:09 PM.

        Comment


        • #5

          - Ừ, cũng còn nhớ mang máng, đôi lúc thấy tụi tui đi hành quân hay công tác ngang qua, ông ta đứng từ xa nhìn lại, anh em lính có khi cũng lấy tay chào, nhưng có vẻ ông ta không có thiện cảm lắm…

          Nghe Ba Du nói, Hai Tuất chậm rải giải thích:

          - Thật ra ông ta là người chủ tốt, trong thời kỳ chiến tranh mà đồn điền đang nằm trong vùng ban ngày là quốc gia, ban đêm thỉnh thoảng việt cộng mò ra, nên ông ta khôn ngoan không tỏ ra có cảm tình với bên nào vì sợ bị tụi việt cộng về hăm dọa công nhân và đốt phá nhà cửa … thỉnh thoảng khi còn lại một mình ba tôi ở lại dọn bửa tối, ông ta nói là biết một số công nhân trong đồn điền làm nằm vùng của tụi du kích trong rừng, nên không muốn rắc rối với tụi đó.

          Lấy bao thuốc lá của Ba Du để trên bàn mời Nam, rút một điếu Hai Tuất lấy quẹt châm hút và nói tiếp:

          - Đời sống công nhân cao su thời đó khá hơn bây giờ nhiều, dù bị mang tiếng là bóc lột nhưng được trả lương đầy đủ, con cái được đi học, bệnh hoạn có thuốc men hoặc đưa vào bệnh viện.

          - Ông ta về Pháp luôn hay có trở lại Việt Nam lần nào sau năm 75 không – Nam hỏi

          - Nghe mấy ông bên nông trường nói là vào năm 78, ông ta có trở qua Việt Nam và nhờ tòa đại sứ Pháp can thiệp về cái đồn điền cao su này, họ có đến ủy ban tỉnh hay sao đó, nhưng có lẻ thấy chuyện đòi lại đồn điền không dể dàng gì nên về bên kia luôn, không thấy trở lại nửa!

          Ba Du vừa uống xong ly rượu liền hỏi:

          - Nghe ba anh và công nhân nói tài sản ông chủ Tây rất lớn phải không?

          - Ừ, họ rất giàu có, tài sản rất nhiều, nhà cửa ở Saigon, Vũng Tầu, Đà lạt … và nhiều nơi khác, đặc biệt là ông ta mê sưu tầm đồ cổ Trung hoa, Việt Nam, Miên, Lào … nhưng quí giá nhất là các món đồ cổ Trung hoa và Việt Nam, khi ba tôi còn làm đầu bếp, đôi lúc ổng cho người làm chạy đến nhà kêu tôi vào ông nhờ chút việc, gặp ông chủ cũng đang ở nhà bếp, thấy tôi vào, ông ta vui vẻ cười, bắt tay và dẩn lên nhà trên giới thiệu với bà vợ, và cho rất nhiều bánh kẹo, đồ chơi, đồ đạc trong nhà sang trọng và đẹp lắm, tôi thấy có hai cái tủ gổ kính trong có trưng bày nhiều chén, dĩa, bình, lọ cổ … Sau đó không biết ông ta đem đi đâu, có người đồn là ông ta không đem về Saigon mà chôn giấu đâu đó trong khu đồn điền này …

          Nghe Hai Tuất kể đến đó Nam chợt tỉnh táo lại như người vừa bị luồng điện chạy qua, anh hút vài hơi thuốc lá cho đầu óc bình tỉnh, vậy là hai thùng đồ cổ ông quản gia kể lại với ba anh là có thật, nhưng nơi chôn giấu thì Hai Tuất cũng không biết, có chắc là nó ở dưới bờ hồ đó không hay ở đâu?

          Hai con chó lớn đang nằm im lìm dưới tấm phản đột nhiên nhổm dậy chạy ra sân sủa vang, mấy con chó nhỏ đang nằm ngủ chen chúc bên nhau, cũng lồm cồm bò dậy chạy ra cửa ngoắc đuôi sủa theo. Hai Tuất và Ba Du ngưng câu chuyện đang nói về chiến tranh và ông chủ Tây, cả hai cùng lắng nghe và nhìn về phía con đường chạy ra từ bên trong xóm.

          Một người phụ nữ trung niên đội nón lá, mặc bộ bà ba đen chạy xe đạp trên con đường nhỏ về phía căn nhà, Hai Tuất nhìn qua khung cửa sổ và nói:

          - Bà xã tôi về, chắc việc xin giấy tờ ở ngoài xã xong rồi.

          Dựng chiếc xe đạp phía sau có chở cái bao vải vào trong sân, người phụ nữ vừa bước qua cửa nhà, thấy có khách quen là Ba Du và Nam đang ngồi nhậu với chồng, bà xã Hai Tuất cười chào và hỏi bằng tiếng nam:

          - Anh Ba Du qua chơi hay có công việc gì đây?

          - Qua chơi thôi chị, sẵn xin con chó nhỏ cho chú Nam ở gần rẩy tui bên đó về nuôi giữ nhà.

          Bà xã Hai Tuất nhìn Nam cười gật đầu:

          - Chú Nam ở dưới thành phố lên đây lâu chưa, làm rẩy cực lắm, dân Saigon có chịu nổi không?

          Nam hơi bối rối nhìn Ba Du và Hai Tuất đang ngồi cười cười bên kia bàn:

          - Dạ chắc rồi cũng quen chị Hai, có anh Ba Du giúp đỡ mấy tháng đầu nên cũng chịu được

          - Ở đây vắng vẻ, cực khổ, dân thành phố đi kinh tế mới lên một thời gian sau bỏ về gần hết, chỉ còn Ba Du là ở lại chịu cực, giỏi thiệt đó.

          Ba Du nghe bà xã Hai Tuất khen liền cười:

          - Giỏi sao bằng anh chị, từ trước 75 đến giờ vẩn sống ở đồn điền và trong cái làng xa xôi này

          - Mùa này năm nay bên đó bắp, đậu xanh tốt không?

          - Cũng tàm tạm, đợt này trong nông trường thiếu phân bón, nên tui cũng không xuống thêm được chút giống nào, đành chịu

          - Ra ngoài xã nghe nói nhu yếu phẩm cung cấp cho công nhân trong nông trường càng lúc càng thiếu, dân than thở quá trời, nhiều người bỏ làm công nhân quay về thành phố buôn bán chợ trời sống qua ngày, không biết sắp tới gạo, bo bo ra sao đây?

          Hai Tuất đang ngồi nghe bổng hỏi vợ:

          - Em xin giấy chứng nhận cho hai đứa nhỏ được không?

          - Ừ, được rồi, xã chịu xác nhận để hai đứa nhỏ về thành phố ở với bà ngoại và xin học dưới đó

          Ba Du nhìn Hai Tuất đang ngồi và thở ra nhẹ nhỏm:

          - Anh chị cho hai đứa nhỏ về Saigon ở với bà ngoại luôn hả?

          - Kỳ này gửi về Saigon ở nên hộ khẩu tạm chuyển về dưới đó, trên này thấy ăn uống thiếu thốn, bệnh hoạn không có thuốc men khổ cực quá, vụ này nhờ có quen biết mấy ông làm việc ngoài ủy ban nên xin cũng dễ.

          Hai Tuất phấn chấn rót rượu đầy vào ba cái ly:

          - Nào mời anh Ba và chú Nam.

          Bà xã Hai Tuất nói:

          -Anh Ba và chú Nam ngồi lai rai với ông xã tui nhe, đi nấu bếp đây.

          Ra chỗ xe đạp dựng trước sân, bà ta tháo sợi dây rồi cầm cái bao vải xanh đựng gạo ra chái bếp sau nhà. Những tia nắng chiều yếu ớt còn đang vương vấn trên rừng núi phía tây, ba người đàn ông ngồi uống rượu trong căn nhà nhỏ bên bờ hồ, khói bếp tỏa ra bay lãng đãng trong không gian lặng yên của cái xóm nhỏ một buổi chiều tháng giêng.

          * * *

          Con chó xin bên nhà Hai Tuất về được hơn tuần lể, Nam đặt tên cho nó là Đốm.

          Mấy ngày đầu thấy có vẻ nó hơi buồn vì nhớ nhà cũ và mấy con kia, nên hay đến nằm dưới tấm phản tre với vẻ ủ dột. Nam thấy tội nghiệp nó quá, vì vậy anh cho ăn uống và chăm sóc nó một cách trìu mến. Mấy ngày sau, con Đốm từ từ quen nhà và chủ mới nên tỏ ra dạn dĩ hơn và bắt đầu ra ngoài sân chạy tới, chạy lui.

          Mấy lúc từ ngoài rẩy về, anh hay đến gần chỗ nó nằm, kêu tên Đốm cho nó quen và đưa tay vuốt ve cái đầu nhỏ có màu lông đen, trắng rất mượt. Những lúc được ông chủ mới quan tâm như vậy, nó nhanh nhẹ chồm dậy hướng đôi mắt nhìn anh một cách thân thiết và nhè nhẹ vẩy đuôi.

          Đốm là giống chó ta nên nó không kén ăn, những bửa cơm nào có cá nó đều chén sạch và còn liếm cái lưỡi nhỏ tỏ ra thèm thuồng, vì vậy nó mau lớn, rất khỏe và hay chạy nhảy xung quanh nhà, thích đuổi theo mấy con gà ra vườn rồi đứng lại gầm gừ, sủa vang.

          Khi nhìn nó cúi thấp cái đầu xuống lăng xăng đánh hơi trong mấy bụi cỏ và cây trước sân, Nam nghĩ chắc sau này, nó cũng có thể săn được mấy con thú nhỏ trong rẩy, trong rừng như con chó Ki nhà Ba Du.

          Từ hôm thấy cái chén lạ và nghe Hai Tuất kể chuyện cũ, anh biết chắc là ông chủ đồn điền cao su trước năm 75 có bộ sưu tập nhiều món đồ cổ quí giá.

          Hôm nhậu bên đó, Nam đã cố quan sát nó rất kỹ và ghi nhớ lại các đường nét và hoa văn trang trí, còn mấy ký tự Trung Hoa thì anh không tài nào nhớ hết vì quá phức tạp, nhiều chi tiết.

          Chợt nhớ đến bảo tàng trưng bày đồ cổ nằm trong vườn thú ở Saigon, ngày xưa thỉnh thoảng anh vào trong đó chơi với gia đình hay bạn bè, Nam có xem các món đồ cổ Việt Nam và nhiều nước được sưu tập từ thời Pháp, đó là thời VNCH, và sau năm 75, anh cũng vào đó một vài lần.

          Anh nảy ra ý định về dưới đó một hoặc hai ngày để vào trong bảo tàng, tìm xem những cái chén tương tự như ở nhà Hai Tuất là của nước nào, tuổi của món đồ cổ như vậy thì được bao nhiêu năm?

          Quyết định xong nhanh chóng, Nam qua nhà Ba Du đề nhờ trông coi nhà giùm anh và gửi con Đốm ít hôm, Ba Du thấy anh về Saigon có vẻ vội vả nên hỏi:

          - Chú Nam có chuyện gì mà phải về dưới thành phố sang sớm mai vậy?

          - Cũng không có chuyện chi gấp gáp anh Ba, từ ngày lên đây cũng chưa về dưới thăm nhà lần nào nên lần này về thăm gia đình vài ngày rồi lên.

          Ba Du nghe nói tưởng anh nhớ nhà thật nên cười:

          - Ừ, để tui coi nhà và rẩy giùm cho, còn con Đốm thì cho nó qua đây ở đây với con chó bên này.

          - Anh Ba có gửi mua gì không?

          Ba Du chậm rải suy nghĩ rồi nói:

          - Chú Nam có rảnh ghé qua thăm bà già và gia đình tui giùm một chút được không?

          Anh liền gật đầu:

          - Dạ, được vì có thời gian mà anh Ba.

          Ba Du ghi cho anh địa chỉ và vài dòng vào một tờ giấy, và chỉ Nam cách tìm con hẻm nhỏ từ ngoài đường lớn vô đến căn nhà, và căn dặn Nam một số câu trả lời nếu có ai trong nhà hỏi han về tình hình trên này.

          Sực nhớ ra điều gì, Ba Du hỏi:

          - Ngày mai chú Nam khoảng mấy giờ đi ra ngoài xã, để tui lấy xuồng đi cho khỏe, xin giấy đi đường về thành phố chưa chú Nam?

          - Mai tính ra ngoài đó sớm rồi đi nhờ xe nông trường ra đường lộ đón xe ngoài đi cho nhanh, chắc khỏi xin giấy của xã vì cũng không có đem theo đậu, bắp gì về dưới thành phố.

          - Vậy sáng mai nghe tui kêu ngoài bờ hồ chú Nam chạy ra nghe.

          Nam gật đầu và chào Ba Du ra về, anh nhìn con Đốm đang nằm ở góc nhà gần chỗ con Ki. Nó hướng đôi mắt lên nhìn Nam với vẻ ngơ ngác như hỏi anh tại sao nó phải ở đây, Nam cười và nói:

          -Đốm ở đây với con Ki nghe, mày đừng chạy đi ra ngoài một mình, coi chừng bị lạc!

          Tối đó Nam đi ngủ sớm hơn mọi khi, nằm trên tấm phản suy nghĩ nhiều thứ nên trằn trọc, khó nhắm mắt.

          Anh cố sắp xếp lại các sự kiện về hai thùng đồ cổ mà anh biết thêm được từ lúc lên đây, đến lúc qua nhà Hai Tuất về, thấy bí mật này dần dần sáng tỏ và có lý.

          Vì ngoài người quản gia cũ của đồn điền, một số người làm khác cũng biết về chuyện này, nhưng họ không biết chắc là bây giờ nó ở đâu.

          Địa điểm chôn dấu thì chỉ có hai người biết chính xác, ông chủ Tây thì không bao giờ quay lại đây nửa, có lẻ ông ta biết là không thể làm gì để lấy lại cái đồn điền này, nên chấp nhận mất luôn hai thùng đồ cổ quý giá. Còn người quản gia ở dưới thành phố vì biết đồn điền bị chiến tranh và bom đạn tàn phá khốc liệt, thiêu rụi hầu như toàn bộ cơ ngơi xưởng máy, kho bãi, nhà cửa … nên ông cũng không hy vọng gì tìm lại được.

          Bây giờ anh là người biết nhiều nhất, nhưng thật ra không dể dàng gì để tìm hai thùng đồ cổ đó. Nếu tin vào lời nói của người quản gia là sự thật, thì hiện nay nó đang nằm đâu đó gần khu rẩy của anh và Ba Du, sâu dưới lòng hồ nước.

          Chưa kể đến chính quyền địa phương, tụi du kích và Tư Có hay bất ngờ đi tuần ngang qua đây, Tư Có và du kích xã cũng rất nguy hiểm, để họ biết anh có tin tức về hai thùng đồ cổ này, chắc họ không để cho anh yên.

          Nam nằm thiu thiu ngủ trong bóng tối của căn nhà nhỏ, anh nghe lơ mơ tiếng những con chim ăn đêm kêu xáo xác ngoài bờ hồ. Những cơn gió thổi lành lạnh qua khe vách căn nhà tạo thành những tiếng vi vu nho nhỏ bên tai.

          Sáng sớm trời con tờ mờ đã nghe tiếng gọi của Ba Du lẩn trong màn sương khói đang bao trùm lên cây cỏ và hồ nước, Nam nhanh nhẹ khép cửa căn nhà nhỏ và đi theo lối mòn ra chỗ Ba Du và chiếc xuồng đang chờ. Anh lên ngồi phía mủi, cả hai đã quen với việc này nên bốn cánh tay cùng nhịp nhàng bơi làm chiếc xuồng lướt nhẹ nhàng trên sóng nước nhấp nhô.

          Hai bên bờ cảnh vật cảnh vật ruộng rẩy, núi rừng vẩn còn ngái ngủ trong cơn gió lành lạnh cuối đông. Thỉnh thỏang từ trong các cánh rừng chồi nằm sâu bên trong, những tiếng kêu vang thành từng tràng dài của các loài thú ăn đêm nghe lạc lỏng và pha chút ghê rợn giữa miền đất rừng hoang vu.

          Ra đến gần xã Ba Du nói:

          -Để nhờ Năm Bình kiếm xe trong này cho chú Nam quá giang ra quốc lộ đón xe đò

          Rồi cho chiếc xuồng cập nhẹ nhàng vào chỗ cũ dưới cây me, Nam nhảy lên bờ tìm chỗ cột dây xuồng và chờ Ba Du.

          Hai người đi về hướng quán cà- phê của Năm Bình, trên con đường đất đỏ chạy qua trung tâm xã, vài chiếc xe máy cày kéo rờ-móc chạy ngang qua, lác đác từng tốp công nhân của đang đi ra bãi tập trung trước căn nhà gổ dùng làm trụ sở nông trường để xe chở ra lô cạo mủ cao su.

          Trời còn sớm nên quán chưa mở cửa, Ba Du lấy tay gõ vào cánh cửa gổ kêu Năm Bình, có tiếng chân trong nhà và tiếng hỏi vọng ra:

          - Ba Du hả, hôm nay đi đâu mà ra ngoài này sớm vậy?

          Một bên cánh cửa quán mở ra, Năm Bình thấy hai người đàn ông đang đứng chờ liền mỉm cười, Ba Du vổ nhẹ vai Nam:

          - Chú Nam hôm nay có công việc đi về thành phố, nhờ anh Năm kiếm giùm xe quá giang ra lộ đón xe đò về dưới cho sớm

          - Ừ, được! anh Ba và chú Nam vào quán ngồi chơi chút đi, tôi ra bãi xem có xe nào ra đó liền không, làm ly cà-phê nhe, tôi kêu bà xã pha

          - Chú Nam muốn đi gấp, chút nửa anh Năm về làm sau cũng được

          Năm Bình vào trong nhà dắt chiếc xe đạp ra đường và chạy về phía trụ sở nông trường. Khoảng năm phút sau, có tiếng xe quay về, Năm Bình dựng xe trước mái hiên nhìn Nam nói:

          - Chú Nam ra đây tôi dẩn đi, có chiếc xe sắp chạy ra ngoài lộ chở hàng sớm về cho trong này

          Anh gật đầu chào Ba Du và theo Năm Bình ra bãi tập trung đoàn xe của nông trường. Chiếc xe máy cày có rờ-móc phía sau chở Nam ra đến quốc lộ và bỏ anh xuống bên lề đường.

          Nam đứng luôn tại chỗ đón những chiếc xe đò hiếm hoi từ thị xã Bình Long – An Lộc chạy ngang qua đây, hàng ngày chỉ có năm, sáu chuyến chạy về thành phố nên phải ra đón sớm.

          Thấy có chiếc xe từ trên con dốc đang chạy tới, Nam đưa tay ra dấu, chiếc xe đò có màu sơn xanh xám cũ kỷ và tốc độ chậm rì đang bò trên con đường nhựa làm tăng thêm cái vẻ thảm hại bên ngoài của nó.

          Chờ cho chiếc xe dừng hẳn lại, anh hỏi tay lơ xe đen ốm ngồi băng ghế đầu bên phải:

          - Về Saigon?

          Hắn ta nhìn Nam gật đầu và mở chốt cửa bên hông cho anh bước lên, trên xe mới chỉ có sáu, bẩy hành khách, nên còn khá trống trải. Anh ngồi vào ghế ngay phía sau lưng tay lơ , chiếc xe mệt mỏi rướn mình chạy tiếp trên con đường nhựa dài hun hút uốn lượn qua lại trên các dãy đồi đất đỏ.

          Từ sau năm 75, do tình trạng xăng nhớt thiếu thốn, nên những chiếc xe đò được chế lại và gắn thêm một cái thùng tròn đốt than phía sau, để giúp nó chạy được quảng đường dài hơn, nếu hành khách phải ngồi gần chỗ cái thùng thì rất khó chịu vì hơi nóng từ cái lò tỏa ra trên suốt chặng đường đi. Do vậy mỗi lần phải đi đâu trên những chiếc xe cổ lổ đó, anh cố tìm chỗ ngồi trên các băng ghế ở xa nó cho thoải mái hơn.

          May mắn, hôm nay chiếc xe chạy một mạch qua các trạm dọc đường một cách suông sẻ, một vài nơi, mấy tay du kích ra xét hỏi giấy tờ và hàng hóa rồi cho xe chạy qua luôn, khi qua khỏi cầu Bình Triệu vào đến thành phố thì đã hơn hai giờ chiều.

          Nam thấy vẩn còn thời gian nên quyết định đến nhà Ba Du ở khu đường rầy Gò Vấp trước, để ngày mai còn rảnh rổi vào bảo tàng viện trong Thảo Cầm Viên.

          Anh xuống bến gần ngả năm Thanh Đa và kêu xe đạp ôm chở về khu vực gần ga Gò Vấp. Nhìn lại địa chỉ nhà Ba Du có đến hai cái “xẹc”, Nam đoán chắc là nó nằm trong một hẻm nhỏ ở gần đây.

          Rồi nhớ lại sự chỉ dẩn của Ba Du lúc còn trên rẩy, anh đi theo con đường đất lởm chởm vào sâu bên trong khu xóm nhà cũ kỹ. Gặp một phụ nữ trung niên đang đứng trước cái cổng nhỏ, anh dừng lại hỏi thêm:

          - Dì cho hỏi nhà anh Ba Du ?

          Bà ta liền đưa tay chỉ về cuối hẻm và nói rẽ trái, đi thêm một đoạn nửa là đến, Nam bước theo hướng người phụ nữ chỉ, đến gần cuối đường anh quẹo vào cái hẻm nhỏ.

          Đứng trước căn nhà bằng gổ có mái tôn rỉ sét màu nâu, rồi nhìn vào cái bảng số, thấy đã đúng địa chỉ, phía trước có cái sân nhỏ tráng bằng xi-măng và vài chậu cây kiểng, cổng rào đang khép hờ.

          Cửa nhà đóng kín, không khí xóm nhỏ ở ngoại ô im lìm trong ánh nắng chiều. Nam lên tiếng gọi chủ nhà hai, ba lần mà vẩn không thấy ai ra, chờ khoảng vài phút anh định mở cái cổng để vào bên trong. Chợt nhà kế bên có một chú bé cỡ độ mười hai, mười ba tuổi chạy ra, Nam hỏi nó:

          - Bên này có phải nhà bà Sáu má chú Ba Du không?

          - Dạ phải chú, để con gọi bà Sáu cho chú!

          Rồi nó cười và chạy qua sân nhà Ba Du, vừa đẩy cửa vô nhà vừa gọi lớn tiếng:

          - Bà Sáu ơi, có người tìm cậu Ba nè!

          Lát sau một người phụ nữ trạc ba mươi, ba lăm, có vẻ lớn hơn Ba Du đi ra, phía sau một bà cụ tóc bạc nhìn rất hiền từ, có lẻ là má Ba Du. Cả hai nhìn vị khách lạ xuất hiện bất ngờ tại căn nhà của mình và cố đoán xem anh là ai.

          Nam lên tiếng chào và giải thích là người quen của Ba Du trên rẩy, hôm nay có công việc về Saigon và Ba Du có nhờ ghé vô nhà thăm và báo gia đình biết trên đó ảnh vẩn khỏe, rồi anh đưa tờ giấy nhỏ có ghi địa chỉ nhà và vài dòng chữ của Ba Du viết cho người phụ nữ trẻ.

          Nghe vậy, bà Sáu và cô chị của Ba Du mau mắn mời anh vào nhà, và rót cốc nước để lên cái bàn nhỏ mời anh uống.

          Nam ngồi nhìn phòng khách đơn sơ nhưng gọn ghẽ, gần cửa sổ là tấm phản gổ cũ lên nước nâu bóng. Gần trên mái là căn gác, trần nhà bên dưới đóng bằng các tấm giấy dầu các-tông lấy từ các thùng hàng của Mỹ, căn nhà mang vẻ ấm cúng.

          Bà má của Ba Du hỏi thăm về công việc rẩy bái và đời sống trên đó của Ba Du và anh rất lâu, bà cụ cũng tốt bụng hỏi thăm cả Nam và cuộc sống gia đình ở thành phố, còn người chị thỉnh thoảng chạy ra đứng nghe rồi lại đi vào trong nhà.

          Nam nhớ Ba Du có cậu con trai nhỏ, anh hỏi thăm:

          - Thưa bác, con trai của anh Ba Du đi học có gần nhà không?

          - Cháu tui nó học cũng gần xóm, chiều dì nó ra đón về, nó hay hỏi ba nó sao lâu quá không thấy về!

          Anh nghe xong cùng bật cười với bà cụ, trên nét mặt của bà lộ vẽ trìu mến khi nhắc đứa cháu trai của mình, anh vui vẽ nói:

          - Cháu sẽ nói lại cho anh Ba nghe khi về trên đó

          Uống thêm chút nước mát lạnh từ cái cốc, Nam đứng dậy chào cả hai và xin phép ra về.

          Từ nhà Ba Du ra, Nam đi theo hướng về ngả năm chuồng chó, vừa đi ngóng xem có chiếc xe đạp ôm nào chạy qua để ngoắc lại và leo lên ngồi cho đỡ phải cuốc bộ.

          Dừng lại hỏi người đàn ông đang đứng dưới hàng tre nghiêng ngã bên con đường lộ nhỏ, hướng đi ra đường lớn, nơi có xe búyt về cầu Kiệu. Ông ta gật đầu và chỉ tay nói cứ đi theo con hẻm sẽ ra đến Nguyễn Kiệm, ở đó có chỗ đón xe về chợ Phú Nhuận, cầu Kiệu và qua quận 3.

          Không khí trong các xóm nhỏ ngoại ô nơi Nam đi qua mang vẻ đìu hiu, nghèo khổ. Chợt nhớ đến thân phận mình và những người dân Saigon còn kẹt lại đây sau năm 75, anh có cảm giác buồn chán về những năm, tháng còn lại dài lê thê, kiếp người sẽ tiếp tục đen đủi, mịt mùng.

          Bây giờ mong ước của anh là thoát ra khỏi cái chốn này, thành phố Saigon nơi anh sinh ra và lớn lên giờ đây như một người già nua mất hết sinh lực, đang trong cơn bệnh nặng không có thuốc chửa.

          Ra đến đường lớn, Nam đứng chờ dưới tấm bảng nhỏ sơn hai màu xanh, trắng ghi tuyến đường xe chạy qua, nó được treo lỏng lẻo trên cột điện rỉ sét bên vỉa hè và khua long cong theo từng cơn gió thổi qua.

          Vài ba người đàn ông, đàn bà xách hay mang những cái túi vải kaki cũng đang túm tụm lại đứng đợi xe quanh đó. Nhìn vẻ bề ngoài và nét mặt mệt mỏi, anh đoán họ là công nhân của các nhà máy quốc doanh ở khu sân bay và nhà máy quân đội cũ gần đây.

          Chiếc xe buýt từ hướng chợ Gò Vấp đang chậm rải chạy đến, trên xe chật ních người, Nam bước lên và định kiếm một chỗ đứng cho thoải mái, nhưng giờ này các bà đi buôn theo xe lửa về ga Gò vấp xuống hàng ở đây và công nhân nhà nước tan ca, đón xe về nhà đã nêm chặc lối đi ở giữa xe.

          Thôi đành phải chịu cảnh chen chúc cực khổ một chút, dù sao thì đứng ngắm đường phố từ trên xe còn thú vị hơn là cuốc bộ về nhà, Nam nghĩ trong đầu và mỉm cười.

          Chiếc xe buýt như bị thiếu hơi, nó chạy khật khưỡng lóc xóc trên con đường trống trải, hành khách hầu như im lặng, chỉ có mấy bà con buôn thỉnh thoảng rù rì nho nhỏ với nhau chuyện giá cả, mua bán trên tuyến xe lửa từ miền trung về đây, mấy ông công nhân trung niên hỏi han về số hàng nhu yếu phẩm ít oi vừa được mua theo tiêu chuẩn, nét mặt trầm ngâm nhìn xuống những căn nhà phố im lìm bên đường.

          Nam cố hít thở mạnh vì hơi nóng ngột ngạt của đám đông tỏa ra, nhớ lại những lần đi xe buýt trước năm 75, mọi người lên xe đều có ghế ngồi. Xe chạy êm ru, gặp lúc đông khách mà có mấy ông, bà cụ lớn tuổi hay bà bầu và mấy em nhỏ lên sau, ai cũng đứng lên nhường ghế trông thật lịch sự. Ôi Saigon ơi, đã xa xôi lắm rồi ngày đó, Nam thầm tiếc trong đầu.

          Vừa chạy qua ngã tư, cũng gần về đến nhà, bổng một tiếng nổ vang trời, hành khách dáo dác chưa hiểu có chuyện gì xảy ra. Chiếc xe bị nổ bánh xe phía trước, nó nghiêng hẳn về bên phải và như một con voi hoang dã nó lao nhanh như chớp lên lề đường theo đà xe đang chạy tới.
          Anh bị dòng người đứng ở giữa dồn đẩy mạnh về phía cửa trước, Nam chỉ kịp nắm chắc thanh sắt treo trên trần để khỏi bị đẩy đi, vài người ở phía sau ngã đè lên nhau. Mấy bà con buôn la hét, hoảng hốt khắp nơi, ông tài xế già nhanh tay lái lủi cái đầu xe cũ kỷ vào chân cột điện bê-tông ven đường tạo nên âm thanh va chạm điếc tai.

          Chiếc xe dừng ngay trên đường phố, hành khách hồn phi phách tán túa ra cửa nhảy xuống, Nam cũng nhanh chân theo mấy ông công nhân đứng gần phía trước, đang tức giận chửi thề đ.m dăm ba câu rồi mới chịu bước ra ngoài. Vài người dân đang đi gần đó lót tót chạy tới đứng nhìn cái vỏ xe bị nổ lòi cả ruột cao su ra ngoài.

          Nam dừng lại vài phút nhìn cảnh tượng móp méo thảm hại của cái đầu xe, còn tay phụ xế ốm, cao nhòng đứng kế bên lấy chân đá vài cái vào cái vỏ xe xẹp lép, rồi lắc đầu tỏ vẻ ngao ngán và đưa mắt nhìn những mảnh kính bể vướng vải khắp nơi. Từ ngày giải phóng vào, Saigon mới có mấy vụ xe buýt đang chạy nhanh bị nổ vỏ, hoặc bánh xe bị sút ốc, bù-lông văng ra đường tông chết người.

          Dân Saigon cũ hay hài hước, nổi máu chế giểu những cái chết từ trên trời rơi xuống đó, ai cũng thấy sợ hãi nó, nhưng rồi cũng phải mò ra đường kiếm sống. Hằng ngày dù có sợ, nhưng họ vẩn phải leo lên những chuyến xe chở hồn ma, bóng quế này để đi đi, về về với tâm trạng lo lắng may rủi. Hú hồn, cũng may là hôm nay nó không lủi trúng, hay gây chết chóc và làm bị thương cho người dân nào trên đường.

          Nam nghĩ, nếu để chết vì chuyện những chiếc xe buýt bị bể bánh vào lúc này thì vô duyên và uổng công quá, phải còn sống để truy tìm hai thùng đồ cổ đó và nếu thành công thì mới có cơ hội thực hiện giấc mơ từ lâu nay. Anh mong trời, phật phù hộ cho mình tai qua, nạn khỏi trong thời buổi đói khát, nhiều tai ương này.

          Nhìn quảng đường về cầu Kiệu thấy cũng không còn xa, Nam bước lên vỉa hè và đành cuốc bộ về nhà. Xa thành phố đã ba, bốn tháng nay, nên có dịp nhìn lại nhà cửa, người, xe … anh thấy vui lên đôi chút so với cảnh núi rừng hoang vu.

          Hai bên đường giăng đầy những khẩu hiệu màu đỏ ca ngợi cách mạng và cuộc chiến tranh chống lại quân Khmer đỏ và Tầu ở biên giới phía bắc, kêu gọi toàn dân tiến nhanh, tiến mạnh lên xây dựng XHCN.

          Nam chợt nhớ đến mấy thằng bạn thân học ở trường, cùng độ tuổi bị bắt đi bộ đội đánh nhau với bọn Pôn Pốt ở Campuchia, đứa thì mất tích không về, đứa thì thương tật, tàn phế, mấy đứa gia đình khá giả thì trốn khỏi các đơn vị, lén lút về Saigon vượt biên …

          Anh may mắn nhờ có ông cậu làm bên ngành y tế phịa ra tờ giấy chứng nhận cái chân bị thương tật nặng nên không phải đi bộ đội. Vì mấy năm trước, lúc về quê chơi anh trèo lên cây, và bị té vào cành cụt nhọn đâm vào đùi bên phải tạo nên cái thẹo rách da phải khâu rất nhiều mủi, ai nhìn thấy cũng “hết hồn”.

          Mỗi lần phường kêu lên khám sức khỏe nghĩa vụ, gia đình anh lo sợ lắm, tuy nhiên lúc vào khám, mấy ông “bác sĩ” bộ đội xem thấy cái sẹo dài, rồi nhìn tờ giấy chứng thương cũng của ông bác sĩ cách mạng dưới tỉnh, cộng với tướng đi có vẻ khó khăn và “dặt dẹo” của Nam, họ liền gạt tên anh ra. Đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự về đến nhà, ai cũng lo lắng hỏi nhỏ, thấy anh cười cười, mọi người mới yên tâm cười theo.

          Nhiều gia đình giàu có ở Saigon, có con trai tới tuổi đi bộ đội cũng xài mánh không đủ sức khỏe này để trốn tránh đi nghĩa vụ.

          Nam bước vào nhà, ai cũng ngạc nhiên nhìn vẻ phong sương của anh, rồi mẹ và bà chị hỏi thăm lăng xăng đủ mọi chuyện. Anh nói về có công việc chừng một, hai ngày, khi nào xong thì trở lại trên đó.

          Buổi tối ở nhà cơm nước xong, thấy cảnh trong xóm tối mò vì cúp điện, nhà ai cũng đèn dầu, đèn cầy loe loét, Nam lên gác nằm lấy vài cuốn truyện cũ ra đọc thư giản. Càng về khuya, cái xóm nhỏ gần chân cầu Kiệu chìm sâu vào màn đêm u tịch bên dòng kinh cạn, màu nước đen ngòm dưới ánh sao lấp lánh trên vòm trời cao.

          Sáng nay anh thức dậy trễ vì chuyến đi khá mệt mỏi hôm qua, sau khi ăn sáng theo kiểu “khoái ăn sang” xong, Nam mượn chiếc xe đạp ở nhà, chạy qua cầu và rẻ qua Tân Định , rồi đến chợ Đa-kao xuống đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đi thẳng đến cổng chính Thảo Cầm Viên.

          Gửi chiếc xe đạp vào bãi, anh đến chỗ mua vé vào cổng. Bà phụ nữ trung niên ngồi trong phòng bán vé thấy có người đến hơi sớm, nên tò mò đưa mắt nhìn ra. Nam thò tay trả tiền rồi lấy cái vé, anh muốn biết về giờ giấc mở cửa của phòng trưng bày đồ cổ nên hỏi:

          - Mấy giờ thì bên viện bảo tàng sẽ mở cửa?

          - Chín giờ !

          Và bà ta càng tỏ ra ngạc nhiên hơn, đăm đăm nhìn vẻ bên ngoài của anh, một chàng trai mặc bộ quần áo cũ, lượm thượm giống ông nông dân miền quê, mới sáng sớm đã mua vé vào cửa, và còn lại muốn vào coi phòng trưng bày cổ vật. Dân Saigon thời này đang đói ăn, rách mặc gần chết, còn hơi sức đâu mà đi coi thú, rồi nghiên với cứu mấy món đồ cổ đó!

          Nam chẳng để ý đến ánh mắt mang vẻ soi mói của bà ta, anh tà tà đi vào bên trong, quang cảnh còn vắng vẻ, im lìm, có lẻ anh là người khách đầu tiên trong ngày.

          Vài ba công nhân đang làm công việc quét dọn trên các lối đi ngẩng đầu lên nhìn khi thấy có người vào đây lúc sáng sớm.
          Nam đi về phía viện bảo tàng, hai cánh cửa gổ của ngôi nhà đồ sộ có mái ngói nâu đỏ còn đóng kín im lìm. Anh đến băng ghế đá cũ gần khu vườn thực vật ngồi nghỉ chân.

          Thỉnh thỏang nghe tiếng gầm như thở dài của mấy con sư tử, mấy con hổ vừa thức dậy từ chuồng sắt ở sâu bên trong. Vài con sáo bay sà xuống mặt cỏ, lò dò tìm bắt bọn côn trùng hay nhá nhá mấy đọt lá cỏ non bỏ vào bụng cho bửa sáng, gần đó đám chim sẻ lông nâu sồng líu ríu bay đuổi nhau qua các tàng cây thấp. Bọn nó được trời đất sinh ra với đôi cánh bay để nhảy khắp nơi, chằng phải bận tâm đến đói khổ, giàu nghèo hay các khẩu hiệu hô hào này nọ đang giăng mắc khắp thành phố, được sống như mấy con chim đó, anh nghĩ cũng sướng thật.

          Thấy cũng còn sớm, Nam đứng lên theo con đường lát xi-măng đi ngang chuồng đàn voi ra phía bờ rạch Thị nghè. Thủy triều đang lên, dòng nước lé đé ngập đến gốc hàng cây cao mọc gần bờ, mặt nước vắng lặng bên dưới tán lá xanh vươn ra xa bên ngoài, làm anh nhớ đến hàng cây rậm rạp đứng ven hồ nước trong khu rừng chồi trên rẩy.

          Không khí những buổi sáng ở đó thật vắng lặng và thật thơ mộng, nhưng ít ai ngờ, nếu đúng như người quản gia nói, ẩn chứa dưới đáy hồ là những món đồ cổ quí giá có thể làm thay đổi cuộc đời của nhiều người.

          Nam hy vọng là nó vẩn còn đang nằm ở ngay dưới đó, cho dù bom đạn trong các trận đánh nhau rơi xuống, đào sâu vào trong lòng đất đá, đồi núi và tàn phá khắp nơi.

          Thấy đã có nhiều người khách, và mấy nhóm học sinh tiểu học đi tham quan lao xao dừng lại bên chuồng mấy con voi, anh quay lại ngồi ở ghế đá cũ chờ đợỉ.

          Lát sau, hai cánh cửa của bảo tàng mở toang, chờ vài phút, anh đi qua khoảng sân trống phía trước, bước lên các bậc tam cấp vào bên trong.
          Đến xem cái bảng hướng dẩn dành cho khách vào tham quan khu đồ cổ, Nam đi về khu trưng bày các món đồ sành sứ thời các vua chúa Việt Nam, xa hơn nửa về bên kia là các món đồ cổ của Trung hoa, Chiêm thành, Miên, Ai Lao …

          Anh đi chậm rải và chú ý tìm những cái chén cổ có hình dáng và màu sắc như cái anh thấy ở nhà Hai Tuất, số lượng cổ vật được trưng bày ở đây rất nhiều, lần lượt dưới mắt anh là lọ, dĩa, bát, bình to, nhỏ và nhiều kiểu ký tự , hoa văn trang trí khác nhau …

          Thật rắc rối với một người không có chút chuyên môn hay kinh nghiệm nào về công việc tinh tế và phức tạp này, mà cũng thật hấp dẩn với một người đang bị mê hoặc bởi hai thùng đồ cổ mất tích của ông chủ đồn điền như anh.

          Nam rảo tới rảo lui vài lần bên những cái chén, dĩa, lọ, bình … ám màu thời gian có trên trăm năm, vẩn không thấy có món đồ cổ nào tương tự cái ở nhà Hai Tuất. Mặt trời buổi sáng đã lên cao, anh thấy nóng nực khó chịu trong cái áo kaki công nhân cũ có mấy miếng vá sau vai.
          Đi ngang qua chỗ mấy tượng nữ thần bằng đá thô của các triều đại vua Chiêm thành, anh đưa tay sờ vào thân tượng, cảm giác mát lạnh truyền vào người làm dể chịu. Đầu óc bổng nhiên suy nghĩ vẩn vơ, Nam nhớ về lịch sử của nước này và các ông vua Chiêm một thời rực rở với các công trình xây dựng đền đài, tháp cao đồ sộ kéo dài cả trăm năm, đến nay thì chẳng còn thấy đâu, chỉ còn lại những tàn tích đổ nát dọc dải đất miền trung Việt Nam, và một số những tượng cổ, những món đồ sành sứ trưng bày trong các bảo tàng, kinh đô Chiêm thành uy nghi ngày xưa nay còn lại chỉ là cát bụi thời gian …

          Anh đi qua hàng tủ kính sát trong góc, hàng chữ nhỏ trên bảng ghi chú đây là những món đồ sành sứ dùng trong các bửa ăn của vua, chúa nhà Nguyễn thời cực thịnh.

          Đưa mắt chăm chú quan sát từng cái chén, dĩa, tô … Nam chợt thót tim khi nhận ra một cái chén kiểu có hình dáng bên ngoài, cũng như họa tiết xanh lam như cái ở nhà Hai Tuất, còn các nét ký tự chữ Hán thì không tài nào nhớ và phân biệt nổi.

          Anh say mê đứng nhìn nó đang nằm im dưới lớp kính dầy, xếp cùng dãy với những cái chén, dĩa cổ khác, trong đó có cái vẽ hình rồng ẩn hiện, Nam đoán chắc là của vua dùng trong các bửa ăn.

          Sờ vào bao thuốc lá nằm trong túi áo, anh thầm nghĩ, có giấy để viết và vẽ lại rồi.

          Quyết ghi lại các ký tự chữ Hán khó nhớ, anh nhìn quanh xem có ai đang ở gần đó để mượn bút họa lại, nhưng chỉ có mình anh trong không gian vắng lặng của căn phòng.

          Đi một vòng ra ngoài, nhìn thấy một đám học sinh tiểu học đang được mấy cô giáo trẻ hướng dẩn các trò chơi và ca hát dưới bóng cây râm mát gần đó, Nam bước đến gần cô giáo và cười, gật đầu chào, anh nói muốn mượn cây bút để ghi lại một số công việc rồi sẽ trả lại. Cô giáo trẻ ngần ngừ nhìn chàng trai có vẻ ngoài nông dân, vừa đi ra từ hướng bảo tàng với nét mặt ngạc nhiên trong giây phút, rồi mở cái túi vải lấy ra cây bút chì đưa cho anh.

          Bước nhanh trở lại vào nơi trưng bày cái chén, Nam cố ghi lại chính xác các ký tự và một số đặc điểm trang trí khác của mấy cái chén, dĩa đó lên mặt trong của bao thuốc lá, và quay ra ngoài trả lại bút chì cho cô giáo trẻ đang cùng mấy đứa học trò nhỏ ca hát.

          Anh hăng hái ra bãi lấy xe đạp chạy về nhà, những gì mà anh biết dần dần được sắp xếp lại và tạo nên một bức tranh rõ ràng hơn.

          Bây giờ phải đến nhà thằng bạn cũ trước đã, nhờ ba nó là người biết chữ Hán, Nôm dịch mấy ký tự này xem nghĩa là gì. Anh mau chóng chạy xe qua cầu sắt Đa-kao, và quẹo vào con hẻm nhỏ đến nhà nó.

          Không có Huy ở nhà, anh cẩn thận xin cô em nó một tờ giấy khác viết lại những ký tự và gửi lại, hẹn tối nay sẽ ghé qua và rủ nó đi uống cà- phê, rồi đạp xe về nhà.

          Cả nhà thấy Nam về sau những tháng đầu tiên làm rẩy trên Bình Long, đầu óc anh có vẻ đang suy nghĩ chuyện xa xôi, khó hiểu nào đó. Vì ai hỏi gì anh cũng ừ ừ cho xong, nét mặt đăm chiêu, suy tư rồi lại đi tới đi lui, hay lên cái gác nhỏ nằm lì rất lâu trên đó, đến giờ cơm có ai gọi mới xuống.

          Riêng Nam không muốn cho gia đình hay biết ý định của anh, vì nói ra bây giờ thì chưa phải lúc và rồi không biết mẹ anh và cả bà chị có dám tin vào chuyện hai thùng đồ cổ đó hay không?

          Nếu ba anh còn sống thì có thể ông sẽ hiểu được, vì dù sao thì ông đã tận tai nghe câu chuyện đó từ người quản gia.

          Sáng nay sau khi vào bảo tàng xem gốc tích cái chén cổ và từ nhà thằng bạn về, ăn cơm trưa xong, Nam nghĩ ngơi một lát cho tỉnh táo lại.
          Buổi chiều anh hỏi mượn ở nhà thêm chút tiền và lấy xe đạp chạy vào Chợ Lớn, đến khu bán đồ linh tinh của quân đội cũ ngày xưa như ba-lô, quần áo, dây nịch, xẻng … ở dọc bến Hàm Tử, gần cầu Chà Và kiếm mua một vài thứ.

          Lúc còn đi buôn bán, một đôi khi anh đến đây để tìm mua các túi vải, dây cột … về đựng nông sản, dùng khi vận chuyển đi đường không bị rách, bể làm hao hụt.

          Đến chỗ quầy hàng quen của một người tầu tên A Chí, anh hỏi mua độ mười mét dây dù loại to. Lâu ngày gặp mối quen trở lại mua hàng, A Chí vui vẻ hỏi thăm:

          - Lâu quá mới thấy anh Nam, dạo này làm ăn có được không?

          Nam cười cười lắc đầu:

          - Lúc này đi buôn khó lắm ông chủ ơi, mấy trạm dọc đường dưới tỉnh xét kỹ lắm, tính nghĩ về làm nghề khác kiếm sống

          Ông ta vừa hỏi chuyện vừa nhanh nhẹ lấy cuộn dây dù cho anh xem và nói giá, kỳ kèo qua lại đôi chút, rồi cũng là mối quen nên chịu bớt. Nam móc bóp ra định trả tiền, chợt nhớ là còn một thứ cũng cần thiết, anh hỏi:

          - Ông có thanh thép từ khung ba-lô lính không?

          - Của ba-lô lính Mỹ hả?

          - Ừ, đúng rồi, cái đó dân thợ mộc, thợ làm giầy da hay chế thành dao xài bén lắm

          - À, cái đó có, nị chờ chút đi


          (còn tiếp)
          Last edited by khongquan2; 11-13-2016, 06:06 PM.

          Comment


          • #6

            Rồi quay qua nhờ ông già ở kế bên coi chừng giùm cái quầy, ông ta bước qua bên kia đường vào con hẻm độ dăm ba phút và trở lại chỗ Nam đang đứng đợi với thanh thép trên tay:

            - Đồ thiệt đó anh Nam khỏi lo, tui không bán đồ giả cho nị đâu, cái này mài thành dao xài lâu lắm mới hư, mệt nghỉ luôn!

            Anh hỏi giá, A Chí gục gặc trả lời:

            - Rồi bớt thêm luôn, nị có cần mài thành dao về xài luôn hông, tụi nó tính thêm tiền chút đỉnh?

            Nam muốn tránh rắc rối khi đi đường về trên Bình Long lúc qua trạm bị xét hỏi, tụi du kích thấy dao sắc, nhọn hay vặn vẹo, anh lắc đầu:

            - Cho thêm nị mấy cuộn dây ruột xe cao su về quấn làm cán luôn

            Anh trả thêm tiền, cười cám ơn ông ta, rồi cầm gói hàng quấn bằng giấy báo cũ bên ngoài, cột lên ghi đông xe và chạy về hướng Saigon.

            Trên đường về, anh suy tính sẽ dùng sợi dây thắt nút cách khoảng từng mét và một đầu buộc vào cục đá nặng, thả xuống hồ để thăm dò độ sâu, mỗi khi lặn sẽ bám theo nó để lên, xuống nước sẽ an toàn hơn. Còn thanh thép sẽ mài và cắt xéo phần đầu làm mủi dao rồi quấn cán cho dể cầm, nó rất hữu ích khi lặn xuống, lúc dây bị vướng hay rối cuộn vào cành cây, dùng nó nhanh chóng cắt chỗ rối, sau nửa là vũ khí phòng thân hữu hiệu vì con dao rất sắc bén và dẻo.

            Chiều tối, cơm nhà xong, khoảng 7 giờ 30 giờ anh dắt chiếc xe đạp ra định qua nhà Huy. Ôi, thôi chết, bánh sau xẹp từ lúc nào, Nam vào hỏi bà chị xem giờ này ông già vá xe đầu hẻm còn làm không, bà chị lắc cái đầu nói:

            - Năm, sáu giờ là ổng đi về rồi, mày chịu khó lội bộ đi, sáng mai đem ra vá
            - Sáng mai tôi lên đó sớm rồi, tính nhờ chị chở ra bến xe mà lại bị xì bánh sau rồi, thôi để nhờ thằng Huy

            Anh lót tót đi ra đường, lội bộ qua nhà nó để xem ý nghĩa của mấy chữ Hán vẽ trên cái chén vừa gửi cho ba nó dịch ra giùm. Ở trong rẩy lâu ngày, anh cũng quen dần với việc dùng đôi chân đi đây đó, nên quảng đường từ cầu Kiệu xuống nhà thằng bạn, đối với Nam bây giờ cũng không khó khăn lắm.

            Mới hơn bẩy rưỡi mà đường phố đã tối thui, một phần có lẻ do tháng giêng, phần đèn đường cái có, cái không. Lèo tèo vài chiếc xe đạp chậm chạp đi qua, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy với một ông áo xanh bộ đội, thân mình cứng còng trên yên, đầu đội nón cối chạy qua.

            Ngồi trong góc tối vỉa hè dưới các mái hiên nhà, những người dân bỏ vùng kinh tế mới ở các vùng rừng núi xa xôi, lang thang về Saigon kiếm sống qua ngày.

            Không khí thật buồn bả, ảm đạm, Nam nhớ con đường này trước năm 75 buôn bán tấp nập, đông đúc lắm, bây giờ nó lặng lẻ u buồn như con đường dẩn vào cái nghĩa địa nào đó.

            Ngang qua chợ nhỏ Đa-kao đang chìm trong bóng tối, anh băng qua cái cầu sắt cũ màu đen đường Bùi Hữu Nghĩa, xuống khỏi con dốc và quẹo vào cái hẻm nhỏ.

            Cái loa phường treo trên cột điện giờ này vẩn còn léo nhéo kêu gọi thanh niên đang tuổi nghĩa vụ quân sự ra phường khám sức khỏe đúng giờ vào sáng mai, tay đàn ông đang đọc thông báo trên loa với giọng khô khốc, lành lạnh cũng hăm dọa những ai trốn tránh sẽ bị bắt và cưỡng bức đưa đi cải tạo, học tập …

            Vừa đến nhà Huy, thấy nó đang đứng trước cửa nhà, Nam cười hỏi:
            - Mày khỏe không, ăn cơm tối rồi chưa?

            Huy cũng cười vì cả mấy tháng rồi mới gặp lại nhau:

            - Rồi, vô nhà đi, mày nhìn đen và phong sương quá
            - Ừ, chút nửa kiếm quán ngồi cà- phê nói chuyện, lâu quá …

            Nam ngồi chờ trên băng ghế nhỏ dưới hiên nhà, Huy vào trong mặc cái quần tây cũ và chút sau đi ra, tay cầm tờ giấy của anh đưa cho cô em nó ban sáng.

            - Đi Nam, qua bên Đa-kao uống cà- phê
            - Ông bà già đâu, chắc trong nhà hả?

            Thằng bạn gật đầu, cả hai đi bộ ra ngoài đường băng qua cầu, đến phía sau chợ vẩn còn một bà cụ kê vài cái ghế nhỏ bán nước và thuốc lá ở vỉa hè. Cả hai lấy ghế ngồi và cái khác làm bàn, Nam gọi hai ly đen, Huy hỏi:

            - Lên đó làm rẩy mày thấy ra sao?
            - Mới năm đầu chưa biết có làm được gì không, thu hoạch rồi mới biết, còn mày dạo này ngoài chợ trời khá không?
            - Kiếm sống qua ngày thôi, ở nhà không biết làm gì … ông già sắp tới bị cho nghỉ dạy, thấy bà già cũng lo lắng tao tội nghiệp quá …
            -Thằng An vượt biên mấy tháng trước có nghe tin tức gì không?
            - Ghé nhà nó hỏi thăm, em nó lắc đầu nói ở nhà không biết nó còn sống hay chết …
            - Có gặp tụi thằng Can và Ý không?
            - Lâu rồi không thấy hai đưa nó ghé chơi - Huy lắc đầu

            Nam lấy bao thuốc lá ra đưa Huy, anh châm lửa, khói điếu thuốc lá quốc doanh nằng nặng bay trong không gian hờ hững của đêm tháng giêng se se lạnh.
            Huy cầm tờ giấy buổi sáng của anh đưa, ra xem dưới ánh sáng lờ mờ của đèn đường và căn nhà phố kế bên rồi nói:

            - Ông già tao giải thích đây là mấy chữ Hán, thường dùng cho các món đồ sành sứ của triều Nguyễn, có lẻ là thời vua Gia Long hay sau này một chút … à, mà Nam, sao ở đâu ra có mấy chữ này, của nhà hả?

            Thằng bạn nhìn như dò hỏi, anh lắc đầu:

            - Ở nhà làm gì có mấy món đồ quí giá này, tao hỏi giùm một người bà con xa dưới quê bà già ở Mỹ Tho, họ nói có mấy món đồ gia bảo cũ có chữ Tàu không hiểu là gì, nên nhờ tao trên Saigon có quen ai biết tiếng dịch ra giùm họ, chắc bây giờ túng thiếu quá nên định bán kiếm tiền …

            Nam cầm tờ giấy bỏ túi, thấy vui trong bụng và biết ơn Huy rất nhiều, bây giờ chưa thể nói gì cho nó nghe, còn sớm lắm, anh nhấp ly cà-phê và hỏi nhỏ:

            - Ở nhà có cho ai vượt biên không?
            - Có nhiều vàng đâu mà đi, mấy chỗ quen đòi gần chục cây một người – Huy trả lời
            - Ừ, nhà tao mấy tháng trước, lúc ông già còn sống cũng vậy, ở dưới Mỹ Tho lên rủ đi mà họ lấy nhiều quá nên thôi … sáng mai tao lên lại trên đó mà xe đạp ở nhà lúc chiều lại xì bánh, mày qua sớm chở tao ra bến xe giùm nhé Huy!
            - Ừ, sáng mai tao qua sớm, tí có cần tao chở về không?
            - Thôi khỏi, tí nửa tao đi tà tà về được rồi

            Nam uống hết cà-phê, lấy bình trà rót vào ly và trầm ngâm hỏi:

            - Mày có tính tìm nghề khác hay đi làm cho nhà nước không?

            Huy im lặng một lúc rồi nói:

            - Xin vào chỗ ngon thì không dể đâu, lý lịch của tao cũng giống như mày, dân bắc kỳ năm 54, ông già là giáo sư văn chương, ông anh sĩ quan bị học tập cải tạo, nhà tao cũng đâu có bà con hay quen biết mấy ông cán bộ, còn không thì phải chi tiền … khó lắm

            Cả hai không biết nói gì, đành im lặng nhìn ra đường, mới hơn chín giờ mà các căn nhà phố dọc hai bên vỉa hè hầu như đã đóng cửa tối om, đường phố trơ trọi vắng bóng người qua lại.

            Vài người ăn xin nằm ngủ co ro dưới mái hiên căn nhà kế chỗ anh và Huy ngồi, thân hình tiều tụy, quần áo rách tả tơi, bên kia đường cũng vật vưởng hai bóng người lớn và hai đứa nhỏ nằm sát vào nhau trên vỉa hè trong bóng đêm.

            Thấy bà cụ lục đục dọn hàng để nghỉ, Nam hỏi tiền hai ly cà- phê hết bao nhiêu, rồi móc túi ra trả và cùng Huy đứng dậy.

            Anh vổ vai thằng bạn thân, hẹn sáng mai nhớ qua chở anh ra bến xe sớm.

            Mới 5 giờ sáng, Huy đã chạy xe qua chở Nam ra bến xe miền đông, anh mua được vé chuyến xe sớm nhất sắp chạy. Cám ơn Huy và hẹn thu hoạch xong mùa màng trên đó, sẽ về Saigon ăn Tết với gia đình và bạn bè cho vui.

            Cầm cái túi vải đựng mấy món đồ vừa mua hôm qua và chai nước để uống dọc đường, Nam bước lên xe tìm chỗ ngồi thoải mái gần tài xế, phía sau ghế tay lơ và chờ chiếc xe xuất bến.

            Xe chỉ còn vài ghế trống, mấy hành khách vẩn còn ngái ngủ, không ai buồn nói chuyện với ai.

            Thêm vài bà phụ nữ đội nón lá, quần áo bà ba nâu đen, tay xách những cái túi vải cuộn và cột lại thành khúc tròn gọn ghẻ như đòn bánh tét lên xe.

            Nhìn cách họ ăn mặc, nói chuyện và đi những chuyến xe vào sáng sớm thường là con buôn. Tuyến đường này họ mua các loại nông sản đậu, bắp, đường, khoai … ở Bình Dương, Bình Long về bán lại cho các chợ ở thành phố, dĩ nhiên là chợ đen.

            Thấy đã đủ người, tài xế bắt đầu nổ máy, tay lơ xe ra phía sau cầm khúc cây to gõ gõ vào cái thùng đốt than nóng rực như để đánh thức nó dậy, chiếc xe như ông cụ già bị bệnh phổi kêu lên khù khụ vài tiếng và rùng mình rồi từ từ lăn bánh ra khỏi bến.

            Vượt qua cầu Bình Triệu, chiếc xe khách cũ kỹ chạy ra quốc lộ 13 còn vắng vẻ, hai bên đường những mảnh vườn và ruộng lúa hoang vắng tiêu điều, buồn bả như chốn không người.

            Nam dựa vào thành xe chợp mắt, cái túi vải để sát bên chân, anh không muốn để mất nó.

            Xe chạy với tốc độ đều đều, có lẻ đã quá quen với những chuyến xe chạy tuyến đường này, mấy bà đi buôn lấy nón lá úp lên mặt, dựa vai nhau ngủ ngon lành. Hàng ghế trong góc bên trái, cặp vợ chồng trung niên mặt mủi gầy gò, hiền lành giống nông dân lấy mấy củ khoai luộc ra ăn.

            Không khí trên xe lặng im như tờ, chỉ có âm thanh gầm gừ phát ra từ cái đầu máy xe cũ dưới nắp ca-pốt mỗi khi lái xe tăng tốc.

            Nam cũng chợp mắt vì không biết làm gì, trời còn quá sớm, chắc mới khoảng hơn 5 giờ rưởi.

            Chiếc xe đang chạy bon bon, thấy có khách đưa tay đứng đón bên đường, tay lơ đập vài cái vào thành xe ra hiệu cho lái xe dừng lại, tiếng động ầm ầm làm Nam giật mình tỉnh táo lại đôi chút.

            Hành khách vừa bước lên là chàng thanh niên trẻ mặc quần áo xanh bộ đội, đầu đội nón cối được nhét ngồi chung ở băng ghế sau cùng gần thùng đốt than.
            Chiếc xe tiếp tục lăn bánh qua đoạn đường dài lên Bến Cát, rồi đến thị trấn Lai Khê, giờ này có lẻ còn hơi sớm, nên các trạm kiểm soát dọc đường lơ là chuyện xét hỏi giấy tờ. Mỗi khi xe chạy đến một cái trạm nào đó, nằm gần mấy thị trấn, thị xã, lái xe giảm tốc độ và nhìn vào lề đường coi có tay du kích, công an nào ra ngoắt chận lại hay không, nếu không không có ai, ông ta nhấn ga cho chiếc xe chạy nhanh qua luôn.

            Mặt trời đã lên khá cao, chiếc xe bắt đầu chạy qua những cái dốc mỗi lúc lại dài và cao hơn.

            Đôi khi gặp cái dốc quá cao, chiếc xe đò củ kỹ như tay cua-rơ đường trường bị đuối hơi, nó khựng khựng lại, tay lơ liền đi len lỏi qua các hàng ghế sau, đến gần cái thùng đốt than, chỉ tay bộ đội trẻ ngồi ép về bên kia tránh chỗ. Hắn ta lấy khúc gổ chèn bánh xe đập mạnh vào cái thùng mấy cái để than trong đó rớt xuống và cháy mạnh hơn, nhằm tiếp hơi cho chiếc xe vượt lên con dốc.

            Nam thì mong nó chạy nhanh hơn và không bị sự cố nào phải nằm dọc đường, sớm đến chỗ rẻ vào nông trường cao su, rồi đón xe quá giang vào đến trong đó khoảng hai, ba giờ chiều, từ đó lội bộ về nhà cùng phải thêm gần tiếng nửa. Chạy thêm được một quảng xa, thấy địa thế bên lề đường khá bằng phẳng trên con dốc, lái xe từ từ dừng lại gần một lô cao su.

            Mọi người như hiểu ý, lục tục đi xuống để xả “xú bắp”. Nam đi tà tà theo tay lơ vào khuất sau mấy gốc cây cao su, các bà con buôn tản ra và cẩn thận đi sâu hơn vào bên trong. Trên xe chỉ còn lại đôi vợ chồng trung niên lặng lẻ ngồi chờ trên con đường vắng vẻ.

            Lát sau mọi người xong công việc từ từ ra xe với vẻ tươi tỉnh hơn, Nam tính chỉ còn qua trạm kiểm soát tại Chơn Thành và chạy thêm khoảng tiếng nửa là đến ngã rẻ vào nông trường.

            Chợt có tiếng la thất thanh của cặp vợ chồng còn ở trên xe, Nam giật mình nhìn ra , chiếc xe đang từ từ tụt xuống con dốc phía sau, mọi người cùng la lên và bất lực nhìn nó càng lúc càng chạy lùi xa hơn.
            Tay lái xe chửi thề một tiếng lớn, ông ta lúng túng cài khuy quần và chạy nhanh xuống dốc đuổi theo chiếc xe, phía sau là tay lơ cũng đang phóng theo như bay.

            Cảnh tượng rượt đuổi giữa người và xe trông thật ngoạn mục, độ vài phút sau, lái xe kịp chạy đến gần, rồi bám vào cửa bên trái và nhảy lên cabin, ông ta nắm vô-lăng và đạp thắng cho chiếc xe đổ dốc chậm lại, cũng may lúc đó trên quốc lộ còn đang vắng vẻ.

            Nhìn tay lơ với bộ dạng ốm o cố chạy đuổi theo chiếc xe thật khôi hài như trong phim, Nam và mấy bà con buôn không thể nhịn cười được. Cuối cùng thì hắn ta cũng nhảy lên được phía sau, rồi dùng khúc gổ vuông chèn vào bánh xe đang nằm im bên đường. Chiếc xe nổ máy và từ từ leo lên lại con dốc nhỏ, hành khách nói chuyện, bàn tán lao xao và đứng đợi.

            Tay lái xe có vẻ tức giận, dừng lại cho mọi người bước lên, ông ta nhìn tay lơ mặt còn xanh xám như chàm, chửi thề một tràng dài:

            - Đ.m, biểu mày mấy lần dừng xe là nhớ lấy khúc gổ chèn bánh liền đi, … không biết mày lo nhớ nhung mấy con nhỏ nào dưới đó!

            Mấy bà con buôn lúc nảy còn la hét hoảng hốt, bây giờ nhìn nhau mỉm cười khi nghe ông tài xế chửi tay lơ xe chuyện bồ bịch của hắn ta ở Saigon, cặp vợ chồng kia thì khuôn mặt vẩn còn hiện rỏ nét thất thần, Nam leo lên xe ngồi vào chỗ cũ, chiếc xe chầm chậm lăn bánh.

            Tay lơ như biết thân phận bọt bèo của mình, hắn ta leo lên mui, mở nắp cái thùng lấy cây sắt dài chọc vào bên trong để than cháy mạnh hơn, từng bụm than vụn còn cháy đỏ và tro nóng rớt qua đáy thùng, rơi xuống thành vệt dài trên đường.

            Dọc hai bên đường rừng cây cao su rụng hết lá chỉ còn lại cành trơ trụi, thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe đò hay xe bộ đội màu xanh xám chạy nhanh qua. Gần đến trạm Chơn Thành, mặt trời đã lên cao tới đỉnh đầu.

            Nam nhìn về phía trước, từ xa đã thấy mấy tay du kích và công an đang đứng. Tài xế cho xe chạy chậm lại và ép vào lề, dừng cách trạm khoảng vài mét, mọi người ngồi im trên xe.

            Tay lơ nhảy xuống chờ, một tay du kích đeo cây CKC đứng bên lề nhìn lên các ô cửa. Hắn ngoắc hết mấy bà con buôn, Nam và tay bộ đội trẻ xuống xe.
            Anh nhảy xuống và đi vào trạm, người bộ đội trẻ bị mấy ông kiểm soát quân sự mang băng đỏ hỏi giấy tờ ở phòng kế bên, còn Nam bị tay du kích mặt tái tái như bị sốt rét kinh niên yêu cầu xuất trình giấy tờ.

            Móc bóp lấy tất cả mọi thứ liên quan đưa cho hắn ta, cầm tờ giấy chứng thương được miễn nghĩa vụ của Nam, hắn đọc đi, đọc lại với vẻ hoài nghi. Cuối cùng hắn yêu cầu anh tụt một bên quần ra cho xem, Nam miễn cưỡng phải làm theo ý hắn vì biết không thể nào từ chối được.

            Vài bà con buôn thấy sao lâu lắc nên tò mò đưa cái đầu thụt vô, thụt ra xem có chuyện gì làm Nam thấy hơi nóng bốc lên mặt.

            Khi nhìn thấy cái sẹo quá to và dài trên đùi, hắn ta cho anh đi ra và tiếp tục kêu mấy bà con buôn đang đứng ngoài kia vào tra hỏi giấy phép đi đường.

            Sau vài phút, mấy bà con buôn cũng lục tục đi ra khỏi trạm, tỉnh táo như vừa ghé vào thăm một chỗ nghỉ chân quen ở ven đường. Dân đi buôn đường dài mấy năm gần đây quá quen với việc này, ai cũng chìa ra tờ giấy có đóng mộc xác nhận ở phường cấp. Mấy tờ giấy đó bây giờ họ có thể móc ngoặc hay mua từ công an các phường dưới thành phố và dùng nó đi buôn đi tứ xứ, Nam cũng quá quen với việc luồn lách này.

            Lái xe và lơ cũng đã quen với nếp xét hỏi hàng ngày trên tuyến đường nên bình thản ngồi đợi sau vô-lăng. Nhìn ra sau hàng ghế và nghe tay lơ đập hai cái vào thành xe, ông ta nổ máy.

            Chiếc xe băng ngang thị trấn và lao qua những cánh rừng cao su chạy dài nối tiếp hai bên đường. Nam dặn tay lơ cho xuống chồ ngã ba rẽ vào nông trường cao su, rồi miên man suy nghĩ về công việc sắp tới.

            Anh muốn cho Ba Du biết về bí mật của hai thùng đồ cổ, nhưng còn ngần ngại vì lo lắng là bí mật này sau đó có được giữ kín hay không? Nhiều người cũ trong đồn điền còn sống ở đây, và nếu tin tức vô tình bị tiết lộ cho chính quyền xã, chắc chắn là Nam sẽ bị công an hoặc Tư Có bắt giam và tra hỏi ngay lập tức. Nhưng nếu có Ba Du tham gia việc tìm kiếm, đó cũng là điều hay và có thể rất thuận lợi.

            Sau lần đến thăm nhà Ba Du ở Gò vấp, nhìn gia cảnh và bà mẹ già có nét mặt hiền lành, chân thật, Nam thấy có thể tin Ba Du là người có tư cách, sống rất tình cảm với mọi người.

            Những câu chuyện kể của những người quen cũ của Ba Du ở đồn điền làm anh tin khá chắc chắn về điều này, Ba Du còn là người tháo vát, biết xoay trở trong nhiều tình huống khác nhau và gan dạ, trầm tỉnh. Nếu câu chuyện này thuyết phục và làm Ba Du tin tưởng, khả năng thành công sẽ lớn hơn khi Nam chỉ có một mình.

            Kỳ thực cho đến bây giờ anh cũng chưa biết sẽ làm gì nếu tìm ra nơi chôn giấu hai cái thùng này, lấy lên rồi đem đi tất cả các món đồ này, nếu về Saigon thì bằng cách nào, nhiều câu hỏi còn bỏ trống.

            Đã gần đến ngả ba rẽ vào nông trường, tay lơ ngồi phía sau lại đập mạnh vào thùng xe, chiếc xe đò chạy chậm và tấp vào bên lề, mọi người trên xe còn đang vật vờ trong giấc ngủ trưa.

            Nam cầm cái túi đồ bước qua hàng ghế ra cửa sau, tay lơ lần này cẩn thận nhảy xuống đường, tay cầm sẵn khúc gổ chèn bánh đề phòng xe chết máy và tụt xuống dốc.

            Anh đi bộ một đoạn ngắn rẽ vào đầu con đường đất đỏ và đứng chờ xe quá giang dưới cây cao su già. Trưa giờ này ít xe ra vào trong đó, chắc phải chờ khá lâu. Nam thấy hơi đói, dù hồi sáng ở nhà anh đã cố nhồi vào bụng với các món bánh mì, khoai luộc nhiều hơn mọi ngày vì biết còn lâu mới đến bửa trưa, anh lấy chai nước đã vơi phân nửa ra uống.

            Chọn nơi đất có ít lá khô, dưới một gốc cây có bóng râm để ngồi nghỉ, anh lột bỏ cái nón ra khỏi đầu cho mát.

            Nhìn ra quốc lộ 13 vắng vẻ chạy tiếp về phía tây – bắc đến An Lộc, Lộc Ninh và biên giới Miên, nơi có các trận đánh lớn với lính Pôn Pốt những năm 78 -79, bây giờ nó là tuyến đường tiếp tế cho các đơn vị bộ đội đóng bên kia đất Miên nên xe qua lại khá nhiều.

            Từ xa có chiếc xe tải màu xám chạy đến ngã ba và sắp rẽ vào con đường đất đỏ, Nam đứng dậy đưa tay vẩy xin đi nhờ, lái xe chạy chậm lại và chỉ tay ra phía sau. Anh quăng cái túi lên trước và trèo lên thùng xe, chiếc xe tăng tốc và phóng xuyên qua các con đường trong lô cao su cuốn theo từng đám bụi mịt mù.

            Gần đến trung tâm xã, tay lái xe dừng lại cho Nam xuống. Anh đưa tay ra dấu cám ơn ông ta, vác túi đi qua cái chợ và hàng quán kiếm xem còn ai bán món gì đó để bỏ vào bụng cho đỡ đói.

            Đã xế chiều, ngôi chợ nhỏ nhóm vào sáng sớm giờ đã vắng teo, cũng may còn một bà cụ ngồi trên cái sạp tre đang bầy bán vài nải chuối chín và mít. Anh hỏi mua một nải, bà cụ da nhăn nheo, hàm răng móm mém, mỉm cười nhìn đầu tóc anh bị phủ lớp bụi đỏ mờ mờ và hỏi:

            - Cậu ở thành phố mới lên hả?

            Nam cười gật đầu, rồi trả tiền và vừa đi vừa ăn. Từ ngoài xã mà lội bộ vào trong rẩy cũng phải hơn một tiếng, Nam ăn thêm vài trái chuối chín, chất đường ngọt làm anh thấy dịu cơn đói, lấy chai nước ra uống thêm vài ngụm và nhanh chân đi theo con đường dọc bờ hồ.

            Khung cảnh thật vắng lặng, những luống bắp, đậu dọc đường … đeo đầy trái nhưng không thấy ai ra hái. Những cơn gió mát thổi lên từ mặt nước làm không khí dể chịu, Nam dừng lại dưới bóng cái cây, để túi xuống đất và lấy tay vốc nước hồ trong xanh lên rửa mặt cho sạch sẻ và tỉnh táo, rồi lấy bao thuốc lá ra, châm điếu cuối cùng hút rồi vác túi lên vai đi tiếp.

            Nhà anh và Ba Du gần như nằm ở cuối xã, nên càng đi vào sâu trong đó, phong cảnh đìu hiu, vắng vẻ hơn. Nhiều người dân Saigon bị ép buộc lên ở trong các khu kinh tế mới trên này, sau một thời gian chịu không nổi lại bỏ trốn về thành phố, nhiều chỗ cây cỏ mọc um tùm trở lại, vì vậy Nam thấy khâm phục Ba Du, cũng là dân Saigon mà ở được bốn, năm năm rồi, còn mấy ông trong xã thấy anh sang nhượng lại miếng đất ở chỗ khỉ ho, cò gáy cũng lấy làm lạ. Nhưng chính sách của nhà nước bây giờ là khuyến khích mọi thành phần dân chúng ở các thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất để có thêm lương thực, nên việc anh xin đất canh tác vì vậy mà được dể dàng.

            Về gần đến nhà, Nam thấy phấn chấn hơn, anh nhanh chân vượt mấy con dốc còn lại và bước vào dưới bóng mát của mấy cây mít trồng trước sân.

            Tháo sợi dây cột phên cửa và đẩy vào bên trong, không khí mát mẻ làm anh thấy hạ bớt nhiệt vả dể chịu nhiều. Treo cẩn thận cái túi vải lên vách, cởi bộ quần áo thấm mồ hôi, rồi ra ngồi nghỉ trên khúc gổ to trước sân.

            Nam định nghỉ ngơi một chút rồi qua Ba Du hỏi thăm xem mấy ngày vừa rồi, có gì lạ và dẩn con Đốm về, đi vắng vài ba ngày, Nam thấy mọi thứ vẩn như bình thường.

            Đàn gà đang dẩn nhau đi kiếm ăn trong các bụi cỏ, gà miền cao cũng thích ứng với cách sống ở vùng rừng núi, sáng nhảy xuống khỏi chỗ ngủ trên tấm phên tre trên cao để tránh chồn, cáo vào ban đêm và ra ngoài kiếm ăn, chiều tối về chuồng lại nhảy lên đó, người nuôi thỉnh thoảng chỉ rải thêm nắm bắp, đậu, lúa.

            Nhìn ra luống bắp và đậu đã đến lúc thu hoạch, lớp vỏ bên ngoài những trái đậu nhỏ đã héo khô và ngã sang màu nâu, chiều nay gặp Ba Du, Nam sẽ nhờ chỉ dẩn cách thu hái ra sao, vì đây là mùa vụ đầu tiên, cần biết cách làm sao cho ít bị hao hụt. Phần thu hoạch đậu, bắp, khoai cũng là thành quả từ công sức anh đã bỏ ra, và sau khi “đóng góp” một phần cho xã, Nam có thể xin giấp phép đem về thành phố làm lương thực cho gia đình. Thật ra thì anh có thể dùng để buôn bán, trao đổi tại chợ đen.

            Thấy buổi chiều đang dần xuống, anh vội vàng qua nhà Ba Du. Vừa lên khỏi con dốc trước nhà, con Ki và con Đốm chạy ra sủa ầm ỉ quanh chân anh. Ba Du đang hái bắp, đoán Nam đã về tới và vừa qua đây nên đi ra khỏi các luống bắp cao, trên vai đeo cái gùi đựng đầy trái. Thấy Nam đang đứng ở trước sân, Ba Du cười hỏi:

            - Mới về hả chú Nam, có tìm được nhà tui không?
            - Có, gặp bà già và bà chị anh Ba, mọi người đều khỏe, con trai anh đi học đều … anh Ba đang hái bắp hả?

            Ba Du cười vui vẻ khi nghe anh nói, rồi hỏi về tình hình công việc ở nhà, anh gật đầu nói đã xong.

            Hai người ra ngồi trên mấy tảng đá to ở góc sân, Nam hỏi Ba Du có gì lạ không trong mấy ngày anh đi, Ba Du lắc đầu cho biết mọi thứ đều bình thường.
            Nhớ lại mùa đậu, bắp trồng trong khu rẩy ở nhà, anh hỏi về thời gian và cách thu hoạch, Ba Du chỉ cặn kẻ và hứa ngày mai sẽ qua giúp, khiến anh thấy không còn lo lắng nhiều. Nhưng để cho thuận lợi và kịp thời, Nam và Ba Du sẽ cùng vần công, đổi qua rẩy của mỗi bên một ngày cho đến khi kết thúc công việc.

            Sáng hôm sau, cả hai vác gùi ra thu hoạch đậu và sau buổi trưa thì đến rẩy bắp. Công việc tiếp tục đến hơn nửa tháng, anh và Ba Du tạm nghĩ một vài ngày xả hơi. Phần thu hoạch hoa màu của Nam đã gần xong, phần của Ba Du chắc còn phải làm thêm năm, mười ngày nửa vì diện tích gieo trồng nhiều hơn.

            Có thời gian rảnh, Ba Du rủ Nam đi câu cá lăng, cả hai đem theo cái gùi và xô nhỏ đến chỗ ao cạn nơi Tư Có và hai tay du kích ném lựu đạn xuống hô để kiếm cá con làm mồi. Ba Du rất rành việc này, liền lội xuống dùng cái gùi xúc vào dưới đám lá sen, rau muống mọc ven bờ nơi bọn cá rô, chép, mè non thường hay vào trú ẩn trong đó, độ chừng mười lăm phút sau, trong cái xô nhỏ đã có khoảng chục con cá nho nhỏ.

            Thấy đã có đủ mồi cho buổi đi câu, Ba Du và Nam đi về, ra lấy xuồng và bắt đầu chèo ra ngoài xa gần giữa hồ. Móc hai con cá nhỏ vào lưỡi câu và thả xuống, Ba Du và anh ngồi lấy thuốc lá ra hút và theo dõi cái phao nổi dập dềnh trên mặt nước, chiếc xuồng theo những cơn gió thổi từ đông bắc trôi chậm về phía nam.

            Anh nhớ lại điều cần biết về nước hồ trong mùa khô nên hỏi:

            - Trong mùa khô mực nước hồ có giảm xuống nhiều không anh Ba?

            Nghe Nam hỏi, Ba Du nói:

            - Có, nhưng tùy năm, năm nào ít mưa thì nước xuống nhiều, như năm nay mưa ít, có lẻ mực nước sẽ xuống thấp hơn …
            - Ngoài xã lúc nào thì cho mở mấy cái cửa đập để xả nước?

            Ba Du chăm chú nhìn cái phao đang trôi rồi trả lời:

            - Ừ, có ! khi nào mấy xã phía dưới thiếu nước làm ruộng rẩy, mấy ổng sẽ cho xả nhiều hơn, nên thường cuối mùa khô, mực nước còn rất thấp
            Nghe Ba Du nói, Nam thấy tình hình điều tiết nước hồ qua con đập đúng như anh nghĩ, điều quan trọng ở đây là mực nước xuống càng thấp, càng dể dàng cho công việc truy tìm. Cả hai quay lại chú ý cái phao đang trôi, câu cá lăng cũng không dể như mấy con cá kia, nó là loại cá lớn thường ở dưới sâu, nên người câu phải kiên nhẫn nhiều hơn, chưa kể là phải có tay nghề nửa chứ.

            Trên mặt hồ vắng chỉ có xuồng Ba Du và Nam đang trôi lờ đờ, mặt trời lên cao, ánh nắng khá gay gắt, đã qua tháng hai, mùa khô bắt đầu đến trên vùng bán sơn địa phía nam dãy Trường Sơn. Tết cũng đã gần đến, Nam nói:

            - Tết năm rồi anh Ba có về Saigon không?

            Nghe hỏi về Tết, Ba Du trả lới:

            - Có, năm nào cũng về vài ba ngày với gia đình rồi lên trở lại, Tết này chú Nam có tính về không?
            - Chưa biết anh Ba, tôi mới về mấy ngày trước rồi – Nam cười

            Bổng Ba Du giật mạnh cần tre, làm mặt nước giao động mạnh, đầu cần là chú cá lăng to vùng vẩy quyết liệt khi bị kéo lên cho vào lòng xuồng, gở xong con cá, Ba Du lại móc mồi khác và thả xuống, rồi nhìn Nam nói:

            - Chú Nam thu hoạch và nộp thuế xong, xin xã giấy phép để chở đậu, bắp về dưới cho gia đình hay sao?
            - Ừ, vậy chắc phải về, nhưng trước Tết, còn Tết này tôi sẽ ở lại, anh Ba cứ đi về

            Ba Du cười đồng ý khi nghe anh nói, Nam thấy cái phao bị động, hai mắt anh chăm chú theo dõi, khi nó vừa chìm sâu xuống, anh giật mạnh cái cần lên, một chú cá lăng khác đang dính vào lưỡi câu, gở bỏ vào khoang xuồng, khoan khoái nhìn nó vùng vẩy cạnh con kia trong, rồi chui vào nằm im dưới đống lưới cũ.

            Hai người tiếp tục buông câu, chiếc xuồng trôi dạt ngang qua hồ về gần phía bờ xã bên kia, Nam nhìn thấy rỏ ngôi nhà Hai Tuất nhưng khoảng cách còn khá xa. Khúc hồ này có vẻ nhiều cá, Ba Du và Nam liên tục giật câu và dính thêm cá lăng và trê to.

            Hai Tuất đang ở ngoài bờ hồ nhìn thấy chiếc xuồng, nên đứng lên đưa tay và kêu lớn, Ba Du và Nam cũng hào hứng vẩy tay chào, thấy có chiếc xuồng nằm gần bờ, Ba Du nói:

            - Khỏe không Hai Tuất, ra lấy cá về nghe!

            Bơi xuồng chầm chậm về phía bờ chờ đợi, bên trong Hai Tuất nhanh nhẹ chèo đến gần:

            - Đang ra bờ hồ thấy anh Ba và chú Nam ngồi câu nhàn hạ quá, được nhiều chưa?
            - Hôm nay ra ngoài hồ câu cá lăng, anh lấy một, hai con về ăn, được cũng khá

            Ba Du cười và cầm bỏ con cá lăng và mè to vào xuồng Hai Tuất, hai bên nói chuyện về thu hoạch vụ mùa này, Hai Tuất nhìn Nam hỏi:

            - Con chó hôm đó chú Nam bắt về ra sao?
            - Dạ, nó quen nhà mới rồi nên nuôi mau lớn – Nam cười

            Hai Tuất cám ơn, hẹn hôm nào anh và Ba Du rảnh qua chơi, rồi chèo xuồng vào bờ bên kia.

            Thấy mặt trời lên cao và nắng nóng, Ba Du và Nam chậm rải bơi ngang qua hồ đi về, gần vào đến bờ, cần câu Nam dính thêm một con cá lăng, anh cười nói với Ba Du:

            - Hôm nay là ngày tận số của nó

            Bước lên bờ kiếm chỗ cột dây xuồng, còn Ba Du đang lấy dây xỏ mang mấy con cá xách về nhà.

            Ba Du bắt con cá lăng to nhất ra làm món nướng muối ớt và rủ Nam ở lại lai rai, mấy con còn lại rộng trong cái thùng nhỏ sau vườn, chiều nay Nam cũng xách một vài con về bên nhà.Trong lúc làm món cá, Ba Du chỉ Nam lấy mấy khúc củi cháy dở ra nhóm lại để bếp mau có than.

            Lát sau đã thấy Ba Du xiên từng khúc cá thấm mắm ớt, hành, xả, riềng … qua thanh tre dài và đưa lên nướng, tiếng mở cá nhỏ xuống than đỏ cháy xèo xèo và mùi thơm bay khắp gian bếp.

            Nam ra sau vườn hái thêm rau, ớt … khi anh quay vào nhà thi thấy món cá lăng nướng và hai cái ly đã được bày trên phản. Ba Du lấy bầu rượu có cái vỏ đen bóng từ kệ gổ trên cao xuống, đây là rượu của những người S’tiêng trong buôn Bù Đon cho Ba Du.

            Bên ngoài màu nắng vàng khô khốc rải ra trên khắp cây cỏ và mặt hồ, không khí ban trưa giửa vùng đồi núi thật yên tĩnh và nóng nực. Tiếng những con chim sâu gọi nhau ríu rít trên cành cây mít và điều trước sân nhà Ba Du, có lẻ bọn chim làm tổ trên đó lâu rồi. Ba Du và con Ki ở trong căn nhà tranh, còn tụi nó thì tha hồ bay nhảy trên đó, ai cũng có công việc để lo, không ai để ý ai, sống gần những hàng xóm nhỏ bé hiền lành này, chắc Ba Du và con Ki không phải bận tâm hay phiền toái chút nào.

            Mùa thu hoạch trước Tết như vậy là khá tốt, chỉ cần thêm vài ngày nửa là xong, nên cả Ba Du và Nam thấy yên tâm, thoãi mái. Ba Du rót rượu vào ly và mời:

            - Vô đi chú Nam, thưởng thức món cá nướng xem sao?

            Nam gật đầu cụng ly, ăn thử khúc cá, Ba Du chế biến và nướng rất khéo. Món này ở Saigon bây giờ cũng khó kiếm, thời buổi “ngăn sống, cấm chợ” nên việc chuyên chở gạo, mắm, cá, thịt … từ những vùng nông thôn ở các tỉnh lên thành phố bị cấm và kiểm soát chặt chẻ, gạo lúa, nông sản dư ra không đem đi đâu tiêu thụ được vì chính sách “kỳ dị” này. Người dân ai cũng biết miền nam có đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, kinh rạch nhiều tôm cá, sau 75 nông dân cả nước bị bắt ép vào hợp tác xã, mọi người làm nhiều mà không được hưởng bao nhiêu, họ chán nản bỏ mặc đồng ruộng hoang vu, từ đó chuyện thiếu thốn lương thực xảy ra khắp cả nước, bây giờ thì mọi người đang phải ăn độn và đói kém, thiếu thốn.

            Ba Du có vẻ vui nói:

            - Ngày mai, nhờ chú Nam qua phụ thêm vài ngày nửa để thu hoạch cho xong
            - Dạ, được anh Ba, bên rẩy tôi cũng xong rồi, số còn lại hái từ từ
            - Ngày mốt tui qua bên đó coi lại cái giàn gác gần mái, có chỗ để phơi bắp và đậu cho mau khô, không bị chuột bọ ăn, chắc là phải thay một số cây tre cũ để treo bắp, đậu lên cho chắc chắn.

            Thấy Ba Du nhớ tới vụ làm giàn để phơi và trữ lại sau khi thu hoạch, chút xíu nửa thì anh quên, Nam gật đầu và cụng ly tỏ vẻ cám ơn Ba Du.


            (còn tiếp)
            Last edited by khongquan2; 11-13-2016, 06:42 PM.

            Comment


            • #7
              BÔNG HOA GIỮA BUÔN THƯỢNG XA XÔI


              Cầm bầu rượu rót vào hai cái ly, nhìn cái vỏ bên ngoài lên nước đen bóng, Ba Du sực nhớ tới buôn thượng trong rừng liền nói:

              - À, lần trước khi gặp Điểu Sơn có hẹn vô thăm buôn, khi nào thu hoạch xong bắp, đậu tui với chú Nam vô trong đó một bửa

              Nam nghe Ba Du dẩn vào buôn thượng chơi thấy háo hức, nên lập tức gật đầu đồng ý. Từ lúc còn nhỏ đến lớn, thỉnh thoảng anh có đọc các câu chuyện về những người dân ở các buôn làng xa xôi trong rừng núi, chứ chưa có dịp đặt chân đến nơi họ sinh sống bao giờ. Mấy lần lên Đà-lạt nghỉ mát, đôi lúc Nam thấy đàn ông, đàn bà và trẻ con người Thượng đi bên đường hay xuống phố với cái gùi và xà gạc trên vai, họ thường đóng khố hay mặc quần áo có hoa văn và màu sắc lạ, rất khác với người Việt.

              - Người Thượng sống ở đó từ trước chiến tranh đến bây giờ hay sao – Nam hỏi

              Ba Du nhấm rượu, rồi gắp khúc cá nướng vào chén, tỏ vẻ trầm ngâm:

              - Khi người Mỹ đến Việt Nam, buôn làng họ đã ở đó lâu đời rồi, họ giỏi đi rừng vì đã quen sống ở núi cao, rừng rậm, sau này khi người Mỹ rút đi, tất cả lính biệt kích người S’tiêng gia nhập biệt động quân và chiến đấu cho đến năm 75 … sau chiến tranh họ giải ngũ, và phần nào đó cũng bị phân biệt đối xử như những người lính miền nam khác

              Nam đưa ly cụng với Ba Du, hồi tưởng lại khi chiến tranh kết thúc anh vừa mới mười sáu, mười bẩy tuổi, nên không hiểu biết nhiều về cuộc chiến này, ngoài hình ảnh những người lính VNCH, lính Mỹ và xe nhà binh chạy trên đường phố.

              Nhiều năm sau này, anh nghe nhiều người nói chuyện, rồi có dịp đọc sách và các tài liệu về chiến tranh, nên hiểu nước Mỹ dính dáng sâu xa và có vai trò quan trọng trong cuộc chiến ở Việt Nam. Miền Nam đứng vững được một thời gian dài cũng nhờ người Mỹ giúp đỡ. Nhưng rồi sau đó, tình hình thay đổi nhanh chóng, phong trào phản chiến bùng lên, dân Mỹ chán nản vì thấy người Mỹ chết quá nhiều … Nước Mỹ ra đi, và kết quả miền nam sau một thời gian chiến đấu lẻ loi đành chịu sụp đổ, thất trận. Những người lính như Ba Du, Điểu Sơn có lẻ rất buồn vì mang mặc cảm bại trận và bị bỏ rơi.

              Nam nhớ có lần đến nhà Huy, nó rủ lên cái gác nhỏ ngồi chơi, thấy trên cái kệ trong góc có cuốn sách đang đọc dở, anh hỏi Huy thì nó nói đang đọc, lật ra ngoài bìa xem tựa sách, thấy cuốn sách có tên là lạ “Nổi buồn nhược tiểu” của một nhà văn người Mỹ.

              Huy cho anh mượn về nhà, và khi bắt đầu đọc, Nam dần hiểu câu truyện viết về cuộc chiến phân chia bắc - nam ở Triều Tiên sau thế chiến II, giữa cộng sản và tự do.

              Đọc xong cuốn sách, anh thấy thân phận người Triều Tiên cũng đau khổ và buồn bả như người Việt Nam, làm thân phận nhược tiểu một nước nhỏ, họ cũng bị các nước lớn chia thành nam – bắc, nhưng may mắn hơn miền nam giữ được tự do với sự giúp sức của người Mỹ.

              Còn thân phận và cuộc đời của những người lính, người dân miền nam Việt Nam, sau năm 75 thì chịu nhiều đau thương cho đến tận bây giờ.

              Vì vậy sau chiến tranh, Nam càng hiểu nhiều hơn vì sao những người dân miền nam lại sống chết vượt biên bỏ nước ra đi, anh chắc là những người lính có nổi buồn sâu đậm như Ba Du cũng nuôi trong lòng khát khao đó …

              Ba Du đang hút điếu thuốc và nhìn ra phía xa ngoài hồ nước, con Ki nằm im trong góc nhà, chắc nó đang nhớ con Đốm, bạn nhỏ của nó bửa nay đi đâu mất, anh kêu nó và bỏ vào cái tô một miếng cá, nó lẳng lặng đến ăn.

              - Chút nửa chú Nam bắt con cá lăng và cá mè đem về nghe – Ba Du nói

              Nam gật đầu và chợt hỏi qua chuyện khác:

              - Mấy hôm nay không thấy Tư Có và tụi du kích đi vào đây hả anh Ba!
              - Ừ, mà lâu rồi cũng không thấy bọn họ đi tuần trong này và lên trên kia khu rừng, nhưng gần Tết và mấy ngày lể lớn, bên du kích xã thường kết hợp với công an đi tuần xuyên qua rừng đến tận buôn của Điểu Sơn

              Nghe Ba Du nói chuyện về chiến tranh, Nam nhớ lại hôm về Saigon vừa rồi, băng rôn ca ngợi chiến thắng Khmer đỏ treo đầy đường, rồi lúc chiều tối khi đến nhà Huy, cái loa phường léo nhéo đe dọa những thanh niên đến tuổi phải đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự, không được trốn tránh.

              Lại thêm chiến tranh, cuộc chiến biên giới với Khmer đỏ nổ ra năm 78 – 79 đến nay đã ba, bốn năm, báo chí lúc đó cũng nói nhiều về các trận đánh với lính Pôn Pốt dọc các tỉnh biên giới, anh thắc mắc nên hỏi:

              - Lúc Pôn Pốt đánh qua đây, lính Khmer đỏ có vào đến nông trường cao su này không?
              - Xã này nằm khá xa biên giới, nên lính Khmer đỏ không đánh đến đây, lúc tụi nó tấn công vô, trong này huyện, xã đề phòng nên đưa du kích, công an vào đóng trong các buôn làng, có vài lần vì lo sợ đạn pháo kích từ bên kia biên giới rơi trúng, Điểu Sơn, Điểu Rút đưa người nhà chạy ra đây ở mấy tuần, rồi sau đó tình hình yên tĩnh trở lại, họ mới trở về buôn.

              Vùng rừng núi tây – nam này đã tiêu điều sau cuộc chiến năm 75, rồi khi chính quyền cộng sản vào miền nam, đời sống mọi người rơi vào cảnh đói khổ, sợ sệt, thiếu ăn, thiếu mặc.

              Do đó, khi cuộc chiến khốc liệt với Pôn Pốt và Trung quốc nổ ra, dân Saigon càng hoảng sợ, làn sóng vượt biên lại càng dồn dập, mọi người già , trẻ đều muốn ra đi khỏi đất nước khốn cùng này. Người dân trong các buôn làng xa xôi như ở đây nghèo khổ, ít học nên không trốn chạy đi đâu xa được, họ phải ở lại và chịu đựng bom đạn, giết chóc, chiến tranh sao nghe buồn thảm.

              Ba Du nhìn Nam có vẻ đang tư lự suy nghĩ:

              - Uống chú Nam, mồi còn nhiều lắm!

              Cả hai đưa ly lên uống cạn, Ba Du gắp cho anh một khúc cá to, thịt cá lăng nướng than rất ngon. Ở cái nơi khỉ ho này, ban ngày thì quanh quẩn việc ngoài rẩy, tối về ăn xuống xong rồi thì không biết làm gì, vì đèn dầu tối mù mù, riêng ở cuối cái làng kinh tế mới hoang vắng này, người dân bỏ đi gần hết, chỉ còn lại có anh với Ba Du và vài người khác. Nam nghĩ, không lai rai thì cũng ngồi không, hay đi ngủ sớm, nên thỉnh thoảng có bửa nhậu cho khuây khỏa giữa rừng núi, cũng khó từ chối lời mời của Ba Du.

              Rượu của miền rừng núi hoang dã làm Nam thấy đầu óc lâng lâng, anh hỏi:

              - Vào buôn thì cũng đi như hôm mình lên câu gần trên đó, rồi bỏ xuồng lại và lội bộ đi xuyên qua rừng bao xa?

              Nghe anh hỏi, Ba Du gật đầu:

              - Sáng phải đi sớm, tới chỗ hôm mình thả lưới, kéo xuồng lên bờ giấu vô trong bụi cây, rồi từ đó đi bộ qua cánh rừng vô buôn …

              Chợt như có tiếng ai kêu tên Ba Du từ phía con đường nhỏ chạy từ trong rừng cao su xuống rẩy, Nam và Ba Du im lặng nghe ngóng, lát sau nhận tiếng người quen, Ba Du vui vẻ cười:

              - Năm Bình ở ngoài nông trường vô chơi

              Ba Du bước ra trước nhà đứng chờ, Nam cũng ngoái nhìn qua cửa sổ thấy Năm Bình đang chạy xe đạp trên đường mòn giữa các luống đậu và giơ tay chào.

              Dựng chiếc xe đạp vào vách, Năm Bình bắt tay Ba Du và bước vào nhà, Nam cũng chào:

              - Anh Năm khỏe không?

              Thấy Nam, ông ta cười nói:

              - À, có chú Nam ở đây lai rai hả, hôm nay không hái bắp, đậu gì sao?

              Ba Du lấy thêm chén đũa và cái ly:

              - Anh Năm ngồi nhậu lai rai, thu hoạch cũng gần xong rồi, sáng nay tui với chú Nam đi câu được con cá lăng về làm món nướng lai rai với rượu trong buôn thượng cho

              Năm Bình cầm cái bầu rượu lên nhìn Ba Du:

              - Rượu này đây hả?

              Ba Du gật đầu, rót rượu vào ly của Năm Bình:

              - Mời anh Năm!

              Năm Bình cạn ly, gật đầu khen ngon và gắp miếng cá nướng thưởng thức rồi hỏi:

              - Trong đây lúc này có gì lạ không?

              Ba Du lắc đầu:

              - Không, vẩn như vậy, lâu lâu Tư Có với du kích đi qua rồi về
              - Mùa rẩy này bắp, đậu thu hoạch khá hơn mùa rồi không anh Ba?
              - Thấy được hơn mùa rồi, nếu có đủ phân thì chắc khá hơn

              Năm Bình nhìn Nam:

              - Bên chú Nam chắc cũng khá chứ hả?
              - Dạ, cũng xuống giống đậu, bắp như anh Ba, nhưng làm ít hơn
              - Giá cả thu mua ngoài đó năm nay có tăng lên không anh Năm – Ba Du hỏi
              - Có, giá đậu xanh lên, bắp ít hơn, nếu gần tết anh và chú Nam có bán kêu tôi nhé, tôi sẽ thu cao hơn giá của mấy bà đi buôn, chỗ anh em quen lâu năm rồi
              Nam nghe Năm Bình nói thấy có lý, chỉ xin giấy phép xã đem một ít về Saigon, còn lại bán theo giá chợ đen trên này lấy tiền khỏe hơn. Từ hôm bắt đầu thu hoạch đến nay anh không nghe Ba Du nói Năm Bình ngoài xã có thu mua nông sản, chắc vì tính cẩn thận, không muốn làm Nam hiểu lầm.

              Ba Du ra phía sau bắt thêm con cá trê, nhanh tay làm và nổi lửa lên nướng trên chỗ than cũ, Nam đứng dậy ra sân đi lại cho thoải mái đôi chút.

              Dọn món mới lên, có thêm Năm Bình vừa vào, nhưng Nam đã hơi say nên uống ít, ngồi nghe hai ông bạn “già” nói chuyện.

              Năm Bình kể chuyện buôn hàng lậu về Saigon, và than lúc này phải chi nhiều hơn cho đám tài xế nông trường mới chịu giấu hàng trên xe chở về Bình Dương giao ở đó, sau đó chờ mối lái từ Saigon cho người lên lấy, tình hình kiểm soát của công an, du kích dọc đường cũng còn “ác liệt” lắm, nên cũng vất vả hơn trước. Tuy nhiên giới con buôn thì vô vàn mánh khóe, nên ở Saigon có tiền vẩn mua được mọi thứ, chỉ có giá cả thì mắc mỏ hơn thôi.

              Nam thắc mắc hỏi Năm Bình về đường đi vì có lần thấy Tư Có vào đây từ hướng ông ta mới vô:

              - Đường đi từ lô cao su vào đây thì xa hay gần hơn con đường quanh bờ hồ vậy anh Năm?
              - Xa hơn vì phải chạy qua các lô cao su, nhưng lại dể đi hơn ngoài bờ hồ … chú Nam hôm từ Saigon lên xe chạy mấy giờ mới về đến đây?
              - Cũng đầu giờ chiều mới tới ngã ba ngoài quốc lộ và quá giang xe vào trong này
              - Chú Nam là dân Saigon mà lội bộ cũng đâu thua gì dân ở đây, thôi mai mốt kiếm vợ ở đây luôn nhé – Năm Bình cười nói
              - Cũng đâu có xa lắm đâu anh Năm – anh trả lời

              Ba Du nghe khen cũng cười, tiếng cười của ba người đàn ông vang lên trong căn nhà nhỏ.
              Buổi chiều dần xuống, mặt trời chìm về hướng tây, vài đàn chim bay ngang qua mặt hồ lặng gió về phía cánh rừng già ở dãy đồi xa xa.

              * * *

              Mấy hôm nay từ sáng sớm, Nam qua phụ một tay với Ba Du hái đậu, bắp đem về nhà treo lên cái giàn phơi dưới mái. Nhìn từ xa, bóng dáng hai người đàn ông làm việc miệt mài không ngơi nghỉ bên những luống đậu, bắp trên cánh đồng vắng trông thật lẻ loi giữa núi rừng trùng điệp.

              Công việc này mới mẻ và khá nặng nhọc đối với Nam, anh cũng không hỏi Ba Du nhiều về cách thu hoạch để có thể làm một mình vào mùa sau, vì mục đích của anh vào đây thì khác, nên cứ lằng lặng làm cho xong công việc.

              Lâu dài, Nam cũng không có ý định ở lại đây làm nghề nông nếu việc kia thất bại, một người trẻ và có máu mạo hiểm như anh không thể sống lâu ở chỗ này,vì nó quá buồn tẻ, heo hút.

              Đa số những thằng bạn thân của anh ở Saigon, mỗi khi gặp mặt nhau cũng hay tâm sự không biết định hướng tương lai ra sao, vì sự phân chia, quản lý con người theo lý lịch của chính quyền mới làm nản chí và bóp chết tương lai của nhiều người.

              Sự thay đổi sau năm 75 quá lớn lao, nó làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu triệu người dân miền Nam, những người trẻ ở Saigon như Nam cảm thấy lạc lỏng, chán nản như đang sống trong cỏi tạm nào đó, xã hội trở nên điên đảo, mọi người đâm ra ngờ vực lẩn nhau vì đói khổ, vì sợ sệt. Ai cũng mong có cơ hội vượt biên để thoát khỏi cảnh bị đầy ải bởi đói rách, bệnh tật …

              Tuy nhiên ở đây Nam cũng học được sự nhẫn nại, chịu đựng và tài xoay sở của Ba Du. Cuộc sống của người lính trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt vừa qua khiến anh phải nể phục họ.


              Phần có lẻ cũng do duyên tao ngộ, nên anh gặp Ba Du ở chốn núi rừng này, nếu tin là như vậy.

              Năm, sáu ngày làm việc miệt mài từ sáng sớm đến chiều tối, phần thu hoạch ở rẩy Ba Du cũng xong.

              Hai con chó Đốm và Ki có dịp này cũng chạy theo ra rẩy, tụi nó lăng xăng khắp nơi, khi con Ki đánh hơi tìm thấy ổ chuột, nghe nó sủa con Đốm cũng chạy nhào đến sục xạo chung quanh, cả hai săn đuổi bọn chuột chui rúc dưới các đống cỏ khô, tiếng sủa của tụi nó vang vọng ngoài đồng trống.

              Sáng nay, Nam và Ba Du sửa lại giàn phơi dưới gác mái bên nhà anh, cả hai vác rựa ra sau vườn nhà Ba Du chỗ mấy bụi tre lớn, lựa vài cây to, thẳng rồi chặt xuống và khiêng về thay mấy cây tre cũ, mục. Sau đó chất các bao đựng đậu và treo bắp lên cao trên giàn, vậy là xong rồi, chỉ còn tách hạt đậu và bắp ra, việc này chắc phải nhờ Hai Tuất kiếm thêm người của xã bên đó qua phụ vài ngày.

              Xong công việc Nam và Ba Du thấy phấn chấn chút đỉnh vì dù sao mùa này cũng khá, giá cả cũng tăng, hy vọng Tết này có đỡ hơn.

              Ba Du hẹn Nam sáng mai vào buôn thăm Điểu Sơn, vì đường đi qua khu rừng già nên dặn anh cầm theo rựa, thêm chai nước uống vì thời tiết mùa này đi bộ trong rừng rất mau khát, và dắt con Đốm qua gửi bên nhà Ba Du.

              Sáng dậy sớm, vốn đã quen với việc này, nên chiều qua Nam luộc thêm khoai để mang theo ăn dọc đường. Anh nhanh chóng lấy cây rựa và chai nước rồi cẩn thận khép cửa nhà, dẩn theo con Đốm đi ra.

              Thấy Ba Du đang ngồi kế bên cái gùi chờ anh đến, cũng mang theo rựa, nước và thêm vài trái chuối chín, Ba Du chỉ cho Nam cái lọ nhỏ có nước màu nâu đen bên trong, anh thắc mắc:

              - Cái chai đó đựng cái gì anh Ba?
              - Hôm qua tui lấy mấy điếu thuốc lá ra ngâm để khi vô rừng xoa lên tay chân chống muỗi và vắt

              Nam nghe vậy hơi sợ, đọc truyện đi rừng thỉnh thoảng có đoạn những con vắt bò ra đeo bám vào tay, chân người để hút máu. Như đoán được ý nghĩ của anh, Ba Du mỉm cười nói:

              - Mấy con vắt đó cũng không ghê gớm lắm đâu, hút no rồi nó sẽ tự rơi ra, hơi đau chút xíu, khi có mùi thuốc lá nó sẽ tránh xa

              Nghe Ba Du nói vậy anh cũng cười, đã đi thì không sợ, dù sao thì người Thượng ở trong các buôn làng cũng bị nó cắn lâu nay mà họ vẩn mạnh khỏe, từ đời này qua đời khác, có sao đâu.

              Nam bỏ chai nước và cây rựa vào cái gùi, vác nó lên đi ra bờ hồ, buổi sáng sớm còn đọng chút hơi sương, không khí mát lạnh, dể chịu.
              Ba Du tới sau, tháo dây xuồng và ngồi ra phía lái, họ từ từ chèo lên phía thượng lưu, mùa này nước chảy chầm chậm về phía cửa đập nên bơi ngược dòng hơi tốn sức, Ba Du nói:

              - Phải bơi nhanh đến chỗ giấu xuồng để đi bộ xuyên rừng vào trong buôn, tới chiều mới ra kịp và về nhà trước buổi tối

              Cả hai yên lặng chèo, chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt hồ, khung cảnh hai bên bờ còn mờ mờ dưới những tàng cây cao im vắng không một bóng người. Tiếng sóng nước đều đặn vổ vào chiếc xuồng, Ba Du từ phía sau nói bắt đầu bơi ngang qua bên kia hồ, thỉnh thoảng mái chèo chạm vào thân xuồng vang thành tiếng lộp cộp trong không gian yên tĩnh của buổi sáng sớm.

              Khoảng nửa giờ sau, đến chỗ lần trước giăng lưới, Ba Du nói:

              - Lên phía trên chút xíu nửa, nỗi bước đi. Con đường mòn từ từ hiện ra rỏ hơn, Ba Du bước đi có vẻ thoải mái và nhanh nhẹ, Nam đi sát phía sau, vừa đi vừa quan sát khu rừng thưa trơ trụi. Anh nhớ cách đây gần một tháng, khi vào đây đánh cá, cành lá còn xanh tốt, nay đã rụng gần hết, những đám lá vàng khô nằm phơi đầy trên mặt đất và các tảng đá ở rải rác khắp nơi.

              Con dốc lên cao dần khi đến gần cửa rừng già, Ba Du đến gần một tảng đá to, phẳng và bỏ cái gùi xuống, rồi lấy cái lọ nước đen đen ra và nói:

              - Chú Nam bôi nước thuốc lá vào tay chân để chống muỗi, vắt cắn

              Nam bỏ rựa xuống, lấy cái lọ đổ chút nước ra bàn tay và gửi thấy mùi hăng hăng của thuốc lá, rồi cẩn thận xoa lên vùng da tay, chân.

              Xong xuôi, cả hai đi thêm một đoạn đường mòn nửa, rồi bắt đầu leo lên con dốc, bước qua thân cây đổ nằm chắn ngang đường, và đi vào dưới vòm lá âm u. Mặt trời nhô lên ở phía đông đang chiếu những tia nắng đầu tiên xuyên qua vòm lá trên cao, làm khu rừng sáng lên đôi chút.

              Con đường mòn này đã có từ lâu và người qua lại thường xuyên cho nên dù cây rừng và bụi rậm mọc dầy hai bên, nhưng Nam vẩn thấy rỏ và cũng dể đi lại.

              Sáng sớm, trong không gian vắng lặng, tiếng kêu thành từng tràng rất lạ tai của những con chim vang lên từ bên trên các cành cây cao, trong các bụi rậm bên dưới, những con gà rừng cất tiếng gáy dọc hai bên đường mòn khi trời bắt đầu sáng, tiếng gáy của nó giữa rừng hoang vu làm Nam thấy thích thú.

              Ba Du đi đằng trước, thỉnh thoảng vung cây rựa phạt đứt những dây leo và nhánh cây mọc che lối mòn để dể đi qua, quay lại hỏi:

              - Chú Nam lần đầu tiên đi rừng có thấy mệt không?
              - Chưa thấy gì anh Ba

              Kinh nghiệm đi rừng của anh không có bao nhiêu, chỉ nhớ trước năm 75, lúc lên Đà-lạt vào những khu rừng thông rất đẹp trên các ngọn đồi dạo chơi, rừng ở đó toàn cây lớn, thưa thớt, ít có bụi rậm và dây leo nên du khách rất dể đi qua. Còn rừng già ở đây thì rậm rạp, nhiều chỗ tre gai đan chằng chịt vào nhau như một bức tường.

              Càng vào sâu, lớp lá rừng rơi xuống và mục nát qua nhiều năm tạo thành lớp đất mùn xốp dưới bước chân người, các tầng lá của những cây to, cao mà anh chưa hề thấy bao giờ, che kín bên trên làm cho không khí ngột ngạt và khó chịu.

              Lối mòn bắt đầu đi lên, Nam dùng rựa phạt tiếp những bụi cây ở sát con đường, anh cảm thấy cơ thể nóng dần lên vì cố gắng đi qua con dốc, mồ hôi bắt đầu đổ ra trên trán và thấm ướt cái áo kaki cũ.

              Phía trước Ba Du đeo cái gùi trên vai bước đi không mấy khó nhọc, đang đứng lại chờ Nam ở giữa lưng chừng dốc, thấy anh mặt mủi đỏ bừng, một tay chống cây rựa xuống đất để lấy đà bước lên phía trước, Ba Du cười nói:

              - Qua hết cái dốc này đến bên kia có con suối thì dừng chân uống nước, chú Nam ráng thêm một đọan nửa nhé

              Anh gật đầu, cố hít thở sâu và bước theo Ba Du lên đỉnh đồi, tự hỏi trong đầu không biết là từ lúc đi đến bây đã được bao xa.

              Qua được triền đồi bên kia, con đường chạy lài lài xuống thung lũng làm Nam thấy dể thở hơn, anh bỏ cái nón ra cho đỡ nóng, cũng may là từ lúc vào rừng đến bây giờ chưa bị con vắt nào cắn, anh mỉm cười nghĩ, không biết Ba Du có dọa cho anh sợ không.

              Đến nơi đã thấy Ba Du ngồi trên hòn đá bên con suối lớn và đang uống nước, Nam đưa tay lấy chai trong gùi ra, ngửa cổ tu liền mấy ngụm nước, ôi cha, chưa bao giờ anh thấy nước ngon như vậy, cơn khát đang hừng hực từ từ hạ xuống. Ra ngồi nghỉ trên hòn đá sát bên dòng nước, Ba Du nhìn anh nói:

              - Đến suối này mới được gần nửa đường, còn đi qua hai con suối nửa rồi mới đến buôn

              Nam cười khi nghe Ba Du nói vì thấy có vẻ còn xa, anh bước lên các hòn đá tròn nằm bên bờ suối và cúi xuống lấy tay vốc nước rửa mặt, những giọt nước mát lạnh làm anh thấy dể chịu và tĩnh táo, quay lại ngồi trên tảng đá và hỏi Ba Du:

              - Anh Ba vào trong buôn này nhiều lần nên quen đường đi và có vẻ không mệt
              - Ừ, tui cũng vào đây nhiều lần, lúc đầu đi thấy xa, đi hoài rồi quen … mùa mưa khó đi hơn vì lầy lội, và nước của các con suối sẽ dâng lên tràn bờ

              Ba Du đeo cái gùi lên rồi cầm cây rựa nói:

              - Qua suối đi chú Nam

              Anh còn muốn ngồi nghỉ thêm vài phút, nhưng vì biết đường còn xa nên đứng dậy theo Ba Du băng ngang con suối qua bờ bên kia.

              Hai người tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi qua rừng cây đi về hướng tây – bắc, đi thêm độ nửa giờ vượt qua khoảnh rừng thưa, Ba Du và Nam đến một trảng cỏ rộng, ánh nắng tràn ngập trên thảm cỏ xanh mướt làm Nam ngạc nhiên, thích thú, vài con chim và gà rừng thấy có người đến gần hoảng hốt bay vọt lên các cành cây.

              Mặt trời đã lên cao, hai người đàn ông nhanh chóng vượt qua trảng cỏ, và đi vào dưới những tán rừng xanh che kín trên cao, rồi vượt qua hai con suối nhỏ và cuối cùng xuôi về một thung lũng bằng phẳng, từ xa Nam đã thấy khoảng hơn chục mái nhà sàn mang vẻ thanh bình bên những nương rẩy màu xanh chạy dài vào sát chân đồi, Ba Du đưa tay chỉ về hướng đó nói:

              - Tới buôn thượng rồi đó chú Nam

              Dọc đường dẩn vào buôn, xa xa vài người phụ nữ đang còng lưng làm việc trên các ruộng lúa nước , nhiều rẩy bắp, khoai đã được thu hái xong, chỉ còn lại khúc thân và lá vàng khô, nằm xen với những luống khoai mì, khoai lang khác còn xanh tươi bạt ngàn …

              Ba Du dẩn Nam tới ngôi nhà sàn dài ở gần giữa buôn, leo lên cái thang gổ ngắn lên sàn và gọi:

              - Điểu Sơn khỏe không?

              Chủ nhà Điểu Sơn đang ngồi đan rổ, vừa thấy Ba Du xuất hiện trước hiên nhà liền đứng lên chào:

              - A, Ba Du mới vô buôn hả, tui khỏe – rồi nhìn Nam
              - Đây là chú Nam, lần trước có gặp Điểu Sơn ngoài hồ chỗ đánh cá

              Nam cười và gật đầu chào, Điều Sơn nhận ra anh nên nói:

              - Nhớ rồi, Ba Du và chú Nam vô nhà chơi

              Ba Du bỏ cái gùi xuống gần chỗ mấy cái rổ mây đan dở dang, Nam cởi bỏ cái nón và ngồi nghỉ trên sàn nhà bằng phên tre, Điểu Sơn hỏi chuyện Ba Du về thu hoạch mùa màng ở nhà.

              Bây giờ Nam mới có cơ hội nhìn kỹ hơn vẻ bên ngoài của ông ta, tầm thước như Ba Du, tóc hơi quăn, khuôn mặt có nụ cười rất tự nhiên, thân thiện và đặc biệt là một cơ thể rắn chắc.

              Ba Du hỏi thăm Điểu Rút, Điểu Chắc … và mùa màng năm nay trong buôn có đủ ăn không, Điểu Sơn gật đầu nói:

              - Hy vọng không bị đói, còn không thì vô rừng đào củ, bẩy thú … chờ mùa mưa tới cấy lúa để buôn có gạo ăn, khỏi chờ chính quyền
              - Bà xã Điểu Sơn đâu? – Ba Du hỏi
              - Đang ở ngoài rẩy rồi, hai đứa nhỏ đi học làng kế bên, Ba Du và chú Nam ở lại nhà tui trưa nay nghe, lấy ché rượu cần ngon ra uống, bây giờ tui dẩn hai anh qua nhà già làng Điểu K’mốt thăm ổng một chút.
              - Ừ, tụi tui ở lại tới chiều mới về - Ba Du trả lời

              Nam và Ba Du theo Điểu Sơn tới cái nhà sàn lớn nằm giữa buôn, ba người lên thang gổ và bước vào nhà. Một người đàn ông Thượng lớn tuổi, khuôn mặt nhăn nheo, móm mém, ông ta mặc y phục thổ cẩm đang ngồi gần cây cột chính giữa nhà, Điểu Sơn và hai người khách ngồi xuống, rồi nói lớn:

              - Già làng ơi, có Ba Du vô thăm buôn
              - A, Ba Du vô hả, rẩy ngoài đó năm nay có đủ ăn không?
              - Cám ơn già làng, trời cho thì chắc đủ - Ba Du cười đáp và nói tiếp – đây là chú Nam cũng làm cái rẩy ở ngoài đó, dưới thành phố lên

              Nam gật đầu chào già làng Điểu K’mốt, ông ta chắc phải hơn 80 tuổi, tóc bạc và da mồi nhăn nheo, làm trưởng làng ở cái buôn này chắc đã rất lâu năm rồi. Từ giả già làng, Điểu Sơn dẩn Ba Du và Nam qua kiếm Điểu Rút và rủ trưa nay đến nhà uống rượu cần. Nhà Điều Rút ở tận cuối buôn, nhìn ra xung quanh thấy màu xanh nương rẩy và rừng nối tiếp nhau. Cả ba người bước lên thang, Điều Sơn đứng trước hiên lớn tiếng gọi:

              - Điểu Rút có ở nhà không?

              Có tiếng một cô gái từ trong vọng ra:

              - Dạ, cậu Điểu Rút đi rừng rồi, chiều mới về

              Nam nghe cách trả lời thấy giống như một cô gái Việt, nên thấy lạ và hơi tò mò về cô gái Thượng này, anh theo Điểu Sơn và Ba Du vào bên trong. Ở gần cái vách giữa nhà, một cô gái trẻ đang ngồi tẻ hạt bắp bên cái nia to, kế bên là một đống trái chưa bóc vỏ, Nam ngạc nhiên vì thấy cô gái không giống như một người S’tiêng, cô có nét đẹp tự nhiên và duyên dáng giống một cô gái Việt, mặc y phục bà ba đen, mái tóc thả dài xuống vai, từ cô toát ra nét khỏe mạnh của một thiếu nữ miền sơn cước, Điểu Sơn thấy cô gái liền nói:

              - Ngọc Minh ở nhà tẽ bắp hả, chừng nào Điểu Rút về cháu nhớ nói là có Ba Du vô buôn thăm nhé

              Cô gái gật đầu và nhìn Nam với đôi mắt hơi ngây thơ, đọng chút u buồn, anh nghe trái tim trong lồng ngực đập theo nhịp điệu rất lạ, nó cũng giống như lần đầu tiên khi anh thầm yêu cô bạn gái cũ.

              Nam mong Điểu Sơn ở nán lại nói chuyện lâu hơn, nhưng câu chuyện ngắn ngủi kết thúc ở đó, Điểu Sơn cùng Ba Du đang bước xuống thang, Nam ngoái lại nhìn cô gái một lần nửa, cô vẩn lặng lẻ ngồi tẻ bắp bên cái nia và hơi mỉm cười với anh.

              Nam chậm rải xuống từng bậc thang, anh nhìn màu nắng vàng buổi trưa trải rộng khắp buôn, theo chân hai người kia về nhà Điểu Sơn.
              Dặn Ba Du và Nam lên nhà ngồi chơi, Điểu Sơn cầm ná ra bắt con gà ngoài rẩy về làm thịt.

              Buổi trưa trên căn nhà sàn giữa vùng đồi núi hoang vu, chóe rượu cần được Điểu Sơn đem ra đãi khách. Lần đầu tiên uống rượu này, Nam hơi lúng túng vì chưa biết cách uống, nhưng thấy Ba Du và Điểu Sơn cắm cái cần trúc vào bình uống tự nhiên, anh tò mò làm theo, thấy nó có vị cay là lạ và thơm mùi hương của cây lá rừng khi giọt rượu vào miệng và đi qua cổ họng.

              Món gà luộc chấm muối ớt được Nam và Ba Du thưởng thức tận tình vì cái bụng trống rổng sau nhiều giờ lội bộ trong rừng buổi sáng. Nhưng đầu óc anh lúc này lại lan man khi nghĩ đến cô gái tên Ngọc Minh, đâu ngờ ở cái buôn trong miền rừng núi xa xôi này lại có một cô gái duyên dáng như vậy, anh bạo dạn hỏi về người đàn ông tên Điểu Sơn mà cô gọi là cậu:

              - Điểu Rút ngày xưa có trong lính cùng với Điểu Sơn và anh Ba Du không?

              Nghe anh hỏi hơi đột ngột, Điểu Sơn nhìn anh cười nói:

              - Có, nhưng Điểu Rút bị thương nặng nên giải ngũ trước năm 75, tui với Ba Du còn ở lại đến ngày cuối cùng, ờ … mà chú Nam uống thử rượu cần trong buôn làm đi, nó say đằm lắm, không nhức đầu đâu

              Điểu Sơn tiếp xúc với người Mỹ và Việt sớm nên cách nói chuyện và cử chỉ cũng không khác người miền xuôi bao nhiêu, nhưng vẩn còn giữ nét chân thật của người Thượng, có lẻ điều đó làm cho hai người người đồng đội cũ vẩn quí mến nhau sau chiến tranh.

              Rượu cần uống vào rất nhẹ và dể chịu nơi cổ họng, khi trong bình vừa gần hết, Điểu Sơn lại lấy nước đổ thêm vào, chờ dăm phút sau, Nam vít cần uống thử, kỳ lạ là chất rượu vẩn không nhạt đi bao nhiêu, và cái say len lén tựa như giấc ngủ đến lúc nào không hay.

              Không khí ban trưa trong buôn rất vắng vẻ và mang nét cô tịch của rừng núi xung quanh, Nam nhớ lại đôi mắt Ngọc Minh, đôi mắt đó cũng mang vẻ u buồn như vậy khi nhìn anh, như có điều gì đó thôi thúc mạnh mẽ, Nam nghĩ chắc anh sẽ quay trở lại buôn Bù Đon này.

              Hết chóe rượu, và phần sợ về trể, Ba Du cùng uống với Điểu Sơn lần cuối và đứng dậy chia tay, hẹn Điểu Sơn lúc nào có đi đặt bẩy gần ngoài đó, ghé vô rẩy anh và Nam chơi.

              Mặt trời đã qua khỏi đỉnh đầu khi anh và Ba Du ra khỏi buôn theo lối mòn vào rừng.

              Nam vác cái gùi trên lưng thay Ba Du, theo con đường cũ qua khu rừng già dưới những tia nắng chiều lấp lánh chiếu xuyên qua vòm lá trên cao, trời mới ngã về phía tây nên không khí vẩn còn nóng bức và ngột ngạt.

              Nhưng hai người đàn ông hình như được men rượu tăng thêm sức mạnh và sự phấn chấn nên nhanh chóng qua đỉnh dốc rồi vượt qua hai con suối, Nam hỏi Ba Du đang chăm chú nhìn lối mòn phía trước:

              - Nhà Ngọc Minh ở đâu sao lại ở nhà Điểu Rút anh Ba?

              Ba Du bước chậm lại và trả lời:

              - Ngọc Minh mồ côi cha, mẹ, là bà con của Điểu Rút, cha Ngọc Minh là người Việt đi lính VNCH đóng ở tiểu khu An Lộc, trước năm 75, Ngọc Minh học trường Việt, nên nói rành tiếng Việt, sau khi cha tử trận năm 74, Ngọc Minh theo mẹ trở về sống trong buôn, cách đây hai năm mẹ của Ngọc Minh cũng chết vì bịnh

              Nam chợt hiểu ra vì sao nhìn Ngọc Minh nhìn không giống dân thượng, cô còn trẻ lắm, anh nghĩ tuổi Ngọc Minh vào khoảng 18 - 20 …
              Còn Ba Du thì đã từng trải, bắt đầu hiểu vì sao khi từ nhà Điểu Rút đi ra, rồi về nhà Điểu Sơn ngồi uống rượu, đôi lúc thấy Nam ngồi suy nghĩ thơ thẩn như người mất hồn.

              Kinh nghiệm sống và từng trải làm Ba Du tinh ý nhận ra và đồng cảm với chàng trai hàng xóm đến từ Saigon, Ba Du biết Nam đang rung động trước nét đẹp mộc mạc của Ngọc Minh.

              Nếu Nam thật sự yêu Ngọc Minh, thì đó là điều kỳ diệu, một mối tình đẹp và có lẻ lãng mạn giữa một chàng trai Saigon với một cô gái Việt – S’tiêng ở chốn thâm sơn, cùng cốc. Ba Du mỉm cười không để Nam thấy, và trong lòng thì thật sự mong muốn chuyện tình đẹp này trở thành sự thực.

              Mặt trời lặn xuống hướng tây phía sau lưng hai người đàn ông đang im lặng đi dưới cánh rừng, đến con suối lớn cuối cùng, Ba Du và Nam dừng lại nghỉ chân, lấy nước ra uống vài ngụm và khom xuống vốc nước suối rửa mặt.

              Thấy Nam không tỏ vẻ bị mệt mỏi nhiều như lúc vào buôn buổi sáng, trái lại trên khuôn mặt anh ẩn hiện niềm vui nhẹ nhàng, ngồi nghỉ thêm dăm phút, Ba Du nói:

              - Đi nhé chú Nam, từ đây ra đến bờ hồ cũng không còn xa bao nhiêu

              Nam gật đầu, nhanh nhẹn mang gùi và cầm rựa theo Ba Du đi vào lối mòn nhỏ chìm giữa ngàn xanh trong nắng chiều yếu ớt.

              Ra đến bờ hồ, đẩy chiếc xuồng xuống nước, Nam chủ động ra ngồi phía sau, thấy vậy Ba Du ra phía trước và bơi về hướng hạ lưu. Thỉnh thoảng Ba Du chỉ cho anh cách chèo lái chiếc xuồng theo ý muốn, vì ở phía sau dể điều khiển hơn, rồi hỏi Nam về chuyến đi:

              - Chú Nam thấy đường đi vô buôn có xa lắm không?
              - Cũng không xa lắm, lúc trước anh Ba có hay vào buôn không?
              - Chừng mười, hay mười lăm ngày, có khi cả tháng mới vô một lần, có vô đó mới thấy họ rất khổ, có năm mất mùa dân trong buôn phải vô rừng đào củ … ăn cho qua cơn đói, mấy lúc đó họ rất cần sự giúp đỡ

              Nam nghĩ đến Ngọc Minh, những lúc như vậy, cô và gia đình chắc cũng phải chịu đói như dân trong buôn, trái tim anh bổng thấy thương cảm, nếu còn tiếp tục sống ở trong cái buôn đó, không biết cuộc đời Ngọc Minh sau này sẽ ra sao.

              Chiếc xuồng bơi về hạ lưu, những tia nắng cuối cùng tắt lịm trên rừng núi trùng điệp phía tây, hoàng hôn đang dần xuống, vài con cá quẩy đuôi trên mặt hồ, làm vang lên những tiếng bỏm ngắn.

              * * *

              Chỉ còn khoảng hơn mười ngày nửa là đến Tết âm lịch 1981, Ba Du qua nhà Hai Tuất nhờ kiếm vài người quen bên đó qua phụ tẻ bắp, đậu cho cả Nam.
              Sau khi xong công việc, Ba Du ra ngoài xã gặp Năm Bình kêu vào bán bắp, đậu của cả hai như đã đồng ý trước đây, và sẵn đó nhờ Năm Bình quen cán bộ trong nông trường xin một số thuốc trị sốt rét của cho Điểu Sơn.

              Nam chỉ để lại dành lại một số bắp và đậu xanh để mang về thành phố cho gia đình, số còn lại dùng làm giống và ăn mấy tháng sắp tới. Số tiền bán đậu, bắp Nam và Ba Du còn gửi ở nhà Năm Bình, tuần sau Nam ghé lấy cùng lúc với giấy phép đi đường của xã cấp để tiện thể về Saigon. Phần của Ba Du sẽ đem về ăn Tết với gia đình, còn Nam sẽ lên trước Tết như ý anh mong muốn.

              Sắp xếp công việc xong xuôi, Ba Du nhận được thuốc sốt rét của Năm Bình xin từ y tế nông trường và đem vào tận nhà, Ba Du rất tinh tế trong việc này và hẹn Nam ngày mai đem thuốc vào buôn cho Điểu Sơn.

              Sáng hôm sau, Nam dậy sớm lúc trời còn tờ mờ, dắt con Đốm qua nhà Ba Du gửi, cả hai nhanh chóng ra bờ hồ và chèo xuống về hướng thượng lưu.
              Mùa rẩy năm nay tốt, nên Ba Du kiếm được món tiền kha khá, còn Nam thí ít hơn, nhưng cũng đủ bù đắp và dư dã chút ít, Nam vui vẻ nói với Ba Du:

              - Vài ngày nửa tôi sẽ về nhà ở Saigon khoảng hai ngày rồi lên lại, Tết này anh Ba về dưới thành phố ăn Tết với gia đình, gửi nhà và con Ki cho tôi

              Ba Du gật đầu:

              - Tôi về ăn Tết khoảng vài ngày với gia đình và mồng 5, 6 sẽ lên lại, Tết này vô buôn thăm rồi có thể ở lại chơi một, hai ngày

              Trong bụng Nam thấy kế hoạch của Ba Du hay và cũng hợp ý của mình. Tuần rồi vừa vào buôn Bù Đon và duyên số hôm đó cho anh gặp Ngọc Minh, hôm nay Ba Du và anh quay lại buôn đưa thuốc cho Điểu Sơn, sẵn dịp chắc Ba Du và anh sẽ vào thăm Điểu Rút.

              Chiếc xuồng cập vào bờ, Nam nhanh chân bước xuống và kéo nó vào giấu dưới những tàn lá um tùm ven bờ. Cả hai đi theo hướng đường mòn, Nam và Ba Du vượt qua con suối lớn và tiếp tục đi đến trảng cỏ mới nghĩ chân. Không khí gần mùa xuân mát mẽ, nhiều loài hoa dại nhỏ tim tím không tên đua nở khắp nơi, làm Nam nhớ đến những cô gái người Thượng sống trong các buôn làng nơi miền sơn cước hoang vu.

              Cầm cái chai uống thêm ngụm nước, Nam hăng hái vác gùi lên vai và cầm rựa đi trước, Ba Du vẩn nhanh nhẹn như mọi khi, lần nay đi sau để cho Nam dẩn đường.

              Ba Du nghĩ thầm trong đầu và nhớ lại lúc mình còn trẻ, có chàng trai nào mà không thích gặp người mình yêu, trước năm 75, là người lính nên thường phải đóng quân ở nơi xa xôi, những lúc được về phép ở Saigon luôn là những ngày tuyệt vời khi được đi với người yêu dạo chơi đó dây trên đường phố, rồi bây giờ là nhớ về người vợ yêu dấu đã khuất vài năm trước, Ba Du thoáng ngậm ngùi.

              Băng qua hai con suối, và xuống đoạn đường dốc về thung lũng, hai người đàn ông đi thẳng đến nhà Điểu Sơn, Ba Du dặn Nam:

              - Nếu vào buôn có gặp tay công an xã tên Tạn, thấy chú Nam lạ nó sẽ hỏi, cứ trả lời đi vô buôn trao đổi hàng hóa với dân trong này, còn tui nó đã biết mặt rồi …

              Hai người bước lên nhà sàn ngồi nói chuyện và Ba Du chỉ dẩn lại cho Điểu Sơn cách dùng thuốc, rồi nói:

              - Tui với chú Nam chút nửa về sớm, mình qua nhà Điểu Rút thăm chút đi, lâu quá chưa gặp
              - Ừ, để tui dẩn Ba Du và chú Nam qua bên đó

              Cả ba cùng đi về cuối buôn, Nam lót tót phía sau cùng, anh mong có Điểu Rút ở nhà và nhất là Ngọc Minh hôm nay không phải ra rẩy. Cũng thật may mắn, Điểu Rút sửa soạn đi ra thăm rẩy, thấy ba người đàn ông đứng dưới chân cầu thang, ông ta cười và nói lớn:

              - Ba Du, lâu rồi không gặp, lên nhà ngồi chơi đi

              Ba Du cười và đưa tay lên ra dấu chào, theo Điểu Sơn lên thang gổ trước căn nhà sàn, Điểu Rút thấy Nam lạ vì chưa gặp anh lần nào, Ba Du giới thiệu:

              - Đây là chú Nam, ở Saigon lên làm rẩy gần nhà tui ngoài đó

              Nam gật đầu chào, Điểu Rút nhìn anh khá kỹ, bốn người ngồi thành vòng tròn trên sàn, Ba Du lấy thuốc lá ra mời.

              Điểu Rút cao lớn, có nước da sáng hơn Điểu Sơn, bộ râu quai nón rất đàn ông, và nói chuyên cởi mở. Ba Du hỏi thăm sức khỏe và vết thương cũ, Điểu Rút nói cũng ổn, trừ khi nào làm việc nhiều thì hơi đau, Ba Du quay sang nói với Nam:

              - Ở Tống Lê Chân, Điếu Rút và Điểu Sơn rất gan dạ, khi tiểu đoàn được lịnh rút ra khỏi căn cứ, cả hai tình nguyện đi sau cùng, vừa đánh vừa rút lui an toàn về đến An Lộc

              Hai người đàn ông S’tiêng nghe Ba Du nói thì cười lớn, Điểu Rút nói:

              - Ba Du khiêm nhường quá, anh cũng đi sau cùng với anh em lúc đó, nhanh nhẹ và gan lì lắm

              Ba Du mỉm cười và hỏi Điểu Rút:

              -Ngọc Minh hôm nay đi ra rẩy hay sao Điểu Rút?

              Nam nghe hỏi xong liền hiểu ý Ba Du, một vài phút lắng xuống, có vẻ những ý nghĩ đã gặp nhau, Điểu Rút trả lời:

              - Ờ, không Ba Du, đang trong nhà may đồ, Ngọc Minh ơi, chú Ba Du hỏi thăm cháu đó

              Nam nghe Ngọc Minh dạ và tiếng bước chân đi ra, khuôn mặt cô hơi ửng đỏ, gật đầu chào mọi người và đưa mắt nhìn Nam.
              Ba người đàn ông hình như cùng có chung suy nghĩ, riêng Nam thấy khuôn mặt mình bừng nóng nhè nhẹ. Ngọc Minh hiểu ý của người cậu nên vào trong rót mấy ly nước bê ra mời khách, Điều Rút nói với cô:

              - Cháu dẩn cậu Nam ra vườn gần nhà hái trái cây đi

              Ngọc Minh lấy cái nón lá và đeo cái gùi xuống thang, Nam đi theo về phía khu vườn, đến nơi anh nói:

              - Ngọc Minh để tôi giữ gùi cho


              (còn tiếp)
              Last edited by khongquan2; 11-13-2016, 10:27 PM.

              Comment


              • #8

                Ngọc Minh dạ nhỏ và đưa cái gùi cho Nam, tay cô cầm cây rựa chặt quầy chuối già chín bỏ nằm dưới đất, cả hai đi vài vòng quanh những cây mít xum xuê hái vài trái chín, vỏ gai căng tròn, tỏa mùi thơm.

                Thấy Nam bỏ hai trái mít vào gùi rồi khoác lên vai, rồi còn cố gắng cầm hai quầy chuối và trái mít còn lại, Ngọc Minh bụm miệng cười nói:

                - Anh Nam xách nhiều thứ quá, để Ngọc Minh phụ cho
                - Ờ, không sao …tôi khiêng được

                Nam vừa mang gùi trên vai, tay chuối, tay mít khệ nệ đi về nhà, Ngọc Minh đi kế bên hỏi:

                - Có nặng không anh Nam?

                Nam cười trả lời:

                - Không nặng lắm đâu, tôi xách được, ở trong buôn chỉ có mình Ngọc Minh mặc áo bà ba giống mấy cô gái Việt Nam phải không?
                - Ừ, nhưng mà bây giờ cũng có nhiều người mặc đồ giống người Kinh rồi, mà ba Ngọc Minh là người Việt mà
                - Ờ, tôi quên, cứ nghĩ Ngọc Minh là người S’tiêng không đó … - Nam nhìn cô gái cười

                Hai người yên lặng về đến gần nhà, anh bất chợt hỏi:

                -Tết sắp tới Ngọc Minh ăn Tết trong buôn hay về thành phố?

                Nghe Nam hỏi, cô có vẻ ngạc nhiên:

                - Ngọc Minh ăn Tết trong này với gia đình
                - Vậy mấy ngày Tết tôi vào thăm Ngọc Minh nhé

                Cô cười và gật đầu, mặt hơi ửng đỏ, câu trả lời của cô làm Nam thấy nhẹ nhỏm. Anh nhanh nhẹ lên thang vào nhà, Ngọc Minh xẻ trái mít chín mời khách,

                Ba Du ăn múi đầu tiên rồi khen:

                - Mít này ngọt, thơm quá, trái nhỏ nhỏ giống mít tố nữ quá

                Thấy Ba Du khen, Nam và Điều Sơn cũng ăn thử và thấy ngon

                - Đi rừng thấy trái nó chín, hái ăn thử thấy ngon, ăn xong tui lấy hột trồng đó Ba Du – Điểu Rút trả lời

                Rồi ông ta nhìn anh cười:

                - Cậu Nam làm rẩy mà cũng mạnh đó chứ, vừa gùi, vừa xách chuối lên thang …

                Điểu Sơn và Ba Du cùng cười, Nam biết Điểu Rút muốn khen anh nên mỉm cười trả lời:

                - Dạ, cũng không nặng lắm đâu Điểu Rút

                Hai người đàn ông S’tiêng cũng như Ba Du hiểu ý chàng trai người Việt này, họ cùng tin Nam là người tốt. Ngồi nói chuyện thêm năm, mười phút, Ba Du và Nam chào Điểu Rút và Điểu Sơn ra về, bỏ hai trái mít còn lại vào gùi của Ba Du, Điểu Rút nói:

                - Hai trái này để Ba Du và cậu Nam đem về nhà

                Nam cám ơn và đeo gùi lên vai, anh nhìn Ngọc Minh đứng gần phía sau Điều Rút và nói:

                - Tôi về nghe Ngọc Minh, cám ơn hai trái mít nhé
                - Tết anh Nam vô thăm buôn nhé – cô cười nói

                Nam gật đầu theo chân ba người đàn ông kia bước xuống thang, Điểu Rút tiễn chân anh và Ba Du thêm một đoạn ra đến đầu buôn, đưa tay chào Ba Du xong liền nói:

                - Cậu Nam mấy ngày Tết vô buôn chơi nhé, uống rượu cần với dân trong này

                Nam cười gật đầu đồng ý và cùng Ba Du theo lối mòn vượt cánh rừng trở ra bờ hồ.

                * * *

                Còn một tuần nửa là Tết, Nam sửa soạn số đậu và bắp cho vào hai túi vải, sau đó ra ngoài xã nhờ Năm Bình xin giấy phép của xã chở nó về Saigon cho gia đình.

                Sáng hôm sau như đã hẹn, Ba Du lấy xuồng chở anh và hai cái túi vải ra xã sớm, Nam ghé vào nhà Năm Bình lấy tiền bán nông sản, và nhờ xin quá giang tài xế nông trường ra quốc lộ, đón xe đò về thành phố.

                Sau mùa rẩy đầu, Nam cầm số tiền trả lại một phần cho gia đình để sắm sửa mấy ngày tết.

                Chiều ăn cơm nhà xong, anh chạy xe đạp qua nhà Huy, xuống chợ Ba Chiểu rủ thêm Ý nhà trong khu lò heo cũ gần đó tìm quán lai rai.

                Ý rất rành khu này vì là thổ địa ở đây, hắn rủ Nam và Huy đến quán cháo lòng lề đường có bán rượu cây lý nhậu với lòng heo luộc, theo hắn thì rất tuyệt vì đã từng đến đây nhiều lần.

                Bạn bè lâu ngày mới gặp lại, thêm có nó hay cười đùa vui tính nên cả hai cùng gật đầu. Cả ba ngồi ở cái bàn nhỏ kê ra sát vỉa hè, Ý nói giờ này chắc tay công an khu vực về nhà với vợ con rồi, không bị dẹp đâu mà lo.

                Ống chủ quán thấy có khách quen liền chạy ra, Ý gọi:

                - Chú Sáu cho ba xị và đĩa lòng lớn nghe

                Con đường Vũ Tùng chạy từ trong xóm lò heo thẳng ra chở Bà Chiểu mới hơn 8 giờ tối đã thấy vằng lặng, mù mù, vì đèn đường chỗ sáng, chỗ không, trong quán vài ba khách lớn tuổi đang lai rai.

                Nam nhìn Ý hỏi:

                - Lúc này khỏe không, lâu quá tao mới gặp
                - Ờ, cũng bình thường, tao thỉnh thoảng gặp Huy uống cà- phê, làm rẩy trên đó ra sao, thấy có khá hơn lúc đi buôn không?
                - Cũng tàm tạm, cách đây mấy tuần có về gặp Huy rồi đi liền nên không kịp qua nhà mày

                Chủ quán đem rượu và dĩa lòng heo đầy ra và ba cái ly để trên bàn, Huy rót rượu vào ly rồi nói:

                - Lâu quá mới gặp, vô lai rai đi rồi nói chuyện mới hay

                Cả ba cạn ly, Nam vừa uống hết ly rượu đã thấy hơi nóng chạy từ cổ họng xuống dạ dầy, anh cười hỏi Ý:

                - Rượu quán này “nặng đô” dử, uống nhiều say xỉn có bị nhức đầu không?

                Ý và Huy cùng cười, Ý nói:

                - Quán quen chắc không sao!


                - Trong nhà có ai vượt biên không?
                - Ông già định cho tao và ông anh đi, đang kiếm chỗ quen cho chắc ăn, chắc qua Tết , còn mày lúc này ngoài đó buôn bán được không, có mấy hôm tao chạy xe ngang Hàm Nghi không thấy đâu hết – Ý nói nhỏ

                Huy đang nhai miếng lòng to, cười lát sau nói:

                - Nhiều lúc tao cũng chạy lòng vòng kiếm khách, ở một chỗ hoài chắc đói

                Nam và Ý nghe nói cùng cười lớn, anh nói:

                - Tao thấy dân chợ trời nhanh như chớp, mấy tay bộ đội ngoài đó vô hỏi mua hay bán cái gì cũng được tiếp đón, ê Huy, tao hỏi thiệt, mấy cái đồng hồ đeo tay Seiko lấy ở đâu ra mà ai mua mày cũng có, mà toàn là hàng “ô-ri-gin” không, sao hay vậy !?

                Cả ba cùng cười, Huy làm ra vẻ bí mật:

                - Không nói cho mày nghe được, chợ trời hay là ở chỗ đó, cũng giống dân buôn đường dài như mày, lúc nào gặp trạm kiểm soát cũng qua được, mày nói bí quyết đó ra thử xem …

                Không khí cái bàn nhậu nhỏ khá ồn ào, Ý gọi chủ quán mang ra thêm ba xị nửa, Nam lắc đầu, lấy bao thuốc lá ra hút:

                - Tao hết xị đầu rồi, mày với Huy thoải mái đi
                - Ừ, mày không uống nửa thì để tao … ừ mà không thấy thằng nào lấy vợ hỉ - Ý cười nói theo âm người Huế
                - Mày làm công nhân nhà nước có tiêu chuẩn gạo, nước hàng tháng, cưới em nào cũng công nhân là êm, không sợ đói, mày làm trước đi, tao hay thằng

                Nam làm rể phụ cho xôm tụ

                - Mẹ, cho chết nhăn răng hả, giai cấp công-nông lãnh đạo cái bánh vẻ!?

                Huy và Ý cùng cười ha hả, rồi hắn nói tiếp:

                - Làm nhà nước thằng nào mà không chôm chỉa mánh mung có mà là thánh
                - Ê, Ý nhà máy chỗ mày làm cuốc, xẻng … thì có cái gì mánh mung được – Nam cố ý hỏi trêu nó
                - Làm cái gì, ăn cái nấy, sắt thép, đũa hàn … hoặc lấy lưỡi cuốc, xẻng đem ra chợ trời bán, lương bổng nhà nước sao đủ sống, bây giờ ở Saigon mọi người đều buôn lậu, mánh mung … chứ đâu phải mình tao!

                Nghe Ý nói, cả Nam và Huy cùng cười, ba thằng hút thuốc lá, im lặng nhìn ra con đường trước quán vắng tênh, nhìn về phía chợ Bà Chiểu tối om om, dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt, vài người lượm rác áo quần vá chằng, vá đụp, vác cái túi trên vai đang lang thang trong bóng đêm.

                Quán dần dần thưa khách, một người đàn ông tóc dài, râu ria, ngoại hình mang vẻ nghệ sĩ chống nạng, với cái chân giả đi cà nhắc bước vào quán, vai khoác cây đàn gui-ta, vừa đánh đàn, vừa hát. Ông ta qua cái bàn kế bên có hai người đàn ông đang ngồi nhậu, và bắt đầu hát một bài Nam nghe thấy quen quen, nhưng anh không nhớ nổi tên, Ý bổng nhìn Huy hỏi:

                - Cô bạn mày quen ngoài đó đâu rồi?

                Huy ngồi lặng lẽ hút thuốc chầm chậm trả lời:

                - Đi mất tiêu rồi, có lẻ vượt biên với gia đình rồi, lần cuối ra bán cái ra-điô cũ … cả tháng nay tao không gặp, có thể em về quê ở miền tây, tao cóc biết nửa!

                Nam nói nhỏ với Ý:

                - Ngày mốt tao lên lại trên đó, Tết này chắc không về, mày đi nhớ cho Huy biết, ráng trót lọt nhé!
                - Ừ, tao cũng hy vọng, mong trời phật … ừ, mày lên đó mấy tháng có quen được em nào không – Ý cười và hỏi
                - Cái xứ khỉ ho, cò gáy đó làm gì có ai đẹp đâu mà yêu, mai mốt nhờ mày hay Huy giới thiệu cô nào giàu giàu ở dưới đây để tao còn vượt biên chứ – Nam cười tiếu lâm

                Cả hai thằng bạn cùng nhìn anh, gật đầu rồi cười hiểu ý.

                Ở bàn kế bên hai người đàn ông trung niên mời người đàn ông mang chân giả ngồi, họ lặng lẽ nghe ông ta hát, cái nạng gổ gác lên ghế và cái nón cũ nằm ngửa trên bàn. Cầm gui-ta hát xong một bài, bây giờ ông ta hát một bản nhạc xưa lắc “Tiếng còi trong sương đêm”, tiếng ông ta nghe ấm và buồn hiu hắt trong cái quán rượu nhỏ thiếu ánh đèn, nghe như có tiếng chân của những người lính lên con tàu ra đi chinh chiến không hẹn ngày về trong một đêm lạnh lẻo.

                Chiến tranh đau khổ, chia ly, nước mắt, mấy ai có được may mắn quay về, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai mà biết trước được số phận của mình.

                Trời dần khuya, con đường vào xóm lò heo hầu như không còn bóng người qua lại, trong quán chỉ còn bàn của anh với hai thằng bạn và ba người đàn ông bàn bên kia, chủ quán đã quen với cảnh đệ tử lưu linh chưa say, chưa về nên nhẫn nại ra sau quầy ngồi nghỉ.

                Ý tửu lượng khá mạnh nên một mình nốc hết hai xị chủ quán đem ra sau, bây giờ ngồi hút thuốc trầm tư nhìn ra bóng tối hun hút, Huy lắng tai nghe người đàn ông nghệ sĩ tàn phế ở bàn bên kia hát một bài tiền chiến với vẽ thích thú.

                Sau vài câu chuyện hỏi han nhau giữa ba người đàn ông, Nam loáng thoáng nghe được và biết họ là những người lính VNCH, người đàn ông cụt chân bị thương nặng trong một trận đánh ở Kontum, bây giờ hằng đêm ra đường với cây đàn ca hát kiếm sống, hai người đàn ông kia im lặng ngồi nghe với vẻ day dứt, khuôn mặt mang nét buồn bả. Những ly rượu cay xé cổ họng trong cái quán nhỏ đêm nay làm họ thấy ấm áp, khi ngồi nói chuyện thân tình bên nhau như những người đồng đội cũ sau một thời gian dài gặp lại.

                Gần tết trời về khuya lành lạnh, Huy nói đi về, Ý gật đầu và gọi ông chủ quán tính tiền, Nam nói:

                - Ý, hôm nay để tao trả

                Tính tiền xong, cả ba đứng dậy, Ý đến gần người đàn ông cụt chân, lấy tay vổ nhẹ lên vai, hắn cầm cuộn tiền quấn tròn, trân trọng đưa cho ông ta, ba người đàn ông nhìn hắn, Nam và Huy với vẻ biết ơn. Huy, Nam dắt xe đạp ra và nói:

                - Ý, tao chở mày về
                - Thôi khỏi, tao đi bộ về được rồi, tụi mày về đi

                Đạp xe ra đường Bùi Hữu Nghĩa, Nam nhớ chơi với Ý từ khi học lớp 11, nó thông minh nhưng lười. Hết lớp 12 cả đám bạn không đứa nào thi đậu vào đại học vì sơ yếu lý lịch bị đánh dấu thuộc thành phần không tốt. Gia đình Ý là người Huế, hắn có lối nói chuyện mạnh bạo kiểu quan quyền, sau ngày giải phóng vào Saigon, hắn lại có thêm cái tật hay xài tiếng “Đan Mạch” mỗi khi tức giận, làm người nghe lầm tưởng Ý là một tay võ biền vô học. Nhưng Nam biết Ý có tâm hồn sâu sắc, đọc nhiều và rất biết ơn những người lính miền nam, Ý hay nói dân Huế nợ những người lính đó rất nhiều, cho dù họ đã không thành công trong việc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền nam.

                Huy và Nam đạp xe song song trên con đường nhỏ vắng teo, đèn vàng lờ mờ, những căn nhà phố hai bên đã chìm vào màn đêm, Huy hỏi:

                - Mày đi lên đó lần này đến tháng mấy về Saigon?
                - Chưa biết, chắc phải tháng 5 hay tháng 6 … ngày mốt tao đi nhé

                Huy gật đầu và quẹo vào con hẻm nhỏ, Nam nhấn bàn đạp chạy xe lên cầu, vừa đổ dốc qua bên kia, đột ngột một cô gái mặc đồ bộ đứng sau cột đèn đường trong bóng tối đưa tay ra ngoắc ngoắc. Đầu óc Nam đang lan man vì có chút hơi men, thấy có bóng người chắn ngang liền rà thắng xe.

                Mặt cô gái trang điểm sơ sài và nhìn còn khá trẻ, đôi mắt lộ ra nét mệt mỏi như người thiếu ngủ lâu ngày. Nam dừng xe bên lề đường, lấy thuốc lá ra hút và chìa nó về phía cô gái, nhưng cô cười và lắc đầu:

                - Em không biết hút, đi đâu về trễ vậy anh?

                Mấy lần uống cà- phê với mấy thằng bạn, tụi nó nói bây giờ Saigon ban đêm “bò lạc” nhiều lắm, chữ đó tụi nó ám chỉ mấy cô gái từ các tỉnh hay từ các vùng kinh tế mới đói khổ quá chạy về Saigon bán thân kiếm sống, đêm đêm đi loanh quanh bắt mối ở các khu vực gần sở thú, vườn Tao đàn, đường Nguyễn Văn Chiêm, dinh Thống nhất … Đêm nào bị công an bố, mấy cô gái đó chạy tán loạn ra những con đường khác, nhìn cô gái vừa gặp bên dốc cầu,
                Nam đoán chắc là vậy nên nổi tính chọc phá:

                - Còn em, sao giờ này còn ngoài đường, không sợ công an nó hốt đi cải tạo hay sao?

                Cô gái lắc đầu, cười với Nam và nói:

                - Công an đâu sợ bằng chết đói, đi chơi không anh?

                Nam hút thuốc lá, giả bộ tảng lờ hỏi:

                - Giờ này đi đâu, với ai đây?
                - Anh còn làm bộ nửa, băng qua bên kia đường Mai Thị Lựu gần đây nè, em lấy hữu nghị cho …
                - Nhà em ở đâu?

                Nghe Nam hỏi, cô gái cười nói:

                - Ngộ quá, không đi chơi thì thôi, tự nhiên hỏi nhà làm gì – cô gái đổi giọng hơi cáu kỉnh

                Nam thấy vui vui nên chọc tiếp:

                - Thấy em hiền, dể thương nên anh tội nghiệp, nói nhà đi, chút anh chở về nhà xin má cho em qua nhà anh phụ nấu cơm, giặt quần áo …
                - Thôi mà, anh chọc hoài, ai mà thèm lấy em … nghèo thấy mồ, mà còn làm nghề này nửa ...

                Nam nghe cô gái nói đến đây tự nhiên cảm thấy hơi xấu hổ, nhìn màn đêm cô tịch giăng giăng, anh thấy chút xót xa, nên gạt ngang không để cô gái nói tiếp:

                - Ờ, rồi nào đi! bây giờ em nói bao nhiêu đi, chút nửa khỏi lộn xộn

                Cô gái lộ nét buồn, đứng xụi lơ và tựa vào cột đèn đường, nhìn Nam nói:

                - Anh cho bao nhiêu cũng được …

                Nam chỉ lên yên sau, kêu cô gái lên ngồi, anh hỏi nhỏ:

                - Bây giờ đi đường nào?

                Cô gái đưa tay chỉ qua Mai Thị Lựu và Nguyễn Văn Thủ, anh hỏi cô gái:

                - Em biết bây giờ khoảng mấy giờ không?
                - Chắc khoảng hơn 10 giờ, anh quẹo qua đường Nguyễn Văn Thủ nhe

                Anh rẽ xe qua hướng đó, cô gái chỉ Nam chạy vào một hẻm cụt âm u và kêu dừng lại, cô gái xuống xe và chờ anh trong góc tối, anh làm ngơ ngồi trên xe hút thuốc, cô gái bước ra:

                - Ủa, sao không dắt xe vô đi anh?

                Nam dựng xe vào tường rào, rồi ra ngồi bên lề đường, tay cầm điếu thuốc lá nhìn mông lung lên trời đêm, anh nói:

                - Ngồi đây nói chuyện chút rồi về đi em …

                Cô gái có lẻ đôi lúc cũng đã gặp những ông khách có hơi rượu và tính khí kỳ lạ, dở dở, ương ương, đoán Nam cũng giống như vậy, nên ra ngồi hai tay tựa như bó gối kế bên.

                - Hút xong điếu thuốc, anh đưa em về

                Nói xong Nam móc túi lấy tiền cho cô gái đang ngồi mỉm cười, cô cầm tiền cẩn thận bỏ vào túi quần bên trong.

                - Nhà em ở đâu?

                Cô gái ngập ngừng trả lời:

                - Gần ngã tư Xóm Gà, xa lắm, chút em về một mình được rồi …
                - Ừ, không sao, anh chở em về một bửa, từ đó về nhà anh cũng gần …

                Cô gái ngồi im lặng nhìn Nam trong bóng tối, hút xong điếu thuốc, anh dụi tàn, đứng dậy lấy xe ra đường chờ:

                - Lên đi

                Cô gái ngồi lên yên sau, chiếc xe đạp chạy ra đường Đinh Tiên Hoàng và băng qua dốc cầu Bông về Bình Thạnh, bên đường vài tay công an và phường đội đang đi tuần tra dọc trên các vỉa hè lạnh lẻo, tối om.

                Chạy xe ngang qua Lăng Ông nằm lặng im dưới bóng tối những cổ thụ, Nam nói đùa:

                - Hôm nào em vào trong Lăng Ông xin săm đi, mấy người gặp anh rồi họ nói số anh hên lắm
                - Thiệt không đó, anh nói dóc … - cô gái lấy tay nhéo mạnh hông của Nam

                Nam cười nhỏ và nói:

                - Ui cha! mà em tên gì đó?

                Cô gái im lặng một lúc rồi trả lời:

                - Ly

                Anh chạy qua Phan Đăng Lưu và rẽ vào Hòang Hoa Thám, cuối con đường quẹo sang Nguyễn Văn Đậu tối om om, phía sau Ly nói:

                - Anh chạy tới chút xíu nửa rồi ngừng bên phải cho em xuống

                Tới đầu con hẻm vào nhà Ly, Nam dừng xe lại:

                - Thôi Ly vào đi

                Cô gái cám ơn và nhìn anh với đôi mắt như có vài giọt sương đêm vừa rơi vào đó, cái bóng nhỏ nhắn bước sâu vào màn đêm tăm tối bao trùm lên những mái nhà tôn lụp xụp ẩn sâu bên trong con hẻm.

                Về đến nhà đã gần 11 giờ, mẹ anh chờ cửa lo lắng hỏi có chuyện gì mà sao về khuya quá, Nam ừ hử, đổ tội cho mấy thằng bạn lâu ngày gặp nhau nên ra quán ngồi uống tụi nó không cho về sớm. Anh phóng lên căn gác, thay vội quần áo, tắt đèn và lăn ra nằm trên sàn gổ.

                Nam cố dỗ giấc ngủ trong sự tĩnh mịch của màn đêm, anh nhớ lại cuộc gặp gở với Ly sau chầu nhậu lai rai với hai thằng bạn ở xóm lò heo. Men rượu hay khơi dậy bản năng của người đàn ông khi gặp đàn bà, con gái mời mọc như vậy, ít ai mà làm ngơ được như thần thánh, nhưng nhìn vào đôi mắt Ly lúc nảy, anh thấy như có một bể khổ sâu thẳm đầy những cơn sóng dữ, cuộc sống khốn cùng này đã đẩy cô ra đường kiếm tiền trong bóng tối lẻ loi hàng đêm của Saigon.

                Sáng nay anh dậy trễ và thấy cơ thể mệt mỏi, có lẻ vì tối hôm qua thức quá khuya và suy nghĩ nhiều. Nam ăn sáng xong, ra nằm nghĩ và lấy vài cuốn sách cũ ra đọc, nhưng đầu óc lại cứ suy nghỉ lung tung. Anh ngồi dậy, mặc quần áo xong, lấy xe chạy xuống Thảo Cầm viên, mua vé, rồi vào phòng trưng bày xem lại các món đồ cổ sành sứ thời nhà Nguyễn, và những món được ghi là của Tầu, Nhật Bản.

                Nam từng nghe nhiều người nói, nghề sưu tầm đồ cổ này lắm công phu và kiến thức, trước năm 75, nhiều người giàu có bỏ ra một số tiền lớn để mua những cái lọ, dĩa, bình … từ thời nhà Minh, Thanh hay của các triều đại vua chúa Việt Nam, sau đó họ nhờ những tay chơi đồ cổ chuyên nghiệp hay những người chuyên nghiên cứu nổi tiếng đến xem, cuối cùng phát hiện ra đó là đồ giả, coi như người mua mất trắng.

                Đi hết một vòng khu trưng bày, Nam bước ra ngoài thấy còn sớm, hôm nay trời đẹp nên cao hứng quyết định đi một vòng khuôn viên cho thoải mái đầu óc rồi về nhà. Lang thang trên những lối đi vắng vẻ, anh cũng không nhớ là hôm nay thứ mấy, từ ngày lên trên đó làm rẩy, anh quen với tính người dân ở trong xó xỉnh rừng núi nên đâu cần nhớ ngày, vì ngày nào cần thì ra làm việc, khi nào thấy mỏi mệt thì nằm nhà nghỉ. Nhìn những cây cổ thụ tỏa bóng mát khắp nơi, làm Nam nhớ đến con đường mòn vào buôn thượng trong khu rừng già âm u, những mái nhà sàn trong thung lũng heo hút và cô gái mới quen tên Ngọc Minh.

                Anh suy tính, lần này trở lên đó khi Ba Du về nhà ăn Tết ở Saigon, trong thời gian chỉ có một mình, anh sẽ dùng dây dù vừa mua, buộc thêm cục đá nặng vào một đầu thả xuống thăm dò chiều sâu gần chỗ con suối chảy ra hồ trước, nơi mà theo anh đoán có thể là điểm chôn dấu hai cái thùng, sau đó sẽ lặn xuống xem bên dưới, nếu không đủ gan dạ làm việc đó một mình, thì việc ở lại trong khu hồ heo hút đó để tìm kiếm hai cái thùng đổ cổ cũng chả đi đến đâu.

                Lần này có thể là thời điểm quyết định xem có nên ở lại để tiếp tục tìm kiếm hay bỏ tất cả mọi thứ ở đây để trở lại thành phố, tiếp tục nghề cũ.
                Nam ra bãi lấy xe chạy về nhà, anh dành hết buổi chiều và tối loanh quanh ở nhà chơi với gia đình và ra đầu hẻm ngồi uống cà phê, nói chuyện với ông già vá xe trong xóm.

                Sáng anh ra bến xe sớm và mua vé lên chuyến đầu tiên về Bình Long. Trên quốc lộ vẩn vắng vẻ như mọi ngày, cho dù chỉ còn khỏang hơn một tuần nửa là đến Tết. Đầu giờ trưa, chiếc xe đò chạy đến nơi rẽ vào nông trường, anh quá giang được chiếc máy kéo Liên Xô màu đỏ cũ kỹ chạy lộc xộc vào đến bãi xe trước văn phòng nông trường thì trời cũng đã bắt đầu ngã về chiều.

                Đi ngang ngôi nhà gổ nằm kế bên trụ sở ủy ban xã, Nam hơi ngạc nhiên vì thấy Tư Có đang đứng nói chuyện với một tay công an mặt xương xẩu, lưng hơi còng, đeo khẩu súng ngắn bên hông và nhóm khoảng mười tay du kích trang bị súng ống đầy đủ. Anh suy nghĩ trong đầu, không biết có việc gì mà họ tập hợp cả đội, trên con đường đất đỏ tung bụi mờ mờ, lác đác vài công nhân cạo mủ lội bộ chậm rải trên đường.

                Đi thêm một đoạn, Nam sực nhớ ra Ba Du có nói với anh là vào những dịp lể lớn, bên du kích và công an hay phối hợp tuần tra khắp xã để giữ trật tự, an ninh, nhất là những khu vực hẻo lánh như ở chỗ anh và Ba Du.

                Đến khúc quanh ra bờ hồ, thấy Năm Bình đang chạy xe ra từ phía trạm gác, Nam gật đầu chào, Năm Bình dừng xe lại và cười hỏi:

                - Chú Nam mới từ thành phố lên hả, tết có ở trên này không hay về dưới đó?
                - Dạ, mới về hôm nay rồi anh Năm, ăn tết ở đây và trông nhà giùm anh Ba Du luôn, anh mới đi làm về?

                Năm Bình gật đầu:

                - Ừ, tôi vừa mới xong công việc trong trạm gác, tết này ở trong đó không làm gì ra nhà tôi lai rai nhé chú Nam

                Nam cười gật đầu và rảo bước đi nhanh ra con đường bờ hồ để về nhà vì thấy chiều đã xế bóng.

                Về đến nơi trời đã chạng vạng tối, anh đi nhanh qua nhà Ba Du để dẩn con Đốm về. Lội bộ qua đến gần hết con dốc, con Ki đánh hơi từ xa đã chạy ra sân, con Đốm cũng chạy theo vẩy đuôi mừng rở, sủa vang một góc bờ hồ, vào nhà thấy Ba Du đang ăn cơm chiều và mời Nam:

                - Chú Nam vô ăn luôn, chút về nhà khỏi nấu
                - Dạ, mấy hôm nay trên này cũng bình thường hả anh Ba?
                - Bình thường, chú Nam đi đường về Saigon có bị xét hỏi gì không?
                - Đến trạm, thấy hai bao đậu, bắp nên bị trạm chận lại, nhưng có giấy phép của xã nên mấy tay du kích cho đi

                Chiều nay Ba Du làm món gà luộc và gà kho gừng, sau chuyến lội bộ từ ngoài xã về đến nhà, cái bụng Nam trống rổng nên buổi cơm chiều nay anh thấy quá ngon, hình như Ba Du biết khi về đến đây, Nam sẽ ghé qua nhà đón con Đốm về, nên làm con gà “đãi” anh một bửa.

                Xong cơm tối, hai người ra sân ngồi trên mấy hòn đá, Ba Du vào nhà cầm ra trái đu đủ chín vàng, xẻ ra làm đôi, đưa cho Nam phân nửa trái và nói:

                - Cây đu đủ phía sau vườn chín nhiều, chút nửa chú Nam cầm một trái về nhà ăn

                Nam gật đầu, anh cắn miếng đu đủ thấy ngọt lịm trên đầu lưỡi, chất đường làm đầu óc anh thấy khoan khoái. Thanh toán xong món tráng miệng từ vườn nhà, anh lấy thuốc lá ra mời Ba Du. Con Đốm lớn nhanh, nó đang lăng xăng chạy theo con Ki khắp nơi, hai con chó có vẻ thân thiết nhau, Ba Du rít xong một hơi thuốc lá rồi hỏi Nam:

                - Nghỉ Tết xong, mùa tới chú Nam có trồng lại bắp không?
                - Ừ, chắc có, bên rẩy anh Ba trồng thì chắc tôi cũng vậy - anh trả lời vì đâu có biết trồng cái gì khác
                - Tui cũng trồng lại bắp, sau Tết mùa khô không có mưa nên phải xách nước từ hồ hay giếng để tưới, hơi cực chút

                Nam ngồi nghe và gật gù cái đầu, thì cứ theo như vậy đi, rồi tùy tình hình tính sau, và quay sang hỏi:

                - Anh Ba về Saigon trước Tết một hai ngày?
                - Trước Tết hai ngày, xong mùng ba hay mùng bốn tui sẽ lên lại, ở Saigon lâu quá cũng không biết đi đâu

                Nam nghe Ba Du nói như vậy thì thấy có nhiều thời gian để làm công việc kia, và còn có được một hai ngày vào buôn thăm Ngọc Minh nửa.

                Sau mùa vụ và gần Tết nên rảnh rổi, Nam lấy cần đi câu kiếm thêm cá và chọn nơi để sắp tới bắt đầu đo độ sâu thăm dò đáy hồ. Buổi sáng ngồi câu phía dưới đám rừng chồi, buổi chiều anh đi ra nơi con suối chảy vào hồ. Tuy đã là mùa khô, nhưng mực nước chỉ mới giảm xuống đôi chút so với cách đây vài tháng, anh nhớ lại mấy cửa đập ngoài xã, nếu mở được ba cái cửa đó lên cao hơn, trong vài ngày nước hồ sẽ xuống rất nhanh. Chỗ đó có cái trạm và nhân viên nông trường có mặt thường xuyên ở đó, ai đến gần đó, họ đều thấy, còn Năm Bình không biết làm gì trong trạm, có muốn thì đâu có dể dàng gì nhờ ông ta làm công việc dể ở tù này.

                Chiều nay, trước khi về Saigon, Ba Du ra chỗ Nam ngồi câu, hôm nay Nam đổi vị trí qua phần rẩy bên nhà Ba Du, chắc muốn dặn dò anh vài việc để sáng mai yên tâm đi về thành phố, Ba Du ngồi xuống trên tảng đá kế bên:

                - Câu được mấy con rồi chú Nam?
                - Hai con cá chép, sáng mai tôi chèo xuống đưa anh Ba ra xã nhé

                Ba Du lấy thuốc lá ra hút, sau vài hơi chậm rải nói tiếp:

                - Ừ, sáng mai đi sớm, Tết chú Nam rảnh có vô buôn thượng không?

                Nam cười tươi:

                - Chắc có, ngoài này lâu không có gì làm cũng chán, sáng vào rồi chiều đi về
                - Ừ, đi một mình thì cẩn thận nhé, mang theo nhiều nước uống, đồ ăn, đi theo đường cũ, nếu có gặp bên du kích hay công an đi tuần, thì nói vào buôn trao đổi, và đem theo bật lửa vì nếu phải ở lại trong rừng ban đêm, nhớ đốt lửa lên, có thể chú Nam gặp người mấy xã khác đi săn trong rừng hay nghe tiếng súng thì phải cẩn thận, vì ở nơi vắng vẻ, họ dể hành động bất ngờ … nhưng chắc không có gì nguy hiểm lắm, có thể Điểu Sơn hay Điểu Rút sẽ ra ngòai này chơi đó!
                - Cám ơn anh Ba … à, hôm chiều tôi về đến ngoài xã, gặp Năm Bình chạy xe ra từ cái trạm gần đập, ảnh làm ở đó hay sao?

                Ba Du gật đầu:

                - Năm Bình quản lý công nhân kỹ thuật của nông trường nên thỉnh thoảng ra trạm để coi hai người công nhân ở đó, à … còn hàng ngày chú Nam qua nhà chăm sóc con Ki dùm tui chút, cho nó ăn chút đỉnh được rồi

                Anh gật đầu, Ba Du ngồi chơi thêm một lát rồi quay lên con dốc về nhà, Nam ở lại câu thêm vài giờ cho đến gần tối được thêm vài con cá mè.

                Sáng dậy thật sớm chờ Ba Du gọi ra hồ, Nam nhớ lại xem có cần hỏi thêm những gì cần thiết mà anh chưa biết, nhất là lúc đi lại trong rừng, nhưng thấy chiều hôm qua những gì Ba Du nói cũng đã đầy đủ.

                Có tiếng gọi, anh khép cửa nhà và theo lối mòn ra bờ hồ, hành lý Ba Du cũng đơn giản, chỉ có cái túi vải nhỏ đựng quần áo, đồ đạc.

                Hai người bơi nhanh về hướng hạ lưu, Tết gần đến mà trong vùng đồi núi hoang vu này không khí thật buồn bả, những căn nhà mái lá xiêu vẹo nằm im lặng sau hàng cây mít, hàng điều … trồng ven đường, tất cả gần như không biết đến Tết đang đến.

                Ra đến gần trạm gác, Nam tấp xuồng vào sát bờ cho Ba Du lên và nói:

                - Ăn Tết với gia đình vui vẻ nhé anh Ba!
                - Ừ, chú Nam vô buôn chơi vui nhé – Ba Du mỉm cười

                Ba Du lên bờ đi về phía trung tâm xã, Nam ngồi trên xuồng quan sát chỗ dòng nước chảy qua ba cửa đập được mở hé ra, vài phút sau anh cho xuồng quay về.

                Chèo đến nhà, anh buộc chặt dây chiếc xuống vào bụi cây và bắt đầu công việc như đã dự tính.

                Lấy cuộn dây dù mua ở Saigon treo trong cái túi vải trên vách nhà xuống, Nam thắt gút sợi dây thành từng đoạn một, cách nhau chừng một mét, thành những cục tròn rất để dể nắm khi lên xuống đáy hồ.

                Xong phần dây, Nam lấy con rựa bén cắt đầu thanh thép mỏng thành vạt xéo nhọn, và ra con suối tìm một hòn đá khá to, bằng phẳng về mài nó làm thành lưỡi dao bén ngót, rồi ngồi cả buổi cắt gọt hai mảnh gổ cứng thành chuôi dao, sau đó dùng dây ruột cao su quấn lại thành cái cán cho dể cầm.

                Nghi ngờ về tính hữu dụng của nó, anh ra bụi chuối phía sau nhà cầm con dao phạt thử vài tàu lá, con dao chặt qua như nước, đến gần một thân chuối non, Nam lia mạnh lưỡi qua gần phần ngọn làm nó văng xuống đất, anh rất hài lòng vì tay bán hàng người Hoa đã không gạt mình.

                Nam dự định chiều sẽ ra bờ hồ, nên ăn bửa trưa xong, anh cố gắng nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức.

                Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, anh xách cái túi vải đi về phía nhà Ba Du, đến gần chỗ cột chiếc xuồng, nơi đó chỉ có lác đác vài bụi cây mọc bên bờ hồ.
                Nam tìm một hòn đá buộc vào đầu dây và từ từ thả xuống nước thăm dò, xem số nút thắt còn lại cho thấy phần đáy nơi đó độ sâu hơn bốn mét. Anh cột chặt đầu còn lại vào một thân cây cứng cáp mọc gần bờ, nghĩ trong đầu bây giờ là phần công việc khó khăn nhất đây, rảo mắt nhìn kỹ xung quanh xem có ai xuất hiện gần đó không, nhưng khung cảnh tuyệt nhiên im lặng, cẩn thận nhất là phải để ý Tư Có và mấy tay du kích. Buổi chiều thỉnh thoảng họ mới đi, tuy nhiên đã sắp tết, lịch đi tuần có thể tay đổi đột xuất và dầy đặc hơn ngày bình thường.

                Chỉ mặc độc chiếc quần cụt trên người, Nam nắm sợi dây kéo thật mạnh để thử độ chắc chắn của mối buộc vào thân cây, rồi từ từ tụt xuống hồ.

                Buổi trưa có nắng, nhưng nước vẩn khá lạnh, miệng cắn ngang lưỡi dao, anh lần theo dây lặn xuống, đến gần đáy, làn nước bên dưới đục hơn, Nam cố nhoài người đến chỗ cục đá ở đầu sợi dây, tay vừa chạm vào đáy cát, thì thấy hết hơi nên phải trồi lên thở.

                Lên bờ nghỉ mệt vài phút, cẩn thận nhìn quanh thấy mặt hồ vẩn lặng im, lần này để lặn xuống nhanh hơn, Nam kéo cục đá lên và lấy một hơi dài rồi ôm nó để cùng chìm dần xuống, khi đã chạm đáy anh đưa tay sờ soạng vào lớp cát ở dưới đáy và cố mở to mắt nhìn xung quanh, gần đó có vài thân cây mục phủ đầy rong rêu nằm im trong làn nước lờ mờ.

                Cố gắng sục sạo trong đống rong rêu, vài con cá đang trú trong đó, bị đánh động phóng vụt ra và biến mất vào làn nước đang bị khuấy đục lên mờ mờ. Chưa quen với công việc này, anh nhanh chóng cảm thấy buồng phổi hết dưỡng khí và ngộp thở, nên buông cục đá ra, phóng trở lên mặt nước và bơi vào bờ.

                Bị thấm lạnh vì nước sâu dưới đáy hồ, Nam lấy thuốc lá ra hút, và ngồi nghỉ vài phút để lấy lại sức, anh quyết định sẽ lặn xuống tại chỗ này thêm vài lần nửa trước khi di chuyển qua nỡi dao ngang miệng và bắt đầu lặn, xuống đến đáy hồ, anh chỉ thấy lờ mờ bên dưới nhiều lớp đá cuội, được vài phút sau đã thấy đuối hơi và khó thở, Nam vội trồi lên vào bờ tạm nghỉ, và mặc cái áo kaki vào cho đỡ lạnh.

                Chợt nghe tiếng con Đốm và con Ki sủa sau đám cây bên bờ suối, thì ra con Đốm đang loanh quanh gần nhà, nó đánh hơi biết con Ki vượt suối qua bên này nên chạy ra, anh đứng lên ra tìm, thấy hai con đang ve vẩy đuôi, đưa mủi ngửi chào nhau bên bụi cây, Nam kêu:

                - Đốm lại đây!

                Hai con cùng hăng hái tranh nhau chạy đến gần anh, rồi bổng cả hai lại quay ngang, chạy ra các bụi rậm ngoài rẩy lùng sục tìm chuột, chim cu gáy để anh đứng nhìn theo.

                Nam quay lại bờ hồ, quyết lặn thêm vài lần nửa, một tay nắm đầu dây buộc cục đá, anh bơi ra và từ từ chìm xuống dưới đáy hồ lổn nhổn đá cuội và cát bùn, lấy lưỡi dao xăm xuống nền cát thăm dò bên dưới, nhưng nó lại chạm phải đá bị chìm lấp ở dưới đó. Anh nghĩ trong đầu, nếu hai cái thùng chôn gần nơi này, thì bây giờ nó đang nằm sâu bên dưới lớp cát, đá từ con suối cuốn ra trong mùa lũ hằng năm, như vậy thì không còn hi vọng gì để tìm thấy.

                Nam hết hơi nên trồi lên mặt nước, vừa ngoi đầu lên gần đến bên trên, đã nghe tiếng hai con chó sủa dử dội, đoán có người sắp tới, anh nhanh chóng dấu con dao vào bụi cỏ gần bờ, chưa kịp leo lên bờ đã thấy Tư Có và ba tay du kích xuất hiện và đang đi về chổ anh.

                Anh bình tỉnh bước lên, Tư Có đến gần nhìn xuống mặt nước đùng đục và thấy sợi dây, tay du kích nhỏ con kéo nó lên, khi thấy có cục đá buộc ở đầu dây,
                Tư Có hỏi:

                - Chú làm gì mà lặn xuống dưới?

                Nam suy nghĩ chớp nhoáng trong đầu rồi trả lời:

                - Lúc nảy tôi ra phát cây ngòai này và làm rớt cây rựa xuống nước nên xuống mò tìm lại

                Mấy tay du kích nghe câu trả lời của anh có vẻ ngố ngố, nên cả đám cười cười, tay du kích ốm o, xương xẩu nhìn anh hỏi mỉa mai:
                - Tìm được chưa, nước hồ sâu thấy mẹ, sao mà mò lại được!

                Nam giả bộ lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, con Ki và con Đốm đứng xa xa tiếp tục sủa Tư Có và mấy tay du kích. Tư Có tò mò nhìn anh và mấy bụi cây cỏ xung quanh, không thấy có gì lạ, ông ta quay đi về phía nhà Ba Du. Nam thở phào, dù sao thì anh cũng giấu được ý định của mình, nếu Tư Có thấy anh có con dao bén ngót đang lặn hụp dưới hồ sẽ làm ông ta nghi ngờ, Nam thầm cám ơn hai con chó đã làm tốt vai trò canh gác, xứng đáng được thưởng.

                Chờ cho bóng dáng Tư Có và đám du kích khuất xa, Nam cầm cuộn dây và con dao về nhà. Anh ra sau vườn đào một số trùng làm mồi, và xách cần ra gần khu rừng chồi ngồi câu. Nhớ đến vụ đụng đầu bất ngờ vừa rồi với Tư Có, Nam tự nhủ từ bây giờ phải thật cẩn thận, không thể xem thường, bọn họ rất rành địa hình, đường xá ở đây nên xuất hiện rất bất ngờ.

                Gần hết buổi chiều, mặt trời đã lặn về hướng rừng núi xanh thẩm phía tây, Nam xách mấy con cá rô, mè vừa câu được về nhà. Con Đốm và Ki lót tót chạy theo, anh nhìn hai con chó mỉm cười, tụi nó là hai người bạn thân thiết của anh ở nơi heo hút này.

                Hết ngày mai nửa là Tết rồi, cơm tối xong Nam ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ trước sân, hai con chó được cho ăn một bửa có cá ngon lành, con Ki nằm nhìn về hướng nhà Ba Du, nó khôn lắm, dù đi qua đây nhưng cũng còn nhớ canh chừng nhà, con Đốm nằm kế bên, thỉnh thoảng nó khua chân trước về phía con Ki như muốn tiếp tục mời gọi đùa giỡn với nó.

                Trời tối dần, côn trùng trong các bụi cây cỏ cất tiếng kêu rền rỉ trong bóng đêm tịch mịch, anh vào nhà lấy cái đèn pin tự chế và cây rựa, rồi ngoắc hai con chó đi theo về phía nhà Ba Du.

                Nam muốn qua xem nhà cửa bên đó, nhất là buổi chiều du kích xã mới vừa đi tuần qua. Anh đi một vòng quanh căn nhà, cửa trước và cửa sau vẩn đóng kín, mọi thứ vẩn như cũ, lấy đèn soi vào chuồng, thấy lũ gà nằm im trên tấm phên được Ba Du sửa chửa lại trước khi về thành phố. Con Ki chui qua lổ hổng quen thuộc bên cái vách gần chái bếp vào trong nhà, chợt nghe nó sủa dử dội như sắp sửa mở cuộc tấn công, con Đốm bên ngoài cũng sủa râm ran, Nam lia ánh sáng của ngọn đèn pin về chỗ cái lổ, tay cầm rựa đề phòng rồi gọi:

                - Ki, cái gì đó?

                Nó vẩn tiếp tục sủa không ngớt, bổng một con rắn dài đen trũi nhanh nhẹn bò thoát qua lổ hổng rồi phóng vụt vào mấy bụi cây, con Đốm làm gan đuổi theo, nhưng con rắn đã nhanh nhẹ trườn mất hút vào bóng tối. Lát sau con Ki chui ra và còn hậm hực, nó chạy đến gầm gừ và đánh hơi quanh bụi cây nơi con rắn chạy trốn vào đó.

                Nam quay trở về nhà, con chó của Ba Du ra nằm phía trước sân, con Đốm đứng ngoái đầu nhìn nó như muốn kêu gọi nó đi theo, nhưng con Ki thì vẩn nằm im lìm, nó ở lại để canh chừng nhà, cuối cùng con Đốm chạy theo anh đi về trên lối mòn mờ mờ dưới ánh sáng của cái đèn pin.

                Ngày mai đã là ba mươi tết, Nam nhớ còn chỗ bờ hồ có đám rừng chồi rậm rạp mà anh định dò độ sâu chiều nay, nhưng bị Tư Có và mấy tay du kích xuất hiện đột ngột làm cản trở. Anh dự tính sáng mai sẽ tiếp tục công việc tại nơi đó, nếu lặn vào buổi sáng thì chắc nước hồ sẽ lạnh hơn.

                Anh suy nghĩ và đổi lại kế hoạch, sáng mai ra chỗ vũng nước cạn bắt cá con về làm mồi và ra hồ câu cá lăng, đến gần trưa có ánh nắng mặt trời ấm áp hơn sẽ quay vào làm công việc kia.

                Sáng dậy kiếm cơm nguội và củ khoai bỏ bụng, thêm vài trái chuối cho có thêm chút sức lực. Nhìn ra mấy cây mít trước nhà, Nam nhớ chiều hôm qua khi ra đứng gần đó, anh nghe thoang thoảng mùi mít chín , hôm nay lúc nào rảnh ra hái xuống, hình như mít trồng trong vùng này đều ngọt và thơm, bên đất nhà Ba Du và Hai Tuất cũng vậy.

                Anh ra chỗ vũng nước cạn, lấy cái gùi xúc vào đám rong rêu, bông súng được gần chục con cá rô, cá mè nhỏ, thấy đã đủ mồi câu, anh quay về lấy xuồng bơi ra hồ. Nhớ lại có một việc cũng cần thiết, chiều qua lúc lặn xuống với lưỡi dao trần anh thấy hơi bất tiện, Nam lấy hai mảnh gổ từ một đoạn tre già, ngồi bỏ công đẽo gọt làm thành cái vỏ ngoài cho con dao, rồi cột thêm sợi dây dù nhỏ để đeo vào cổ, trông nó an toàn và tiện lợi khi lặn.


                (còn tiếp)
                Last edited by khongquan2; 11-22-2016, 06:16 PM.

                Comment


                • #9
                  Bơi xuồng ra gần giữa hồ, anh móc mồi quăng xuống nước, rồi lấy thuốc lá ra hút. Ngồi chăm chú theo dõi cái phao, chú cá đầu tiên cắn câu lại là một con cá chép to. Nam nghĩ, thôi cũng được, không được cá lăng, thì có cá chép và gỡ nó bỏ vào dưới đống lưới cũ trong khoang xuồng, rồi móc mồi mới và nhẹ nhàng thả xuống hồ.
                  Chiếc xuồng trôi chầm chậm trên mặt nước, anh nhớ đến lần hẹn với Ngọc Minh lần vào buôn vừa rồi, nên sắp xếp kế hoạch trong đầu, nếu hôm nay xong công việc thì mai sẽ đem bao đậu xanh và vài con cá vào biếu gia đình Ngọc Minh và Điểu Sơn.
                  Cái phao động đậy và chìm nhanh xuống dưới, Nam nhanh tay giật mạnh cần, một con cá lăng to vùng vẩy mạnh khi bị kéo lên khỏi mặt nước, nhấc nó bỏ vào khoang xuồng, anh thấy hào hứng và định tiếp tục thả câu, nhưng vì nắng cũng đã lên cao, nên đành quay vào bờ.
                  Cột kỹ dây xuồng vào bụi cây, Nam xách hai con cá to về nhà, rồi lấy con dao đeo vào cổ và mang cuộn dây cùng cây rựa đi ra trở lại khu rừng chồi bên bờ hồ, không quên kêu con Đốm đi theo.
                  Quan sát xung quanh thấy vắng lặng, anh cầm rựa vào theo lối cũ, phạt bớt những cành lá rậm rạp chắn ngang đường, và bước tránh những cái tổ kiến đen mà lần trước Nam đã bị nó cắn. Đến dưới một tàn cây cao rậm, khung cảnh trong này âm u, ngột ngạt, con Đốm lần đầu vào tận đây nên có vẻ lạ lẩm, nó dí thấp mủi đanh hơi lùng sục mấy hang đá và mấy con rắn mối đang hoảng sợ bỏ chạy.
                  Anh buộc cục đá vào đầu sợi dây và thả xuống thăm dò đáy trước, nó chạm bên dưới và Nam đếm số nút dây còn lại và đoán nó sâu độ ở đây khoảng bốn, năm mét. Anh kéo lên và di chuyển lên phía trên vài mét, rồi thả xuống lần nửa, độ sâu đáy hồ bên dưới vẩn không thay đổi.
                  Kéo cục đá lên, lần này anh sẽ bám theo nó và từ từ lặn xuống hồ, bên dưới có nhiều thân cây nằm ngổn ngang trên lớp bùn, nước lạnh và tối vì ánh nắng mặt trời bên trên bị nhiều tàn cây che mất. Thấy ngộp hơi, Nam buông cục đá và trồi lên, bên trong đám cây này rất kín đáo, nếu không gây ra tiếng động, bên ngoài không thể nhìn thấy, nên phần nào làm anh cảm thấy an toàn hơn.
                  Lấy cái áo trùm qua vai cho đỡ lạnh, anh nhìn quanh tìm con Đốm, nó đang lùng sục các bụi rậm, không biết tìm thấy con gì, thỉnh thoảng lại sủa ngắt đoạn từng chập.
                  Thấy đỡ mệt, Nam kéo cục đá lên và lại lặn xuống nơi cũ, khi đến đáy anh chậm chạp dùng mủi dao xăm mạnh xuống lớp bùn, con dao xuyên sâu tận cán, dò dẫm thêm ra phía trước cho đến lúc hết hơi Nam mới trồi trở lên, lần này đã thấy mệt hơn, anh ngồi bệt lên tảng đá, hút điếu thuốc để chống lại cái lạnh đang dần thấm sâu vào cơ thể.
                  Lát sau Nam lại tiếp tục công việc, anh lên đoạn trên ở gần bìa khu rừng chồi. Nam tìm thân cây to để cột dây và từ từ lặn theo cục đá chìm xuống, ở đây các thân cây mục cũng nằm ngang dọc, có lẻ trước đây có ai đó chặt hạ cây cối trong khu rừng rồi bỏ lại đây, khi dòng suối bị con đập ngăn lại, dòng nước nhấn chìm tất cả. Nam lấy tay cố đẩy và xê dịch thử vài thân cây bám đầy rong rêu trơn trợt, nhưng các cành cây bị vướng víu vào nhau nên chúng cứ ì ra một chỗ, mấy con cá nhỏ ẩn bên dưới thấy có động, hoảng hốt phóng ra ngoài mất dạng.
                  Anh trồi lên để thở và bước lên bờ, ngồi hút thuốc lá, suy nghĩ sẽ cố lặn xuống xem bên dưới lần nửa dù bây giờ anh đã mệt đứt hơi sau những lần lặn vừa rồi. Nam thấy phải cố gắng vì giá trị của hai thùng đồ cổ đó rất xứng đáng để bản thân phải chấp nhận mạo hiểm.
                  Chuẩn bị sẵn sàng, Nam lấy hơi và để cho cục đá nặng từ từ kéo chìm xuống đáy, anh bơi lên phía trên một đoạn, đáy hồ bên dưới vẩn là những thân cây nằm rải rác và những cụm rong mọc dầy, không thể nhìn thấy rõ mọi vật. Anh định quay đầu về chỗ cũ để trồi lên, thoáng nhìn thấy trong làn nước tối mờ phía trước một con cá có thân mình màu đen, to dài như lươn nhưng vì ở quá xa, nên không biết nó lớn cỡ bao nhiêu, con vật bơi rất nhanh và mất hút vào làn nước đục mờ mờ.
                  Lên được trên bờ, nhìn qua khe lá, thấy mặt trời đã ở gần giữa đỉnh đầu, Nam ngồi nghỉ một lát lấy lại sức, rồi cầm cuộn dây đi về nhà nấu cơm trưa. Nam kêu hai con chó, nhưng không thấy con nào chạy đến, bình thường khi nghe anh gọi, con Đốm và con Ki chạy lại ngay.
                  Anh bước ra tìm, thấy cả hai đang sục sạo trong đám lá rậm rạp cách đó không xa, Nam bước đến gần, lấy tay kéo mấy nhánh cây ra, cả hai con đang đưa mủi đánh hơi bên ngoài một cái hang bị đá và cành cây che kín, thấy lạ anh cẩn thận đưa cây rựa gạt những cành cây sang một bên, và lật cục đá ra nôi khác, cửa hang khá to, nó trông giống như cái hang cáo và ăn sâu xuống đất ra hướng bờ hồ.
                  Nam kêu hai con chó và ra khỏi rừng chồi đi về nhà, cả người thấy đói cồn cào, mệt phờ vì lặn hụp xuống đáy hồ nhiều lần, và thêm cái lạnh của nước bên dưới thấm vào người.
                  Xong bửa trưa, anh lăn ra ngủ say sưa trên tấm phản tre. Khi giật mình tỉnh dậy nhìn trời thấy mặt trời đã ngã nhiều về hướng tây, anh đoán giờ này chắc cũng tầm 3 – 4 giờ chiều, cũng còn thời giờ cho một buổi đi câu, sáng mai sớm vào buôn thăm Ngọc Minh sẽ mất hết cả ngày.
                  Ra phía sau nhà lấy cần câu và cái lon đựng mấy con cá mồi nhỏ, Nam đi ra bờ hồ và lấy xuồng chèo ra giữa dòng nước trong xanh, móc một con cá con vào lưỡi câu, rồi thả nhẹ cho nó chìm nhanh xuống hồ.
                  Sau giấc ngủ dài, anh thấy khỏe khoắn, tỉnh táo hơn nhiều, nghĩ đến ngày mai được gặp lại Ngọc Minh làm anh thấy vui vẻ, phấn chấn. Nam ước cuộc sống sau này có Ngọc Minh bên cạnh, nếu được như vậy thì thật hạnh phúc vì cô đẹp và hiền dịu. Nhưng rồi chợt nhớ lại cuộc sống hiện tại, nó như cơn ác mộng luôn ám ảnh Nam vì nghèo đói và nổi sợ hải … đang dày vò mọi người, muốn tìm kiếm tương lai tốt đẹp ở xứ sở thật là xa vời, gần như không tưởng, chỉ có bỏ nước ra đi mới thoát khỏi màn đêm u tối, thất vọng đang bủa vây Saigon.
                  Thấy cái phao động đậy và chìm xuống mặt nước, anh giật mạnh cái cần, một chú cá mè vào cuối giờ chiều, không được cá lăng, nên làm Nam thất vọng. Móc mồi thả tiếp xuống hồ và chăm chút nhìn cái phao, cá lại cắn câu, anh giật cần lên, lại một con cá mè, móc mồi lần nửa và thả xuống, dăm phút sau lại dính một con cá mè khác, Nam mỉm cười và tự hỏi, cá mè đâu ra nhiều quá, mấy con cá lăng trốn đâu hết rồi?
                  Còn lại vài con cá nho nhỏ trong lon, anh móc mồi thả câu cho hết rồi mới về, mặc cho chiếc xuồng trôi lênh đênh xuôi gió chiều từ đông bắc thổi về, mang theo hơi lạnh của dãy Trường Sơn ngút ngàn, mặt trời đang lẩn trốn về phía tây, tối nay và sáng mai Tết, mùng một chắc thời tiết sẽ se lạnh.
                  Một cú đớp giật mạnh làm cái cần đang gác lên be xuồng bị lôi xuống nước làm anh không kịp phản ứng, Nam nhổm dậy vói theo nó làm chiếc xuống tròng trành mất thăng bằng, vài giây sau kịp trấn tỉnh lại, Nam lấy mái chèo bơi nhanh theo cái cần đang bị con cá lôi đi vùn vụt trên mặt nước, nhiều lúc nó định kéo xuống dưới sâu, nhưng vì cần dài và nặng nên sau đó nó lại nổi lên trở lại. Thích thú với trò rượt đuổi bất ngờ này, anh đoán chắc là cá to đây, nên quyết hạ nó, không để chạy thoát, được một lúc con cá chừng như đã đuối sức, Nam bơi nhanh đến, với tay chụp cái cần và từ từ thu sợi dây cước ngắn lại, con cá kháng cự dử dội bên dưới, quấn một đoạn dây vào đầu cây đinh đóng ở be xuồng, anh nhanh tay bơi vào bờ, rồi cầm chắc cần câu từ từ kéo nó vào bên trong, con cá càng tiếp tục vùng vẩy, đứng trên bờ thấy thân mình trắng bạc của nó phóng lên khỏi mặt nước, Nam nhận ra đó là con cá chép “cụ” rất to, hèn chi nó quá khỏe.
                  Sau vài phút vật lộn, anh kéo nó được lên bờ, nhìn cái lưng dầy cộm và chiều dài từ cái đầu to đến cái đuôi cũng to đang quật lên xuống trên cỏ, chắc nó phải nặng gần chục ký.
                  Nam mỉm cười thưởng thức chiến thắng của mình, câu được cá chép có lẻ là điềm may, không biết phải vậy không, anh nghe nhiều người nói như vậy!
                  Sau buổi cơm tối, anh ra trước sân, lấy củi ngoài rẩy đốt đống lửa to cho sáng sủa và có chút hơi ấm, con Ki qua đây từ lúc chiều, nó và con Đốm được cho mỗi con một khúc cá to nên bây giờ năm lim dim dưới chân anh nhìn ngọn lửa.
                  Nam định ngày mai sáng sớm mùng một vào buôn thăm Ngọc Minh và ở tới chiều, nếu có đà thuận lợi, mùng hai vào thêm ngày nửa, ở ngoài này cũng loanh quanh chưa biết làm gì, còn thăm Hai Tuất và Năm Bình thì chờ sau mùng ba, khi Ba Du lên rồi cùng đi thì hay hơn, tửu lượng của anh yếu nên không dám đơn thân, độc mã đến thăm Tết hai ông bạn thân này của Ba Du.
                  Đêm 30 trong vùng rừng núi bên hồ, khung cảnh lại càng tịch mịch hơn mọi ngày, Nam nhớ về gia đình, bạn bè ở Saigon và thấp thoáng hình ảnh người bạn gái đã ở nơi xa, không biết về phương trời nào, nổi niềm cô liêu càng sâu đậm khi nghe tiếng gió thổi vi vu qua mái tranh. Anh ngửng đầu lên nhìn bầu trời đêm tối thẳm, chỉ thấy một ánh sao nhỏ xíu nằm lẻ loi ở một góc, có lẻ nó ở xa lắm, văn chương sách vở hay viết mỗi người khi sinh ra đều có một ngôi sao chiếu mệnh, ngôi sao nhỏ đó xuất hiện một mình trong đêm nên trông nó thật cô đơn.
                  Hai con chó đang nằm sưởi ấm gần đống lửa bổng chồm dậy sủa về hướng con đường mòn đi xuống từ rừng cao su, biết rỏ tính khí của con Ki, anh đoán chắc sắp có người lạ đến gần, có lẻ đó là du kích xã đi tuần. Lát sau qua ánh lửa cháy sáng, Nam nhìn ra xa phía trước nhà thấy có khoảng năm, sáu người đàn ông vai mang súng M-16 im lặng đi về phía bờ hồ, không có Tư Có đi theo. Thỉnh thoảng ánh đèn pin của họ lóe lên soi đường rồi vụt tắt, con Ki và con Đốm sủa một lúc lâu mới chịu quay trở lại nằm gần đống lửa.
                  Nam muốn thức thêm vài tiếng nửa, cho đến giao thừa rồi mới đi ngủ, nhìn sang bên kia bờ hồ nơi có ngôi nhà của Hai Tuất trên đồi và cái xóm nhỏ, chỉ thấy vài đốm sáng nhỏ chập chờn trong đêm tối, chắc không mấy ai trong ngôi làng xa xôi cô tịch này còn thức để đón năm mới.
                  Bỏ thêm vài khúc củi to vào cho ngọn lửa cháy lớn thêm, rồi vào nhà lấy cái đèn pin và cây rựa, hai con chó hiểu ý anh liền chồm dậy theo ra lối mòn đi qua nhà Ba Du. Con Ki biết hướng trong đêm tối nên chạy lên phía trước dẩn đường, tới cái sân Nam nhìn xung quanh, thấy cửa nẻo mọi thứ đều nguyên vẹn nên dẩn con Đốm quay về, còn con Ki chui vào nhà qua cái lổ của nó ở vách chái bếp.
                  Ngồi nghỉ một lát trên khúc cây trước sân, những hạt sương đêm nay rơi nhiều làm ẩm ướt mái tóc của anh và thấm lạnh qua lớp áo kaki, ngọn lửa đang dần tàn, chỉ còn những cục than hồng thỉnh thoảng cháy rực lên khi có những cơn gió thổi qua …

                  * * *

                  Sáng mùng một, trời se se lạnh làm Nam thức giấc, ăn sáng xong anh lấy cái gùi bỏ vào đó chai nước, củ khoai, mấy trái chuối chín và túi đậu xanh, rồi ra sau nhà lấy dây xỏ mang con cá chép to và con cá lăng đem vào buôn biếu Điểu Rút và Điểu Sơn, sờ vào túi áo thấy đã có hộp quẹt, gói thuốc lá, không quên dặn con Đốm không chạy ra ngoài rừng, anh cầm theo cây rựa ra khép cửa nhà và nhanh chóng xuống bờ hồ.
                  Mặt nước hồ sáng nay phủ một lớp sương mỏng mờ mờ đang trôi dạt nhè nhẹ theo những cơn gió thổi về từ đồi núi phía bắc. Bỏ hai con cá vào khoang xuồng xấp nước dưới tấm lưới, Nam tháo dây buộc, hướng mủi xuống về phía thượng lưu và bắt đầu bơi ra giữa hồ.
                  Một mình một mái chèo khiến anh phải gắng sức bơi nhiều hơn khi không có Ba Du, những cơn gió từ tây bắc thổi ngược về làm chiếc xuống tiến lên chậm chạp.
                  Vài cây mai già nằm sâu bên trong trên các triền dốc nở hoa vàng rực một góc rừng, trông thật đẹp, ở Saigon ngày Tết mà có được gốc mai to, đẹp như vậy rất hiếm.
                  Mặt trời vừa chiếu những tia sáng mỏng manh ở góc rừng phía đông, trên cao vài đàn chim bay ngang đầu anh về phương nam di trú, thỉnh thoảng buông ra những tiếng kêu văng vẳng trong không gian yên lặng của buổi sớm mai.
                  Nam tiếp tục bơi đều đặn không nghỉ tay, lát sau nhìn khung cảnh quen thuộc ven hồ, anh nghĩ mới được gần nửa đường. Vài giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán, bỏ cái nón ra khỏi đầu, cơn gió lành lạnh xua bớt cái nóng và mệt làm anh thấy dể chịu, mổi lần đi ngang qua khúc hồ này, Nam thích thú vì nét đẹp hoang dả của cây cỏ bên bờ, trên mặt hồ thì có nhiều bầy cá dạn dĩ nổi lên, bơi chậm rải gần chiếc xuống như chốn không người, Ba Du nói những con cá ở chỗ này sống lâu năm nên thường rất to.
                  Khoảng nửa tiếng sau, mấy bụi cây rậm quen thuộc trên bờ hiện ra, Nam cập xuồng gần sát vào trong và cầm sợi dây kéo chiếc xuồng vào bên dưới tàng cây.
                  Lấy chai nước ra uống vài ngụm và ăn mấy trái chuối dằn bụng cho chắc, anh xách hai con cá và cái gùi trên vai ra bờ hồ cạn cắt vài lá bông súng to, lót vào đáy gùi rồi bỏ cá vào và phủ vài lá khác lên trên để cá tươi lâu, túi đậu xanh cho lên trên cùng.
                  Nam nhấc lên thử thấy khá nặng, nhưng tự nhủ dù sao thì cũng phải cố gắng vì lần này vào buôn chỉ có một mình, và đem biếu họ vào dịp Tết như vậy mới có nhiều ý nghĩa.
                  Nhìn con đường đi về phía cửa rừng, Nam xốc cái gùi trên vai và đi qua trảng cỏ nhỏ, lặng lẻ theo lối mòn vào dưới những tàng cây cao.
                  Tay cầm rựa phạt những nhánh chìa ra bên ngoài che khuất lối đi, anh cố gắng bước theo dấu vết con đường để khỏi bị lạc, mấy con vắt và muỗi bây giờ không còn làm anh sợ như hai lần đầu.
                  Vừa bước đi vừa lắng nghe tiếng chim rừng hót trên các cành cao, thỉnh thoảng Nam nhìn lên xem mặt trời qua các khe hở giữa vòm lá, vượt qua mấy con dốc quen thuộc qua bên kia sườn đồi, đã đến chỗ nghỉ chân, anh bỏ gùi xuống tảng đá to và ngồi nghỉ chân cạnh bờ suối lớn, cúi xuống vốc nước rửa mặt, và sau đó trở lên chỗ cũ lấy thuốc lá ra hút. Thời gian này đang mùa khô nên những con đường rừng vào buôn còn dể đi, Ba Du nói vào mùa mưa, mấy cái dốc trơn trợt và con suối này đôi khi nước lũ tràn về biến nó trở thành một dòng thác lớn.
                  Dốc thêm ngụm nước qua cổ họng, Nam khoác cái gùi nặng lên vai băng qua suối và tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi dưới rừng già, qua hết cánh rừng âm u này và một đoạn rừng thưa nửa, anh đã thấy trảng cỏ xanh thấp thoáng hiện ra qua những thân cây phía trước.
                  Nhanh chân rút ngắn đoạn đường còn lại và khi đến bìa trảng, anh bỏ cái gùi xuống, ngồi nghỉ thêm vài phút dưới bóng mát của cây bằng lăng nở hoa tím, mùa xuân nhiều loại hoa dại màu vàng, trắng, tím cùng đua nhau nở rải rác khắp nơi xen lẩn với màu xanh của thảm cỏ trông rất lạ mắt, cây cỏ quanh trảng vẩn xanh vào mùa khô, trong khi cây trong rừng bắt đầu rụng lá.
                  Đã gần đến buôn, đoạn đường còn lại không còn xa bao nhiêu, Nam thấy phấn chấn, xem lại quà biếu trong gùi thấy hai con cá vẩn con nguyện vẹn trong lớp lá bông súng xanh dầy, nhưng chắc cũng cần phải nhanh chân đến buôn để chúng còn tươi.
                  Lên hết con dốc sau cùng để xuống thung lũng, từ trên đỉnh đồi Nam dã nhìn thấy những căn nhà sàn bao quanh bởi màu xanh trùng điệp và bề ngoài vẩn lặng lẻ như ngày thường, không có hơi hướng gì của ngày Tết.
                  Nam từ từ đi vào buôn, vài người đàn bà mang gùi trên lưng, cầm xà gạc đi ngược hướng tò mò nhìn anh đi qua, đang lưỡng lự suy nghi không biết đến nhà ai trước, rồi quyết định nhanh chóng, anh rẽ phải đến căn nhà sàn của Điểu Sơn, bước lên thang gổ và gọi:
                  -Điểu Sơn có ở nhà không, Nam đây?
                  Nghe tiếng gọi, một người phụ nữ S’tiêng trạc 35 – 40 tuổi đi ra nhìn anh với vẻ ngạc nhiên, Nam gật đầu chào:
                  -Anh Điểu Sơn có nhà không?
                  Bà ta gật đầu bước xuống thang, ra dấu cho anh đi theo và nói ngắn gọn:
                  -Ở ngoài vườn
                  Theo chân bà ta ra gần cuối buôn, trên đường làng vài con gà và lợn ỉn đang lang thang kiếm ăn dưới các ngôi nhà sàn, hình ảnh quen thuộc của một làng thượng, đến gần khu vườn có nhiều cây ăn trái, một con chó sủa inh ỏi khi thấy có người lạ đến gần. Người phụ nữ cất tiếng gọi, Điểu Sơn đang ở trong giữa vườn cây nghe có người gọi tên mình nên đi ra, thấy Nam đang đứng, Điểu Sơn liền vui vẻ chào:
                  -Chú Nam mới vô tới hả?
                  -Dạ, Tết nghỉ mấy ngày, anh Ba Du về Saigon rồi, tôi vào buôn thăm, chiều về
                  Nói xong anh bỏ cái gùi xuống đất, lấy lá sen đặt con cá lăng lên trên và cầm nó đưa cho Điểu Sơn:
                  -Tôi đi câu được cá ngoài hồ, con này tôi để dành biếu Điểu Sơn
                  Cầm con cá to từ tay anh rồi đưa lại cho người phụ nữ, Điểu Sơn nói:
                  -Cám ơn chú Nam nhiều lắm, về nhà tui uống nước, à còn đây là bà xã tui
                  Ba người quay trở lại nhà sàn, bà vợ Điểu Sơn vào trong cầm ra hai cái ly và cái ấm nước ám khói đen, rồi rót từ trong đó ra nước nâu nhạt như nước trà:
                  -Chú Nam uống thử đi, cái này nấu từ lá thuốc hái trong rừng, uống thay trà rất tốt cho sức khỏe
                  Nam uống thử, nó có vị chát và mùi thơm nhẹ, thấy Tết đến mà không khí trong buôn vắng vẻ, anh nhìn người đàn ông S’tiêng và hỏi:
                  -Mồng một Tết sao thấy trong làng cũng như ngày thường?
                  -Năm nay mùa màng kém, lúa, bắp thu hoạch không được nhiều nên ai cũng không vui, chú Nam ở đây ăn cơm trưa với gia đình tui nhé?
                  Anh lấy thuốc lá ra mời Điểu Sơn và trả lời:
                  -Cám ơn Điểu Sơn, chắc nhờ Điều Sơn dẩn qua nhà thăm Điểu Rút để biếu con cá
                  -Ừ, chú Nam uống nước đi, rồi tui dẩn qua bên đó, Điểu Rút hôm nay ở nhà – Điểu Sơn trả lời với vẻ tự nhiên
                  Mặt trời đã lên cao ngang đỉnh đầu, Nam uống cạn ly nước và xuống thang theo Điểu Sơn về phía cuối làng, vừa đến nơi thấy Ngọc Minh đang định bước xuống thang, cô có vẻ vui khi thấy Nam, Điểu Sơn hỏi:
                  -Điểu Rút có ở nhà không Ngọc Minh?
                  -Dạ có
                  Cô quay lại dẩn Nam và Điểu Sơn vào nhà đúng lúc Điểu Rút xuất hiện ngay cửa, anh gật đầu chào, thấy có Nam và Điểu Sơn đến, ông ta vẻ vui nói:
                  -À, có Điểu Sơn và cậu Nam đến, vào trong nhà đi
                  Ngọc Minh đi vào nhà trong đem ly và ấm nước rót ra mời khách, đôi mắt của cô nhìn Nam cười, anh cầm túi đậu xanh và con cá chép to trên hai tay đưa cho Điểu Rút:
                  -Cái này biếu Điểu Rút và gia đình
                  -Cá lớn quá, cảm ơn cậu Nam nhiều, Ngọc Minh con đem túi đậu và cá vô trong
                  -Anh Nam cho nhiều quá, ngoài đó còn gì để ăn Tết không – Ngọc Minh hai tay cầm hai món lên, cười nói
                  Hai người đàn ông S’tiêng cùng mỉm cười khi nghe Ngọc Minh hỏi, họ hiểu tình ý của chàng trai người Việt này, Nam nở nụ cười:
                  -À, cũng còn Ngọc Minh đừng ngại, ngoài đó ngày nào đi câu cũng có ít nhiều
                  Hai người đàn ông S’tiêng có vẻ hào hứng, Điểu Rút vui vẻ nói:
                  -Điều Sơn và cậu Nam trưa nay ở đây lai rai đi, thiếu Ba Du, năm nào cũng về Saigon ăn Tết, năm nay khác mọi năm, có cậu Nam vô thăm buôn, chiều mới được về nghe
                  Ngọc Minh từ nhà trong cũng chạy ra:
                  -Ừ, anh Nam ở chơi chiều về nghe, hôm nay rảnh Ngọc Minh dẩn đi một vòng quanh làng cho biết, bây giờ Ngọc Minh đi làm bếp
                  Nghe cô nói, anh gật đầu cười, Điểu Rút đi xuống thang cùng với Điểu Sơn, Ngọc Minh đã vào phía trong gian bếp.
                  Còn một mình Nam ngồi quan sát căn nhà được dựng trên những cột gổ to vững chải, mái dốc lợp tranh dầy, nó được chia ra làm hai phần, phía ngoài dùng làm nơi tiếp khách, nghỉ ngơi hay ngủ , phần trong là gian bếp dùng nấu nướng và cất các loại dụng cụ làm ruộng, rẩy. Ở gần vách giữa nhà có hai cái rương gổ to mầu nâu, nằm sát cái vách đan bằng tre, ngăn thành một phòng riêng nhỏ, Nam nghĩ chắc đó là phòng của Ngọc Minh, phía trên vách treo một cái ná gổ mun đen bóng, kế bên là bốn cặp gạc nai lớn, chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà là tay săn bắn có hạng.
                  Từ ngày mẹ mất, Ngọc Minh về sống với cậu và dì ở ngôi nhà này, cả hai có vẻ rất thương yêu, đùm bọc cô cháu gái của mình, nghĩ đến sự côi cút đó, trong lòng Nam trổi dậy nổi niềm thương cảm dành cho Ngọc Minh, anh lớn tiếng gọi vào phía trong:
                  -Ngọc Minh ơi, có cần tôi giúp gì không?
                  -Ừ, không anh Nam ngồi nghỉ đi, chút xíu nửa cậu và chú Điểu Sơn về, Ngọc Minh làm một mình được rồi – tiếng cô vọng ra từ gian bếp
                  -Mợ Tranh hôm nay không có ở nhà?
                  -Sáng nay mợ qua thăm người bà con xã kế bên, chiều mới về
                  Có tiếng Điểu Sơn nói chuyện với Điểu Rút, hai người đàn ông xuất hiện trên cầu thang, Điểu Rút cầm trong tay hai con gà rừng:
                  -Người quen trong buôn bẩy được chiều hôm qua, hôm nay lai rai món gà nướng và món cá của chú Nam mới cho
                  Nói xong Điểu Rút cầm nó đi vào bên trong, Điểu Sơn nhìn Nam nói:
                  -Chú Nam ở đây nghỉ đi nhé, tui về nhà chút xíu nửa qua
                  Anh lấy thuốc lá ra hút, nhìn trời đoán mới hơn 9 giờ sáng, Ngọc Minh từ trong đi ra, chắc là có Điểu Rút về nên rảnh việc nấu nướng, cô nói:
                  - Anh Nam đi một vòng trong buôn với Ngọc Minh cho biết
                  Nam gật đầu theo cô xuống thang, Ngọc Minh cùng anh đi về phía bên phải theo con đường dọc bên vườn cây, rồi đến nơi rẻ vào một ngôi nhà sàn nhỏ khác nằm tương đối cách xa làng, cô nhìn Nam và chỉ tay về ngôi nhà nói:
                  -Lúc mẹ còn sống, Ngọc Minh và mẹ ở nhà này
                  Cô dẩn Nam lên cái thang gổ và đầy nhẹ liếp tre cho ánh sáng và không khí tràn vào bên trong, ngôi nhà cũng có hàng cột tròn to, chắc chắn và cái sàn được lát từ những tám ván dầy, phẳng phiu. Ngôi nhà có hai ngăn riêng biệt và cái chái bếp nằm ở góc cuối, anh giúp Ngọc Minh dùng hai đoạn tre chống cái liếp cửa lên khiến ngôi nhà đang tối mờ mờ bổng sáng lên.
                  Nam nhìn quanh, thấy các ngóc ngách đều sạch sẽ, ngăn nắp, từ khung cửa sổ nhìn hơi xa về chân dãy đồi, có một dòng suối lách mình chảy qua đá cuội và cây cỏ mọc xanh ven bờ.
                  -Cậu Điểu Rút, Điểu Sơn và mấy người bạn của cậu trong xóm làm nhà cho mẹ Ngọc Minh đó
                  -Nhà Ngọc Minh đẹp hơn mấy cái nhà kia – Nam khen và cười
                  Ngọc Minh nghe nói cũng cười, nhưng Nam thấy trên khuôn mặt của cô thấp thoáng nổi buồn, anh đưa mắt nhìn xa hơn về hướng dãy núi mờ tít hướng tây, có lẻ là vùng biên giới Việt - Miên, Ngọc Minh bổng nói:
                  -Mình ra xem suối đi anh Nam
                  Cả hai đi theo lối mòn nhỏ chạy qua khu vườn ngày xưa là nơi trồng rau, nay cỏ mọc xanh khắp nơi, Nam nhìn cô hỏi:
                  -Hồi trước ở đây là vườn rau phải không, sao bây giờ không trồng nửa?
                  -Ừ, lúc trước mẹ và Ngọc Minh trồng rau ở đây, bây giờ qua ở nhà cậu xa nên lười, chỉ trồng vào mùa mưa thôi – cô cười và trả lời
                  Nam theo chân cô đi dưới bóng những cái cây ăn trái xanh mát, trong vườn cỏ mọc khá cao, cô đưa tay chỉ mấy trái ổi, khế trên cao nói:
                  -Cậu Điểu Rút và mẹ trồng nhiều loại cây lắm, còn Ngọc Minh thích mấy trái này, ăn ngọt lắm đó anh Nam
                  -Vậy hả, chút nửa lúc đi ra, tôi hái cho Ngọc Minh nhé
                  Câu trả lời của anh làm cô có vẻ vui và cười:
                  -Ừ, chút nửa anh Nam nhớ hái cho Ngọc Minh mấy trái chín về nhà ăn
                  Ra đến bên bờ suối, cả hai đứng dưới bóng mát của khóm tre mọc dầy, mùa này dòng nước cạn chảy róc rách qua các tảng đá tròn nhỏ, có nơi nó bị chận lại đọng thành vũng nước trong khe, cô chỉ một tảng đá to nằm trên bờ:
                  -Anh Nam ngồi đó đi, Ngọc Minh ngồi bên này
                  Nam ngồi xuống, còn cô ngồi hòn đá kế bên, hôm nay Ninh Minh mặc áo bà ba màu xanh dương đậm điểm những chấm trắng nhỏ như sao trời trên bầu trời đêm và cái quần vải thô đen, Nam nhìn cô thấy đẹp, nét đẹp mộc mạc, giản dị và khỏe mạnh, anh hỏi:
                  -Mùa mưa chắc suối lên cao hả Ngọc Minh?
                  -Ừ, mùa mưa nhiều lúc nước tràn lên vườn cây, lúc đó tiếng suối chảy nghe lớn lắm, ngồi ở nhà còn nghe đó anh Nam
                  -Lúc còn nhỏ ở ngoài thị xã, Ngọc Minh có xuống Saigon bao giờ chưa?
                  Cô cười trả lời:
                  -Có lần ba dẩn Ngọc Minh và mẹ xuống Saigon chơi, mà lúc đó còn nhỏ lắm, nên không nhớ nhiều đâu
                  Nhớ lại Ba Du nói về người cha đã tử trận và người mẹ vừa qua đời cách đây hai năm của cô, anh không muốn hỏi tiếp câu chuyện, vì biết mình vừa vô tình làm cho Ngọc Minh buồn, Nam hỏi qua chuyện khác:
                  -Làng của Ngọc Minh tên gì?
                  -Làng tên Bù Đon, Ngọc Minh nghe mẹ và cậu nói làng này có từ lâu lắm rồi, trước thời người Pháp đến đây, nó cùng huyện nhưng lại khác với xã anh Nam ngoài đó, còn nhà anh Nam ở quận mấy dưới Saigon?
                  Nam nhìn cô mỉm cười:
                  -Nhà tôi ở quận Phú Nhuận, gần cầu Kiệu mà cũng gần quận 1, 3, gia đình di cư vào và ở đó từ năm 54, còn Ngọc Minh sau năm 75, hết chiến tranh mới về ở trong này, vậy Ngọc Minh có biết nói tiếng S’tiêng không?
                  Hai má cô hơi ửng đỏ mỉm cười nhìn Nam:
                  -Lúc mẹ còn sống có dạy cho Ngọc Minh, bây giờ cũng quên nhiều rồi, nhưng trong buôn này nói tiếng Việt ai cũng hiểu, nên bây giờ cũng không cần nói tiếng S’tiêng đâu, chỉ có mấy người già là không biết tiếng Việt thôi, lúc sáng nay, anh Nam đi vô buôn một mình có sợ bị lạc không?
                  -Ừ, anh Ba Du có chỉ cách đi đường rừng rồi nên không sợ lắm, mùa này đi dể hơn mùa mưa
                  -Anh Nam giỏi và gan ghê luôn, mới đi rừng hai lần với chú Ba Du mà đã dám đi một mình, ừ mà tháng mưa trong rừng nhiều vắt lắm đó …
                  Nghe nói đến vắt, mặt anh hơi ngẩn ra, Ngọc Minh đoán biết Nam sợ mấy con đó vật nhỏ chuyên hút máu đó, nên cô cười làm anh hơi đỏ mặt, bối rối, anh cười cười tảng lờ nói:
                  -Ngọc Minh có thích về thăm Saigon vài ba ngày không?
                  Cô gật đầu và ngập ngừng nói:
                  -Ừ, lâu rồi Ngọc Minh chưa xuống đó, đi với chú Ba Du và anh Nam hả?
                  Nam mỉm cười gục gật cái đầu:
                  -Ừ, qua Tết đi, xin cậu Điểu Rút về thành phố Saigon chơi nhé, ở nhà chú Ba Du, bây giờ ra vườn cây hái ổi và khế về ăn
                  Hai người ra chỗ vườn cây, có vài cây lêkima, mít, điều … ở phía trong, đến gần mấy trái khế ở trên cành cao, Nam cố gắng vươn tay lên hái nhưng không tới, Ngọc Minh nhặt một thanh tre, cô lấy dây chuối cột với đoạn nhỏ thành cù móc đưa cho anh, thò cái cây giật năm, sáu trái khế chín vàng rơi xuống, sang cây ổi có nhiều trái chín thơm nhưng bị chim và sóc đến ăn nên chỉ hái được vài trái còn nguyên, Ngọc Minh nhìn mấy trái ổi bị ăn còn phân nửa lộ phần ruột màu hồng và có mùi thơm thoang thoảng nói:
                  -Trái cây chín không kịp hái hay bị chim về ăn, có lúc vô đây Ngọc Minh gặp cả đàn chim nhiều lắm, rồi gặp cả nhím, đôi khi cả heo rừng …
                  Nam nghe kể, cười chọc:
                  -Vậy lúc gặp mấy con đó Ngọc Minh có sợ không?
                  Biết Nam muốn chọc mình, cô cũng cười rồi trả lời:
                  -Ừ, quen rồi không sợ đâu, vô đây lần nào Ngọc Minh cũng có đem theo rựa mà
                  Nam cười có vẻ thích thú với câu trả lời tự tin của cô, anh cầm giúp cô mấy trái ổi, cả hai nhìn trời thấy đã trưa, cô thúc Nam đi về.
                  Lên thang vào nhà thấy Điểu Rút và Điểu Sơn đang ngồi, cái chóe rượu cần nằm ngay giữa gian nhà trước, thấy Ngọc Minh và Nam về, Điểu Rút cười nói:
                  -Cháu dẩn Nam đi về vườn cũ hái trái cây hả, có ra ngoài suối không?
                  -Dạ có cậu, ra ngồi ngòai đó chơi, anh Nam khen nhà cháu đẹp đó
                  -Ờ, thôi! Ngọc Minh dọn mấy món trong bếp ra đi, đầu năm cậu mời Điểu Sơn và cậu Nam lai rai
                  -Dạ
                  Điểu Rút bê cái chóe đặt nằm giữa ba người, lần trước ở nhà Điểu Sơn, anh đã uống thử loại rượu này, Điểu Sơn chỉ cái chóe nói:
                  -Rượu cần của Điểu Rút làm ngon và say nhẹ lắm, chú Nam không lo đâu
                  -Lần trước uống rượu cần ở nhà Điểu Sơn có anh Ba, hôm đó rượu cũng ngon – Nam đáp
                  Ngọc Minh bê dĩa thịt gà nướng kiểu miền núi ra, và quay vào trong đem ra một phần đầu con cá chép nướng trui trông rất ngon lành, sau đó bày thêm rau và các loại gia vị.
                  Cắm ba cái cần trúc dài vào chóe, Điểu Rút cầm một ống trúc rồi mời Nam và Điểu Sơn uống, vít cần đưa vào miệng, Nam thấy đầu lưỡi tê, nóng khi chất rượu qua cổ họng và có mùi thơm của cây lá rừng.
                  -Mời cậu Nam và Điểu Sơn thử món cá nướng
                  Nam đưa đôi đũa gắp miếng thịt gần phần bụng của con cá, chỗ này béo ngậy vì có lớp mở, hai người đàn ông S’tiêng vẩn đang cầm cần trúc uống rượu từ trong chóe, Điểu Sơn chờ vài phút cho rượu thấm vào vị giác rồi buông cần ra gật gù khen:
                  -Chóe rượu này ngon, Điều Rút ủ nó từ bắp được bao lâu?
                  -Khoảng 30 ngày, để dành Tết đãi khách quí tới nhà thăm
                  -Ba Du về ăn Tết ở Saigon khi nào lên đây cậu Nam – Điểu Rút hỏi anh
                  -Chắc khoảng mùng năm, nhưng anh Ba nói có thể sẽ lên sớm hơn
                  Nam lấy bao thuốc lá mời hai người đàn ông S’tiêng và châm cho mình một điếu, không khí buổi trưa trong buôn vắng lặng, vài tiếng gà gáy đột ngột vang lên trong buổi trưa ấm áp ngày đầu xuân, anh hỏi Điểu Rút:
                  -Từ trong buôn ra xã bên này có xa không?
                  -Khoảng ba cây số, cũng phải băng đường rừng qua đồi mới đến trung tâm xã, ở đó có trạm xá, trường học … dân trong buôn cũng ít khi ra đó, chú Nam từ ngoài bờ hồ vô trong này cũng xa bốn, năm cây số, đi cũng cực quá
                  Nam cười nói:
                  -Lần đầu thấy xa, mấy lần sau thì quen rồi, thấy không xa lắm
                  Điều Sơn ăn uống rượu rất khỏe, ông ta gắp cho Nam miếng thịt gà nướng và khen:
                  - Điểu Rút và Ba Du biết cách nướng gà ngon lắm, tui ăn thử ở nhà Ba Du thấy cũng giống nhau
                  Điểu Rút mỉm cười:
                  -Lúc đi lính biệt kích, lính Mỹ cho ăn toàn đồ hộp, sau này qua biệt động quân, lính con nhà nghèo, gặp Ba Du khi đi hành quân cũng hay nấu nướng từ từ rồi quen
                  Nghe kể lại chuyện lính tráng xưa, Điểu Sơn hồi tưởng lại:
                  -Nhiều lúc đóng trong rừng cả tháng trời, ăn toàn gạo sấy, thịt hộp, lúc tụi tui ra đóng chốt gần suối thấy mễn, cheo ra uống nước cũng không dám bắn vì cấp chỉ huy nói im lặng không được làm gì khi chưa có lịnh.
                  -Chỗ rừng Ba Du và chú Nam đi ngang qua còn nhiều thú lắm, hết tiếng súng nên thú rừng từ bên Miên và rừng Phước Long, Ban Mê Thuộc về đây nhiều, mấy buôn khác ở gần đây hay vô săn ở đây, họ săn bằng súng của lính trước 75, vô trong đó có gặp họ thì cậu Nam nên cẩn thận
                  -Trong buôn này đi săn bằng súng hay bằng tên – Nam hỏi
                  -Có người dùng ná, cũng có người dùng súng, chính quyền thì cấm xài súng, nên họ giấu trong rừng, lúc nào đi săn thì vô đó lấy ra, súng đạn trong đó còn nhiều lắm, tui với Điểu Sơn đi rừng lượm được M-16, AK, đạn …
                  Điểu Sơn chỉ tay chếch về hướng tây-bắc nói:
                  -Đồn Tống Lê Chân cách buôn này bẩy, tám cây số, lúc đó tiểu đoàn tụi tui bị bao vây trong đó lâu lắm, tui với Điểu Rút, Ba Du ở chung đại đội, căn cứ được máy bay thả dù tiếp tế súng đạn, lương thực, thuốc men … nhưng bị súng ở dưới bắn lên, nên dù bay lạc ra bên ngoài nhiều, mấy năm sau đi vô rừng vẩn còn lượm được nhiều thứ, Ba Du có lúc cũng đi với tui đi săn, đặt bẩy trong đó, lượm được nhiều đồ của quân đội, có cái bị sét rỉ, cái còn tốt đem về xài …
                  Nam nhớ tới cái đèn pin Ba Du cho anh làm từ mấy cục pin, anh hỏi:
                  -Ở ngoài đó anh Ba Du có mấy cái đèn pin, chắc cũng lượm từ trong rừng ra phải không Điểu Sơn?
                  -Đúng rồi, thứ pin đó xài cho máy truyền tin, bây giờ chế lại làm đèn đi săn ban đêm
                  Hai người đàn ông S’tiêng kể chuyện cũ, có lẻ họ nhớ lại những ngày chinh chiến, hành quân trong rừng núi hiểm hóc, cheo leo, những trận đánh sinh tử vang danh như trận Tống Lê Chân, Điểu Rút có vẻ khiêm nhường ít nói về mình.
                  -Uống đi Điểu Sơn, cậu Nam, hôm nay ngày tết đầu năm mới – ông ta vít cái cần trúc xuống mời
                  Cả ba người nảy giờ ngồi nói chuyện, dĩa thịt gà và cá nướng còn nhiều, rượu trong chóe chắc cũng vậy, Nam không thấy Ngọc Minh đâu, đoán chắc cô trong gian bếp, không biết đang làm gì. Món thịt gà rừng thơm giòn, rất hấp dẩn, anh ăn thấy không ngán, nhìn trời thấy nắng chiều đã ngã về hướng tây, như hiểu ý anh, Điểu Rút nói:
                  -Không bị trễ đâu, chừng một chút nửa về cũng kịp, có cần tui đưa cậu Nam ra tới bờ hồ
                  -Tôi đi về một mình được rồi Điểu Rút, quen đường đi rồi – anh nói
                  Ngọc Minh từ trong bê ra cái dĩa khế, ổi cắt thành miếng nhỏ và để lên sàn tre:
                  -Cậu với chú Điều Sơn và anh Nam ăn giải rượu, chua chua ngọt ngọt dể ăn
                  Rồi cô nhìn Nam cười và nói với Điểu Rút:
                  -Cậu với chú Điểu Sơn uống nhiều đi để anh Nam về sớm, về tối quá lạc đường
                  Thấy Ngọc Minh bênh mình lộ liễu quá, anh cười nói:
                  -Chắc không bị trễ đâu Ngọc Minh, trời còn sớm, tôi về cũng còn kịp
                  Vào trong bếp, cô cầm ra mấy trái mít, đu đủ và ổi bỏ vào cái gùi của anh, Điểu Rút hiểu ý khi thấy cô cháu của mình không chịu vào nhà trong, mà vẩn còn đứng vách ngăn nhìn ra nên nói:
                  -Mình uống lần nửa cho cạn chóe rồi đưa chú Nam về
                  Nam hiểu ý nên mỉm cười, nhìn Ngọc Minh với vẻ cám ơn, anh ăn mấy miếng khế và ổi của cô vừa đem ra, vị chua ngọt của trái chín cây trộn lẩn vào nhau thấy lạ miệng, anh chào hai người đàn ông S’tiêng rồi mang gùi lên vai, bước xuống thang, Ngọc Minh đi theo nói:
                  -Để Ngọc Minh đưa anh Nam ra đến đầu buôn
                  Anh gật đầu, hai người xuống thang và ra con đường nhỏ trước nhà đi bộ chầm chậm trong ánh nắng chiều chiếu lên hàng cây trên con dốc thoai thoải trước mặt, nơi có con đường mòn đưa Nam xuyên qua cánh rừng già ra bờ hồ.
                  -Anh đi về cẩn thận nghe, để Ngọc Minh xem con nước uống không?
                  Nam đi chậm lại và nghiêng vai để cô nhìn chai nước trong gùi, Ngọc Minh nói nhỏ:
                  -Còn phân nửa, lúc nảy anh Nam không đưa lấy thêm
                  -Không sao, về buổi chiều không có nắng đỡ khát hơn
                  Tới chân con dốc đầu buôn, anh dừng lại nhìn Ngọc Minh, cô mỉm cười có chút e lệ
                  -Ừ, tới đây được rồi, Ngọc Minh về đi
                  -Còn mấy ngày Tết nửa, anh Nam không làm gì ngoài đó vô buôn chơi nghe
                  -Ừ, chắc đợi anh Ba Du mồng 5 lên rồi cùng vào luôn nhé, thôi Ngọc Minh trở vào buôn đi
                  Cô gật đầu rồi quay về, Nam sợ bị kẹt lại trong rừng buổi tối nên nhanh chân đi qua hai con dốc, băng qua lòng suối nhỏ chảy trên nền đá cuội bám rêu xanh, gặp hai đứa nhỏ S’tiêng da nâu đen cháy nắng đang dò dẫm đi theo dòng nước lật những tảng đá tìm bắt những con ốc, cua lẩn trốn bên dưới, thấy Nam đi tới, tụi nó tò mò đứng nhìn, anh hỏi:
                  -Bắt được nhiều không?
                  Đứa lớn hơn, độ 12 – 13 tuổi, có lẻ là anh đứa kia lắc đầu, Nam ngoắc tay kêu hai anh em nó lại, cầm cái rọ tre nhìn vào bên trong thấy chỉ có vài con ốc và ba, bốn con cua bò tới lui, anh cười xoa đầu thằng em và bỏ cái gùi xuống bờ suối, lấy trái đu đủ chín ra cho:
                  -Chú cho trái đu đủ đem về nhà ăn nhe, tối rồi về nhà đi
                  Hai anh em nó gật đầu, cười, Nam nói vui:
                  -Nhớ cám ơn cô Ngọc Minh trong buôn nhé, của cô Ngọc Minh cho chú đó
                  Rồi nhớ lại đường xa, anh khoác gùi lên lưng, tay cầm rựa theo lối mòn lên con dốc vào cánh rừng, trời chiều miền rừng núi mang vẻ vắng lặng, buồn tẻ, tiếng những đàn chim ríu rít bay về tổ vang lên trong tầng lá trên cao, tiếng nai, hoẵng tác vọng ra từ trong cánh rừng sâu âm u.
                  Quen đường đi nên Nam nhìn theo dấu con đường uốn lượn qua lại trên đám lá khô, thỉnh thoảng tưởng như mất dấu nó vì các bụi cây rậm rạp che lấp, anh vung rựa phạt bớt các cành cây để nhìn rỏ hơn, và tiếp tục đi cho đến khi thấy bờ hồ thấp thoáng ngoài xa.
                  Hít thở một hơi dài khoan khoái, Nam cố gắng rút ngắn quảng đường còn lại qua trảng cỏ, đến chỗ bụi cây quen thuộc, anh lấy sức đẩy chiếc xuồng xuống nước, nhanh chóng nhảy lên bơi về nhà, đến lúc này, anh mới thấy cơn khát đang làm khô cổ họng và hun nóng cả người, lấy cái chai dốc hết nước vào khoang miệng và để dòng nước mát mẻ chạy khắp châu thân.


                  (còn tiếp)

                  Comment


                  • #10
                    RỪNG GIÀ NỔI SÓNG VÀ ĐÊM ĐEN TRINH SÁT CON ĐẬP

                    Sáng nay thức dậy trong người khoan khoái và hưng phấn, Nam mỉm cười và suy nghĩ trong đầu, không biết là do chóe rượu cần của Điểu Rút ủ với các loại cây, lá thuốc bí truyền trong rừng, hay do buổi gặp gở thú vị với Ngọc Minh ở vườn cây trong buôn, anh nghĩ có lẻ do cả hai thứ.
                    Nhớ hôm qua về đến nhà thì trời đã tối, chỉ kịp buộc chiếc xuồng vào bụi cây bên bờ hồ, rồi về nhà nấu bửa tối ăn qua loa, sau đó mệt mỏi vì chuyến đi rừng nên anh đi ngủ sớm, chưa qua xem nhà Ba Du và con Ki ra sao.
                    Hôm nay là mùng hai Tết, cũng chỉ có một mình anh đón xuân với ngôi nhà giữa núi rừng và hồ nước mênh mông. Nam muốn thay đổi qua món nào khác ngoài mấy con cá, sẵn ở nhà có bầy gà, nên để cho đúng hương vị ngày tết một chút, anh ra phía sau nhà bắt một con cắt cổ rồi để đó.
                    Anh gọi con Đốm và dẩn nó đi qua nhà Ba Du, vừa mới đến cái hàng rào thấp trước sân, con Ki chạy ra vẩy đuôi mừng rở và sủa lớn, rồi hai con chạy nhảy vờn nhau với khắp nơi. Nam bước đến trước căn nhà và đầy cửa vào bên trong, đồ đạc vẩn ngăn nắp như cũ, anh quay ra phía sau vườn, bầy gà đang thư thả bới đất kiếm ăn bên các giồng khoai lang, khoai mì xanh mướt ngoài rẩy.
                    Nam bước sâu vào lối đi nhỏ giữa những cây chuối, mùa nắng đến làm các tàu lá bắt đầu khô héo, nhiều cây nghiêng ngã vì sức nặng của những buồng trái to, Ba Du phải dùng hai thanh tre chống lên cho nó khỏi đổ xuống, vài buồng đã có màu vàng, chắc ba, bốn ngày nửa là chín, anh đi luồn qua những tàu lá héo khô đến chỗ những cây đu đủ, hái một quả to vỏ lốm đốm vàng mang về trưa nay làm món canh.
                    Nhìn mấy cây mít và ổi xum xuê màu xanh nằm ở cuối vườn gần bên bụi tre cao vút, Nam nhớ lại hôm qua mùng một Tết, ở trong buôn đi hái ổi, khế trong vườn nhà Ngọc Minh, những giây phút đó thật thơ mộng và đẹp, làm Nam vẩn nhớ đến tận hôm nay. Anh thích Ngọc Minh vì những đức tính giản dị, chân tình và thêm đôi chút hài hước, không biết có phải do duyên may đã đưa anh đến đây và gặp gở Ngọc Minh, chứ như tự nhiên thì có lẻ Nam và cô khó bao giờ gặp được nhau, vì hai người ở hai nơi quá xa nhau, nên điều này cũng thật là lạ lùng.
                    Khi biết Ngọc Minh có cuộc sống không may mắn, vì cha mẹ cô đều mất sớm, lủi thủi chỉ có một mình và sống nhờ ở nhà người cậu, làm Nam thêm cảm động. Cuộc chiến tuy đã qua nhiều năm, nhưng hậu quả khốc liệt của nó và cái nghèo đói đi theo sau khi hòa bình lặp lại, đang tàn nhẫn dập tắt mơ ước của bao trái tim trẻ trung.
                    Nam tuy còn trẻ nên không có nhiều kinh nghiệm, nhưng cũng đủ am hiểu về việc cai trị của nhà cầm quyền mới sau năm 75, nên trong đầu anh đã nhìn thấy viển cảnh tối tăm, đói khổ sẽ còn tiếp tục kéo dài ở đất nước này…
                    Đóng cửa nhà Ba Du lại cẩn thận, anh cầm trái đu đủ và dẩn hai con chó đi về nhà, cả hai đang chạy tung tăng, đánh hơi sục sạo trong các bụi rậm, có lúc mò trúng chỗ những con chim đang trú ẩn làm cả đàn hốt hoảng bay ra, hai con đuổi theo một đoạn xa rồi ngẩn ngơ nhìn đàn chim bay về phía cánh rừng cao su ở tận bên trong.
                    Về làm thịt con gà xong, nhớ lại trong cái bình còn lại khoảng nửa lít rượu hôm trước anh mua lai rai với Ba Du, nhưng chợt nhớ lại là anh chưa ngồi uống rượu một mình bao giờ.
                    Ở Saigon mà vào quán nhậu, nếu Nam không đi với thằng bạn này, thì cũng phải có thằng bạn kia, với anh có người để uống hình như quan trọng hơn hàng quán và rượu ngon hay dở, ngồi uống một mình làm Nam thấy lẻ loi và cô độc. Nhưng hàng xóm gần đây nhất là Hai Tuất ở bên kia hồ, thêm nửa mấy ngày Tết người có gia đình hay bận bịu với bà con, hàng xóm, đâu còn ai.
                    Anh đang ước có thằng bạn nào đó đến thăm anh vào lúc này thì thật là đúng ý, đúng lúc, nhưng nhìn quanh thì chẳng có ma nào, chỉ có rừng núi, hồ nước vây quanh.
                    Nam nghĩ thôi cứ đem rượu ra rồi tới đâu hay tới đó, không có ai đối ẩm thì uống một mình cũng chả sao.
                    Nhìn trời mới khoảng mười đến mười một giờ trưa, anh bê cả con gà luộc trên cái dĩa sành thô và mấy cái dĩa rau xanh, ớt … lên phản tre, trong bình chỉ còn lại khoảng nửa lít rượu đế.
                    Anh ngồi ăn uống một mình, cứ thích khúc nào của con gà thì lấy tay bốc hay dao cắt thoải mái, còn rượu thì cứ từ từ mà uống, không bị ai thúc ép, kể ra đó cũng có cái sướng riêng của độc ẩm. Con Ki và con Đốm thì bình thản nằm chờ, Nam xử công bằng với cả hai, cho con này một miếng, thì con kia được một cục, nên hai con không phải tranh giành nhau, con Ki nhà Ba Du thì ngoan hơn, nó ăn chậm rải, từ tốn.
                    Uống một mình không phải lắng nghe hay nói chuyện với ai, cứ uống một ly rồi nhìn trời đất mông lung, hồ nước rồi rừng núi vây quanh, cơn say thường cũng đến nhanh.
                    Nam ngồi hồi tưởng lại những kỹ niệm cũ, bạn bè, người bạn gái mà anh đã từng yêu, rồi chia tay, những người bạn thân theo những con tầu vượt biển ra đi … Mỗi khi uống rượu với hai thằng bạn thân, Huy hay Ý cao hứng lại đọc vài câu thơ, hay nói về những bài hát mà tụi nó yêu thích, Ý có hàng đống thơ trong bụng, dân Huế nên tâm hồn lãng mạn như sông Hương của đất thần kinh, nó hay nói với Nam và Huy đó là con là sông đẹp nhất miền trung, văn nhân thi sĩ ai cũng say mê, còn Huy lúc đã say la đà thì thích có người hát cho nghe những bài tiền chiến thật xưa.
                    Nhớ đến cái buôn nhỏ trong rừng, Nam nghĩ nếu Ngọc Minh có mặt ở đây thì chắc cũng vui, cô không biết uống rượu nhưng ngồi nói những câu chuyện mới, cũ thì cũng rất thú vị trong mấy ngày Tết.
                    Hồ nước mùa này phẳng lặng ngã màu xanh lơ, trong không khí oi bức mùa khô, Nam bổng thèm được nhào xuống hồ vùng vẫy tắm cho thỏa thích, có lẻ rượu vào nên làm cho con người cởi mở, hăng hái. Anh tự nhủ chiều nay ngủ dậy, lấy cần ra hồ câu vài tiếng, xong rồi nhảy xuống tắm một trận. Ngày Tết mà xuống tắm hồ nghe có vẻ lạ lùng khôi hài hay giống một chàng lãng tử, nhưng ở nơi hoang vắng này thì chả có gì để làm hay đi rong, tiêu khiển như ở Saigon.
                    Còn chương trình mùng ba Tết, anh lại vào buôn thăm Ngọc Minh, vào đó có người quen nói chuyện còn hơn ở ngoài này lủi thủi đi ra, đi vô một mình.
                    Đầu óc anh lại quay về với hai thùng đồ cổ, Nam thấy câu chuyện còn mông lung quá, mọi thứ anh biết cho đến lúc này là nó được chôn giấu trong vùng hồ của khu đồn điền cao su cũ, còn địa điểm thì sau mấy ngày vừa rồi lặn xuống dưới đáy hồ gần khu rừng chồi, Nam chưa tìm ra một dấu hiệu nào, chưa kể đến bom đạn rơi xuống khắp nơi trong chiến tranh, không biết là những món đồ sứ mỏng manh đó có còn nguyên vẹn không.
                    Có một điều Nam chắc chắn là nếu hết mùa nắng này anh không tìm ra hai cái thùng đó, thì sẽ phải quay về Saigon và trở lại với nghề đi buôn cũ, chứ không thể ở lại đây.
                    Thêm vào đó từ ngày gặp Ba Du, nhiều lần Nam hay tự hỏi là có nên tiết lộ điều anh biết về bí mật này cho Ba Du không, anh lo sợ là tin đó có bị lộ ra bên ngòai hoặc Ba Du sẽ không tin anh. Nhưng sau lần qua nhà Hai Tuất uống rượu, Ba Du cũng đã được nghe kể về các món đồ sành sứ cổ quí giá của ông chủ đồn điên Tây, nếu được nghe anh kể thêm câu chuyện từ người quản gia cũ, một người từng trải như Ba Du chắc sẽ tin là có bí mật của hai cái thùng này.
                    Thật là khó khi quay lưng bỏ đi trước những món đồ quí giá như vậy, nó sẽ nằm im tại đó vĩnh viển hay vào một ngày nào đó có người may mắn sẽ tìm thấy nó, vì vậy Nam thấy không đành bỏ cuộc.
                    Nam uống cạn ly rượu, thấy đầu óc đã hơi chếch choáng, trong bình chỉ còn lại ít rượu, cơn buồn ngủ bị men rượu lôi kéo đang chập chờn bay đến, anh dọn mấy cái dĩa lên kệ bếp, khép cánh cửa nhà rồi lên tấm phản tre ngả lưng đánh một giấc ngon lành.
                    Bên ngoài những tia nắng mùa xuân trải ra trên cây cỏ, hai con chó ra nằm dài trước hiên nhà, đôi mắt lim dim nhìn xuống con đường ra bờ hồ. Những con cò trắng nhỏ nhắn, thơ thẩn vỗ cánh bay dọc bờ nước trong ngày đầu xuân, một ngày lặn lội kiếm ăn của tụi nó chỉ kết thúc khi trời đã về chiều.
                    Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, vốc nước lạnh lên rửa mặt để xua đi cơn say ban trưa còn lởn vởn trong đầu, anh xách cái gùi ra chỗ vũng cạn kiếm cá con về làm mồi câu, mực nước hồ bắt đã giảm xuống từ từ qua hai tháng mùa khô, nên vũng nước cũng đã nông hơn, bọn cá nhỏ vì vậy cũng ít tìm vào để trú ẩn, sau gần chục lần xúc tìm trong đám lá sen và rong, Nam chỉ tóm được năm con cá rô nhỏ, vậy cũng đủ số mồi cho chiều nay.
                    Bỏ cần câu và lon mồi vào xuồng, anh bơi ra giữa hồ, hai con chó chạy ra ngóng theo, anh móc con cá nhỏ vào lưỡi câu và thả nhẹ xuống nước, thong thả lấy trái ổi từ cái túi áo nhà binh ra rửa qua loa dưới hồ và dùng con dao cắt một miếng ăn thử, anh cắn phần ruột mầu hồng nhạt, thấy có vị vừa ngọt, vừa chua, khá ngon.
                    Đôi mắt theo dõi cái phao trôi qua lại trên mặt nước, còn tâm trí của Nam thì đang thơ thẩn lang thang khắp nơi, lúc thì hình dung ra mẹ anh, bà chị và hai đứa em ăn Tết trong căn nhà nhỏ ở Saigon, lúc lại nhớ Ngọc Minh trong buôn, không biết giờ này cô đang làm gì, còn mấy thằng bạn ở Saigon có tụ họp nhậu nhẹt lai rai mấy ngày Tết không, nhìn khung cảnh hồ nước hoang vu rồi thở dài …
                    Buổi chiều mùng hai Tết ở nơi đồi núi xa xôi này buồn kinh khủng, Nam đi câu cũng là để giết thời gian, chứ trong cái thùng sau nhà cũng còn vài con cá trong đó đủ ăn vài ngày.
                    Nhìn về phía xa trên mặt hồ gần nhà Ba Du về thượng lưu, anh thấy có chiếc xuồng đang bơi xuống và từ từ hiện rỏ dần, hai con chó bắt đầu sủa, lát sau Nam nhìn ra đó là mấy tay du kích và công an xã đi tuần tra mấy ngày Tết, không biết chiếc xuồng đi ngang qua lúc nào mà anh không nghe hai con Ki và Đốm sủa như mọi khi, hay vì ngủ quá say nên chẳng hay biết gì. Khi đến gần, không thấy có mặt Tư Có trên xuồng, mấy tay du kích bơi ngang qua nhìn anh rồi xa dần và mất hút về phía con đập ở hạ lưu.
                    Chiều nay cá không chịu cắn câu, Nam lấy cái chèo bơi qua khúc hồ phía trên, chỗ đất rẩy của Ba Du giáp với rừng thưa và núi đá nhìn ra, nhìn cái phao trôi chầm chậm theo hướng gió thổi. Nam ngồi chờ một lúc sau cá bắt đầu cắn câu, cái phao bị giật giật vài cái và bị lôi xuống, anh kéo mạnh cái cần và nhấc con cá trê bỏ vào xuồng, chiều nay mấy con cá lăng đi đâu mất hết rồi, mấy con cá chép cũng về trời ăn Tết hay sao đó, Nam tự hỏi rồi cười một mình, móc lại mồi khác và thả câu tiếp tục thôi, nghề này phải kiên nhẫn. Chừng năm, mười phút sau, thêm một con cá mè đen trũi dính câu. Nhìn trời chiều bắt đầu chạng vạng, Nam quyết định móc mồi lần cuối rồi về nghỉ, cột xuồng lại và xuống hồ tắm.
                    Ngày mai mùng ba, lội bộ vào thăm Ngọc Minh và đi một vòng buôn cho hết ngày, chiều lại đi về.
                    Con Ki và Đốm lúc nảy ra tận bờ hồ ngóng mỏm sủa tụi du kích, bây giờ không thấy đâu, con Ki thì không biết có nhớ ông chủ nó đã về ăn Tết ở Saigon.
                    Cái phao lại bị kéo chìm sâu xuống, anh nhanh tay giật mạnh cái cần lên, một con cá trạch với thân mình trơn bóng và những đốm tròn đen, loài này thường sống trong các dòng suối, con này ra sống vùng nước sâu lâu rồi nên kích thước của nó to dài.
                    Nam bỏ nó chung với hai con cá nằm dưới cái lưới trong khoang sấp nước và bơi vào bờ, cởi bỏ cái áo nhà binh cũ, anh nhảy xuống làn nước trong xanh, hai con chó nghe có tiếng động ngoài hồ liền chạy ra khỏi đám cây gần khu rừng chồi, anh gọi lớn tiếng:
                    -Đốm, Ki lại đây!
                    Hai con thấy Nam đang bơi cách xa bờ nên chỉ đứng nhìn theo, thỉnh thoảng lại sủa, anh muốn đùa giỡn và thử xem hai con chó, có con nào dám lội xuống nước không, nên vào gần bờ lấy tay ngoắc và chờ tụi nó nhảy xuống hồ, sau một hồi lưỡng lự, con Ki tỏ ra dạn dĩ, nó phóng thẳng xuống nước và bơi đến gần Nam, con Đốm chỉ còn lại một mình trên bờ, nó lăng quăng chạy tới lui, đưa mủi xuống ngửi ngửi mặt nước rồi lại chạy ra xa, cuối cùng đành ngồi yên một góc nhìn Nam và con Ki vẩy vùng trong làn nước mát lạnh.
                    Sau khi ăn tối xong, Nam lại đốt đống lửa to trước sân rồi ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ nhìn lửa cháy bập bùng, trời đêm tối mênh mông chỉ có tiếng côn trùng như một dàn đồng ca đang kêu rên rỉ khắp nơi, thỉnh thoảng tiếng những con chim ăn đêm kêu dáo dác ngoài hồ hay trong rừng chồi vang lên vài ba giây ngắn ngủi rồi mọi thứ im lặng trở lại như cũ. Chiều đêm mùng hai Tết tối thui, Nam cứ ngồi hút thuốc lá bên ánh sáng đống lửa, nhìn mông lung lên trời và màn đêm tối đen xa xa xung quanh, cho đến lúc thấy buồn ngủ, anh đứng lên nhè nhẹ vươn vai và đóng cửa đi vào nhà.
                    Buổi sáng sớm, trên mặt hồ tỏa ra làn sương mỏng và cảnh vật lặng yên như tờ, sau khi thức dậy điểm tâm với vài trái chuối và mít chín mang về từ buôn thượng, Nam ra nơi cột chiếc xuồng, bỏ cái gùi có chai nước, cây rựa bên trong vào khoang và ngồi lên xuồng, rồi bắt đầu bơi về phía trên thượng lưu hồ.
                    Hôm nay mùng ba Tết rồi, Nam thấy không cần phải gấp gáp lắm vì đã đi vào buôn vài lần rồi, nên đã quen với con đường mòn chạy xuyên qua rừng. Đến chỗ đám cây rậm ven bờ, Nam kéo chiếc xuồng giấu vào trong đó và chậm rải đi theo lối mòn, cái gùi hôm nay nhẹ tênh vì chỉ có chai nước, hai ba trái chuối và cây rựa.
                    Khu rừng bây giờ dần trở nên quen thuộc với anh, đến con suối lớn đầu tiên, Nam định nghỉ chân ở đó, ngồi hút thuốc khoảng mươi phút, rồi sau đó băng ngang con suối đi tiếp.
                    Vừa đi vào bên trong cánh rừng khoảng cây số, bổng nhiên sự yên tĩnh lâu nay của khu rừng bị phá vở bởi tiếng âm thanh ầm ầm quen thuộc của mấy chiếc xe máy cày hay chạy trong nông trường. Nam cố gắng lắng nghe, hình như tiếng ồn ào đó phát ra từ phía trong cánh rừng, xa về bên phải của con đường mòn, anh đi chậm lại và chăm chú nhìn triền dốc trước mặt, nhưng nó bị che khuất bởi những thân cây cao xen lẩn với các bụi rậm ở bên dưới nên không thấy được phía đó.
                    Bị sự tò mò thúc đẩy, Nam rời con đường mòn và đi cắt ngang qua khu rừng vào sâu bên trong, anh nhẹ nhàng lách mình qua các nhánh cây, dây leo đeo bám rậm rạp từ gốc đến ngọn, tiếng máy nổ giòn tan mỗi lúc càng lớn. Anh đến núp sau một thân cây to, cố nhìn xuyên qua khe lá, thấy có hai người đàn ông lạ, một tay mặc áo xanh bộ đội và tay kia mặc đồ rằn ri đang đứng nhìn chiếc xe máy cày kéo hai lóng gổ to ra phía ngòai, gần bên chỗ họ đứng, có cả cưa máy và súng M-16 để dựa vào một gốc cây cụt, có thể cái cây này đã bị họ đã hạ xuống ngày hôm trước.
                    Nhìn cách ăn mặc, Nam không biết họ là người của lâm trường hay là mấy tay lâm tặc chuyên đốn gổ lậu, nhưng nghe ba người đàn ông này nói chuyện, anh đoán họ lợi dụng mấy ngày Tết, bên kiểm lâm lơ là canh gác hoặc hai bên đã móc ngoặc với nhau, họ vào chặt hạ gổ quí trong rừng để buôn lậu, mấy tay "phá sơn lâm" này cũng rất nguy hiểm, họ có thể tấn công nếu ai đó xuất hiện trong khu vực họ đang trộm gổ.
                    Nam thắc mắc là sao họ có thể kiếm được xe máy cày của nông trường để đưa vào tận đây để kéo gổ ra đường, thường thì lâm tặc hay dùng trâu để tránh gây ồn ào khi làm công việc bất hợp pháp và nặng nhọc này.
                    Thấy việc này không liên quan gì đến mình, nên Nam cẩn thận cúi thấp người đi trở ra lối mòn để tiếp tục vào buôn, khi gần đến chỗ cũ, nghĩ là đã đi xa khỏi nơi ba người đàn ông lạ, Nam đứng thẳng người và bước nhanh ra ngoài. Vội vàng không để ý, nên anh bị vấp chân vào một nhánh rể cây trồi lên trong đám cỏ và té ngã, đúng lúc đó có tiếng bước chân đi nhanh về chỗ anh, hoảng hốt Nam trườn người núp sau một thân cây to phủ đầy dây leo, và im lặng nghe ngóng. Tiếng chân người đàn ông đến gần nơi anh đang ngồi dựa lưng trong hốc cây rồi dừng lại, Nam âm thầm nhìn qua khe lá, ông ta mặc áo bộ đội màu vàng ngà, khuôn mặt gân guốc, mang đôi dép râu, tay cầm cây rựa bản to, có vẻ ông ta đang tìm lối đi đến chỗ chiếc xe máy cày đang gầm rú, nhưng lại bị lạc đường. Nhìn kỹ khuôn mặt ông ta, Nam nhớ lại có một lần nhìn thấy ông ta đi với Tư Có và mấy tay du kích ngang qua nhà, bất thình lình ông ta vung rựa phạt mạnh nhiều nhát vào bụi cây rậm Nam đang ẩn nấp để lấy lối đi qua, lưỡi rựa bén ngót xẹt qua hạ gục mấy nhánh cây bên ngoài, anh hết hồn thu thân mình sát vào trong cái hốc giữa các nhánh rể to và nín thở chờ cho ông ta đi xa.
                    Khoảng năm phút sau, đoán chắc là đã an toàn, Nam nhổm dậy từ từ đi ra, bổng cái tay ở gần hốc cây bên trong chạm vào một vật cứng bằng kim loại, tò mò anh lôi nó ra ngoài sáng và thấy rỏ đó là phần còn lại của một cây súng M-16, bị mưa gió nhiều năm làm rỉ sét và phá hủy gần hết, chỉ còn lại nòng dài và phần thép với cái bá súng bằng nhựa đen bị gãy đôi, nhìn xung quanh không thấy có động tỉnh nào, anh quyết định chui lại vào bụi cây và tìm xem có còn lại thứ gì khác không. Nam đưa tay gạt lớp lá mục phủ bên trên, nhớ tới trong gùi có con dao, Nam dùng nó xới lớp đất đen, lộ ra đầu tiên là cái xương sọ chỉ còn một nửa, những đốt xương sống và những xương lớn khác nằm lẩn lộn bên những viên đạn đồng bị sét rỉ dính chặt vào nhau thành một khối tựa như cục đất to. Anh dùng con dao đào bới thêm một hồi lâu, tìm thêm được một mảnh kim loại có hàng chữ vẩn còn đọc được, đó là tấm thẻ bài, anh lấy chai nước rửa cho trôi bớt đất, và đọc lờ mờ tên người lính là Mai Trí Long, có thêm một hàng số nằm ở bên dưới và loại máu O.
                    Nam cẩn thận để mọi thứ vào chỗ cũ, cố gắng ghi nhớ trong đầu vị trí cái cây cao và khung cảnh quanh nó, anh lấy cái thẻ bài bỏ vào túi quần sau để khỏi bị rơi mất khi đi đường, rồi đưa mắt quan sát xung quanh lần nửa và đi ra lối mòn tiếp tục đi vào buôn.
                    Hình như mấy tay đàn ông lạ đó đã xong công việc kéo gổ, nên không còn nghe tiếng xe máy cày gầm rú nửa, tuy nhiên Nam vẩn thận trọng đi nhẹ nhàng qua khu rừng già, nhìn lên cao thấy ánh mặt trời chiếu lấp lánh qua khe lá, đến trảng cỏ lớn anh không nghỉ chân như mọi khi vì muốn tránh đụng độ mấy tay đốn gổ kia, nên nhanh chân đi thẳng.
                    Vừa băng nhanh qua lối mòn lên con dốc, anh suy nghĩ chuyện vừa tìm được xương cốt và tấm thẻ bài của người lính chết bên gốc cây, có lẻ nên đợi khi gặp lại nhau vào mùng năm sẽ nói cho Ba Du biết chuyện này, tuy không còn quan trọng lắm vì người chết đã lâu, có thể trước cả năm 75 vì xương cốt, vũ khí gần như mục nát gần hết, nhưng để xem Ba Du có ý kiến gì không.
                    Nam thấy lòng mình chùng xuống, không biết người lính đó bao nhiêu tuổi, vì sao anh ở đó, anh đoán chắc bị thương, rồi đi lạc đơn vị nên vĩnh viển nằm lại bên dưới gốc cây. Khi Ba Du quay lên đây sau Tết, anh muốn cả hai quay trở lại chỗ đó, và đắp một nấm mộ cho người lính bạc phước, dù sao anh cũng xứng đáng được chôn cất đàng hoàng, tử tế.
                    Mùng ba Tết mà gặp mấy tay đốn gổ lậu trong rừng và người lính VNCH chết bên đường rừng làm anh không thấy vui và hưng phấn như buổi sáng lúc bắt đầu ra đi, Nam cố xua đuổi những hình ảnh buồn bả đang chập chờn đó ra khỏi đầu và nghĩ đến Ngọc Minh với nụ cười dễ mến.
                    Đi qua hai con suối và thêm cái dốc nửa, đã thấy buôn thượng từ phía xa xa, anh cảm thấy nhẹ nhỏm, sải chân bước trên con đường ngang qua ruộng lúa và rẩy khoai, bắp … trải dài hai bên.
                    Nam đi thẳng đến nhà Ngọc Minh, gặp một người phụ nữ S’tiêng mặc váy đang xuống thang, vẻ mặt hiền lành, anh đứng chờ bà ta bước xuống, gật đầu chào và hỏi:
                    -Cậu Điều Rút và Ngọc Minh có nhà không dì?
                    -Cậu Nam ở ngoài rẩy Ba Du phải không, Ngọc Minh đang ở nhà, đang ở trong kia … – giọng nói của bà ta không được sỏi và lấy tay chỉ về hướng căn nhà cũ
                    Nam gật đầu trả lời:
                    -Dạ, tôi biết chỗ rồi, cám ơn
                    Nhưng bà ta tỏ quá mến khách và chân tình nên vẩn đi trước dẩn đường cho anh, Nam đoán bà ta là vợ của Điểu Rút, đến gàn căn nhà, đứng dưới chân cầu thang bà ta gọi lớn:
                    -Ngọc Minh ơi, có cậu Nam vô tìm con nè
                    Không thấy có tiếng trả lời, Nam đi ra phía vườn cây và nhìn qua các khe lá xem cô có ở đó không, anh nói với bà ta:
                    -Cám ơn dì, để tôi tìm Ngọc Minh một mình được rồi
                    -Cậu ra suối đi, Ngọc Minh cũng hay ra ngồi chơi ngoài đó – và chỉ đường cho Nam, xong bà ta đi về
                    Anh theo lối đi bên vườn cây, vừa đi vừa nghe ngóng tiếng động phía bên trong, chỉ có tiếng kêu chít chít êm tai của mấy con chim sâu nhỏ nhắn đang chuyền cành bắt mồi, ra đến gần bờ suối, Nam đi nhẹ nhàng để nhìn xem Ngọc Minh ra đây làm gì một mình và cũng muốn làm cho cô bị bất ngờ. Đến nơi anh đứng sau bụi cây có những cái lá to xanh mướt, nhìn thấy Ngọc Minh hôm nay mặc váy truyền thống có nhiều hoa văn và màu sắc như một cô gái S’tiêng, nhưng đẹp và duyên dáng hơn .
                    Cô đang đi dọc bờ suối, đến những vũng nước bị đọng lại thò tay xuống tìm bắt mấy con cá, cua nhỏ trú ẩn dưới mấy tảng đá, nhìn cô một mình lẻ loi trong dòng con suối nước trong veo thật hồn nhiên thanh thản, Nam bước ra khỏi bụi cây và gọi:
                    -Ngọc Minh làm gì một mình đó?
                    Cô hơi giật mình ngửng đầu lên, mặt ửng đỏ nhìn anh cười:
                    -Anh Nam mời vô hả, làm Ngọc Minh giật mình …
                    Anh hỏi về người phụ nữ vừa rồi để xem có phải là vợ của Điểu Rút không:
                    -Ừ, vừa rồi có một bà người S’tiêng từ trong nhà dẩn tôi ra đây, bà đó là ai vậy Ngọc Minh?
                    -Bà mợ Tranh của Ngọc Minh, vợ của cậu Điểu Rút đó … Ngọc Minh đang lội bắt mấy con cá nhỏ, anh Nam có xuống coi không?
                    -Ừ có, xuống coi bắt cá chứ, mấy con cá này ăn được không?
                    -Nó nhỏ lắm, chỉ bằng ngón tay thôi, phải bắt được nhiều về nấu canh mới đủ
                    Nam xăng ống quần lên và lội đến gần chỗ cô đang thò tay chỉ cho anh, dưới cục đá có một con cá có lốm đốm nâu vàng trên lưng, Ngọc Minh vừa đưa tay đến gần định tóm nó, vụt một phát như viên đạn nhỏ, nó chạy trốn qua khe đá bên kia, cô lại lần mò tìm nó và vừa đưa tay đến gần là con cá nhỏ lại phóng qua ẩn náo dưới hòn đá khác, mỗi lần như vậy, cô ngẩng lên nhìn anh cười và có vẻ thích thú với trò chơi này. Nam cũng thử làm như Ngọc Minh, nhưng lần nào cũng hụt, vì con cá phóng vụt đi, cuối cùng nó lách mình qua khe hẹp giữa hai hòn đá và bơi đi mất.
                    Anh và Ngọc Minh đi dọc theo lòng suối, mực nước mùa này chỉ cao hơn mắt cá chân đôi chút, có nơi con suối bị dòng nước lũ mùa mưa xoáy thành vũng lớn sâu đến đầu gối, cô theo Nam lội xuống nhằm chỗ sâu, bị hụt chân nên đứng không vững, anh đưa tay ra cho Ngọc Minh vịn và cười, mặt cô bổng đỏ ửng lên.
                    Lúc sau Ngọc Minh đến ngồi nghỉ bên một hòn đá phẳng dưới bóng mát bụi tre, Nam cũng bước lên bờ và qua ngồi lên hòn đá ở gần bên, lúc này anh cảm thấy lưng bên phải bị ngứa ngáy như bị một con bọ nào đó chui vào cắn, Nam đưa tay trái ra gãi bên ngoài cái áo kaki và tỏ vẻ khó chịu vì nó, anh nghĩ là vì trời nóng nên mồ hôi đổ ra dính bụi đất làm ngứa rát, Ngọc Minh thấy anh cứ loay hoay với chỗ cái lưng đó, cô nắm vai Nam và nói:
                    -Anh Nam xoay lại cho Ngọc Minh coi chỗ đó cho
                    Anh xoay người lại và kéo cái vạt áo bên đó lên cho cô xem, hai mắt mở lớn với vẻ kinh ngạc:
                    -Một con vắt, để Ngọc Minh bắt nó ra cho
                    Nam hơi ghê người khi nghe cô la lớn, anh cúi khom xuống và gồng cứng một bên lưng, Ngọc Minh lấy một lá cỏ dài và sắc kéo sát da để con vắt rơi khỏi chỗ nó đang bám, bây giờ nó phồng lên thành một cục tròn rớt xuống hòn đá và lăn xuống suối.
                    Anh nhớ lại lúc nằm ẩn mình khá lâu trong hốc cây ẩm ướt, nên con vắt mới có cơ hội bám vào lưng để hút máu, Nam nghe cô cười nho nhỏ và nói:
                    -Lấy cho Ngọc Minh chút ít thuốc lá để cầm máu
                    Anh lấy bao thuốc lá đưa cho cô, Ngọc Minh bẻ một mẫu nhỏ vò cho sợi thuốc mềm ra và rịt nó vào nơi có dấu cắn của con vắt đang còn rỉ máu.
                    -Trả lại thuốc lá cho anh Nam đây, bây giờ biết bị vắt cắn ra sao rồi đó nhe, còn sợ nửa hông – cô vừa hỏi vừa cười
                    Nam cũng phì cười, anh quay ra phía sau nhìn:
                    -Cám ơn Ngọc Minh, vắt cắn mùng ba chắc năm nay hên
                    Anh kéo hai tay áo và ống quần lên cao để xem có còn con nào đang lẩn lút đeo bám không, Ngọc Minh ngồi xem và tự nhiên nhắc:
                    -Anh Nam coi chưa kỹ, lở còn con nào ở phía trên nửa sao, cởi bỏ cái quần dài ra mới thấy
                    Nam thấy bất tiện nên cười tỏ vẻ hài hước:
                    -Chắc không còn đâu, da chỗ đó dầy lắm, nó không bám được đâu
                    Nghe anh nói, Ngọc Minh cũng cười đỏ mặt, trời bắt đầu nóng, từ phía dưới con suối hai đứa nhỏ da đen cháy đang đi ngược dòng nước tìm bắt cua, cá trong các vũng sâu, Nam nhận ra là đã gặp hai thằng nhóc này chiều hôm mùng hai Tết trên đường về ở ngoài buôn, đi gần tới thấy Ngọc Minh, hai đứa lể phép cung tay chào:
                    -Thưa cô Minh
                    -Ừ, hai đứa đi bắt cá hả, đưa cô coi cái giỏ, được mấy con rồi?
                    Thằng em tóc xoăn, hai mắt tròn xoe đưa cái giỏ đan bắng tre vót cho cô, nhìn vào bên trong có năm, sáu con cá nhỏ và ba con cua quýnh quáng bò ngang dọc, thằng anh cao nhòng, có lẻ nhận ra Nam, nó và thằng em cùng cười rồi nói:
                    -Hôm trước con gặp chú này ngoài buôn, chú cho tụi con đu đủ đó cô Minh, nói của cô Minh cho chú
                    Ngọc Minh nghe hai đứa nhỏ nói tỏ ra hơi bất ngờ nhìn anh cười:
                    -À, vậy hả!
                    Nam giả bộ tỉnh bơ cười hỏi:
                    -Về nhà có giành nhau ăn rồi đánh lộn không, ừ mà hai đứa có cám ơn cô Minh chưa?
                    Hai anh em nó mỉm cười lắc đầu, thằng em lanh lẹ nhìn Ngọc Minh:
                    -Tụi con cám ơn cô Minh
                    -Ừ, hai đứa phải nói cám ơn chú Nam nửa nghe, mấy trái đó là cô Minh cho chú Nam rồi
                    Nghe cô nói, hai anh em nó lại cười, thằng anh cung tay nhìn Nam:
                    -Con cám ơn chú Nam
                    -Ừ, K’Chin, K’Lâm hôm nào ghé nhà cô Minh có mít hay ổi chín cô hái cho nghe
                    Hai đứa nhỏ dạ rồi dẩn nhau đi dọc bờ suối lên phía trên, anh hỏi Ngọc Minh:
                    -Tên tụi nó nghe lạ quá hả, hai đứa nhỏ cũng ở trong buôn này hả Ngọc Minh?
                    -Ừ, ba má nó là người Châu Mạ, nhà nghèo lắm, tụi nó hiền, lể phép, thỉnh thoảng hai đứa qua bên nhà nhờ Ngọc Minh chỉ làm toán và đọc chính tả, một đứa học lớp 5, đứa em học lớp 4 ở làng kế bên
                    Nhìn mặt trời lên cao, cô bước xuống lòng suối và nói:
                    -Mình về đi anh Nam, nắng nóng quá!
                    Anh và Ngọc Minh bước xuống lòng suối và đi ngược lên phía trên, Nam đi sau nhìn đôi chân trắng của cô nổi bật giữa cát, đá màu nâu trên nền suối.
                    Về ngang qua vườn cây, cô rẻ vào và dừng lại gần mấy cây mận trái đeo đầy các nhánh thấp, Ngọc Minh hái một trái chín đỏ nhìn rất ngon mắt đưa cho anh:
                    -Anh Nam ăn đi, mận ngọt lắm, Ngọc Minh hái nhiều nhiều để chiều anh Nam đem về nhà ăn
                    Nam cắn thử thấy ngọt lịm, anh lấy cái nón để đựng, cô đi tiếp sâu vào bên trong qua hàng mít, đến chỗ những cây lêkima, vài trái chín rục rơi xuống bị thú rừng ăn phân nửa nằm lăn lóc trên mặt đất, những trái chín còn lại thì cao hơn tầm tay, anh bỏ cái nón xuống nền cỏ và nhìn lên cây, Nam cười nói:
                    -Để trèo lên hái mấy trái chín gần bên dưới này
                    Ngọc Minh cười nhìn anh trèo lên cái nhánh cây to và đưa tay cố gắng với tới hai trái màu vàng ngoài xa, nhích thân mình lên cao thêm một đoạn, Nam nắm cái nhánh nhỏ, vặt ngang và thả nó vào tay Ngọc Minh bên dưới, rồi chuyển qua cành kế bên hái thêm vài trái, cô nói:
                    -Lêkima được nhiều rồi đó anh Nam xuống đi
                    Nam tụt xuống cái nhánh to, thả người đu tòn ten và buông tay nhảy xuống đất, bỏ mấy trái lêkima và mận chín vào trong gùi, Ngọc Minh chưa chịu nghỉ, cô chỉ tay về phía vườn điều dầy đặc trái đỏ, vàng:
                    -Ngọc Minh hái hột điều về nướng ăn ngon lắm – nói xong nhìn Nam cười
                    Anh và Ngọc Minh đi dưới tàng cây có những chiếc lá xanh, to mát mắt, cô nhanh tay vặn những cái hột nằm trơ trọi bên ngoài được hơn một chục, chất nhựa chảy ra dính lấm lem hai bàn tay.
                    Ngang qua chỗ cây mít, cô còn muốn hái thêm trái mít chín, nhưng sợ anh vừa gùi, vừa khiêng không hết nên cả hai đi luôn về nhà.
                    Vừa bước lên nhà, Điều Rút thấy Ngọc Minh và Nam lỉnh kỉnh với mớ trái cây vừa hái bỏ đầy trong cái gùi, liền cười nói:
                    -Ái cha, nhiều quá ăn sau hết Ngọc Minh
                    -Dạ, để chiều anh Nam ăn dọc đường và đem về ngòai đó cậu
                    Bà vợ Điểu Rút bên trong gian bếp cũng chạy ra:
                    -Gần trưa rồi, để cậu Nam ngồi nghỉ, chút nữa ăn cơm rồi buổi chiều còn đi về, nhà cậu ấy ở xa mà
                    Nam ngồi phía trước nói chuyện với Điểu Rút, còn Ngọc Minh đi vào gian trong làm bếp, nấu nướng với bà dì, Điểu Rút đưa tay nhón lấy trái mận Nam và Ngọc Minh vừa hái về ăn và khen:
                    -Mấy cây mận đó lấy giống từ ngoài đồn điền đem vô đây trồng đó cậu Nam, mẹ của Ngọc Minh thích nó lắm
                    -Lúc còn chiến tranh, Ngọc Minh với gia đình có hay vào trong này không cậu Điểu Rút?
                    -Tui nhớ chỉ có ba, mẹ Ngọc Minh vô một, hai lần thăm gia đình, bà con trong này vì đường đi không được an ninh, lúc đó tui cũng ở trong trại, ít về buôn … lâu lâu có công việc hay được nghỉ phép, tui ra thăm ba, mẹ Ngọc Minh ngoài thị xã An Lộc
                    -Xã này có nông trường cao su không cậu Điểu Rút?
                    -Xã Minh Biên này phần nhiều là đất rừng, độ dốc lớn nên người Pháp không khai phá làm đồn điền cao su như bên Minh Thạnh, nghe nói sắp tới trên tỉnh lấy đất rừng ở đây mở thêm vùng trồng cao su để xuất khẩu … lúc sáng vô đây chú Nam có gặp Điểu Sơn không?
                    -Dạ, sáng nay không ghé qua nhà Điểu Sơn
                    -Điểu Sơn là bà con xa với tui và mẹ Ngọc Minh, có người em tên Điểu Chắc đi lính cùng đơn vị, nên thân nhau như anh em, Điểu Sơn cũng biết rành về cây cỏ dùng làm thuốc trong rừng, có khi rủ tui băng rừng suốt bốn, năm ngày lên tận Phước Long, Ban Mê Thuột tìm cây thuốc quí, Điểu Sơn đi rừng và săn bắn giỏi lắm
                    -Lúc cậu chuyển qua lính biệt động quân với Ba Du rồi mới biết anh Ba và thân với nhau?
                    -Ừ, tụi tui qua đó ở chung đại đội, thân với Ba Du vì tính ảnh dể mến, thân tình với anh em, lúc nghỉ phép hay rủ tui và Điểu Sơn về thăm nhà và xuống Saigon chơi mấy lần
                    Ngọc Minh từ trong gian bếp chạy ra nhìn Nam cười nói:
                    -Cậu với anh Nam vô ăm cơm luôn, mợ và cháu làm xong rồi
                    Điểu Rút đứng dậy kêu Nam đi vào nhà trong, mấy ống cơm lam trong ống tre to bị nấu trên lửa cháy sém đen vỏ bên ngoài, thịt heo xiên nướng tỏa mùi thơm khắp gian bếp và mấy trái bắp cuối mùa nướng chín được bày ra trên sàn tre.
                    Ngọc Minh lấy dao rọc vỏ ống tre, cắt cơm nếp thành từng khúc nhỏ bỏ trên dĩa, đang đói bụng, Nam ăn thử với muối ớt, nó có vị rất lạ và ngon, cảm thấy hai vợ chồng người S’tiêng chăm lo cho mình kỹ càng quá, Nam tỏ ra áy náy:
                    -Để cháu tự nhiên mới ăn được nhiều hơn
                    Cả Điều Rút và bà vợ với Ngọc Minh nghe anh nói đều cười, cô lém lỉnh chọc Nam:
                    -Anh Nam ăn bù cho lúc sáng bị vắt cắn không thôi chiều lội rừng về không nổi
                    -Ừ, không về nổi thì xin cậu Điểu Rút vào nhà trong của Ngọc Minh ngủ lại mai về - anh giả bộ cười trả lời
                    -Ngủ một mình chỗ lạ anh Nam không sợ sao?
                    Nam cười nhìn cô lắc đầu:
                    -Ngủ say rồi đâu biết gì nửa mà sợ …
                    Vợ chồng Điểu Rút ngồi ăn, nghe Nam và Ngọc Minh nói chuyện cũng cười, cô thò cây tre vào đống than còn nóng trong bếp khều ra mấy hạt điều nướng cháy đen vỏ bên ngoài:
                    -Ừ, ăn xong còn hạt điều nướng nửa nè, mùa tới này mình để lại một ít rang ăn nghe cậu
                    Điểu Rút nghe cô cháu nói gật đầu, hai vợ chồng ông ta có vẻ thương yêu Ngọc Minh nhiều, Nam nghĩ ngợi, ít ra cô cũng còn có niềm vui và hạnh phúc ở nhà người cậu để cuộc sống côi cút của cô trong cái buôn lẻ loi này bớt đi buồn tủi.
                    Riêng hôm nay trong bụng Điểu Rút rất vui vì thấy ngày Tết mà Nam vào thăm cô cháu gái của mình, nhận thấy cách chàng trai người Việt đổi cách xưng hô gọi mình bằng cậu, nên ông hiểu tình cảm sâu đậm mà anh dành cho Ngọc Minh.
                    Điểu Rút mong một ngày nào đó điều mình ước muốn trở thành sự thật, vì biết Ngọc Minh không thể sống hoài trong cái buôn hẻo lánh này, cô sẽ phí phạm cuộc đời nếu còn ở đây.
                    Điểu Rút nghĩ sẽ sẵn sàng làm mọi việc để đứa con gái duy nhất của người chị ruột có cuộc sống hạnh phúc trong những năm về sau, ông cầu trời ban phước cho Ngọc Minh, còn bà Tranh vợ của ông cũng tỏ ra yêu mến chàng trai này nên chăm sóc Nam rất kỹ.
                    Mọi người chiếu cố tận tình món cơm lam và thịt heo nướng xiên, ăn xong Nam thấy mấy trái lêkima chín ngon mắt quá, vì đã được ăn lêkima nhà Hai Tuất cho, thấy nó rất ngon và bùi, anh thò tay lấy lêkima vừa hái lúc sáng bẻ làm hai, đưa nửa trái cho Ngọc Minh:
                    -Cho Ngọc Minh nửa trái vì là chủ vườn nè
                    Trái lêkima ở trồng ở trong này dầy cơm và ngọt, Nam lấy thêm trái nửa ăn ngon lành, Ngọc Minh cười nhìn anh nói:
                    -Anh Nam ăn nhiều quá coi chừng bị say đó, đầu bị quay như mấy ông uống rượu
                    -Ừ, vậy hả, lêkima ăn nhiều tốt đỡ tốn cơm – anh nói đùa rồi cười
                    Vừa lúc đó Điểu Sơn bước vào nhà, thấy Nam đang ngồi ăn trưa với nhà Điểu Rút, đến ngồi gần bên hỏi:
                    -Có chú Nam ở ngoài rẩy, khi nào anh Ba Du lên chú Nam nhắn vô trong này chơi nghe
                    -Dạ, mùng năm anh Ba lên, tui sẽ nhắn lại cho anh Điểu Sơn
                    -Điều Sơn ăn cơm chưa, còn nhiều cơm và thịt heo nướng bà xã tui và Ngọc Minh nấu nướng đây
                    -Tui có ăn ở nhà rồi, sáng nay bên nhà có làm thịt con gà
                    Trả lời xong, Điểu Sơn lấy trái mận ăn rồi nhìn Điểu Rút nói:
                    -Tui nghe mấy tay trên xã nói sắp tới huyện sẽ giao cái hồ nước cho nông trường cao su bên xã Minh Thạnh quản lý, có thể giữa năm nay …không biết có đúng không?
                    Mọi người lắng nghe với vẻ chăm chú, bất ngờ nhất là Nam, Điểu Rút nhìn Điểu Sơn nói chậm rải:
                    -Để gặp và nhờ Ba Du ra hỏi mấy ông trong nông trường coi có phải vậy không … hồ rộng lắm nông trường quản lý sao hết … chắc nó dính dáng chuyện trên tỉnh sắp tới cho phá rừng lấy thêm đất để trồng cao su thôi
                    Nam hơi lo lắng trong đầu, nếu điều hai người đàn ông S’tiêng nói là sự thật, thì chỗ đất rẩy của anh và Ba Du có thể bị xã lấy lại, họ sẽ buộc anh và Ba Du chuyển đến một khu rừng nằm ở nơi xa tít tắp nào đó, và quan trọng nhất là phải bỏ lở việc tìm kiếm hai cái thùng đồ cổ, như vậy thì thật uổng phí công sức lâu nay. Nam bắt đầu thấy lo lắng và tiếc, qua Tết này phải tìm cách làm cho nhanh … còn nếu kéo dài thì nguy cơ bị chính quyền cho xe ủi vào phá rừng để trồng thêm cao su, và nếu chuyện họ giao cho nông trường quản lý hồ nước xảy ra thật, mọi việc coi như thất bại.
                    Ngọc Minh có vẻ quan tâm và nét mặt tỏ ra lo lắng, cô lờ mờ hiểu chuyện đó sẽ ảnh hưởng đến khu đất rẩy và chỗ ở của Nam, còn rừng bị khai phá dần dần sẽ biến mất và người dân trong buôn không còn chỗ để săn bắn, đào củ … để sinh sống.

                    (còn tiếp)

                    Comment


                    • #11
                      Không khí đầu năm bị phủ một làn mây xám mỏng vì những tin tức không hay mà Điểu Sơn vừa cho biết, Điểu Rút nhìn Điểu Sơn hỏi:
                      -Có tin gì về chuyện dời mấy buôn đi qua chỗ này hay chỗ kia không?
                      Điểu Sơn lắc đầu và nhíu mày trả lời:
                      -Không nghe gì về việc buôn làng phải đi, nhưng mấy hôm nay vô rừng thấy có xe máy cày của nông trường đang kéo cây lớn bị đốn ra ngoài đường vào buổi chiều tối, không biết mấy ông này là người của nông trường hay huyện?
                      Nghe nói, anh nhớ lại lúc gặp ba tay đàn ông lạ và chiếc máy cày đỏ đang kéo hai súc cây to, trong đó có một tay Nam nghi là công an xã, họ đánh hơi được những tin tức này trước, nên nhanh tay đốn lậu gổ trong lúc tranh tối, tranh sáng này, Nam im lặng vì biết có nói ra cũng không được ích lợi gì.
                      Như vậy sắp tới có thể có nhiều biến động lớn xung quanh vùng hồ, những buôn thượng nằm ở nơi xa xôi như buôn này chưa chắc họ để yên.
                      Dân Saigon như anh vẩn còn nhớ sau năm 75, chính quyền mới dùng chính sách cải tạo thương nghiệp để xóa sổ các gia đình buôn bán lớn nhỏ ở miền nam, và sau đó ép họ phải đi về các vùng kinh tế mới khỉ ho, cò gáy, gây nên thảm trạng cho hàng triệu người. Vì vậy với những buôn làng ở nơi rừng núi hẻo lánh này, dân số chỉ vài trăm người, khi cần họ sẽ không ngần ngại ra tay.
                      Điều Rút và Điểu Sơn ngồi với vẻ trầm ngâm, Nam biết họ đang lo lắng cho tương lai gia đình, buôn làng nơi mà từ xa xưa người S’tiêng, Mạ … đã sinh sống bao đời, anh nhìn qua Ngọc Minh, thấy cô ngồi tựa cằm lên hai gối chăm chú nhìn về phía vườn cây gần con suối, Nam lấy một trái mận chín đưa cho cô, Ngọc Minh cười lắc đầu:
                      -Anh Nam ăn đi
                      Cô thò tay bốc mấy hột điều nướng trong bếp đưa cho anh, Nam bóc bỏ lớp vỏ cháy đen bên ngoài, ăn hột chín vàng bên trong thấy rất bùi, thơm ngon, chợt Điểu Sơn hỏi anh:
                      -Ngoài nhà chú Nam và Ba Du có nghe xã thông báo gì không?
                      -À, chưa nghe xã nói gì anh Điểu Sơn, chắc họ con giử kín tin này, mấy người quen với anh Ba Du ngoài nông trường có thể biết …
                      Nhìn ra trời bên ngoài, Nam đoán khoảng hai, ba giờ chiều, Điểu Sơn đứng dậy đi về, chủ nhà Điểu Rút cũng đứng lên, cả hai bước theo từng bậc của cái thang xuống đất và đi về phía nhà già làng.
                      -Tôi đi về nhé Ngọc Minh, chiều rồi – anh nói
                      -Ừ, anh Nam đi qua rừng để ý cẩn thận nhe, có gặp mấy ông đốn cây trong đó thì tránh hoặc đi qua thật nhanh, khi nào chú Ba Du ở Saigon lên, thì anh Nam đi cùng với chú Ba vô buôn
                      Anh nhìn cô cười gật đầu:
                      -Cũng không sao, tôi chỉ đi ngang qua chổ họ thôi
                      -Để Ngọc Minh bỏ mận, lêkima vô gùi, tối về nhà ăn, ừ… thêm nước vô chai để uống dọc đường nửa
                      Bà Tranh đã vào ngủ trưa trong cái phòng nhỏ, Nam đứng dậy đeo gùi lên vai và ra cửa xuống thang, Ngọc Minh đi theo sau và theo đưa chân anh ra đến đầu buôn.
                      Đi được một đoạn, Nam và Ngọc Minh gặp bốn, năm đứa nhỏ, có đứa ở trần, chỉ mặc cái quần đùi cũ, tóc cháy sém, đen đúa đang chơi đánh khăng ở miếng đất trống gần bải cỏ. Lần đầu tiên vào buôn anh mới thấy mấy đứa nhỏ vui chơi trên đường làng, thấy Ngọc Minh đi tới, bọn nhóc la lớn:
                      -Cô Minh!
                      Ngọc Minh và Nam đi chậm lại, cô nhìn tụi nó cười nói:
                      -Ừa, mấy đứa chơi vui quá há
                      Hai anh em K' Chin, K' Lâm cười mím, nhìn Nam và Ngọc Minh rồi nói với mấy đứa kia:
                      -Chú Nam bạn cô Minh đó, hôm kia cho tao trái đu đủ đó
                      Mấy đứa nhóc nhau nhau lên:
                      -Hôm nào có trái cây cho tụi con nghe cô Minh
                      -Ừ, hôm nào qua nhà cô học, có trái cây cô Minh sẽ cho
                      Hai đứa con gái nhỏ mặc y phục S’tiêng sặc sở, trên môi nở nụ cười rất hồn nhiên, dể thương, chạy tới nắm tay Ngọc Minh đi theo ra tới đầu buôn, Nam đưa tay lên chào, mỉm cười:
                      -Ngọc Minh đưa đến đây được rồi, đi về với tụi nhỏ nhé
                      Cô đưa tay vẩy nhẹ và đứng nhìn anh đi xa dần lên phía con dốc, lên gần đến đỉnh đối, Nam dừng lại và đưa tay chào từ biệt một lần nửa và ra dấu cho Ngọc Minh đi về nhà, và bước nhanh qua bên kia theo đường mòn đi vào dưới tán rừng.
                      Chiều nay Nam ra về hơi sớm hơn, đã vào mùa khô nên bầu không khí trong rừng dưới tàng lá dầy ngột ngạt, oi bức, tiếng đàn vẹt kêu ồn ào trên các cành cây cao làm cho anh thấy yên tâm, tuy vậy Nam vẩn cẩn thận vừa đi vừa nghe ngóng xem có tiếng động nào khác thường.
                      Anh đi tiếp, dù mồ hôi đổ ra làm ướt lưng áo, vượt qua con suối nhỏ đầu tiên, Nam chỉ dừng lại trong chốc lát, vốc nước suối rửa mặt cho đỡ nóng và nhúng cái nón vải xuống nước, vắt nhẹ cho khô và đội nó lên đầu, cách giải nhiệt này khá hiệu quả, làm anh thấy dể chịu.
                      Xốc lại cái gùi trên lưng Nam đi theo lối mòn chạy ngoằn ngoèo lên dốc qua khu rừng thưa. Những tảng đá lớn nằm rải rác đó đây bị nung dưới ánh năng mặt trời từ buổi sáng đến chiều, đang tỏa ra hơi nóng, Nam sờ tay vào thấy nó âm ỉ như cục than trong bếp.
                      Đi thêm một đoạn đường dài sắp đến nơi đổ dốc xuống con suối kế tiếp, vừa bước vòng qua khỏi một tảng đá, bất ngờ anh chạm mặt với một người đàn ông Thượng trạc tuổi Điểu Sơn, ông ta cởi trần, đóng váy, lưng đeo gùi và tay cầm rựa, đang đi ngược lên về phía anh. Khoảng cách giữa hai người chỉ khỏang ba, bốn mét, Nam nhìn người đàn ông gật đầu chào và tiếp tục đi tới, lúc đi ngang qua nhau, ông ta nhíu mày nhìn anh rồi lại lầm lủi bước đi. Nam ngoái cổ lại nhìn, dáng đi và bước chân ông ta nhanh nhẹ đi trên lối mòn nhỏ qua rừng, cuộc sống của họ đã gắn chặt vào rừng từ bao trăm năm nay, những khu rừng này lâu nay cũng là nhà của họ.
                      Xuống dốc qua khỏi con suối, Nam đi chậm lại và lấy chai nước ra uống vài ngụm cho bớt khô cổ họng, vừa đi vừa suy nghĩ về những cái tin anh mới nghe trong buôn, nếu Ba Du ra ngoài xã dò hỏi thêm Năm Bình thì sẽ biết chắc chắn là tin đó có thật không.
                      Nếu chính quyền trên tỉnh bắt đầu cho phá rừng từ giữa năm nay, thì thời gian chỉ còn được gần ba, bốn tháng nửa thôi, theo Ba Du nói thì mực nước hồ thấp nhất là vào tháng 5, cuối mùa khô, vậy làm sao cho nó xuống sớm hơn vào tháng 3 hay tháng 4 là tốt nhất.
                      Suy nghĩ đến đây, Nam chợt nhớ có lần Ba Du nói với anh, Năm Bình cũng là nhân viên trong nông trường theo dõi việc xã nước từ hồ xuống phía dưới con đập, nếu Ba Du tham gia và thuyết phục Năm Bình làm việc này thì không biết có trót lọt không, vì trước nhất Năm Bình sẽ muốn biết lý do vì sao Ba Du nhờ mở cửa xả nước. Nhưng Nam biết nó nguy hiểm vì Năm Bình không thể tự ý làm một mình, mà phải có lệnh của xã, huyện hay từ ban nông nghiệp mấy xã phía dưới kia.
                      Nhìn mặt trời nắng gay gắt ở phía tây, Nam nghĩ biết đâu, ông trời ra tay, mùa khô năm nay đến sớm và dử dội hơn tất cả mọi năm, dân thiếu nước làm ruộng, làm rẩy bắt buộc phải mở cửa đập sớm và kéo dài hơn. Đầu óc Nam mải miên man suy nghĩ, anh đi qua trảng cỏ và đến con suối lớn mới dừng lại nghỉ chân một lúc, lấy bao thuốc lá ra châm điếu cuối cùng, rồi đeo gùi lên vai.
                      Bước theo con đường mòn đi vào khu rừng già thấp thoáng trong bóng chiều tà, nhớ lại lúc gặp mấy tay đàn ông vào buổi sáng nay, Nam bước nhanh nhưng đôi tai vẩn cẩn thận lắng nghe xung quanh, đi ngang qua chỗ gặp chiếc xe máy cày kéo gổ, khu rừng vẩn yên tĩnh, tiếng con chim lạ kêu trong rừng chiều âm u nghe buồn bả, thê lương vọng ra từ những thân cây cao nằm sâu bên trong. Nam đi ngang qua và nhìn về phía cái cây to, bị dây leo quấn rậm rịt, nơi có xương cốt người lính tử trận, anh đưa tay sờ vào túi quần sau, cái thẻ bài vẫn còn nằm ở đó, Nam cầu mong cho linh hồn anh được siêu thóat và hứa sẽ quay lại để chôn cất anh đàng hoàng. Ra khỏi khu rừng vắng, anh đến bờ hồ, nhìn cây cỏ xung quanh bờ, thấy khung cảnh yên tĩnh, anh kéo chiếc xuồng xuống nước và nhảy lên bơi về phía hạ lưu.
                      Về đến nhà, Nam cột xuồng vào bụi cây, nhìn mực nước rồi so sánh nó với hồi anh mới vào đây lúc tháng mười năm rồi, mực nước hồ mới giảm xuống một ít. Anh cởi cái áo và cái quần dài bỏ lên bờ rồi nhảy xuống tắm, nước hồ mát lạnh cuốn trôi lớp bụi bặm và cái nóng ngột ngạt đeo bám theo anh về đến đây từ trong rừng già, Nam lấy tay sờ vào chỗ con vắt cắn hồi sáng ở sau lưng, nó hơi sưng, rát một tí và làm ngứa ngáy.
                      Nhớ lại nụ cười của Ngọc Minh, Nam cảm thấy mỗi lúc một yêu mến cô hơn, anh suy nghĩ, dù công việc tìm hai thùng đồ cổ không thành, anh ước mơ Ngọc Minh sẽ đồng ý về sống với anh ở Saigon, hy vọng cô sẽ gật đầu.
                      Con Đốm nằm trong sân, biết anh đã về nên chạy xuống bờ hồ sủa văng vẳng, lát sau con Ki cũng chạy băng qua ngang qua khu rừng chồi, đến chổ Nam đang tắm, nó phóng mình xuống mặt nước bơi ra, còn con Đốm vẩn sợ hãi, nên ngồi trên bờ nhìn anh và con Ki sủa ỏm tỏi.
                      Buổi chiều những cơn gió lạnh âm thầm thổi qua rừng cây, Nam cầm quần áo bỏ vào cái gùi và theo con đường về nhà, bên kia hồ mấy ngôi nhà nhỏ trong xóm Hai Tuất ẩn hiện lờ mờ qua sương chiều trông thật ảm đạm, tiêu điều.
                      Nam đến chỗ cái thùng rộng cá ở sau nhà, bắt một con cá và nhanh tay làm thịt, nhóm bếp lửa rồi bỏ vào chảo rán, nấu thêm nồi cơm nhỏ độn bắp, và một ít đậu, bỏ thêm vài củ khoai lang vào than nóng cho chín để bửa sáng mai ăn.
                      Ăn tối xong, anh ra sân lôi mấy cái gốc cây cháy dở còn lại chất vào một góc, rồi đốt thành đống lửa sáng rực trong đêm tối.
                      Quay vào nhà tìm bao thuốc lá, anh sực nhớ buổi chiều, lúc trên đường về đã hút hết điếu cuối cùng, tối nay đành nhịn, nếu ngày mai Ba Du lên sớm, thì khỏi phải ra xã mua, vì lúc nào Ba Du cũng có sẵn, còn không sáng mai, chịu khó lội bộ ra mấy quán tạp hóa ngòai đó mua một, hai bao, sẵn mùng bốn Tết ghé thăm Năm Bình.
                      Đống lửa ngoài sân gặp cơn gió thổi thốc qua bùng lên nổ tí tách, làm bắn ra những tàn lửa đỏ như đám pháo bông nhỏ, thỉnh thoảng một đoạn tre khô bị nung cháy nổ vang thành một tiếng to như pháo đại, làm con Đốm đang nằm dưới chân Nam giật mình, nó sủa tóang lên và hoảng hốt bỏ chạy ra trốn sau khúc gổ anh đang ngồi.
                      Đang ngồi nghĩ ngợi về mớ tin tức nghe lúc chiều và công việc sắp tới, xung quanh bóng tối đang xuống dần, con Ki đột nhiên gầm gừ vài tiếng, rồi chạy ra con đường xuống bờ hồ, con Đốm cũng chạy ra kế bên, hếch cái mỏm về hướng đó rồi sủa. Nam nhổm người dậy nhìn ra, hình như có ai vừa cập xuồng vào gần chiếc xuồng của Ba Du, bán tín, bán nghi, Nam cầm thanh tre đang cháy dợm bước xuống đó xem có chuyện gì. Nhìn qua màn đêm mờ mờ tối, hình như Hai Tuất đang đi tới, hai con chó thấy người lạ nên sủa dử, có tiếng gọi tên anh:
                      -Chú Nam ơi, Hai Tuất đây, lửa củi gì mà sáng rực như pháo vui quá vậy
                      Anh mỉm cười, Tết mình chưa sang thăm, thì ổng đã qua đây rồi, Nam đứng dậy ra hàng mít chờ, Hai Tuất chân phải hơi khập khiểng đi tới, nhìn anh cười tươi tỉnh, tay cầm cái bình nhựa nhỏ, Nam đoán chắc là qua đây rủ anh lai rai đây
                      -Dạ, cơm tối rồi không làm gì ra đây đốt lửa ngồi cho sáng sủa, anh Hai Tuất chắc cũng cơm tối xong rồi?
                      -Ừ, xong rồi, Ba Du chưa lên phải không, đang ngồi bên nhà lai rai nhìn qua đây thấy đốt lửa cháy sáng rực, biết chú có một mình nên bơi qua rủ lai rai nói chuyện cho hết mùng ba đây – Hai Tuất nói xong cười thỏai mái
                      Hai người đến ngồi trên khúc gổ, Hai Tuất chắc cũng đã uống chút đỉnh ở nhà, Nam vào nhà lấy ra hai cái ly, Hai Tuất lôi ra từ túi quần một gói giấy và nhìn anh cười:
                      -Có mồi đậu phụng bà xã hay rang sẵn bỏ trong hũ, mình lai rai đi chú Nam
                      Ông ta rót rượu đế vào hai cái ly, hai người cùng cầm ly lên, Hai Tuất nói:
                      -Chúc mừng năm mới, vạn sự như ý nhé chú Nam!
                      -Chúc gia đình anh vui vẻ, nhiều may mắn!
                      -Hôm mùng một, mùng hai tôi và bà xã đi thăm bà con đến xẩm tối mới về đến nhà, nhìn qua bên này thấy lửa cháy sáng, nhưng đi đường mệt mỏi, đến chiều tối nay rảnh rỗi mới lấy xuống bơi qua đây, Ba Du có nói khi nào lên trở lại không, mọi năm chừng mùng ba, mùng bốn là ổng lên rồi!
                      -Anh Ba Du nói mùng năm, nhưng có thể ngày mai, mùng bốn
                      -Mấy ngày Tết chú Nam có đi ra xã hay đi đâu chơi không?
                      -Dạ, có đi vào buôn bên xã Minh Biên chơi đến chiều về
                      Nam đang suy nghỉ có nên hỏi Hai Tuất về vụ cái hồ và tỉnh sẽ cho phá rừng lấy đất trồng thêm cao su, nhưng Hai Tuất đã hỏi anh trước:
                      -Chú Nam có nghe trong đó biết tin về vụ tỉnh lấy thêm đất rừng để trông cao su, và huyện giao cho nông trường quản lý cái hồ không?
                      -Có nghe Điểu Sơn nói xã trong đó cũng đã biết, trong buôn có vẻ lo lắng lắm, còn xã bên anh Hai có biết chuyện này không?
                      -Cũng vậy, nếu tỉnh phá rừng lấy thêm đất để trồng cao su, dân của hai xã nằm dọc bờ hồ cũng sẽ bị thu hồi đất rẩy đang trồng trọt, còn khi xã vào quản lý cái hồ này thì dân nghèo cũng hết đường sống, rồi cũng phải ra đi thôi …
                      Hai Tuất nhắm mấy hạt đậu, cầm ly lên:
                      -Thôi uống chú Nam, bây giờ tới đâu hay tới đó …
                      Nam dốc cạn ly rượu đế, những giọt rượu cay nóng chạy xuống đến tận dạ dày, anh nhìn Hai Tuất:
                      -Nghe nói đến khoảng tháng 6, tỉnh sẽ cho xe ủi vào làm đường, chặt dọn cây rừng … đúng không?
                      -Có lẻ vậy, mấy tay cán bộ ở huyện và xã đã biết trước tin này, nên nghe dân đi rừng nói tụi nó đã cho người vào rừng chọn cây gổ tốt đốn hết rồi, chứ đâu để yên … còn dân thì mai mốt không biết về đâu, làm gì để sống …
                      Anh ngồi suy nghĩ, vậy là tin này đã đồn ra khắp ba cái xã quanh hồ này rồi, sau Tết tình hình hư thực ra sao, chắc sẽ rỏ ràng. Hai Tuất dốc hết rượu trong cái bình nhựa ra hai cái ly và nói:
                      -Ngày nào Ba Du lên, chú Nam nói tôi mời hai anh em qua bên nhà nhé, kỳ này có món đặc biệt, dân trong làng bẩy được con nhím họ đem đến cho, tui còn nhốt trong lồng tre, Tết có món thịt rừng đổi khẩu vị cho là lạ một chút
                      -Dạ, anh Ba mùng năm lên tôi sẽ nói
                      -Thôi cũng tối tối rồi, tôi đi về đây …
                      -Anh Hai chờ một chút, tôi châm gốc tre làm đuốc cho sáng để thấy đường dể đi…
                      Nam lấy hai đoạn tre khô mồi lửa cháy thành đuốc và đi trước dẩn đường với hai con chó, Hai Tuất chầm chậm theo sau, tới bờ hồ anh kéo chiếc xuồng xuống nước, cắm cây đuốc vào phía đầu xuồng, Hai Tuất lên ngồi phía sau và chèo chậm rải ngang qua hồ, ngọn lửa từ đuốc tre cháy sáng lung linh trên mặt hồ và từ từ xa dần, Nam và hai con chó đứng nhìn cho đến khi nó chỉ còn là đốm sáng nhỏ mới quay về nhà.
                      Sáng mùng bốn bầu trời khá âm u, có vẻ như sắp có đợt gió đông cuối mùa từ các cao nguyên ở phía bắc muộn màng thổi qua đây, Nam đi qua nhà Ba Du xem xét một vòng cửa nhà trước sau, rồi vào vườn cây xem có trái cây chín thì hái, còn không thì thú rừng và dơi, chuột cũng vào ăn cắn phá, đi ngang cây mít thấy có một trái chín trên cành thấp nứt toát, bị ăn mất một góc nhỏ, anh quay vào lấy dao ra cắt nó đem về nhà.
                      Nam vào nhà lấy cái nón, khép cửa sau và cửa trước rồi lấy xuồng bơi ra ngoài xã, khu làng của anh và Ba Du ngày tết cũng như ngày thường, không khí vắng lặng, thỉnh thoảng mới gặp một người đi trên đường, hay chiếc xuồng bơi lẻ loi trên mặt hồ.
                      Đến gần cây me tây, anh tìm chỗ cặp chiếc xuống vào bờ và cột dây vào mấy nhánh rể của, đi ngang qua trạm gác, mấy cái cửa lớn, nhỏ đóng kín mít, ba cái cửa sắt của con đập đang được đóng lại để chặn dòng tích nước cho mùa khô sắp tới.
                      Anh đi về phía mấy cái quán tạp hóa gần trung tâm xã, vừa qua khỏi ngôi nhà dùng làm văn phòng ủy ban, đến ngang trụ sở của đội du kích và công an, hai tay du kích trạc 18 – 20 tuổi đeo hai cây súng trường CKC, đang đứng gác bên đường nhìn Nam vừa đi tới, liền đưa tay ra chận và ngoắc anh lại, tay thấp người, to con, mặt hơi dữ nói:
                      -Anh cho tôi kiểm soát giấy tờ!
                      Nam hơi bất ngờ, vì từ lúc về đây đến bây giờ, anh chưa bị ai xét hỏi giấy tờ lần nào, đưa vào túi quần sau, móc cái bóp da cũ kỹ, tơi tã mà tuổi đời của nó cũng đã năm, sáu năm, anh lấy chứng minh nhân dân đưa cho hắn ta, hai tên cầm xem tên tuổi và cái hình nhỏ, lật qua lại rồi nhìn anh hỏi:
                      -Ở đâu, còn giấy tờ nào khác không?
                      Nam gật đầu, anh lục bóp lấy giấy chứng nhận sang nhượng đất với người chủ cũ có đóng dấu của ủy ban và bên nông nghiệp xã, xem xong tay du kích kia có vẻ muốn trả lại giấy tờ và để anh đi, nhưng tay to con nhíu mày nhìn lướt qua anh như dó xét và hỏi:
                      -Anh có giấy tờ gì cấp chứng nhận miển đi bộ đội không?
                      Vì cũng quen với nhiều lần qua các trạm bị hỏi kiều này nên anh gật đầu, lục bóp lấy ra tờ giấy của quận Phú Nhuận xác nhận được miển thi hành nghĩa vụ do bị thương tật nặng, đọc xong hắn vẩn bán tín, bán nghi vì thấy vóc dáng Nam khỏe mạnh, bình thường, có lẻ hắn định bắt anh vào trụ sở bỏ cái quần dài ra để xem cái vết sẹo ở chân phải, nhưng lần lữa chưa kịp “o ép” anh, thì Tư Có và một tay công an đeo sắc cốt từ trong trụ sở bước ra, tay du kích tỏ ra hơi khớp vì nảy giờ hỏi han giấy tờ Nam quá kỹ, hắn trả lại giấy tờ cho anh, và bước lui vào trong đứng với tay kia.
                      Nam bỏ cái bóp vào túi quần rồi đi tiếp đến cái quán tạp hóa gần đó mua hai gói thuốc lá, bà chủ quán trung niên nhìn anh mỉm cười nói nhỏ:
                      -Cái thằng cha đó khó chịu ghê, mới mùng bốn Tết mà xét hỏi giấy tờ gần cả tiếng, dân trong xã này ghét nó lắm … đồ 30 !
                      Anh trả tiền rồi cười mỉm và đi ngược về quán cà-phê của Năm Bình, sực nhớ tới tay công an vừa gặp lúc nảy đi với Tư Có, đúng là ông ta trong nhóm đốn gổ lậu anh gặp trong rừng hôm qua, may mà Nam không bị phát hiện, nếu không thì anh khó có thể sống yên trong xã này.
                      Quán Năm Bình chưa bán, nhưng thấy cánh cửa hé mở, làm anh hơi lưỡng lự, nhìn trời đoán chắc đã hơn 8 giờ sáng, Nam đẩy nhẹ cửa, nghiêng đầu nhìn vào trong quán gọi:
                      -Anh Năm ơi!
                      Chờ vài phút không thấy ai ra, anh gọi thêm lần nửa, có tiếng chân người bước ra, Năm Bình thấy Nam liền nói lớn:
                      -Ai cha, chú Nam hả, vào đây uống cà-phê đi, lúc nảy mở cửa xong tôi lại bận công việc bên trong …
                      -Dạ, Tết ghé qua thăm anh, nông trường cho nghỉ Tết đến chừng nào đi làm lại anh Năm?
                      -Thường thì hết mùng năm, nhưng nói vậy thôi, công nhân họ nghỉ hết mùng mười mới chịu vô làm … Tết nên mấy ổng cho co giản một chút, chú Nam chờ chút xíu nhé, tôi vào pha cà-phê mang ra đây uống nhé
                      Ngồi một mình Nam lấy thuốc ra hút, anh dự tính sáng nay nếu có dịp sẽ hỏi về mấy cái tin tức đang âm ỉ trong mấy cái làng, buôn quanh hồ. Mùi cà-phê thơm lừng bay trong không gian, Năm Bình bê hai cái ly đen đi ra và để lên cái bàn sát góc quán chỗ anh ngồi, anh lấy bao thuốc mời ông ta.
                      -Mấy ngày Tết vừa rồi chú Nam ở trong rẩy hay có đi đâu chơi không – Năm Bình hỏi
                      -Có vào buôn chơi hai ngày, còn lại thì ở nhà, loanh quanh ra câu cá ngoài hồ …
                      -Hôm Ba Du về Saigon có nói mùng năm là ngay mai mới lên, năm nay có chú Nam ở trên này, nên Tết này Ba Du về nhà lâu hơn mấy năm trước
                      Bổng Năm Bình nhìn ra phía cửa, một người đàn ông má hóp trạc 40 tuổi có bộ ria mép mọc dầy tua tủa, mặc bộ quần áo công nhân xanh đậm của nông trường bước vào quán, Năm Bình chào hỏi:
                      -Hôm nay trực hả ông Tỵ, làm ly cà- phê nhé?
                      Người đàn ông gật đầu và ngồi vào bàn cạnh Năm Bình, nhìn Nam rồi nói:
                      -Ừ, hôm nay đến ca tui trực, thằng Sung trực hôm qua rồi!
                      Năm Bình vào trong pha thêm ly cà- phê và bê ra, anh mời ông ta điếu thuốc, Năm Bình đưa tay về phía Nam nói:
                      -Đây là chú Nam làm rẩy trong hồ gần nhà Ba Du, ông Tỵ cũng có biết anh Ba chút đỉnh
                      -Anh Năm Bình chiều nay có đi đâu không?
                      -Ngày mai mới lên thị xã Bình Long, có mồi đặc biệt hay sao ông Tỵ - Năm Bình cười
                      -Ừ, tụi nó cho con chồn vừa dính bẩy hôm qua, định rủ ông với thằng Sung, Tám Coi chiều nay lai rai …
                      -Ừ, vậy chiều nay chừng bốn, năm giờ ông đem ra quán đi, làm hai, ba món lai rai được rồi, chú Nam ở lại chơi không?
                      Nam thấy không quen biết mấy người kia nên không hào hứng, anh lắc đầu từ chối:
                      -Chắc không ở lại được đến chiều được anh Năm, cà-phê xong thì chút nửa về trong đó có việc
                      Năm Bình cũng không thuyết phục anh thêm, ông ta vào bên trong bê ra cái ấm trà nóng đặt giữa bàn. Con đường chạy qua trước quán bắt đầu nhộn nhịp người qua lại, vài đứa nhỏ đốt những viên pháo chuột nổ đì đẹt bên kia đường làm khói thuốc súng hăng hăng bay khắp nơi, Nam thấy vui hơn không khí Tết quá lặng lẻ trong khu hồ.
                      Một người đàn ông tóc hoa râm, cao ốm, mặc cái áo kaki vàng nhạt và quần tây bước vào quán, Năm Bình đứng dậy, cười với ông ta và hỏi:
                      -Anh Sáu mấy ngày Tết có đi đâu không, uống cà- phê nhé …
                      -Ừ, cho ly đen, Tết có ra thăm mấy ông trên huyện, rồi ghé vô thăm mấy ông bên nông trường, ông Tỵ trực hôm nay hả?
                      -Hôm nay tui trực cả ngày, sắp tới mùa khô bên nông nghiệp huyện có thông báo chi về tình hình xả nước cho mấy xã phía dưới làm mùa không anh Sáu – ông già tên Tỵ hỏi
                      -Chưa thấy bên đó nói gì, hai tháng rồi không mưa, mùa khô năm nay đến sớm, sắp tới ở dưới thiếu nước, chắc mình cũng phải mở cửa đập sớm
                      Năm Bình bê ly cà- phê ra để trên bàn, rồi quay lại ngồi bàn cũ, Nam đoán ông ta là cán bộ ở xã, có thể đang phụ trách về nông nghiệp, châm điếu thuốc lá hút, nhìn qua Năm Bình và ông già Tỵ, ông ta nói:
                      -Có thể huyện giao cho nông trường quản lý cả cái hồ, có điều giám đốc nông trường thì chưa nhận vì sợ coi không xuể, phải cử thêm người vô ở trong đó …
                      -Còn mấy chuyện khác mấy ông trên huyện có nói gì không anh Sáu – Năm Bình hỏi
                      Ông ta thấy có Nam lạ nên không tiện nói, lướt nhanh qua câu hỏi đó của Năm Bình:
                      -Mấy ổng chắc không biết gì kế hoạch của tỉnh đâu …
                      Nam cố ngồi lại nghe ngóng thêm xem có tin tức quan trọng nào khác, nhưng chỉ thấy họ nói chuyện về cây cao su, tiêu chuẩn mua hàng của công nhân … Một lát sau, ông cán bộ tên Sáu trả tiền, đứng dậy ra khỏi quán, Nam cũng chào Năm Bình và ông già gác đập rồi ra về.
                      Vừa bơi xuồng, vừa suy nghĩ về những tin tức anh vừa nghe được ở quán, vậy là chuyện giao hồ nước cho nông trường và tỉnh đồng ý cho phá rừng trồng thêm cao su là gần như sẽ thành sự thật. Thêm nửa, một việc quan trọng không kém là làm sao nhân dịp thời gian sắp tới, sau khi nông trường được lệnh mở ba cái cửa sắt đó để xả nước, anh phải bí mật lên trên đập nơi có trục cáp quay, kéo cái cửa lên cao hơn để nước hồ xuống nhanh, và nhất là không để mấy ông gác trong trạm phát hiện ra sự thay đổi này.
                      Việc này Nam thấy tưởng chừng khó thực hiện, vì mỗi lần nâng hay hạ ba cánh cửa đó, công nhân trực dùng một cái tay quay dài giống ma-ni-ven ở đầu có khóa như cờ- lê sửa xe nhưng to, rồi đưa vào đầu trục cáp để nâng hay hạ cửa xuống. Còn muốn lên trên thân đập dò xét thì chỉ có thể làm vào ban đêm trời tối, lúc đó người trực gác đã đóng cửa trạm và đi ngủ.
                      Trong đầu Nam nảy ra ý tưởng khá mạo hiểm, đêm nay đợi đến gần nửa đêm, anh sẽ bơi xuồng quay lại, neo chiếc xuồng thật kín đáo, và cũng đủ gần đập để quan sát thử xem ban đêm họ trực gác ra sao, sau đó về có kế hoạch thực hiện.
                      Chiều tối cơm nước xong, Nam thấy khá căng thẳng, anh ra khúc gổ trước nhà ngồi hút thuốc nhìn màn đêm đang dần xuống, tối nay anh không đốt lửa để giữ không khí yên tỉnh.
                      Ngồi một nơi thấy bồn chồn, Nam qua nhà Ba Du đi một vòng để thư thái chút đỉnh, cái anh sợ nhất là bị mấy tay du kích và công an đi tuần đêm phát hiện, giờ giấc khuya khoắc như vậy thì không thể biện hộ chi được, chỉ có nước vào tù cải tạo.
                      Anh quay về nhà chuẩn bị, thấy trời có lẻ đã hơn 10 giờ, may mắn mấy hôm nay không có chút xíu trăng sao nào, đêm tối mịch. Nam ra hồ lấy xuồng âm thầm bơi về phía xã, bóng tối âm u bao phủ lên mọi nơi, anh bơi chầm chậm cho mắt quen với đêm tối, trên bờ tiếng côn trùng kêu rĩ rã, thỉnh thoảng vài con dơi bay săn tìm mồi vụt qua trên đầu anh nghe như tiếng gió thổi lướt qua, tiếng chim cú mèo vang từng lên chập nghe thê lương, chết chóc trong đêm vắng, Nam nhớ lại, mình chẳng mang theo dao hay rựa ngoài mái chèo.
                      Trong đêm tối, anh chẳng biết mình đã bơi đến đâu, chỉ biết là đã khá lâu, cập nhẹ xuồng vào gần bờ để xem cảnh vật xung quanh, chỉ có bóng cây và lờ mờ dấu con đường đất đi ra xã.
                      Nam đẩy nhẹ chiếc xuồng ra xa và bơi tiếp về phía dưới, kia rồi bóng cây me tây cao to lờ mờ trong màn đêm, đã đến gần chỗ cái trạm, nơi anh hay cột xuồng vào những cái rể xù xì của nó, bơi nhẹ nhàng chậm rải và dừng lại phía sau trạm gác ở cách khoảng an tòan và đủ quan sát.
                      Cột dây vào một cái rể gần bờ, xung quanh cũng có cái xuồng nhỏ trôi lờ đờ qua lại, anh kín đáo nằm xuống lòng xuồng, con đường đi về trung tâm xã và những căn nhà gổ ở hai bên chìm trong bóng đêm tối mịch.
                      Trong trạm không thấy ánh đèn hay động tỉnh nào, ông già Tỵ trực tối nay có thể đã say ngủ vì chầu nhậu lúc chiều ở nhà Năm Bình, Nam mỉm cười cám ơn con chồn, nó được vợ Năm Bình ra tay nấu nướng khiến mấy tay nhậu không thể không uống hết mình.
                      Nắm quan sát hồi lâu, thấy đêm dần xuống sâu hơn, hơi lạnh từ mặt hồ phả lên thấm lạnh qua quần áo, lúc chiều Nam chỉ định đến gần để quan sát cái đập, nhưng thấy mọi việc quá im ắng thuận lợi, anh tính lên bờ đi vòng từ phía sau trạm ra bên hông và đi lên con đập xem thử ra sao, vì đường lên đập phía bên kia, xã cho giăng hàng rào kẽm gai để dân không đi qua lối đó.
                      Nam nhổm dậy ra đầu xuồng và khom lưng bước lên núp sau thân cây me, vừa tính băng qua khoảng trống trước mặt để chạy ra phía sau cái trạm, anh thấy ánh đèn pin quét loáng qua trên đường và tiếng chó sủa, hoảng hồn Nam ép mình xuống sát đất sau cái rể cây nổi vồng lên trên, ba bóng người đeo súng nhẹ nhàng đi về phía văn phòng ủy ban xã, tim anh đập thình thịch.
                      Nằm chờ thêm rất lâu xem mấy tay du kích đi tuần có trở lại không, thấy có vẻ đã ổn, Nam khom người lẹ làng chạy núp sau trạm, quan sát nghe ngóng thêm hồi lâu, xung quanh vẩn yên tĩnh tối đen, anh cúi thật thấp đi lên cái dốc xi-măng ngắn và đi thật nhanh tới chỗ có mấy trụ bê-tông lớn có treo ròng rọc cáp từ ba cái cửa thép to đen thui, Nam lấy tay sờ vào đầu trục nơi đưa cái tay quay vào để nâng, hạ cửa, thấy kích cỡ nó khá to.
                      Thấy đã tạm đạt mục đích, anh nhanh nhẹn quay về phía sau trạm, quan sát nghe ngóng kỹ âm thanh xung quanh, rồi lẹ làng chạy ra gốc cây, tháo dây cột, lấy mái chèo bơi nhè nhè ra ngoài xa, năm phút sau thấy đã an toàn, Nam ra sức bơi nhanh về nhà.
                      Đêm qua về, Nam ngủ một giấc sâu sau chuyến đi căng thẳng, mệt mỏi, sáng thức dậy rửa mặt và nhìn ra hồ, ánh nắng rập rờn trên làn nước trong xanh, con Đốm tối qua thấy anh về nhà lúc sau nửa đêm, nó tò mò lại gần đánh hơi rồi ngẩng đầu nhìn như muốn hỏi anh đi đâu mà về vào giờ khuya khoắc này.
                      Hôm nay mùng 5, theo như đã hẹn, thì chiều nay Ba Du sẽ lên đến đây, tối nay anh sẽ qua gặp Ba Du nói chuyện về các tin tức “sốt dẻo” trong mấy ngày qua. Nhớ lại hài cốt của người lính ở gốc cây trong rừng, Nam muốn nhân chuyến đi vào buôn sắp tới có Ba Du, sẽ dành khỏang một tiếng để đắp cho anh một cái mộ và thắp nén hương trước khi đi tiếp, anh đi tìm vài miếng ván để đóng cái hộp nhỏ để bỏ xương cốt còn lại vào đó, rồi mới bỏ xuống mộ.
                      Nhìn quanh nhà không thấy có tấm ván nào, đi ngang hai cái kệ gổ đóng trên vách, nơi để các lọ muối, nước mắm, hành tỏi, dầu mỡ … cái kệ kia để chén, dĩa, vài cái nồi nhôm, chảo. Nam tháo cả hai xuống, tính toán sẽ cắt ra thành từng tấm ván ngắn, rồi đóng lại thành cái hộp, thấy thiếu đồ làm mộc như cưa tay, búa anh chạy qua nhà Ba Du lục lạo khắp nơi cũng chẳng thấy có cái nào, suy nghĩ quanh quất, may ra Hai Tuất có, vì anh nhớ Ba Du có lần qua bên đó sửa nhà, Nam chạy ra chỗ chiếc xuồng, nhảy lên bơi qua nhà Hai Tuất, cũng may sao cả hai vợ chồng ông ta hôm nay mùng năm không đi đâu. Thấy mới đầu năm mà Nam hỏi mượn cưa, Hai Tuất gật đầu nói:
                      -Ừ, có chú Nam, đầu năm mà chú Nam bận rộn làm việc chi sớm vậy
                      -Dạ, rãnh nên sửa chửa linh tinh vài thứ cho gọn ghẽ nhà cửa
                      Hai Tuất còn cho mượn kềm, búa và mớ đinh, Nam cám ơn rồi xuống bờ hồ lên xuồng bơi về nhà.
                      Đo đạc tính toán và hì hục gần hết buổi sáng, anh cũng đóng xong cái hộp gổ nhỏ có nắp đậy, tuy không được đẹp vì là thợ mộc tay ngang, nhưng có còn hơn không.
                      Nhìn chai lọ lỉnh kỉnh và mấy cái nồi, chảo xếp đống dưới đất ở góc bếp, Nam nghĩ phải kiếm chỗ để mấy món này lên cho gọn ghẻ, nhớ đến mấy bụi tre sau vườn nhà Ba Du, anh vác rựa qua chặt những cây thẳng, đem về nhà, lấy rựa chẻ mỗi cây ra làm đôi, đóng lại thành hai cái kệ tre treo vào chỗ vách cũ, rồi dọn dẹp mấy chai lọ đựng mắm, muối, ớt, tiêu và nồi niêu, xoong chảo lên đó, Nam mỉm cười, nhìn cũng khá tươm tất.
                      Sớm lắm cũng phải đầu giờ chiều Ba Du mới lên tới, nhìn trời cũng đã trưa, nên anh tìm coi có món nào ăn uống qua loa, khỏi nấu cơm trưa, Nam lấy cái gùi xuống, thấy còn lêkima hái ở vườn nhà Ngọc Minh, trái đu đủ nhỏ, đi ra cây mít phía sau nhà, hôm qua anh nghe mùi thơm của mít chín phảng phất theo gió bay vào gian bếp, hôm nay trái mít nứt toác lộ màu vàng bên trong, Nam cắt nó mang vào nhà, buổi trưa có ba, bốn thứ trái cây vậy cũng đủ no.
                      Chiều Nam mang đồ nghề ra hồ câu cá, suy nghĩ về việc tối hôm qua bơi xuồng ra con đập, nhớ tới chuyện nâng hạ ba cái cánh cửa sắt của nó, mấy công nhân trực ở trạm thì có cái tay quay, còn người ngoài muốn tự làm việc này, thì cũng phải có dụng cụ tương tự. Anh nghĩ như vậy, chỉ còn cách là làm một cái tay quay khác, và chi tiết quan trọng là phần đầu trục phải khớp với trục thép lục giác của cuộn dây cáp, do đó làm sao phải có đựơc kích cỡ của nó, rồi về Saigon nhờ mấy ông thợ trong Chợ Lớn chế tạo lại.
                      Đương nhiên không thể hỏi ai hay ban ngày tự tiện mà lên chỗ đó đo đạc chi tiết, vì quanh đó, lúc nào cũng có người trực, Nam suy nghĩ do đó lại phải làm vào ban đêm, nhưng đêm tối như vậy thì không nhìn thấy rỏ mọi vật, có cách nào khác để làm việc này?
                      Anh ngồi nhìn ra mặt hồ suy nghĩ, thấy phao đang trôi bị chìm xuống, Nam giật mạnh, một chú cá mè tầm tầm ở đầu dây, gở bỏ nó lên bờ cỏ, anh móc mồi khác và thả xuống nước.
                      Nhơ hồi xưa làm chìa mới cho ổ khóa, thường nếu không tiện cầm cái chìa cũ theo, người ta hay ấn mạnh nó lên miếng xà-bông cục lấy dấu rồi đưa cho thợ khóa làm. Bây giờ không có xà-bông, phải tìm vật gì để thay thế nó, ngồi vắt óc suy nghĩ, nhìn cỏ mọc trên bờ đất sét sát mép nước, trong đầu anh lóe lên một ý tưởng, có thể lấy đất sét dẻo thay xà-bông, vậy là có thể tạm giải quyết vấn đề đó được rồi.
                      Ngồi câu gần cuối giờ chiều, thêm được vài con cá rô và chép, hai con chó đang chạy loanh quanh trong rẩy, chợt sủa vang lên, Nam đứng lên nhìn về phía con đường từ ngoài xã đi vào, Ba Du đang lội bộ với cái túi vải khoác trên vai, thấy anh đang câu ngoài bờ hồ, Ba Du đi thẳng ra đó, con Ki thấy ông chủ của nó về nên chạy cuống quít theo chân Ba Du, chưa ba giờ Nam thấy nó vui như vậy, con Đốm cũng nhận ra người quen nên lăng xăng chẳng kém.
                      -Đi đường khỏe không anh Ba – Nam cười hỏi
                      -Bửa nay gặp chiếc xe đò chạy hơi chậm, về đến ngã ba vô nông trường, ít xe ra vô nên chờ hơi lâu, mấy ngày Tết trên này khỏe không chú Nam, có vào buôn thăm Điểu Rút và Điểu Sơn chớ hả, gặp Ngọc Minh không?
                      Anh cười gật đầu nói:
                      -Có vào buôn chơi vài lần, anh Ba về ngang xã có gặp Năm Bình không, có tin tức không hay lắm từ tỉnh và xã dính dáng đến mình
                      Ba Du cùng Nam ra ngồi bên bờ hồ, và lấy thuốc ra hút, nhíu mày hỏi anh:
                      -Đi ngang qua quán nhưng không gặp Năm Bình, nên tui đi về trong này luôn, có tin gì không chú Nam?
                      Anh thuật lại cho Ba Du nghe những tin tức về vụ tỉnh sắp cho phá rừng trồng thêm cao su, còn bên nông trường sẽ vào quản lý cái hồ này, bên xã Hai Tuất cũng biết chuyện này rồi. Nam kể lại chuyện hôm qua ra quán Năm Bình gặp tay cán bộ tên Sáu, tóc hoa râm, cao ốm có hé lộ các tin tức như vậy, anh hỏi Ba Du:
                      -Anh Ba có biết tay cán bộ này không?
                      -Biết, ông ta tên Sáu Cao, trưởng ban nông nghiệp xã, có thể ông ta biết nhiều nhưng còn giấu giếm …
                      Ba Du mở cái túi vải, cho Nam ba bao thuốc lá, bịch đường, kẹo, mứt, anh hỏi:
                      -Gia đình ở Saigon ăn Tết vui vẻ hả anh Ba, về nghỉ chút, tối nay mình lai rai nói chuyện mấy ngày Tết, tôi câu thêm chừng nửa tiếng rồi xách cá qua nhà
                      Ba Du nghe anh nói ngồi gật gù, mắt nhìn ra ngoài hồ, rồi đứng lên nói:
                      -Tui đi về nhà, rồi quay ra liền, hôm nay trời nóng, ra đây tắm hồ cho mát …
                      Hai con chó chạy theo Ba Du khuất sau đám cây, Nam ngồi lại theo dõi cái phao, lát sau, Ba Du trở ra hỏi anh thêm tin tức trong buôn, anh rủ Ba Du ngày mai vào buôn chơi như hai người đàn S’tiêng nhắn nhủ, luôn cả chuyện vô tình anh tìm thấy hài cốt người lính khi ẩn núp trong hốc cây, tay phó chỉ huy công an xã và ba người đàn ông lạ đốn gổ lậu, Ba Du gật đầu đồng ý, nhưng tỏ ra suy nghỉ rồi nói:
                      -Chút nửa qua nhà tui lai rai mình tính tiếp… bây giờ xuống hồ tắm cho mát mẻ, tỉnh táo cái đã
                      Anh dời cần câu xích lên phía trên, rồi nhảy xuống làn nước mát lạnh, con Ki thì mạnh dạn, nó phóng xuống ngay theo Ba Du và bơi tới lui với vẻ thích thú. Sau chầu bơi dưới hồ, Nam gửi mấy con cá câu được cho Ba Du đem về trước, anh về nhà thay quần áo khô rồi theo lối mòn đi qua nhà bên đó.
                      Ba Du nhanh chóng nấu nướng gần xong, trên cái phản tre dọn ra sẵn dĩa bánh tét đem từ Saigon lên, cá rô chiên giòn, bầu rượu, bỏ thêm mớ rau, ớt vào dĩa, Nam rót rượu vào hai cái ly, anh lắc nhẹ cái bầu, rượu bên trong gần cạn, Ba Du mời:
                      -Uống chú Nam, mới mùng năm, vẩn còn Tết, thử bánh tét Gò Vấp xem có ngon không!
                      Cạn ly rượu, Ba Du nhìn anh nói:
                      -Sáng mai đi sớm, dừng lại nơi cái cây có hài cốt, lấy hết vô cái hộp gổ rồi mang vào buôn chôn, vì tui sợ sau này tụi nó phá rừng thì sẽ xóa mất dấu tích ngôi mộ, tội nghiệp người chết
                      -Anh Ba tính đúng, nhưng còn Điểu Rút, Điểu Sơn và dân trong buôn có chịu không?
                      -Tui sẽ nói với Điểu Rút, Điểu Sơn dù sao họ cũng từng là lính VNCH, chôn cất đồng đội là nhiệm vụ, là đạo đức …
                      Nam lấy cái thẻ bài ra đưa cho Ba Du xem kỹ lưỡng và cất nó lên cái kệ gổ cao trên vách, anh nói:
                      -Ngày mai vào rừng có thể sẽ gặp mấy tay đốn gổ lậu như hôm trước
                      -Ừ, mai khi bắt đầu đi vô rừng, phải cẩn thận, tui sẽ đi phía trước, nếu có đụng với bọn họ mà không né tránh kịp, cứ đi bình thường như vào trao đổi mua bán với dân trong buôn, khi có ai hỏi, chú Nam để tôi trả lời, còn buổi chiều nếu về sớm, mình sẽ qua bên Hai Tuất coi bên đó có thêm tin tức gì không … nông trường mà quản lý cái hồ, tui với chú Nam cũng khó mà sống ở đây, viện cớ đó, đất đai họ sẽ lấy lại, thường như vậy họ sẽ chuyển người dân vô sâu bên trong, khó mà làm ăn gì được …
                      Lần đầu tiên anh thấy Ba Du tỏ ra hơi căng thẳng, có lẻ đã nhìn thấy trước viển cảnh u ám của chuyện thay đổi sắp tới này.
                      Anh gắp khoanh bánh tét ăn thử, đây là món Tết đầu tiên anh ăn kể từ ngày đầu năm, có lẻ vì vậy mà thấy nó rất ngon, Nam ăn thêm miếng nửa và nhớ lại mấy năm trước ăn tết ở nhà có nhiều người thân, bạn bè, tuy thế cũng chẳng vui và có gì nhiều so với những năm còn chiến tranh, mà còn nghèo nàn, thiếu thốn hơn, chỉ có vài món được mua từ hợp tác xã phường, nồi thịt kho nhỏ, mấy gói bánh, kẹo, mứt như Ba Du mới cho anh lúc chiều.
                      Không khí chiều tối nay như khô cứng lại, Ba Du trầm ngâm ít nói hơn mọi khi lai rai với anh, tìm ý gợi chuyện với Ba Du về ngày Tết ở Saigon cho đỡ căng thẳng, Nam hỏi:
                      -Anh Ba, Tết này ở dưới có đi thăm bạn bè, đồng đội cũ ngày xưa không?
                      -Có chú Nam, qua quận 4, Nhà Bè thăm lại mấy thằng bạn cũ cùng tiểu đoàn, anh em gặp nhau lai rai nói chuyện đời lính, thấy vui, nhưng phần nhiều thấy bạn bè cũ sống khó khăn quá, nhất là mấy ông thương phế binh, sống lây lất làm đủ nghề …
                      Thấy câu chuyện mang vẻ u buồn, Nam im lặng không hỏi tiếp, nhìn ra ngoài bóng tối bao trùm con đường xuống bờ hồ, niềm hy vọng còn lại của anh là hai thùng đồ cổ nằm nguyên vẹn dưới đó, thời gian cũng không còn nhiều để anh dò tìm, chỉ mong là thần may mắn đến trước khi quá trễ.
                      Ba Du dốc rượu trong bình ra hai cái ly, rồi chậm rải uống, Nam cũng cạn ly, ăn thêm vài miếng bánh, mứt và nói trước khi ra về:
                      -Sáng mai tôi sẽ qua sớm, anh Ba trên này khi nghe gọi dưới bờ hồ thì xuống nhé
                      Ba Du im lặng gật đầu, anh ra kêu con Đốm đang nằm ở ngoài sân, rồi dẩn nó đi tắt ngang qua những luống khoai để về nhà cho nhanh.
                      Sáng sớm trời còn mờ mờ, Nam cập chiếc xuồng vào gần nhà Ba Du và gọi lớn tiếng, vài phút sau Ba Du vai đeo cái gùi và con Ki đi ra, chờ Ba Du lên ngồi xong xuôi ở phía trước, anh bắt đầu hướng mủi xuồng bơi về phía trên. Vượt qua hơn nửa đoạn đường trên hồ, Ba Du tinh mắt kêu Nam và lấy tay chỉ về bốn, năm người đàn ông vác rựa đang đi phía bờ hồ bên kia, họ đi về hướng khu rừng già, anh thắc mắc:
                      -Đâu phải dân trong mấy buôn hả anh Ba?
                      Ba Du lắc đầu nói:
                      -Không phải, nhìn giống mấy tay thợ đốn gổ trong rừng
                      Nam vừa bơi, vừa chăm chú nhìn theo nhóm mấy tay thợ rừng từ từ mất hút dưới tàn lá rậm tối. Đến nơi giấu xuồng cũ, Ba Du và Nam cẩn thận quan sát xung quanh và nhanh nhẹn đẩy chiếc xuồng vào sâu bên trong bụi cây hơn mọi khi, Ba Du còn cẩn thận bẻ thêm vài nhánh cây để che cho kín đáo. Mấy ngày hôm nay vì tin tức từ tỉnh, huyện và xã làm chi phối, Nam cũng ít có thời gian nhớ đến Ngọc Minh.

                      (còn tiếp)

                      Comment


                      • #12
                        Hai người nhanh chóng tiến vào dưới bóng rừng cây, anh và Ba Du giữ im lặng đi theo lối mòn cũ, được khoảng cây số, Nam nói với Ba Du đi chậm lại để anh tìm dấu vết của cái cây, vài phút sau ra hiệu cho Ba Du theo anh rẽ vào bên phải, đến gần chỗ bụi rậm và dây leo mọc kín gần thân cây cao. Nam và Ba Du lách người đến chỗ cái hốc, anh gạt nhẹ lớp đất bên trên, hài cốt còn nằm ở vị trí cũ, Ba Du ra dấu cho anh đưa cái hộp gổ, rồi nhẹ nhàng lượm tất cả bỏ vào bên trong và đậy nắp lại, đặt nó lại vào trong gùi.
                        Cả hai nhanh chóng trở lại con đường đi vào buôn, khi qua một vài đoạn đường, từ trong sâu vọng ra tiếng cưa máy, chen lẩn tiếng rìu, rựa chặt hạ cây, Ba Du và Nam dừng lại vài giây nghe ngóng rồi lại đi tiếp.
                        Vừa qua khỏi trảng cỏ, gặp hai người đàn ông S’tiêng từ xa đang đi đến, lát sau nhận ra hai anh em Điểu Sơn, Điểu Chắc mới đi thăm bẩy về, trong gùi có con nhím, gà rừng và thỏ, hai người đàn ông S’tiêng vui vẻ chào:
                        -Ba Du mới lên hả, ăn Tết thành phố vui không?
                        -Tui mới lên chiều hôm qua, ăn Tết ở nhà thì vui hơn, hai anh đi thăm bẩy sớm hả, Điểu Chắc lúc này khỏe không?
                        -Cũng khỏe anh Ba, làm rẩy bái như mọi năm, lúc rảnh thì vô rừng đặt bẩy với Điểu Sơn
                        Ba Du giới thiệu anh với Điểu Chắc:
                        -Đây là chú Nam, hàng xóm của tui ngoài đó, ở Saigon lên làm rẩy
                        Nam gật đầu chào người em của Điểu Sơn, hai anh em họ có vẻ bề ngoài khá giống nhau, Điểu Chắc có nét mặt vui vẻ, hồn hậu, cả bốn cùng nhau đi về buôn, Điểu Chắc cười nói:
                        -Trưa nay Ba Du và chú em này ở lại uống rượu cần nhé, chưa hết Tết mà
                        -Ừ, tụi tui ở lại buôn tới chiều mới về
                        Trên đường đi về, câu chuyện giữa Ba Du và hai người đàn ông S’tiêng xoay quanh tin tức nóng hổi về việc sắp tới tỉnh phá rừng trồng cao su và nông trường sẽ quản lý cái hồ, gần về đến buôn, Ba Du nói với Điểu Sơn về hài cốt của người lính tìm được trong rừng, Điểu Sơn gật đầu nói:
                        -Đem về chôn trong nghĩa địa nhỏ ở bên trong gần chân đồi, chôn ngoài rừng bây giờ không chắc sau này tìm được đâu
                        Vào đến buôn, Điểu Chắc mang gùi đựng thú rừng bẩy được về nhà, Nam theo Điểu Sơn, Ba Du đến nhà Điểu Rút, mọi người bước lên sàn. Nghe có người gọi, Điểu Rút từ gian trong đi ra, Ngọc Minh đoán hôm nay Nam sẽ vào nên cô cũng ra chào, nhìn anh cười rất tươi tắn, Ba Du bỏ cái gùi ra, đưa hai gói quà Tết cho hai người đàn ông S’tiêng:
                        -Có chút bánh mứt ở Saigon biếu cho Điểu Rút, Điểu Sơn và gia đình
                        Họ vui vẻ cám ơn, Ba Du kêu Nam đưa cái hộp gổ, hai người đàn ông S’tiêng chưa biết chuyện gì, nên có vẻ thắc mắc, Ba Du nhìn Điểu Rút nói:
                        - Trong này là hài cốt của một người lính VNCH chú Nam tìm được trong rừng, vẩn còn thẻ bài, lúc đầu tính chôn trong đó, nhưng thấy chôn ở đây thì giữ được mộ, về sau này biết đâu may mắn tìm ra thân nhân cho anh
                        Điểu Rút gật đầu, đưa hai tay đỡ cái hộp gổ từ tay Ba Du và nói:
                        -Tui nói với già làng sau, bây giờ chuẩn bị đi ra nghĩa địa luôn, Ngọc Minh vô lấy cho cậu bó nhang và cuốc xẻng
                        Cô vào bên trong lấy bó nhang nhỏ đưa Nam và cây cuốc làm vườn, Điểu Rút, Điểu Sơn dẩn Ba Du và Nam theo con đường đi ngang qua vườn cây nhà Ngọc Minh, rồi qua con suối đi thẳng đến miếng đất nhỏ lác đác đá cuội, anh thấy ở đó có vài ngôi mộ được đắp cao lên bằng các hòn đá, hai người đàn ông S’tiêng cho biết những ngôi mộ kia cũng là của những người lính VNCH chết gần quanh buôn và trong rừng, được người dân đưa về chôn ở đây.
                        Điểu Sơn chọn chỗ đất bằng phẳng rồi lấy cuốc đào sâu xuống, vị trí này gần chân đồi nên cao ráo, yên tĩnh, khi thấy đã đủ sâu, Điểu Rút và Ba Du cẩn thận bỏ cái hộp gổ xuống lòng đất, cả bốn người đàn ông rải những nắm đất nhỏ xuống để tiễn biệt người chết, Nam phụ Điểu Sơn lấp đất và lấy các hòn đá, cuội xếp lên thành ngôi mộ gọn ghẽ.
                        Ba Du và hai người đàn ông S’tiêng đứng thẳng người, nghiêm trang đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh, Nam cũng thấy xúc động, bất giác anh cũng đưa tay lên chào như ba người cựu chiến binh biệt động quân, mỗi người cắm lên ngôi mộ vài nén nhang, Nam thầm nghĩ, từ đây anh sẽ ấm áp phần nào khi nằm yên nghỉ bên những người đồng đội cũ và buôn làng hiền hòa này.
                        Điểu Rút nói với Điểu Sơn:
                        -Lúc nào rảnh, kiếm miếng gổ tốt khắc tên để làm bia mộ nhé
                        Điều Sơn dẩn Ba Du và Điểu Rút về nhà, Nam rẽ vào nói chuyện với Ngọc Minh, sáng nay cô ở nhà một mình, bà mợ đi công việc qua làng kế bên, anh mang cây cuốc bỏ vào góc nhà, Ngọc Minh nhìn anh hỏi:
                        -Chú Ba Du có biết hết tin tức của mấy xã chưa anh Nam?
                        Anh gật đầu nhìn cô:
                        -Tôi có nói cho anh Ba nghe rồi, mọi người trong buôn này chắc lo lắng nhiều hả Ngọc Minh?
                        -Ừ, lo lắng vì sợ buôn phải dời đi nơi khác, mà phá hết rừng thì cũng không còn nơi để dân làng vô săn bắn hay đặt bẩy, đào củ lúc mất mùa, còn Ngọc Minh nghe nói chỗ đất anh Nam và chú Ba có thể bị xã thu hồi đúng vậy không?
                        Nam gật đầu nói với cô:
                        -Nếu xã quản lý cái hồ, thì họ có lý do để lấy lại đất đai của người dân đang sống xung quanh đó
                        -Nếu vậy anh và chú Ba đi đâu, về lại thành phố hay sao?
                        Anh thấy tội nghiệp Ngọc Minh vì cô tỏ ra lo lắng anh, Nam suy nghĩ, không tự nhiên mà một người con gái lo lắng cho mình, chắc cũng đã đến lúc anh phải nói thật cho cô biết về tình yêu lâu nay trong trái tim của mình, Nam nhè nhẹ gật đầu nói:
                        -Có thể, vì đâu biết đi đâu nửa … ừ, thôi mình ra suối ngồi chơi chút đi Ngọc Minh
                        Ngọc Minh hơi bất ngờ với lời đề nghị của Nam, nhưng cô gật đầu và hai người đi ra suối. Nắng chiếu nhẹ nhàng lên mái tóc đen tuyền của cô làm tỏa mùi hương lạ như cây cỏ núi rừng trong ánh ban mai, dòng nước trong veo từ dảy đồi cao chảy róc rách qua lớp đá cuội nghe êm tai.
                        Ngọc Minh thích ngồi dưới tàng lá của bụi tre xanh, hôm nay cô thấy Nam tự nhiên đến ngồi gần kế bên chứ không ngồi ở tảng đá khác, làm cô hơi đỏ mặt cúi xuống, mấy ngón tay xoay tròn cái lá, Nam nhìn cô rồi chợt hỏi:
                        -Nếu sau này anh về Saigon, Ngọc Minh có thích về sống với anh ở dưới đó không?
                        Ngọc Minh e thẹn và như muốn dấu khuôn mặt sau vai anh, Nam hơi mỉm cười hỏi tiếp:
                        -Ngọc Minh đi cùng anh về dưới thành phố không?
                        Lần này cô gật đầu và nhìn Nam mỉm cười, anh nhẹ nhàng cầm bàn tay cô rồi nói:
                        -Vậy là Ngọc Minh hứa với anh rồi đó, mai mốt không được ăn gian nhé
                        Rồi chờ một lát sau cho cô bình tỉnh lại, anh hỏi thêm:
                        -Còn gia đình cậu Điểu Rút có đồng ý không?
                        -Có chứ anh Nam, gia đình cậu và chú Điểu Sơn cũng thích anh lắm đó
                        -Tình hình sắp tới có thể họ chỉ phá rừng để trồng thêm cao su, còn buôn không phải dời đi chỗ khác, nhưng anh nghĩ xã sẽ vào quản lý cái hồ nước, sẵn lý do đó, đất đai xung quanh cũng sẽ bị họ thu hồi để mở rộng nông trường cao su
                        Ngọc Minh lộ vẻ buồn khi nghe anh nói, cô hỏi:
                        -Anh Nam chịu vô ở trong buôn không?
                        -Ơ… không, vì anh ở thành phố quen rồi, trong buôn thì không quen lắm, xa thành phố Saigon
                        Bị hỏi bất ngờ suýt nửa thì Nam thố lộ với cô về mục đích làm nông dân ở đây, anh mỉm cười nhìn Ngọc Minh nói tiếp:
                        -Về Saigon dù sao thì có nhiều thuận lợi về sau, ở dưới cũng có nhiều việc làm hơn, Ngọc Minh đừng quá lo, đi làm cô giáo dạy học như trên này cũng được
                        Biết Nam chọc mình, cô mỉm cười và cũng thấy yên tâm, vì từ lúc còn chiến tranh, cô sinh ra và lớn lên với gia đình ở thị xã An Lộc, sau đó khi chiến tranh chấm dứt, cô về buôn này ở đến bây giờ, chưa bao giờ cô ra sống ở một thành phố lớn, nhưng về Saigon đã có Nam, Ngọc Minh thấy vững tin hơn.
                        -Mình vào hái trái cây đi, trưa về nhà ăn – Nam cười đề nghị
                        Cô mỉm cười gật đầu đồng ý, anh cầm tay Ngọc Minh đi theo con đường rẻ về vườn cây, không khí thanh vắng bao trùm lên hàng cây lá xum xuê, tiếng những con chim rừng dạn dĩ kêu vang khắp nơi, Ngọc Minh chỉ tay về một chú chim có màu lông đen trắng đang bay nhảy trên cành cao, tiếng hót của nó nghe rất hay nói:
                        -Đố anh Nam con chim đó tên gì?
                        -Không biết, tên nó là gì vậy Ngọc Minh – anh đoán đó là con chào mào nhưng giả lơ
                        Cô vừa nhìn theo con chim vừa trả lời:
                        -Chim chào mào đó anh Nam, Ngọc Minh rất thích nghe nó hót
                        Đến bên dưới bóng cây mít ở giữa vườn, tiếng mấy con chim cu gáy kêu từ đâu đó nghe thật xa vắng, những con chim này đã lìa bỏ cánh rừng sâu về làm tổ trên các cành cây cao trong vườn cây quanh buôn, Nam cười nhìn cô hỏi đùa:
                        -Gà rừng gáy phải không Ngọc Minh?
                        -Ý, đâu phải, anh Nam biết rồi mà còn làm bộ, chim cu rừng đó, nó giống gà rừng là làm rô-ti thì rất ngon …
                        -Ừ, vậy hả - anh giả bộ cười ngạc nhiên
                        Thấy vậy cô cũng cười, nổi buồn ngoài bờ suối lúc nảy cũng biến mất. Xách hai trái mít chín đem về nhà Điểu Rút, nhìn trời đã trưa nên Nam đi luôn qua nhà Điểu Sơn, Ngọc Minh theo đưa anh đến đó rồi quay về.
                        Anh bước lên nhà, bốn người đàn ông ngồi quanh choé rượu cần với món nhím xào lăng, thỏ rừng nướng, mấy món này chắc có bàn tay tài hoa của Ba Du tham gia. Nam đến ngồi gần Điểu Chắc và Ba Du, có vẻ mọi người cũng đang bàn luận về các tin tức đang được đồn đãi và bàn tán khắp nơi, Điểu Chắc cắm thêm cái cần trúc khác vào trong chóe cho anh, Điểu Sơn tiếp tục nói về chuyện mấy người lạ đốn gổ trong rừng:
                        -Dân trong buôn vô rừng thì gặp mấy người lạ mặt này, họ chọn cây to chặt hạ xuống, sau đó máy cày hay trâu vô kéo ra đường, mấy tháng trước đây thì trong rừng yên lắm, lâu lâu mới có người dám đốn gổ lậu tuốt trong sâu
                        -Chỗ đó giáp ranh ba xã, đâu ai biết là dân xã nào hay người ở ngoài vô đây … - Điểu Chắc nói
                        -Nhưng phải có kiểm lâm hay công an cho phép hay thuê mướn thì họ mới dám làm, nếu không tụi nó sách súng vô bắt liền, đâu để cho đốn gần cả tuần nay rồi – Điểu Rút giải thích
                        Điểu Sơn vít cái cần xuống uống và gắp miếng nhím xào lăng rồi khen:
                        -Ba Du làm món này rất ngon, làm tui nhớ hồi lúc đóng đồn, lâu lâu anh em đi kích, tình cờ hạ được con mễn, mang về Ba Du lúc đó cũng làm hai, ba món nhưng không có rượu, tiếc hết sức
                        Mọi người đều cười khi nghe Điểu Sơn kể chuyện xưa, Nam thử thỏ nướng thấy thịt thơm và chắc, Ba Du đang hút thuốc, nhớ lại mấy kỹ niệm cũ trong biệt động quân nên kể thêm:
                        -Mấy anh chắc còn nhớ ông San đen, hôm Tết tui có qua quận 4 thăm ổng, bị cụt chân nhưng bây giờ hàng ngày vẩn ra chợ phụ vợ bán hàng rong, nhớ lúc đi gác căn cứ có ổng là hay kể chuyện ma rừng, mấy thằng lính trẻ mới về nghe kể cứ tưởng là có thiệt, còn mấy ông kia cứ ngồi cười hoài, ổng có tài thiện xạ, gặp thú rừng là lấy M-16 bắn phát đầu trúng liền, lại khoái uống rượu với thịt rừng.
                        Ba người đồng đội cũ nghe Ba Du kể lại chuyện ngày xưa, ngồi gật gù cười, Điểu Sơn nhớ lại:
                        -Lúc đi hành quân với đại đội bên ngoài, ổng đạp trúng mìn gài bên đường, phải đưa lên trực thăng chuyển về bịnh viện tiểu khu, bác sĩ cắt bỏ cái chân mới còn sống
                        -Lúc đó đang đóng quân ở đâu anh Ba – Nam hỏi
                        -Đang ở căn cứ Tống Lê Chân, thời gian đó căn cứ chưa bị bao vây, các đại đội luân phiên ra hành quân bên ngoài quanh vùng để theo dõi tình hình hoạt động của địch quân, ờ … hôm nay tui và chú Nam về sớm để chiều ghé qua nhà Hai Tuất thăm gia đình ảnh chúc Tết
                        Ăn uống xong, mặt trời cũng bắt đầu ngả về phía tây, Điểu Rút nói:
                        -Ba Du chờ tui về nhà chút rồi qua lại
                        Điểu Chắc vào nhà trong và cầm bầu rượu nâu bóng đem ra đưa Ba Du:
                        -Rượu ở nhà ngâm cây thuốc, anh Ba và chú Nam uống vô sẽ thấy khỏe, ngủ ngon
                        -Cám ơn nhiều nghe, hai bầu rượu trước uống rất ngon – Ba Du nói và bỏ nó vào gùi
                        Lát sau Điểu Rút cầm bầu rượu bước lên sàn, Nam nhìn xuống thấy Ngọc Minh đi theo nhưng đứng ở dưới, anh đi xuống các bậc thang gổ, cô đưa anh trái mít:
                        -Ngọc Minh lựa trái này chín tới rồi, về nhà là ăn được liền
                        -Ừ, cám ơn Ngọc Minh, chắc phải tuần sau anh mới vào thăm lại, về ngoài đó để xem tình hình ra sau, đừng đi xa khỏi buôn một mình nhé, bây giờ có nhiều người lạ vào trong này lắm
                        Sực nhớ còn việc quan trọng, anh nói tiếp:
                        -À, Ngọc Minh tìm cho anh một cục sáp gần bằng nửa nắm tay được không, hôm nào rảnh anh sẽ vào lấy?
                        Cô có vẻ thắc mắc, nhưng nhìn Nam gật đầu và quay về nhà, hôm nay có Ba Du nên Ngọc Minh không đưa anh ra đến đầu buôn, anh quay lên, Ba Du đang cám ơn Điểu Rút vì bầu rượu thuốc cũng được ngâm với các loại cây lá quí trong rừng và đứng dậy chào tất cả ra về.
                        Đeo cái gùi lên vai, anh xuống thang và cùng ba người đàn ông đang tiếp tục vừa đi, vừa nói chuyện, ra gần đến đầu buôn, gặp tay công an viên đeo sắc cốt và súng ngắn của xã đi tới, hắn ta nhìn Ba Du và Nam khi hai bên lướt qua nhau, hai người S’tiêng và hắn cùng gật đầu như chào nhau. Khi ra tận đầu buôn, Ba Du và anh chào và cám ơn thêm lần nửa, hai người đàn ông S’tiêng đưa tay vẩy chào lại và quay bước trở vào buôn.
                        Nhìn ráng chiều màu vàng thẩm nằm giăng mắc ở góc trời tây, Nam và Ba Du dồn bước vượt qua khoảng đường rừng còn dài để ra bờ hồ, vì còn có ý định sang nhà Hai Tuất thăm Tết.
                        Vượt qua con suối cuối, ranh giới của khu rừng già, Ba Du vẩn nhanh nhẹn đi đầu, Nam im lặng theo sau, anh cố lắng tai nghe những âm thanh của cưa máy, rìu đốn gổ, nhưng chiều nay dưới tàn lá rậm rạp chỉ có tiếng chim chóc gọi đàn trên cành cao.
                        Đi hết con đường mòn ngoằn ngoèo, anh và Ba Du ra khỏi khu rừng già âm u, nhìn trời vẩn còn sáng, Nam hy vọng khi về đến gần ngoài đến đó, vẩn còn đủ thời gian sang nhà Hai Tuất.
                        Lôi con thuyền giấu kỹ dưới bụi cây ra bờ hồ, hai người đàn ông bơi về phía hạ nguồn, tiếng sóng nước vổ nhẹ đều đều vào lườn gổ, mới đi được khoảng một phần ba quảng đường trên hồ, bầu trời chợt tối sầm lại, những đám mây màu đen cuồn cuộn từ góc tây – bắc kéo về vùng rừng núi quanh hồ. Ba Du ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đang sáng sủa bổng tối đen như mực, những cơn gió giật bắt đầu thổi ào ạt qua rừng cây ven bờ làm phát những tiếng reo hú và tiếng cây vặn mình kêu răng rắc đầy vẻ đe dọa, Ba Du có vẻ đã có kinh nghiệm về những cơn giông nhiệt bất chợt này và thừa biết sự nguy hiểm của nó khi còn đi trên hồ, nên nói lớn:
                        -Cố gắng bơi nhanh vào gần bờ để tránh cơn giông chú Nam
                        Nhưng chiếc xuống không kịp với tốc độ của những cơn gió cuốn nhanh ào ạt như vó ngựa, cơn dông quét qua mặt hồ với sức mạnh kinh khiếp, những hạt mưa dử dội cũng quật xuống chiếc xuồng đang dập dềnh trên những cơn sóng cuồn cuộn làm cho Nam sợ kinh hồn. Phía trước mủi, Ba Du vẩn bình tỉnh chèo mạnh hướng chiếc xuồng vào bờ, khuôn mặt hơi lầm lì dưới bóng tối của vành nón vải, dùng mái chèo đảo mạnh chiếc xuồng để đổi vị trí, Nam ra phía mủi, Ba Du ra sau lái, cả hai cúi mọp người ra sức bơi vào trong bờ, mặt hồ vẩn dậy sóng đùng đùng, trong bóng tối mịt mù, nhìn những cơn sóng dữ dội vây bủa khắp nơi làm Nam nghỉ mình và Ba Du đang bị lạc vào cơn bão trên biển, Nam nghĩ thầm trong đầu:
                        -Ông bà xưa nói đúng, vàng gió, đỏ mưa
                        Anh vừa bơi, vừa phải nhanh tay tát nước trong lòng xuồng, vào được gần bờ, Ba Du ra hiệu bơi luôn về nhà, cả hai tung hết sức ra bơi cật lực.
                        Sau gần nửa tiếng vất vả với gió giật, mưa to, chiếc xuồng cập sát bến cũ, Nam lấy dây cột thật chặt vào bụi cây bên hồ, rồi xách gùi chạy về nhà Ba Du.
                        Con Ki nhìn thấy chủ nó và anh vào nhà với áo quần ướt đẫm nước, nó lăng xăng đi tới lui đưa cái mủi ngửi cái quần đang nhỏ từng giọt nước xuống nền đất. Ba Du lấy quần áo của mình ra thảy cho Nam:
                        -Chú Nam thay đồ khô, coi chừng cảm lạnh
                        Còn Ba Du nhanh tay đốt đống lửa to trong bếp, ánh sáng và hơi nóng làm không khí căn nhà dể chịu, Nam đến góc nhà lấy vài củ khoai lang to bỏ vào đống than hồng, Ba Du lấy cái nồi đổ vào chút gạo, bắp, đậu xanh và đặt lên bếp rồi nói:
                        -Chú Nam tối nay ở lại đây ăn cơm tối luôn
                        Bỏ hai cái bầu rượu trong gùi ra phản, Ba Du tới cái kệ gổ lấy hai cai ly, rót rượu vào rồi đưa cho anh:
                        -Uống một ly cho nóng người chú Nam
                        Cơn lạnh thấu xương nảy giờ làm anh ngồi co ro, uống nửa ly rượu thuốc vào, máu trong các mạch chảy mạnh, cảm giác nóng, ấm áp dể chịu lan ra khắp người.
                        Ngoài trời côn dông đã lắng xuống, những giọt mưa vẩn rơi tí tách rơi xuống từ mái tranh, bóng đêm đến nhanh hơn mọi khi. Mùi khoai nướng bay lên thơm lừng, anh lấy cây khều ra khỏi than cháy đỏ, đang đói và lạnh ăn khoai nóng thì tuyệt cú mèo. Ba Du đến gần vách bếp lấy xuống con cá khô đưa cho anh bỏ lên nướng, mấy lúc câu được nhiều cá ăn không hết, Ba Du mổ ra, tẩm ướp rồi phơi khô làm món dự trữ.
                        Buổi cơm tối đạm bạc nhưng rất ngon miệng vì cơn lạnh và đói, thêm vài ly rượu thuốc làm ấm bụng, Ba Du nhìn anh cười nói:
                        -Cơn dông hồi chiều ít khi xảy ra, thường là thời gian giao mùa do không khí nóng và lạnh gặp nhau ở vùng rừng núi tạo nên lốc xoáy, mỗi năm chừng vài lần
                        Nam gật đầu, nhưng nhớ lại lúc chiếc thuyền bị gió lớn, sóng cuộn lên làm chao đảo, kinh hồn, nhớ Hai Tuất hẹn qua nhà chơi nên hỏi:
                        -Sáng mai qua thăm anh Hai Tuất chứ hả anh Ba?
                        -Ừ, chú Nam ở bên đó, nghe tui kêu thì ra bờ hồ rồi cùng đi
                        Ăn xong, anh và Ba Du ngồi hút thuốc lá nhìn mông lung ra bên ngoài, lúc sáng Nam dự tính tối khuya hôm nay lại lấy xuống của Ba Du bơi ra gần con đập để quan sát, dò la việc canh gác vào ban đêm ở đó, nhìn làn mưa vẩn còn lất phất bên ngoài, thêm ướt lạnh vì cơn dông trên hồ, không biết có đủ sức thức chờ đến giữa đêm hay không.
                        Thấy cơn mưa còn kéo dài dai dẳng, anh mượn tấm ni-lông cũ làm áo che mưa và cái đèn pin tự chế của Ba Du rồi cầm bộ quần áo ướt đi về.
                        Bây giờ đã quen đường, quen lối, Nam nhắm hướng đi tắt qua rẩy khoai lang cho nhanh, cơn mưa lớn lúc chiều tối làm cho đất đai lâu nay khô ráo, trở nên xốp, mềm dưới các bước chân, đi ngang qua mấy bụi rậm bên ngoài rìa khu rừng chồi, cây lá vẩn còn nghiêng ngửa vì gió lốc của cơn dông, bổng có tiếng sột soạt như có một con vật to lớn đang bỏ chạy trong đó, Nam chiếu ánh sánh mơ mờ của cái đèn về hướng đó, chỉ thấy tàn lá bên trên rung rinh theo hướng chuyển động của con vật vào sâu bên trong, và sau đó mọi thứ lại yên lặng dưới làn mưa bay lất phất.
                        Nam đi nhanh về nhà, con Đốm thấy anh về mừng cuống quít, lấy quẹt thắp ngọn đèn dầu trên kệ cho sáng, anh chất vài thanh củi vào bếp lò đốt thêm cho đỡ lạnh lẻo, thấy nhà cửa vẩn còn nguyên vẹn sau cơn dông, anh cho con Đốm miếng cá khô và khoai nướng từ nhà Ba Du, nó ăn ngon lành, chắc đang đói lắm.
                        Gác cây sào tre lên cao trên cái bếp, rồi phơi cái nón và bộ quần áo ẩm ướt lên đó, trái mít của Ngọc Minh cho còn trong gùi, mùi thơm của nó tỏa ra khắp căn nhà nhỏ.
                        Anh khép cửa lại, trời cũng đã khuya, đi ngủ sớm một chút, gần khuya thức dậy nếu hết mưa sẽ lấy xuồng bơi ra đập.
                        Tuy mệt mỏi, nhưng Nam chỉ nằm ngủ lơ mơ, ngọn lửa vẩn cháy âm ỉ trong bếp, anh lắng nghe bên ngoài tiếng gió thổi nhẹ luồn qua mái tranh, đêm nay không gian bên ngoài im ắng quá, không có tiếng của những con chim cú hay săn mồi về đêm và hay kêu trong những đêm tịch mịch, có thể cơn dông lớn buổi chiều làm cho cuộc sống hằng ngày của các con vật này bị xáo trộn, thay đổi …
                        Anh thức dậy, mở hé cửa sổ nhìn ra bên ngoài, cơn mưa đã tạnh, chỉ còn những cơn gió nhẹ mang hơi lạnh thổi qua, không biết mấy giờ, Nam đóan cũng gần nửa đêm, anh mở cửa lách người đi ra theo lối tắt đến nơi cột xuồng, giờ này chắc Ba Du ngủ rồi, nhưng cũng phải cẩn thận.
                        Tháo dây chiếc xuồng xong, Nam ngồi lên từ từ bơi ra ngoài xa và về phía con đập, lúc này nguy hiểm nhất là chạm trán du kích đi tuần, nên anh chèo nhẹ nhàng và không bơi gần bờ. Khi mắt đã quen với màn đêm, anh và chiếc xuồng bơi một đoạn đường dài trong không gian im vắng, và bóng cây me tây hiện ra mờ mờ, Nam cẩn thận bơi chậm, cành lá của nó vẩn vươn ra phủ kín một góc, căn nhà nhỏ nằm kế bên gốc cây và trạm gác tối thui không ánh đèn, anh cột dây vào một cái rể to chìa ra bên ngoài, hai cái xuồng nhỏ nằm sát bên nhau. Nam nắm ép mình xuống để khỏi bị nhìn thấy, vài tiếng chó sủa từ những căn nhà nằm dọc con đường bên trong, anh đưa mắt cố nhìn qua bóng tối, có thể du kích và công an sắp đi tuần qua, nhưng trên đường vẩn im lặng như tờ.
                        Nằm quan sát thêm một lúc nữa, thấy trạm gác vẩn tối thui và im lặng, không một tiếng động trong màn đêm âm u, tay công nhân trực chắc đang ngủ say như chết. Anh tháo dây và bắt đầu bơi về, cẩn thận như lúc đi, Nam cho xuồng tách xa khỏi bờ và bơi nhẹ nhàng đề phòng gặp du kích và công an đi tuần. Tối nay đã mệt mỏi vì đi bộ vào buôn và gặp cơn dông, nên Nam thấy bắt đầu đuối sức, anh cố bơi mà không tiến lên được bao nhiêu, muốn tấp vào bờ nghỉ một chút, nhưng sợ nên ra sức bơi tiếp, đường về đêm nay quá dài, kiệt sức và thêm cơn buồn ngủ rình rập, nhiều lúc Nam bơi một cách vô thức, chiếc xuồng xiên xẹo âm thầm tiến về phía thượng lưu, cuối cùng sự lì lợm cùng với kiên trì của anh đã đưa chiếc xuồng về bến cũ. Vừa cột dây vào bụi cây, con Ki từ đâu xuất hiện, nó chạy đến bên anh ngoắc đuôi, may mà nó không sủa, anh vuốt đầu nó rồi lội bộ nhanh về nhà, con Ki đi theo phía sau.
                        Đẩy cửa vào nhà, Nam nằm lăn lên chiếc phản và chìm ngay vào giấc ngủ sâu, con Đốm đang nằm ở góc nhà thấy con Ki xuất hiện giữa đêm khuya, nó chạy đến ngoắc đuôi và đánh hơi chào hỏi.
                        Mặt trời lên cao và sáng rực rở, Nam giật mình tỉnh giấc, nhìn xung quanh cửa nẻo vẩn đóng kín, không thấy con Đốm đâu. Nhìn lên đầu hồi mái nhà, bây giờ anh mới thấy cơn dông mạnh chiều qua thổi tốc hàng tranh gần đỉnh mái, làm lộ ra bầu trời bên trên.
                        Bụng đói cồn cào, anh lấy trái mít xẻ ra ăn, múi nó giòn, thơm và rất ngọt, chất đường làm Nam thấy tươi tỉnh. Có tiếng Ba Du gọi ngoài bờ hồ, anh ra phía sau khoác nước lên rửa mặt cho tỉnh táo, cầm theo một góc trái mít, Nam khép của nhà rồi theo con đường đi xuống bến, vừa đi, vừa ăn, ngạc nhiên vì ít khi thấy Nam vội vã như vậy, Ba Du cười hỏi:
                        -Chú Nam chưa ăn sáng hả?
                        -Sáng nay dậy trể nên chưa ăn
                        Rồi lên xuống cùng bơi qua bên kia hồ, Ba Du nhìn anh có vẻ thắc mắc nói:
                        - Sáng nay dậy sớm, tui không thấy con Ki ở trong nhà, tối hôm qua giữa khuya hình như nó chạy ra bờ hồ không biết có chuyện gì, rồi không thấy về, mà cũng không thấy nó sủa …
                        Nam súyt bật cười khi nghe nói, nhưng anh tảng lờ như không biết:
                        -Vậy hả anh Ba, tối hôm qua về mệt quá tôi ngủ đến tận sáng, nên cũng không nghe tiếng sủa nào, chiều hôm qua mái nhà bị dông gió làm bay mất một số tranh, hôm nay nhờ anh Ba sửa lại giùm
                        -Ừ, chút nửa về tui sửa nó lại cho chú Nam
                        Cập chiếc xuồng vào gần xuống của chủ nhà ở gần đó, hai người lên nhà Hai Tuất, ba bốn con chó chạy ra sủa ồn ào, Hai Tuất chân bước khập khiễng ra đứng đón dưới hàng cây lêkima, chờ Ba Du và anh đến gần, ông ta vui vẻ nói:
                        -Hai vị khách quí chờ gần hết Tết rồi mới qua thăm
                        -Xin lỗi anh Hai, tui cũng mới lên ngày mùng năm, hôm qua sáng vô trong buôn, tính chiều về sớm qua thăm anh, nhưng bị cơn dông quá lớn nên sáng nay mới qua đây, xin tạ lỗi
                        -À, tôi nói cho vui thôi mà, có chi đâu mà phải tạ lỗi anh Ba, hôm nay lai rai tới trưa mới về nhé
                        Còn khá sớm nên Hai Tuất mời Ba Du và Nam vào nhà uống trà, Hai Tuất nhìn Ba Du hỏi:
                        -Chiều qua lúc cơn dông tới chắc còn đang kẹt trên hồ hả?
                        -Ừ, tui với chú Nam cố bơi về nhà, lâu lắm mới có cơn dông lớn và dử dội như vậy, bên anh có bị tốc mái bay tranh không?
                        -À không, lần rồi sửa lại chắc chắn nên không sao, ừ, vào trong buôn chắc cũng nghe nói vụ tỉnh cho phá rừng và nông trường quản lý cái hồ chứ hả Ba Du?
                        -Trong đó Điểu Sơn, Điểu Rút cũng đã biết rồi, dân trong đó rất lo buôn phải di dời đi nơi khác … khó sống hơn chỗ hiện nay – Ba Du trả lời
                        Hai Tuất nghe xong gật gù, khuôn mặt không dấu được vẻ âu lo, nhìn Ba Du và Nam nói:
                        -Tôi cũng đang sợ là nếu xã quản lý hồ nước, họ sẽ thu hồi đất đai của dân sống quanh hồ …
                        -Ở bên này Hai Tuất có nghe vụ người lạ vô đốn cây trong rừng không, sáng hôm qua vô đó, tui với chú Nam nghe tiếng cưa máy, trong buôn cũng biết mấy vụ đốn gổ lậu này …
                        -Dân bên làng này vào rừng kiếm mật ong, đặt bẩy thấy nhiều người lạ làm vụ này lắm, nhưng tôi chắc là có móc ngoặc với bên kiểm lâm, hoặc công an xã, huyện chứ họ không làm một mình đâu
                        Nam trả lại mấy món búa, kềm … mà Hai Tuất cho anh mượn lần trước, bà xã Hai Tuất từ bên trong gian bếp đi lên, cười hỏi một tràng dài:
                        -Về nhà ăn Tết với gia đình mới lên hả anh Ba, ở dưới vui không, gia đình vẩn khỏe chứ hả, nấu nướng xong rồi đây, chuẩn bị dọn lên nghe, hôm nay có anh Ba và chú Nam qua nên tôi làm món cá hấp đãi một bửa, mình uống cho đã Tết này, chưa biết năm tới có còn ở đây không!
                        Ba người đàn ông nghe xong ai cũng cười, Nam và Ba Du xuống bếp phụ dọn các món lên bàn, Hai Tuất mang hai chai rượu đế trong veo ra để kế bên. Anh nhìn con cá chép to hấp để đấy cái dĩa, hai cái dĩa rau xanh ngồn ngộn, rồi khế và chuối thái mỏng, những lát ớt đỏ rực trong tô nước mắm pha với chanh, tỏi, bà xã Hai Tuất đúng là đầu bếp có tay nghề giỏi.
                        Món cá chép hấp sả gừng cuốn với rau sống quá tuyệt, đã lâu rồi Nam mới được thưởng thức nó. Hai Tuất để cho Ba Du và Nam thay nhau rót rượu, chỉ tay vào rượu đế trong chai nói:
                        -Rượu này mấy người quen trong làng nấu, chia lại vài lít để Tết lai rai với bà con, bạn bè, nó uống đằm, không bị nhức đầu
                        -Tình hình vậy có tính gì không anh Hai? – Ba Du hỏi
                        -Cũng chưa biết đi đâu, cũng có thể về Saigon kiếm nghề gì đó để làm vì có nhà bà ngọai mấy nhỏ ở dưới đó, cũng có thể ở lại tiếp tục làm rẩy … Ba Du với chú Nam chắc về lại thành phố hả, chứ trên này cứ vài ba năm, mấy ống lại bắt di dời ra vô hoài, sao sống nổi …
                        Nam và Ba Du nghe nói gật gù, Ba Du chậm rải nói:
                        -Không biết đi đâu thì cuối cùng cũng về lại Saigon kiếm sống thôi …
                        -Dân Saigon đi kinh tế mới lên đây mấy năm trước bây giờ đi tứ tán gần hết, đa số là quay về thành phố, một số xin vào làm công nhân trong nông trường cao su
                        -Tôi thấy dân đi kinh tế mới về Saigon làm đủ thứ nghề, khuân vác hàng ở bến xe, ngoài chợ, bán hàng rong, rồi ăn xin, tội nghiệp lắm, có người xấu thì đi ăn trộm, ăn cướp … - Nam nói
                        Im lặng một lát, Hai Tuất nhìn anh hỏi:
                        -Chú Nam không đi vượt biên hả, còn trẻ mà kẹt lại ở Việt Nam thì chắc sau này chẳng có tương lai đâu
                        Bà xã Hai Tuất xong công việc bếp núc, ra ngồi trên tấm phản nhìn ba người đàn ông góp chuyện:
                        -Bộ ông tưởng vượt biên dể dàng hả, vàng không có cây nào thì ai cho đi, chưa kể là đi không lọt còn bị công an bắt giam, học tập, cải tạo, rồi ra được ngoài biển thì còn cướp biển, mưa bão … nữa, ai may mắn thì mới sống sót tới được trại tỵ nạn
                        -Ừ, thì tôi có nói gì đâu, chỉ hỏi chú Nam cho biết thôi – Hai Tuất cười nhìn vợ
                        Ba Du và Nam cũng mỉm cười vì sự lanh lợi của bà xã Hai Tuất, Ba Du bổng khen:
                        -Chị Hai làm món này ngon quá, mai mốt về Saigon mở quán ăn sống được rồi
                        -Mấy ông này có cho mở tiệm, mở quán buôn bán gì đâu, bây giờ còn ngăn sông, cấm chợ thì biết khi nào dân mới hết đói khổ
                        Hai Tuất rót rượu ra ba cái ly rồi cầm lên:
                        -Ba Du, chú Nam cạn ly nhé, mồi còn nhiều lắm, nghe Ba Du nói chú Nam trước đây có đi buôn nông sản trong vùng này hả?
                        -Dạ, thường lên chợ Bình Long mua đậu, bắp, tiêu … mang về thành phố, cũng có vài lần mua lại của con buôn trong Minh Thạnh
                        -Đàn ông mà đi buôn bán chắc dọc đường có nhiều cô mê lắm – bà xã Hai Tuất cười nói
                        Cả ba người đàn ông cùng cười, Nam vui vẻ trả lời:
                        -Nghề đó cũng cực lắm, chở hàng về thành phố qua trạm hồi hộp lắm, có lúc qua được, có lúc sạt hàng xuống tịch thu, vốn liếng sạch sẽ, trắng tay, có cô nào dám mê đâu
                        Nghe anh nói, mọi người cất tiếng cười sảng khoái, Ba Du góp chuyện:
                        -Ở Saigon bây giờ mà làm công nhân viên nhà nước cũng khó sống, lương ba cọc, ba đồng, cuối tháng cho lãnh thêm một mớ nhu yếu phẩm, vì vậy có nhiều người chân trong, chân ngoài, vừa đi làm, vừa ra đứng ngoài chợ trời sống qua ngày, ai cũng chăm chăm tìm đường vượt biên …
                        -Khổ quá dân ai mà chịu nổi, ăn bo bo, khoai mì tối ngày, ai cũng nói, cột đèn mà có chân thì nó cũng vượt biên rồi – bà xã Hai Tuất làm nóng câu chuyện
                        -Sắp tới nếu về dưới, vợ chồng tôi ở bên nhà bà ngoại mấy đưa nhỏ ở quận 8, qua cầu Nhị Thiên Đường, lúc đó anh Ba và chú Nam ghé qua chơi cho biết nhà – Hai Tuất nhìn Ba Du nói
                        -Ừ, khi nào anh chị có về dưới đó, tui và chú Nam sẽ qua thăm, rồi anh em coi có việc gì làm sẽ giúp nhau
                        -Bên đó nhiều ghe đi buôn từ miền tây theo kinh rạch chở hàng về Saigon, đậu dọc các bờ kinh, mua hàng của họ về các chợ bán lại cũng kiếm lời được – Nam nói
                        Mặt trời lên cao gần đến đỉnh, dĩa cá hấp sả gừng được chiếu cố sạch sẽ, bà xã Hai Tuất chạy ra phía sau nhà thái rau cho mấy con lợn trong chuồng ăn.
                        Gần hết chai rượu thứ nhất, Ba Du và Nam xin phép về vì buổi chiều còn phải sửa lại mái nhà của anh bị cơn dông chiều hôm qua làm tốc bay một góc, Hai Tuất rót thêm lần nửa vào ly của Ba Du và Nam, rồi cùng nhau uống cạn, bà xã Hai Tuất từ chái bếp đi lên, tay cầm mấy trái lêkima chín vàng đưa cho Nam.
                        -Có tin gì mới cho vợ chồng tôi biết với nhé – Hai Tuất đứng lên bước theo hai vị khách ra cửa và dặn dò
                        Ba Du gật đầu:
                        -Ừ, có chuyện gì quan trọng sẽ qua cho anh biết liền, tụi tui về nhé
                        Về đến bờ hồ, Nam đang cột dây xuồng, chợt nghe con Ki sủa dử dội ở phía trên nhà Ba Du, nghe tiếng nó sủa, anh và Ba Du đoán là có du kích đi tuần hay người lạ đang đến.
                        Khoảng vài phút sau, một nhóm năm người đàn ông, vài người cầm rựa đi từ trong rừng cao su ngang qua rẩy dọc theo bờ hồ lên phía thượng lưu, Nam và Ba Du đang theo lối mòn lên con dốc, nhìn thoáng qua anh không nhận ra có khuôn mặt nào quen trong đó, Ba Du nhìn theo hướng họ vừa đi qua rồi nói:
                        -Đường đi dọc bờ hồ bên này rừng cây và dốc đồi lởm chởm đá khó đi qua lắm mà họ vẩn đi
                        Chờ cho họ đi khuất vào rừng chồi và đồi đá, Ba Du nhìn Nam:
                        -Có một tay trong nhóm này nhìn quen lắm, hắn mặc đồ xanh xám, hình như trong đội kiểm lâm, mấy ông trong ủy ban xã, lảnh đạo nông trường chắc thừa cơ hội này ra tay đốn gổ rừng, … chiều nay tui qua sửa lại cái mái nhà nhé chú Nam
                        -Tôi sẽ chờ, chắc phải có thang để lên mái hả anh Ba?
                        -Ừ, tui làm cái thang ngắn rồi vác qua, chỗ tranh bị tốc đó làm lại chút xíu là xong
                        Nam băng ngang rẩy và con suối đi về nhà, bửa trưa bên nhà Hai Tuất đãi anh và Ba Du thịnh soạn quá, thêm chai rượu đế ngon đưa cay, anh mỉm cười, thôi lên cái phản tre đánh một giấc ngủ sâu, bù lại cho tối hôm qua.
                        Chiều Ba Du vác cái thang và một bó dây lạt dài, mảnh chẻ ra từ thân tre, Ba Du leo lên mái, sốc lại chỗ tranh bị xộc xệch cho thẳng hàng và dùng dây cột chặt lại, sẵn dịp này, Ba Du chịu khó buộc lại phần tranh ở đỉnh mái bị nghiêng ngã rồi mới đi xuống.
                        Anh và Ba Du ra ngồi trên khúc gổ trên sân hút thuốc, còn nghĩ được vài ngày nửa là bắt đầu cầy cuốc trồng vụ mùa mới, thấy trời con sớm, Ba Du rủ Nam lấy xuồng đi đánh cá, cả hai bơi xuồng lên phía trên hồ, gần địa điểm lần trước. Đến nơi, Nam lấy lưới thả dọc cách bờ một khoảng xa, sau đó bơi vào gần bên trong cho Ba Du xuống chỗ bải cạn, cầm xiên lội vào đám lau lách, bông súng dò dẩm từng bước để bắt rắn nước, lươn …
                        Nam ngồi lại trên xuồng, thấy Ba Du vài lần phóng cây xiên thép xuống nước, nhưng chưa được con nào, chiều nay thời tiết tốt, trên bầu trời không một gợn mây, khác với hôm gặp cơn dông nhiệt bất ngờ và dử dội. Ba Du lội đi xa hơn vào nơi nước hồ sâu qua đầu gối, ngay đám lá bông súng che gần kín mặt nước, đôi mắt chăm chú quan sát rồi nhanh như chớp phóng cây xiên và ghìm nó xuống bên dưới, nhìn từ xa, Nam đoán chắc đã bắt được cá, lát sau Ba Du thò tay xuống nhấc đầu cây xiên lên, một con lươn dài đang cong mình, vung vẩy khúc đuôi trên không.
                        Nam quay lại bơi dọc theo hàng phao trên lưới, anh nhấc chỗ phao bị chìm lên và gở hai con cá mè bỏ vào lòng xuồng, đi thăm xong hết chiều dài tay lưới, anh ngồi nghỉ và lấy thuốc lá ra hút. Ba Du bắt thêm được con cá lóc, bây giờ đang trầm người xuống nước hái mấy cọng bông súng, chắc định dùng nó làm món canh chua chiều nay. Anh bơi ngược lên hàng phao lần nửa, gở thêm hai con cá chép và cá rô bỏ vào xuồng.
                        Bổng nhiên nhiều tiếng súng nổ từ hướng bên trong khu rừng vọng ra bờ hồ, Nam và Ba Du cùng nhìn về phía con đường chạy sâu vào bên trong, tiếng súng vẩn nổ kéo dài không ngớt và mỗi lúc hình như nghe rỏ và lớn hơn, nhớ đến mấy người đàn ông lạ có mang súng anh đã gặp và nhóm người lạ sáng nay đi ngang qua rẩy, đoán có chuyện bất thường xảy ra, anh bơi nhanh tới chỗ Ba Du lúc đó cũng đang chăm chú đưa mắt nhìn về phía bìa rừng, đề phòng bắt trắc Nam kêu:
                        -Anh Ba lên xuống đi
                        Ba Du bỏ cái thùng và bó bông súng vào khoang, bình tỉnh nhảy lên, lấy mái chèo cùng Nam vội vàng bơi lui ra xa phía bên ngoài, nhiều tiếng súng vẩn nổ từng tràng dài, vài lần Nam nghe như có những viên đạn rít ngang trên đầu, Ba Du ra dấu cho anh ngồi thấp xuống khoang, một lúc lâu sau tiếng súng ngơi bớt, và không gian xung quanh hồ từ từ yên tĩnh trở lại. Ba Du và Nam nhìn về phía bìa rừng xa xa bên trong, bốn, năm người đàn ông với dáng vẻ sợ hãi, tất tả lội bộ rất nhanh đi về phía xã Minh Tân, hướng làng của Hai Tuất.

                        (còn tiếp)

                        Comment


                        • #13
                          DƯỚI ĐÁY HỒ SÂU VÀ ĐÊM MỞ CỬA ĐẬP

                          Trời còn sớm nhưng trên hồ xuất hiện hai chiếc xuồng của công an và du kích xã bơi về phía thượng lưu, hai con chó Đốm và Ki trên bờ thi nhau sủa râm ran làm Nam giật mình tỉnh giấc, anh mở cửa nhìn ra sân và về phía hồ nước, trên mỗi chiếc xuống có bốn người đàn ông với súng ống đầy đủ, Nam đoán đã xảy ra chuyện quan trọng, chắc là chuyện dính líu đến vụ nổ súng dữ dội chiều hôm qua trong rừng.
                          Từ ngày ở Saigon lên làm rẩy đến bây giờ, đây là lần đầu tiên Nam thấy lực lượng du kích và công an xã phối hợp đi tuần đông đảo như vậy.
                          Anh ra phía sau rửa mặt mủi cho tỉnh táo, lấy khoai lang nướng trên kệ tre xuống ăn, mấy trái lêkima của bà xã Hai Tuất cho đã chín nứt nẻ, Nam thì lại rất thích loại trái này, nên thưởng thức một lúc luôn cả hai trái.
                          Ăn sáng xong, anh lấy bao bắp giống xuống để chuẩn bị làm đất xong là trỉa hạt xuống, đợt này Nam tính trồng ít hơn vụ mùa vừa rồi, chủ yếu làm là để mọi người thấy anh cũng “hăng say lao động”. Rắc rối là thời gian tới chính quyền có thể bắt buộc di dời nhà cửa, và thu hồi đất đai của người dân, nên cũng chưa rỏ là xã có cho trồng trọt gì ở đây nửa không.
                          Nam suy nghĩ kỹ rồi đi đến quyết định, đã đến lúc phải chia sẽ với Ba Du về bí mật của hai thùng đổ cổ rồi, biết đâu Ba Du có ý kiến gì mới và hay hơn, còn bây giờ phải chọn lựa thời điểm thích hợp để nói cho thuận lợi.
                          Con Đốm đang nằm lim dim ở cửa, bổng nó chồm dậy chạy đến bên cây mít trước sân và đứng sủa ra phía bờ hồ, Nam tò mò nhìn qua cửa sổ thấy Hai Tuất đang bơi xuồng đã qua đến bên này, ông ta chụm hai tay làm loa gọi lớn, rồi sau đó chỉ về phía nhà Ba Du:
                          -Chú Nam, qua bên đó nhé!
                          Anh gật đầu, suy nghỉ có lẻ vì tin tức vụ nổ súng hôm qua trong rừng, nên Hai Tuất mới qua đây đột xuất như vậy. Nam khép cửa nhà, lội bộ ngang qua rẩy khoai qua nhà Ba Du.
                          Đến nơi thấy Hai Tuất đứng chờ trước hiên nhà, Ba Du đang cuốc đất thấy Hai Tuất qua liền nghỉ tay đi vào. Đoán có việc khẩn hay tin quan trọng nên Hai Tuất mới xuất hiện vào giờ này, Ba Du hỏi:
                          -Có chuyện gì mới hả anh Hai?
                          -Ừ, chuyện chiều hôm qua bắn nhau trong rừng, chắc ông và chú Nam có nghe tiếng súng nổ phải không?
                          Ba Du và Nam gật đầu, Hai Tuất nói tiếp:
                          -Chiều qua mấy tay đàn ông đang đốn gổ trong đó bỏ chạy ngang qua xóm tôi, họ nói có bắn nhau giữa mấy phe nhóm đốn gổ lậu của hai xã Minh Biên và Minh Thạnh, dân trong xóm nói có một người chết, và hai bị thương, ủy ban xã mới báo lên huyện và tỉnh, tôi thấy tình hình gay go rồi, mấy phe của ba xã dành nhau khai thác lậu gổ rừng, bên đó chiều tối hôm qua công an tỉnh chạy xe xuống tận xã, bắt khẩn cấp mấy tay có dính líu đến vụ này…
                          -Bên này sáng sớm tôi đã thấy hai chiếc xuồng chở đầy công an, du kích đi lên trên đó – Nam nói
                          Hai Tuất trả lời:
                          -Chắc cũng vì chuyện bắn nhau đó chú Nam, sắp tới họ sẽ đóng chốt trong đó dài ngày, rồi lại cấm dân ra vào nhặt củi, đặt bẩy kiếm sống cũng vì chuyện lộn xộn này
                          Rồi ông ta nhìn ra chỗ Ba Du vừa cuốc lúc nảy và hỏi:
                          -Vụ bắp sắp tới này Ba Du có tính trông nhiều như mùa rồi không?
                          -Để coi còn tùy tình hình, nhưng chắc tui làm ít lại, anh Hai vô nhà uống nước!
                          -Thôi, tôi về đây, bên đó cũng chuẩn bị cho vụ tới, lộn xộn quá, cũng không dám xuống giống nhiều
                          Nói xong, ông ta đi theo lối mòn lấy xuồng bơi ngang hồ về nhà, Nam và Ba Du ra ngồi trên hai tảng đá ngoài sân hút thuốc, anh nhìn Ba Du nói:
                          -Chiều xong công việc kiếm món gì lai rai nhé anh Ba
                          Ba Du nhìn anh tỏ ra hơi bất ngờ, nhưng rồi gật đầu:
                          -Ừ, còn mấy con cá và mớ cọng súng hái chiều hôm qua, chiều chú Nam xong công việc rồi thì qua nhé
                          Nam đứng dậy đi về, chiều tối nay mượn cớ lai rai, anh quyết định sẽ nói cho Ba Du biết về chuyện bí mật của hai cái thùng đồ cổ.
                          Nam vừa về nhà được khoảng nửa tiếng, thì Năm Bình chạy xe đạp xuyên qua rừng cao su vào gặp Ba Du lúc đó đang quay lại cuốc đất trên rẩy. Chỉ tay vào bóng mát của cây điều gần đó, hai người đàn ông vào ngồi trên đống đá hộc hút thuốc và nói chuyện, Năm Bình nhìn xung quanh rồi hỏi:
                          -Ông biết vụ bắn nhau chiều hôm qua trong rừng chưa?
                          -Rồi, sáng nay Hai Tuất có qua bên này cho biết, chiều qua lúc có tiếng súng nổ, tui với chú Nam đang đánh cá gần trong đó, ngoài xã chắc dân xôn xao dử hả?
                          -Ừ, có chết người nên tỉnh cử cán bộ xuống điều tra sáng nay, ra lệnh không ai được vào rừng, có thể vài tay cán bộ xã dính líu đến vụ đốn gổ lậu này sẽ bị bắt giam, tôi nghe ngoài xã nói tay bị bắn chết là người của bên công an hay kiểm lâm gì đó …
                          -Mấy ông lãnh đạo trong nông trường có dính dáng gì vụ này không?
                          -Không biết chừng, nhưng công nhân thì họ có đồn với nhau, ít nhiều chắc cũng có vài ông, gổ lậu khai thác đem về thành phố bán kiếm khối tiền, có ông nào chịu nhịn … chú Nam hôm nay đâu?
                          -Ở bên nhà tui vừa mới về được một lát thì ông vô, trong này cũng đang chuẩn bị làm đất để trồng bắp mùa khô, trưa nay ông ở lại đây không?
                          Năm Bình lắc đầu, vừa hút xong điếu thuốc lá, đứng dậy nói:
                          -Thôi tôi về, hôm nào rảnh ra quán uống cà- phê nhé
                          Ba Du nhìn bóng ông bạn và chiếc xe đạp chạy xa dần rồi khuất vào trong rừng cây cao su.
                          Mặt trời đã lên gần đỉnh đầu, mùa khô đã đến, hơi nóng hừng hực tỏa ra trong không gian, thỉnh thoảng vài cơn gió mát thổi lên từ mặt hồ làm dịu bớt sự khó chịu. Ba Du quay ra tiếp tục cuốc đất, dáng người lính năm cũ nhẫn nại như một người nông dân vùng quê dưới cái nắng chói chang.
                          Sau buổi chiều dọn cỏ và cuốc xong mảnh đất gần nhà, nơi vụ mùa rồi trồng đậu xanh, Nam ra hồ tắm rửa, nhìn qua bên kia bờ, chiếc xuồng của Hai Tuất có người chèo đi đâu đó vừa trở về đang cập vào bến, cái xóm nhỏ bên bờ hồ buổi chiều mang vẻ tiêu điều của vùng bán sơn địa heo hút.
                          Nước mát lạnh làm anh thấy khỏe khoắn, mát mẻ trong lúc thời tiết cuối buổi chiều vẩn còn nóng nực. Nam nhớ đến Ngọc Minh, không biết mấy ngày vừa rồi trong buôn ra sao, chắc dân trong đó cũng đang chuẩn bị công việc trồng tỉa cho những ngày sắp tới, mặc dù những tin tức và biến cố bất thường sau Tết đang bủa vây quanh cái buôn lâu đời của họ. Nam suy nghĩ nên chờ thêm vài ngày nửa, cho đến khi tình hình lộn xộn trong rừng lắng xuống, lúc đó sẽ vào thăm Ngọc Minh, bây giờ thì vẩn còn nguy hiểm khi đi qua đó.
                          Ba Du từ phía sau rừng chồi xuất hiện với cái cuốc trên vai, lấy tay ra dấu cho Nam hiểu là chút nữa anh nhớ qua, Nam gật đầu.
                          Nhìn mặt trời lặn về hướng tây, vài tia nắng le lói cuối cùng chiếu xuyên qua những đám mây mỏng trên cao, không gian yên tĩnh của rừng núi đang dần chìm sâu vào bóng tối.
                          Nam và con Đốm qua nhà Ba Du, mỗi lần thấy anh sắp đi qua đó là nó vẩy đuôi mừng rở, hăng hái chạy trước vì nó thích được chơi đùa với con Ki, hình như con chó nhỏ nào cũng vậy.
                          Vào nhà, thấy Ba Du vẩn còn đang lui cui bên bếp, cái đèn dầu treo trên cây cột đã được thắp lên, ánh lửa trong bếp cháy bập bùng rọi sáng một góc của chái bếp, Nam hỏi:
                          -Có cần làm thêm việc gì nửa không anh Ba?
                          -À, chắc khỏi, sắp xong rồi
                          Anh đến bên cái kệ gổ lấy cái bầu rượu xuống cùng với hai cái ly, Ba Du mang dĩa cá rán, thêm vài trái ớt, dĩa rau lang luộc trông ngon lành, cùng mớ rau xanh trong vườn sau nhà bày ra trên tấm phản.
                          Con Ki dẩn con Đốm chạy ra ngoài sân chạy nhảy, lăn lộn hào hứng như hai diễn viên xiếc thú,
                          Ba Du lấy bầu rượu, rút nút lá chuối khô rót ra hai cái ly:
                          -Uống thử rượu thuốc của Điểu Rút cho hôm Tết xem nó ra sao!
                          Anh nhấp thử, rượu hơi gắt có lẻ do ngâm với các loại cây lá trong rừng, nhưng có mùi thơm nhẹ và hậu dể uống:
                          -Uống thấy cũng khá đó anh Ba
                          Gắp món cá rô chiên giòn ăn với rau thơm, húng quế và rau lang luộc chấm nước mắm ớt, uống xong hớp rượu, Ba Du nhìn anh nói:
                          -Lúc sáng chú Nam vừa về, Năm Bình từ ngoài xã chạy xe vô đây, ảnh nói tình hình sau vụ bắn nhau hôm qua có vẻ trầm trọng lắm, công an tỉnh đang xuống điều tra và sẽ bắt giam một số cán bộ và người ở xã có liên quan …
                          -Vậy hả anh Ba, vụ đốn cây có thể tạm ngưng trong lúc công an điều tra, nhưng chắc là không lâu …
                          -Ừ, sau vụ này họ sẽ khôn ngoan hơn trong việc chia chác với nhau, bây giờ lịnh tạm thời ngưng đốn gổ là để cho người dân từ từ quên vụ này
                          Nam đứng dậy đi ra sân nhìn xung quanh và xem hai con chó có ở quanh nhà không, thái độ tối nay của anh hơi lạ làm Ba Du thắc mắc không hiểu sắp có việc gì. Trở vào uống hết ly rượu, rồi lấy cái bầu rót thêm vào ly anh và Ba Du, rồi nhìn Ba Du chậm rải nói:
                          -Tôi có chuyện này muốn nói với anh Ba, có thể sẽ làm anh nghi ngờ hay không tin, hoặc hơn nửa sẽ làm anh buồn cười …
                          -Chuyện gì chú Nam cứ nói - Ba Du lộ vẻ ngạc nhiên vì thái độ lạ lùng của anh
                          -Câu chuyện này giải thích vì sau tôi từ Saigon lại đến đây mua đất làm rẩy, thật sự không vì trồng bắp, đậu … mà vì hai thùng đồ cổ được chôn giấu đâu đó trong vùng hồ gần nhà anh và nhà tôi, chuyện này khá dài dòng, anh Ba có nhớ lần mình qua nhà Hai Tuất lai rai trước tết, lần đó Hai Tuất có kể về ông chủ đồn điền Tây với gia sản đồ sộ và trong đó có nhiểu món đồ cổ quí giá, chắc anh cũng còn nhớ lúc tôi cầm cái chén bị sứt mẻ lên coi và hỏi Hai Tuất vì sao ảnh có nó …
                          Ba Du nhè nhẹ gật đầu, cố nhớ lại chuyện cũ và lấy thuốc lá ra châm lửa hút, rồi đưa bao thuốc cho Nam, chăm chú nghe kể tiếp:
                          -Chuyện ông chủ Tây chôn giấu hai cái thùng đồ cồ này đến từ ông quản gia của đồn điển kể lại với gia đình tôi ở Saigon, lúc đầu mới nghe xong tôi cũng nghi ngờ nhiều lắm, không biết là tin này có thật không, nhưng ba tôi giao thiệp với ông này lâu năm, nên nhận xét ông quản gia là người đáng tin, sau đó tôi tìm đọc thêm sách cũ về các đồn điền cao su thời Pháp ở các tỉnh dọc biên giới tỉnh Bình Long, Phước Long để tìm hiểu sự thật về các đồn điển ở đây, và sau này tôi có vài lần vào trong xã này mua bán nông sản, thì biết là cái đồn điền cao su Tây này là có thật, bây giờ tôi nghĩ là chủ đồn điền và cả ông quản gia người Việt không còn muốn đi tìm lại hai cái thùng này vì họ tin là nó không còn nguyên vẹn, vì chiến tranh bom đạn ở vùng này ác liệt quá, phần nửa là họ sợ chính quyền cách mạng...
                          Ba Du kiên nhẫn ngồi nghe, thỉnh thoảng làm hớp rượu và gắp miếng cá, Nam kể tiếp:
                          -Tôi muốn tìm bí mật của nó vì thấy bỏ đi thì quá uổng, theo tôi thì nó rất đáng giá, và từ sau khi nghe Hai Tuất kể lại và thấy cái chén cũ ở bên đó, tôi lại càng tin là chuyện này có thật …
                          Nghe đến đây Ba Du cầm ly lên nói:
                          -Cạn ly đi chú Nam rồi kể tiếp …
                          Uống xong ly rượu, anh nói tiếp:
                          -Lần tôi gấp rút về Saigon là để vào xem đồ cổ sành sứ trưng bày trong Thảo Cầm Viên, chắc anh Ba biết chổ đó?
                          Ba Du im lặng gật đầu nghe Nam nói:
                          -Và tôi đến nhà một thằng bạn thân, nhờ ba nó biết chữ Hán giải nghĩa những ký tự trên cái chén, thì đúng đó là món đổ cổ từ thời nhà Nguyễn, sau đó tôi vào Chợ Lớn mua dây về đây và đã lặn xuống thăm dò những chỗ chôn dấu nó …
                          Nghe đến đây, Ba Du nhanh chóng hiểu hết toàn bộ câu chuyện, nhìn ra sân thấy hai con chó đang nằm trên hai hòn đá nhìn ra rẩy, Ba Du nhìn Nam lộ vẻ khâm phục nói:
                          -Ban đầu thấy chú Nam ở thành phố mà vô đây làm rẩy là tôi nghi ngờ lắm, vì rất nhiều người đi kinh tế mới lên đây cả gia đình mà chỉ chịu đựng được một, hai năm, có người mới vài tháng đã bỏ trốn về Saigon, cuộc sống ở đây khổ vô cùng như chú biết rồi đó, không có cái hồ này, không ai còn ở đây, vì vậy tui tin là chuyện này có thật, vì trước 75, lúc còn trong biệt động quân, tui hay qua lại vùng này và biết người chủ đồn điền này giàu lắm, và một vài lần có gặp người quản gia đó …
                          Ngừng lại hút thuốc lá, Ba Du mỉm cười nói tiếp:
                          -Chú Nam nói rất đúng, nếu đã biết nhiều tin tức về hai cái thùng là có thật mà bỏ đi thì rất uổng, mà chú cũng thật gan dạ, kín đáo, nhìn bên ngoài ít ai biết, bây giờ còn lại là cần có thêm chút may mắn …
                          Nam gật đầu tỏ vẻ đồng ý, Ba Du suy nghĩ vài phút như vạch ra kế hoạch trong đầu, rồi nói tiếp:
                          -Bây giờ thì cần có kế hoạch để làm chuyện này và tuyệt đối phải bí mật, vì lộ ra bên ngoài thì rất nguy hiểm, chú Nam chắc thừa biết rồi …
                          -Đúng đó anh Ba, một vần đề theo tôi quan trọng và phần nào quyết định đến thành công là mực nước hồ, hiện nay còn sâu lắm khoảng năm, sáu mét, có thuận lợi là mùa khô đang tới, xã sẽ cho mở cửa xả nước xuống phía dưới để tưới, cái đó còn tuy thuộc họ xả nước ra ít hay nhiều, mực nước phải xuống còn hai, ba mét thì lặn xuống và ở dưới lâu được, anh Ba có nhớ mấy cái cửa đập chỗ cái trạm không, nếu mình điểu khiển nó theo ý muốn được thì nhiều hi vọng thành công hơn …
                          Ba Du nghe anh nói đến chuyện tự mở mấy cửa đập, hai chân mày nhướng lên và hai mắt mở lớn, nhưng rồi gật đầu vì Nam nói nghe có lý, tuy biết đó là chuyện khó khăn và rất nguy hiểm, nếu bị chính quyền phát hiện, thì đi tù cải tạo không có ngày về, nhưng Ba Du bắt đầu nhìn Nam bằng con mắt khâm phục vì sự gan lì và thông minh này.
                          -Cách đây mấy hôm, đêm đó tôi lấy chiếc xuồng của anh bơi ra cái đập để quan sát xem ban đêm họ trực gác ra sao, hôm trong tết lúc anh Ba về dưới Saigon, tôi cũng đã ra đó một lần rồi …
                          Ba Du nghe anh nói lại càng lộ vẻ kinh ngạc và không ngờ người hàng xóm trông rất đàng hoàng, nhã nhặn này lại dám làm nhiều chuyện gan cùng mình mà chính mình không nghĩ ra, nhưng rồi tỉnh táo góp ý:
                          -Bây giờ thì cứ ra rẩy cầy, cuốc bình thường, chờ một hai hôm cho tình hình yên ắng trở lại, chú Nam khoan ra ngoài đó vào ban đêm nửa, có thể du kích, công an canh phòng chặt chẻ hơn sau vụ rắc rối, lộn xộn này … sau đó tui với chú Nam sẽ lặn xuống vài lần nửa ở mấy nơi nghi ngờ có chôn giấu, còn chuyện nâng, hạ cửa chắn nước, theo tui biết vì đây là đập nhỏ nên công nhân trực dùng tay quay lắp vô trục cáp, mà ban đêm họ đóng cửa trạm và ngủ trong đó, không thể vô lấy ra được, do đó phải biết được kích cở phần đầu của nó rồi về Saigon nhờ thợ cơ khí dưới đó làm!
                          Nam gật đầu vì Ba Du nói đúng ý:
                          -Đúng vậy anh Ba, tối lần đầu tôi lên được chỗ đó và đưa tay sờ thấy cái đầu trục cáp rồi, nó khá lớn, chuyện này mình có thể đem theo cục xà-bông hay sáp ong lấy dấu như làm chìa khóa rồi về đo lại kích cở, vẽ lại cho thợ làm …
                          -Đúng rồi chú Nam, cạn ly chúc thành công – Ba Du cầm ly nhìn anh cười nói và thở ra nhẹ nhỏm
                          Uống xong ly rượu và ăn miếng cá rán, Ba Du nói:
                          -Chú Nam phải cẩn thận, mấy món đồ dùng cho việc này phải tìm nơi cất giấu thật kỹ để đề phòng bất ngờ, khi xã nghi ngờ họ hay cho du kích, công an đi khám nhà, thấy mấy thứ đồ là lạ, khó giải thích …kiếm chỗ kín sau vườn, đào hố chôn giấu nó
                          Nam gật đầu, tinh thần thấy phấn chấn vì từ bây giờ anh có thêm đồng minh, mỉm cười nhìn Ba Du:
                          -Cám ơn anh Ba rất nhiều vì đã tin vào câu chuyện này, có thêm anh tham gia thì mới có hy vọng thành công, vì nếu những tin tức trong những ngày vừa qua mà chúng ta nghe được là sự thật thì thời gian sẽ không còn nhiều, chỉ có thêm vài tháng nửa là xã sẽ bắt dân di dời ra nơi khác
                          -Ừ, có thể là khoảng tháng 5 hay tháng 6, bây giờ là tháng giêng, chỉ còn độ 3, 4 tháng nửa thôi
                          -Chừng qua tuần sau mình vào buôn xem tình hình ra sao hả anh Ba?
                          Ba Du đến gần cuốn lịch treo trên vách nhà và nói:
                          -Hôm nay thứ 4, đầu tuần sau vô được rồi, chắc lúc đó mấy vụ lộn xộn êm rồi
                          Ngưng lại chút xíu, Ba Du cười hỏi:
                          -Còn chuyện của chú Nam với Ngọc Minh thấy có hợp không, tui thấy Ngọc Minh hiền mà có duyên đó chú Nam
                          Biết Ba Du là dân nam bộ trực tính, ít kiểu cách, nhưng Nam vẩn bất ngờ khi bị hỏi chuyện tình cảm của mình với Ngọc Minh, anh hơi giật mình, nhưng cười nói với Ba Du:
                          -Thấy Ngọc Minh cũng hiền nên tôi thấy hợp ý nhau, tôi có hỏi Ngọc Minh sau này có chịu về thành phố sống không, thì Ngọc Minh trả lời hơi ngập ngừng, có lẻ còn sợ chưa quen …
                          -Không sao chú Nam, mấy cô gái thì sợ sống xa nhà, nhưng rồi một thời gian sau sẽ quen …
                          Nam thấy cảm kích khi Ba Du ủng hộ mình và Ngọc Minh dù anh đoán trước là sẽ như vậy, chuyện này cũng là dĩ nhiên rồi, vì anh là hàng xóm thân thiết của Ba Du ở nơi khỉ ho, cò gáy này chứ đâu còn ai nửa.
                          Nhìn ra bên ngoài trời đã tối mịt, anh cầm ly cụng và uống với Ba Du để tỏ tình “chiến hữu”:
                          -Chúc công việc sắp tới thành công nhé anh Ba, tối rồi, tôi về đây
                          Ba Du đứng nhìn theo người hàng xóm trai trẻ với ánh mắt nể phục, người đã tạo ra sự bất ngờ và làm lóe lên tia hy vọng, trong mớ tin tức đầy u ám, lo âu đang xâm chiếm tâm trí mọi người ở ba cái xã heo hút này cả mấy ngày qua.
                          Mấy ngày hôm nay Nam và Ba Du vẩn ra cuốc đất, dọn cỏ để chuẩn bị cho việc gieo trồng sắp tới. Theo ý kiến của Ba Du, hai bên làm theo kiểu vần công, nên sáng nay anh qua bên rẩy Ba Du phụ cuốc phần đất cuối cùng nằm trong góc để ngày mai có thể trỉa hạt, sẵn đó cũng là dịp nói chuyện trao đổi thêm công việc mà không bị ai để ý, hôm qua Ba Du cũng đã qua giúp anh trỉa xong bắp trên phần đất gần nhà, trồng bắp mùa khô thì đỡ phải làm rảnh, xẻ mương thoát nước, nhưng bù lại phải mất công tưới nên khá cực nhọc.
                          Làm xong, buổi chiều anh và Ba Du ra tắm ngoài hồ, chọn gần những nơi mà anh cho là có khả năng hai cái thùng được chôn giấu mà anh cũng đã lặn xuống quan sát, để Ba Du có dịp nhận định và đưa ra ý kiến của mình.
                          Thật sự lúc này tâm trí của Nam và Ba Du chỉ nghĩ đến chuyện hai cái thùng đồ cổ, và nghe ngóng tình hình xem đã yên tĩnh trở lại chưa.
                          Cuối tuần thì công việc rẩy bái cũng đã xong, không có thêm tin tức nào mới bay ra vào từ ngoài xã và từ bên kia hồ, Ba Du nói:
                          -Thứ hai, ngày mốt đi vô buôn nhé chú Nam, còn chiều nay tui với chú Nam ra quán Năm Bình, sẵn đó hỏi thăm anh Năm coi có tin gì mới và tình hình sắp tới ra sao, rồi về sớm ra hồ câu cá lăng, nếu được nhiều mai đem vô cho buôn ít con, chút nửa chú Nam tìm bắt ít cá con làm mồi
                          Nam về nhà lấy gùi ra vũng nước cạn xúc cá con chuẩn bị mồi cho buổi đi câu chiều nay. Xong công việc bắt cá mồi và đang chuẩn bị ra về, thấy Tư Có và ba tay du kích xuất hiện từ phía xa trên con đường đất chạy ven bờ, từ hôm có vụ bắn nhau đến nay mới thấy ông ta đi tuần trong này, đôi mắt nhỏ và cái nhìn vẩn lành lạnh trên khuôn mặt xương xẩu làm người khác không muốn nhìn ông ta lâu, và do vậy chắc cũng không có nhiều người có thiện cảm.
                          Nam nhận ra trong ba tay du kích, có hai tay hay đi tuần tra qua đây nhiều lần, còn một tay anh nhìn thấy ngờ ngợ, cảm giác như đã từng gặp hắn ở đâu rồi, tay này thấp, to con, hắn có đôi chân mày rậm, da ngăm đen nên trong rất dử dằn. Lúc đi ngang chỗ Nam đang đứng ở vũng cạn, tay này nhìn anh khá lâu và có ánh mắt khó chịu nhất, khi cả toán đi qua được khoảng vài ba phút, anh chợt nhớ lại có lần ra xã mua thuốc lá bị hắn chận lại hạch hỏi giấy tờ.
                          Nam nhớ lại sau năm 75, lớp thanh niên miền nam, nhất là thanh niên Saigon cỡ tuổi 16 – 17 trở lên cũng bị chính quyền mới đối xử chèn ép, khinh miệt như cha anh mình vì bị cách mạng gán ghép cho cái tội học hành theo Mỹ, tư bản đồi trụy cho dù tuổi đời còn trẻ, chưa hiểu chiến tranh là gì. Thằng Ý bạn anh nói, cách mạnh chia lý lịch người dân Saigon thành mười hai, mười ba hạng gì đó, thì Nam và mấy thằng bạn xếp ở hạng thứ mười một, mười hai gần chót bảng, nên nó nói đi thi đại học làm gì cho cực thân xác vì làm sao mà đậu nổi vào trường nào.
                          Một lần Nam đi học ra đến đầu đường lớn, thấy một nhóm hai, ba tay thanh niên mang băng đỏ, một tay mang súng trường, đội nón tai bèo chận một người thanh niên khác cở 17 – 18 tuổi lại để cắt xẻ tan nát cái quần ống loe ngay trên đường phố, cảnh tượng hôm đó làm kinh hoàng nhiều chàng trai trẻ của Saigon. Cho đến bây giờ, Nam vẩn bị hình ảnh đó ám ảnh khi gặp mấy tay du kích trẻ mang súng AK, M-16, CKC với cái nón tai bèo trên đầu …
                          Về nhà ăn cơm trưa xong, Nam nghỉ ngơi chờ Ba Du bơi xuồng ngang qua, nhưng anh chìm vào giấc ngủ sâu lúc nào không hay, Ba Du ghé xuống vào gần nhà, từ dưới hồ gọi lên khá lâu mà vẩn không thấy anh xuất hiện, nên phải lên tận nhà kêu lần nửa. Lúc đó con Đốm mới sủa lớn làm Nam tỉnh giấc mở cửa nhìn ra thấy Ba Du và con Ki đứng trước hiên, anh mỉm cười nói:
                          -Anh Ba chờ chút nhé
                          Rồi vội vả ra phía sau nhà rửa mặt, quay vào lấy cái nón và khép cửa theo Ba Du đi xuống bờ hồ. Chiếc xuồng từ từ bơi xuôi về phía xã, đến dưới gốc me tây, Nam buộc dây vào nhánh rể to và bước lên bờ, anh và Ba Du nhìn về caí trạm gác và hàng cột bê-tông trên mặt đập nơi có những cái cửa thép đang đóng im ỉm.
                          Cả hai lên đường lộ và đi về quán Năm Bình, hôm nay chủ nhật nên không khí ngoài xã vắng vẻ, ngang qua ủy ban thấy cửa nẻo đóng kín, nhưng phía trước văn phòng đội du kích và công an ở kế bên có ba, bốn tay ngồi trên băng ghế hút thuốc, tán chuyện nhìn ra đường. Ba Du và anh xuôi theo con dốc đến cái chợ nhỏ vắng teo, không người.
                          Quán cà- phê đang mở cửa nhưng buổi trưa nên vắng khách, bàn ghế đìu hiu, Ba Du bước vào trước và gọi:
                          -Anh Năm có ở nhà không?
                          Lát sau bà xã Năm Bình đi ra, thấy Ba Du và Nam nên chào hỏi:
                          -Anh Ba và chú em vô uống cà-phê chờ anh Năm nghe, hôm nay ổng đi công việc chiều chiều mới về
                          -Dạ, cám ơn chị Năm, cho hai ly đen, ảnh ra thị xã có công việc hả chị - Ba Du hỏi
                          -Dạ, thăm người bà con ở ngoài Bình Long
                          Trả lời Ba Du xong, bà ta quay vào trong, chắc có lẻ vắng khách nên phải vào nhóm bếp để nấu nước sôi, anh và Ba Du ngồi chờ khá lâu mới thấy mang ra hai ly cà- phê đen bốc khói:
                          -Trưa ít khách, nên phải chờ nấu nước sôi hơi lâu, anh Ba thông cảm nghe
                          -Không sao chị Năm, người quen không mà …
                          Cả hai ngôi nhâm nhi ly đen và nhìn ra ngoài đường, bắt đầu mùa nắng nên thỉnh thoảng khi có chiếc xe máy cày hay xe chở hàng chạy qua con đường đất đỏ trước quán, gió cuốn tung bụi lên thành đám mờ mờ. Ở vùng đất đỏ này, mùa khô năm nào thì cũng như năm … nào, bụi đỏ phủ thành lớp dầy lên rừng cây cao su, nhà cửa, hàng quán, quần áo … đến độ những con chó cò hay bò có màu lông trắng sẽ dần biến thành màu trắng hồng hồng cho đến khi mùa mưa tới.
                          Hai tay du kích còn trẻ bước vào quán, và đến ngồi vào cái bàn gần cửa sổ lớn phía trước, lớn tiếng kêu hai ly đen, vài phút sau bà xã Năm Bình bê ra hai ly để lên bàn
                          -Dì Năm cho thêm mấy điếu thuốc lá – tay du kích mặt tròn nói
                          Để mấy điếu thuốc lẻ lên mặt màn, bà xã Năm Bình hỏi:
                          -Chủ nhựt mà dì thấy bên công an với du kích ra trực trụ sở đông hơn mọi khi hả hai chú?
                          -Trên huyện kêu xã phải trực tăng cường – một tay du kích trả lời
                          -Hôm nay ông Tư Có cũng ra trực phải không hai chú?
                          -Ổng dẩn đội tuần tra đi vô trong hồ rồi dì Năm, chưa về tới đâu
                          Bà xã Năm Bình quay vào trong đem hai bình trà ra để trên bàn của anh, Ba Du và bàn hai tay du kích kia, vừa lúc đó chiếc xe chở hàng nhỏ có thùng than phía sau dừng lại phía trước quán, Năm Bình bước xuống xe trong đám bụi bốc lên mù mù.
                          Bước vào quán, thấy Ba Du và Nam đang ngồi ở cái bàn trong góc, ông ta đưa cái túi vải cho bà xã, rồi cười nói:
                          -Ra lâu chưa Ba Du, chú Nam, hôm nay ra Bình Long có chút việc, sẵn ghé thăm ông chú họ, bà ơi, làm cho ly cà- phê luôn
                          -Ra lúc đầu giờ chiều đến bây giờ - Ba Du cười trả lời
                          -Trong đó vụ tới trồng đậu hay bắp, anh với chú Nam trỉa hạt xong chưa?
                          -Rồi, mới xong hôm qua, kỳ này trồng bắp để có ăn thêm trong năm, đất nhà anh Năm vụ này tính trồng gì?
                          -Chắc cũng trồng mớ đậu hay bắp, loanh quanh cũng mấy thứ đó … trong đó mấy hôm nay chắc êm hả?
                          -Ừ, thấy cũng êm, mấy đội tuần tra xã ra vô thường xuyên …
                          -Ngoài này nghe mấy ông trong nông trường nói bắt hai tay cán bộ bên kiểm lâm và tay phó công an của xã Minh Thành, trong Minh Tân cũng bị bắt mấy tay … - Năm Bình nhỏ giọng lại vừa đủ nghe
                          -Còn vụ mở rộng diện tích trồng cao su và xã quản lý cái hồ, có làm không anh Năm – Nam thắc mắc hỏi
                          Năm Bình gật đầu:
                          -Có lẻ để họ xử xong vụ bắn nhau, rồi tỉnh và huyện sẽ công bố tin chính thức cho dân ba xã luôn một lúc, sau đó sẽ cho tiến hành
                          Ở bàn ngoài, hai tay du kích bắt đầu lớn tiếng cải nhau sau vụ nhậu nhẹt ở đâu đó đêm qua, thỉnh thoảng lại chêm vào vài tiếng chửi thề nghe xóc óc, tay du kích có hàm răng móm, mái tóc chơm bơm tỏ vẻ tức tối:
                          -Mẹ lần sau tụi mày kêu tao vô đó nhậu, tao đếch thèm, tụi mày chơi cha … nói dóc thấy mẹ
                          -Thì mày mua rượu, thuốc lá, tụi tao kiếm mồi … còn muốn gì nửa - tay du kích kia nạt ngang
                          -Mồi của tụi mày toàn cóc, xoài, ổi chứ có gì đâu, vậy cũng kêu hùn nhậu …
                          Hai tay du kích vừa uống cà- phê, vừa hầm hầm cãi cọ với nhau thêm một lúc, tay du kích trẻ hơn vào trong kêu chủ quán, Năm Bình đứng dậy đi ra tính tiền hai ly cà- phê, thuốc lá, trả tiền xong cả hai bước ra đường về hướng trụ sở ủy ban, Năm Bình tỏ vẻ khó chịu nói bâng quơ:
                          -Mấy ông trời con này nhậu vô rồi ai cũng ngán
                          Ba Du nhìn Năm Bình hỏi:
                          -Nghe chú Nam nói hôm Tết có gặp ông Tỵ ghé vô quán hả anh Năm?
                          -Ờ, hôm đó ổng trực ngoài trạm, nhưng ghé vào đây rủ nhậu với thằng Sung, gặp chú Nam đang uống cà- phê, tưởng có Ba Du cũng ở đây nên hỏi thăm, tôi nói anh chưa lên, sắp tới bên nông nghiệp huyện ra lệnh cho xã nước vì mùa khô năm nay đến sớm, ổng sẽ trực thường xuyên ở ngoài trạm
                          -Ừ, vậy để lúc nào có ông Tỵ trực, tui rảnh ra làm lai rai
                          Năm Bình cười vui vẻ:
                          -Ừ, có ông ra, ông Tỵ chịu lắm, rủ thêm chú Nam nửa nhé
                          Nam cười gật đầu, nhưng anh hiểu mục đích của Ba Du rủ rê Năm Bình và mấy tay công nhân gác trạm nhậu nhẹt với mình, có lẻ Ba Du đã có kế hoạch hành động rồi đây. Cả hai đứng dậy, Ba Du móc bóp ra trả tiền cà- phê, nhưng Năm Bình đưa tay chận lại:
                          -Thôi, khỏi anh Ba, còn Tết tôi đãi anh và chú Nam mà
                          -Vậy tụi tui về nhé, chiều nay về sớm còn xách cần ra kiếm vài con cá
                          Nam và Ba Du ra bờ hồ lấy xuồng bơi về, đến nhà anh nói Ba Du chờ rồi chạy lên nhà lấy cái cần và lon cá mồi, rồi lên xuồng bơi về nhà Ba Du lấy thêm cái cần nửa và chèo ra giữa hồ. Anh bắt chú cá con móc vào lưỡi câu và thả nhẹ xuống nước, Ba Du nói:
                          -Mình chuẩn bị công việc nhé chú Nam, mai vô trong đó nhớ xin sáp ong, mấy ngày tới, buổi chiều ra tắm sớm, chú Nam đem theo cuộn dây, tui sẽ lặn thử lại mấy điểm tình nghi, tối thứ ba, thứ tư sẽ bơi xuống ra con đập để tui xem trục dây cáp và mấy cánh cửa thép, rồi lấy dấu trục quay, lúc rảnh tui sẽ chỉ cho chú Nam cách giả tiếng kêu chim cú và tắc kè kêu để báo hiệu trong đêm tối hay lúc đi trong rừng, trong quân đội hay giả tiếng kêu của hai con này để báo hiệu khi hành quân đêm hay lúc xâm nhập vô mật khu …
                          Nam thấy tính Ba Du rất cẩn thận, kỹ lưỡng, vì vậy anh cảm thấy yên tâm, Ba Du thừa biết tham gia vào công việc này với anh là nguy hiểm.
                          Ba Du giật mạnh cần câu, một con cá mè đen vùng vẩy khi bị kéo lên khỏi mặt nước, Nam cố nhớ lại tiếng cú thỉnh thoảng vang lên trong đêm tối quanh nhà, loài chim ăn đêm này có tiếng kêu nghe thật rùng rợn, nhất là trong vùng rừng núi u tịch, còn tiếng tắc kè thì ở phía sau vườn nhà Ba Du hay buổi chiều khi đi từ trong buôn về qua rừng, Nam hay nghe tiếng kêu trầm bổng của nó, học giả tiếng kêu của nó chắc cũng không khó.
                          Cái cần bổng bị lôi mạnh, anh nhanh tay giật lên một con cá lăng gần bằng cổ tay, cả hai người cùng cười khi thấy con cá chống cự làm đầu cây tre cong xuống, Nam kéo lê nó trên mặt nước đến gần phía sau, Ba Du cầm sợi dây cước và chộp cứng cái đầu nó bỏ vào khoang, ngồi nán lại câu thêm độ nửa giờ, anh và Ba Du bỏ vào khoang thêm hai con nửa rồi mới về nghỉ.
                          -Sáng mai chú Nam qua sớm nghe – Ba Du dặn dò anh
                          Trời còn mờ mờ, con Đốm chạy theo anh qua nhà Ba Du, thấy trên tấm phản có cái rổ tre trong có bốn, năm trái bắp đèo đã luộc, còn nóng hổi, chắc Ba Du đi mót trong rẩy mấy ngày trước, Nam lột vỏ một trái nhấm nháp. Ba Du đưa cho anh chai nước ngâm thuốc lá để bôi chống muỗi, vắt, rồi bỏ hết mấy trái bắp còn lại vào cái gùi.
                          Thảy con cá mè và cá lăng vào khoang xuồng xâm xấp nước cạnh đống lưới, rồi Nam đẩy mạnh nó ra ngoài hồ, trên bờ hai con chó đứng nhìn theo chiếc xuồng và hai người đàn ông đang bơi xa dần.
                          Bơi về phía thượng lưu, sau đoạn đường dài gần một tiếng, Nam và Ba Du đã đến bụi cây nơi thường giấu xuồng, Ba Du bơi chậm lại và quan sát xung quanh, Nam bỏ hai con cá vào trong gùi, sau khi yên tâm không thấy dấu hiệu gì lạ, cả hai nhanh chóng kéo xuồng vào sâu trong bụi rậm, khi trở ra Ba Du cẩn thận xóa dấu vết trên bờ cỏ gần mép nước, rồi cùng Nam nhanh chóng đi vào rừng.
                          Xuyên vào dưới tán rừng già, không khí buổi sáng tinh mơ của rừng núi bị xáo động bởi tiếng chim ríu rít trên các nhánh cây cao, mặt trời tháng này lên sớm phía sau lưng anh và Ba Du, chiếu những tia nắng đầu tiên xuyên qua kẽ lá. Cả hai âm thầm đi qua nơi tìm thấy hài cốt của người lính chết, Nam nghe ngóng nhưng khu rừng vẩn yên tỉnh không có âm thanh lạ nào ngoài tiếng chim, phía trước Ba Du đang tiến lên con dốc, vừa đến đỉnh đồi gặp ngay chốt chặn có ba tay vừa công an, du kích đứng bên gốc cây, anh và Ba Du dừng lại, tay mặc sắc phục công an hỏi Ba Du:
                          -Hai anh ở xã nào, đi đâu vô đây?
                          -Tụi tui là nông dân bên xã Minh Thạnh, vô buôn trao đổi với dân trong buôn
                          -Cho kiểm tra giấy tờ, với hai cái gùi
                          Hắn ra hiệu cho hai tay du kích khám hai cái gùi, còn hắn ta xem xét giấy tờ rồi nhìn Ba Du và Nam nói:
                          -Huyện ra lịnh không cho ai vô rừng, mấy anh quay về đi …
                          -Xin lỗi, mấy anh bên công an và du kích của xã nào – Ba Du bình tỉnh hỏi
                          -Xã nào mấy ông hỏi làm gì, không đi qua dây được đâu, đi về đi – tay công an trả lời và trả lại giấy tờ, nét mặt tỏ ra khó chịu
                          -Bên Minh Tân, mấy anh về đi … - tay du kích trạc 30 tuổi, có khuôn mặt tròn trịa dưới nón tai bèo trả lời
                          Ba Du và Nam quay xuống trở lại con dốc, quay lại ra hiệu cho anh đi nhanh, đến chân dốc, Ba Du đứng lại nhìn về phía chốt chặn, thấy không có động tỉnh gì khác, nhanh nhẹ chỉ tay về bên trái và lách mình qua tàn lá rậm biến mất vào bên trong, Nam cũng nhanh chóng đi theo dấu Ba Du, anh đoán Ba Du đã ra vào đây nhiều năm, nên thông thuộc đường ngang, ngỏ tắc.
                          Bên trong cây rừng, dây leo mọc dầy đặc như cố ngăn cản bước chân của anh và Ba Du mỗi khi đi qua, phía trước Ba Du dùng rựa mở đường, thỉnh thỏang quay lại phía sau nhìn xem anh có theo kịp không, không khí ngột ngạt và hơi nóng bao trùm khắp nơi, Nam đổ mồ hôi ướt cái áo kaki. Qua hết con dốc với những thân cây cổ thụ cao vút mọc chắn lối phía trước, toàn những cây gổ to, lâu năm, Nam nghĩ vừa rồi, mấy tay đốn gổ lậu đó tranh giành bắn giết nhau cũng phải.
                          Vừa đổ dốc qua bên kia, Ba Du lấy tay chỉ về phía hồ nước hiện ra thấp thoang qua kẽ lá, cả hai tiếp tục đi theo khu rừng về phía trước, đoán Ba Du dẩn qua đường vòng dọc bờ hồ để tránh cái chốt gác trên đường vào buôn, không có Ba Du, chắc không tài nào anh biết được lối đi này.
                          Nam và Ba Du ngồi nghỉ chân trên hai hòn đá, lấy nước ra uống vì cơn khát khô cổ khi đi qua khu rừng già rậm rạp, nhìn màu xanh âm u bao trùm khắp nơi, anh hỏi:
                          -Đường đi vòng này ra sát bờ hồ thì bao lâu tới buôn anh Ba?
                          -Cũng còn khá xa, khi gần đến trảng cỏ, mình ra lại đường cũ cho dể đi
                          Ba Du và Nam đeo gùi lên vai và đứng lên đi tiếp, lát sau đến con suối chảy róc rách ra hồ nước, cả hai đi trên các tảng đá băng qua dòng nước trong veo bên dưới, anh nhớ lại nó là con suối đầu tiên trên đường vào buôn, đường đi còn xa lắm.
                          Rừng cây vẩn mịt mùng phía trước, hết đồi dốc, lại thung lủng, Ba Du vẩn im lặng đi không tỏ ra mệt mỏi, chứng tỏ sức khỏe dẻo dai và khả năng nhận định phương hướng của người lính biệt động quân năm xưa vẩn còn sắc bén.
                          Đi thêm một khoảng đường dài, nhắm chừng đã gần đến trảng, Ba Du rẽ thêm một đoạn về hướng phải và thận trọng tíến tới sau hàng cây, bước qua vài bụi rậm thấp che phía trước, dường như đã ra gần đến lối mòn cũ, Ba Du đưa tay ngoắc Nam đền gần và nói nhỏ:
                          -Đã ra đến đường cũ, chú Nam ở đây, tui đi trước xem tình hình ra sao, nếu nghe ba tiếng tắc kè kêu liên tiếp là an toàn, chú Nam ra đi theo, còn kêu bốn tiếng là có chốt chặn, ngồi yên tại chỗ, tui sẽ quay lại
                          Nam gật đầu, Ba Du tiến lên sau các bụi cây về phía trước, độ năm phút sau, anh nghe ba tiếng tắc kè, tắc kè, tắc kè, ám hiệu đường đi an toàn, liền bước ra và đi nhanh theo lối mòn. Thấp thoáng bóng cái lưng áo Ba Du qua tán cây rừng, lát sau trảng cỏ xuất hiện phía trước, mặt trời đã lên gần đỉnh đầu, bình thường khi vào buôn, giờ này thì đã đến nơi, còn đường vòng ra bờ hồ thì khúc khuỷu khó đi và làm Nam thấy mệt bở hơi tai.
                          Anh và Ba Du chia nhau mấy trái bắp đem theo lúc sáng, vừa đi, vừa ăn. Vào đến buôn thì có lẻ đã quá giờ trưa, mấy cái nhà sàn đầu buôn nằm im lìm dưới ánh nắng gay gắt cuối tháng giêng. Ba Du chỉ tay về hướng nhà Điều Sơn, Nam gật đầu ra dấu hiểu ý, đến nơi cả hai bước lên sàn phía trước nhà, Ba Du gọi:
                          -Điểu Sơn có ở nhà không?
                          Gọi thêm vài lần nửa, bà vợ ông ta từ bên trong bước ra, tỏ vẻ hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy Ba Du và Nam vì thấy hai người vào buôn giờ này:
                          -Chú Ba Du sao vô đây trễ quá, Điểu Sơn đang ở bên nhà Điểu Rút rồi
                          -Dạ cám ơn, để tui qua đó
                          Ba Du và Nam quay qua nhà Điểu Rút, vừa thấy anh và Ba Du bước lên sàn, hai người đàn ông S’tiêng đang ngồi nói chuyện với nhau liền kêu lớn:
                          -À, sao giờ này Ba Du, chú Nam mới vô tới, có chuyện gì không?
                          Ba Du bỏ cái gùi xuống sàn:
                          -Sáng cũng đi sớm như mọi khi, nhưng bị chốt chặn của du kích và công an xã không cho qua phải đi đường vòng nên vô đây trễ
                          Nam lấy hai con cá trong gùi ra cho hai người đàn ông S’tiêng, vào đến buôn quá trễ, nên hôm nay nó không còn tươi lắm, Điểu Rút cầm cá đi vào nhà trong, Điểu Sơn nhìn Ba Du và Nam hỏi:
                          -Ăn uống gì chưa, để tui kiếm trái cây hay cái gì ra cho anh Ba và chú Nam ăn đỡ đói
                          -Có bắp luộc đem theo từ nhà lúc sáng rồi anh Điểu Sơn – Nam trả lời
                          -Anh Nam và chú Ba vô trễ quá, chắc kẹt đường hả - Ngọc Minh vừa bước ra hỏi
                          Nam gật đầu cười, thấy vui lên dù bụng đang đói
                          -Để Ngọc Minh lấy nước và khoai ra ăn tạm nghe
                          Ba Du ngồi nói chuyện với hai người đàn ông S’tiêng về tin tức nóng hổi gần đây, Ngọc Minh cầm ra ít củ khoai lang luộc và nước uống, cô ngoắc Nam đi theo vào gian bếp, bà Tranh đang xẻ hai con cá ra làm khô, thấy anh bà ta nói:
                          -Hai con cá to quá hả chú Nam, nó còn tươi là làm món khác ngon lắm
                          -Dạ, bị chốt chặn phải đi đường vòng xa nên không vào buôn sớm được
                          Ngọc Minh cầm mấy trái chuối và lêkima chín đưa cho Nam và ra ngồi kế bên chuẩn bị gia vị tiêu, ớt, nghệ … để ướp làm cá khô, vừa làm, vừa hỏi anh:
                          -Đi đường vòng ra bờ hồ chắc khó đi và xa hơn hả anh Nam?
                          -Ừ, xa hơn, rất khó đi, nhờ có anh Ba dẩn đường, chứ không thì đi lạc …
                          -Anh Nam ăn đi cho đỡ đói, lúc về chắc cũng phải đi đường vòng như buổi sáng, chút nửa đưa chai để Ngọc Minh lấy thêm nước uống
                          Thấy cô để ý chăm sóc mình từng chút, Nam thấy rất cảm động, còn bà mợ Tranh mỉm cười nói:
                          -Nhớ làm lâu dài nghe Ngọc Minh, sau này về Saigon rồi đừng quên nghe
                          Biết bà dì chọc quê mình, cô đỏ mặt rồi cười:
                          -Dạ cháu nhớ
                          Nam ngồi nhìn cô cười, tự hiểu vậy là Ngọc Minh đã nói với gia đình, anh hỏi:
                          -Ngọc Minh có kiếm cho anh miếng sáp ong không?
                          -Ừ có, chút Ngọc Minh lấy cho, ngoài đó làm gì mà cần sáp ong?
                          -À, cũng có khi anh hay anh Ba Du làm vài thứ cần có chút sáp
                          Bà xã Điểu Rút ướp xong hai con cá rồi treo trên giàn bếp để sấy khô và đi ra nhà trước, Nam hỏi:
                          -Hôm bắn nhau trong rừng, trong buôn Ngọc Minh có sợ không?
                          -Nghe tiếng súng cũng nhỏ thôi vì ở tuốt trong rừng sâu, nhưng có mấy ông trong đó đi về ngang buôn, thấy họ sợ lắm …
                          Cô đi về căn phòng nhỏ, lát sau cầm ra cái hộp gổ đến kế bên Nam, anh đoán chắc cô sắp cho mình xem một vật kỹ niệm nào đó. Mở hộp Ngọc Minh lấy mấy tấm hình chụp với gia đình cho Nam xem, hình Ngọc Minh lúc đó học trung học mặc áo dài màu trắng trông rất đẹp và ngây thơ, cầm tấm hình cô chụp với một người lính trẻ và một người phụ nữ đẹp, có màu da trắng, chỉ vào họ, cô nói:
                          -Đây là ba, còn đây là mẹ Ngọc Minh đó …
                          -Ừ, mẹ Ngọc Minh sao đẹp và giống người Việt nhiều hơn người S’tiêng?
                          -À, bà ngoại Ngọc Minh có hai dòng máu, S’tiêng và Pháp, còn tới Ngọc Minh thì thêm dòng máu Việt, cậu Điểu Rút là anh lớn, kế đến là mẹ
                          -Hèn gì, lúc mới gặp anh ngỡ Ngọc Minh là một cô gái Việt Nam bị lạc vào buôn rồi ở luôn trong này chứ
                          Biết Nam chọc quê, cô lấy tay nhéo vào vai anh rồi cười
                          -Còn ba Ngọc Minh cũng oai ghê đó, mà quê nội Ngọc Minh ở đâu vậy?
                          -Ở ngoài thị xã An Lộc đó, bây giờ cách mạng đổi tên thành Bình Long rồi … còn quê anh Nam ở đâu?
                          -Xa lắm, tận ngoài bắc, đâu còn ai ngoài đó …vào trong này hết rồi
                          -Anh Nam là người bắc 54 mà Ngọc Minh nghe tiếng nói nửa bắc, nửa nam, sao lạ quá vậy – nói xong cô nhìn Nam cười
                          -À, cái đó người ta kêu là tiếng bắc của Saigon, nó bị pha rồi, cũng giống Ngọc Minh vừa là S’tiêng, Pháp rồi Việt …
                          Nghe anh nói, cô cười đỏ mặt, Nam cũng bật cười theo, anh thấy không khí buổi gặp chiều nay vui hơn mọi khi.
                          Có tiếng Ba Du gọi, Nam biết là phải về sớm vì đi vòng, Ngọc Minh chạy đi lấy cho anh cục sáp to và cầm chai trong gùi vào châm thêm nước để đủ uống dọc đường, anh nhìn Ngọc Minh nói:
                          -Anh về nhé vì phải đi đường vòng xa, lúc nào rảnh anh sẽ vào nghe Ngọc Minh, lúc này đừng đi đâu ra khỏi buôn một mình
                          Ngọc Minh mỉm cười gật đầu:
                          -Anh Nam và chú Ba đi về cẩn thận nghe, còn sợ vắt không?
                          Nam cười lắc đầu, tay xách gùi ra phía trước nhà chào Điểu Rút, Điểu Sơn và cùng Ba Du xuống thang, quay lại thấy cô đứng bên cửa nhà đang đưa tay lên vẩy, anh gật đầu rồi theo Ba Du và hai người đàn ông S’tiêng đi về phía đầu buôn.
                          Lúc về cả hai vẩn phải đi đường vòng ra gần hồ nước, vượt qua cánh rừng rậm và nhiều đồi dốc, ra đến bờ hồ thì trời đã bắt đầu tối, tuy vậy Nam và Ba Du suýt nửa chạm trán với ba tay du kích và công an đóng chốt lúc sáng nay, nghe tiếng mấy tay này nói chuyện và mùi khói thuốc lá bay ra từ phía trước, Ba Du và anh kịp dừng lại sau một thân cây và chờ cho bóng họ đi khuất theo lối mòn dọc bờ hồ về làng Hai Tuất.
                          Lấy xuồng ra bơi về nhà, thấy chuyến đi hôm nay mệt mỏi quá, Ba Du lên tiếng:
                          -Tối nay về nhà ngủ cho khỏe nghe chú Nam, chuyện kia sáng mai tính
                          -Ngọc Minh có cho tôi cục sáp rồi, lần tới cố gắng sau khi lấy được dấu, tôi sẽ về Saigon tìm thợ làm cái tay quay

                          (còn tiếp)

                          Comment


                          • #14
                            Sáng nay Nam ra thu hoạch khoai lang, vì hôm kia Ba Du đi ngang qua đám khoai thấy nhiều lá ngã màu vàng vì thời gian trồng đã gần ba tháng, nên nói củ bên dưới đã to. Tuần trước anh ra đào những luống khoai của người chủ trước trồng trên miếng đất ở tận trong góc gần lô cao su, từ ngày sang nhượng lại, đám khoai đó chủ yếu là để lấy hom giống nên Nam không chú ý chăm sóc đến nó, tuy vậy cũng thu hoạch được vài chục ký, dùng để ăn độn thêm. Khoai lang dể trồng, ít công chăm sóc, nhưng không được giá như đậu, bắp, tiêu …
                            Nhìn những luống khoai chạy dài tít tắp, Nam tính công việc thu hoạch cũng phải mất cả tuần, xong rồi phải để đất nghỉ ngơi một thời gian, sau đó lại cuốc đất lên chuẩn bị cho vụ kế tiếp, nhưng tình hình như vậy không biết nên trồng trọt thứ gì, chắc lại trồng khoai lang cho đỡ công sức.
                            Ba Du từ bên nhà đi qua, nhìn khoai chất thành đống nhỏ rải rác trên rẩy liền nói:
                            -Nếu nhiều quá ăn không hết, tui nhắn Năm Bình vô mua bớt cho, chú Nam tính sắp tới đất này trồng gì?
                            -Chưa biết nửa anh Ba, tôi đang muốn trồng lại khoai như mùa rồi, vì không chắc còn ở đây lâu
                            Ba Du gật đầu tỏ vẻ hiểu ý và nói:
                            -Chiều nay ra tắm sớm, chú Nam nhớ đem theo dây
                            Buổi chiều anh gùi khoai từ ngoài rẩy về chất đống vào góc nhà, nếu bán không hết, nông dân ở đây thường sắc ra từng lát mỏng rồi hấp hoặc luộc chín và phơi khô làm lương thực dự trữ hay nuôi heo, nhưng thời buổi này lương thực hiếm hoi, chủ yếu dành để ăn độn.
                            Thấy trời đã về chiều, Nam lấy cuộn dây dù dấu sau mấy bao bắp và đậu rồi đi xuống bờ hồ. Ba Du đang ngồi trên bờ hút thuốc, con Ki đang nắm kế bên, thấy con Đốm đến, hai con bắt đầu rượt đuổi và cuộc chơi trốn tìm trong các bụi rậm xung quanh.
                            Chiều nay Nam chọn điểm đầu tiên trên đất của anh ở bên cạnh rừng chồi, nơi kế tiếp là ngay trong đám cây ở giữa khu rừng gần mé nước, và điểm cuối cùng là nơi con suối chảy ra hồ giáp ranh đất của Ba Du.
                            Nhìn xung quanh chỉ có anh và Ba Du, tuy vậy vẩn phải cảnh giác vì có thể ai đó bất ngờ xuất hiện, sự có mặt của hai con chó cũng giúp ích được rất nhiều, ít ai đến gần nơi này mà không bị tụi nó phát hiện.
                            Anh tìm hòn đá to cột vào đầu sợi dây, Ba Du lặn xuống trước, tay nắm chặt dây và đi từ từ ra bên ngoài rồi chìm theo hòn đá, Nam thả sợi dây theo lực căng của Ba Du và hòn đá chìm bên dưới, chỗ này độ sâu của khoảng bốn, năm mét, trong lòng hồ thì đầy thân cây, rong rêu … Vài phút sau, nhiều bong bóng nhỏ nổi lên theo các gợn nước xóay, Ba Du trồi lên và bơi vào bờ:
                            -Nước khá sâu, cây cối, rong rêu bên dưới nhiều, khó thấy rỏ cái gì …
                            -Anh Ba có di chuyển được cây cối bên dưới đó không?
                            -Sâu quá nên xuống đến đó rồi không còn nhiều sức nửa
                            -Nghỉ một chút đi anh Ba, lần này tôi sẽ lặn xuống với anh
                            Năm phút sau, Ba Du vẩn xung phong xuống trước, Nam đưa tay dò theo sợi dây lặn theo sau, sức nước ép mạnh vào hai tai làm khó chịu, đến đáy Ba Du đang dùng hai tay cố xê dịch những thân cây nằm ngổn ngang bên nhau, anh cũng lấy hết sức lực lôi kéo đống thân cây bám đầy rêu, nhưng không có kết quả. Nam hết hơi trồi lên trước, vài giây sau Ba Du cũng nổi lên theo, cả hai vào bờ ngồi nghỉ, có vẻ như bế tắc nếu mực nước hồ còn giữ nguyên độ sâu như vậy …
                            Sau bửa cơm tối, Nam ra sân đốt đống lửa to và ngồi hút thuốc lá trên khúc gổ, lát sau Ba Du và con Ki xuất hiện:
                            -Cơm nước chưa chú Nam?
                            -Xong rồi anh Ba
                            Đến ngồi kế bên, anh đưa Ba Du bao thuốc lá, hút một hơi thuốc, Ba Du hỏi:
                            -Hai chỗ kia nước cũng sâu như chỗ này?
                            Nam gật đầu:
                            -Độ sâu bằng nhau, riêng chỗ có suối chảy ra hồ, dưới đáy có nhiều đá, sỏi
                            -Chú Nam nói đúng, nếu nước hồ không xuống thấp, mình khó mà lặn xuống và ở lại đủ lâu để có thể làm gì
                            -Tối nay mình ra chỗ đập để anh Ba xem qua tình hình, sẵn cầm theo cục sáp để lấy dấu trục quay, xong rồi là tôi về Saigon làm cái tay quay luôn
                            Ba Du gật đầu:
                            -Nếu trạm đã bắt đầu mở cửa đập rồi, mình sẽ ít tốn sức vì sẽ đỡ nặng nề hơn khi quay nó lên cao thêm, chắc cũng phải ra đó nhiều lần để nâng cái cửa lên từ từ, vì mở lớn ngay một lần dể bị ngoài trạm phát hiện …
                            Ngồi hút hết điếu thuốc lá, Ba Du đứng dậy đi về và dặn anh cứ ở nhà, khi nào nghe tiếng gõ cửa thì đi ra. Còn lại một mình, nhìn những tàn lửa bắn ra như pháo bông rất đẹp sau những tiếng nổ tí tách, Nam nghĩ lan man đủ chuyện, sau vụ này, thành hay bại anh cũng sẽ đưa Ngọc Minh về sống dưới Saigon, mong là không có chuyện xui rủi gì xảy ra trong lúc này, hi vọng trời phật che chở và phù hộ. Còn nếu bị du kích và công an xã phát hiện, anh và Ba Du sẽ bị chính quyền bắt và kết tội rất nặng, tương lai tù tội và cải tạo là điều dể thấy nhất.
                            Nam dập tắt đống lửa và khép cửa vào nhà, đi ngủ sớm lấy sức để giữa khuya cùng với Ba Du chèo ra con đập.
                            Nằm trên tấm phản nghe tiếng côn trùng kêu rả rích và những bọn chim ăn đêm vổ cánh đậu trên cây mít trước nhà nghe rất rỏ trong đêm thanh vắng. Mơ màng một lúc sau, cơn mệt mỏi của cả ngày làm việc tay chân kéo anh vào giấc ngủ.
                            Nghe tiếng Ba Du gõ cửa và kêu nhỏ, Nam choàng dậy, ra mở cửa và quay vào sau nhà vốc nước lên mặt cho tỉnh ngủ.
                            Cả hai bơi ra xa bờ và lặng lẻ tiến về phía ngoài xã, bóng đêm thật yên tỉnh, ở phía xa tận rừng cao su, mảnh trăng lưỡi liềm nhỏ xíu và mờ nhạt nằm chơ vơ trên vòm trời đêm. Đã bơi nhiều lần trong đêm tối, Nam đã quen với cảnh vật trên bờ nên dể nhận ra khoảng cách, quan trọng nhất là vẩn tránh không để bị mấy đội tuần tra phát hiện, ban đêm họ chỉ đi tuần quanh trung tâm xã, ít khi bung ra xa, nhưng phải đề phòng vì du kích giỏi hoạt động về đêm, đó là sở trường của họ trong chiến tranh.
                            Từ xa đã thấy thấp thoáng bóng cây me, Nam ở phía trước ra dấu cho Ba Du biết và bơi chậm lại, chiếc xuồng cập vào sát gốc cây to dưới tàn lá xum xuê vươn ra trên hồ. Ba cánh cửa đã được mở và nước hồ chảy mạnh về phía hạ lưu tạo nên những tiếng rào rào nghe rỏ trong đêm khuya, Nam và Ba Du căng tai và mở mắt ra quan sát. Về đêm, cái trạm này lúc nào cũng đóng cửa im ỉm, vì xưa nay có ai mà dám đến phá phách hay trộm cắp món nào ở đây đâu.
                            Nghe ngóng một lúc lâu, Ba Du đến kế bên Nam ra dấu nhớ quan sát và báo hiệu bằng ba tiếng tắc kè nếu có ai xuất hiện, rồi bước lên bờ chạy lom khom đến phía sau cái trạm, sau vài giây dừng lại, Ba Du khom người chạy lên con đập đến nơi ba cánh cửa, hôm nay có đem theo cục sáp, Ba Du sẽ lấy dấu đầu trục. Nghe tiếng chó sủa từ xa vọng đến, Nam biết là đội tuần tra của xã sắp đi qua, anh giả ba tiếng tắc kè kêu, trên kia Ba Du kịp núp vào sau mấy trụ bê-tông. Ở trên đường, mấy con chó trong các căn nhà ở gần trạm sủa vang khi mấy tay du kích đi qua, bổng một tay rẽ vào trạm và gọi cửa:
                            -Ê ! Tám Coi, còn thuốc lá cho tụi tao vài điếu?
                            Bên trong vẩn im lìm không có tiếng động nào, hắn đập mạnh và kêu lớn hơn:
                            -Mẹ, ngủ gì mà mê dử, cho tụi tao mấy điếu thuốc lá Tám, mày có trong đó không?
                            Mấy con chó hàng xóm càng sủa lớn tiếng, Nam nằm trong khoang nhìn về chỗ mấy trụ bê-tông, bóng tối vẩn âm u. Có tiếng bên trong trạm vọng ra và có người ra mở cửa:
                            -Khuya khoắt mà tụi bây làm gì đập cửa ầm ầm …
                            -Khuya gì, mới chừng 12 giờ, một giờ … có thuốc lá cho tụi tao mấy điếu hút đỡ ghiền!
                            Vài phút sau, mùi thuốc lá bay ra phía sau trạm, rồi bóng hai tay du kích đi lên con đập, hai đốm sáng cháy đỏ lập lòe trong đêm đen, tụi nó đứng vạch quần tè xuống mặt nước.
                            Chờ cho tiếng của mấy con chó im hẳn, Nam giả bốn tiếng kêu tắc kè, lát sau bóng Ba Du lom khom chạy về cái trạm và vòng ra phía sau đến chỗ cây me và nhanh nhẹ lên xuồng, anh bơi từ từ ra ngoài xa, phía trước Ba Du nhẹ nhàng chèo đưa chiếc xuồng lướt êm trong đêm tối, trên bờ thỉnh thoảng vài con chó tru dưới các căn nhà tranh xiêu vẹo trên bờ hồ.
                            Sáng hôm sau, Nam đi qua Ba Du, đang làm cỏ cho khoảnh đất gần nhà, anh hỏi:
                            -Tối qua lấy được dấu của nó chưa anh Ba?
                            Ba Du gật đầu rồi vào góc nhà thò tay xuống dưới đống bắp lấy ra cục sáp, cả hai đem ra ngoài để nhìn cho rỏ, đầu trục quay có hình sáu cạnh khá lớn, Nam lấy cây bút chì vẽ lại kích thước của nó lên mặt sau tờ lịch cũ, rồi hỏi Ba Du:
                            -Ngoài trạm mở cửa xả nước nhiều hay ít anh Ba lên đó có nhìn thấy được không?
                            -Theo tui nhìn thấy thì ba cái cửa chỉ mới mở được chừng một phần nhỏ, muốn mực nước xuống nhanh, phải nâng mấy cái cửa lên thêm, ngày mai chú Nam về Saigon lo vụ tay quay sớm nhé, cầm cục sáp về dưới luôn.
                            Nam gật đầu nói:
                            -Chút nửa nhờ anh Ba chở ra ngoài xã rồi ra quốc lộ đón xe về luôn
                            -Ừ, vậy chú Nam về nhà chuẩn bị đi, chút nửa tui bơi xuồng qua, còn đủ tiền để lo công việc không chú Nam?
                            -Còn đủ anh Ba, về dưới nếu thiếu, tôi mượn ở nhà
                            Lát sau, cả hai bơi xuồng về phía ngoài xã, đến gốc me, Nam nhảy lên bờ rồi theo con đường đi về trung tâm ngàng qua ủy ban, đến cái chợ nhỏ và bước nhanh qua dãy hàng quán ra bãi tìm xe xin qúa giang ra ngoài đường lớn đón xe đò.
                            Về đến nhà ở Phú Nhuận đã hơn hai giờ chiều, sau những câu trả lời để giải thích vài câu hỏi của gia đình, Nam đi rửa mặt mủi cho tỉnh táo và kiếm được khúc bánh mì trên kệ bếp bỏ bụng, rồi lấy chiếc xe đạp chạy vào quận 5, Chợ Lớn gặp tay chủ sạp bán hàng người Tàu quen thuộc, lâu ngày gặp lại, ông ta vui vẻ cười hỏi:
                            -Lâu quá mới gặp lại nị, khỏe không anh Nam?
                            -À, cũng khỏe, dạo này buôn bán khá không A Chí?
                            -Cũng đủ sống qua ngày, không khá nổi, có mua gì không anh Nam?
                            Đưa mắt nhìn xung quanh thấy cũng có vài tay lạ đứng gần đó, A Chí hiểu ý nói:
                            -Không sao, anh Nam nói đi, tụi nó cũng là dân mua bán chợ trời ở đây thôi …
                            Nam lấy tờ giấy trong túi quần ra đưa cho tay chủ sạp rồi hỏi:
                            -Trong này là kích thước của đầu ốc lục giác, ông có sẵn ống nào kích cỡ này không?
                            -Cỡ này lớn lắm, đâu có sẵn, còn đi tìm thì có hàng quân đội cũ, nhưng cũng không có liền đâu, lâu lắc lắm …
                            -Vậy A Chí có làm được không, tôi cần cái ống mở vừa kích cỡ đó, dài khoảng năm phân, có hàn thêm tay quay?
                            -Chờ tui hỏi lại chút xíu đi cho chắc ăn
                            Ông ta cầm tờ giấy Nam đưa đi qua bên kia đường vào con hẻm, khoảng năm phút sau quay trở lại, gật đầu nói:
                            -Làm được đúng kích cỡ yêu cầu, ngày mốt anh Nam vô lấy
                            Sau khi thỏa thuận giá cả, Nam chạy xe về Phú nhuận.
                            Cơm tối xong, Nam nghỉ ngơi một lát rồi lấy xe chạy xuống nhà Huy. Mới 8 giờ tối mà con đường Bùi Hữu Nghĩa bên kia cầu sắt tối mù mù vì thiếu ánh sáng đèn đường như mọi khi, quẹo vào con hẻm vắng và dừng xe trước cổng nhà nó, sao thấy trong nhà không khí vắng lặng, Nam nhìn vào trong và cất tiếng gọi:
                            -Huy ơi, có ở nhà không?
                            Dưới ánh đèn nê-on yếu ớt, anh thấy có khung hình nhỏ và bát nhang nhỏ đặt trên cái bàn thấp kê trong góc nhà hơi tối, Nam đang cố nhìn xem ai trong khung hình, lần rồi anh đến nhà Huy cách đây chừng một tháng thì không thấy có, đang phân vân tự hỏi nhà thằng bạn có chuyện gì xảy ra, thì má nó với nét mặt buồn bả từ trong nhà đi lên, thấy Nam đứng trước nhà liền nói:
                            -Nam đó hả, vào đi cháu …
                            Mở cửa rào cho anh dắt xe vào trong sân, Nam linh cảm có chuyện chết chóc, từ hai con mắt của má Huy, hai dòng nước mắt chầm chầm ứa ra trên khuôn mặt xanh xao, đau khổ:
                            -Huy nó mất rồi cháu ơi, mới hồi tuần trước đây thôi…
                            -Huy nó bị bệnh hay bị tai nạn gì vậy bác?
                            -Không, tối hôm đó nó nói sáng mai có công việc nên phải dậy sớm, sáng mới gần 4 giờ rưởi nó lấy xe đạp chạy ra đến chân cầu thì bị cướp xe, chắc nó chống cự nên bọn cướp đâm nó bị thương nặng, sáng sớm ít người nên không ai thấy để đưa vào nhà thương cấp cứu, nó cố lết về đầu hẻm, nhưng mất máu nhiều quá nên bất tỉnh, đến lúc dân trong xóm phát hiện đưa vào bệnh viện thì không kịp …
                            Nam cảm thấy có một nổi buồn đè nặng lên trái tim, anh đến trước cái bàn thờ nhỏ nơi có tấm ảnh của thằng bạn với khuôn mặt thông minh và nụ cười hiền, thắp cho nó cây nhang và nói thầm trong miệng:
                            -Huy ơi, buồn quá, sao mày ra đi quá sớm …!
                            Quay sang má Huy, anh hỏi:
                            -Bên công an có điều tra ra thủ phạm không bác?
                            -Họ nói đang điều tra để tìm thủ phạm đó cháu …
                            Nhỏ Kim Anh em gái từ trong nhà đi ra, đôi mắt đỏ hoe trên khuôn mặt tiều tụy vì cuộc sống thiếu thốn nay lại gánh thêm nổi buồn từ cái chết của người anh trai:
                            -Anh Nam mới về hả?
                            -Ừ, anh mới về hồi sáng nay, không nghe ở nhà anh nói gì nên khi đến đây mới biết Huy mất, còn mấy đứa bạn kia, có ai biết không hả Kim Anh?
                            -Dạ, em có tới nhà anh Ý nhờ nói cho mấy anh kia biết, hôm đám ma anh Huy, có anh Ý và anh Can, Qui đến …
                            -Vậy mà trưa nay về đến nhà, không nghe ai nói anh Huy chết, đến lúc anh vào đến đây mới biết, anh Tam đi học tập ở ngoài bắc có gửi thư hay tin gì về nhà không bác?
                            -Lâu lâu ở nhà mới nhận được một lá thư, chưa biết khi nào họ cho về …
                            -Thưa bác cháu đi xuống nhà Ý, bác vào nhà nghĩ cho khỏe … anh đi nhé Kim Anh, lúc nào về, rảnh anh sẽ ghé thăm nhà …
                            Nhìn nhỏ em gái Huy mắt đỏ hoe, rướm lệ làm Nam thấy buồn tan tác, cuộc sống bí bối, thiếu thốn làm anh mất thằng bạn thân ở những năm trung học dài đăng đẳng với nhiều kỹ niệm không thể quên, anh sẽ nhớ nó mải mải.
                            Nam chạy xe xuống nhà Ý, đường vào xóm lò heo tối mờ mờ, dừng xe trước căn nhà tường gạch rêu phong, ngoài sân vài chậu cây cảnh lơ thơ, hai cánh cửa nhà khép hờ, anh lấy tay gõ vào cánh cửa sắt kêu lộc cộc và gọi, vài giây sau ông anh kế nó đi ra:
                            -À, Nam mới về hả, vào nhà chờ đi, Ý mới chạy qua nhà thằng bạn nó trong xóm, chờ tôi qua kêu nó về
                            -Dạ, mới về lúc chiều anh
                            Vài phút sau, Ý chạy về trước ông anh, nhìn Nam với đôi mắt lồ lộ không chớp, có lẻ Ý biết anh đã hay tin của Huy, nó nói:
                            -Mầy chờ tao mặc quần áo ra kiếm chỗ uống cà- phê
                            Anh gật đầu, ông anh nó đi ngang vổ vai Nam nói:
                            -Thằng Huy tội nghiệp quá Nam, nghe thằng Ý nói nó chết thấy khó tin quá …
                            -Ừ, em đến nhà nó định rủ xuống đây, ba thằng đi uống cà- phê … má nó mới cho biết
                            Ý trong nhà bước ra, hai thằng chở nhau qua gần cổng Lăng Ông Bà Chiểu có con đường nhỏ bên hông, Nam nói:
                            -Kiếm quán nào lai rai đi Ý …
                            Hai thằng nhìn nhau hiểu ý, đi tới chút nửa, có sạp nhỏ bán rượu bên đường treo mấy con khô tòn ten phía trước và cái lò than cháy đỏ, với vài ba cái bàn gổ và mấy cái ghế con con đặt sát bên vỉa hè. Nam dựa chiếc xe vào bức tường, cả hai thằng đến ngồi cái bàn gần đó, Ý gọi bà chủ quán:
                            -Cho hai xị với khô nướng
                            -Khô cá khoai hay cá đuối cậu? – bà bán quán hỏi lại
                            Ý nhìn anh như dò hỏi, Nam gật đầu:
                            -Cho cá đuối đi
                            Bỏ hai xị và hai cái ly lên cái bàn nhỏ, bà ta quay ra lấy miếng khô cá nhanh tay trở qua, trở lại trên cái vỉ sắt, bên dưới là lửa than nóng đỏ rực vì cái quạt bà ta phe phẩy liên tục, Nam rót rượu vào ly và nói:
                            -Uống đi Ý
                            Bên kia đường, vài người ăn mày và mấy con chó đang gầm gừ tranh nhau bới trong đống rác hổ lốn từ chợ Bà Chiểu dọn ra từ buổi chiều dưới ánh đèn đường mờ nhạt, mùi hôi thum thủm thỉnh thoảng theo cơn gió bay sang bên đường. Nam bẻ một miếng khô nướng chấm vào dĩa tương ớt, nhìn Ý hỏi:
                            -Không biết Huy hôm đó đi đâu sớm quá?
                            -Ừ, tao cũng không nghe ở nhà nó nói đi đâu, chắc có thể hẹn đi đâu với nhỏ bồ của nó ngoài đó …
                            -Nếu nó bỏ chạy, thì mất chiếc xe thôi, người thì chắc không sao …
                            -Ừ, chắc nó giằng co để tụi cướp sợ có người khác đến thì bỏ chạy … ờ sao mày biết mà về Nam, sau đám tang Huy, tao có đến nhà mày hai lần đều thấy đóng cửa, không có ai ở nhà …
                            -Tao về có công việc, ngày mốt lên lại, tình cờ qua nhà nó định rủ xuống nhà mày đây …
                            Chiếc xe cũ kỹ của tổ vệ sinh phường chạy tới dọn dẹp đống rác bên kia đường, tiếng mấy ông công nhân nhảy xuống cầm cây đinh ba xua đuổi mấy con chó ốm đói, mấy người ăn mày đang cố vớt vát những mẫu rau khoai bị vất bỏ, cộng với tiếng cái đầu máy xe nổ ầm ầm điếc tai … Trong vòng rào khuôn viên Lăng Ông, những ngôi nhà mái ngói cổ cong cong im lìm trong bóng tối. Dọn xong đống rơm rạ, rau củ, rác rến hầm bà lằng, chiếc xe rác phóng vụt ra đầu đường Bạch Đằng, không gian con đường hẹp yên tĩnh trở lại. Thấy mồi gần hết, Nam kêu bà bán quán:
                            -Cho thêm mấy con cá khoai nướng, tương ớt …
                            -Thêm hai xị nửa không cậu?
                            Ý nhìn Nam, rồi gọi:
                            -Cho thêm một xị thôi
                            Bà ta để bốn con khô cá khoai dài ngoằng và chai rượu lên bàn cạnh dĩa tương ớt. Từ bên kia đường, một ông già ăn xin đi sau cô con gái nhỏ độ 10 tuổi, hai cha con họ đến gần chỗ Nam và Ý, cô gái nhỏ đưa hai bàn tay bụm lại sát nhau ra phía trước, vẻ mặt hiền lành, buồn bả đưa mắt nhìn anh và Ý chờ đợi, Nam lấy mấy đồng tiền lẻ trong túi quần bỏ nhẹ vào tay cô gái, cô gật đầu nói:
                            -Con cám ơn hai chú
                            Bóng dáng hai cha con người ăn mày bước đi lẹt xẹt khuất xa dần trên vỉa hè, bà bán quán nhìn theo với đôi mắt tội nghiệp và quay qua nói:
                            -Ông già đó trước 75 ở quận 1, gia đình ổng buôn bán giàu có lắm, cách mạng vô sau 75 bị cải tạo tư sản và bắt lên kinh tế mới, mấy năm nay trốn về đây đi xin ăn, thấy tội nghiệp ghê đó hai cậu …
                            Hai thằng nghe bà bán quán kể chuyện xong không biết nói gì, Ý cầm ly lên uống đánh ực, bẻ nửa con khô chấm tương ớt nhai, Nam nhìn Ý hỏi nhỏ:
                            -Mày với ông anh chừng nào đi?
                            -Chủ tàu không cho biết trước ngày, họ nói cứ chuẩn bị sẵn, có người tới gọi là đi liền …
                            Uống hết xị rượu sau cùng và mấy con khô, Ý kêu tính tiền. Nam đứng dậy lấy xe, thấy có vẻ còn sớm, hai thằng chở nhau lên cầu Bông gần chợ Đa-kao kiếm cà phê đen, tới quán cóc lề đường của bà cụ già lần trước uống với Huy, thấy anh và Ý lấy ghế ngồi, bà cụ hỏi:
                            -Hai cậu uống cà phê đen …?
                            -Dạ, cho hai cái đen và mấy điếu thuốc lá
                            Bà cụ chủ quán bê ra hai ly đen, mấy điếu thuốc lá và cái đèn dầu hột vịt, Ý bốc điếu thuốc châm lửa hút, mới khoảng 9 giờ tối mà con đường Trần Quang Khải chạy về hướng cầu Kiệu vắng vẻ, vài người ăn mặc rách rưới, có lẻ là dân thành phố Saigon bỏ về từ các vùng kinh tế mới đang tìm chỗ ngủ trên mấy cái sạp trong chợ, Ý nhìn hai ông bà già, má hóp đang ngồi sát bên nhau trên mặt sạp gổ với cái bị kế bên, rồi hỏi Nam:
                            -Chỗ mày trên Bình Long có gần khu kinh tế mới nào không?
                            -Có chứ, dân bỏ đi gần hết, nhà cửa xiêu vẹo, ruộng rẩy bỏ không … còn ma nào đâu!
                            -Ừ, vậy mà mày lên đó ở làm rẩy hay thiệt đó Nam – Ý cười cười
                            -Thật ra là tao tính xem mua đất trồng, rồi thu hoạch và mang về Saigon bán có kiếm lời nhiều hơn đi buôn không, chứ lâu dài thì chưa biết ra sao … còn không thì về lại Saigon, theo tao vượt biên là cách hay nhất
                            -Vụ bắt dân Saigon đi lên kinh tế mới thất bại rồi, dân bỏ trốn về thành phố đi ăn xin, ăn mày đầy đường, chợ trời bây giờ đầy con buôn mánh mung, ừ … tao nhớ rồi Nam, trước ngày thằng Huy chết, vài lần rảnh tao có ra chỗ của nó hay ngồi ở góc Hàm Nghi – Pasteur dọc sau lưng trường Cao Thắng uống cà- phê, nó có giới thiệu với tao nhỏ bồ của nó, tên Mai, dân từ miền tây lên đây buôn bán chợ trời, rồi quen với thằng Huy và nghe nó nói cũng yêu nó lắm, không biết cô đó biết Huy mất chưa …
                            -Cô bồ nó nhìn ra sao?
                            -Hơi nhỏ người, nhưng trắng trẻo, đẹp, ăn nói ngọt ngào lắm … đúng dân miền tây, mày tính ra tìm hả?
                            -Chưa biết, ra đó gặp rồi nói gì đây …
                            Ý nghe Nam nói ngồi gật gù hút thuốc, rồi trầm ngâm nói:
                            -Số phận của Huy xui xẻo, tao nghe ông già ở nhà nói chương trình đi Mỹ dành cho sĩ quan cải tạo lâu năm sẽ có luôn cả mọi người trong gia đình, ông anh nó trung úy học tập đã hơn năm năm rồi, lại độc thân nửa, nếu còn sống trở về, gia đình nó được đi là cái chắc …
                            -Ừ, nếu đúng như vậy cũng may cho nhà nó
                            Nam thấy mừng cho gia đình thằng bạn thân, chỉ tội mình nó vắn số, anh nói:
                            -Ý, không biết lúc nào mày đi, tao không ở đây, chỉ có mấy lúc này là gặp nhau, chúc mày và ông anh thành công, nếu đi thoát nhớ viết thư về nhà, thỉnh thoảng tao sẽ ghé thăm nhé
                            Ý tỏ vẻ hơi buồn, gật đầu, Nam kêu bà cụ tính tiền, chở thằng bạn chạy qua cầu sắt về chợ Bà Chiểu, con đường trống trải, lác đác vài người đi bộ lếch thếch bên vỉa hè, xa xa chiếc xe đạp kêu cọt kẹt chạy qua hàng phố tối đen …
                            Sáng dậy, căn nhà vắng vẻ, chỉ còn mẹ anh đang đứng trước cổng nói chuyện với bà hàng xóm, con hẻm nhỏ trong xóm cũng thưa thớt bóng người, Nam ra sau bếp rửa mặt, lấy gói xôi bắp trên bàn ra ăn.
                            Anh lấy xe đạp chạy thẳng vào Chợ Lớn gặp A Chí xem vụ làm cái tay quay cho anh xong chưa, dừng xe bên sạp hàng lưu động, không thấy ông ta đâu, Nam hỏi thằng nhỏ đứng kế bên:
                            -A Chí có ở đây không?
                            Nó nhìn Nam rồi lắc đầu, anh hỏi tiếp:
                            -Hôm nay nghĩ bán hay sao mà A Chí không ra?
                            -Không biết nửa chú, sáng ổng kêu con đứng coi hàng rồi bỏ đi đâu mất … chú mua hàng hả, mua gì?
                            -Ờ, không! tìm ổng có chuyện thôi
                            Một tay đàn ông cao ốm, đội cái nón kết đen và bộ quần áo kaki thanh niên xung phong cũ đi tới, ông ta nhìn Nam:
                            -Kiếm A Chí hả, nó đi công chuyện rồi, chiều ghé lại đi, cỡ bốn, năm giờ đó …
                            Nam nhìn ông ta gật đầu, rồi chạy xe về chợ Bến Thành và gửi nó vào trong bãi của bệnh viện Saigon, anh trở ra đường Hàm Nghi và đi bộ về phía mặt sau trường Cao Thắng, đến góc Pasteur, mấy tay bán chợ trời tưởng anh là khách hàng nên vui vẻ săn đón:
                            -Mua bán gì ông anh?
                            Nam lắc đầu đi tiếp, anh cố tìm trong đám phụ nữ đang đi đứng trên vỉa hè và dưới những mái hiên xem có cô gái nào có vóc dáng như Ý mô tả.
                            Mới khoảng 10 giờ, không khí buổi sáng các khu chợ trời nơi nào cũng náo nhiệt, ồn ào, người đi tới, kẻ chạy lui. Nam bị bỏ lơ vì sau một hồi được mấy tay đàn ông và đàn bà hỏi han, chèo kéo nhưng vẩn lắc đầu không mua bán món nào, anh đến gần một bà đeo cái hộp gổ nhỏ bán thuốc lá mua mấy điếu lẻ, sẵn dịp hỏi nhỏ:
                            -Ở ngoài này, chị có biết cô tên Mai, bán đồng hồ đeo tay, ra-điô … trắng, nhỏ người không?
                            Người đàn bà đội cái nón lá sụp xuống trán che gần nửa khuôn mặt đen đúa, nhìn anh như dò xét rồi trả lời:
                            -Phải quê nó ở miền tây không?
                            -Đúng rồi, cô đó nói tiếng nam, dân miền tây …
                            -Nảy giờ chưa thấy nó ra, nó hay đứng mua bán ở xung quanh góc này, nếu anh còn đứng đây, lúc nó ra tui chỉ cho
                            Nam gật đâu rồi đi loanh quanh cố ý đợi thêm một lát nửa xem cô bồ của Huy sáng nay có ra đây không. Cảnh mua bán trên vỉa hè diễn ra chớp nhoáng, nhanh chóng giữa người mua, kẻ bán, hầu như những món đồ có trong nhà của người Saigon đều có thể bắt gặp ở đây, cuộc sống qua đói khổ nên gia chủ lần lượt phải cho tụi nó “đội nón” ra đi, người ra bán cái đồng hồ để bàn cũ, ra-điô, cát xét, người ra bán tivi, máy may, bộ ly chén … Nhiều món đã có mặt trong các gia đình giàu có, trí thức nhiều chục năm qua và được xem tựa như những món gia bảo, nay cuộc sống đổi thay, những món này chạy ra các chợ trời ở Saigon, lần lượt theo mấy ông bộ đội vào nam, ra bắc và xuất hiện đâu đó rất xa như ở Hà nội, Hải Phòng … bổng có tiếng la lớn:
                            -Công an, công an!
                            Đám đông vừa đàn ông, đàn bà đang mua bán náo nhiệt, đứng ngồi dọc các vỉa hè nhanh chóng tản ra các con đường khác gần đó. Nam nhìn xung quanh chỉ thấy còn mỗi mình anh và ông già ăn mày cụt chân ngồi sát bên trong, bà bán thuốc có vẻ chậm chạp lúc nảy, bây giờ cũng đang ôm cái hộp gổ chạy băng ngang qua bên kia đường Hàm Nghi, tuy vẩn chưa thấy bóng dáng một ông công an nào.
                            Nam suy nghĩ chắc tình hình này thì khó có thể gặp cô bồ người miền tây của Huy, phần không muốn bị mấy tay công an hỏi giấy tờ thêm lôi thôi, nên quay trở lại bải lấy xe về nhà.
                            Buổi chiều Nam chạy xe vào Chợ Lớn, may quá gặp A Chí đang nói chuyện mấy tay bán hàng gần đó, thấy anh đến, ông ta gật đầu nói:
                            -Anh Nam chờ thêm chừng nửa tiếng, tui đang chờ tụi nó đem ra, kiếm đồ làm khó quá!
                            Nam gật đầu:
                            -Tui chờ lấy luôn
                            Tay chủ sạp dẩn anh qua bên kia đường vào con hẻm có quán cà phê cóc, ông ta kêu hai ly đen rồi lấy cái ghế gổ khác kê làm bàn.
                            Bên kia đường Hàm Tử, con kênh nước đen ngòm chạy dài về phía quận 1, hai bên bờ những dảy nhà sàn nằm đưa mình thòi ra trên dòng nước. Vài chiếc ghe nhỏ đang chèo chống len lỏi chậm chạp trên mặt nước, không còn cảnh mua bán sầm uất như ngày xưa.
                            A Chí chạy tới chạy lui như con thoi, vừa ngồi xuống hỏi Nam mấy câu thì lại thấy có người ngoắc tay gọi ra.
                            Chợ Lớn không còn cảnh mua bán thịnh vượng ngày xưa, nhưng hình như chính quyền mới cũng không thể dẹp bỏ tận gốc chuyện làm ăn và tinh thần phi thương bất phú của dân Saigon, cho dù sau năm 75, đã có nhiều cuộc cải tạo thương nghiệp để tiêu diệt tư sản mại bản, và hậu quả của nó là vài chục ngàn, vài trăm ngàn người phải đi kinh tế mới hay vượt biên ra đi. Thời gian đó, ngày nào ở Saigon, Chợ Lớn cũng có người nhảy lầu hay uống thuốc độc tự tử vì tài sản bị tịch thu, ngoài chợ thì các loại hàng hóa thiết yếu trở nên khan hiếm, xa xỉ.
                            Nhìn qua bên kia đường thấy A Chí lấy tay ra dấu kêu, Nam đứng dậy móc túi trả tiền, bà già bán quán lắc đầu chi tay về phía A Chí, anh hiểu ý dắt chiếc xe đạp qua bên kia đường, thấy ông ta đã gói hàng sẵn trong tờ giấy báo cũ. Nam mở ra xem, thấy món đồ được mấy tay thợ Chợ Lớn làm cũng khá như ý, anh hỏi giá cả có gì thay đổi không, ông ta trả lời:
                            -Tui lấy đúng giá đã nói với anh Nam hôm qua
                            Anh trả tiền, cầm món đồ cẩn thận cột nó vào gui-đông xe rồi lên yên chạy về Phú Nhuận.
                            Cơm tối xong, trong nhà nóng nực, mùa nắng mùi hôi từ lòng con kinh cạn đầy bùn, thỉnh thoảng theo cơn gió bay vào xóm. Nam lấy xe đạp chạy lòng vòng qua các con đường ở trung tâm quận 1, quận 3. Hầu như không khí u buồn bao trùm khắp các con đường Saigon, những căn nhà phố mặt tiền đóng cửa im lìm, thỉnh thoảng mới có một, hai chiếc xe đạp hay chiếc Honda chạy qua, Saigon giống như một thành phố đang chết dần trong cơn bệnh tuyệt vọng.
                            Bên đường thấp thoáng trong các góc tối, những cô gái đứng tụm lại hay đi lang thang trên các vỉa hè, thấy Nam chạy xe đạp qua liền đưa tay ngoắc lại.
                            Anh chạy qua đường Huyền Trân Công Chúa, rẽ qua Nguyễn Du, rồi đến góc Nguyễn Trung Trực – Lý Tự Trọng, thấy còn hàng cà phê lề đường để mấy cái ghế gổ, Nam dừng xe lại và tấp vô, giờ này chắc chỉ còn cà phê hay trà.
                            Dựa chiếc xe vào gốc cây gần đó, Nam lấy ghế ngồi sát tường căn nhà vắng vẻ không một tiếng động bên trong, anh kêu ly cà phê đen, bà chủ quán đổ cà phê pha sẳn từ cái bình nhôm nhỏ ám khói trên cái bếp than âm ỉ ra ly, cho vào chút đường và khuấy lên vài cái, tiếng kêu long cong vang lên trong đêm tối mờ mờ.
                            Nam ngồi uống cà phê nhìn ra con đường Nguyễn Trung Trực chạy về hướng đại lộ Lê Lợi, ngoài đó hầu như tối om và không có một âm thanh nào, một nổi buồn nhẹ nhàng dâng lên theo tiếng cơn gió thổi trên con đường vắng, một cơn trốt nhỏ xoáy đám lá khô thành những vòng tròn chạy xào xạc trên hè phố, mới có năm, sáu năm từ ngày bộ đội miền bắc vào giải phóng miền nam, một bầu không khí thê lương bao trùm đất nước. Anh nhìn qua kiến trúc màu vàng hiện ra lờ mờ trong sân sau tòa án bên kia đường, ở xéo hướng đối diện bóng cây phượng to cao che khuất một góc tòa nhà thư viện cũ, xa hơn ngang qua đường Công Lý là dinh Gia Long nằm ẩn mình trong khuôn viên đậm đặc bóng đêm. Thành phố đêm nay hình như chỉ còn mình anh và bà cụ bán quán đang ngồi thu mình lặng lẻ trong góc tối, thêm cơn gió thổi tung đám lá bay xào xạt khắp các con đường vắng lặng.
                            Buổi sáng 5 giờ, Nam đã ra bến xe lên chuyến đầu tiên chạy về Bình Long. Vào đến xã, mặt trời đang đứng bóng, mới hơn 12 giờ trưa nên đường xá vắng vẻ. Anh đi ngang qua khu chợ thấy còn một bà ngồi bán khoai và bắp luộc trên cái sạp gổ, Nam ghé vào mua hai trái bắp bỏ chung trong cái túi đựng trục tay quay. Đến gần dảy hàng có quán cà phê nhà Năm Bình, anh cố đi nhanh qua đó để tránh khỏi gặp ông ta, Nam sợ gặp Năm Bình tò mò hỏi và để ý đến món đồ anh đem từ Saigon lên.
                            Qua khỏi trạm gác đập, cái nắng miền đông đất đỏ buổi trưa lên cao độ, tiếng nước chảy qua ba cửa đập phát ra tiếng rào rào, hình như mấy nhân viên trực đã quay các cánh cửa lên cao hơn, anh cố nhìn nhưng vì khá xa và bị khuất, nên không thể thấy rỏ. Nam lấy bắp ra vừa đi, vừa ăn chứ không dám ngừng lại nghĩ chân dưới gốc me cạnh đó. Ăn xong hai trái bắp, anh lấy chai nước ra uống, rồi ra bờ hồ lấy tay vốc nước lên rửa mặt và đốt điếu thuốc hút cho tỉnh táo. Nam đi sát vào bên trong dưới bóng mát của những cây điều, mít, tràm bông vàng … trồng thưa thớt dọc bên đường để trốn cái nắng chói chang, bên trong sân những căn nhà tranh, vài con chó ốm thấy người lạ đi ngang liền chồm dậy sủa vang.
                            Thấy được khoảng nửa đường, Nam đến ngồi nghỉ chân dưới bóng mát của cây xòai to, cành lá của nó xum xuê, nhìn vào trong sân ngôi nhà tranh xiêu vẹo không thấy người, cũng không nghe tiếng kêu của chó, mèo hay đàn gà …
                            Bổng từ xa xa trên mặt hồ, anh thấy chiếc xuồng chở ba người đàn ông đi về phía con đập, lát sau khi nó đến gần hơn, Nam nhận ra Tư Có và tay du kích có nét mặt xương xẩu, còn tay du kích kia thì lạ, chắc họ mới đi tuần trong đó ra. Anh đứng dậy tiếp tục lội bộ theo con đường quanh co chạy qua vùng đồi núi, nương rẩy đang phơi mình dưới cái nắng như nung của buổi chiều.
                            Về đến nhà, không thấy con Đốm đâu, Nam mở cánh cửa bước vào bên trong, mọi thứ vẩn nguyên vẹn, biết anh về Saigon, chắc Ba Du cũng thường xuyên qua lại để trong chừng mọi thứ giùm anh.
                            Nam cầm cái tay quay mới làm ở Saigon đi qua nhà Ba Du, qua khỏi đám rừng chồi đến chỗ con suối, thấy Ba Du đang đang cuốc đất bên những luống khoai mì, anh bước đến đưa nó cho Ba Du xem và nói:
                            -Thợ ở trong Chợ Lớn làm nhanh, nên có sớm, chiều hôm qua tôi vào lấy, rồi sáng nay lên đây luôn
                            Ba Du mở túi vải lấy tay quay ra xem, gật gù khi thấy nó có vẻ chắc chắn, gọn gàng:
                            - Chiều nay chú Nam qua bên này ăm cơm luôn nhé, tối nay nếu thuận lợi mình ra ngoài để thử nó xem sao!
                            Nam gật đầu, rồi hỏi Ba Du về tình hình hai ngày anh về Saigon:
                            -Lúc trưa trên đường về, thấy Tư Có và hai tay du kích đi xuồng trở ra ngoài xã, có tin gì mới không anh Ba?
                            Ba Du lắc đầu, nhớ lại con Đốm, Nam hỏi tiếp:
                            -Về nhà không thấy con Đốm đâu, anh Ba có thấy nó qua bên đó không?
                            -Lúc trưa thấy nó và con Ki chạy loanh quanh ngoài rẩy bên đó, từ buổi chiều đến bây giờ thì thấy hai con chạy vào trong mấy bụi cây gần rừng chồi, không biết còn trong đó không …
                            -Anh Ba sắp tới tính trồng thêm đậu hay bắp hay sao?
                            Nghe anh hỏi, Ba Du cười cười trả lời:
                            -Ừ, trồng thêm mớ đậu hay bắp, bỏ đất trống nhiều quá, tụi ngoài xã nói mình nhàn cư, không thích hăng say lao động …
                            Nam bật cười khi nghe Ba Du khôi hài, anh quay trở lại đám rừng chồi tìm hai con chó, đứng bên ngoài nhìn vào chỉ thấy cây lá um tùm, có tiếng sột soạt bên trong, anh kêu lớn tiếng:
                            -Đốm, Ki … Đốm, Ki!
                            Vừa kêu vừa vổ tay thật lớn, mấy phút sau hai con chó mới chịu chạy ra, lưỡi le dài, thở hồng hộc, anh nhìn vào đám cây mọc chen chút bên những tảng đá, không biết trong đó có cái gì mà hai con chó sục vào mò mẩm, thấy Nam hai con đều vẩy đuôi mừng và sủa lớn, rồi chạy theo anh về nhà.
                            Chiều ra hồ tắm, cái mệt và hơi nóng đeo bám Nam trên đường về trôi đi mất theo dòng nước trong xanh, và điều làm anh ngạc nhiên, là lần đầu tiên con Đốm phóng xuống hồ bơi theo anh ra xa, chứ không còn sợ nước như mọi khi.
                            Đã ba, bốn hôm nay không gặp Ngọc Minh, Nam bổng thấy nhớ cô và cái buôn thượng xa lắc trong rừng đó, kiên nhẫn chờ thêm một, hai hôm nửa, anh sẽ rủ Ba Du vào đó, không biết trong rừng còn du kích và công an đóng chốt hay không.

                            (còn tiếp)

                            Comment


                            • #15
                              Bửa cơm tối ở nhà Ba Du cũng như mọi khi, chỉ có hai người, và hôm nay không có bầu rượu, vài món rau, cá kho và nồi cơm độn với bắp, khoai, Ba Du nhìn ra sân thấy hai con chó đang nằm rồi nói:
                              -Tối nay mình ra chỗ cái đập và quay ba cái cửa lên, hôm chú Nam về Saigon, tôi có ra quán Năm Bình, nghe tay gác trạm nói bên phòng nông nghiệp xã vừa ra lệnh cho mở cửa lớn thêm, dò hỏi thêm thì được biết là sau khi đã mở, họ ít để ý hay theo dõi là đã mở lên bao nhiêu, chỉ ghi lại sơ sài thời gian đóng, mở trong sổ trực …
                              -Theo tôi để ít bị chú ý, mỗi lần cũng chỉ nên mở ba cái cửa lên thêm từ từ …
                              Nghe Nam góp ý, Ba Du gật đầu, anh nói tiếp:
                              -Để mực nước hồ hạ xuống nhanh, chắc cũng phải gần đến cuối tháng hai hả anh Ba?
                              -Ừ, chắc cũng cỡ thời gian đó, nghe Năm Bình nói bên du kích và công an xã đã rút khỏi chốt trong rừng rồi, ngày mốt cần vô buôn gặp Điểu Sơn vì lần trước tui có nhờ ngâm giùm hai bầu rượu thuốc, để lúc rảnh ra nhà Năm Bình lai rai với mấy tay gác trạm
                              Nam cười hiểu ý khi nghe Ba Du nói, anh biết Ba Du rất “quyết liệt” khi tham gia công việc này, mục đích nhậu với mấy tay đó là để dò la thêm tin tức và phản ứng nếu chuyện này bị họ phát hiện, nhưng cũng phải mời mọc cho thật tự nhiên, khéo léo, vì công an xã cũng rất tinh ý và thâm sâu, khi nghi ngờ, họ sẽ âm thầm theo dõi, và có thể giăng bẩy để thủ phạm vừa lộ ra là sa lưới.
                              -Tối khoảng nửa đêm, nghe tiếng cú kêu ba lần, chú Nam ra bờ hồ nhé, thử cái tay quay xem nó ra sao
                              -Theo anh Ba thấy sau khi lặn xuống dọc đám rừng chồi và nơi con suối chảy ra hồ, nơi nào có khả năng là điểm chôn giấu hai cái thùng?
                              Ba Du nhìn anh, suy nghĩ giây lát rồi trả lời:
                              -Theo câu chuyện chú Nam kể lại từ ông quản gia đồn điền, vị trí chôn hai cái thùng gẩn bờ suối rất dốc bên đám rừng chồi, tui nghĩ đó là con suối lớn mà hiện nay bị cái đập chắn ngang rồi, còn rừng chồi dọc bờ hồ khá dài và rậm rạp, do đó không biết địa điểm chính xác là nơi nào, từ lúc có cái đập, nước dâng lên cao làm thay đổi dưới đáy, khi nào mực nước hạ xuống, đào thăm dò từ từ thì mới biết chính xác …
                              Nam gật đầu vì Ba Du nói có lý, rừng chồi dọc bờ hồ dài hơn năm mươi mét, thời gian trước năm 75, nó có thể còn lớn hơn, bằng chứng là dưới đáy hồ dọc bên dưới còn rất nhiều thân cây bị đốn nằm la liệt …
                              Về nhà nằm ngủ sớm, đầu óc Nam suy nghĩ lởn vởn về địa điểm mà ông quản gia tiết lộ, bây giờ địa hình, cảnh vật đã thay đổi rất nhiều từ đó đến nay, đào thăm dò từng chút một thì kéo dài và lâu, như vậy nguy cơ bị phát hiện lại càng lớn cả từ bên này và bên kia hồ. Qua hết tháng hai thì thời gian chỉ còn thêm ba, bốn tháng nếu đúng như tin đồn là xã sẽ đưa người vào quản lý cái hồ và thu hồi đất đai xung quanh.
                              Không ngủ được, Nam ra ngồi hóng mát trên khúc gổ ngoài sân, đêm nay trời đầy sao, một ít gió từ dưới hồ thổi lên, tiếng vài con chó tru từ những căn nhà xa xa vang lên trong màn đêm tịch liêu. Những con chuột đồng phóng mình đuổi nhau kêu chít chít trong đám cỏ làm con Đốm gầm gừ chồm dậy chạy ra sục sạo. Ngồi chờ thấy lâu, Nam định lấy thuốc lá ra hút, nhưng sợ có ánh lửa gây chú ý nên đành nhịn.
                              Ba tiếng cú kêu vang lên trong đêm tối, anh vào nhà lấy cái tay quay, đóng cửa và đi xuống bờ hồ. Chiếc xuồng từ từ tách ra xa và bơi về hạ lưu, thuận hướng chảy của dòng nước, nên anh Ba Du cũng không phải mất nhiều sức.
                              Đến nơi, cả hai cẩn thận quan sát rồi mới cập xuồng vào gần gốc cây me tây, cạnh đó ba chiếc xuồng nhỏ đang nằm chen chúc sát bên nhau. Nam lắng nghe động tĩnh trong trạm và trên con đường, phía trước Ba Du cầm cái tay quay ra dấu cho anh nhớ quan sát và kêu báo động, rồi khom người nhanh nhẹn chạy đến phía sau trạm, sau vài giây nằm im nghe ngóng, bóng Ba Du phóng vụt lên con đập và biến mất sau mấy trụ bê-tông, tiếng nước chảy nghe rào rào trong đêm tối. Nam căng thẳng ngồi chờ dưới xuồng, không biết cái trục quay tự chế có xài được không, hy vọng là thuận buồm xuôi gió.
                              Hơn năm phút trôi qua, vẩn chưa thấy Ba Du chạy về, Nam hồi hộp lắng nghe mọi tiếng động xung quanh, tiếng nước chảy rào rào thoát qua ba cửa đập bắt đầu nghe lớn hơn, rồi bóng Ba Du khom người phóng nhanh về cái trạm, vài giây sau đã nhảy lên xuồng.
                              Ở phía mủi, Nam nhanh chóng bơi ra xa, cả hai nhẹ nhàng khua mái chèo đưa chiếc xuồng quay trở về, gần đến nhà, Nam hỏi nhỏ:
                              -Được không anh Ba?
                              Ba Du im lặng gật đầu, chờ chiếc xuồng vào gần bờ, Nam nhảy lên, đưa tay ra dấu và gật đầu hẹn sáng mai sẽ gặp lại, con Đốm chạy ra tận ngoài này chờ, anh vuốt ve nó rồi nhanh chân theo con đường đi về nhà.
                              Buổi sáng, Nam qua vác cuốc qua nhà Ba Du để hỏi công việc tối hôm qua, xem khi sử dụng cái tay quay đem từ Saigon lên ra sao, gặp Ba Du cũng đang chuẩn bị ra làm cỏ chỗ đám khoai, anh hỏi:
                              -Tay quay lúc đưa vào trục ống, hai cái có khớp với nhau không anh Ba?
                              Ba Du gật đầu:
                              -Vừa khớp, quay ba cái cửa sắt lên khá nặng nên phải hơi lâu, mấy món đó chú Nam nhớ tìm nơi cất giấu kỹ lưỡng, đề phòng khi nghi ngờ, du kích và công an khám xét đột xuất, tốt nhất là đem ra giấu trong khu rừng chồi …
                              Nam gật đầu, thấy yên tâm vì món hàng quan trọng này được thợ ở Saigon chế tạo khá tốt, không làm cho công việc bị trục trặc, trước khi anh quay trở ra ngoài rẩy, Ba Du dặn:
                              -Lúc nào rảnh chú Nam cứ ra làm việc thường xuyên, giẫy cỏ, tưới nước, dọn cây chồi …
                              Hiểu ý Ba Du muốn dặn dò như vậy là muốn không để bị ai chú ý, cả buổi sáng Nam cuốc sạch cỏ mọc lẩn trong các luống khoai, dọn cành cây nằm rải rác khắp nơi về một chỗ, sau khi lấy một mớ về làm củi, anh đốt cái đống còn lại cho đất trống trải, đồng thời lấy tro làm phân bón, ngọn lửa bùng cháy trên các cành cây khô kêu lách tách liên hồi và làm khói bốc mù mịt lên cao.
                              Ở phía xa, Ba Du đang rải phân cho đám khoai, mặt trời đã lên cao và phát ra ánh nắng chói chang, hơi nóng bao trùm lên mặt hồ, cây rừng. Đống lửa cháy mỗi lúc một lớn, mấy con bọ nhỏ và hai, ba con chuột đồng bị nung nóng bỏ chạy ra ngoài, bổng một con rắn đen trũi nhanh nhẹn trườn ra và trốn vào đám khoai, Nam đang sẵn cuốc trong tay, chạy tới đập vài cái làm con rắn quay lại và ngóc đầu lên sẵn sàng tấn công, anh liền bước lui ra xa, nhìn thấy con Đốm đang sục sạo mấy con chuột đồng ở gần đám rừng chồi, nên kêu nó:
                              -Đốm, Đốm, Đốm …!
                              Nhưng nó đang say sưa săn đuổi lũ chuột nên không chạy đến, con rắn thấy không còn bị đe dọa tấn công nên tìm đường lủi trốn. Nam nhớ món thịt rắn ăn rất ngon nên muốn hạ gục nó, anh cầm cuốc đi theo, thêm vài cú bổ xuống, nhưng con rắn trườn đi rất nhanh, nên mấy cú đánh vẩn không trúng. Ở phía xa, Ba Du nhìn thấy các động tác của Nam cứ bổ cuốc liên hồi nên đoán ra anh đang cố bắt con rắn, nên vừa chạy nhanh đến, vừa kêu con Ki, nó hiểu ý liền chạy theo Ba Du đến chặn đầu con rắn và nhe nanh dọa tấn công. Sau một lúc lay hoay với sự tinh khôn của con Ki, Ba Du phang một cuốc trúng cái đầu làm nó nằm im, rồi nhìn Nam cười nói:
                              -Chiều nay lai rai được rồi đó chú Nam
                              Nam cũng mỉm cười, đúng là dân sống trong nương rẩy, rừng núi, bắt được con gì, ăn con đó, thời buổi thiếu thốn này đâu thể kén chọn, cũng như mấy ông sĩ quan bị bắt đi học tập cải tạo lâu năm , đi lao động ra ngoài rừng ăn đủ thứ cây cỏ, côn trùng … vì quá đói.
                              Chiều dọn xong cỏ, cây bụi quanh nhà, Nam vác cần ra hồ câu kiếm thêm cá, để ý thấy nước hồ bắt đầu hạ xuống, còn khoảng mười ngày nửa mới hết tháng hai, để xem đến lúc đó mực nước còn bao nhiêu. Thay mồi vài lần, câu được hai con cá mè to, Ba Du xong công việc trên rẩy cũng đi vòng qua đám rừng, đến ngồi nói chuyện và xem Nam câu, anh hỏi:
                              -Hôm nào mình lặn xuống dưới lần nửa anh Ba?
                              -Ừ, ngày mai vô buôn, ngày mốt buổi chiều nghỉ tay sớm, tui và chú Nam ra hồ tắm rồi lặn xuống …
                              -Anh Ba tính lúc nào ra quán Năm Bình?
                              -Ngày mai có hai bầu rượu rồi, câu vài được con cá lăng hay ba ba làm mồi nửa thì ngon hơn …, cuối tuần mình ra rủ mấy tay đó nhậu lai rai, dò xem tình hình và có ai ở trạm nhận ra vụ mở rộng cánh cửa đập hay không …
                              -Gần cuối tháng hai, mình ra mở thêm lần nửa chắc ít làm họ chú ý
                              Ba Du gật đầu nói:
                              -Từ đây tới lúc đó để coi tình hình ra sao, à … tui qua rủ Hai Tuất chiều nay sang lai rai thịt rắn, chú Nam ngồi câu đi nghe …
                              Ba Du đi về lấy xuồng bơi qua nhà Hai Tuất, thêm được vài con, vậy ngày mai đem cho nhà Điểu Rút và Điểu Sơn hai con cá mè to, mấy con còn lại để ở nhà ăn.
                              Vừa tắm xong, Ba Du cũng đang từ bên kia hồ bơi về tới ngang qua chỗ Nam:
                              -Hai Tuất chừng mười lăm phút phút nửa sẽ qua, chú Nam lên nhà rồi qua liền nghe, tui về nhà chuẩn bị trước
                              Cầm cái giỏ đựng mấy con cá ra phía sau nhà và bỏ tất cả vào cái thùng, Nam vào trong thay quần áo chuẩn bị sang bên kia. Đi ngang chỗ trái mít anh hái bỏ nằm trong góc mấy ngày trước, mùi thơm bay ra, ấn tay thử lên lớp vỏ gai thấy mềm, Nam cầm dao cắt nó làm đôi, lấy một múi ăn thử, vị ngọt lan ra trong miệng.
                              Khép cửa nhà, anh cầm nửa trái mít qua nhà Ba Du làm món độn tối nay, con Đốm luôn chạy đến trước, nó không bỏ lỡ dịp nào để gặp con Ki.
                              Ba Du đã bày sẵn món thịt rắn bằm xả trên tấm phản, xung quanh có thêm rau sống và dĩa rau lang luộc đầy ú, mùi khoai nướng trong bếp than đang bay phảng phất trong gian bếp, thấy Nam để nửa trái mít lên mặt phản và lấy dao cắt ra làm bốn miếng nhỏ, Ba Du nói:
                              -Để lại một, hai miếng sáng mai đi đường ăn chú Nam
                              -Bên nhà còn nửa trái, mai tôi sẽ mang theo, anh Hai Tuất chưa thấy qua …
                              -Chắc cũng sắp qua tới, ảnh chờ bà xã về rồi mới đi
                              Ngoài sân hai con chó sủa vì thấy bóng người từ bờ hồ đi lên, Hai Tuất tay cầm chai rượu bước vào nhà cười vui vẻ:
                              -Chú Nam khỏe không, buổi sáng đập được con rắn nên tôi mới có cớ nói với bà xã qua đây lai rai
                              Nam cười trả lời:
                              -Có anh Ba nhanh tay đập vài cuốc trúng nó mới chết, còn khi tôi đập thì nó bò nhanh quá …
                              -Tóm lại là nó tới số rồi mới lạc vô đây hả Ba Du?
                              Anh và Ba Du cười khi nghe Hai Tuất nói, dọn thêm ba cái chén, đũa và muỗng, Ba Du lên ngồi, lấy chai rượu ngâm mít Hai Tuất vừa mang qua rót đầy ba cái ly rồi mời:
                              -Cạn ly đi anh Hai, chú Nam!
                              Hai Tuất ăn thử món rắn bằm xã liền khen:
                              -Ba Du làm món này ngon quá
                              -Con rắn này cũng gần hai ký, tui chỉ làm có món này, nên còn nhiều lắm, ăn mạnh lên nhé
                              -Lúc này bên đó có tin gì không anh Hai – Nam hỏi
                              -À, không có tin gì mới chú Nam, dính dáng tới huyện, xã họ không cho dân biết đâu … nhưng chắc rồi cũng êm xuôi
                              -Bên đó anh đang trồng bắp hay đậu – Ba Du hỏi
                              -Có bắp, có đậu, trong làng có người trồng thử mấy loại củ dong riềng, mới quá không biết ra sao … cái chính cũng là để ăn độn như khoai, bo bo
                              Ngừng lại nhấp ly rượu và ăn miếng thịt rắn, Hai Tuất nhìn Ba Du và Nam nói tiếp:
                              -Cách đây khoảng một tuần, cậu em của bà xã tui ở Saigon dẩn người bạn lên chơi, cậu này lúc ăn cơm thấy cái chén cũ sứt mẻ có hỏi tôi bán lại cho cậu ta, tôi nói ở nhà còn hai cái chén này là đồ ông già lúc đi làm đầu bếp ở đồn điền để lại như đồ kỷ niệm, nên tôi không bán được, cậu ta tiếp tục nài nỉ, ban đầu trả một chỉ vàng 24 một cái, tôi vẩn từ chối, sau cùng cậu ta trả ba chỉ, bà xã tôi thấy được giá quá, nên muốn bán cho cậu ta hai cái chén đó …
                              -Anh có bán hai cái chén cho cậu đó không? – Ba Du hỏi
                              -Tôi còn giữ ở bên nhà, tay đó biết nhìn đồ cổ, nghe cậu em nói là tay sưu tầm và mua bán ở Saigon …
                              Ba Du nhìn anh và Hai Tuất, cả ba đang theo đuổi những ý nghỉ riêng trong đầu, căn nhà nhỏ bổng nhiên im lặng. Nam nghĩ, ba chỉ vàng 24 cho cái chén cổ là một số tiền lớn, còn trong hai cái thùng dưới đáy hồ thì có bao nhiêu món đồ cổ trong đó. Ba Du đột nhiên lên tiếng:
                              -Hai cái chén đó có giá đó chứ anh Hai, thôi cạn ly, mồi còn nhiều lắm!
                              Nam gắp miếng rau lang luộc chấm vào chén mắm ớt cay, anh vẩn thích món dân dã ngọt, mềm này. Hai Tuất đốt điếu thuốc và có vẻ trầm tư đôi chút, Ba Du ăn miếng mít gật đầu khen:
                              -Cây mít nhà chú Nam ngon, lúc mới vô đây tui thấy ông già ở bên đó mới trồng được chừng vài tháng, bây giờ nó thành cây to
                              Hai Tuất cũng ăn thử một miếng, rồi gật đầu. Im lặng một lúc, Hai Tuất cầm ly lên nói:
                              -Uống hết ly này tôi về nhé anh Ba
                              Nghe tiếng hai con chó ở trước sân gầm gừ sủa, Nam ra đứng trước hàng hiên quan sát chung quanh, con Ki và con Đốm đang hướng về phía rừng cao su, đôi tai vểnh lên thẳng đứng, màn đêm dầy đặc bao trùm lên cảnh vật …
                              Tiễn chân Hai Tuất ra bờ hồ, Ba Du cắm cây đuốc tre vào mủi xuồng, ánh sáng của nó rọi lung linh xuống mặt nước, anh và Ba Du đứng nhìn chiếc xuồng và Hai Tuất bơi xa dần về tận bờ bên kia.
                              Khởi hành từ sáng sớm, sau khi đến nơi, Nam và Ba Du đã giấu chiếc xuồng vào đám cây rậm ven bờ, và bắt đầu lội bộ qua rừng. Tuy biết không còn chốt gác ngang đường, nhưng Ba Du vẩn cẩn thận đi trước. Mặt trời mới ló dạng ở hướng đông, không khí còn mang vẻ ngáy ngủ trong màn sương mỏng, tiếng gà rừng và chim cu gáy thấp thoáng gần xa. Qua con dốc cũ, cả hai đi qua đường mòn mà không gặp một ai, tới con suối đầu tiên, anh và Ba Du ngồi nghĩ một lát và uống nước, Nam nhúng cái gùi bên trong có hai con cá xuống suối, rồi nhanh chóng đi tiếp.
                              Vào đến buôn, Ba Du đi về phía nhà Điểu Sơn, gọi lớn tiếng vài ba lần, nhưng không có ai ở nhà, biết Điểu Sơn và bà vợ đang bận ngoài rẩy hoặc đã vào rừng, cả hai đi qua nhà Điểu Rút, đến nơi Nam bước lên thang, đứng gần cửa lớn tiếng:
                              -Cậu Điểu Rút, Ngọc Minh có nhà không?
                              Bà xã Điểu Rút từ trong đi ra, thấy Nam và Ba Du liền cười nói:
                              -À, anh Ba và chú Nam, ổng mới đi ra rẩy rồi, dặn khi nào anh Ba và chú Nam vô, ra kêu về, còn Ngọc Minh mới chạy về nhà cũ, nhiều khi vô vườn cây trong đó hổng chừng …
                              Nam cầm hai con cá trong gùi đưa bà ta:
                              -Cháu và chú Ba câu ngoài hồ, một con của ở nhà, một con cho chú Điểu Sơn, lúc nảy qua bên đó nhưng không có ai ở nhà
                              -Chú Nam để bên này, chút nửa tui mang qua bên đó sau, anh Ba ngồi chờ, tui đi ra rẩy kêu ổng về
                              Nam đến căn nhà cũ của Ngọc Minh, cửa đóng im lìm, anh thử gọi:
                              -Ngọc Minh ơi, có ở nhà không?
                              Không thấy ai trả lời, anh đi ra vườn cây, ánh nắng ban mai trải rộng trên khắp khu vườn, tiếng chim rừng ríu rít bay trong không gian tĩnh lặng của cái buôn nhỏ. Nam rẻ vào dưới lối đi xanh mát của khu vườn, đưa mắt tìm Ngọc Minh xem cô ở đâu.
                              Dưới nhánh cây xoài treo lủng lẳng đầy trái, Ngọc Minh đang dùng sào tre có cái rọ nhỏ để hái trái chín, cái gùi mây bỏ nằm trên cỏ . Anh chầm chậm đến gần để làm cô bất ngờ, Ngọc Minh vẩn đang chú ý những trái xoài trên cao, nên không nghe tiếng chân anh đang đi tới, Nam đứng lại và gọi:
                              -Ngọc Minh, anh mới đến!
                              Cô hơi giật mình, quay lại nhìn Nam:
                              -Anh Nam, mới vô hả, khỏe không, hôm nay du kích còn gác trong rừng không, có chú Ba Du cùng đi vô đây không?
                              Anh gật đầu, cầm bàn tay nhỏ của cô và cười nói:
                              -Anh khỏe, chú Ba đang ngồi chờ ở nhà, bửa nay trong rừng vắng rồi, Ngọc Minh khỏe không, để anh phụ hái cho
                              Thấy Nam cầm tay mình, cô mắc cỡ trả lời:
                              -Ừ, Ngọc Minh khỏe mới đi hái xoài chứ, anh Nam hái phụ đi, về nhà trưa cho ăn
                              Tính Ngọc Minh vẩn hay chọc phá, hái thêm năm, sáu trái xoài chín, cô kéo tay dẩn Nam đi qua cây mận, khế gần đó, Nam hỏi:
                              -Mấy ngày gần đây, trong này có gì lạ không Ngọc Minh?
                              -Dạ, không có gì mới anh Nam, cậu Điểu Rút và chú Điểu Sơn nói trong rừng không thấy ai vô đốn cây nửa
                              -Ừ, trên huyện và xã còn đang cấm …
                              -Ngọc Minh tính về thăm nhà cô, em của ba ở ngoài thị xã An Lộc vào tuần tới, anh Nam đi lên đó thăm cô với Ngọc Minh nhé?
                              Nghe cô hỏi, Nam dừng lại vài giây để suy nghĩ rồi trả lời:
                              -Ừ, được! lúc này anh cũng không bận công việc làm rẩy, Ngọc Minh tính đi ra thị xã mấy ngày?
                              -Thị xã cũng gần, Ngọc Minh tính đi sáng sớm, rồi chiều về vẩn kịp
                              Nam gật đầu, nhưng thắc mắc chưa biết đi như thế nào, vì anh và Ngọc Minh thì ở xa nhau, không biết như vậy buổi sáng đó sẽ đón xe lên thị xã ra sao.
                              -Chút nửa về nhà Ngọc Minh xin phép cậu Điểu Rút – cô có vẻ vui vì Nam đã đồng ý
                              -Còn cách đón xe đò thì anh ra đâu để đi cùng chuyến xe với Ngọc Minh?
                              -Ừ, mình hẹn nhau khoảng mấy giờ ra đón xe, chỗ anh Nam đón ngoài quốc lộ ở phía dưới nơi Ngọc Minh từ trong buôn hay ra đón xe, hôm đó Ngọc Minh sẽ ra ngoài đó sơm để chờ, anh Nam từ ngả ba nông trường đón xe chạy ngang qua, Ngọc Minh thấy chiếc nào có anh Nam, Ngọc Minh sẽ lên chuyến đó
                              -Lở chuyến xe đó đầy khách rồi thì sao?
                              -Ngọc Minh ngồi ghế súp cũng được, bửa nay thứ sáu rồi, Ngọc Minh tính sáng thứ hai mình đi ra thị xã được không?
                              -Ừ, khoảng 6 giờ sáng anh ra ngoài đường đón xe, Ngọc Minh từ trong nhà ra kịp không?
                              -Ừ, chút xíu nửa Ngọc Minh về hỏi cậu Điểu Rút, chú Điểu Sơn về đường đi, vì từ buôn này ra đó hay quá giang xe của lâm trường …
                              Hái thêm mận và khế gần đầy gùi, Nam ngẩng đầu nhìn thấy mặt trời đã lên cao, Ngọc Minh cầm tay anh nói:
                              - Thôi mình đi về
                              Gần đến nhà Ngọc Minh lên trước, Nam cõng sau lưng cái gùi đầy trái cây bước lên thang. Điểu Rút đang ngồi nói chuyện với Ba Du, anh theo cô vào gian bếp, bà mợ Tranh đang nấu bửa trưa, nồi cơm độn khoai, vài món rau rừng hái ngoài rẩy về luộc, nấu canh.
                              Có tiếng của Điểu Sơn mới đi rừng về, anh đi ra nhà ngoài, bà xã Điểu Rút thấy đã gần trưa nên dọn bữa lên, Ngọc Minh phụ bê thêm mấy món kia ra và hỏi Điểu Rút:
                              -Cháu với anh Nam tính sáng thứ hai ra thăm cô ở thị xã, anh Nam đón xe từ ngả ba lên lúc 6 giờ thì kịp không cậu?
                              -Ừ, kịp mà! để cậu hay Điểu Sơn đưa cháu ra lộ chừng lúc 5 giờ rưởi, cậu Nam đón chuyến xe chạy từ Chơn Thành lên lúc 6 giờ, từ đây lên thị xã cũng gần, chiều khoảng 2 giờ đón xe về, cậu hay mợ sẽ ra đó chờ
                              Ngọc Minh nhìn Nam cười tươi, hai người đàn ông S’tiêng và Ba Du có vẻ vui và ưng ý khi thấy Nam cùng đi với Ngọc Minh ra thị xã thăm bà cô ruột sống ở đó, riêng bà Tranh thì không giấu được niềm vui, bà ta lăng xăng tới lui dù các món đã được dọn lên hết, tính tình mộc mạc, chân thành của người miền núi khiến Nam thấy họ dể mến.
                              Xong bửa cơm trưa đạm bạc, Ba Du và Nam chào chủ nhà và Điểu Sơn ra về, Ngọc Minh sợ sáng thứ hai tới anh quên nên dặn lại lần nửa, và nhờ Ba Du chở Nam ra xã, dĩ nhiên Ba Du gật đầu và rất sẵn lòng giúp anh việc này.
                              Trên đường về, nhìn vào trong gùi ngoài hai bầu rượu, còn có cái ống nứa tròn to, một đầu bịt kín bằng lá khô, Nam thắc mắc:
                              -Cái ống đựng hột giống hay món gì vậy anh Ba?
                              -Ờ, lá cây khô như trà, nấu nước uống làm cho người tỉnh táo
                              Nam thấy cũng còn thắc mắc, nhưng không hỏi tiếp, Ba Du nói với anh:
                              -Chiều chủ nhật ra ngoài nhà Năm Bình rủ mấy ông trong trạm lai rai, sáng mai mình đi giăng lưới hay đi câu cá lăng nghe chú Nam.
                              Sáng chủ nhật, sau khi bắt được một mớ cá con làm mồi, cả hai chèo xuồng lên phần hồ phía trên thả lưới, xong rồi liền quay ra câu cá, đúng là một ngày may mắn, gần trưa Nam và Ba Du câu được hai con cá lăng, và lưới được gần chục con vừa cá rô, vừa chép.
                              Trời xế chiều, đúng hẹn Ba Du cập chiếc xuồng vô bờ gần nhà cho Nam nhảy lên, hai con chó đứng nhìn theo, con Đốm sủa vài tiếng ngắn và quay về nhà khi chiếc xuồng đi xa mất hút.
                              Cho xuồng đậu vào góc cây me tây, Nam và Ba Du lắng tai nghe tiếng nước chảy qua đập nghe rào rào, sợi dây ni-lông căng ngang ba cánh cửa sắt bên dưới đập để chặn rác, thân cây đã nổi hẳn lên mặt nước.
                              Quán Năm Bình chiều chủ nhật vắng khách, thấy Ba Du và Nam xách rượu và mồi ra rủ lai rai nên đồng ý:
                              -Anh Ba với chú Nam ngồi chơi uống trà đi, tôi mang cá vào cho bà xã làm món nhậu, chiều nay làm món cá lăng hấp anh Ba thấy sao?
                              -Ừ, món đó ngon đó anh Năm, sẵn có ông Tỵ hay ông nào trực trạm chiều nay rủ đến lai rai luôn cho vui
                              -Chiều nay thằng Sung trực, nhưng chút nửa tôi đạp xe vào nhà ông già Tỵ gọi ra
                              Nắng chiều dần xế trên những mái nhà im lìm dọc con đường chạy qua trước quán, Ba Du và Nam hút thuốc lá, uống trà, thỉnh thoảng có người khách vào ngồi uống xong ly cà phê rồi trả tiền ra đi. Mùi cá hấp gừng từ sau bếp theo gió bay lên trước quán, có tiếng xe đạp chạy về phía quán, Năm Bình dựng xe rồi bước vào nói:
                              -Ông Tỵ và thằng Sung chút nửa đến, mình cứ dọn lên lai rai trước đi, giờ này cũng hết khách vào uống cà phê rồi
                              Năm Bình phụ bà xã dọn món cá hấp lên cái bàn, Nam mở nút bầu rượu bằng lá chuối khô rót ra ly, màu nó nâu nhạt nhưng có mùi thơm nhẹ, anh nhấp thử thấy rượu hăng hăng, có lẻ được ngâm với rể, lá cây trong rừng, Năm Bình nâng ly mời Ba Du và Nam:
                              -Thôi mình vô hết ly đầu nhé Ba Du, chú Nam, rượu thuốc hả anh Ba?
                              -Ừ, loại này trị đau nhức xương khớp, chống mệt mỏi
                              Nghe Ba Du giới thiệu về rượu này, người ta có cảm tường nó là thuốc trị bá bệnh đau, nhức, mỏi dành cho người lao động tay chân, nặng nhọc và mấy ông lớn tuổi
                              Món cá hấp ăn với rau sống, nước mắm cay và rượu thuốc đem từ buôn về có vẻ rất hợp, thật sự với dân nhậu miền quê có mồi ngon, khác lạ và rượu đế là quá đủ, nếu thêm loại rượu nào tăng cường sinh lực cho quí ông thì lại càng hấp dẩn.
                              Đang bàn luận về thời tiết năng mưa, cây cối … thì ông già Tỵ và tay nhân viên trực trạm hôm nay đến, Năm Bình đứng dậy lấy thêm ghế và nói:
                              -Ông Tỵ và Sung vào ngồi đi
                              Ba Du rót rượu vào hai cai ly và giới thiệu:
                              -Đây là chú Nam, làm rẩy gần đất tui trong đó, lâu quá mới gặp lại, khỏe không ông Tỵ, còn chú này tui thấy hơi quen?
                              -À, thằng này tên Sung, nó cũng ở trong tổ kỹ thuật với Năm Bình và tui
                              -Ông với chú Sung làm ly đầu tiên đi, rồi ăn thử món cá hấp đưa cay, lúc nào rảnh ông với anh em ngoài này vô trong chỗ tui và chú Nam nhậu một ngày đi …
                              Cạn ly rượu Ba Du mới rót, ông ta nói:
                              -Rồi, đồng ý, còn chú Nam hôm tết hình như tui có gặp ở quán này, rượu thuốc hả anh Năm?
                              -Ừ, của Ba Du đem từ buôn ra, bồi bổ gân cốt, chống nhức mỏi, làm tăng sinh lực cho người già, sức trẻ thêm dồi dào …
                              Mọi người đều mỉm cười khi nghe Năm Bình giới thiệu rượu như mấy tay sơn đông, mãi võ ngày xưa đi qua các làng xóm, thị trấn để bán hàng
                              -Ông Tỵ uống rượu này chắc về bà xã ở nhà khen thêm – tay nhân viên tên Sung cười nói
                              Ông ta đáp lại:
                              -Mấy thằng trẻ như mày chưa vợ không được uống nhiều nghe Sung, nó xung lên là mày mệt đó
                              -Vậy tui với chú Nam không được nhậu hôm nay hay sao?
                              Trong bàn nhậu, mọi người cười lớn, Ba Du dò hỏi:
                              -Chú Sung tối nay trực ở trạm, bây giờ uống lai rai như vậy có bị kiểm điểm gì không?
                              -Có anh Năm Bình đôi lúc ra kiểm tra trực gác ban đêm thôi, khi nào xã có lịnh thì đóng mở mấy cái cửa và ghi sổ là xong công việc
                              Nam nghe tay nhân viên này nói thì hiểu họ không để ý đến cửa đập mở lớn hay nhỏ, vậy là yên tâm, sắp tới ra đập mở mấy cánh cửa lên từ từ, dù sao cũng nên cẩn thận, Ba Du nhìn Năm Bình hỏi:
                              -Anh Năm chắc đâu phải trực gác ban đêm hả?
                              -Nếu có ai bận hay bệnh đột xuất thì tôi trực thế một, hai ngày
                              -Thôi, cạn ly đi ông Tỵ, chú Sung
                              Món cá lăng hấp gừng được chiếu cố tận tình, Nam không dám uống nhiều vì nhớ sáng mai còn đi ra An Lộc-Bình Long với Ngọc Minh, nhưng loại rượu này say nhẹ nhàng, không biết tối về nhà thì ra sao, Ba Du nhờ Điểu Sơn ngâm nó với rễ, lá cây rừng chắc có dụng ý gì đây.
                              Bên ngoài quán có một người đàn bà trung niên, y phục, tóc tai xơ xác đến đứng trước cửa, tay cầm cái giỏ tre đựng mấy món ve chai lượm lặt ngoài đường, ông già Tỵ nhìn bà ta nói:
                              -Bà này bị mất trí, tụi du kích nói bả lang thang từ thị xã Bình Long vô đây, không nhà cửa, con cái …
                              -Tui lại nghe mấy bà ngoài chợ nói chồng bà này đi học tập ngoài bắc gì đó, còn con cái thì bỏ kinh tế mới về Saigon rồi – Năm Bình nhìn bà ta nói
                              Nam thấy bà ta hiền khô, chỉ đứng bên ngoài quán cười cười, không nói bậy, chưởi bới hay nhìn ngó ai, Năm Bình cầm tiền ra đưa vào tay bà ta, mọi người trong bàn mải lo nói chuyện, ăn uống, còn bà ta một lát sau thì bỏ đi mất.
                              Ông già Tỵ và tay công nhân tên Sung ngồi nhậu đến khi Năm Bình rót cạn những giọt cuối cùng trong bầu rượu, cả hai đưa tay chào cả bàn để đi về trạm gác.
                              Năm Bình pha hai ly cà phê đen mang ra cho Ba Du và Nam, ngoài đường trời đã nha nhem tối, ánh đèn dầu vàng vọt từ trong quán chỉ đủ sức hắt ra đến hàng hiên, những hàng quán khác trên con đường đi qua xã đã khép kín cửa, vài đứa nhỏ sau bửa cơm chiều ra trước hiên nhà chạy chơi với mấy con chó chạy theo sau sủa ăng ẳng. Uống xong hai ly cà phê, cả hai đứng dậy ra về.
                              Nam và Ba Du nhìn vào cửa sổ sáng ánh đèn khi đi về ngang trạm, không thấy ai trong đó, ông già Tỵ sau chầu nhậu chắc đã đi về nhà. Cả hai lên xuồng rồi chậm rải bơi về, chiều tối gió trên hồ thổi qua thật mát và dể chịu làm Nam thấy đầu óc tỉnh táo lại, về gần đến nhà, anh nói với Ba Du:
                              -Sáng mai chừng 5 giờ nhờ anh Ba đưa giùm ra ngoài xã để đi Bình Long
                              -Ừ, nghe tui gọi thì chú Nam đi ra
                              Trời còn mờ tối, Nam dậy thật sớm, ăn qua loa củ khoai, mấy trái chuối, và góc mít chín, rồi ra bờ hồ ngồi đợi Ba Du, con Đốm chạy theo anh ra ngoài đánh hơi loanh quanh đám cây cỏ.
                              Sờ tay vào túi quần sau để xem mình có nhớ mang theo cái bóp đựng giấy tờ tùy thân, tiền bạc. Nam nhớ lại hồi còn đi buôn đường dài, thỉnh thoảng anh có đến vùng ngoại ô cái thị xã nhỏ bé đó để mua bán nông sản, xong công việc là đưa hàng ra xe và đi về Saigon, chưa lần nào anh bước chân vào trong các con đường của thị xã An Lộc.
                              Sáng sớm vài con cò siêng năng đang sải cánh bay qua mặt hồ trong xanh, yên tĩnh, buổi sáng tuyệt đẹp mà ít khi có được ở một thành phố lớn. Từ xa Ba Du đang bơi tới cùng chiếc xuồng, hơi ngạc nhiên khi thấy Nam đang ngồi chờ bên bờ hồ, Ba Du cười hỏi:
                              -Chú Nam ăn sáng chưa?
                              Anh gật đầu rồi lên ngồi trước mủi, chiếc xuồng lướt đi về phía hạ lưu, Ba Du hỏi:
                              -Chiều chú Nam có cần tui ra đón ngoài xã không?
                              -Thôi khỏi anh Ba, cũng không chắc lúc nào về đến, đi bộ về cũng không xa
                              Tới nơi, Ba Du cho xuồng cập vào sát gốc cây me, Nam nhảy lên bờ và ra dấu cám ơn, rồi đi lên con đường lớn. Trời vừa sáng mờ mờ, một vài công nhân khuôn mặt xanh xao lặng lẽ đi bộ ra bải xe của nông trường. Anh đi ngang qua ủy ban và trụ sở của đội du kích và công an kế bên, bên ngoài ba, bốn tay du kích vừa cởi trần, vừa mặc áo đang đứng trước cửa nhìn ra đường. Nam đi nhanh đến bãi xe, tìm hỏi mấy ông tài xế chạy chuyến ra quốc lộ xin quá giang, gặp ông già Tỵ đang đứng nói chuyện với hai tay công nhân bên chiếc máy cày, ông ta gật đầu cười khi anh đi ngang qua.
                              Anh đi về phía cuối bãi đất, hỏi xin quá giang ông tài xế già có khuôn mặt đen sạm, má hóp, đang ngồi hút thuốc trên cái ống cống bê-tông vỡ nằm bên đường, ông ta gật đầu, chỉ tay về phía chiếc xe tải cũ. Leo lên thùng xe, Nam nhìn sang bên kia đường, anh nhận ra người đàn bà trung niên hay cười một mình tối qua đến đứng trước quán của Năm Bình, tay vẩn xách cái giỏ nhỏ, bà ta đang cười với mọi người đi qua lại, nhưng ai cũng vội vã bước đi như không thấy, nhìn dáng điệu bên ngoài, Nam đoán bà ta không phải là người đã sống ở một cái tỉnh lẻ hay vùng quê xa xôi.
                              Chiếc xe tải bỏ anh xuống bên đường, buổi sáng đường quốc lộ 13 nằm im lặng, và chạy dài xa tít về hai phía rừng cao su bạt ngàn. Nam đứng chờ bên con dốc, vài chiếc xe máy cày có rờ-móc chở công nhân phía sau chạy về các lô cao su, nếu không có những chiếc xe cà tàng từ nông trường ra vào hàng ngày, chắc vùng rừng núi này đìu hiu lắm, chạy qua đây chỉ còn những chuyên xe đò, xe bộ đội lên An Lộc, Lộc Ninh để qua bên kia biên giới Miên. Một chiếc xe đò tuyến Chơn Thành – Bình Long chạy trờ tới, Nam đưa tay ra dấu, tay lơ xe ngồi phía sau ló đầu ra hỏi:
                              -An Lộc, Bình Long?
                              Anh gật đầu, hắn ta bung cánh cửa cho Nam bước lên, anh đến ngồi ở hàng ghế trống phía bên phải. Trên xe có chừng sau, bẩy hành khách vừa đàn ông, đàn bà, chiếc xe hậm hực cố chạy lên con đường dốc phía trước, tay lơ cẩm khúc gổ đập mạnh vào cái thùng đốt than sau xe tiếp sức cho nó lướt qua khỏi đọan dốc ngắn.
                              Chiếc xe chạy trên quốc lộ thênh thang, Nam chú ý nhìn bên phải con đường, không biết Ngọc Minh có ra kịp không, hai bên nương rẩy và rừng cao su vẩn chạy dài nối tiếp, trên xe không ai nói chuyện , ông tài xế lắc lư tay lái mỗi khi vòng tránh ổ gà sâu trên mặt đường. Đến gần một trảng cỏ trống nhỏ bên lề, Nam thấy Ngọc Minh đang đứng chờ với Điểu Rút gần cột mốc bê-tông bên đường, vai đeo cái túi vải thổ cẩm có hoa văn nhiều màu, một tay xách giỏ mây.
                              Nam đưa tay ra dấu cho họ thấy và nói tay lơ dừng xe. Tay tài xế dừng sát bên đường đón khách, Nam gật đầu chào Điểu Rút, thấy Nam ngồi trên xe, ông ta ra dấu cho Ngọc Minh bước lên, chiếc xe gầm lên và chạy về phía trước, anh đưa tay chào Điểu Rút đứng le loi bên đường nhìn theo.
                              Mọi người trên xe quay lại nhìn Ngọc Minh đang tới ngồi kế bên Nam, họ có vẻ thắc mắc trong giây lát rồi thôi, anh cầm tay cô hỏi nhỏ:
                              -Ngọc Minh đứng chờ xe lâu không, ăn sáng chưa?
                              Khuôn mặt cô tươi cười dưới vành cái nón vải, cô lấy trong cái giỏ mấy trái lêkima chín đưa cho Nam, anh cười cám ơn vì cô nhớ anh thích ăn loại trái này, Ngọc Minh nói:
                              -Ngọc Minh đem trái cây hái trong vườn nhà cho cô nè
                              Cô ngồi hơi dựa vào vai Nam, chiếc xe chạy ngang nhiều khu vực còn mang dấu vết chiến tranh trước năm 75, đồn canh, bót gác cũ nằm trên những quả đồi trọc trơ trọi màu đất đỏ, những trụ sắt giăng mắc kẽm gai, những khung xe màu xám, những tấm vĩ sắt … đã rỉ sét theo năm tháng và thời gian. Tất cả gần như không thay đổi so với cảnh vật cách dây hai, ba năm lúc anh có dịp đi qua đây.
                              Ngọc Minh đưa anh chai nước, Nam lắc đầu ra dấu chưa thấy khát. Đến gần ngoại ô thị xã, tay lái xe cho chiếc xe chạy chậm lại và dừng kế bên trạm kiểm soát trên đường, tất cả mọi người phải xuống xe và vào trong xuất trình giấy tờ tùy thân, phụ nữ qua một bên, đàn ông qua một bên. Đến lượt Nam bước vào căn phòng nhỏ, ngồi sau cái bàn gổ là một tay ca có đôi gò má nhô cao, khuôn mặt vuông vức, anh đưa tất cả giấy tờ cho ông ta, sau vài phút xem xét, tay ca cầm trả lại và hỏi:
                              -Đi thăm bà con?
                              Nam gật đầu, đưa tay lấy hết giấy tờ cho vào bóp và bước ra bên ngoài, Ngọc Minh đang đứng chờ phía trước, cả hai quay lên xe, chờ thêm một lát cho hành khách lên đầy đủ, tay lơ đập mạnh vào cái thùng sau, chiếc xe lăn bánh qua đoạn cuối để vào thị xã. Vài căn nhà thấp thoáng sau vườn cây bên đường, lác đác những chiếc xe bò, xe đạp và người đi bộ lướt qua hông xe, anh quay sang hỏi:
                              -Ngọc Minh có hay về thăm bà cô không?
                              -Lâu rồi Ngọc Minh chưa về, chắc cũng gần nửa năm rồi …
                              Chạy ngang qua một ngôi nhà hai tầng rộng rải có mái ngói nâu đen, rêu phong nằm trong một cái sân lớn, các bức tường bên ngoài bám đầy bụi đỏ, phía bên ngoài hàng rào vẩn còn ba ụ lô cốt, trước cổng có tấm bảng ủy ban nhân dân tỉnh Bình Long, Ngọc Minh đưa tay chi và nói:
                              - Văn phòng của tiểu khu đó anh Nam, hồi xưa ba làm việc ở đó
                              Tài xế cho xe chạy chậm lại và từ từ rẻ vào bến xe thị xã, và đậu sát bên những chiếc xe đò cũng có tuổi đời già nua như nó, Nam và Ngọc Minh ra khỏi bến, anh nói:
                              -Để anh xách cái giỏ
                              Trước cổng một tay công an và một tay du kích đeo băng đỏ đứng nhìn người ra vào bến xe, cái loa treo trên cột đèn đường đang oang oang hát, ca ngợi chiến thắng của bộ đội và du kích miền đông đánh bại kẻ thù đế quốc Mỹ và tay sai ngụy quân, bọn Pôn Pốt xâm lăng. Vài chiếc xe đạp ôm trờ tới, Ngọc Minh lắc đầu, mới khoảng chín giờ sáng, không khí trong thị xã của một tỉnh lẻ trầm trầm và buồn tẻ như người đang ngủ gà, ngủ gục.
                              -Nhà cô cũng gần bến xe, khoảng gần một cây số, mình đi bộ về
                              Nam cười gật đầu, cả hai đi trên dải đất cỏ mọc lưa thưa bên đường, nó giống như vỉa hè của con đường chạy qua giữa hai dãy nhà vừa gạch, vừa gổ, dấu vết tàn khốc của chiến tranh còn để lại trên những căn nhà lầu hai tầng thủng lổ chỗ trên tường, mái tôn và cửa sổ bay mất tiêu. Dọc con đường, những cây bằng lăng và phượng vĩ mới trồng vài năm đang trổ những bông hoa màu tím và vàng cam đầu tiên.
                              Đi bộ khoảng gần cây số, Ngọc Minh dẩn Nam rẽ vào con đường vắng bóng người, những căn nhà im lìm sau hàng rào bông giấy và cây xanh đầy lá. Đến gần cuối đường, Ngọc Minh dừng lại trước căn nhà gổ có khu vườn rộng, cô đưa tay mở chốt sau cánh cổng và đầy mạnh nó vào bên trong, Nam bước theo sau, cô bước đến gần cửa gọi lớn:
                              -Cô ơi, cô có ở nhà không?
                              Có tiếng trả lời từ phía hông nhà ngoài vườn:
                              -Ờ, ai đó?
                              -Cháu là Ngọc Minh mới lên thăm cô đây
                              Một người phụ nữ trung niên độ 40 -50 tuổi, tóc hoa râm và búi tó phía sau, mặc quần áo bà ba đen xuất hiện, bà ta mừng rở:
                              -Ngọc Minh mới lên hả, cả nhà ông cậu và con trong đó có khỏe không?
                              -Dạ, tất cả mạnh khỏe, cô và mấy anh chị chắc cũng khỏe?
                              Bà ta gật đầu, rồi nhìn Nam như muốn hỏi cô là ai đây, Ngọc Minh giới thiệu:
                              -Đây là anh Nam làm rẩy ở gần buôn của cháu, nhà ở dưới Saigon lên Bình Long, cháu mới quen vài tháng nay
                              Nam gật đầu chào, bà cô dẩn cả hai vào nhà, cô lấy trái cây từ trong giỏ ra:
                              -Cháu hai trong vườn nhà ra cho cô
                              -Ừ, để cô vô lấy nước cho hai đứa uống, trưa ở lại ăn cơm nghe, cô làm món này cho tụi mày ăn Ngọc Minh nhìn Nam cười, cô kéo tay Nam ra cái giếng nước phía sau nhà, thả cái gầu nhỏ xuống mặt nước trong khe bên dưới, Nam ngạc nhiên hỏi:
                              -Nước ở đây trong và gần quá hả Ngọc Minh!
                              Cô quay cái guồng kéo cái gầu lên và nói:
                              -Anh Nam rửa mặt, rửa tay đi, nước mát lắm, ở gần đây có cái hồ nên nước giếng nhiều lắm
                              Vào nhà uống ly nước trên bàn chủ nhà vừa mang lên, bà cô nhìn Nam hỏi:
                              -Trước khi làm rẩy ở Saigon cháu làm nghề gì?
                              -Dạ, cháu đi buôn nông sản ở các tỉnh về Saigon
                              -Thời buổi này đi buôn chắc khó khăn lắm, làm rẩy thì cực khổ như nông dân, nhà cháu ở quận nào dưới Saigon, chắc gia đình ở đó lâu rồi hả?
                              -Dạ, gần cầu Kiệu, Phú Nhuận, gia đình vào đây từ năm 54 …
                              -Ờ, cô nghe cháu nói giọng bắc Saigon, khác mấy ông 75, nghe dưới đó dân thành phố vượt biên đi nhiều hả cháu?
                              Ngọc Minh cười khi nghe bà cô hỏi Nam liên tục, cô nói:
                              -Cô để anh Nam nghỉ chút đi, ảnh đi đường còn mệt mà …
                              -Dạ, dân Saigon vượt biên cũng nhiều, bị công an bắt giam và đi học tập cũng nhiều …
                              -Ừ, cô hỏi thăm cậu Nam bạn cháu chút xíu thôi, thôi để cô xuống nấu cơm trưa đây, Ngọc Minh con dẩn cậu Nam đi chơi quanh vườn đi
                              Nam rủ cô ra ngồi trên cái băng ghế dài trước hiên, mùa nắng bụi đất đỏ từ mọi ngóc ngách phủ thành lớp trên cây cối và có mặt ở khắp nơi, dường như cái đói, khổ làm cho thị xã nhỏ bé này đã chịu đựng qua những năm chiến tranh tàn khốc, nay lại càng thêm tiều tụy. Nam biết bây giờ đến nhà ai mà ở lại ăn bửa cơm thường gần như là “cực hình” cho gia chủ, chế độ cung cấp lương thực theo tem phiếu đâu đủ sống, nên nhìn mọi người đa số ai cũng hốc hác như nhau, ăn uống thì ít, mà phải nghe nói thì nhiều.
                              Ngọc Minh vào nhà cầm ra cho anh trái chuối, rồi quay xuống bếp phụ bà cô nấu nướng. Nhìn lại hai cái trụ cổng nhà cô Ngọc Minh làm bằng những ống tròn bắng sắt, sơn màu xám nhà binh, Nam nhận ra đó là vỏ đựng những viên đạn pháo được hàn dính chặt vào nhau.
                              Hồi năm 72, ở Saigon ai cũng biết đến tên tuổi thị xã An Lộc nhỏ nhắn ở vùng đất đỏ xa xôi này, những ngày ác liệt của mùa hè đó, ít ai nghĩ nó đứng vững trước trùng vây của bộ đội miền bắc, nhiều người ở Saigon còn chế nhạo vị tướng VNCH chỉ huy cuộc kháng cự ở cái tiền đồn nhỏ bé nằm giữa rừng cao su đất đỏ này.
                              Khi thị xã được giải vây, bộ đội miền bắc bỏ chạy về bên kia biên giới, dân Saigon reo hò tỡ mở, ba Nam thì nói người Mỹ và báo chí nước ngoài hết sức ngạc nhiên và khâm phục những người lính tử thủ An Lộc.
                              Nhưng chiến tranh là máu và nước mắt, hình ảnh thị xã nhỏ bé biến thành bình địa và người chết vì loạn lạc vẩn còn khắc sâu trong tâm khảm mọi người, thời gian đó gia đình Ngọc Minh và bà cô không biết ra sao?
                              Bưa trưa được dọn lên cái bàn nhỏ ở nhà trên, một cô gái trẻ, vai đeo cái túi xách và chồng tập vở cột ở yên sau, mở cổng và dẩn chiếc xe đạp vào sân, thấy Nam cô gật đầu chào, Ngọc Minh nhìn cô gái cười nói:
                              -Chị Lan mới đi dạy về, anh Nam bạn của em gần trong buôn đó, hôm nay lên thăm cô
                              Anh gật đầu chào, lát sau Ngọc Minh ra kêu anh vào ăn cơm. Bửa trưa thanh đạm, nhưng không thiếu tiếng cười rộn rã của hai cô gái trẻ và bà cô cũng thích nói đùa, hóa ra món trưa nay bà cô làm để “đãi” khách là mắm ruốc kho tóp mỡ, chấm với rau luộc. Nam nhớ rất lâu rồi mình không được thưởng thức món này, thêm phần cái bụng trống rổng nên ăn hết sức ngon miệng dù là cơm độn với bắp, đậu. Cô em họ Ngọc Minh nhìn Nam ăn ngon lành rồi cười với cô, Ngọc Minh liếc nhìn anh cũng cười tủm tỉm, đến lúc sau phát hiện ra, Nam hơi ngượng và múc miếng canh măng rồi ăn uống từ tốn lại.
                              Cuối cùng là món trái cây từ nhà Ngọc Minh được bày lên bàn, bà cô có vẻ muốn chọc cô nên hỏi:
                              -Ngọc Minh hình như không thích về Saigon sống dưới đó thì phải!
                              Ca hai cô gái trẻ cười và hầu như muốn ngã lăn vào nhau, riêng Ngọc Minh thì mặt đỏ hồng lên, còn Nam im lặng ngồi cười, rồi gãi đầu, dấu hiệu khi anh bị bối rối, cuối cùng anh nói đỡ:
                              -Dạ, má cháu người bắc nhưng cũng dể thôi mà, cháu cũng dể ăn uống, món nam, bắc, trung cháu đều ăn được hết …
                              -Cháu cũng biết nấu ăn, làm rẩy nè, cô lo quá
                              Cô em họ tên Lan hỏi Ngọc Minh:
                              -Ngọc Minh và anh Nam tính về lúc mấy giờ, lúc này buổi chiều có ít xe về Chơn Thành và thành phố
                              -Ừ, vậy chắc về sớm, để Ngọc Minh phụ dọn chén dĩa đem xuống rửa rồi ra bến xe
                              Xong công việc, Ngọc Minh và anh chào bà cô và cô em họ ra về, ba người bịn rịn chia tay trong không khí buổi trưa buồn bả, mắt hai cô gái trẻ mang đầy vẻ quyến luyến khi phải xa nhau.
                              Nam và Ngọc Minh đi bộ trên con đường vắng ra đến bến xe, buổi trưa trong bến vắng vẻ, thấy vài người đang xúm lại vây quanh một người đàn ông tật nguyền cầm cây đàn đi hát rong xin ăn, ông ta đang bị tay du kích nắm cây đàn lôi kéo và lớn tiếng không cho hát nhạc vàng. Người đàn ông đứng im lặng, đôi mắt chỉ còn một bên, mắt bên kia cũng không lành lặn, Ngọc Minh nắm tay Nam dừng lại xem. Thấy tay du kích còn trẻ nhưng hung hăng và có vẻ muốn đuổi người đàn ông ra khỏi bến xe, Ngọc Minh thò tay phải vào cái túi vải đang đeo trên vai, lát sau cô đi đến gần tay du kích, lấy tay vổ vổ nhẹ lên vai hắn ta rồi mỉm cười, nhỏ nhẹ nói:
                              -Thôi cho ổng ở trong này đi xin tiền bà con đi anh, tội nghiệp người ta mà
                              Mấy tay tài xế và lơ xe đang đứng gần đó ngạc nhiên thấy cô gái dám đến vổ vai tay du kích xin tha cho người ăn mày, nhưng tay du kích sau vài giây trừng mắt nhìn Ngọc Minh, bây giờ xìu xìu lại, khuôn mặt lờ đờ và không nói tiếng nào, cô lấy tiền trong túi ra cho người đàn ông xin ăn rồi nói:
                              -Đi đi chú, ảnh cho chú đi rồi đó
                              Ông ta nhìn Ngọc Minh cúi đầu cảm ơn và chậm rải đi về cuối bến, mọi việc xảy ra quá nhanh, khiến Nam chỉ biết đứng nhìn. Ngọc Minh lấy tay kéo Nam ra chỗ phòng bán vé nằm trong góc bến, cô ra dấu cho bà nhân viên ngồi bên trong bằng hai ngón tay, bà ta mỉm cười với Ngọc Minh và Nam.
                              Anh và Ngọc Minh lên xe ngồi chờ, lát sau ông tài xế sồn sồn lên ca-bin nổ máy và chiếc xe đò lăn bánh ra khỏi bến.
                              Trên xe đa số hành bắt đầu ngủ gà gật sau khi qua khỏi cái trạm kiểm soát bên ngoài thị xã, chủ yếu là để xét hàng hóa. Chiếc xe chạy theo đường quốc lộ cũ về Chơn Thành, trên xe Ngọc Minh ngồi dựa vào Nam, thỉnh thoảng nhìn anh mỉm cười, Nam thấy cảm phục Ngọc Minh, đâu ngờ cô gái sống trong cái buôn thượng đó lại gan dạ, không hề nhút nhát, sợ sệt chút nào. Nhưng hình như chuyện Ngọc Minh giúp người ăn xin còn ẩn giấu điều bí mật nào đó mà anh chưa biết, tay du kích kia đâu dể buông tha người đàn ông xin ăn đó.
                              Hai bên đường nắng chan chan, chiếc xe chạy lên khỏi con dốc thì từ từ dừng lại bên hàng cây điều, tay lơ nhảy xuống và chạy vào con đường nhỏ mất hút bên trong, khoảng vài phút sau, hắn ta và một người đàn bà khiêng ra một cái bao tải, hắn kéo băng ghế sau cùng qua một bên, mở tấm ván sàn xe và nhét cái bao xuống đó, phía trước tay tài xế đảo mắt nhìn quanh con đường và thúc giục:
                              -Mẹ làm cho nó nhanh một chút đi, tụi nó tới là mất hàng, bị phạt giam xe luôn đó nghe
                              Tay lơ nhanh tay đây tấm ván về nơi cũ, rồi kéo băng ghế lại và nói lớn:
                              -Chạy đi anh Chín
                              Chiếc xe rồ máy phóng vụt ra đường, hành khách trên xe sau vài phút được xem diễn cảnh giấu hàng buôn lậu đường dài lại úp nón lên mặt tìm kiếm giấc ngủ, Ngọc Minh mỉm cười nhìn Nam hỏi nhỏ:
                              -Lúc còn đi buôn chắc anh Nam cũng hay làm chuyện này phải không?
                              Anh cười cười trả lời:
                              -Bí mật, công an mà biết là bắt giam đó, ngủ chút đi, gần đến nơi anh kêu dậy
                              Cô mỉm cười lắc đầu dưới vành nón, Nam nhìn cái túi bằng vải thổ cẩm mà lúc nào Ngọc Minh lên xe vẩn giữ nó sát bên người. Chiếc xe âm thầm chạy qua đoạn đường dài, đến gần chỗ xuống, Ngọc Minh cầm tay anh nói:
                              -Ngọc Minh xuống nghe, cuối tuần anh có vô buôn không?
                              -Ừ, có
                              Bên kia quốc lộ, bà Tranh đội nón lá ngồi chờ cạnh cột mốc, Nam nhắc lơ xe cho xuống, hắn ta đập tay vào thùng xe cái rầm, chiếc xe dừng lại sát bên lề đám cỏ héo khô. Anh cầm tay Ngọc Minh cho cô bước xuống và gật đầu mỉm cười. Xe tiếp tục lăn bánh trên con đường nhựa giữa ánh nắng gay gắt của mùa khô vùng bán sơn địa miền đông nam, Nam ngoái cổ lại nhìn dáng Ngọc Minh và người đàn bà S’tiêng đang theo lối mòn đi khuất dần vào rừng cao su bạt ngàn.

                              (còn tiếp)

                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X