Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tạp Ghi Sau 40 Năm

Collapse
X

Tạp Ghi Sau 40 Năm

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tạp Ghi Sau 40 Năm


  • #2
    Chương 3

    Ngày N + …

    Ngày N + 3, 4 giờ chiều
    Chỉ còn vài cây số nữa là tới quận lỵ Củng Sơn, một quận lỵ của tỉnh Phú Yên, từ đây vượt mười cây số nữa sẽ tới sông Ba, con sông hiền hòa, mở ra bát ngát ớ cửa bể Tuy Hoà.

    Qua sông Ba, con đường trên bản đồ lại trở thành một đường vẽ liền lạc, không còn những gạch đứt quãng. Tôi tính thầm trong bụng, nhiều lắm hai ngày nữa đoàn xe sẽ tới Tuy Hoà, bởi lẽ qua khỏi sông Ba, chúng tôi sẽ hiện diện trên thượng nguồn của đập Đồng Cam. Từ đó về quận lỵ Hiếu Xương hơn hai mươi cây số, con đường xe cộ vẫn sử dụng trong bao nhiêu năm nay, sẽ không còn những chướng ngại vật thiên nhiên như khi rời Phú Túc.

    Những người lính Công Binh Chiến Đấu đã công tác cả tuần lễ trước dọc theo con đường. Họ đã san bằng những chướng ngại. Và chướng ngại sau cùng của họ: sông Ba. Họ làm việc suốt đêm, ủi bãi để lập đầu cầu, song không thể nào lập nổi cây cầu, sông không sâu nhưng bây giờ là mùa nước lũ. Nước từ rừng, từ các triền núi đổ về, chỗ sâu nhất chỉ tới đầu gối, nhưng nước chảy xiết vô cùng. Lòng sông toàn cát và sỏi, thượng sĩ Quán công binh điều hành ở đây, trong lúc chờ vật liệu là những tấm PSB được gởi tới, ông đốc xuất binh sĩ dưới quyền sử dụng hai chiếc máy ủi kéo xe qua sông.

    Họ làm việc suốt đêm, mỗi lần kéo độ ba xe lớn, hay năm xe nhỏ. Tất cả các xe đều nổ máy sử dụng hết số phụ, xe ủi chỉ kéo phụ lực. Nhiều chiếc Jeep bị ngập nước chết máy giữa dòng, phải nằm lại chờ kéo riêng.

    (Hoàng Khởi Phong)

    Kontum - Pleiku di tản
    Chính Luận: Sáng nay (thứ hai 17-3) bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút lui của của quân dân hai tỉnh Kontum-Pleiku báo tin qua điện thoại cảnh di tản bi thảm của đồng bào. Bạn Nguyễn Tú cho biết qua điện thoại nguyên văn như sau:

    Trên đường nóng bỏng. Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau trên Quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không chạy nổi đã bỏ lại trên đường. Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền Tư lệnh của Tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên Quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương. Đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.

    Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ bị bỏ lại sau, nhưng họ cũng vẫn cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của Pleiku. Chưa biết tối nay họ có thể tới Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về Phú Bổn, các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang tàn dọc Quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn trí óc để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả. Bi thảm quá đồng bào ơi!......=

    Ngày N + …

    Ngày N + 5, 3 giờ chiều
    Xe tôi sắp sửa xuống bờ sông hai lần, hai lần đều bị dội ngược lại bởi tiếng súng của người anh em biệt động quân. Người tài xế già nhìn tôi, người lính đi theo cũng nhìn tôi. Thật tình tôi không sợ phải đụng. Nhưng đụng làm gì khi qua con sông Ba này chúng tôi vẫn kẹt lại. Mấy ngày nay, Tiểu khu Phú Yên mở đường lên không được, hai tiểu đoàn địa phương quân không thể nhúc nhích nổi vì những cái chốt kinh hồn đóng dọc hai mươi cây số đường. Ít ra phải là năm chục cái chốt. Ông ta cũng chờ bắt tay với Địa Phương Quân cả tuần nay.

    Trực thăng mang sắt PSB đến sông Ba, không thấm vào đâu với nhu cầu của Công Binh, song cũng đủ cho một lằn đường trên bãi cát. Khi bay ngang qua chỗ cây cầu gỗ nhỏ, có người khênh ra một cái băng ca, người phi công động lòng trắc ẩn sà xuống, vài người khênh người bi nạn lên, rồi người ta ùa tới, phi cơ phải cất cánh khẩn cấp. Bây giờ chắc không có ai dám đáp xuống đám đông hỗn loạn này. Buổi chiều bọn trẻ ùa xuống nước. Chúng la hét, nghịch
    ngợm ồn cả một vùng. Bóng mấy người vợ lính lui cui với bầy con nhỏ.


    Liên Tỉnh Lộ 7B Pleiku-Phú Bổn-Phú Yên (ảnh T.L.)

    Gặp Thái Tăng An giữa cầu. An vẫn giữ được nụ cười tươi. Tôi theo An về xe anh, vẫn có ly cà phê buổi chiều. An là loại người cần cà phê hơn cơm, ngày một bữa cơm đủ rồi nhưng cà phê phải ba cữ. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Huế, anh vẫn vẽ mỗi khi rảnh rỗi. Anh nói, nếu thoát về được sẽ ghi lại trên khung vải những hình ảnh đặc biệt của chuyến đi này. (…)

    Kontum-Pleiku di tản
    Từ năm 1954 cho tới nay chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Pleiku-Kontum để lại cho tôi một nỗi chán chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa. Ngoảnh về Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua. Dọc lộ, xe tăng và đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh lỵ Phú Bổn.

    Nhưng trên đoạn Quốc lộ 14 từ Pleiku đến Hậu Bổn vẫn xẩy ra nhiều đoạn đương kẹt xe.. có thể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không.

    13 giờ, đoàn xe về gần tới Phú Bổn. Một số xe bị ứ đọng. Nhừng lệnh cần thiết được ban hành. Các tướng Cẩm và Tất đích thân chỉ huy, điều động. Các đơn vị vào vị trí phòng thủ. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút sau đó.….

    Điện đàm đứt đoạn.

    (Báo Chính Luận – Nguyễn Tú)

    Ngày thứ 8 : 17-3-1975 - Tuy Hoà
    Kể từ ngày 16-3, Pleiku, KonTum, Phú Bổn nói chung các tỉnh trên Cao Nguyên đang hấp hối…

    Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao Nguyên, ngày 16-3, một số đơn vị Tiếp Vận, Pháo Binh, Công Binh di chuyển với sự yểm trợ của Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái. Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của ngày kế tiếp các đơn vị sẽ di chuyển vào ngày 17-3. Phần đuôi đoàn xe di tản bị mắc kẹt trên liên Tỉnh Lộ 7B cách thành phố Tuy Hòa khoảng 40 km, vì pháo Bắc quan bắn vào đoàn xe ở phía trước.

    (SQTB K10B/72)

    – : Ngày 1-4-1975 đã có một số bộ phận Bắc quân lọt vào Tuy Hòa và rạng sáng ngày 2-4, toàn thị xã này đã lọt vào tay Bắc quân. (Vương Hồng Anh)

    Quân đoàn II triệt thoái với CIA
    Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với Tướng Phạm Văn Phú tại Cam Ranh, ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ Sáu. Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ Bảy. Nhận tin sáng thứ Bảy ấy, tôi chạy theo tướng Charles Timmes (1) ra Bộ Tổng Tham Mưu, và nói rằng: “Tôi chẳng biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!”. Tôi cho một phụ tá cao cấp đi gặp Tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An Ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì đang xảy ra ở Vùng 2. Quang bảo: Ông thấy, tình hình không được tốt. Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị chứ chẳng có chuyện gì xảy ra ở Vùng II cả. Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản.

    Tướng Timmes vào Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy. Nhưng ông đã gặp Tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng phòng Hành Quân để hỏi thăm tin tức Vùng 2. Ông Thọ nói: Còn có cái gì xảy ra mà quý ông không hay biết cả đâu?. Rõ rệt, ông Trưởng phòng Hành Quân bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc ông Phú đang triệt thoái.

    (Thomas Polgar & Larry Engelmann)

    (1) Thiếu Tướng Charles Timmes, Phụ tá Trưởng nhiệm sở CIA Tom Polgar. Tướng Charles Timmes là sĩ quan liên lạc chính của CIA với giới chức quân đội Nam Việt Nam.

    Góp nhặt sỏi đá

    Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ Cao Nguyên. Vào buổi tối ngày 17-3-1975, tại bữa cơm đãi một số viên chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang cố vấn an ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu.

    Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ. Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói:

    - Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga.

    (Cuộc di tản đầy máu và nước mắt - Trịnh Tiếu)

    Ngày N + …

    Sau cùng xe tôi cũng qua được dòng sông cuồng nộ đó. Biết bao giờ tôi quay lại được bến sông này. Xe bò từng thước trên bãi cát, có lúc bánh quay tít, xe vẫn đứng yên một chỗ, mọi người xúm vào đẩy, cát bắn vào mặt đau rát, không một ai lơi tay, chiếc xe lết từng đoạn, từng đoạn, sau cùng cũng lên đến mặt đường. Đúng lúc đó địch pháo vài trái ngắn ngủi, nổ vu vơ giữa rừng chồi. Không ai bị thương, nhưng ảnh hưởng của vài trái pháo này thật lớn. Nó cho mọi người biết địch có mặt ở đây. Không biết chúng sẽ tấn công lúc nào.

    Ngày N + 4, 6 giờ chiều
    Cây cầu nhỏ, ván gỗ, trụ xi măng, sườn sắt, bề ngang vừa đủ một xe lớn. Cây cầu bắc ngang dòng nước chảy xiết…Đoàn xe ngừng lại tại đây, xe tôi cách xe đầu đoàn chừng một cây số, cứ vài phút tôi lại thấy những xe sang sông sau ùa tới. Xe tôi đậu ngay đầu cầu. Địch đóng chốt trước mặt. Con đường bây giờ tương đối tốt, tuy mặt đường không tráng nhựa, nhưng đó là con đường người ta vẫn sử dụng từ hai mươi năm nay. Nếu không có những chốt phía trước, thì nhiều lắm là hơn một tiếng nữa tôi sẽ có mặt tại Tuy Hoà, ăn một tô phở, kiếm vài người bạn, kiếm một quán nào đó, kiếm rượu, kiếm những con sò nổi tiếng của đầm Ô Long.(…)

    Một ngày sau khi bỏ Pleiku, hội đồng nội các nhóm họp…Tổng Trưởng Ngô Khắc Tĩnh dơ tay lên, nói: Thưa Thủ Tướng, tôi xin Thủ Tướng một faveur, dầu sao, chúng tôi cũng là nhân viên hội đồng nội các, bà xã tôi vừa nghe tin Pleiku mất trên đài BBC và VOA, mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ Tướng nếu có tin gì thông báo chúng tôi, chớ không kỳ quá. Lúc đó, trên bàn chủ tọa, Thủ Tướng Khiêm xoay qua tôi (Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên, ngồi bên phiá trái), nói nhỏ: Moa cũng vậy” [sic]. Tôi ngạc nhiên trả lời: Bộ nói giả ngộ hay sao? Anh là Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, Đại Tướng bốn sao mà!. Ông Khiêm gật đầu: Thật chớ.

    (Nguồn: Nguyễn Lưu Viên)

    Ngày thứ 9 : 18-3-1975
    Phú Yên


    Ngày 15-3, bộ Tư Lệnh Quân đoàn II và một phần bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB rời Pleiku.
    Ngày 16-3, toàn bộ bộ Tư Lệnh Quân đoàn II triệt thoái theo.
    Ngày 18-3, đoàn xe nối đuôi qua cầu phao sông Ba quãng đường còn lại về tỉnh Phú Yên.
    Ngày 25-3, sau 10 ngày hành trình. 17 giờ 30 đoàn quân xa tới tỉnh Phú Yên.

    (SQTB K10B/72)

    Quân đoàn II triệt thoái với CIA
    Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể Cao Nguyên (ông là một sĩ quan cấp tướng).

    Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở Vùng 1. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết định rút cả Thủy Quân Lục Chiến lẫn Nhảy Dù khỏi Vùng 1. Quyết định này giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc Tướng Trưởng còn đang đứng trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng. Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn tràn lan.

    Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong…

    (Thomas Polgar & Larry Engelmann)

    – : Larry Engelmann, Giáo sư khoa Sử của Đại học San Jose, California. Thomas Polgar là Chỉ huy Trung ương Tình Báo Mỹ tại Việt Nam, là 1 trong 300 người trong vòng 5 năm được Larry Engelmann phỏng vấn để hoàn thành tác phẩm Tears Before The Rain.

    Bài phỏng vấn có tựa đề “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại”.

    Ngày thứ 17 : 26-3-1975
    Phú Thứ

    Ngày 26-3 là ngày thứ 17 của cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn II khỏi Cao Nguyên. Lữ đoàn 2 Kỵ Binh, Biệt động Quân kịch chiến với Bắc quân chốt chận tại Phú Thứ, phía tây thị xã Tuy Hòa. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú ra lệnh cho Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, bay chỉ huy lực lượng xung kích và các phi đội trực thăng võ trang nỗ lực tấn công, xạ kích để triệt hạ các chốt chận nhỏ còn lại của địch. Chuẩn Tướng Tất chỉ huy cuộc triệt thoái điều động 13 Thiết vận Xa M113 phối hợp với Biệt động Quân “dọn sạch” cụm chốt chận của Bắc quân ở Phú Thứ. Với sự yểm trợ của các chiến xa M113, lực lượng Biệt động Quân đã mở nhiều đợt xung phong triệt hết chốt chận này đến chốt chận khác của Bắc quân.

    (SQTB K10B/72)

    Ngày N + …
    Ngày N + 10 giờ tối
    Đêm nay là đêm thứ Sáu ngày 22-3-1975 của cuộc hành trình. Suốt đêm qua và cả ngày nay tôi thấy xe cứ ùn ùn kéo đến, cái đuôi mỗi lúc một tăng trưởng. Rồi người đi bộ, gánh gồng bồng bế nhau tới, có người già chống gậy, có em bé còn ẵm ngửa, phần lớn đều nghèo, chắc chắn là nghèo, hoặc là bắt đầu nghèo.

    Có tiếng súng đại liên ở trước mặt, tiếng AK nổ thật ròn. Súng nổ liên hồi trong vòng mười phút. Chập sau vài kẻ mạo hiểm trở về, địch đã xả súng bắn vào những người này không thương tiếc. Chúng chờ cho cả đoàn lọt vào ổ phục kích mới khai hỏa, không có vụ bắn dọa. Chúng bắn chí tình. Súng đại liên có sẵn yếu tố tác xạ bắn như mưa bấc từ phía sau, phía trước ập lại, súng nhỏ bắn tự động ngang hông. Vài kẻ chạy lẹt đẹt sau cùng thoát nạn. Trung sĩ nhất Mười, người lính cũ của tôi thoát nạn, anh là một trong những kẻ dẫn đầu, khi địch quân khai hỏa, anh bò nhảy đại xuống nước, núp vào một bụi lau. Anh thấy rõ chi tiết của cuộc thảm sát. Những kẻ bị thương nặng bị thanh toán ngay tại chỗ, vài người bị thương nhẹ bị bắt sống mang đi. Xác chết kéo dài cả cây số, xe cộ nằm tênh hênh giữa đường. Mười chờ cả tiếng đồng hồ sau, anh nương theo những bụi lau ven bờ, quay ngược về chỗ cũ.

    Ngày N + 10, 1 giờ trưa
    Ba xác chết trôi lững lờ trên dòng nước, một xác trương to và trắng như một con heo cạo. Kỳ lạ một điều là hình như chúng tôi không thể vượt khỏi ba xác chết này, bởi lẽ chúng tôi vừa chạy vừa bứng chốt đằng trước. Cứ khoảng hai cây số một chốt lớn, ngừng lại chờ thiết giáp và biệt kích dọn xong con đường. Khoảng thời gian chờ đợi này, ba cái xác cứ tuần tự lướt qua.

    (Ngày N +… – Hoàng Khởi Phong)

    Góp nhặt…ghi chép…

    Quyển Where The Domino Fell cho biết: Đại pháo Bắc quân đã cắt đoàn người và xe di tản thành nhiều khúc…và hơn 100 nghìn dân và 15 nghìn quân miền Nam trong cuộc rút lui này.

    Các nhà báo ngoại quốc từ trên máy bay nhìn xuống cho biết “đoàn xe di tản (quân xa, xe dân sự, xe gắn máy) giống như 1 giòng sông, và mỗi khi khi có đạn đại bác rơi xuống “giòng sông” thì họ thấy, nước văng lên (giống như khi ta ném đá xuống nước) . . .”. Nhà báo này đã gọi Liên tỉnh Lộ 7 là con đường của máu và nước mắt. Vì trong suốt cuộc chiến Việt Nam, chưa bao giờ có một cuộc lui binh mà tổn thất về quân và dân lại khủng khiếp như vậy. Như ta đã biết, cuộc triệt thoái này đã mở đầu cho sự sụp đổ dây chuyền, giống như các con cờ domino của các tỉnh và thành phố còn lại của miền Nam Việt Nam.

    Công tâm mà nói, cho dù Thiệu cho rút khỏi cao nguyên hay không thì cũng không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, vì miền Nam Việt Nam không còn hy vọng được Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống sự xâm lăng của Bắc Việt. Ngay cả Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, vì người Mỹ đã quá chán chê chiến tranh.

    (Where The Domino Fell – James Olson & Randy W,Roberts)

    Ngày thứ 18 : 27-3-1975
    Bình Định

    Vào 0 giờ sáng ngày 27-3, Bắc quân tấn công ngập phòng tuyến Tam Quan, tỉnh Bình Định do 1 đơn vị của Sư đoàn 22 BB phòng ngự. Lực lượng Bắc quân với các đơn vị từ Quảng Ngãi tiến vào, phối hợp với Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 (1) của Bắc quân đã gây áp lực nặng tại vùng phía bắc của Bình Định.

    Trước đó trận chiến tại Tam Quan khai diễn từ ngày 25-3 với những đợt xung phong của Bắc quân, nhưng đều bị lực lượng trú phòng đánh bật. Sau 2 ngày kịch chiến, Bắc quân tăng cường lực lượng, mở cuộc tấn công với hỏa lực mạnh để tràn ngập phòng tuyến này.

    (SQTB K10B/72)

    (1) Sư đoàn 3 Sao Vàng từ Pleiku kéo xuống. Sau Bình Định, Sư đoàn 3 Sao Vàng kéo vào Nam đánh Bà Rịa và Vũng Tàu.

    Tàn cuộc binh đao
    Ngày 16-3 đến 1-4-1975: Cuộc triệt thoái Pleiku, Kontum do Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất chỉ huy dưới sự giám sát của Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, gồm 60,000 lính và 400,000 dân. (?)

    Cuộc rút lui bị Bắc quân tấn công. Chỉ có 20,000 quân và 100,000 dân về đến Tuy Hòa.

    (Nguồn: NDT)

    Vượt sông Kinh Ðà về Bảo Lộc

    Tôi cho lệnh đoàn quân phía trước tiếp tục đi theo đường mòn về hướng xã Tân Rai (Lâm Ðồng) mặc dù phải băng qua các hậu trạm của địch. May mắn không có gì trở ngại trên đường hành quân, nhờ vậy thời gian đến Lâm Ðồng rất nhanh, chỉ 3 đêm 4 ngày. Đến phi trường Bảo Lộc trời đã xế chiều. Sáng ra, tôi và các quân nhân thuộc cấp ra ăn sáng tại một quán xập xệ ngoài chợ. Tứ bề yên tĩnh không nghe một tiếng súng nào nổ cả…

    Nào ngờ, đang ăn ngon miệng bà chủ quán bỗng nói
    – “Xe tăng VC vào thành phố từ hôm đến giờ, sao mấy ông còn ngồi đây”?
    – “Vậy hả! Bà nói đùa hay nói thật đó?” Tôi hỏi lại bà chủ quán.
    – “Ai dám đùa với mấy ông chuyện quan trọng như vậy”. Bà chủ nói tiếp…

    (Trần Văn Bường)

    – : Sau trận Đức Lập, tác giả (Th/Tá Pháo Binh?) theo đường rừng chạy về Bảo Lộc, Lâm Đồng.

    Ngày thứ 20 : 29-3-1975
    Lâm Đồng

    3 giờ sáng ngày 28-3, Bắc quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Bắc quân bắt đầu pháo kích vào thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, phòng tuyến thị xã tỉnh lỵ bị tràn ngập.

    Trong ngày 29-3, Bắc quân tràn chiếm các vị trí còn lại của lực lượng Tiểu khu Lâm Đồng. Bộ Tư Lệnh Quân đoàn II đặt tại Nha Trang đã điều động Liên đoàn 24 Biệt động Quân tăng cường cho tiểu khu Lâm Đồng. Nhưng sau đó theo báo cáo của trung tâm hành quân Quân đoàn II thì diễn tiến tình hình chiến sự tại Lâm Đồng: Bắc quân pháo kích vào Lâm Đồng. Liên đoàn 24 Biệt động Quân chưa kịp tới. Đến 10 giờ 45, Bắc quân đã tràn ngập tỉnh lỵ.

    Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 8 giờ tối ngày 29-3.

    (Phạm Huấn)

    Góp nhặt…ghi chép…

    Tuy nhiên, theo ông Trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi tỉnh Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29-3, thì: Không hề có chuyện Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, tính tới 12 giờ trưa, mà chỉ có việc quân ta tự ý rút lui và đồng bào di tản mà thôi.

    (Vương Hồng Anh)

    Vượt sông Kinh Ðà về Bảo Lộc
    Ðang do dự, bổng Thiếu Ttá Nguyễn Văn Ấn từ bên kia máy PRC25 rủ rê tôi: Mày đến đâu rồi, đến quận ăn cơm rồi tử thủ với tao. Tôi trả lời nửa đùa nửa thật: Mày lạnh cẳng rồi hay sao rủ tao, mày hảy chuẩn bị heo gà nhiều đi, Cậu sẻ đến ngay. Bổng lệnh của Ðại Tá Nghìn:
    – Anh phải tập trung các đơn vị của mình vào phòng thủ quận Di Linh.

    Tại quận, tình cờ gặp Trung Tá Phong, Tỉnh Trưởng Lâm Ðồng đến đây từ hồi nào. Tôi trình Trung Tá Phong về ý định phòng thủ Di Linh của Ðại Tá Nghìn. Vừa nghe xong ông hỏi tôi:
    – Tỉnh trưởng anh đang ở đâu?
    – Đang bay trên vùng để hướng dẫn các cánh quân còn kẹt trong rừng.

    Không cần suy nghỉ, Trung Tá Phong nói:
    – Tình hình như thế này, tỉnh trưởng anh có máy bay, có chuyện gì ông ta bay đi, còn tôi với anh…thì sao?. Không cần tôi có ý kiến ông tiếp:
    – Vậy anh muốn ở lại thì ở, tôi đi. Nói xong, ông chuẩn bị di chuyển. Nghĩ một lát, tôi báo cáo đại tá Nghìn quyết định của Trung Tá Phong. Im lặng một hồi lâu, Ðại Tá Nghìn nói:
    – Thôi, ai sao mình vậy. Suy nghỉ một lúc không tìm ra cách nào khác, chúng tôi âm thầm rời Di Linh. Ðứng trước đàn em thuộc cấp đang bố trí chờ lệnh, tôi chậm rải nói trong nghẹn ngào:
    – Thôi…các anh tìm mọi phương tiện…về Ðà Lạt.

    (Trần Văn Bường)

    – : Bốn ngày sau: Ngày 3-4-1975, tỉnh lỵ và thành phố cuối cùng của cao nguyên bị Bắc quân chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt.

    Ngày thứ 21 : 30-3-1975
    Quy Nhơn

    Ngày 30-3, Bắc quân đã xâm nhập vào thành phố Qui Nhơn, tỉnh lỵ tỉnh Bình Định. Trong khi đó, tại phía tây Quy Nhơn, lực lượng Bắc quân gồm Sư đoàn 3 và Trung đoàn 95 đã tấn công vào phòng tuyến Bình Khê. Để bảo toàn lực lượng, hai Trung đoàn 41 và 42 của Sư đoàn 22 Bộ binh được lệnh rút khỏi Bình Khê. Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 42 bất mãn về quân lệnh này, ông khẩn khoản trình với bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 cho Trung đoàn 42 được cố thủ, nhưng thỉnh cầu này đã không được chấp thuận. Khi 2 trung đoàn này về đến Quy Nhơn thì Bắc quân đã đào giao thông hào tại một số khu vực trong thành phố. Kịch chiến đã diễn ra ở phía Nam hải cảng Qui Nhơn.

    (SQTB K10B/72)

    Một cơn gió bụi

    Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 42 BB là Đại Tá Nguyễn Hữu Thông từ chối cuộc di tản và sau đó ông đã tự sát bằng súng Colt.

    Ngày thứ 22 : 31-3-1975
    Bình Định thất thủ

    Ngày 31-3, Bắc quân đã tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh Bình Định. Tại Quy Nhơn, Sư đoàn 3 Bắc quân đã chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng, lực lượng Sư đoàn 22 BB với Trung đoàn 41 và Trung đoàn 42 đã nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi ra khỏi khu ven bờ biển, để tàu hải quân cập bến đón các đơn vị còn lại của Sư đoàn 22 BB triệt thoái khỏi tỉnh Bình Định.

    (SQTB K10B/72)

    – Tại Quy Nhơn và Bình Định, Sư đoàn 22 BB, Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt đối đầu với Quân đoàn 3, Tư lệnh là Thiếu tướng Vũ Lăng với Sư đoàn 3 Sao Vàng từ Pleiku kéo xuống.

    Góp nhặt…ghi chép…

    Tướng Fred C.Weyand, nguyên Tư Lệnh MACV bay ra Nha Trang, Phú thuyết trình cho Weyand nghe về tình hình chiến sự. Nha Trang còn yên tĩnh. Là sĩ quan hành quân, Weyand lạc quan cho là: Quân Bắc Việt sau khi chiếm được những vùng lãnh thổ rộng lớn và những trung tâm dân cư, sẽ phải ngừng bước tiến để củng cố nhân sự, hành chính và bổ sung lực lượng.

    Vào thời điểm ấy, các các sĩ quan Tình Báo Sài Gòn cho rằng chiến thuật Bắc quân vẫn như cũ. Họ đã thu được thành quả ở Cao Nguyên thì Bắc quân hẳn phải dừng lại củng cố. Các đường tiếp tế phải đuổi bắt kịp xe tăng và bộ binh. Đấy là cách mà mấy năm qua họ đã từng chiến đấu. Chẳng ai nghĩ hoặc nghĩ quá ít đến việc Bắc quân đã cải tiến phương thức tác chiến và trên thực tế đã giao thêm quyền cho các tư lệnh chiến trường. Các tuyến tiếp tế đang đi theo quân Bắc quân chứ không còn nằm cố định sau phòng tuyến nữa. (1)

    (Black April: The Fall of Sourh Viet Nam – Alan Dawson)

    (1) Tuy nhiên tại mặt trận Xuân Lộc:

    Theo tướng Trần Văn Trà, tình hình lúc đó khiến cho đồng chí Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ hết sức lo lắng. Vì Quân đoàn 1 đang được điều động từ miền Bắc vào. Quân đoàn 2 (Lê Trọng Tấn) vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết:

    "Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, pháo chỉ còn hai viên. Có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, hậu cần vùi đầu vơi công việc. "(*** Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 258). Xem Quân sử ngoại truyện ở tiết mục Ngày thứ 43: 21-4-1975 – Sài Gòn thay đổi nhân sự.

    Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vị Tư Lệnh Quân Ðoàn
    5 giờ chiều ngày 30-3-1975, Tướng Phú bay ra Cam Ranh để cùng với Phó đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư Lệnh Hải Quân vùng 2 Duyên Hải, đi trên một soái hạm chỉ huy ra vùng biển ngoài Cam Ranh để đón Trung Tướng Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Đà Nẵng vào.

    Theo lời của Hạm trưởng HQ 404, tối ngày 1-4-1975, Tướng Phú đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng Trưởng. Trên tàu lúc này có rất đông thủy quân lục chiến từ Quân khu I vào. Tướng Phú và phó đề đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh, lúc này tướng Trưởng thở thoi thóp nhờ bình nước biển. Thiếu Tướng Phú ghé sát tai Trung Tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện trung tướng Trưởng không thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước nhìn lên. Đôi mắt như muốn bật máu vì uất ức.

    Cần ghi nhận rằng Tướng Phú đã có một thời gian làm việc chung với Tướng Trưởng: năm 1967, khi là Đại Tá, ông là Tư Lệnh Phó Sư đoàn 1 BB do Tướng Trưởng làm Tư Lệnh. Năm 1972, khi Tướng Trưởng là Tư Lệnh Quân đoàn I thì Tướng Phú là Tư Lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quân đoàn này. Cuộc gặp gỡ của hai vị Tư lệnh Quân đoàn diễn ra đúng 10 phút. Sau đó, Thiếu Tướng Phú đứng nghiêm chào từ biệt Trung Tướng Trưởng. Ông bước nhanh ra khỏi căn phòng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi tráng đang chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ năm nào…

    (Phạm Huấn)

    Ngày thứ 23 : 1-4-1975
    Ngày cuối cùng của Quân đoàn II

    Trong nhật ký hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu Tá Phạm Huấn đã ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị Tư lệnh Quân đoàn II trong ngày 1-4 với nội dung được tóm lược như sau…

    5 giờ 50 chiều ngày 1-4, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vào bộ Tư Lệnh Sư đoàn 2 Không Quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn này đi vắng. 20 phút sau thì Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Không Quân và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không Quân, bước vào. Lúc bấy giờ Tướng Phú ngồi ở chiếc ghế sát bàn của Tư Lệnh Sư đoàn 2 Không Quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy Tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở bàn đối diện. Thấy cách xử sự khác thường của vị Tư lệnh Sư đoàn 2 Không Quân, một trong 2 sư đoàn Không Quân thuộc quyền điều động của bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.

    Tướng Phú hơi ngạc nhiên hỏi Chuẩn Tướng Lượng:

    – Có chuyện gì xảy ra?

    Chuẩn Tướng Lượng không trả lời, Chuẩn Tướng Oánh từ tốn nói với Tướng Phú:
    – Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được chỉ định làm Tư Lệnh Mặt trận Nha Trang, vì Quân đoàn II không còn nữa.

    Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi dồn:
    – Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?

    Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm rãi nói:
    – Thưa Thiếu Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu, của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên (Tham mưu Trưởng bộ Tổng Tham Mưu) từ Sài Gòn.

    Nghe Tướng Oánh trình bày, Tướng Phú cảm thấy danh dự bị tổn thương, vì theo tổ chức Quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, còn Trung Tướng Khuyên là Tham mưu Trưởng, không có quyền ra lệnh cho các Tư lệnh Quân đoàn, về vai vế và quyền hạn thì Tư lệnh Quân đoàn chỉ xếp sau Tổng Tham Mưu Trưởng.

    (Vương Hồng Anh)

    – Đến ngày 1-4-1975 đã có 14 tỉnh trong số 44 tỉnh lỵ của miền Nam đã bị mất,

    Những ngày cuối VNCH
    Sau khi Quân đoàn II triệt thoái khỏi Cao Nguyên, bấy giờ Vùng 2 Chiến Thuật chỉ còn 4 tỉnh Duyên Hải: Phú Yên (Tuy Hoà), Khánh Hòa (Nha Trang), Ninh Thuận (Phan Rang), Bình Thuận (Phan Thiết) và một số khu vực thuộc hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức đang bị áp lực nặng của Bắc quân.

    Để chỉ huy lực lượng Quân đoàn II tại mặt trận Phú Yên, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã cho lập bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn II tại Tuy Hòa và cử Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành Quân Quân đoàn II, trực tiếp chỉ huy, sau khi rút khỏi Pleiku.

    (Vương Hồng Anh)

    Góp nhặt sỏi đá (…trích lục lại)

    Với hai Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23 BB, Quân đoàn II phải bảo vệ 7 tỉnh Cao Nguyên: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng. Và 5 tỉnh duyên hải: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận.

    Những ngày cuối VNCH
    Sư đoàn 320 tấn công vào các quận của tỉnh Phú Yên. 7 giờ sáng, Bắc quân pháo kích vào thị xã, một số doanh trại trong đó bộ chỉ huy tiểu khu Phú Yên. Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, chỉ huy bộ Tư lệnh Tiền Phương của Quân đoàn II đã gọi máy báo cáo tình hình cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú ở Nha Trang. Theo tường trình của tướng Cẩm, Bắc quân pháo kích rất dữ dội, và bắt đầu tấn công cả 2 mặt vào thị xã. Doanh trại của bộ chỉ huy tiểu khu Phú Yên, cũng là nơi trú đóng của bộ Tư lệnh Tiền Phương Quân đoàn II, đã bị pháo kích nặng.

    Sau lần gọi này, Tướng Cẩm không còn liên lạc với Thiếu Tướng Phú. Sau khi báo cáo tình hình cho Tướng Phú, Tướng Cẩm cho lệnh rút ban Tham Mưu của ông ra khỏi doanh trại tiểu khu, và ông đã sử dụng tần số không lực liên lạc với Không Quân để yêu cầu cho trực thăng đến bốc ban Tham mưu của ông, nhưng mọi sự liên lạc không có kết quả…

    Sau đó Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành Quân Quân đoàn II đã bị Bắc quân bắt cùng với một số sĩ quan Tham Mưu. Tất cả bị đưa về Đà Nẵng. (…)

    Ngày thứ 24 : 2-4-1975
    Nha Trang

    Trong ngày 2-4, không có lực lượng nào có đủ sức duy trì an ninh trật tự trong thành phố. Theo tài liệu của Đại Tướng Cao Văn Viên thì bộ Tư lệnh Quân đoàn II vẫn tiếp tục hoạt động tại Nha Trang (Khánh Hoà) đến hết ngày 2-4. Nhận định về tình hình Nha Trang trong ngày này, Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: Do hỗn loạn, Quân đoàn II phải bỏ Nha Trang.

    (Vương Hồng Anh)

    – Ngày 2-4-1975 Đặc khu Cam Ranh thất thủ.
    Ngày 2-4-1975. Trong cảnh di tản ra khỏi Nha Trang


    Bên lề trận chiến
    Ngày cuối cùng của Quân đoàn II

    Đêm 1-4-1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú nằm dưới chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy của một tiểu đoàn địa phương quân Ninh Thuận, phòng thủ căn cứ Phan Rang.

    Ngày 2-4, 1 giờ 45 trưa, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh Phó Quân đoàn III, để thảo luận về việc bàn giao phần lãnh thổ còn lại của Quân đoàn II được lệnh sát nhập vào Quân đoàn III. Theo kế hoạch, Quân đoàn III chính thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-Bình Thuận từ ngày 3-4-1975.

    Vào giờ này, cạnh Tướng Phú chỉ còn lại Thiếu tá Vinh, Chánh văn phòng, Thiếu tá Hóa tùy viên, Thiếu tá Huấn, sĩ quan báo chí và Đại Tá Lê Hữu Đức, quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 BB.

    Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu tá Hóa trình với Thiếu tướng Phú là trực thăng của Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu tá Hóa vừa quay gót, Thiếu tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ, nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “Thiếu tướng!”, ngay sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bị Đại tá Đức gạt xuống đất.

    Tướng Phú không chết trong ngày 2-4-1975, nhưng 28 ngày sau ông đã tự sát tại Sài Gòn.

    Góp nhặt sỏi đá

    Quân đoàn I có 3 sư đoàn: Sư đoàn 1, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3.
    Quân đoàn II có 2 sư đoàn: Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23.

    Cho đến khoảng thời gian này, 5 sư đoàn Bộ Binh của 2 quân đoàn được xem như tan hàng. Những tên tuổi Tư lệnh sư đoàn như Trần Văn Nhựt, Lê Hữu Đức (thay Chuẩn tướng Lê Trung Tường bị thương), Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Duy Hinh, v…v…hầu như vắng bóng.

    Sau Nha Trang tới Phan Rang, điều động “trận địa” bởi…“Hải Quân” và “Không Quân”.

    Tuyến thép Nha Trang và Phan Rang
    Chỉ vài ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, bộ Tư Lệnh Hải Quân lập chiến tuyến mới: Tuyến phòng thủ cuối cùng dự định tại Nha Trang (1), mang tên “Tuyến thép cuối cùng Nha Trang”, Phó đề Đốc Hoàng Cơ Minh là Tư Lệnh chiến trường. Nhưng lệnh chưa kịp chính thức loan tải thì lãnh thổ kiểm soát của VNCH đã phải cắt thêm tới Phan Rang.

    Rồi cũng từ Phan Rang, chưa kịp thực hiện những nghi lễ mang tính tử thủ và bảo vệ tuyến thép thì Tư lệnh Hoàng Cơ Minh đã phải xuống chiến hạm HQ 3 xuôi Nam dọc theo bờ Duyên Hải để đón quân dân di tản từ Phan Rang và các thành phố khác nữa về BTL/HQ.

    Kế hoạch “Tuyến Thép cuối cùng Phan Rang” cũng thất bại!.

    (Phạm Kim)

    (1) Trước đó ngày 22-3-1975, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng mang sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ Đà Nẵng (Vùng 1 CT) về giữ Nha Trang (Vùng 2 CT).

    40 năm Ban Mê Thuột nhìn lại
    Ngày 10-3-1975, quân đoàn Tây Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến từ Hà Nội đồng loạt tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột với những sư đoàn 324, 324B, 320, 308, 316 và cả sư 341 tổng trừ bị của quân đội miền Bắc. Với sư đoàn F10 làm mũi nhọn được hai sư đoàn 320, 316 tăng cường, và sư 341 làm tổng trừ bị (1) , lực lượng Bắc quân có khoảng 25,000 người được pháo binh, chiến xa nặng yểm trợ phối hợp.

    Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc phía VNCH chỉ có khoản 1,200 lính chiến đấu trong tổng số lính hậu cứ của Sư đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng địa phương quân tiểu khu Đắc-lắc. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10-3, giờ mở lệnh tấn công mà tướng Dũng ước tính chiến trận Ban Mê Thuột sẽ chấm dứt sau một tuần nhưng chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày, thị xã Ban Mê Thuộc hầu như thuộc về phần kiểm soát của quân Bắc Việt cho dù bộ binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Dũng cứ tưởng như là giấc mơ. Và Dũng đã đi từ giấc mơ sang một vùng ảo giác vào những ngày sau khi được báo cáo: Quân đoàn II tháo chạy!

    Cuộc di tản dọc Tỉnh Lộ 7 theo lộ trình Pleiku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa quá lớn với mối đau thương dài đặt trên hai trăm cây số đường núi với hai trăm ngàn dân thường đi từ hai thành phố Kontum, Pleiku. Trời Cao Nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh sáng kinh dị trong đôi ngươi những người lính Liên đoàn 7 Biệt động Quân, thành phần hậu vệ đoàn di tản. Trời Cao Nguyên với thị trấn Pleiku thường chĩu lặng sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Màu đỏ của máu lửa soi chập chờn đoàn người di tản thê thiết. Đoàn di tản qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Còn biết kêu vào đâu? Với ai?

    (Phan Nhật Nam)

    Góp nhặt…ghi chép…(1)

    Tấn công Ban Mê Thuột chỉ có ba Sư đoàn 316, 320 và F10.
    Sư đoàn 308 ở lại miền Bắc để bảo vệ Hà Nội.
    Sư đoàn 324 thuộc QĐ2 tại Vùng 1 Chiến thuật.
    Sư đoàn 341 thuộc QĐ4 có mặt ở miền Nam.

    40 năm Ban Mê Thuột nhìn lại
    Quân đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10-3 tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuột? Qua máy dò tìm làn sóng điện, bộ tư lệnh mặt trận B3 Bắc quân khám phá những phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trường Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Sự kiện nầy đã trút mối âu lo của tướng Dũng về việc lực lượng VNCH có thể điều quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Nên Dũng cho Sư đoàn 320 băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư đoàn 968 từ Lào bôn tập về hướng Pleiku cũng được lệnh chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh lộ 7.

    Ngày 16-3, một chủ nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu. Đoàn di tản bị chận ở phía đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi dập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán lên GMC, xe GMC hất xe đò chở thường dân xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep nhỏ, cán qua những chiếc xe Dodge 4 của Địa phương Quân chở những người già và trẻ em tan tác. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sườn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá. Và súng nổ… 105, 155 pháo binh, hỏa tiễn TOW, XM72 của phía VNCH…130 ly, 122 ly, B40, B41 của phía Bắc quân cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác, làm rung rinh sắc núi mờ nhòa ánh nắng. Mặt trời bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất bên lề đường, người khô quắt không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi…(…)

    Bên lề trận chiến
    Sau 10 ngày di tản trên đoạn đường 250 cây số từ Pkeiku-Kontum tới Phú Bổn. Đến nay không biết con số tử vong quân cũng như dân chính xác là bao nhiêu vì mỗi tác giả có mỗi con số khác nhau. Nhưng quân cũng như dân vừa chết vừa bị thương ước tính cả chục ngàn người.

    Sư đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay. Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba. Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe. Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng người hét nghẹn, trên pháo tháp có đám người ngoi ngóp, người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay chân người kẹp dính đâu dưới lưng xe.

    Cuối cùng đoàn di tản cũng về đến Tuy Hòa vào ngày 25-3-1975 do Tiểu đoàn 58 Biệt động Quân dẫn đầu. Hai trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kontum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người. 200,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trường hợp của từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình. Trên bãi biển Nha Trang người ngồi chập choạng dưới trăng vàng chạch, đỏ nhừ nhừ như máu bầm. Trong lòng người di tản từ Cao Nguyên Đồng Bằng trong tháng 3-1975 hầu như ai cũng đọng khối máu uất nghẹn đau thương. Khối máu oan hờn của một dân tộc điêu linh chỉ khác người dân miền Trung chịu sớm nhất. Đau nhất.

    Bắt đầu từ ngày 10-3 ở Ban Mê Thuột, dọc Tinh Lộ 7B, con lộ máu dẫn về miền Duyên Hải. Hóa ra không cần đủ hết tháng 3, để tiếp theo tháng 4 thấm máu toàn miền Nam sụp vỡ.

    (Phan Nhật Nam)

    Giã từ vũ khí

    19-3-1975 Phú Bổn mất, đúng một tháng sau.

    Sáng ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở đường Gia Long, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu Tư Lệnh Quân đoàn II đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ. Ông được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng ông mê man mãi đến sau buổi trưa ngày 30-4-1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi vợ ông đang ngồi cạnh:

    – Tình hình đến đâu rồi?

    – Ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội bỏ súng đầu hàng. Họ đã vào tới Sài Gòn!

    Nghe xong ông nhắm mắt lại và “ra đi”.

    Vùng 1 Chiến Thuật – Quân đoàn I. Quân đoàn I có 3 sư đoàn: Sư đoàn 1, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3.
    Vùng I Chiến Thuật từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi (gồm các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi)

    Tang thương ngẫu lục

    Đại tướng Nga Viktor Kulikov, phụ tá bộ trưởng quốc phòng tới Hà Nội thúc đẩy Bắc Việt tấn công miền Nam. Bộ chính trị trung ương đảng Lao động Việt Nam dự định trong kế hoạch tấn công. Vào lúc này, Hà Nội dốc hết toàn lực đánh chiếm miền Nam.

    Theo tin tình báo, Trung đoàn đặc công 116, Lữ đoàn tăng 203 tăng cường 54 xe tăng vượt Vĩ tuyến 17, qua sông Thạch Hãn, tiến vào Quảng Trị để sẵn sàng tấn công Huế và Đà Nẵng.

    Quân đoàn 2 tại Vùng 1 Chiến Thuật

    Tại Vùng 1 CT, ngoài một số du kích của MTGPMN, Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) đã có mặt ở đây từ lâu gồm: Các sư đoàn bộ binh 304, 325, 324, lữ đoàn phòng không 673, lữ đoàn pháo binh 164, v…v…

    Ngày thứ 4
    Di tản miền Trung : 13-3-1975

    Ngày 13-3, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn I được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp mật tại dinh Độc Lập do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa. Cuộc họp hôm ấy có sự hiện diện Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham mưu Trưởng Đại tướng Cao Văn Viên và Phụ tá An Ninh Trung Tướng Đặng Văn Quang.

    – Tại cuộc họp, Trung Tướng Trưởng trình bày trước Hội đồng An Ninh Quốc Gia về tình hình tại chiến trường Quân khu I, sau đó Tổng Thống phân tích tình hình chung đang gặp phải khi thiếu quân viện. Tổng Thống nhìn nhận rằng không hy vọng Không Quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp VNCH bị tổng tấn công.

    – Theo lời kể của Đại Tướng Viên, thì Tổng Thống nói rằng trước tình hình như vậy chỉ còn một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu. Tại Quân khu 1 có 5 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, và hai thành phố Huế, Đà Nẵng), khu vực cần phải giữ là Đà Nẵng.

    – Chi tiết mà Đại Tướng Viên kể lại ở trên khác với nội dung lời kể của Trung Tướng Trưởng, theo đó, trong buổi họp ngày 13-3, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng lập kế hoạch rút toàn bộ lực lượng VNCH khỏi Vùng 1 và rút về tỉnh Phú Yên.

    Như thế lãnh thổ VNCH sẽ bị mất 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Định.

    (SQTB K10B/72)

    Quân sử ngoại truyện
    Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tổng tư lệnh, ngày 21-3, từ ba hướng Bắc, Tây và Nam, các lực lượng Quân khu Trị Thiên (MTGPMN) và Quân khu 2 (Bắc Việt) đồng loạt tiến công vượt qua các tuyến phòng thủ của địch hình thành nhiều mũi bao vây Huế, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 1 Bộ Binh, và Lữ đoàn 147 Thuỷ Quân Lục Chiến Ngụy, cắt đứt Huế và Đà Nẵng trên đoạn đường số 1 ở Mũi Né-Bái Sơn …địch chỉ còn một lối thoát là rút chạy ra biển theo cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Con đường Huế-Thuận An là niềm hy vọng cuối cùng của chúng, nhưng thực tế đã biến thành con đường chết đối với chúng.

    Nắm vững ý đồ muốn tẩu thoát của địch, pháo ta một mặt khống chế chặt cửa Thuận An và không cho tầu địch vào đón bọn rút lui, mặt khác bắn vào trung tâm của đội hình dày đặc của địch còn ở lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền làm cho chúng thiệt hại nặng nề.

    Xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải và hàng chục nghìn lính địch kéo đi kín đường bị pháo ta bắn, đạp lên nhau mà chạy…Ngày 25-3, các cánh quân của ta đã kịp hợp vây tiêu diệt và làm tan rã quân địch rút lui còn lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền.

    (Đại thắng mùa Xuân – Văn Tiến Dũng)


    Những ngày cuối VNCH
    Ngày 19-3-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại mở cuộc họp đặc biệt để duyệt xét tình hình Quân khu I. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, ngoài các nhân vật đã tham dự hai cuộc họp trước có Phó Tổng Thống Trần Văn Hương tham dự và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

    Theo lệnh của Tổng Thống được chuyển đến Tư lệnh Quân đoàn I trước đó, Tướng Trưởng trình bày về kế hoạch rút quân của Quân Khu 1 tập trung về Đà Nẵng. Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được Hải vận về Đà Nẵng. Như vậy, Đà Nẵng sẽ trở thành một “ốc đảo” đơn lẻ trong lòng địch để cố thủ bằng 3 sư đoàn Bộ Binh, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 4 Liên đoàn Biệt Động Quân.

    Vương Hồng Anh

    Ngộ Không

    (còn tiếp)
    Last edited by KiwiTeTua; 10-07-2016, 08:27 AM.

    Comment


    • #3
      Chương 4

      Ngày thứ 10 : 19-3-1975
      Trận chiến Quảng Trị

      Ngày 13-3, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được triệu tập về họp tại Sài Gòn. Trong cuộc họp, tướng Trưởng được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu bỏ một phần Quân khu I, rút về phòng thủ vùng Duyên Hải miền Trung. Một tuần sau, quân lực VNCH rút khỏi Quảng Trị ngày 19-3.
      (Wikipedia – SQTB K10B/72)

      Sử lịch với ngày tháng
      Ngày 9-3-175, Bắc quân đánh Đức Lập ở Ban Mê Thuột. Cũng ngày này 9-3, Bắc quân tấn côngTây Ninh gần Thủ Dầu Một kế cận Sài Gòn, đồng thời đánh Hải Lăng sát Quảng Trị.

      Tháng ba gãy súng (Quảng Trị)
      Sáng hôm sau, 21-3-175, tôi thấy một đơn vị Địa phương Quân kéo từ phía Bắc về đến chỗ tôi một cách hỗn độn. Liên đoàn 913 Ðịa phương Quân này nằm ở bờ bắc sông Mỹ Chánh, thuộc tiểu khu Quảng Trị, không hiểu có đánh đấm gì không mà họ lại chạy như thế này. Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ ra lệnh tôi tập trung Liên đoàn Địa phương Quân và bắt buộc họ di chuyển về hướng Tây. Tôi làm xong việc này không khó ắm nhưng chán nản vô cùng. Một ông Thiếu úy trẻ hông đeo Colt, tay cầm bản đồ, trông oai phong lẫm lẫm tâm sự với tôi.
      – Nếu không gặp mấy anh chúng tôi còn chạy nữa. Anh thấy không, bọn tôi dừng lại trước khi anh cho lính ra chận nút mà.
      Tôi biết chắc chắn Trung úy không ra lệnh bắn nếu bọn tôi cứ tiếp tục chạy, phải không?

      Tôi nghĩ bụng, tay này cũng là một tay “xịn” đây. Anh ta nói tiếp:
      – Từ khi Thủy quân Lục chiến rút khỏi Quảng Trị, tụi tôi có cảm tưởng mình bị bỏ rơi. Dân bỏ đi theo các anh, bọn tôi ở lại để tự sát à?
      – Tại sao gặp tụi tôi, mấy anh không chạy nữa?
      – Tụi tôi nghĩ thủy quân lục chiến đã về hết Ðà Nẵng rồi, như vậy tức là bỏ Quảng Trị, bỏ Huế, nên chúng tôi chạy.

      Sau khi Liên đoàn 913 di chuyển hết vào phía núi, tôi nhận lệnh tiểu đoàn lên quan sát công binh giựt cầu Mỹ Chánh.
      (Cao Xuân Huy)

      Trận chiến Quảng Trị
      Kế từ 0 giờ ngày 8-3-1975, bộ đội Bắc Việt tổng công kích cao điểm 367, 235, Dốc Dầu, Tân Điền Động Ông Do, Hải Lăng…Trong khi Trung tướng Lâm Quang Thi đang đòi Trung tướng Ngô Quang Trưởng tăng viện cho Quảng Trị thì sáng ngày 8-3, Sư đoàn 324 thuộc Quân đoàn 2 Bắc quân bắt đầu tấn công căn cứ Mỏ Tàu, các điểm cao 224, 273 và 303 ở Tây Nam Huế.

      Ngày 9-3-1975, quân đội VNCH buộc phải bỏ Hải Lăng. Bắt đầu từ đêm 18, Bắc quân tấn công các cứ điểm quan trọng quanh tại thị xã Quảng Trị.


      3 giờ ngày 19-3, bộ đội Bắc Việt chiếm cổ thành Quảng Trị.
      (Wikipedia)

      Góp nhặt…ghi chép…
      Mùa Hẻ đỏ lửa tháng 6 năm 1972, LĐ147 (1) từ Đông Bắc và LĐ258 từ Tây Nam Quảng Trị đã đụng độ với 2 Sư đoàn 304 và 325 để chiếm lại Cổ thành Quảng Trị. Cũng khoảng thời gian này, Đại Tá Bùi Thế Lân TLP/SĐ TQLC được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh binh chủng TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang.

      (1) Lữ đoàn 147 TQLC gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5 và 7.

      Tao ngộ chiến…
      Vì địa thế đặc biệt của 2 tỉnh Quảng Trị-Huế cách Đà Nẵng bởi đèo Phước Tượng, đèo Hải Vân với 1 con đường duy nhất để thông thương 210 được chia ra:

      - Quân đoàn I Tiền Phương, chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi, bảo vệ 2 tỉnh phía Bắc Hải Vân là Quảng Trị-Huế, bộ chỉ huy đóng tại tại Huế.

      - Quân đoàn I, chỉ huy bởi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân đoàn 1, bộ chỉ huy tại Đà Nẵng, bảo vệ các tỉnh phía Nam đèo Hải Vân.
      (Phạm Vũ Bằng)

      – : Tựa “Tao ngộ chiến…”, nguyên tác của tác giả Phạm Vũ Bằng là: “Thủy Quân Lục Chiến hy sinh”. Tựa đề khơi lại một trùng hợp với LĐ147 (và LĐ258) tháng 3-1975 gặp lại Sư đoàn 304 và 325 Bắc quân vào Mùa Hẻ Đỏ Lửa năm 1972.

      Góp nhặt…ghi chép…
      Ngày 9-3-1975, quân du kích (MTGOMN), đánh 15 ấp rải rác giữa Quảng Trị và Huế, cùng lúc ở Quân khu III, quân Bắc Việt đánh Tây Ninh, Như vậy, một, hai ngày sau cuộc tấn công Ban Mê Thuột, quân chính phủ mất hết quyền chủ động và bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn rất bối rối trong việc tìm cách thoát khỏi tình hình.

      Mặc dù có những sai lầm về chiến thuật, Thiệu chưa hẳn là gã giở người. Ông đã đọc chiến tranh nhân dân, đã chỉ huy quân đội với nhận thức và biết rằng mục tiêu cuối cùng của những cuộc tấn công của Bắc Việt là cô lập Sài Gòn và phân tán quân đội Nam Việt Nam. Vì bảo vệ Sài Gòn chỉ có ba sư đoàn phòng thủ. Ngày 12-3, Thiệu đánh điện ra lệnh cho Tướng Trưởng ở Đà Nẵng thay đổi kế hoạch và cho ngay sư đoàn lính dù về Sài Gòn.
      (Decent Interval – Frank Snepp)

      Tháng ba gãy súng (Quảng Trị)
      Ngày 23-3, tiểu đoàn cho biết là tôi hết nhiệm vụ tăng phái. Chúng tôi trở về đại đội nhưng không có xe đến đón, có nghĩa là chúng tôi phải cuốc bộ.

      Khoảng 4 giờ sáng ngày 24-3 đại đội tôi nhận nhiệm vụ làm gạch nối ở làng Ðồng Lâm để yểm trợ cho đại đội 1 và 2 rút ra từ phía núi. Buổi trưa đại đội tôi phối hợp với một đại đội Biệt động Quân không hiểu từ đâu hiện ra rải quân nằm ở bờ Bắc sông An Lỗ. Nhưng rồi khoảng 2 giờ trưa, đại đội Biệt động Quân lại biến mất. Lúc 4 giờ chiều tôi nhận lệnh rút về phía Nam cầu. Chúng tôi về nằm dọc bờ sông ngay chân cầu. Súng vẫn nổ liên hồi ở sông Bồ nhưng tôi đã mất liên lạc với Trung đội 2 của Huy mập từ đêm hôm qua, khi chúng tôi rời bỏ căn cứ Hòa Mỹ, không hiểu bọn nó giờ này ra sao.

      Tôi bước ra, muốn khóc. Mẹ kiếp, bạn nhà binh tình nhà thổ, không ai lo cho bọn nó cả, còn tôi lại không thể nào lo được cho tụi nó. Tiếng súng vẫn nổ dữ dội phía sông Bồ. Ðại đội tôi trang bị nhẹ. Súng cối mang theo mười quả đạn, đại liên một dây 100 viên, M79 một dây sáu quả, M16 một băng; mỗi người lính hai quả lựu đạn, một bao gạo sấy, một lon thịt hộp, tất cả những thứ bỏ lại vứt hết xuống sông An Lỗ, quần áo mùng mền cũng vứt.

      9 giờ tối tôi nhận lệnh di chuyển, tôi liên lạc một cách nhẫn nại với trung đội 2. Trời đã không phụ tôi. Trung sĩ Khang trung đội phó trả lời tôi ở đầu máy bên kia:

      – Cố gắng kéo hết con cái ra Quốc lộ, theo dòng người về Huế.(…)

      Tao ngộ chiến (Thuận An)
      Về tình hình chiến sự tại QK1 trước ngày 25-3 thì phải nói là yên tĩnh, đã không có một trận đánh nào lớn hơn cấp trung đoàn, tuy nhiên địch đã bám sát quân ta để chờ thời cơ. Đại họa đã xẩy ra vào ngày 25-3, khi QĐ1 quyết định bỏ Huế-Quảng Trị để rút đạo quân tiền phương về bảo vệ Đà Nẵng, và Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định (được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng) (1), rút quân bằng Hải Quân tại bãi biển Thuận An…
      Thay vì lui binh theo đội hình trên Quốc lộ 1 vì ông nghĩ rằng có một trung đoàn địch cắt đứt Quốc lộ 1 tại đồi 500, Phú Lộc.(…)

      Cuộc rút quân tại Thuận An
      Vào thời điểm này Hải quân Thiếu Tá Nguyễn văn Hy là Chỉ huy Trưởng Liên đoàn Đặc nhiệm nhận chỉ thị từ Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Chuẩn bị một giang đỉnh có khả năng di chuyển cả trên sông lẫn trên biển và đặt hệ thống truyền tin, sẵn sàng để Tướng Tư lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi xử dụng.

      Khoảng 6 giờ 30 chiều ngày 20-3, Băc quân bắn hai hỏa tiễn 130 ly vào bên kia sông, nơi cửa Thuận An. 15 phút sau, Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng vài sĩ quan tham mưu đi thẳng xuống cầu tàu, cho người tìm thiếu tá Hy đưa tất cả ra tàu! Thiếu Tá Hy dùng LCM8 đưa Tướng Lâm Quang Thi và đoàn tùy tùng ra tuần dương hạm Trần Bình Trọng, HQ 5, nơi đặt bộ chỉ huy của hạm đội Hải Quân tại cửa Thuận An.

      Tin Trung tướng Lâm Quang Thi rời căn cứ hải quân Thuận An “bay” ra rất nhanh khiến một số sĩ quan trong bộ tham mưu của bộ tư lệnh tiền phương bị bỏ lại hoảng hốt. Trong số sĩ quan này có trung tá Thanh, chánh văn phòng của tướng Lâm Quang Thi cũng…bay theo!

      Đến 10 giờ tối, tướng Lâm Quang Thi chỉ thị Hạm trưởng HQ 5, Hải quân Trung tá Phạm Trọng Q. ra lệnh cho Thiếu tá Hy di chuyển tất cả đơn vị khỏi căn cứ Hải quân Thuận An. Trung tá Q. trình bày: Thưa trung tướng, quyền hạn của tôi chỉ vỏn vẹn trong phạm vi HQ 5 này. Tôi không có thẩm quyền để ra lệnh cho thiếu tá Hy. Từ đài chỉ huy HQ 5, tướng Lâm Quang Thi ra lệnh trực tiếp, bằng bạch văn, cho thiếu tá Hy: “Đây Quốc Bảo (mật hiệu truyền tin của tướng Thi), chỉ thị cho Thiếu tá Hy điều động mọi đơn vị rời căn cứ hải quân tức khắc và phá hủy tất cả quân dụng”.
      (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

      Tháng Ba gãy súng (Quảng Trị)
      Tôi yên tâm. Với trung đội 2 tôi đã cố gắng hết khả năng của tôi.

      Bập bùng trước mặt là đám lửa của chiếc M48 cháy nằm ngay trên quốc lộ. Ðó đây trên đường lộ, xác của những người lính bất hạnh nằm chết đủ kiểu. Ðoàn người vẫn đi qua, chỉ có những cái nhìn ném về phía những xác chết. Dòng người càng lúc càng đông, đại đội tôi bị lẫn trong dòng người đang di chuyển về phía nam. Thỉnh thoảng trên đường chúng tôi di chuyển, bọn du kích xuất hiện bắn chận chúng tôi, y hệt cái kiểu năm 72 đã tạo ra đại lộ kinh hoàng, nhưng lần này không phải là cuộc rút chạy hỗn loạn của năm 72.

      Thật tôi không thể hiểu nổi tại sao mấy ông xếp lại có thể nhẫn tâm bỏ lại lính tráng mà chạy lấy thân như vậy, trong khi tình hình đâu đến nỗi. Trung đội 2 của Huy mập đã bị mấy ông xếp bỏ rơi. Không hiểu hiện giờ ở khắp Quảng Trị Thừa Thiên này có bao nhiêu đơn vị nhỏ còn đang phải thi hành nhiệm vụ nào đó trong khi các ông xếp của họ đã ung dung ở Ðà Nẵng hoặc Sài Gòn. Xin hãy gắn anh dũng bội tinh với nhành dương liễu cho những ông xếp này. Ờ mà hình như cũng chẳng phải xin, vì thường ra thì huy chương được gắn nhanh và nhiều vào ngực áo của những thằng chẳng bao giờ biết đánh đấm là gì. Xin cám ơn những cái huy chương.(…)

      Tao ngộ chiến (Thuận An)
      Ngày 24-3-75 lúc 6 giờ chiều các TQLC của LĐ147 được lệnh bỏ lại vũ khí cộng đồng và đạn dược cùng lương thực, mỗi quân nhân trang bị nhẹ và gọn, đoạn chiến với quân BV, đi bộ hỏa tốc trên 30 km từ Quảng Trị đến điểm tập họp là bãi biển Thuận An, Huế, vì tàu hải quân không chở được các chiến cụ nặng, nên dọc đường họ thấy vô số đại bác, chiến xa và GMC của các đơn vị bộ binh vứt đầy đường.(…)

      Cuộc rút quân tại Thuận An
      Hạm đội hải quân bắt đầu thực hiện cuộc triệt thoái thủy quân lục chiến và bộ binh. Lúc này những đơn vị thiết giáp và biệt động quân cũng về đến cửa Thuận An, từ phá Tam Giang.


      Đặc lệnh Truyền Tin bị địch bắt được. Tất cả hệ thống truyền tin PC25 của bộ binh đều bị Bắc quân xâm nhập, quấy phá chỉ có thủy quân lục chiến liên lạc được với hải quân bằng tần số riêng. Vì hệ thống truyền tin của bộ binh không liên lạc được nên cuộc đón quân của Sư đoàn 1 BB rất gay go. Để tránh lộ mục tiêu, ngại địch pháo kích, hầu hết các cuộc đón quân được thực hiện ban đêm. Với mục đích này, hải quân yêu cầu thủy quân lục chiến phối hợp với hạm đội, đưa bộ binh xuống phía Nam, cách cửa Thuận An khoảng 5 cây số để tàu vào đón. Tuy đã nghi binh nhưng Bắc quân vẫn biết, địch dùng đại bác 105 ly và 81 ly của ta bắn xối xả ra bờ biển.

      Tối 26-3, HQ 801 và HQ 502 được lệnh ủi bãi, đón lữ đoàn thủy quân lục chiến. Nhưng chiến hạm lớn quá, mực nước không đủ sâu, cả hai chiến hạm đều không vào được. Khoảng cách từ bờ ra tàu quá xa, thủy quân lục chiến không lội ra được. Trong khi lềnh bềnh, HQ 801 bị sóng đánh tạt ngang, gần bể lái tàu nên hạm trưởng HQ 801 cố giữ thăng bằng rồi vội lui ra, lềnh bềnh ngoài xa. Khuya 26-3, Tiểu đoàn 7 Thủy quân lục chiến về đến Thuận-An. Thiếu tá Nguyễn Văn Hy được lệnh điều động toán LCU (10 LCU trong toán này được biệt phái từ Sài Gòn) và một số LCM của Giang đoàn 32 xung phong, ủi vào bờ, đón thủy quân lục chiến đưa ra chiến hạm. Kế hoạch này thực hiện an toàn được đợt đầu.

      Phần lớn quân nhân trong đợt này là thương binh. Đặc biệt trong chuyến tản thương có một tiểu đoàn trưởng TQLC cũng bị thương, nhưng, không những ông nhất quyết không chịu lên tàu mà ông còn điều động binh sĩ còn vũ khí chống trả, tiêu diệt các “chốt” của địch. Và cũng chính ông liên lạc trực tiếp với chỉ huy trưởng Hải đội 3 Tuần dương, yêu cầu hải quân vớt hết lính của ông thì ông mới lên tàu!(…)

      Tháng Ba gãy súng (Huế)
      Một bà già đứng ở cửa một túp lều bên vách tường thành Phú Văn Lâu, một tay cầm đèn dầu, nhìn chúng tôi. Huế đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Đạn pháo nã đều vào cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba bánh, xe xích lô đi hôi của. Ði lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền mặc dù cầu này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà không có người. Bản thân tôi cũng đã hai lần đổ máu ở nơi này, bây giờ bỗng chốc bỏ đi, hỏi ai là người không tức tưởi. Ðù má những thằng chịu trách nhiệm trong vụ bỏ Huế này, lịch sử sẽ bôi tro trát trấu vào mặt chúng! Những ai đã từng hô hào tử thủ Huế giờ này ở đâu? Khốn nỗi, những thằng đánh trận mà luôn luôn đi đàng sau và luôn luôn bỏ chạy trước lại là những thằng có quyền, có quyền mà hèn nhát, đốn mạt nên bây giờ bao nhiêu người khốn đốn, rút chạy như một lũ thua trận. Nhưng thực sự chúng tôi đã đánh nhau đâu để bị gọi là thua!

      Qua hết cầu, tôi gặp đại úy Chiêu, tay cầm chai rượu chát khổng lồ, túi đút chai rượu mạnh. Thấy tôi ông kêu lớn: Ê Huy, nhậu mày.

      Bao nhiêu tủi hờn, căm hận, buồn bực biến mất nhanh như viên đạn ra khỏi nòng súng. Bọn tôi ngồi quây tròn giữa ngã tư đầu nam cầu Trường Tiền nhậu không có mồi, không có nước đá “chữa lửa” thì chúng tôi nhậu chay. Câu chuyện lại vui như pháo Tết. Mấy tên lính không biết lấy xe xích lô của ai chở đầy xe thuốc lá Ruby và bia Quân tiếp vụ đến tiếp tế và nhập cuộc. Tôi đập vỡ cổ chai bia rót từ đầu xuống, người ướt đẫm bia thích thú, từ bé đến lớn chưa bao giờ được tắm bằng bia mà. Nhưng chẳng có cái dại nào giống cái dại nào: bị ướt bia, người tôi dính nhem nhép khó chịu. Ðang ngồi nhậu, đại đội trưởng tôi không biết từ đâu tới cho biết điểm hẹn đã thay đổi vì những kho đạn, kho xăng ở Thuận An đã bị cháy..(…)

      Chữ nghĩa của một thời chinh chiến - trong quán nhậu
      Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
      Salem : Sao anh làm em mệt.

      Thuận An bên bờ chiến địa
      Ngày 24-3 được lệnh di tản, tôi cùng 5, 6 sĩ quan khác và đồng đội chạy trên một chiếc xe jeep về hướng Thuận An, nhưng giữa đường xe bị hư nên phải bỏ lại và đi bộ. Đến gần cửa Thuận An trời đã chiều. Bỗng có một người mặc quân phục ra chận đường và chào rất lịch sự. Tôi tự hỏi sao giờ này lại còn có người lính nào đàng hoàng đến thế?…
      Tôi chưa kịp chào lại vì còn đang phân vân thì người lính nọ đã nói với tôi: Xin Tr/úy cho em cái đồng hồ!. Một thoáng ý nghĩ qua trong đầu tôi nên tôi liền lột đồng hồ đưa cho hắn. Xong hắn lại nói: Tr/úy có đôi giày đẹp qúa, xin Tr/úy cho luôn. Tôi cũng đành cởi đôi giày ra…
      (Nguồn: Tr/úy L. ĐĐ Tiếp liệu/TĐ1)

      Tao ngộ chiến (Thuận An)
      Ngày 25-3-1975 lúc 8 giờ sáng. Những người lính thủy quân lục chiến từ Khe Sanh, Lao Bảo, Hướng Hóa, Quảng Trị chạy về Huế, rồi từ Huế lại chạy ra bờ biển An Dương, và tất cả LĐ147 đã tập họp tại bãi biển Thuận An để đợi lên tàu…(…)

      Cuộc rút quân tại Thuận An
      Đến đợt đón quân thứ hai, địch dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn thẳng vào các LCU. Bốn LCU bị trúng đạn, một số nhân viên bị thương. Một LCU do Chuẩn úy T. làm thuyền trưởng bị sóng đánh dạt vào bờ. Trong bờ, không ai biết chiếc LCU đang lâm nguy. Mọi người ùa ra, tràn lên tàu, bao quanh tàu. Thiết giáp M113 cán bừa lên mọi người để lên tàu, tạo nên một đường máu khổng lồ, dài ngoằng! Trong khi thủy thủ đoàn cố vận dụng tất cả khả năng, mọi phương cách để đem chiếc LCU ra thì chân vịt xoắn tít vào đám người lố nhố phía sau tàu và thân tàu rướn trên biển người, tạo nên một vùng nước đỏ tươi những máu ngổn ngang xác người! Trong khi những LCU khác sợ mắc cạn, không dám vào nữa, chỉ ủi vào những cồn cát phía ngoài, chờ quân bạn bơi ra.

      Sáng 27-3, khoảng 6 giờ, biển động dữ dội, không tàu nào có thể vào được nữa. Trên bờ còn M113 lội nước, rất nhiều Thủy Quân Lục Chiến, một số quân nhân thuộc những đơn vị khác và đồng bào. Hải quân tận dụng tất cả PCF, chạy dọc theo bãi biển từ đèo Hải Vân đến cửa Thuận An, thả rất nhiều phao nổi, với hy vọng quân bạn có thể dùng phao bơi ra tàu. Khi đoàn LCU lui ra dần, địch lại pháo kích ngay vào chỗ lính tập trung! Bắt được mấy tên Bắc quân mặc quân phục Bộ Binh và Biệt động Quân đang dùng máy truyền tin cho tọa độ để Bắc quân pháo kích vào toán quân, thủy quân lục chiến bắn hết. Rồi cứ thấy ai mặc quân phục không phải là quân phục lính Mũ Xanh, Thủy Quân Lục Chiến cũng bắn luôn! Do đó, Bộ Binh và các binh chủng khác hoảng sợ, lấy ghe dân, ào ra biển hoặc là liều, chạy bộ về cửa Tư Hiền, chỉ còn Thủy Quân Lục Chiến ở lại trên bãi! Số thủy quân lục chiến ở lại lập tuyến phòng thủ. Bắc quân tấn công, Thủy Quân Lục Chiến chống trả cầm chừng, vì không còn đạn! (…)

      Thuận An bên bờ chiến địa
      Khi đến Thuận An và qua được bên kia cồn cát thì trời đã tối sẫm. Sáng ngày 25-3 chúng tôi thấy một chiếc tàu đậu ngoài khơi nhưng không có phương tiện bơi ra. Chung quanh, trên bờ và cả dưới nước, đa số là TQLC, BĐQ, và SĐ1 BB. Đến 3 giờ chiều thì có một chiếc tàu loại nhỏ (LST) cập bến. Mọi người có mặt tại đó đều ào ào bơi ra, tất cả đã giành nhau, xô nhau, níu kéo nhau để lên cho được tàu, cố bám lấy vị cứu tinh vừa xuất hiện.

      Tôi cũng lên được nhưng sau đó, những người lính TQLC lại đuổi xuống. Họ nói chiếc tàu này là do họ độc quyền xin vào để chở TQLC mà thôi. Những người lính này đã dùng M16 để đuổi những người không phải là TQLC. Nếu ai không xuống là bị bắn ngay tại chỗ. Một Trung Tá BB đứng cạnh tôi bị một người lính tiến đến hỏi một cách xấc xược:
      – Yêu cầu Trung Tá xuống. Tàu này của chúng tôi!

      Vị Trung Tá lắp bắp: “T.. ộ..i ngh..i.. ệ..p..” và chưa nói hết lời thì một phát đạn bắn ngay ngực và người Tr/Tá rơi xuống biển, máu lênh láng, bềnh bồng…

      Cứ thế, những người nào mà không phải binh chủng TQLC thì bị cho đếm 3 tiếng để nhảy xuống biển và sau 3 tiếng mà không nhảy thì bị bắn.(…)

      Bên lề trận chiến
      Vì tình hình đột biến quá nhanh, Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chỉ thị HQ 13 tách rời đội “bán kim cương”, tăng phái về Thuận An tuần tiễu, giữ an ninh cho HQ 5, vì tướng Lâm Quang Thi đang xử dụng HQ 5 làm bộ chỉ huy lưu động. Chiều 23-3, khoảng 4 giờ, HQ 13 chạy ra khơi, cách bờ khoảng 25 cây số.

      Gần 5 giờ, Hạm trưởng HQ 13, Hải Quân Thiếu Tá Phạm Trọng Th. hét lên trong máy liên lạc với hạm trưởng HQ 7:
      – Trình thẩm quyền, máy bay nó dội bom tàu tôi.

      Hạm trưởng HQ 7, sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh:
      – Nó dội bom bạn thì bạn bắn nó.
      – Máy bay A37 của ta đó, thẩm quyền.
      – Có thể địch cướp máy bay A37 của ta. Bạn bắn nó không thôi bạn chết.
      Thấy súng từ chiến hạm bắn lên, A37 không dám xuống thấp thả bom mà ở trên cao độ dội rockets xuống. Một rocket lọt vào hầm tạm trú khiến 20 thủy thủ chết và bị thương. HQ 13 được lệnh tức tốc rời vùng hành quân.
      (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

      Tháng ba gãy súng (Thuận An)
      Khoảng 11 giờ đại đội tôi vượt xong phá Tam Giang.
      Nơi mới đến tôi chỉ biết duy nhất có một điều là bốn bề là nước, phía bắc là cửa Thuận An, phía nam là cửa Tư Hiền, phía tây là phá Tam Giang và phía đông là biển Ðông.

      Hơn 12 giờ trưa, chúng tôi được lệnh di chuyển ra bờ biển đã thấy một chiếc tàu mang số HQ 801. Nhưng lên tàu cũng còn có nghĩa là chấm dứt một cách nhục nhã và vô lý cuộc chiến đấu khủng khiếp mấy năm trời nay để giữ vùng Quảng Trị và Huế. Sóng có vẻ cao ở sát bờ nên tàu phải đậu cách bờ có đến khoảng năm mươi mét. Những người dân chạy loạn và lính tráng của các đơn vị khác tan hàng đã đứng đầy ở bờ biển. Họ đã chạy theo chúng tôi từ Quảng Trị, Huế và các vùng phụ cận về đến đây.

      Cả lữ đoàn tập họp đứng khơi khơi quay lưng ra biển từ hơn 12 giờ trưa cho đến 4 giờ chiều trong khi chiếc HQ 801 vẫn dập dềnh chờ đợi. Không hiểu để làm gì và không hiểu tại sao. (1)

      Trong khi đang tà tà dạo mát như vậy, một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát đựng gạo sấy và thịt hộp (2). Có tin đồn là chính tướng Lân (3) ngồi trên chiếc trực thăng tiếp tế này với mục đích là để thị sát, nhân tiện ném xuống cho một ít lương thực. Tôi không tin điều này vì hai lý do, thứ nhất theo tôi nghĩ là tướng Lân không thể ra đây trong tình trạng này, và thứ nhì là nếu tướng Lân có trên trực thăng, chắc chắn người anh cả đã ra lệnh cho chúng tôi xuống tàu bằng mọi giá chứ không phải để chúng tôi cứ tà tà rước đèn như thế này.(…)

      (1) Xem “Cuộc rút quân tại Thuận An – Hải Quân VNCH ra khơi, 1975” ở trên.
      (2) Xem “Tháng 3 buồn…hiu” của Nguyễn Thế Thụy, ở tiết mục Ngày thứ 11: 20-3-1975.
      (3) Không phải là Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh TQLC mà là Đại tá Tham mưu trưởng SĐ/TQLC Lê Đình Quế.

      Thuận An bên bờ chiến địa
      Tôi khiếp sợ trước cảnh đó nên không chờ đến khi người lính TQLC quay qua tôi, tôi liền nhảy nhào xuống biển. Trên bờ, một Tr/tá BĐQ nhìn thấy cảnh một Tr/tá BB bị bắn chết một cách thảm thương liền hô to câu: “Biệt Động Quân!”. Tức thì tất cả các quân nhân BĐQ có mặt lúc đó liền hô “SÁT” và nhảy lên mấy chiếc xe bọc thép M113 bắn xối xả vào tàu. Một quả M72 rồi 2, 3 quả khác được thụt trúng tàu. Chiếc tàu bốc cháy rồi chìm dần. Không một ai trên tàu còn sống. Trong chốc lát, mặt biển đầy xác người với máu và lửa…

      Khi tôi tỉnh lại và nhìn quanh thì thật ghê sợ: Một thây người mất nửa cái đầu đang nằm bên tôi. Tôi sực nhớ ra lúc nãy khi còn bơi ra tàu, chính anh này đã bị cánh cửa tàu kẹp nghiến nát nửa cái đầu và có lẽ sóng đã tấp anh và tôi cùng vào một lúc. Cũng có anh bị cả 2 cái chân đứt hẳn ngay tại miệng tàu và chết chìm tại chỗ.
      Không biết bao nhiêu cảnh ghê sợ hơn đã xảy ra tương tự như thế trên đường “di tản”!
      (Nguồn: Tr/úy L. ĐĐ Tiếp liệu/TĐ1)

      Tao Ngộ Chiến (Thuận An)
      Ngày 25-3-75 lúc 8 giờ tối, tất cả LĐ147 đã tập họp tại bãi biển Thuận An, ngoài khơi là một lực lượng hải quân hùng hậu, nhưng không có một chiếc tàu nào vào đón! LĐ147 được lệnh chờ và chờ…Đại họa biến thành đại thảm họa khi tướng tư lệnh tiền phương Lâm Quang Thi bỏ về Đà Nẵng ngày 25-3-75, như vậy, đạo quân tiền phương bị bỏ rơi trên bãi biển Thuận An đã mất đi cấp chỉ huy tối cao, cấp QĐ có thẩm quyền điều động Không Quân và Hải Quân.

      Buổi chiều cùng ngày quân truy kích đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cao, bao vây LĐ147 trên bãi cát trống trải, tấn công TQLC bằng đủ loại súng cộng đồng tối tân. Sáng ngày 26-3-75 có 1 chiếc LCU duy nhất vào đón được bộ chỉ huy LĐ147, thương binh, và chừng 200 TQLC. Địch quân càng ngày càng đến đông hơn để tấn công TQLC trên bãi cát, TQLC hết đạn, hết nước uống, hết lương thực, ngoài khơi các tàu hải quân vẫn vô cảm, không tiếp tế, không yểm trợ hỏa lực, im lặng vô tuyến.

      Tối ngày 26-3-75, TQLC đã chiến đấu đến viên đạn và giọt máu cuối cùng, không chấp nhận đầu hàng hay bị bắt nên đã có rất nhiều TQLC tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 và chuyện phải đến là rạng sáng ngày 27-3-75 thành phần còn lại của LĐ147 TQLC bị bắt.(…)

      (1) Trung đoàn 1 Sư đoàn 324.

      Cuộc rút quân từ cửa Tư Hiền đến Thuận An
      Trong khi những kinh hoàng đang xảy ra thì tại cửa Tư Hiền, chỉ huy trưởng Duyên đoàn 13, Hải quân Thiếu tá Trương Văn Phương, nhận lệnh trực tiếp từ Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: Phải ở lại căn cứ để đưa Sư đoàn 1 BB qua sông. Thiếu tá Phương được chỉ thị cho nhân viên cột những chiếc ghe của Duyên đoàn 13 từ bên này sông qua bên kia sông, đồng thời kéo ponton, đánh chìm ngay tại cửa Tư Hiền để làm đầu cầu cho Sư đoàn 1 BB băng qua sông, lên đèo Hải Vân, về Đà Nẵng bằng đường bộ.

      Cửa Tư Hiền tuy hẹp nhưng nước chảy xiết, không thể nối ghe làm cầu được. Hơn nữa, các giàn đại liên 50 của địch từ mé núi bắn xuống xối xả. Không một đoàn quân nào không có khí giới tự vệ, không được yểm trợ, không được bảo vệ mà có thể vượt qua đoạn cầu tử thần này cả! Còn chiếc ponton được tàu kéo, kéo từ Đà Nẵng ra, dự trù đánh chìm ngay cửa Tư Hiền, thì lại không đưa vào được, vì lạch nước quá nhỏ và cạn! Mặc dù địa thế quá khó khăn, Thiếu tá Phương vẫn đôn đốc nhân viên thực hiện kế hoạch đã được giao phó. Nhưng, bất ngờ, một thiếu tá thuộc Trung đoàn 54 BB chụp cổ áo thiếu tá Phương (thiếu tá Phương không mang cấp bậc) gằn giọng: Đơn vị trưởng của mày đâu? Tìm tới đây, lẹ lên để đưa trung đoàn của tao qua sông. Thiếu tá Phương “dạ, dạ” rồi xuống ghe, ra HQ 7!

      Được báo cáo đầy đủ, Trung tướng Ngô Quang Trưởng chỉ thị hải quân đón Sư đoàn 1 BB. Nhưng Sư đoàn 1 BB đang tự túc rút về Đà Nẵng bằng đường bộ. Dọc đường, binh sĩ bỏ đơn vị đi tìm gia đình, vũ khí vất đầy hai bên quốc lộ. Sư đoàn 1 BB, một trong những đơn vị ưu tú của quân lực VNCH. tan rã từ đây!
      (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

      Tháng Ba gãy súng (Thuận An)
      Chiếc tàu HQ 801 từ từ vào điểm hẹn. Từ bờ ra đến tàu khoảng cách hơn trăm thước, tôi không còn trông thấy mầu xanh của nước biển mà chỉ thuần một mầu đen của đầu người. Ðầu của những người đang cố gắng bơi ra chiếc tàu. Chiếc tàu bắt đầu kéo bửng, chiếc tàu phụt khói từ từ quay mũi ra biển. Chân vịt đạp nước đẩy không biết bao nhiêu người ra xa tàu, và không biết là đã chém đứt bao nhiêu người. Thân tàu quay ngang đập vỡ không biết bao nhiêu đầu người, và không biết đã nhận chìm bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu. Biết bao nhiêu người đã chết vì chiếc tàu quay mũi.

      Nhưng…
      Chiếc tàu đã không ngừng quay khi cái mũi đã hướng ra biển. Mà, chiếc tàu vẫn tiếp tục quay, mũi tàu lại từ từ hướng vào bờ. Chân vịt lại chém thêm không biết là bao nhiêu người. Thân tàu lại đập vỡ thêm không biết là bao nhiêu cái đầu, và lại nhận chìm thêm không biết là bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chúng tôi không có thời giờ để ngạc nhiên. Hai chiếc M113 chở đầy người chạy từ hướng mặt trận đã cán bừa lên những người vừa từ biển lên còn đang nằm vật ra mà thở, và cán luôn cả những người không kịp chạy tránh đường.(…)

      Tao Ngộ Chiến (Thuận An)
      Theo Đ/úy Nguyễn Quang Đan thì vào một buổi sáng tháng ba, anh không nhớ ngày, (theo tôi thì có lẽ là sáng 25-3-75) anh nhận được bản sao của lệnh hành quân triệt thoái QĐ1 tiền phương đã được tướng Trưởng ký (tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5 giờ 30 chiều 24-3-75.
      (*** TT2 TQLC trang 537-538).

      Anh vội vã đưa cho Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, đọc xong ông than: ĐM thế này thì chết lính tao rồi!. Ngay sau đó ông ra lệnh cho anh bay ra Thuận An đưa cho Đại tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ147 một lá thư kèm theo lời dặn “Tìm ra QL1 mà đi” rồi tướng Lân đi thẳng lên trung tâm hành quân sư đoàn. Tiếc thay Đ/tá Lương đã không nghe lời.

      Ngoài ra tôi còn được biết trong khi LĐ147 TQLC bị vây hãm tại bãi biển Thuận An, vì chỉ là tư lệnh của một sư đoàn tăng phái cho QĐ1, tướng Lân không có quyền điều động hải-lục-không quân của QĐ1 để tiếp cứu LĐ147 TQLC (1), quyền này nằm trong tay của Trung tướng Ngô Quang Trưởng (2), TL/QĐ1 và Trung tướng Lâm Quang Thi, TLP/QĐ1, nhưng hai vị tướng này đã không làm gì để cứu đạo quân tiền phương bị bỏ rơi này.(…)

      (1) Lữ đoàn 147 TQLC gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5 và 7.
      (2) Được báo cáo đầy đủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ thị Hải Quân đón, v…v…
      (…trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)


      Cuộc rút quân từ cửa Tư Hiền đến Thuận An
      Thành phố Huế không còn quân trú đóng. Nhưng số binh sĩ và đồng bào không vào Đà Nẵng được, đành phải đi ngược ra Thuận An, chờ tại phá Tam Giang. Ngoài biển, chiến hạm hải quân vẫn giàn từ cửa Thuận An đến cấp Chân Mây, cố vớt thủy quân lục chiến. Nhiều thủy quân lục chiến liều lĩnh, nhào xuống biển, bơi ra tàu.

      HQ 7 vẫn tuần tiễu từ cửa Tư Hiền đến cửa Thuận An. Trong khi tuần tiễu, HQ 7 thấy một ghe nhỏ nhấp nhô, sắp chìm. Hạm trưởng HQ 7 đặt ống dòm và thấy rõ trên ghe là một toán bộ binh. Thiếu tá Hưng điều động chiến hạm đến vớt mới biết trong toán quân nhân trên ghe có Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh Sư đoàn 1 BB.. Sau khi gọi một WHEC đến để đưa Chuẩn Tướng Điềm về Đà Nẵng, HQ 7 tiếp tục tuần tiễu trong vùng đã được ấn định.

      Chiều 25-3, lúc 5 giờ, trong khi bay điều động cuộc rút quân, trực thăng chở tướng Điềm bị trục trặc kỹ thuật, phải đáp khẩn cấp phía bắc đèo Hải Vân. Lúc đó, tại bãi cát bên kia đầm Cầu Hai có một chiếc trực thăng đang thả cơm sấy và thịt hộp tiếp tế quân nhân thủy quân lục chiến ở dưới đất, Nghe tiếng kêu cứu trên máy truyền tin, chiếc trực thăng của thủy quân lục chiến vội rời vùng Cầu Hai, đến cứu Tướng Điềm. (…)

      Tháng ba gãy súng (Thuận An)
      Vừa thấy bóng Thiếu úy Ngô Du từ dưới biển trở lên, đang lảo đảo như muốn ngã gần mé nước, tôi và Sĩ chạy vọt tới đỡ và kéo Du chạy thật nhanh vừa kịp chiếc M113 chạy lướt qua sát người chúng tôi. Hai chiếc M113 lội xuống nước để ra chiếc tàu. Những cái bánh xích đua nhau cán lên đầu của không biết bao nhiêu là người đang nhấp nhô từ bờ ra đến tàu. Ra đến nơi, chuyển hết người lên tàu xong, hai chiếc xe lội nước quay đầu lội vào bờ. Lại không biết bao nhiêu là đầu người bị nghiền nát bởi những cái bánh xích.

      Vào đến bờ, hai chiếc M113 ngừng lại. Sĩ và tôi đưa thiếu úy Du lên thiết vận xa. Trước khi leo lên, tôi nắm chặt vai Sĩ: Hy vọng sẽ gặp mày ở Ðà Nẵng. Hai chiếc M113 lại lội nước ra tàu. Lần này tôi mục kích tận mắt những cái xích sắt nghiến nát những đầu người. Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng vỡ của những cái đầu, nhưng không có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả lộ trình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còn dính cả thịt còn trồi lên, trồi lên xen lẫn với bọt nước phía sau chúng tôi. Không hiểu tôi có chai đá không, không hiểu tôi đã trở thành súc vật chưa, hay vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết từ sáng đến giờ, hay vì tôi trên đường ra tàu an toàn mà lòng tôi rất bình thản khi nhìn những cái chết, quá nhiều cái chết ngay dưới chỗ mình ngồi, bị chết bằng ngay cái phương tiện mình đang sử dụng. Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan, vô thưởng vô phạt.(…)

      Cuộc rút quân từ cửa Tư Hiền đến Thuận An
      Ngày 26-3, HQ 17 đến Vùng 1 duyên hải, nhận lệnh trực chỉ ra phía nam vĩ tuyến 17. Sau khi vớt rất nhiều đồng bào và quân bạn, HQ 17 lềnh bềnh từ cửa Thuận An đến cấp Cân Mây, cố vớt hết thủy quân lục chiến, đưa về Đà Nẵng.

      Ngày 27-3, HQ 7 vớt được 10 Thủy quân Lục chiến trên một ghe chài. Nhóm quân nhân này cho Hạm trưởng HQ 7 hay: Số thủy quân lục chiến kẹt lại trên bờ, đa số đã tự tử tập thể vì không còn đạn để chống trả với địch, phần còn lại bị địch bắt khi họ chạy theo đoàn người di tản về phía cửa Tư Hiền! Sở dĩ 10 quân nhân này không tự tử là vì họ được dặn dò phải sống để đem tin tức về cho gia đình và vợ con của những người đã chết!

      Sau khi được ủy thác sứ mệnh đó, những quân nhân này vào nhà dân, lấy một ghe máy, uy hiếp chủ ghe, buộc chủ ghe đưa họ về Đà Nẵng. Vì suốt thời gian qua, những quân nhân này chiến đấu trong tuyệt vọng và đói khát nên, sau khi lên ghe, tất cả đều lã đi vì kiệt sức. Chủ ghe lợi dụng cơ hội này, đưa toán quân nhân lên hướng bắc, thay vì xuôi về hướng nam. Khi tỉnh lại, biết mình bị lừa, nhóm thủy quân lục chiến lấy một ghe khác về hướng nam, gặp HQ 7.

      Tối 28-3, HQ 17 đến Đà Nẵng, nhận thêm thủy quân lục chiến và đồng bào. Sau đó HQ 17 được chỉ thị yểm trợ HQ 405 đưa tiểu đoàn dù về Vùng 2 Dyên Hải.
      (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

      Tháng ba gãy súng (Thuận An)
      Chiếc M113 cặp sát vào thành tàu. Người trên tàu phần lớn là thủy quân lục chiến. Lính của Tiểu đoàn 4 tôi cũng khá đông. Lên đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc, căng thẳng. Huy mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò: "Súng tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận...."

      Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ. Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một Thiếu Tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí: "Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?"

      Ông Thiếu Tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:
      – Anh tha cho em, anh tha cho em.
      – Ðụ mẹ, một.
      – Thôi, thôi, thôi anh để em xuống.

      Lết ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:
      – Anh tha cho em, anh thương em với.
      – Ðụ mẹ, hai.

      Biết là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống biển.
      Tiếng súng vẫn đì đoành đây đó trên tàu. Xác người vẫn tiếp tục bị ném xuống biển. Nhiều người vừa khóc vừa nhảy ra khỏi tàu. Những khẩu súng vẫn được kê vào đầu những người lính Bộ Binh, vẫn đì đoành.
      Tình người! Tình chiến hữu! Tôi đứng nhìn bất lực. Tôi hoàn toàn bất lực…(…)

      Tháng 3 buồn…hiu
      Ngày 25-3-1975, mới 6 giờ 30 sáng, Đại úy Nguyễn Quang Đan (K21VB), chánh văn phòng tư lệnh sư đoàn thủy quân lục chiến, gọi tôi (là lính truyền tin mang máy đi theo tư lệnh) trình diện gấp, và nói với tôi như có việc khẩn cấp:

      – Tiểu Cần mang PRC25 ra ngay bãi trực thăng TL/SĐ chờ tôi.
      Tôi mang máy chạy thẳng ra chỗ trực thăng của tư lệnh đang đậu, nhưng trong đầu không khỏi thắc mắc về cử chỉ vội vã khác thường này của đại úy Đan. Nhưng cũng không còn thì giờ để nghĩ tiếp vì xe jeep của TĐ/THD chở phi hành đoàn cũng vừa tới, hai phi công phóng vội lên trực thăng và cho nổ máy. Khoảng 5 phút sau thì đại úy Đan đi tới cùng với Đại tá Tham mưu trưởng SĐ Lê Đình Quế, danh hiệu Quang Trung, chúng tôi cùng leo lên trực thăng ngay. Cất cánh lên cao, đại úy Đan ghé sát miệng vào tai tôi để át tiếng cánh quạt máy bay:
      – Tiểu Cần gọi LĐ147 để Quang Trung nói chuyện với Long Mỹ.

      Long Mỹ là Đại tá Nguyễn Thế Lương, Lữ đoàn trưởng LĐ147 TQLC. Khoảng 30 phút sau, trực thăng đến vùng bờ biển Thuận An, nơi tập trung quân lữ đoàn. Trực thăng bay thấp đến độ tôi có thể nhìn rõ các anh TQLC ở dưới ngước lên đưa tay vẫy mỗi khi trực thăng bay qua phạm vi đóng quân của từng đơn vị, những gương mặt hy vọng dù rằng cả một ngày và đêm các anh phải đi bộ từ tận cùng phía bắc Huế về đây theo kế hoạch lui binh. Nhưng các anh vui tươi và hy vọng điều gì khi chỉ một chiếc trực thăng bay ngang? Hẳn nhiên là mong thẩm quyền “cõi trên” nhìn thấy và biết rõ những gì các anh đang cần để mà đáp ứng hầu tiếp tục chiến đấu.

      Là lính truyền tin mang máy đi theo tư lệnh nhiều năm, loáng thoáng nghe qua cuộc điện đàm giữa Quang Trung và Long Mỹ nên tôi hiểu được tình hình và những chuyện gì đang xảy ra dưới bờ biển kia! Tôi thông cảm với hy vọng của các anh mỗi khi trực thăng bay qua, dù rằng không biết là giới chức nào ngồi trên đó, nhưng ít nhất “trực thăng” cũng đã thấy tận mắt hoàn cảnh bi đát của các anh, “kìa đoàn quân chiến thắng” không phải trở về mà bị buộc lui binh, lui binh trên lộ trình “rút cầu”! Cầu phao ở cửa Tư Hiền, trên đường lui binh đã không được thực hiện theo kế hoạch Alfa!

      Trực thăng bay dọc theo bờ biển và ngược lại nhiều lần để Quang Trung nói chuyện với Long Mỹ, khoảng 30 phút sau trực thăng quay về BTL/SĐ TQLC tại căn cứ Non Nước.

      Về đến BTL/SĐ chưa đầy 10 phút, đang uống ly nước lạnh thì đại úy Đan gọi:
      – Tiểu Cần, tụi mình sẽ bay ra Thuận An nữa để tiếp tế gạo cho anh em, chúng ta vẫn dùng trực thăng của Thiếu tướng Tư lệnh.

      Khi tôi đến nơi thì một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên chiếc trực thăng, tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3.000 người đang “bụng không, bãi cát trống”.

      Vẫn bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ147, anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10 m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống, làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!

      Xin lỗi các anh, cái khó nó bó cái khôn, chúng tôi không biết làm gì hơn. Chuyến thứ ba đã hoàn tất, như vậy chúng tôi đã thẩy xuống được tất cả 30 thùng gạo sấy, nhưng một thùng có bao nhiêu bịch gạo thì khó mà biết.

      Vội vã quay trở lại Non Nước để làm chuyến thứ tư trước khi phi cơ phải đi đổ xăng thì một bất ngờ, hết sức bất ngờ xẩy ra. Phi công báo cho Đại uy Đan biết là trực thăng của Chuẩn tướng Điềm, TL/SĐ1/BB lâm nạn, rớt xuống đất, hiện ông Tướng tư lệnh, sĩ quan tùy tùng và phi hành đoàn đang trong tình trạng hết sức nguy hiểm, lại chưa liên lạc được với giới chức nào để tiếp cứu, phi công xin ý kiến Đại úy Đan.

      Nên nhớ trực thăng đại úy Đan đang sử dụng là trực thăng chỉ huy của TL/SĐ TQLC và được Thiếu tướng Tư lệnh cho dùng để tiếp tế gạo cho lính của ông, vì không còn bất cứ phương tiện nào khác, nên trong trường hợp cần thiết và nguy hiểm này đại úy Đan hiểu được Chuẩn tướng Điềm cũng sẽ không còn “chuồn chuồn” nào tới cứu ông!

      Đại úy Đan OK với phi công đi cứu người ngay trước khi thông báo về BTL/SĐ TQLC để xin “hợp thức hóa” sự liều mạng này. Trực thăng đang xuôi Nam liền “quẹo” phải về hướng Tây (Trường Sơn) rồi “quẹo” phải một lần nữa về hướng bắc, bay chừng 5 phút thì chúng tôi phát hiện trực thăng của Tướng Điềm nằm nghiêng đằng sau hàng dương liễu gần QL1, khoảng 10 km phía bắc Lăng Cô. Chúng tôi vừa đáp xuống cách trực thăng bị nạn chừng 150 m thì phi hành đoàn, chuẩn tướng Điềm và một vị thiếu tá rời khỏi trực thăng chạy về hướng chúng tôi.

      Lập tức toán cán binh Bắc quân ở bìa làng gần QL1 cũng đang tiến đến chỗ trực thăng bị nạn liền khai hỏa về phía chúng tôi.! Có lẽ trước khi chúng tôi đáp xuống cứu chuẩn tướng thì toán cán ngố này còn ở xa hoặc đang thăm dò tình hình và xin lệnh “thủ trưởng” là bắt sống hay giết chết! Nhất định phải bắt sống, vì toán cán ngố này nghĩ những “địch quân” ngồi trên “máy bay lên thẳng” ắt phải là cấp “sư”. Nay thấy chúng tôi đến cứu vớt, “hớt tay trên” những nhân vật quan trọng từ “trời rơi xuống”, những mồi ngon của chúng nên chúng vội vã xả súng để hy vọng gỡ gạc may ra gây cho địch “từ chết tới bị thương”.

      Nhìn thấy Chuẩn tướng Điềm khập khiễng khó khăn chạy trên cát mà Bắc quân thì bám sát bắn rát sau lưng ông, tôi tự động không cần đắn đo suy nghĩ mà phóng ào ra khỏi trực thăng, chạy thật nhanh đến ông, dìu tiếp sức giúp ông chạy nhanh hơn. Ông và tôi là hai người cuối cùng còn “đầu đội trời, chân đạp đất”, vừa chạm tay vào mép sàn trực thăng thì trên máy bay bao nhiêu cánh tay của các “thượng đế” đưa ra nắm lấy chúng tôi, người túm áo, người nắm vai, thậm chí còn có thượng đế dám nắm…cổ ông Tướng kéo lên.

      Trực thăng bốc lên ngay khi hai chân tôi còn đang tòng-teng phía ngoài, vài tràng súng bắn theo, tôi lạnh giò đúng nghĩa, nhưng khi đã an vị trên sàn thì tôi đưa tay vẫy vẫy chọc quê mấy cán binh cháu “bác”, giã từ vũ khí AK.
      Cùng lúc một bàn tay vỗ nhẹ vai tôi, tôi quay lại, ông Tướng mỉm cười nói:
      – Cám ơn em, em tên gì?

      ***

      Trực thăng của TL/SĐ TQLC đưa TL/SĐ1 BB và phi hành đoàn bị nạn về đến phi trường Đà Nẵng (SĐ/KQ) là Đại úy Đan cho quay trở về BTL/SĐ ở Non Nước ngay. Tôi chuẩn bị sẵn sàng chất gạo xấy lên máy bay cho chuyến tiếp tế thứ tư, nhưng khi anh Đan và tôi vừa nhẩy ra khỏi thì trực thăng bốc cao, tôi hỏi:
      – Trực thăng đi đâu vậy?
      – Đi đổ xăng. Anh Đan lắc đầu đáp gọn, giọng nói như nghẹn họng!

      Sau ba phi vụ tiếp tế, tôi không còn nhận được lệnh gì nữa, coi như chuyện bay ra Thuận An để thả những thùng gạo xấy xuống cho anh em nhai chấm dứt. Tôi xin nhấn mạnh chữ “nhai”, vì anh em có còn giọt nước nào đâu để đổ vào gạo xấy cho gạo sẽ thành cơm! Dù xung quanh các anh là những đầm nước, là đại dương mênh mông, vì người ta có thể uống nước tiểu chứ không thể uống nước biển.

      Quả thật LĐ147 đang chết “vì nước” trước biển cả! Nếu anh em ăn được cát thì đâu cần trực thăng tiếp tế lương thực! Không ăn được cát thì “cát ăn”, cá ăn kiến, kiến ăn cá mà, đã có nhiều xác vùi vội vàng xuống cát vì không có tiếp tế! Chết vì không có trực thăng tiếp tế đạn dược, thuốc men, nước uống và lương thực dưới bầu trời đầy “chuồn chuồn” đang xuôi Nam!

      Dưới bầu trời đầy “chuồn chuồn” đang xuôi Nam!
      Vậy mà khi điều binh cuộc chiến “Tháng Ba buồn…hiu!” này, dưới tay Tướng ư lệnh có SĐ1/KQ và HQ Vùng 1 duyên hải đủ loại mà ngài lại quên sử dụng để yểm trợ hỏa lực và đạn được khiến LĐ147/TQLC thiếu đạn để bắn, anh em chúng tôi bèn dùng lựu đạn M26 để ôm nhau rút chốt! 35 năm sau hay 70 năm thì vẫn thắc mắc xuông vậy thôi chứ nào dám hỏi ai đâu!

      Ngay việc muốn hỏi Đại úy Đan sao không tiếp tục tiếp tế gạo xấy cho LĐ147 mà tôi còn không dám hỏi thì nói chi tới chuyện lấy “sào khều mặt trời”, dám thắc mắc với Trung tướng Tư lệnh Tiền phương QĐ1, tác giả “Hell In An Lộc - Lâm Quang Thi” rằng sao ông không cho lui binh theo QL1 mà lại điều quân ra bờ biển, bảo quân đi qua cầu phao ở cửa Tư Hiền, nhưng ngặt nỗi cầu phao thì không bắc mà những con thuyền (tàu) thì cũng “viễn xứ”! Thôi thì đành anh em ta ôm “em 26” (lựu đạn M26) vào lòng cho sướng!

      Đại tá Nguyễn Thành Trí, Tư lệnh Phó, chỉ huy lực lượng TQLC tại mặt trận Quảng Trị-Huế đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Tiền Phương Lâm Quang Thi như sau:
      – “Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi (Tướng Thi) chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó di chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây hải quân và công binh QĐ1 sẽ thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. LĐ468 TQLC từ đèo Hải Vân sẽ cử một đơn vị đến chiếm núi Vĩnh Phong để bảo vệ điểm vượt sông đồng thời làm thành phần tiếp đón. SĐ1/BB do tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục QL1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông (cửa Tư Hiền), song song cùng với cánh quân TQLC…”.

      Hay quá! Nhưng chỉ kẹt một sợi tóc là “cóc có” cầu phao nên SĐ1 tan hàng và LĐ147 TQLC bị đưa ra “pháp trường cát Thuận An”! Tại sao không có cầu phao? Câu trả lời thuộc về HQ vùng 1 và CB/QĐ1, cao hơn là Tư lệnh Tiền Phương?!

      Ngày 26-3-1975
      Phạm vi trú đóng của TL/SĐ yên lặng, mọi người làm việc bình thường, cái bình thường hình như không yên ổn. Tôi chỉ loanh quanh trong vị trí đóng quân, sẵn sàng xách máy chạy theo tư lệnh bất cứ lúc nào ông đi bay. Thỉnh thoảng tôi lên TOC (TTHQ/SĐ) để kiểm soát lại hệ thống liên lạc, mật hiệu, tần số xem có gì thay đổi hay không rồi trở về ngay chốn cũ “bến đò xưa”.

      Ngày 27-3-1975
      Tin LĐ147 bị hốt trọn gói, bị bắt hết (trừ một số thương binh đã được LCM vào bốc từ hôm trước) chỉ vì hết đạn và tàu HQ không vào đón theo kế hoạch lui binh Alfa khiến chúng tôi rụng rời tay chân. Tôi thực sự bàng hoàng sửng sốt, không tin là sự thật! Mới chỉ hôm qua hôm kia thôi, các anh còn cười đùa “vẫy tay chào nhau” với chúng tôi để đón những bịch gạo xấy. Cái kết thúc quá tàn nhẫn và đau thương!.

      Các anh còn đội ngũ đội hình vững vàng, còn đầy đủ cấp chỉ huy can trường luôn sát cánh cùng quân sĩ của mình, các anh vẫn còn đầy đủ hay dư thừa sự gan lì và kỷ luật của một đoàn quân luôn chiến thắng và chưa bao giờ chưa bao giờ biết lùi bước.

      Nhưng các anh lại thiếu đạn dược lương thực và đau đớn là bị bỏ rơi chỉ vì bờ biển “cạn” tàu không vào được! Các anh bị bắt chỉ vì cầu phao tại cửa Tư Hiền không được HQ và công binh thiết lập theo lệnh của Trung tướng Tư lệnh Tiền Phương (Lâm Quang Thi). Ai là người gây ra thảm họa này. Nếu tư lệnh tiền phương chọn lui binh theo QL1 thì chắc chắn không có thảm cảnh cá nằm trong rọ. Ai đã đơm LĐ147?

      Lữ đoàn 147/TQLC gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5 và 7 chính là những tiểu đoàn tái chiếm Cổ thành Quảng Trị thì nay những tiểu đoàn ấy lại bị bỏ rơi một cách khó hiểu.
      (Nguyễn Thế Thủy) - Nguyễn Thế Thủy là hạ sĩ quan Truyền Tin cho Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân.

      Lịch sử là gi`?
      Nhà sử học người Hy Lạp Halikamasseus sống ở thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Sau trận chiến Thermopylae, Ba Tư thắng Hy Lạp. ông thấy Ba Tư ca ngợi cuộc chiến thắng của mình đến mực độ…”ngu xuẩn” vì vậy ông gọi kẻ chiến thắng là…“ông tổ nói láo”. Qua tác phẩm Historical, ông viết chữ nghĩa hơn: “Lịch sử là gì? Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng”.

      ***

      – : Đến thế kỷ 20 sau Công nguyên, chuyện kể vẫn còn tiếp tục….

      Chuyện kể của kẻ chiến thắng
      Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói rằng chỉ trong 55 ngày mà chính quyền Sài Gòn tan rã là do họ liên tục phạm sai lầm chiến lược. Điều đáng nói, sự sai lầm đó ngày càng bị khoét sâu bởi những hành động của tướng Giáp. Đầu tiên là cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên của quân đội Sài Gòn đã được ông dự liệu từ trong bức điện ngày 13-3. Bởi thế, khi địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, quân ta đã phản ứng khá nhanh, khiến cuộc rút chạy của chúng trở thành một thảm họa quân sự. Toàn bộ Quân đoàn II của địch tan rã.

      Tình hình Tây Nguyên vừa tạm ổn, tướng Giáp liền điện cho tướng Dũng yêu cầu đưa quân xuống Nam bộ. Mục đích là không cho địch có cơ hội co cụm về phòng thủ ở ven Sài Gòn. Một lần nữa, ý định co cụm chiến lược của địch lại bị tướng Giáp chặn đứng ở Đà Nẵng. Vào ngày 22-3, khi quân ta đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 1 của Sài Gòn và bao vây Huế, tướng Giáp điện cho Quân đoàn 2 bịt cửa biển Thuận An không cho địch rút vào phía trong theo đường biển. Trung đoàn 1 Sư đoàn 324 lập tức hành quân, khiến hàng ngàn quân địch hoảng loạn tan vỡ vứt bỏ súng ống, xe pháo trên một đoạn đường dài từ thành phố Huế xuống cửa Thuận An.

      Trong cuộc họp Bộ chính trị và Quân ủy trung ương ngày 24-3, ông phân tích: “Nếu chúng thoát được vào phía nam thì cuộc Tổng tiến công của ta sẽ gặp khó khăn. Vậy ta cần nhanh chóng đánh chiếm Đà Nẵng, tiêu diệt sinh lực địch ở đây. Chúng có thể “tử thủ”, có thể rút, rút nhanh hay rút chậm, nhưng ta thì phải chuẩn bị đánh trong tình huống địch rút nhanh, nhất thiết phải đánh nhanh. Không chờ giải phóng xong Huế, mà ngay từ bây giờ, phải bắt đầu mở cuộc tiến công Đà Nẵng. Diễn biến trận Đà Nẵng sau đó, quân ta chỉ chuẩn bị trong 3 ngày nhưng đã nhanh chóng giải phóng thành phố lớn thứ 2 miền Nam”. Đáng chú ý là với những chỉ đạo của tướng Giáp, toàn bộ Quân đoàn I của địch tan rã bị loại khỏi vòng chiến, số thoát vào tuyến trong không đáng kể. Điều đó tạo thuận lợi cho chiến dịch cuối cùng giải phóng Sài Gòn.
      (Trần Vũ)

      Ngày thứ 11 : 20-3-1975 - Huế di tản
      Ngày 20-3, Bắc quân tung một trung đoàn đánh vào quận Phú Lộc ở cực nam Thừa Thiên địa hình dọc theo Quốc lộ 1. Để ngăn chận cuộc tấn công, Sư đoàn 1 BB đã điều động Trung đoàn 1 đang ở gần đó đến giải tỏa áp lực của địch quân. Trong ngày này, với sự yểm trợ tối đa của Pháo Binh và Không Quân, Bắc quân bị đẩy lùi ra khỏi một số vị trí trong một thời gian ngắn,

      Giao tranh kéo dài từ chiều ngày 21 đến trưa ngày 22-3.

      Ngày 22-3, 1 giờ chiều, Bắc quân điều động thêm 2 trung đoàn tung vào trận chiến và gia tăng pháo kích. Pháo bắn tới tấp vào khu vực quân trú phòng, sau đó xung phong biển người.

      2 giờ chiều cùng ngày, Liên đoàn 15 BĐQ và Trung đoàn 1 BB đã phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Người dân Huế di tản, nhưng đoạn đường Huế-Đà Nẵng trên Quốc lộ 1 bị Bắc quân cắt đứt, Bắc quân lập chốt chận tại Đá Bạc cách Huế 30 km về phía nam và cách Đà Nẵng 70 km.

      – : Lực lượng Bắc quân tại Quân khu I (VNCH) chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy.

      Bên lề trận chiến
      Ngày 21-3, trong khi quân đội miền Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải thì Polgar thuyết phục Tổng Thống Thiệu tái tổ chức, và không ngừng mời Đặng Văn Quang, Nguyễn Khắc Bình, Hoàng Đức Nhã dùng cơm để bàn việc.

      Ngày 22-3, Polgar cho Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang xem các tấm ảnh chụp từ trên không cảnh rút quân hỗn loạn của quân đội VNCH trên đường Pleiku-Phú Bổn. Ngày hôm sau, Quang trình các tấm ảnh đó cho Thiệu xem.

      Chủ nhật 23-3, Polgar báo cáo về Washington: Hà Nội đang thắng lớn, miền Nam đang thua đậm! Polgar cho biết Hà Nội đã đưa 5 sư đoàn trừ bị (có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam, bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley (Phó Đại Sứ) thông báo cho Ngoại trưởng Kissinger và Bộ trưởng Quốc Phòng Schlesinger rằng theo nhận xét của ông: Miền Nam đang sụp đổ.
      (Decent Interval – Frank Snepp)

      Ngày thứ 12 : 21-3-75 - Đèo Hải Vân


      Ngày 21-3, nguyên gia đình bị Bắc quân bắn chết ở Quốc lộ 1 gần đèo Hải Vân đang trên đường di tản.


      Ngày 21-3, Bắc quân cắt đứt Quốc lộ 1 ở Truồi, giữa Huế và Đà Nẳng. Bắc quân đống chốt ở đèo Phú Gia, có nhiều người dân di tản trên đoạn đường này bị chết. Dân chúng di tản trên Quốc lộ 1 từ Huế hướng về Đà Nẵng và Bắc quân đả pháo kích trúng những vào những người dân đang di tản họ chết nằm bên lề đường, người sống bị thương nằm, ngồi la liệt .

      Góp nhặt…ghi chép…
      Ngày 22-3-1975, suốt buổi sáng Trưởng nói chuyện với Thiệu báo tin thảm hại.
      Huế bị bao vây, Sư đoàn 1 đang nguy khốn. Ông không còn lực lượng để mở đường trên Quốc lộ 1, phía nam Huế, ở đây quân Bắc Việt Nam chắc chắn có hai sư đoàn (Sư đoàn 324 và 325). Ông phải bắt đầu cho tản cư ra bờ biển những người còn lại của Sư đoàn 1. Còn có thể giữ Huế một thời gian ngắn nữa, nhưng với giá thật đắt. Phải hy sinh một phần Sư đoàn 1.

      Thiệu không phản đối gì. Thiệu chỉ còn một biện pháp: Cho sư đoàn dù ra tiếp viện nhưng còn an ninh của Sài Gòn nên ông ta để mặc Trưởng hành động. Giữa chiều, chỉ còn một đơn vị duy nhất, Lữ đoàn 147 TQLC, đóng tại một vị trí ở phía bắc Huế. Trường không muốn hy sinh đơn vị này vì đó là một đơn vị thiện chiến! Ông ta ra lệnh cho rút tất cả các đơn vị còn ở chung quanh Huế, TQLC cũng như lính của Sư đoàn 1 đang chạy rải rác.
      (Decent Interval – Frank Snepp)

      Bên lề trận chiến
      Ban Mê Thuột mất, và Pleiku, Kontum bỏ ngỏ để di tản vào ngày 16-3-75. Vùng 1 và Tướng Trưởng chờ một quyết định tối hậu từ Sài Gòn: Tử thủ hay rút quân về những cứ điểm để phòng ngự. Ngày 13-3, Sài Gòn gọi Tướng Trướng về để duyệt xét lại kế hoạch phòng ngự Vùng 1. Trong buổi họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng phải giữ Vùng 1 với số quân cơ hữu của Quân đoàn và Sư đoàn TQLC. Trong buổi họp, Tướng Trưởng biết Quân đoàn I phải “trả” Sư đoàn Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Trưởng xin Tổng Thống Thiệu cho ông giữ lại Sư đoàn TQLC để dân quân có được tinh thần.

      Trước mặt ông, Tổng Thống Thiệu cho ông tùy nghi xử dụng TQLC, chỉ trả sư đoàn Dù lại mà thôi. Nh­ưng sau buổi họp, trong lúc nói chuyện riêng giữa ông và thủ tướng Khiêm…Ông Khiêm nói hé cho Tướng Trưởng hay là Sài Gòn có thể lấy TQLC ra khỏi Vùng 1.

      (Nguyễn Kỳ Phong)
      Last edited by KiwiTeTua; 10-07-2016, 08:33 AM.

      Comment


      • #4
        Chương 5

        Ngày thứ 13 : 22-3-1975
        Trận địa từ Huế tới Đà Nẵng

        Kịch chiến trên Quốc lộ 1 đoạn từ Huế đi Đà Nẵng từ 20 đến 23-3-1975.
        Ngày 22-3, để ngăn chận cuộc di tản chiến thuật của Sư đoàn 1 BB và các lực lượng phòng thủ Huế có thể xảy ra và với ý đồ cô lập Huế, Sư đoàn 324 và 325 chận đánh Sư đoàn 1 BB phía Nam Huế.

        Ngày 23-3-1975
        Viên đến gặp Thiệu vào buổi sáng ở dinh tổng thống, báo cho Thiệu biết những tin cuối cùng về Huế. Sư đoàn 1 đã hoàn toàn tan rã. Một giờ sau, Trưởng công nhận sự thật ấy bằng radio. Ông nói thêm Huế không thể chống đỡ được quá một ngày. Để giảm bớt sự đổ máu, ông ta xin phép bỏ ngay thành phố. Khi Thiệu nghe tin ấy, ông ta nổi giận lôi đình hơn bao giờ hết. Đi lại trong phòng làm việc, giữa các cố vấn, ông lên án tư lệnh Quân khu 1 phải chịu trách nhiệm về sự tan rã của Sư đoàn 1, sẽ bị nghiêm phạt.
        Nhưng tất cả chuyện đó chỉ là đóng kịch. Thiệu biết rõ rằng mặc dù ông ta hy vọng không xảy ra,phải bỏ Huế ngay tức khắc.
        (Decent Interval – Frank Snepp)

        Trận địa từ Huế tới Đà Nẵng
        Ngày 23-3-1975, Trung đoàn 51 BB còn đóng ở cây số 17 và các trung đoàn khác vẫn còn tại các căn cứ đóng quân của mình, nhưng qua ngày 24-3 thì…mạnh ai nấy chạy! Dân chúng và quân lính chen nhau tìm đường thoát nạn không còn hàng ngũ, không còn trật tự. Thậm chí còn bắn nhau để dành đường.

        Ngày 24-3, Bắc quân đánh Truồi, Đá Bạc, khiến cho quân và dân chạy đến đây thêm rối loạn. Cũng ngày 24-3, Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, tư lệnh phó QĐ 1 dùng trực thăng bay ra Huế để quan sát tình hình. Khi đến Thừa Lưu, thấy binh lính bên dưới chạy hỗn loạn liền cho trực thăng đáp xuống và hỏi thuộc cấp là lệnh của ai cho rời đơn vị thì không ai trả lời được.
        (Lê Hùng)

        Bên lề trận chiến
        Đại tướng Viên cho biết: Sau khi nhận chỉ thị của tổng thống, trung tướng Trưởng trở về Đà Nẵng trong ngày 19-3. Suốt trong 6 ngày tiếp theo, dù tình hình Quân khu I trở nên rất đáng ngại, nhưng trung tướng Trưởng vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu I. Sau khi suy nghĩ và phân tích tình hình, tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt trình bày ý kiến với đại tướng Viên nhờ xin với tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng tổng thống chấp thuận. Được sự đồng ý của tổng thống, trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh tiền phương quân đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững.

        Thế nhưng ngay chiều hôm đó, khi trở lại Đà Nẵng, tướng Trưởng nhận được mật lệnh do đại tướng Viên ký thừa lệnh tổng thống là…phải bỏ Huế.

        Ngày thứ 14 : 23-3-1975
        Trận chiến Huế

        Sáng ngày 23-3, Trung đoàn 1 BB và Liên đoàn 15 BĐQ kịch chiến với Bắc quân trên Quốc lộ 1, thì tại Huế, Bắc quân bắt đầu tấn công một số vị trí trong thành phố Huế và vòng đai phụ cận.

        Chiều 23-3, Trung tướng Ngô Quang Trưởng gọi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh Sư đoàn 1 BB vào Đà Nẳng để duyệt xét lại tình hình phòng thủ Huế. Cuối cùng, trung tướng Trưởng buồn bã nói với tướng Điềm: Thôi đành phải cho rút khỏi Huế vậy.

        Tướng Điềm trở lại Huế ngay chiều 23-3. Khi vừa ra khỏi văn phòng trung tướng Trưởng để ra trực thăng, ông gặp Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh thủy quân lục chiến. Tướng Lân cũng được tướng Trưởng mời đến để thông báo về việc rút quân khỏi Huế. Theo lời tướng Lân kể lại khi vào gặp tướng Trưởng, vị tư lệnh Quân đoàn I đã nói ngay cho tướng Lân biết là ông đã cho lệnh bỏ Huế theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Lân bàng hoàng khi nghe tin này và hỏi lại tướng Trưởng: Khi nào chúng ta sẽ rút khỏi Huế? Tướng Trưởng nghẹn ngào nói: "Đêm nay". Rồi thôi, hai vị tướng nhìn nhau…

        Huế lọt vào tay địch ngay đêm 23-3-2975.
        – : Phát ngôn viên chính phủ (Nguyễn Văn Hiền?) tuyên bố Huế thất thủ ngày…25-3-1975.

        Bên lề trận chiến
        Nói những ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong hồi ký, luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có phần khó hiểu. Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên cớ rõ rệt.

        Sau cái lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi phó hội với CINPAC về, trong bữa uống rượu ở vườn buổi chiều trước tư dinh của ông, khi được tôi hỏi ông đã thở dài nói chậm rải: Anh biết đấy, kỳ nầy mà địch tổng tấn công vào Vùng 1, Hoa Kỳ sẽ chẳng còn có thể yểm trợ mình về hải pháo hay phi cơ của hạm đội. Khi đó đương nhiên mình phải tự lực cánh sinh chiến đấu với những gì mình có và với tình trạng tiếp vận giảm sút đến gần 80% so với thời kỳ chưa ký hiệp định Paris. Sau đó chúng tôi đã ngồi lẳng lặng uống rượu tiếp và cũng chẳng trao đổi với nhau lời nào cả nửa tiếng đồng hồ.

        Khi Đại tướng Trần Thiện Khiêm kiêm thủ tướng tới họp tại tiểu khu Quảng Trị, ông đã quay sang nói một câu ngắn ngủi với đại tá Kỳ, tỉnh trưởng Quảng Trị (1): Anh Kỳ hãy lo đưa tòa hành chánh và dân Quãng Trị di tản vào Huế. Một quyết định đã có sẵn và được ban bố không một lời giải thích về nguyên nhân chiến lược xâu kín và áp lực của địch, đã nổ ra như một tiếng sấm động trong một ngày trời đang quang đãng. Cả một hội trường, từ cấp cao đến cấp thấp đều ngồi lặng đi, trước viễn tượng của một thảm họa, vì trong thâm tâm, ai cũng có một ý nghĩ thế là đúng rồi: Trung ương đã quyết định rút quân ra khỏi Vùng 1 và như vậy là bỏ Vùng 1.
        (Những ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam – Duy Lam)

        (1) Tỉnh trưởng Quảng Trị trước đó là Đại tá Hà Mai Việt. Ông là đồng tác giả với Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, tư lệnh phó Quân đoàn I qua tác phẩm Nam Việt Nam 1954-1975.
        Cuối tháng 3-1975, Thiếu tướng Tư lệnh phó Quân đoàn I đi công tác vài ngày ở Saigon rồi...
        Xem Can trường trong chiến bại của Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ở phần dưới.


        Góp nhặt…ghi chép…
        Ngày 19-3, tướng Trưởng về Sài Gòn họp lần thứ hai, trình bầy hai kế hoạch lui binh:

        Kế hoạch Một:
        – Các đơn vị sẽ theo Quốc lộ 1 từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ 1 bị cắt thì sẽ theo Kế hoạch Hai.

        Kế hoạch Hai:
        – Các lực lượng quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng, tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch.

        Tướng Viên cho rằng kế hoạch của tướng Trưởng là hợp lý: Kế hoạch lui quân của Quân đoàn I soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Kế hoạch Hai dự trù các đơn vị của Quân đoàn I rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc.
        (Trọng Đạt)

        Quảng Trị – Huế – Đà Nẵng
        Lữ Đoàn 258 TQLC di chuyển từ Quảng Trị tới đèo Phước Tượng, nằm giữa Huế-Đà Nẵng với nhiệm vụ rõ ràng: Bảo vệ lưu thông trên QL1. Chờ đợi và bảo vệ đạo quân tiền phương QĐ1 rút từ Huế-Quảng Trị về Đà Nẵng.

        Từ ngày 18-3 đến ngày 23-3-1975 dân tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy đường chạy về Đà Nẵng, quân Bắc Việt muốn tái diễn một “Đại lộ kinh hoàng” năm 1972, nhưng thất bại vì phía tây QL1 có quân ta bố trí, chúng không thể tới gần QL1, mà chúng chỉ dùng đại bác đặt trong núi Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng đa số đạn đại bác đã nổ trên vách núi hai bên QL1.

        Sáng ngày 25-3, LĐ258 TQLC được lệnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng rút về Đà Nẵng, LĐ15 BĐQ đóng bên cạnh LĐ258 TQLC chia làm hai, một phần đi hướng bắc về Huế an toàn, còn một phần đi theo TQLC về phía nam, đi qua Phú Lộc. Sau khi qua Phú Lộc, được xe quân vận chở về Đà Nẵng an toàn cùng ngày…
        (Phạm Vũ Bằng)

        Góp nhặt…ghi chép…
        Sau khi Quảng Trị và Huế bị bỏ ngõ, Quảng Tín và Quảng Ngãi thất thủ, Đà Nẵng đang bị những gọng kềm sau đây siết chặt: Sư đoàn 324, Sư đoàn 325 cùng với vài thành phần của Sư đoàn 304 từ Quảng Trị kéo quân về Nam.
        Đồng thời Sư đoàn 2, Lữ đoàn 52 (thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên hay Quân khu 5) từ Quảng Tín và Quảng Ngãi xua quân lên hướng Bắc.
        (Wikipedia)

        Huế – Chu Lai – Đà Nẵng
        Ngày hôm sau, 20-3, Tổng thống Thiệu lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng tối đêm đó, ông Thiêu đôi ý: Ông ra lệnh cho bộ Tổng Tham mưu đánh cho Tướng Trưởng một quân lệnh, cho biết Sài Gòn chỉ còn đủ phương tiện để yểm trợ cho 1 trong 3 cứ điểm kháng cự. Trong 3 cứ điểm Huế, Chu Lai, Đà Nẵng, tướng Trường phải chọn một. Dĩ nhiên, Đà Nẵng phải là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng ra lệnh di tản về Đà Nẵng.

        Đại tướng Frederick Weyand, đang là Tư lệnh Lục quân Hoa Kỳ, trong tờ tường trình cho tổng thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt Nam cuối tháng 3-75, cũng cho biết trong tuần lễ đó, Tướng Trưởng đã nhận 3 quân lệnh trái ngược nhau từ Tổng thống Thiệu.
        (Nguyễn Kỳ Phong)

        Đà Nẵng di tản
        Ngày 25-3, trong hoàn cảnh hỗn loạn của Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận thêm một tin không vui từ Sài Gòn: Đích thân Trung tướng Lê Nguyên Khang đang là Tổng Tham mưu phó bay ra Đà Năng đưa cho Tướng Trưởng một quân lệnh yêu câu ông trả lại sư đoàn TQLC ngay lập tức.

        Ngày 27-3, khoảng 9 giờ đêm, ông gọi tướng Viên báo cáo tình hình và yêu cầu cho phép ông di tản sư đoàn TQLC và những trung đoàn còn lại của Sư đoàn 1 và 3. Tướng Viên nói đó là quyết định của tổng thống Thiệu. Tướng Trưởng gọi dinh Độc Lập, nhưng tổng thống Thiệu không có mặt. 10 giờ đêm tổng thống Thiệu gọi lại …sau khi nghe tướng Trưởng báo cáo tình hình, ông Thiệu hỏi tướng Trưởng sẽ giải quyết rạ sao. Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự biến chuyên của tình hình. Tổng thống Thiệu cúp điện thoại.

        Ngày 27-3, vài phút sau đó, tướng Trưởng ra lệnh di tản khỏi Đà Nẵng.

        Nhưng không, đến đó không còn di tản nữa. Vì chữ di tản có chứa đựng một khái niệm về sự thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Địch đã cắt nát Quốc lộ 1 ra từng đoạn và đang dùng pháo binh để hăm dọa các cửa khẩu từ biển đi vào bờ. Đến giờ phút dó, chữ bỏ ngõ có nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di tản.
        Ngày 29-3, Đà Nẵng và Vùng 1 mất hai ngày sau đó…
        (Nguyễn Kỳ Phong)

        Ngày thứ 15 : 24-3-1975
        Tam Kỳ


        Ngày 24-3, đặc công đột nhập vào Tam Kỳ (thuộc Quảng Nam).

        Tiếp đến Hội An, Chu Lai (thuộc Quảng Nam). Địa giới tận cùng của Vùng 1 chiến thuật là Quảng Ngải sau đó cũng rơi vào tay Bắc quân.
        Quảng Ngải mất ngày 29-3-1975.
        (Wikipedia)

        Tam Kỳ trong mắt bão
        Tam Kỳ trở thành chiến trường đẫm máu. Địch tung lực lượng hùng hậu nhất của Quân khu 5 là Sư đoàn 2 Bắc quân với nòng cốt là Trung đoàn 31 và 38, cộng với Lữ đoàn 52 cùng một tiểu đoàn đặc công tăng cường.

        Hai ngày 21 và 22-3-1975, cường độ giao tranh tại Quảng Tín đã lên đến cực điểm. Trong khi đó yểm trợ không quân bị hạn chế. Chỉ riêng pháo đội (4 khẩu 105 ly) của Liên đoàn 12 BĐQ vừa nhận tiếp tế ngày 22-3 thì buổi tối hôm đó đã gọi về bộ chỉ huy liên đoàn xin thêm đạn. Bộ tư lệnh tiền phương của Sư đoàn 2 BB (1) cũng rối rắm không kém khi ban 4 của LĐ12 BĐQ vào tận bản doanh để xin thêm đạn dược các loại. Mang tiếng là tăng phái cho Sư đoàn 2 BB nhưng phòng 4 của sư đoàn cũng rất công bằng trong việc phân phối tiếp liệu phẩm các loại, nhất là đạn dược cho BĐQ. Nhưng phải nói là cả hai đơn vị đang “đồng cam cộng khổ” vì tiếp liệu thì như mưa rào tưới ruộng khô, mà nhu cầu chiến trường thì đang bước vào giai đoạn xả láng của một canh bạc. Thật là buồn lòng khi mọi thứ đều phải tiết kiệm. Từng đơn vị của Sư đoàn 2 BB và BĐQ lần lượt bể tuyến.

        Chủ nhật, 23-3, địch bày thế trận, chọn sân chơi. Ta lâm vào thế bị động ngay từ phút đầu lâm chiến. Địch chiếm đâu, giữ đó. Ta cạn láng lần hồi. Đất thuộc về người dân cùng đường lánh nạn nên một số phải ở lại nơi chôn nhau cắt rốn vì không thể theo chân của lính.

        Trên đường lui quân vội vã, đã có nhiều tử sĩ phải nằm lại trên tuyến đầu. Trong giờ phút quyết liệt nhất của chiến trận, sự di tản của toàn thể thương binh đã là một cố gắng tột cùng của các đơn vị. Việc bỏ lại đồng đội các cấp tại mặt trận là việc chẳng đặng đừng, đó là chưa nói đến việc kêu gọi bỏ bom pháo binh ngay trên hố chiến đấu trong khi đã “cài răng lược” với quân địch. Sự quyết chiến và quyết tử này của Tiểu đoàn 2/5/SĐ2 BB đã chận đứng sự di chuyển của Bắc quân trong đêm 22-3. Nhờ đó mới có cơ hội chỉnh đốn lại đơn vị và dàn trận tuyến mới, chỉ cách Tam Kỳ chừng hơn một tầm đạn hiệu quả của súng cối 61 ly.
        (Hùynh Văn Của)

        (1) Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh SĐ 2 đối đầu với sư đoàn của địch cùng tên là Sư đoàn 2 thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên.

        Một cơn gió bụi
        Trung tá Nguyển Văn An, Liên đoàn Trưởng Liên đoàn 12 BĐQ tử trận ngày 29-3-1975.

        Ngày 23-3-1975, bỗng dưng tiếng súng vang trời từ hai tuần qua thưa dần rồi im hẳn vào buổi xế trưa. Các đơn vị tham chiến hối hả chấn chỉnh nhân lực. Việc tái phối trí cũng như di chuyển thương binh được thực hiện trong tình trạng khẩn cấp. Chỉ đáng buồn hơn hết là đạn dược đã cạn. Sau mấy ngày căng thẳng vừa qua, ai cũng đau lòng vì chuyện đánh đấm mà phải dè xẻn, tính toán!. Người lính VNCH chưa bao giờ lâm vào tình trạng bi đát như lúc này: Phi pháo đều hạn chế vì không phải chỉ có Quảng Tín mà toàn cõi quân khu từ Quảng Trị vào tới Quảng Ngãi đều có nhu cầu ngang nhau. Thì cũng đành tới đâu hay tới đó. Lính mà em!

        Chiến trường lắng dịu không có nghĩa là tình hình đã yên ổn. Trong hoàn cảnh của Tam Kỳ chiều nay thì câu hỏi lảng vảng trong đầu mọi người là đối phương đang toan tính những gì. Địch cũng đang gom quân chuẩn bị cho cú tắp dứt điểm, hay đang say men chiến thắng và chỉ lo vơ vét chiến lợi phẩm, hoặc bận khoác lác với người dân hôm qua còn thuộc quốc gia, bây giờ đã nằm trong sự cai trị của nón cối và dép râu. Tam Kỳ đang sinh hoạt trong tình trạng người dân đã bỏ đi quá nửa. Trên gương mặt của từng người còn ở lại là nỗi bất an mặc dù quán xá vẫn bán buôn như thường lệ. Lính vẫn còn đây, dân chưa tuyệt vọng.

        Chiều nay yên lắng nhưng ngày mai sẽ ra sao?! Tam Kỳ đang hồi hộp từng giờ và không khí ngộp thở không khác gì đang ở ngay trong mắt bão. Sự yên lặng rợn người trước khi cuồng nộ bủa vây càng chùng xuống khi hoàng hôn gác núi. Bóng tối dày đặc hơn thường lệ vì đã có nhiều nhà trống, sân không, và phố xá thưa thớt xe cộ. Đêm lại về trong đặc quánh thinh không. Đêm dài nhất của Tam Kỳ (1) đang bắt đầu với câu hỏi: Rồi mai sẽ ra sao?!

        Câu trả lời chỉ biết dành cho định mệnh!
        (Hùynh Văn Của)

        (1) Tam Kỳ mất ngày 29-3.


        Góp nhặt…ghi chép…
        Ngày 26-3, Polgar báo cáo tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không còn nữa sau vụ rút khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ vận động Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp.

        Ngoại trừ có áp lực quân sự như Mỹ lợi dụng miền Bắc đang bỏ trống. (1)
        (1) Theo những nguồn ở trên, Bắc Việt chỉ còn 2 sư đoàn trong số 7 sư đoàn tổng trừ bị trên toàn cõi miền Bắc đóng quân ở Thanh Hoá. Nhưng theo tướng Võ Nguyên Giáp chỉ có (1) một sư đoàn duy nhất là Sư đoàn 308 ở Hà Tây để bảo vệ Hà Nội .

        Góp nhặt sỏi đá...
        Sau khi Bộ chính trị và Quân ủy nhất trí “giải phóng miền Nam năm 75”, tướng Giáp đi Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn 1, quân đoàn cuối cùng của miền Bắc. Khi ấy Quần đoàn 1 đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ 1 hành quân vào Nam. Chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
        (Huy Đức – Quyền bính)

        Quân sử ngoại truyện
        Ngày 24-3, Bộ chính trị và Quân uỷ thông qua kế hoạch lập “Mặt trận Quảng Đà” lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh.

        Sáng 25-4, Tấn cùng bộ phận chiến dịch đi máy bay vào Quảng Bình, sau đó chuyển tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ tư lệnh 475 theo đường 72 ra Động Truồi định để chỉ huy đánh Huế và Đà Nẵng. Nhưng giữa đường được tin quân ta đã giải phóng Huế vào ngày 25-3.

        Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn 1 được lệnh quay ngược về lại Quảng Trị. Chuyển trục hành quân từ Quốc lộ 1 sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với 1053 xe pháo các loại rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
        (Huy Đức – Quyền bính)

        Chu Lai – Quảng Ngải
        Ngày 29-3 ở Chu Lai và Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 (1) không còn có thề coi là một đơn vị chiến đấu. Binh lính và dân chúng vật lộn với những tàu đánh cá để ra khơi. Quá trưa, thị xã Quảng Ngãi và căn cứ không quân Chu Lai không còn gì để bảo vệ nên tự thất thủ.

        Khi tướng Dũng được tin ấy, ông không nén được xúc động, ông viết trong hồi ký: Tôi châm lửa vào điếu thuốc. Tôi đã “cai” thuốc từ lâu, nhưng mỗi lần giải quyết được một vấn đề gì gai góc, giành được một thắng lợi gì lớn, được tin một chiến thắng thì hút một điếu cho vui.

        Sự vui mừng của ông không ngăn cản ông chuẩn bị cho cuộc tấn công mới: Đà Nẵng.

        Ông ở quá xa mặt trận Quân khu 2 (tức Quân khu 1 VNCH) để có thể trực tiếp chỉ huy, nhưng ông có những ý kiến rõ ràng về cách điều khiển chiến dịch. Ông đề nghị với Hà Nội (2) để tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu phó quân đội Bắc Việt làm tư lệnh mặt trận Đà Nẵng.

        Bộ chính trị chấp nhận. Tướng Tấn rời Hà Nội bằng máy bay trực thăng, đặt sở chỉ huy ở phía tây Đà Nẵng. Những sư đoàn quân Bắc Việt của tướng Lê Trọng Tấn lúc này ở cách Đà Nẵng 3 cây số. Thành phố đã bị bắn phá dữ dội.
        Mấy giờ trước họ đã chiếm Hội An. Đó là thị xã thứ 13 Bắc quân chiếm được từ ngày họ mở chiến dịch Đông-Xuân.
        (Decent Interval – Frank Snepp)

        (1) Tư lệnh Sư đoàn 3 là Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
        (2) Từ Tổng hành dinh do tướng Giáp chỉ huy ở Hà Nội, tháng 3-1975, tướng Lê Trọng Tấn đã được tướng Giáp cử chỉ huy mặt trận Quảng Đà (Quảng Trị-Đà Nẵng).


        Sử lịch với ngày tháng
        Ông Dương Văn Minh giúp cho Mỹ rút ra khỏi Việt Nam ngày 29-4-1975 khi ông thay ông Hương. (trước đó một tháng, ngày 29-3-175 Đà Nẵng thất thủ)

        Đúng 10 năm về trước, ông cũng đã gíúp cho Mỹ vào Việt Nam qua cửa ngõ Đà Nẵng (1) năm 1965 khi ông Minh lật đổ ông Diệm.
        (1) 10 năm về trước, trong buổi họp giữa tướng Dương Văn Minh và tướng Lâm Văn Phát với tướng Westmoreland và tướng Throckmorton mùa hè năm 1964 tại phi trường Đà Nẵng.

        Sau đó 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên (1.500 TQLC) đổ bộ lên Đà Nẵng: Ngày 8-3-1965.

        Quân sử ngoại truyện
        Tướng Lê Trọng Tấn là tư lệnh mặt trận Quảng Đà. Ngay khi chiến sự ở Quảng Trị còn đang tiếp diễn, Tấn đã gửi điện cho Quân đoàn 2 yêu cầu chuẩn bị hỏa lực đánh Đà Nẵng. Theo cuốn hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của Võ Nguyên Giáp, ngày 26-3-1975, tướng Tấn, tướng Cao Văn Khánh và một số sĩ quan cao cấp khác được triệu tập để bàn kế hoạch giải phóng Đà Nẵng. Dựa trên lực lượng địch dồn về Đà Nẵng, theo Lê Trọng Tấn: Thời gian chuẩn bị phải mất….5 ngày.

        Tuy nhiên lúc đó Võ Nguyên Giáp cho rằng khả năng địch tử thủ thật sự khó xảy ra nên ông lệnh cho cục quân báo nghiên cứu nếu địch rút Đà Nẵng thì rút nhanh nhất trong mấy ngày. Ngày 27-3 cục quân báo báo cáo khả năng địch rút khỏi Đà Nẵng nhanh nhất là trong 3 ngày. Võ Nguyên Giáp quyết định phải chuẩn bị phương án đánh trong 3 ngày phòng trường hợp địch rút vào phía trong. Cũng theo hồi ký của tướng Giáp, tướng Tấn viết:

        Đánh Đà Nẵng nên để cho tướng Nguyễn Hữu An đánh theo đường số 1 về Mỹ Khê (phía đông Đà Nẵng) bịt đường rút lui bằng đường thủy của địch.
        (Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – Võ Nguyên Giáp)

        – : Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm phó tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. (Hồi ký chiến trường – Nguyễn Hữu An)
        – : Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, Ông xin ý kiến Bộ chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn “điểm huyệt” vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng Hòa tại Buôn Ma Thuột. (Hồi ký chiến trường – Nguyễn Hữu An)

        Ngày thứ 16 : 25-3-1975
        Đà Nẵng di tản

        Ngày 21-3 đến 23-3, Bắc quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí phòng ngự của các đơn vị VNCH tại Huế,
        Ngày 25-3, các đơn vj VNCH tại Huế triệt thoái, rút về Đà Nãng.

        Ngày 28-3, tại Đà Nẵng, Trung tướng Ngô Quang Trưởng họp khẩn tại bộ tư lệnh quân đoàn. Nhiều biện pháp được gấp rút tái tổ chức các đơn vị các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín, Quảng Nam rút về. Màn đêm vừa buông xuống, Bắc quân kéo pháo 130 ly từ đèo Mũi Trâu để bắn vào phi trường, căn cứ hải quân. Một thành phần pháo binh khác từ hướng thung lũng Phước Tường cũng bắt đầu pháo kích vào bộ tư lệnh Quân đoàn I và nhiều căn cứ quân sự khác. Bắc quân cũng đã pháo kích dồn dập vào khu vực dân cư Đà Nẵng.
        (Trần Khiêm)

        Trần Khiêm, vào thời điểm này là phóng viên làm việc cho hãng truyền hình ABC, là phóng viên duy nhất còn sót lại tại Đà Nẵng vào những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975.

        Một buổi sáng mùa Thu có nắng vàng rực rỡ
        Một buổi sáng mùa Thu có nắng vàng rực rỡ, ba anh TQLC già ngồi nhâm nhi nước trà tại Factory Cafe là tôi, Trần Như Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn thấy một tờ báo cũ đăng bài “Tại Sao Tôi Bỏ QKI” mà tác giả là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia nhau đọc, Tướng Trưởng phủ nhận tất cả tội lỗi của các tướng lãnh QĐ1 bị kỷ luật và đổ tội làm mất QKI cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đọc xong tôi thắc mắc hỏi hai đồng đội:

        – Quân Đoàn I có quân số tương đương với địch, không đánh một trận nào cấp trung đoàn mà lại tan hàng chỉ trong có năm ngày, vậy mà không ai có lỗi?

        Cao Xuân Huy cười rồi nói:
        – Chỉ có mấy thằng lính là có tội thôi!

        Đây cũng là câu cuối cùng Cao Xuân Huy nói với tôi vì chỉ mấy tuần sau anh đã lên tàu suốt để trở về bãi biển Thuận An tìm lại khẩu súng đã bị gẫy tháng Ba năm 1975.
        (Viết cho mùa đại tang của binh chủng TQLC – Phạm Vũ Bằng)

        Chữ nghĩa của một thời chinh chiến trong quán nhậu
        Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
        Bastos : Biết anh sầu, tôi ôm sát.

        Góp nhặt…ghi chép…
        Tại Vùng 1 ngoài Quân đoàn 2 với 3 sư đoàn 304, 324, 325 Bắc quân còn có…

        – Vì không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn 1 (từ Ninh Bình kéo vào) được lệnh quay ngược về lại Quảng Trị theo đường Trường Sơn vào nam đánh Sài Gòn.
        – Sư đoàn 2 Bắc quân với nòng cốt là Trung đoàn 31 và 38, cộng với Lữ đoàn 52 cùng một tiểu đoàn đặc công tăng cường. Cánh quân này thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên (hay Quân khu 5) từ Quảng Tín và Quảng Ngãi xua quân lên hướng bắc đánh Đà Nẵng.
        – Khoảng tháng 3-1975, Trung đoàn đặc công 116, Lữ đoàn tăng 203 tăng cường 54 xe tăng đã vượt vĩ tuyến 17 qua sông Thạch Hãn, tiến vào Quảng Trị.

        Lạc đạn
        Năm 75, đại bác 130 ly của Liên Xô là súng hạng nhất trên thế giới, nhưng ưu thế pháo binh của Bắc quân thực tế không hẳn là đại bác 130 ly, mà là hỏa tiễn chiến thuật 122 ly và 107 ly (Katyusa). Trái hỏa tiễn 107 ly có thể bắn xa 6 cây số, 122 ly 9 cây số. Hỏa tiễn Katyusa rất tiện lợi đối với trận địa, trái đạn được đặt tại một vị trí mật, kích hoả tự động, khi trái đạn được bắn đi thì người bắn đã rời xa điểm đặt giàn phóng. Sau đó thì không còn gì nữa cả.

        Từ năm 1972, ta phát hiện Bắc quân trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Loại hỏa tiễn này rất gọn nhẹ, ống phóng có cỡ nòng 57 ly được người xạ thủ vác trên vai, khi xạ thủ bấm cò thì trái hỏa tiễn rời ống phóng đi với tốc độ 1,25 lần âm thanh. Do đó máy bay với tốc độ dưới tốc độ âm thanh sẽ bị hỏa tiễn dò theo luồng hơi nóng rượt theo và phát nổ trong ống xả khói máy bay.

        Vì sao tôi bỏ Quân đoàn I(…)
        Ngày 13-3-1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi (Ngô Quang Trưởng) vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường sư đoàn dù cùng với thủy quân lục chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn I càng sớm càng hay. (…)
        (Lê Bá Chư)

        Can trường trong chiến bại
        Qua tác phẩm Can trường trong chiến bại, dường như tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại là người đầu tiên đề cập rất chi tiết đến biến cố cách đây 32 năm tại miền Nam Việt Nam trong tác phẩm của mình, một biến cố làm tê liệt một cách vô lý những bộ phận chỉ huy của những binh chủng trong một thời gian đủ nguy hiểm cho việc phòng vệ Vùng 1 chiến thuật. Cái khéo của cựu Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là ông tường thuật ngắn gọn và mạch lạc và loại bỏ được cảm tính của chính ông đối với các sự kiện, theo lối ghi nhận của ông.
        Ông đã để cho người đọc tự tìm lấy kết luận của họ.

        Cách đây 32 năm, tôi cho rằng vào thời điểm chênh vênh đó một phần lớn là do tình hình quân sự biến đổi khá nhanh. Sự thất thủ Phước Long, rồi một chuỗi những sai lầm của vị tổng tư lệnh quân đội đương thời là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi ông ra lệnh cho Quân đoàn II và Quân đoàn I rút lui khỏi Pleiku, Kontum và Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng đã khiến các con cờ domino lần lượt ngã theo.

        Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã để từ trang 197 đến những trang cuối của cuốn sách để mô tả tình hình rối loạn trong vùng trách nhiệm của ông: Vùng 1 duyên hải. Biến cố ở Quân đoàn I trước khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Hà Nội đã được nói tới nhiều, nhưng phần đông tác giả viết hồi ký chỉ lục tìm đống dữ kiện liên quan để mong đưa ra những huyền thoại. Ngoại trừ Hồ Văn Kỳ Thoại, chưa có tác giả nào chịu khó lục săn đuổi, hệ thống hóa và để mắt sâu vào chi tiết hiện thực của tình hình lúc đó ở Vùng 1 chiến thuật. Tuy nhiên, cũng chính vì lối làm việc kỷ luật, tỷ mỉ và kiên nhẫn dựa trên nhật ký hải hành, những điều ông viết ra có thể làm cho một số nhân vật được nêu tên không hài lòng, nhưng tác giả cho rằng ông cần phải trả sự thật về cho lịch sử. Lịch sử có tiếng nói riêng của nó. Chính trong dữ kiện mà tác giả đề cập trong tác phẩm, người đọc có thể tìm thấy nhiều con người còn trái tim nồng ấm với đất nước và ngay cạnh đó không thiếu những người vì quyền lực, công danh dễ biến thành tượng đá.
        (Vũ Ánh)

        Bên lề trận chiến
        Tướng Trưởng rất ít nói, chính bà Trưởng cũng cho tôi biết ông chưa bao giờ viết bài báo nào. Mới đây, sau tang lễ tướng Trưởng, tôi hỏi bà về bài báo “Tại sao tôi bỏ Quân đoàn I” có phải ông viết không? Bà Trưởng cho biết bài đó không phải của tướng Trưởng!

        Bà cho biết bài đó do nhà báo Lê Bá Chư ở Washington D.C. viết rồi đề tên tướng Trưởng vào. Bà tiếp: “Sau khi bài đó được đăng (1), ông Lê Bá Chư đã viết thư xin lỗi tướng Trưởng.
        Bà cho hay tiếp: “Lá thư chị còn giữ ở nhà đây này”.

        (Nguyễn Tường Tâm)

        Nguyễn Tường Tâm là con Nguyễn Tường Cẩm, bà Trưởng con Thạch Lam.
        (1) Ông Lê Bá Chư đăng trong Tạp chí Sóng Thần 1999,
        kỷ niệm 45 năm thành lập Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH.


        Can trường trong chiến bại
        Can trường trong chiến bại ở trang 248 và 249, tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại viết về giây phút trước khi tư lệnh Quân đoàn I, tướng Ngô Quang Trưởng rời bỏ chiến trường.

        “Tướng Thi (Lâm Quang Thi) đề nghị với tướng Trưởng cho ông ra một chiến hạm lớn để thành lập bộ chỉ huy hành quân lưu động cho Quân đoàn I. Tướng Trưởng chấp thuận. 10 giờ 45 phút (1) ngày 28-3, tướng Thi và đại tá Sơn rời căn cứ bằng trực thăng bay ra đáp trên dương vận hạm ngoài vịnh. Ðó là lần chót mà tướng Trưởng thấy mặt và nói chuyện với tướng Thi cho đến khi hai người gặp lại nhau tại Tổng y Viện Cộng Hòa ở Sài Gòn”

        Người đọc có cảm nhận gì khi đọc lại ghi nhận này? Tác giả bỏ ngỏ kết luận về những hồi tưởng của ông và để cho người đọc tác phẩm đưa ra những nhận định riêng của mình. Tướng Thoại tránh sự lên án và trách cứ. Ông lại càng không muốn hướng dẫn những suy nghĩ của độc giả vào những ý định, điều thường thấy trong rất nhiều cuốn hồi ký ra đời tại hải ngoại. Ðây chính là điểm lôi cuốn người đọc đi sâu vao những chi tiết nhiều khi rất nhỏ nhưng phản ảnh được tình hình thực sự ở Quân đoàn I lúc đó.

        Ðây, chúng ta hãy đọc một đoạn khác của hồi ký Can trường trong chiến bại:
        Trong lúc tướng Trưởng còn đang ngồi trong văn phòng tôi thì đại úy Bá, chánh văn phòng của tôi đi vào phòng và nói nhỏ vào tai tôi rằng có Thiếu tướng Bùi Thế Lân và đoàn tùy tùng hiện đang ở dưới ban quân xa của căn cứ hải quân Vùng 1. Tôi chỉ thị đại úy Bá mời tướng Lân vào văn phòng tôi. Vài phút sau đó, đại úy Bá trở vào văn phòng tôi nói Thiếu tướng Lân từ chối lời mời của tôi. Tướng Lân đã cho tham mưu trưởng của ông là Ðại tá Quế, người đã có mặt tại trung tâm hành quân của bộ tư lệnh Vùng 1 duyên hải từ cả tuần lễ trước để bảo đảm rằng hải quân không bỏ quên thủy quân lục chiến.

        Vài phút sau, tôi nhận được điện thoại của Chuẩn tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Vì quyết định bỏ Huế xảy ra quá đột ngột, tướng Ðiềm đã cho lệnh toàn bộ Sư đoàn 1 tan hàng. Tướng Ðiềm nói với tôi một cách tuyệt vọng: Anh Thoại, tôi đã mất hết sư đoàn, bây giờ chỉ còn gia đình tôi, vợ và mấy đứa con, tôi xin anh cho tôi gửi gia đình tôi nhờ anh lo hộ. Tôi nói với ông, cứ đưa gia đình qua căn cứ hải quân để gặp tôi. Ðộ một tiếng đồng hồ sau thì đại úy Bá vào văn phòng báo cáo là gia đình tướng Ðiềm đã vào căn cứ và hiện đang ở ban quân xa…(…)
        (1) Buổi họp của Quân đoàn I ở căn cứ hải quân Tiên Sa chấm dứt: 10 giờ 30 tối ngày 28-3.

        Vì sao tôi bỏ Quân đoàn I
        Hôm sau trong buổi họp tại Bộ tổng tham mưu, tôi có nói rằng: Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này. (…)
        (Lê Bá Chư)

        Can trường trong chiến bại
        Ở trang 247, tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại mô tả về buổi họp cuối cùng quyết định rút lui toàn diện quân lực VNCH ra khỏi Quân khu I. Quyết định này diễn ra trong hầm chỉ huy của bộ tư lệnh Vùng 1 Duyên Hải:

        Vì hầm chỉ huy chỉ chứa khoảng 10 người có thể làm việc được, nên tôi ra lệnh ngoài các tướng lãnh và Ðại tá Nguyễn Thế Lương (TQLC, bị thương), tất cả những sĩ quan khác phải sang hầm bên cạnh. Có mặt các Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi, Bùi Thế Lân, Nguyễn Duy Hinh và tôi. Vắng mặt trong buổi họp gồm Tướng Ðiềm Tư lệnh Sư đoàn 1 được Tướng Trưởng chỉ định làm Tổng trấn Ðà Nẵng đang ở tại đặc khu, Tướng Khánh, tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân không rõ ở đâu vì phi trường Ðà Nẵng đang bị pháo kích, Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc Tư lệnh Phó Quân khu I đi công tác vài ngày trước ở Saigon rồi ở lại đó luôn.

        Khi các tướng lãnh vào hầm xong, Trung tướng Trưởng tóm lược tình hình và chỉ thị như sau:

        – Thiếu tướng Bùi Thế Lân cho xuống tầu Lữ đoàn 468 TQLC đang đóng ở đèo Hải Vân vì vậy phải chuyển xuống Nam Ô đúng 6 giờ sáng hôm sau. Lữ đoàn 369 ở Ðại Lộc rút về để lên chiến hạm cùng Lữ đoàn 258 tại Non Nước.
        – Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh trở về Sư đoàn 3 BB sắp xếp việc rút sư đoàn về bố trí tại vùng Horseshoe gần Thu Bồn.

        Tướng Hinh rất ngạc nhiên, vì ông không nghĩ rằng ông được gọi đến để nhận lệnh rút quân vì thâm tâm ông nghĩ rằng sang họp là để bàn về việc phòng thủ Ðà Nẵng. Cho nên ông suy nghĩ một hồi lâu rồi nói: Xin trung tướng cho tôi 72 tiếng đồng hồ mới chuẩn bị kịp. Trung tướng Trưởng làm thinh. Các tướng lãnh khác chau mày để báo cho tướng Hinh biết là điều đó không thể được. Tướng Hinh mặc cả xuống còn 48 tiếng. Tướng Trưởng làm thinh. Sau cùng tướng Hinh xin 24 tiếng. Không ai nói gì hết.

        Tôi thấy bối rối quá, nên chỉ vắn tắt với thiếu tướng Hinh để ông hiểu rõ càng sớm càng tốt: Thiếu tướng hãy sắp xếp công việc sư đoàn rồi thiếu tướng cùng bộ tham mưu bay ra bãi Bắc lúc 4 giờ sáng mai, tôi sẽ cho tầu vô đón Thiếu tướng. Vị Tư lệnh Sư đoàn 3 BB nhìn tôi sững sờ biết là tình hình tuyệt vọng. Ông chào Tướng Trưởng và ra trực thăng về bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 ở Hòa Khánh.

        Phó đề Đốc Thoại ra lệnh cho các chiến hạm trực thuộc thi hành việc rút sư đoàn TQLC và phối trí yểm trợ bằng hỏa lực cần thiết cho việc rút quân này. Cuộc họp trong hầm chỉ huy tại căn cứ hải quân Tiên Sa chấm dứt vào lúc 10 giờ 30 ngày 28-3-1975…(…)

        Bên lề trận chiến
        Trong một cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho hay: Về đến Bộ Tổng Tham mưu, Trung tướng Trần văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng cho bắt nhốt tướng Phú, tướng Thi, tướng Thoại và tướng Khánh.

        Riêng Tướng Trưởng không bị nhốt như ông tự nguyện vào ở chung với các tướng trên.
        (Nguyễn Tường Tâm)

        Can trường trong chiến bại
        Sau cuộc họp tướng Trưởng và Đại tá Phước, Không đoàn Trưởng Không đoàn Trực thăng bay lên đài kiểm báo Sơn Chà. Tại đây ông gặp một số sĩ quan trong đó có Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không Quân. Tướng Trưởng tóm tắt quyết định của ông cho các vị này nghe. Tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại viết ở trang 254 và 255 nói về điều gọi là “cuộc tự thoát” của tướng Ngô Quang Trưởng như sau: Ðến Non Nước, sau khi rời trực thăng, Tướng Trưởng và Tướng Khánh vào văn phòng khoảng 1 tiếng đồng hồ, rồi tướng Khánh trở ra sân trực thăng nói lại với các vị Đại tá là Tướng Trưởng nói: Các anh không còn nhiệm vụ gì nữa, các anh tùy nghi tìm phương tiện ra tàu. Tướng Khánh và các vị này sử dụng chiếc trực thăng duy nhất còn lại.

        Tướng Trưởng quyết định ở lại một mình trong trại TQLC ở Non Nước. Ông đưa phương tiện di chuyển (trực thăng) duy nhất còn lại của ông cho tướng Khánh. Sau đó tướng Trưởng lấy xe jeep có tài xế và quân cảnh hộ tống đi ra khỏi doanh trại đến tòa Tổng giám mục địa phận Ðà Nẵng để thăm Ðức Cha Phạm Ngọc Chi và trở về khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó…

        Sáng lại, 3 Hải vận Hạm HQ 401, 402 và 404 đến bãi biển Non Nước, vì không liên lạc được bằng truyền tin nên dùng đèn ra dấu lên bờ để đón Lữ đoàn 369 TQLC từ Ðại Lộc rút về. Ðại tá Trí Tư lệnh Phó dùng 2 xe jeep và dùng đèn xe để xác định vị trí cho chiến hạm ủi vào. Sau đó, vào khoảng 10 giờ 30 sáng ngày 29-3-1975, đại tá Trí mời tướng Trưởng ra bờ biển và đề nghị ông nếu quyết định đi thì nên bơi ra gấp chiến hạm ngay vì dân đã ào tới từ phía xa, sợ không còn phương tiện nào khác. Tướng Trưởng, sức khỏe lúc bấy giờ có vẻ yếu nhiều có lẽ vì bao nhiêu đêm mất ngủ, nên đại tá Trí tròng một áo phao vào người ông. Tướng Trưởng thốt ra một câu, không biết ông muốn nói với ai: Coi đây như là một cuộc tự thoát.

        Rồi cả hai cùng bơi ra biển. Tướng Trưởng và đại tá Trí lên hải vận hạm HQ 401, rồi sau đó chuyển qua HQ 404. Tư lệnh quân đoàn và vị tư lệnh phó TQLC rời chiến trường cùng với 2 lữ đoàn TQLC từ bãi biển Non Nước…
        (…)

        Giã từ vũ khí
        Năm 2009, anh mất, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung (con Thạch Lam, vợ tướng Trưởng) kể thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam.

        Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó. Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân, nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

        Rải tro theo gió… trên đỉnh đèo Hải Vân… ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
        (Rải theo gió – Nguyễn Tường Thiết)

        – : Tướng Ngô Quang Trưởng mất ngày 22 tháng 1 năm 2009.

        Can trường trong chiến bại
        Ở trang 256, 257 và 258, tác giả tiếp tục tường thuật những diễn biến sau khi tướng Trưởng và những tướng lãnh khác đã an toàn trên hải vận hạm HQ 404:

        [I]…Bộ Tư Lệnh Hải Quân và tất cả các đơn vị đều nghĩ Tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải đang có mặt trên Tuần dương Hạm Trần Bình Trọng (HQ 5) như sự thực thì tôi và tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân đang còn tìm đường lên Sơn Trà để tìm cách ra bãi biển phía Đông tìm phương tiện ra chiến hạm. Ngay khi đó, tại trung ương, Phủ Tổng Thống đánh một công điện tối mật gởi cho Tư lệnh Quân đoàn I qua hệ thống truyền tin của Tuần dương hạm Trần Bình Trọng… Hạm trưởng (HQ5) cho Hạm phó và sĩ quan Truyền Tin mang tay (bản dịch mã) sang Hải vận hạm Hương Giang HQ 404 để trao tận tay cho Tướng Trưởng bản công điện này. Khi lên HQ 404, Trung úy Hồ Hải, sĩ quan truyền tin của HQ 5 được sĩ quan trực của HQ 404 hướng dẫn xuống phòng ngủ đoàn viên và gặp Tướng Trưởng ở đó. phòng ngủ dành cho từ cấp thủy thủ tới Hạ sĩ nhất. Tướng Trưởng từ chối nghỉ tại phòng của Hạm trưởng theo đề nghị của chính Hạm trưởng. Ông nằm giường treo, mặc đồ thủy thủ xanh, áo bỏ ngoài, không mang cấp hiệu.

        Nội dung bản công điện từ Phủ Tổng Thống như sau…
        Lệnh của Tổng Thống: Lệnh tử thủ vẫn còn hiệu lực. Mọi sự bỏ tuyến đều qui trách cho Tư lệnh và Đơn vị trưởng. Trung tướng Trưởng vừa đọc vừa khỏ nhẹ cây viết trên bàn. Ðọc xong công điện, ông bỏ vào túi áo và bảo sĩ quan trực gọi điện thoại cho ông nói chuyện với Hạm trưởng. Khi bắt máy nói chuyện với Hạm trưởng, ông nói: Hạm trưởng, cho chiến hạm khởi hành đưa tôi về Sài Gòn ngay lập tức. Sau khi Hạm trưởng báo cáo chỉ thị của tướng Trưởng thì HQ 404 nhận được một công điện từ bộ Tư Lệnh Hải Quân đặt HQ 404 dưới quyền điều động của Trung tướng Ngô Quang Trưởng…”.

        Có lẽ những đoạn trên là những chi tiết đáng nhớ nhất của bi kịch tháng Tư cách đây 32 năm tại một trong những vùng Chiến thuật quan trọng nhất của VNCH. Bi kịch đó vừa ngậm ngùi, vừa hùng tráng, bởi vì lẫn trong cơn gió lốc đó có những con người, can đảm thì nhiều nhưng hèn nhát, thiếu sáng suốt và mất bình tĩnh cũng không thiếu. Chỉ có những người lính trận, từ tướng cho đến quân, từng sống thực với khói lửa súng đạn, từng phải cắn răng chịu đựng những thương tổn đến từ bên ngoài hay từ đầu não của một guồng máy mới hiểu, mới thông cảm nổi những hoàn cảnh và điều kiện mà những đồng đội mình phải đối phó.(…)

        Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng
        Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí


        Với bản tính thích tìm căn nguyên của lịch sử, người viết mạo muội hỏi Tướng Trưởng về nội dung những đối thọai giữa ông và tổng thống Thiệu vào tháng 3-1975. Nhưng Tướng Trưởng tránh không trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói: "Cũng không có gì để nói, tất cả đã được nói hết rồi, những gì anh em chúng ta làm trong quá khứ đều có ý nghĩa". Vài phút sau người viết lại cố gắng “lái” về hai câu hỏi nguyên thủy. Lần này ông cũng tránh trả lời.

        Nhưng lần này ông nói cho người viết nghe về triết lý của một người quan võ Á Đông. Đại khái tướng Trưởng muốn nói đến câu: “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí” (Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ đại phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược).

        Với tất cả sự kính trọng của một hậu sinh đối với Trung Tướng Ngô Quang Tr­ởng, người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi dòng tưởng niệm này.
        (Vị Tướng của mùa Hè đỏ lửa năm 1972 - Nguyễn Kỳ Phong)

        Can trường trong chiến bại
        Ðến đây, tôi muốn trích một đoạn này ở trang 262 của Can trường trong chiến bại nói đến hoàn cảnh của Tướng Bùi Thế Lân và Phó đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại vào lúc cả hai ông và đoàn tùy tùng đang loay hoay tìm đường ra bãi Bắc Tiên Sa để kiếm phương tiện lên chiến hạm:

        Chúng tôi đi khoảng một tiếng đồng hồ thì không còn thấy lối đi nữa và mọi người có vẻ thấm mệt. Sự thật thì chúng tôi không còn biết chúng tôi đang ở đâu. Tôi xoay qua hỏi tướng Lân có địa bàn không để tôi định hướng mà đi ra bãi Bắc. Ông trả lời không ai có cả. Tôi bèn trêu ông một câu: Lạ nhỉ, TQLC đi đánh giặc mà không có địa bàn?. Tướng Lân thật nhanh trí đáp lại ngay: Ông là Chỉ huy Trưởng Đặc khu Tiên Sa mà đi lạc trong đặc khu của ông mới là lạ…

        Xin đọc một đoạn khác trên trang 264 nói về lúc tác giả và Tướng Bùi Thế Lân được một hải thuyền đến cứu khi đã tuyệt vọng:
        Một lúc sau có tiếng ghe máy chạy rất gần bờ dường như đang giảm tốc độ. Trời vẫn còn tối, Trung Tá Huỳnh Duy Thiệp la lớn: Có phải Hải Quân không?. Ở ngoài phía hải thuyền có người trả lời: Phải. Trung Tá Thiệp gọi ghe vào và nói có Đô Đốc Thoại trong bờ. Thiếu tá Hy (trên Hải thuyền) nghĩ là lỡ tôi bị bắt và bị địch uy hiếp thì sao nên hét to: Yêu cầu Tư lệnh lên tiếng để chúng tôi nhận diện. Lúc ấy, thật ra tôi bị khan tiếng từ ba bốn ngày rồi vì nói chuyện suốt ngày đêm trên máy Truyền tin nên không nói lớn tiếng được. Trung tá Thiệp bèn nói ngay: Ông Hy ơi, ổng rồi đó, cứ vào đi, tôi là Trung tá Thiệp đây. Thiếu tá Hy cho hải thuyền vào nhưng không vào sát được, trên ghe thẩy xuống một số áo phao và Trung tá Thiệp đề nghị tôi và Tướng Lân hãy lội ra hải thuyền trước để lo việc rút TQLC và bảo tất cả quân nhân còn lại nên chờ tại bãi để tầu khác vào bốc. Và để trấn an toán quân dân còn lại (trên bãi), ông Thiệp tình nguyện ở lại để đi với các anh em binh sĩ. Thiếu tá Hy phải dùng thêm ghe dân để ra vào tới 4 chuyến mới bốc hết thương binh và toán quân dân cùng đi theo tôi và Tướng Lân…(…)

        Lạc đạn
        Nhà báo Alan Dawson, trong tập sách 55 ngày sụp đổ của miền Nam (The Fall of South Viet Nam, trang 175) viết: Khoảng 5 giờ chiều, tướng Trưởng mời các tướng Lân, phó đề đốc Thoại đến họp tại bộ tư lệnh TQLC ở Non Nước. Tại đây có cả ông Albert Francis, tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng, bàn về việc rút các lữ đoàn TQLC còn lại (LĐ458 và 369) cùng bộ chỉ huy ra khỏi Đà Nẵng. Sau cuộc họp, tướng Trưởng tiếp tục dùng trực thăng bay đi thị sát, phó đề đốc Thoại bay về căn cứ Hải Quân có ông Francis cùng đi theo. Tại căn cứ Hải Quân, ông Francis cùng 2 nhà báo Úc đã dùng chiến đỉnh riêng của phó đề đốc Thoại để ra tàu HQ 5 ngoài khơi.

        Can trường trong chiến bại
        Khi đọc tác phẩm viết cho buổi giới thiệu sách Can trường trong chiến bại của tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi không bao giờ bỏ sót bất cứ một trang nào, ngay cả đến chú thích và mục lục tham khảo. Vì thói quen này tôi phát giác ra điểm khá lý thú. Có những lúc vì cố tránh để những cảm nghĩ vào tường thuật, tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại đã đem lời của “người xưa” để giải tỏa cho những khắc khoải của mình, chẳng hạn nhưng trang 248, ông đem lời của Tôn Tử ra để nói về quyết định của vị tư lệnh Quân khu I mà ông quí mến: Một Tướng, mà khi tiến quân không có mục đích lấy tiếng cho cá nhân mình và khi rút lui không lo đến hình phạt sẽ dành cho mình, mà mục đích duy nhất chỉ để bảo vệ dân và Vua, vị Tướng đó là viên ngọc quí của quốc gia.

        Hoặc ở trang 258:
        Ðôi khi lệnh của Vua không cần phải được thi hành (Tôn Tử). Và trang 292, tác gỉa mượn một ngụ ngôn của người Ý. Ông đã dùng nguyên cả một trang chỉ để biến ý nghĩa của ngụ ngôn thành một thư pháp:

        Sau một ván cờ
        Tất cả các con cờ
        Vua, tướng, sĩ, tốt
        Đều trở vào năm trong hộp


        Vì thế, tuy là một hồi ký viết lại những sự kiện trong muôn vàn sự kiện dẫn đến tấn bi kịch 30-4-1975, nhưng đọc hết những trang cuối cùng, khi gấp cuốn sách lại, thấy lòng mình thanh thản. Thanh thản vì cho tới nay, qua một hồi ký nữa, chúng ta đã có thêm những bằng chứng là trong nguy khốn và sau thất bại, trong Quân Lực VNCH vẫn không thiếu những gương quả cảm, những cấp chỉ huy bản lãnh, gan dạ, bình tĩnh và dám hy sinh trong cơn phong ba bão táp.

        Tôi cũng không muốn nói ra những cảm nghĩ riêng của mình đối với các nhân vật đã được nêu trong Can trường trong chiến bại. Một số những nhân vật này, tôi đã từng biết trong 7 năm trời lặn lội để tường thuật các mặt trận ở Quân Khu I. Cho nên, với cá nhân tôi, các Tướng Trưởng, Khánh, Lân, Ðiềm, Hinh, Thoại… vẫn là những người lính mà tôi ngưỡng mộ. Cả một đời quân ngũ lừng lẫy như họ mà chỉ vì những quyết định chính trị sai lầm từ trên thượng tầng quốc gia mà một sớm một chiều họ vị đẩy vào cái thế của những bại tướng.

        Những dữ kiện quan trọng trong Can trường trong chiến bại của cựu Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi mới trích ra có một phần rất nhỏ. Cho nên nó chỉ phản ảnh được cái nền của một câu chuyện. Và nhất là ở chương “Sau cuộc chiến”, rất ngắn. Tôi chú ý đến chương này, vì coi nó là cảm nghĩ mà ông muốn gửi tới người đọc: Dù thắng hay bại, trong cuộc một cuộc chiến, tất cả các chiến sĩ hai bên đều làm nhiệm vụ của mình theo lý tưởng khác nhau. Sau cuộc chiến, những chiến sĩ dù hy sinh cho một lý tưởng nào đó, khi chết trong bộ quân phục đều là những anh hùng thì khi đã nằm xuống phải được sự kính nể của những thế hệ sau. Hai trăm năm nữa, con cháu chúng ta khi học lịch sử Việt Nam sẽ không khen người thắng, không chê kẻ bại, nhưng sẽ ghi nhận sự can trường hay hèn nhát của những người tham chiến.

        Vì thế, những thế hệ mai sau sẽ không quên những anh hùng đã dũng cảm trên chiến trường Thiếu tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (1) vào ngày cuối cùng của trận chiến: Ngày 30-4.
        (Vũ Ánh)

        – : Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cháu gọi nhà văn Hồ Biểu Chánh là ông nội,

        (1) Xem “Hai ngày cuối với Hải quân” của tác giả Phan Lạc Tiếp. ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.

        Đà Nẵng, di tản buồn
        Sau khi phi trường Đà Nẵng bị pháo kích và trở thành bất khiển dụng, các trực thăng còn lại đều về đáp tại phi trường Non Nước và không còn nhận được lệnh từ các cấp chỉ huy! Các phi công tùy nghi hành động và tự quyết định. Phi công Song Chùy ghi lại:
        "Cuối cùng mệt mỏi vì cả ngày chưa ăn uống gì, tôi đáp xuống phi trường Non Nước tắt máy, tìm giấc ngủ dưới bụng phi cơ trên bãi cỏ bên cạnh phi đạo. Sáng 29-3, sau giấc ngủ ngon lành, tôi thức dậy khi trời mờ sáng thì bạn bè đã bỏ đi hết. Trên phi đạo Non Nước còn mấy chục trực thăng xếp hàng dài như sắp cất cánh hành quân mà không có pilot....."

        Phi công Song Chùy sau đó tìm mọi cách đổ thêm xăng, kể cả dùng ruột xe làm ống dẫn và cuối cùng cất cánh rời kho dầu Chợ Mới lúc 5 gìờ chiều. Có thể nói đây là chiếc trực thăng cuối cùng của SĐ1/KQ, mang số 107, rời không phận Đà Nẵng.

        Ngày 28-3, vì địch gia tăng pháo kích, Ch/tướng Khánh, sư đoàn trưởng SĐ1/KQ đã ra lệnh cho tât cả mọi phi cơ còn có thể bay được, rời Đà Nẵng càng sớm càng tốt. Trong ngày 28 và sáng 29, các phi công đã đưa được 130 phi cơ về TSN, tuy nhiên SĐ1/KQ đã mất đến 180 phi cơ (bị để lại hoặc bị rớt trong khi di tản) trong đó có trọn hai phi đoàn C7 Caribou đang đình động và một số A37. Theo phi công Phạm Văn Cầu, PĐ427, thì một số Caribou khả dụng đã về được Sài Gòn, trong đó có chiếc Caribou do chính ông điều khiển. Chiếc C7 này bay được về TSN hoàn toàn không có vô tuyến liên lạc vì phi hành đoàn không ai mang theo headset, phòng lái không có điện, đồng hồ xăng bất khiển dụng. Một chiếc C7 khác cũng không có vô tuyến nên đã phải lắc cánh khi bay xả qua trước trạm Không Lưu.
        (trích Quân Sử Không Quân VNCH)

        Lạc đạn
        Frank Snepp trong Decent Interval đã viết theo óc “tưởng tượng”: Lúc trận pháo kích bắt đầu, Albert Francis, Tổng lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng đang đi dọc bến cảng…Cùng với hai bạn người Anh, Francis vắt chân lên cổ chạy xuống bãi biển và bơi khỏi tầm súng. Họ bơi đến tàu tuần tra và được chuyển sang tàu HQ 5. Sáng 29 tháng 3, trời mưa và rất lạnh. Biển động hơn hôm trước, không rõ giờ nào, Francis thấy Tướng Ngô Quang Trưởng, từng được coi là sĩ quan ưu tú nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang bơi và trôi giữa những con sóng nguy hiềm ở ngoài khơi Đà Nẵng. Ông không phải là người bơi giỏi, người ta phải vớt ông ta lên đưa lên tàu HQ 5. Trưởng ở trên tàu trong những ngày sau đó.

        Đà Nẵng, di tản buồn
        Tác giả Robert Mikesh trong Flying Dragons, The South Vietnamese Air Force, trang 143-44 ghi rõ hơn là SĐ1/KQ đã bỏ lại 33 chiếc A37, các phi cơ Caribou C7 (khoảng 40 chiếc) do thiếu cơ phận và bảo trì. Cũng trong tập sách này, Tr/úy Phạm Quang Khiêm, hoa tiêu phụ cho Đ/úy Nguyễn Văn Chuân, cùng bay 1 chiếc C130 từ Sài Gòn ra giúp di tản cho biết chuyến phi cơ của ông đã chở đến 350 người (trong khi con số dự trù tối đa là 200 người). Đ/úy Vĩnh Phổ, phi công của một AC119, thuộc Biệt đội 831, đang biệt phái công tác tại Đà Nẵng, ghi lại là phi cơ của ông khi rời bãi đậu phải lăn bánh qua cả 100 xác người, chết vì pháo kích, để ra phi đạo.

        Trong lúc hỗn loạn, các phi công không thể cất cánh an toàn, phi cơ bị rơi trong khi bay thoát vì trục trặc kỹ thuật hoặc hết nhiên liệu. Trong khi di tản bằng trực thăng, một số sĩ quan cao cấp của SĐ1/KQ đã bị mất tích do phi cơ rơi hay do bị bắn hạ như Đ/tá Nguyễn Bình Trứ KĐ trưởng KĐ10 bảo trì & tiếp liệu. Trung tá Hùng, trung tâm hành quân SĐ1, tự bay 1 chiếc L19 cùng 2 con nhỏ về Nam.

        Chiếc Chinook CH47 do Đ/úy Hoàng Bôi (PĐ247) làm phi công chinh và Tr/úy Nguyễn Văn Tám phi công phụ, chở theo 17 người không gặp may đã bị bắn hạ khi bay qua không phận Sa Huỳnh, phi cơ phải đáp khẩn cấp xuống xã Vĩnh Tuy, Phú Thạnh. Cả hai đã tự sát vì không muốn bị bắt làm tù binh.

        Cũng tương tự vậy vì không muốn bị bắt làm tù binh:
        Một chiếc Chinook khác do Đ/úy Phạm Văn Kiến làm phi công chính, Tr/úy Nguyễn Đình Hương phi công phụ, Đ/úy Nguyễn Anh Dũng, hoa tiêu chở theo gần 60 người, do trọng tải quá nặng, phải bay ở cao độ thấp, cũng bị trúng đạn khi bay qua vùng Sa Huỳnh, quận Đức Phổ.

        Tr/úy Nguyễn Đình Hương phi công phụ bị thương nặng. Đ/úy Phạm Văn Kiến đã buộc phải hạ cánh. Đại Úy Dũng đã bắn Tr/úy Hương theo yêu cầu của Tr/úy Nguyễn Đình Hương và Đ/úy Nguyễn Anh Dũng đã tự sát sau đó.(…)

        Một cơn gió bụi
        Sau 75, khoảng năm 2010, phần mộ thì hành phi đoàn chiếc Chinook được tìm thấy ở ven biển Sa Huỳnh, xã Phổ Châu. Anh em KQ quốc ngoại đã lo phần mai táng và lập bia mộ lại.

        Đà Nẵng, di tản buồn
        Theo Malcolm Brown của NewYork Times thì trong buổi sáng sớm 29-3, 10 chiếc UH1 cuối cùng của KQVN đã chở các nhân viên KQ còn kẹt lại bay khỏi Đà Nẵng, mỗi phi cơ chở ít nhất là 20 người bay về phi trường Non Nước để tìm xăng, nhưng đa số đã không gặp may: Một phi cơ hết xăng phải đáp xuống Cù lao Ré, một chiếc khác phải đáp xuống Chu Lai đã bị địch chiếm đóng từ 2 ngày trước, 4 chiếc khác bị trúng đạn phòng không của địch quân gần Chu Lai và chỉ 4 chiếc về được Sài Gòn.
        (Trực thăng của Tướng Điềm cũng hết xăng và rơi trong vùng Sa Huỳnh, tất cả mọi người trên phi cơ tử nạn ngoại trừ phi công Bình sống sót).

        ***

        Trưa ngày 29, một phi cơ dân sự Hoa Kỳ, chiếc Boeing 727 của công ty World Airway do quyết định liều lĩnh của phi công và do may mắn đã bất ngờ đáp xuống phi trường Đà Nẵng, bốc được khoảng 268 người (trong đó có 150 binh sĩ thuộc ĐĐ Hắc báo SĐ1BB, đã dùng vũ khí để dành được chỗ trên phi cơ). Khi phi cơ cất cánh, súng bắn theo, cửa bánh đáp để mở vì có 4 người nằm bên trong, 1 đã chết khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Chiếc 727 thứ nhì, bay vòng trên không phận Phan Rang đã không dám đáp xuống và đành trở về Sài Gòn.
        (trích Quân sử Không quân VNCH)

        Đà Nẵng trong mắt tôi
        Tại phi trường Đà Nẵng, máy bay vừa đáp xuống, mặc dù chưa biết sẽ bay hay không, mọi người đã xô, đạp lên nhau, bắn nhau để tràn lên tàu. Máy bay bay không nổi, những người dân thường lại bị lôi xuống. Trong khi đó máy bay chạy trên phi đạo giữa hàng ngàn người khiến cho hàng chục người khác bị chết. 7 giờ 30 sáng ngày 28-3-1975, một Đ/úy chở gia đình trên một chiếc jeep vào phi trường. quân cảnh tại cổng chận lại xét hỏi. Vị Đ/úy bèn cự nự và hai bên cãi nhau. Cuối cùng vị Đ/úy kia bèn bắn chết một sĩ quan QC/KQ. Thế là phi trường đóng cửa từ đó và không một chiếc xe nào vào được sân bay.

        Cũng chiều ngày 28-3 tình hình tại BTL/SĐ3 BB (đóng tại Hoà Mỹ) vẫn “tỏ ra bình thường” nhưng vào nửa đêm, lúc 12 giờ 30 một chiếc trực thăng đáp xuống ngay tư dinh của Th/tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3 BB, và một lát sau bay vút lên không. Vì tư dinh cửa Th/tướng Hinh nằm trên đồi cao và tiếng trực thăng lại nghe rất lớn trong đêm khuya nên mọi quân nhân có mặt trong đêm đó đều đoán biết được chuyện gì đang xảy ra nên chỉ một lát sau là hàng đoàn xe đủ loại bật đèn pha chạy ra khỏi căn cứ. Lúc đó không ai bảo ai, không lệnh lạc gì, mạnh ai nấy ra đi. Ai có phương tiện gì thi dùng phương tiện đó. Không có thì quá giang. Chỉ trong một lát, cả căn cứ Hoà Khánh bỗng vắng hoe! Cổng chính của sư đoàn hàng ngày quân cảnh soát rất kỹ nhưng lúc đó mở toang và không một người đứng gác.
        (Lê Hùng)

        Một cơn gió bụi
        Sáng ngày 29-3 Đà Nẵng bị pháo kích, Trung Tá “Robert lửa” Nguyễn Xuân Phúc, và Trung Tá Đỗ Hữu Tùng (VB16), Lữ đoàn Phó 369 TQLC lên trực thăng điều động cả lữ đoàn rút về căn cứ Non Nước. Trong cảnh hỗn loạn của Đà Nẵng di tản, mưa pháo 130 của địch từ đỉnh đèo Hải Vân bắn xuống. Trực thăng bị trúng đạn, rơi xuống, cả hai đều bị tử thương.

        Đà Nẵng trong mắt tôi
        Sáng ngày 29-3-1975, hàng ngàn người đủ mọi thành phần chen nhau qua cầu Trịnh Minh Thế để qua Tiên Sa, Sơn Trà hay Non Nước. Tất cả đều đổ xô ra biển nên mọi nẻo đường đều đông nghẹt, tắc nghẽn. Trong khi đó những chiếc xe nhà binh chạy ngược chạy xuôi như bầy kiến lạc đàn và tông cả vào những người đang chạy bộ trên đường. Tại ngã năm An Hải, 2 chiếc xe jeep tranh đường đã cán một người ngay giữa 2 xe. Trên đoạn đường gần nhà thờ Mân Quang, một chiếc M113 chạy từ hướng Tiên Sa xuống đã tông mạnh vào hông một cụ già đang đi cùng chiều khiến ông lão ngã lăn trên đường và bất động. Chiếc M113 vẫn chạy và mọi người vẫn đi qua ông lão như không có chuyện gì xảy ra. Cũng tại An Hải (Quận 3) dân chúng đã ùa vào kho hàng quân tiếp vụ để dành nhau lấy thuốc và thực phẩm. Cả trăm người dành nhau, chen nhau và đè lên nhau. Một người lính đứng bên ngoài không làm sao vào được bèn thụt một qủa M79 ngay vào đám đông khiến đám đông văng ra tan tác. Số người chết và bị thương khá nhiều. Máu, dầu, sữa hoà với nhau lai láng.
        Thế mà một lát sau đám đông khác lại ùa vào và tiếp tục tranh dành!
        (Lê Hùng)

        – : Tác giả kẹt lại ở Đà Nẵng cho đến khi đi tù cải tạo.

        Comment


        • #5
          Chương 6


          Chuyến bay cuối cùng từ Đà Nẵng
          Ngày 29-3-1975 khoảng 6 giờ sáng có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút. Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly (1) và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: Bọn này phải ra Đà Nẵng. Muốn đi thì đi. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán CBS cũng vậy. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi. Lúc đó 8 giờ sáng,

          Chuyến bay ra khá êm. Phi cơ bắt đầu đổi cao độ để hạ xuống Đà Nẵng. Nhưng khi hạ cánh có một cái gì rất lạ lùng. Không hề thấy một bóng người. Không một ai, cả phi trường hoàn toàn hoang vắng. Đột nhiên trong lúc phi cơ đang “chạy taxi” trên đường vào bến, đoàn người chợt xuất hiện. Họ chạy ào ra từ những nhà chứa máy bay. Hàng ngàn con người, tôi nói đúng nghĩa là hàng ngàn con người đua nhau chạy đến chúng tôi. Họ chạy bộ, xe gắn máy, xe jeep, xe hơi, xe đạp… Họ chạy xồng xộc với cặp mắt man dại.


          Chúng tôi cho phi cơ chậm lại. Lúc ấy tôi đang đứng trong phòng lái nhìn ra cửa sổ trước, chợt thấy có điều kỳ lạ. Một nhóm người lái chiếc xe vận tải nhỏ đuổi bên cạnh chiếc tàu bay. Một người đàn ông nhảy khỏi xe, chạy đến trước chúng tôi. Tôi nhìn về phía anh ta, lúc ấy chúng tôi đang đi chậm, anh ta rút một khẩu súng lục, bắn vào chúng tôi. Đột nhiên tôi có cái cảm giác kinh dị y như đang đứng giữa khung cảnh của một phim cao bồi. Tôi nghĩ: Tại sao họ bắn chúng tôi? Chúng tôi cho tàu chạy khỏi người đàn ông có súng và chạy chậm lại ở phía xa. Bây giờ tôi bắt đầu chờ người khách đầu tiên lên phi cơ. Chúng tôi dự tính sẽ cho họ ngồi vào ghế, sẽ sắp đặt họ trong vòng trật tự. Rồi những người lính bắt đầu lên. Chừng chín người lính đã lên, tôi xếp họ ngồi vào ghế. Rồi người thứ mười lên, nhưng hắn không chịu ngồi. Hắn bị kích động, cứ chạy lên chạy xuống la lớn bằng tiếng Anh: Bay đi! Bay đi! Bay đi! Chúng nó sắp pháo kích vào phi trường kìa!Hắn cứ la hét như thế mãi. Tôi nắm lấy hắn, tôi cũng hét lên: Im mồm, tôi bảo ông ngồi đâu thì ông ngồi xuống đó. Tôi đẩy hắn xuống ghế.

          Nhưng có điều lạ: Rất ít người lên phi cơ. Vì vậy tôi nghĩ cần phải ra sau xem có chuyện gì…

          Tôi thấy Daly dưới chân cầu thang đang bị giằng xé. Áo ông rách vụn. Joe Hrezo biến đâu mất. Val đang cố giúp Daly lôi người lên cầu thang trong lúc tàu bay cứ tiếp tục chạy chầm chậm trên phi đạo. Còn dưới chân thang, hàng tram người tuyệt vọng, điên cuồng, la hét cố bấu víu lấy Val và Daly. Đoàn người tiến đến không ngừng. Họ từ khắp phía, chạy đến cầu thang không ngớt. Tôi leo xuống. Daly ở dưới thang, ông cố lập trật tự bằng khẩu súng lục vung lên trời. Val cố giúp những người đang leo qua cạnh cầu thang. Một gia đình 5 người chạy đến phía tôi cầu cứu. Đó là bà mẹ, hai đứa con nhỏ, một trẻ sơ sinh còn ẵm trên tay mẹ. Tôi có thể nhìn rõ nét sợ hãi trên khuôn mặt khi họ cố chạy đến phía tôi. Tôi quay lại định nắm tay người mẹ kéo lên. Trước khi tôi kịp nắm tay bà, một người đàn ông đứng sau đã nổ súng vào 5 người này. Họ ngã gục cả xuống, đám đông đạp ngay lên xác họ. Cái hình ảnh cuối mà tôi thấy là họ biến mất dưới chân đám đông. Chỉ vài tiếng nổ lớn, họ biến mất, tất cả những người ấy. Còn gã đàn ông vừa bắn xong đã đạp ngay lên thân họ để leo tới cầu thang. Hắn đè lên mọi người, chạy vào lòng phi cơ.

          Tất cả mọi thứ quá sức hỗn loạn điên cuồng. Tôi còn nhớ vào giây phút điên dại ấy, tôi nghĩ: Chốc nữa sẽ tính chuyện này, tôi tiếp tục kéo người lên phi cơ. Chợt cảm thấy một người đàn bà đang níu tôi từ phía hông cầu thang, bà nắm cánh tay tôi, cố lọt lên bực thang. Tôi muốn giúp bà ta nhưng cũng sợ bị rơi tuột khỏi thành cầu. Tôi bèn quay lại nắm cánh tay người đàn bà, kéo qua thành cầu. Nhưng một người đàn ông ở phía sau đã níu lấy, giựt bà khỏi tay tôi. Khi bà rơi xuống, người đàn ông kia đạp ngay lên lưng, lên đầu người đàn bà để leo lên thang. Hắn dùng người đàn bà như một hòn đá kê. Daly nhìn thấy chuyện xảy ra. Liền khi gã đàn ông bước chân qua thành cầu, Daly nắm khẩu súng đập một cú vào đầu gã. Tôi nhớ lúc ấy đột nhiên tôi thấy vòi máu vọt ra, gã đàn ông rơi xuống, người ta đạp lên hắn. Tôi nhớ tôi đã nghĩ: Đáng kiếp! Gã đàn ông này biến mất dưới bàn chân dày xéo của đám đông.


          Lúc ấy người đổ ùn ùn vào phi cơ, tôi chạy trở vào xem Atsatkocó xếp nổi chỗ ngồi không. Cô nắm lấy tay tôi, bảo: Đại úy Ken Healy đang cần chị. Tôi đến phòng lái gõ cửa. Cửa mở, Healy bảo: Joe Hrezo đã lạc ra khỏi phi cơ. Khi nào hắn trở lại được cho biết. Tôi đáp: OK. Chuyện xảy ra là Joe và thông tín viên người Anh đã bị đám đông kéo tuột khỏi tàu, không trở vào được nữa. Chúng tôi lạc mất cả hai người. Joe tự chạy tới đài kiểm soá không lưu, họ cho anh ta vào. Sau đó Joe liên lạc được với máy bay. Ken Healy cho biết chúng tôi sẽ “chạy taxi” rà rà trên đường vào bãi và yêu cầu Joe phóng ra khi máy bay tới gần. Chúng tôi sẽ không dừng một giây nào. Liền khi Joe lọt vào phi cơ, chúng tôi sẽ cất cánh. Đại úy Ken Healy bảo: Khi thấy chắc chắn Joe vào phi cơ rồi, gõ lên cánh cửa cho tôi hay. Tôi đi sau, bảo Val: Val, canh chừng cầu thang, thấy Joe vào thì giơ tay, tôi sẽ ra hiệu cho Ken biết.

          Trong khi đợi phi cơ chạy qua đài kiểm soát, người ta tiếp tục ào tới. Chúng tôi ấn họ xuống, 5, 6 người một ghế. Trong lúc làm việc, tôi nhớ là đã tự hỏi: Thế còn đàn bà, trẻ con đâu hết? Hóa ra, mọi hành khách đều là lính tráng. Sau đó, tôi đếm chỉ có 11 người đàn bà và trẻ con. Tất cả chỉ có thế! Còn lại đều là lính tráng …Mọi người ngồi trên ghế với những bộ mặt kinh hãi. Gã khùng vẫn tiếp tục la lối: Bay đi! Bay đi! Bay đi! Khi tàu đến gần đài kiểm soát. Daly vẫn còn đâu đó dưới cầu thang để kéo người vào. Tàu chạy rà rà qua đài kiểm soát được một lát, Val quay người lại, giơ tay lên. Tôi gõ vào cửa phòng lái. Phi cơ bắt đầu rồ máy. Chúng tôi gia tăng vận tốc. Gã khùng lúc trước la lối đòi bay, bây giờ sợ hãi và thét lên: Ối! Ối! tàu bay đang cất cánh trên cỏ. Thật ra, chúng tôi chạy để cất cánh từ phi đạo, lối vào bãi đậu, và Ken đã rồ máy để cảnh cáo người ta tránh ra, nếu không chúng tôi sẽ cán qua mà chạy. Phi cơ leo lên cỏ vì đã vào cuối đường bến, không còn cách nào trở lại được. Chúng tôi cứ tăng tốc lực bay vượt lên, do đó đã đụng phải cọc hàng rào gây hư hỏng cho cánh phi cơ. Nhưng hư hỏng trầm trọng nhất là do đạn và lựu đạn ném vào một bên cánh. Ở trong phi cơ, chúng tôi không thấy được hư hại, không rõ tình trạng thế nào. Nhưng đại úy Ken Healy biết rất rõ.

          Dầu thế, chúng tôi vẫn phải bay lên. Phải thoát khỏi Đà Nẵng. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ là không thể thoát. Không ai có thì giờ để nghĩ những điều như vậy giữa cơn rối loạn. Sau này tôi khám phá được suýt chút nữa chúng tôi đã không thoát. Đáng lẽ chúng tôi đã mất mạng vì các hư hỏng của phi cơ. Với 358 con người ở lòng tàu, còn lại 60 người khác trong khoang chở hàng, có cả người mắc trên bánh xe. Chiếc máy bay này thật sự chỉ dùng để chở có 133 hành khách thôi. Sau này Ken Healy gởi cho hãng Boeing những con số thống kê liên hệ đến chuyến bay. Người ta cho chạy điện toán rồi bảo chúng tôi: Theo cách tính của họ, phi cơ chẳng thể nào cất cánh. Vậy mà chúng tôi đã cất cánh được. Sau Ken cũng gởi cho Boeing một điện tín khác, nói: Quý ông quả đã chế được một cái tàu bay tốt hết xảy.

          Sau khi cất cánh, tôi bắt đầu đếm hành khách. Tôi chú ý một người ngồi ghế trước, mặt tái xanh, bị thương nặng, ruột đổ lòng thòng. Tôi dùng tay nhét đại ruột vào, giật cái khăn trên cổ một người nào đó quấn quanh bụng anh ta lại. Tôi kéo thùng cứu thương xuống. Thuốc men mất đâu cả từ SàiGòn. Chúng tôi không có bất cứ một vật dụng y khoa nào trên tàu. Trống trơn. Không thuốc men bông băng gì. Tạm ổn thỏa với người đàn ông ghế trước, tôi nhìn ra lối đi, thấy một người khác đang bò lết đến bên tôi.

          Tôi nhận ra gã, đầu bê bết máu. Máu vấy đầy mặt. Chính là gã đàn ông đã kéo người đàn bà ra khỏi tay tôi. Đó là gã đàn ông bị Daly nện với khẩu súng lục. Lần sau chót tôi thấy hình ảnh người đàn bà bị nghiến trên mặt đất. Cũng lần sau chót tôi thấy gã đàn ông này bị đám đông đạp lên. Vậy mà sao gã cũng lết được vào phi cơ? Bây giờ gã đang bò. Tôi nhớ đó là lần duy nhất trong ngày tôi đã cầu nguyện, tôi cầu: Lạy chúa. Xin đừng để cho gã này tiến lại gần con. Gã cứ lồm cồm lết đến. Gã nắm lấy ống quần tôi. Gã nhìn lên tôi. Gã chỉ nói: Xin cứu tôi. Thế là tôi nắm đại một người, kéo khỏi ghế, tôi giúp gã ngồi vào ghế. Đầu gã nứt, tôi có thể nhìn thấy bên trong máu lầy nhầy. Không có gì để cầm máu cả. Tôi biết nếu tôi không giúp cho máu cầm lại, gã sẽ chết ngay trên tay tôi. Một người lính ngồi bên cạnh mặc cái áo tác xạ. Tôi xé toạc cái áo, bốc một nắm mạt cưa nhét vào vết thương. Tôi cứ nhồi mãi mạt cưa vào để chận vòi máu. Chắc chắn giới y khoa Mỹ sẽ giật mình với phương pháp này, nhưng nó đã tỏ ra hữu hiệu. Tôi giật lấy cái sơ mi của một người khác, buộc quanh đầu gã để giữ mạt cưa lại…Gã được bình yên suốt chuyến bay. Gã thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào.

          Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết thì giờ và tôi đoán là khi đã bay được một giờ đồng hồ thì chúng tôi mới bắt đầu nhìn đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đã làm những gì. Họ bắt đầu hỏi: Còn những chuyến bay khác nữa không? Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: Còn chứ, còn nhiều chuyến nữa. Những người này bây giờ đã hiểu ý nghĩa việc bắn giết đồng bào họ để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không còn chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Ken Healy đã liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàigòn để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sài Gòn. Tôi hiểu điều đó có nghĩa là gì.

          Tôi trở lại khoang hành khách, phục vụ loanh quanh. Chợt mọi người đều xúc động nhìn qua phía trái. Chúng tôi đã bay đến Phan Rang. Don Mc Daniel và phi hành đoàn đang bay ở cao độ 35,000 bộ, họ đang chờ chúng tôi. Cuối cùng họ thấy một chấm đen ở phía dưới, họ nhận ra chúng tôi và đang bay về phía chúng tôi. Chúng tôi nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, tương phản với bầu trời xanh tuyệt vời, trên đám mây trắng nõn là chiếc tàu bay World 727 xinh đẹp màu đỏ và trắng. Thế là anh chàng Don Mc Daniel lái chiếc tàu bay của anh ta lượn quanh chiếc tàu bay chúng tôi để lượng giá những hư hỏng. Anh ta gọi Ken Healy, bảo: Hình như có một xác chết lủng lẳng trên bánh xe của bạn. Ken đã hỏi anh ta về việc đó. Một người bị cán khi bánh xe lùi lại. Nhưng cái chết của người này đã cứu mạng sống của tám người khác dưới guồng bánh xe vì xác chết đã cản cần máy lại, không làm cho bánh xe lùi thêm nữa.


          Phi cơ tiếp tục bay về Sàigòn.

          Thế rồi phút cuối cùng của chuyến bay phải đến. Từ sau thân tàu, tôi bắt đầu đi lên, và đây là lúc một hành động tự phát xuất hiện. Một người đàn ông trao vào tay tôi khẩu M16. Anh không nói tiếng Anh, tôi không nói được tiếng Việt, tôi không rõ anh ta muốn gì. Nhưng rồi tôi hiểu: anh muốn tôi hãy nhận lấy khẩu súng của anh. Vì thế tôi khoác cái khẩu súng khốn nạn lên vai, trong lúc bước đi. Người ta bắt đầu trao thêm cho tôi mọi thứ khác. Khi đến phòng lái, trên vai tôi đã có vài khẩu M16 lủng lẳng, một băng đầy đạn, một nắm đạn rời. Một vài người đã trao một hay hai viên, vài người khác trao cho tôi nhiều hơn. Tôi còn có hai khẩu súng lục ở tay. Chính lúc ấy khi tôi đang nắm những viên đạn nhỏ và những thứ vũ khí trong tay. Đột nhiên một cảm giác rõ rệt bừng ra:Cuộc chiến của họ đã chấm dứt. Họ không muốn súng đạn hay bất cứ gì nữa. Điều ấy thực chua chát…”Chính họ cũng đã ở cuối đường”.

          Khi tôi gần đến phòng lái, một gã khùng đặt một cái gì đó lên trên các thứ trong tay tôi.
          Tôi nhìn xuống, tự nghĩ:
          “Trời ơi! Một quả lựu đạn!”
          (Jan Wollett)

          Jan Wollett là tiếp viên hàng không được Larry Engelmann, giáo sư khoa sử của đại học San Jose phỏng vấn. Ông phỏng vấn Jan Wollett là một trong 300 người được ông tiếp xúc trong 5 năm để có tác phẩm Tears Before The Rain.




          – : Lúc này tướng Ngô Quang Trưởng còn mỗi một đại đội (có thể là ĐĐ Hắc báo SĐ1BB?) gửi ra phi trường để giải tán bớt đám quân dân ô hợp đang làm kẹt phi đạo, thì một số nhỏ quân nhân trong đơn vị này, khi một chuyến phi cơ Boeing đáp xuống chở dân, đã xông ra đạp lên đàn bà con gái, chen chúc nhau đến độ bám cầu thang, chui vào hầm bánh xe. Khi phi cơ cất cánh, người rơi rụng lả tả. Thảm cảnh này được các phóng viên quốc tế chứng kiến, thu hình chiếu cho nước Mỹ và thế giới coi
          (xem “Nước mắt trước cơn mưa” do Nguyễn Bá Trạc dịch).

          (1) Chuyến bay chở người tỵ nạn từ Đà Nẳng vào Sài Gòn do nhà tỷ phú Hoa Kỳ là Ed Daly đích thân điều động và chỉ huy bất chấp lệnh cấm của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.

          Góp nhặt…ghi chép…
          Đài BBC Luân Đôn, ngay tối 29-3-1975 loan báo Đà Nẵng thất thủ với 100 ngàn quân bị bắt làm tù binh (1). Đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân đoàn I, tin tức đã khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân đoàn I nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của ta, 4 sư đoàn, 4 liên đoàn biệt động quân đã hoàn toàn tan rã sau 10 ngày cầm cự và triệt thoái.

          Mặc dù nay Bộ Tổng tham Mưu, các vị tướng lãnh, các giới chức quân sự có liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này. Các nhà nghiên cứu quân sự, các nhân chứng, ký giả chiến trường đã biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của ta lại có thể thua nhanh đến thế.

          Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh tại Quân đoàn I của Bộ Tổng tham Mưu, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Ngô quang Trưởng, nhà nghiên cứu quân sự, ký giả chiến trường và những lời thuật lại của các nhân chứng nói chung dồi dào… Nhưng không hoàn toàn giống nhau có khi còn trái ngược nhau là khác.
          (Trọng Đạt)
          (1) Da Nang Fall – Malcom Brown


          Góp nhặt sỏi đá
          Chiến hạm HQ 802 nhổ neo xuôi Nam 11 giờ sáng ngày 29-3-1975. Đà Nẵng và Quân khu I thất thủ. Đúng 3 giờ sáng ngày 30-3-1975, tổng thống Thiệu ra lệnh…rút bỏ Đà Nẵng.

          Góp nhặt…ghi chép…
          Bến tàu Đà Nẵng cũng rất hỗn loạn, nên các chiếc tàu thả neo ngoài xa, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tàu. Chiều ngày 28-3-1975, tại bãi biển Mỹ Khê. Cả chục chiếc thiết vận xa M113 làm đầu cầu nối ra biển để lên tàu. Sau đó có nhiều chiếc bị chìm xuống biển, một số binh sĩ biết lội sống sót, số người không biết lội bị chìm dần xuống đáy biển Mỹ Khê.

          Tối 28-3 Bắc quân pháo kích vào căn cứ hải quân, lửa cháy rực một góc trời. Chiến Hạm HQ 802 nhổ neo xuôi Nam lúc 11 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Sau Quảng Trị, Huế lọt vào tay địch. Ngày 29-3-1975, Đà Nẵng và toàn Quân đoàn I thất thủ.
          (Wikipedia)

          Bên Lề Trận Chiến
          Tại mũi Tiên Sa, HQ 802 đến gần mũi Isabel (bờ Bắc vịnh Đà Nẵng), len vào thật sát các mỏm đá để đón Lữ đoàn 258 và bộ chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến. Vì hệ thống Truyền Tin bị quấy phá, Hạm trưởng HQ 802 buộc phải nhập vào hệ thống truyền tin của Bộ chỉ huy Hạm đội Tiền Phương. Hạm trưởng HQ 802 được lệnh đưa Thủy Quân Lục Chiến về vùng tập trung chiến hạm tại Cù lao Chàm (Hội An).

          Trong khi đó, một trực thăng lượn qua lượn lại quanh HQ 404. Ngại bị trực thăng bắn, hạm trưởng ra lệnh kéo cờ nhiệm sở tác chiến. Sau vài vòng bay lượn, thấy chiến hạm báo động, nhóm người trên trực thăng ra dấu chào hỏi và liệng xuống một chiếc giày trận rồi bay vào bờ.

          Rời trực thăng, nhóm người ấy bơi ra HQ 404. Sau khi vớt nhóm người từ bờ bơi ra chiến hạm, Hạm trưởng HQ 404 nhìn thấy một người trong nhóm chân này mang giày trận, chân kia không có giày mới biết người đó là:
          Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư Lệnh Sư đoàn 1 Không Quân.
          (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

          Cuộc rút quân từ Đà Nẵng
          Trong khi Đà Nẵng đang bị địch cô lập dần dần thì hai đơn vị thủy quân lục chiến và nhảy dù đang ở trên các chiến hạm, sẵn sàng rời Đà Nẵng theo lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

          Không hiểu sự dằng co giữa Trung tướng Ngô Quang Trưởng và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu diễn ra như thế nào, nhưng sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Thục Chiến đã lên HQ 504, HQ 505 và HQ 500 hai ngày rồi mà ba chiến hạm này vẫn chưa được lệnh tách bến. Quá khuya 30-3, một Đại tá từ Quân đoàn I đích thân xuống chiến hạm, truyền lệnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hạm trưởng HQ 500 rời bến. Tiếp theo, HQ 504 và HQ 505 cũng được lệnh rời bãi quân vận Đà Nẵng.
          (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

          Bên Lề Trận Chiến
          HQ 17, sau khi nhận thêm một số thủy quân lục chiến, được chỉ thị yểm trợ HQ 404, đưa tướng Ngô Quang Trưởng và Thủy Quân Lục Chiến về Vùng 2. Trên hải trình xuôi Nam, khi qua mũi Sơn Chà, HQ 802 tình cờ bắt được liên lạc truyền tin với một thành phần của bộ Chỉ huy hành quân Quân đoàn I trên tần số giải tỏa. Nhóm này yêu cầu Hải Quân cứu…một giới chức thẩm quyền. Lời kêu cứu của nhóm Quân đoàn I vang lên. Bây giờ lại thêm tiếng kêu cứu của nhóm khác: "Hải Quân ơi! Cứu Không Quân với!"

          Nhóm thứ hai cho biết họ đang kẹt tại phía Nam bán đảo Sơn Chà. Họ phóng hỏa châu để HQ 802 dễ nhận ra vị trí của họ. HQ 802 đổi hướng, quay lại đón nhóm không quân. Vừa khi đó, trên sườn đồi sát mặt biển, đèn trực thăng bỗng lóe lên và tiếng kêu cứu của bộ chỉ huy hành quân Quân đoàn I thêm một lần lại vang lên.
          Hạm trưởng HQ 802, ra lệnh nhiệm sở tác chiến, đồng thời cho hạ thuyền xuồng đổ bộ vào cứu cả hai nhóm. Nhóm bộ chỉ huy hành quân Quân đoàn I có: Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh Sư đoàn 3 BB.
          (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)

          Ngày thứ 19 : 28-3-1975
          Quảng Nam


          Ngày 28-3, Bắc quân gia tăng áp lực tại khu vực Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trung đoàn 56 BB của Sư đoàn 3 BB tái phối trí tổ chức phòng thủ tuyến Duy Xuyên.

          Tất cả các quân nhân từ những nơi khác về Đà Nẵng trong những ngày trước cũng được tập trung để bổ sung cho các đơn vị trú phòng. Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 3 BB, Trung đoàn 56 BB được lệnh rút về tuyến vàng (Câu Lâu -Thu Bồn). Tại phòng tuyến Đại Lộc, Bắc quân đã chiếm bộ chỉ huy chi khu quận và lập hệ thống công sự phòng thủ ở đây. Trung đoàn 57 BB được lệnh phải triệt phá các chốt chận của Bắc quân quanh quận lỵ.

          1 giờ trưa, bộ chỉ huy tiểu khu Quảng Nam mất liên lạc với bộ Tư lệnh Sư đoàn 3.
          Theo lời Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Nam, thì trưa ngày 28-3, ông đã đến Duyên đoàn 15 Hải Quân dùng tàu nhỏ đi quan sát việc bố phòng quanh thị xã Hội An.

          Sau đó ông liên lạc về bộ chỉ huy tiểu khu thì không có ai trả lời.

          – : 28-3-1975, Hội An lọt vào tay Bắc quân.

          Cuộc rút quân từ Đà Nẵng
          Công tác cứu người hoàn tất, HQ 802 trực chỉ về Nam. Trên hải trình, HQ 802 gặp lại đoàn tàu của Hải đội 1 duyên phòng và một trong những tiểu đỉnh đó chở Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Hạm trưởng đón Phó Đề Đốc Thoại và đoàn tùy tùng của ông sang HQ 802.

          Khi đoàn tàu đến gần Qui Nhơn, vừa qua khỏi Cù Lao Chàm, chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương được báo cáo là sót một chiếc phà đầy người tại đài Kiểm Báo 101. HQ 17, HQ 8 và HQ 12 được lệnh quay lại Đà Nẵng. Hai trong ba chiến hạm đó được chỉ thị quan sát và yểm trợ để chiếc thứ ba vào đón chiếc phà. Ngoài ba chiến hạm vừa trở lại, vịnh Đà Nẵng buồn thật buồn và vắng tênh!
          (trích Hải Quân VNCH ra khơi, 1975)


          Tàn cuộc binh đao
          Đà Nẵng buồn thật buồn và vắng tênh với 73 ngàn quân cán chính VNCH bị bắt giữ trong số đó có 54,000 binh sĩ.
          Số sĩ quan bị bắt gồm 10 Đ/Tá, 70 Tr/Tá, 260 Th/Tá, 1,300 Đ/úy, 1,900 Tr/úy, 2.000 Th/úy và 2.300 Ch/úy. (Chiến tranh Việt Nam toàn tập)

          Thâm u bí sử
          Tướng Hoàng Văn Thái là người lo hậu cần và tiếp liệu cho tướng Võ Nguyên Giáp trong trận ĐBP. Đồng thời ông cũng là sui gia với Võ Nguyên Giáp. Hoàng Văn Thái qua 8 năm làm tư lệnh chiến trường ở miền Nam B2 (1), ông có nhiều kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Ông được Võ Nguyên Giáp giao làm kế hoạch “Chiến lược 2 năm” (2) năm 1975 với tướng Lê Trọng Tấn.

          Khi tướng Hoàng Văn Thái chuẩn bị lên làm bộ trưởng quốc phòng thay vì tướng Văn Tiến Dũng thì ông đột ngột chết ngày 2-7-1986. Trước khi chết, chính Hoàng Văn Thái nói với vợ: Người ta giết tôi. Có tin là bị Lê Đức Thọ sát hại vì e ngại người khác phe sẽ khui ra nhiều chuyện của Văn Tiến Dũng và Lê Đức Thọ.

          (1) Khởi đầu đi B có nghĩa là cán bộ, cán binh miền Nam tập kết ra Băc năm 54 (B là Bắc). Sau “đi B” chỉ những người từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.

          B2 chỉ vùng hoạt động đồng bằng Cửu Long. B3 chỉ Tây Nguyên, v…v…
          Tiếng lóng: “B dài” chỉ những văn nghệ sĩ miên Bắc vào Nam (Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hữu Phước). “B ngắn” chỉ những văn nghệ sĩ người miền Nam tập kết ra Bắc trở lại miền Nam (Anh Đức, Vàng Sao). “B tụt”, “B tạt”, “B quay” là tìm cách lẩn vào rừng, tụt lại sau, tạt vào các bản người dân tộc, rồi tìm cách quay về nhà. Hay nói khác đi là đào ngũ.

          (2) Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn dự trù 2 năm mới “dứt điểm” được miền Nam.

          Thâm U Bí Sử
          Trận Điện Biên Phủ, tướng Lê Trọng Tấn khi ấy là trung đòan trưởng, là người đã bắt sống De Castries năm 1954. Từ Tổng hành dinh do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy ở Hà Nội, tháng 3-1975, tướng Tấn được tướng Giáp cử chỉ huy mặt trận Quảng Đà (Quảng Trị-Đà Nẵng).

          Lê Trọng Tấn bị đảng cho người ám sát bằng thuốc độc chết. Sau đó đảng tuyên bố ông bị bệnh đột ngột qua đời trước Đại hội lần thứ 6 của đảng, mà nhiều người đồn rằng rất có thể tướng Lê Trọng Tấn sẽ nhậm chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng. Có tin ông cũng bị Lê Đức Thọ sát hại 5 tháng sau khi sát hại tướng Hoàng Văn Thái.

          Thâm U Bí Sử
          Hai tướng thân cận Lê Trọng Tấn và Hoàng Văn Thái của tướng Võ Nguyên Giáp bị bức tử trong vòng 5 tháng. Nhưng “cái đầu” của tướng Võ Nguyên Giáp như chém treo ngành:

          Lê Đức Thọ đã từng nói: Từ nay đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt nữa.

          Theo Hồ Ngọc Đại, con rể của Lê Duẩn thuật lại, ông và tướng Giáp tới nhà Lê Đức Thọ chúc tết, Lê Đức Thọ không thèm chào tướng Giáp một câu. Khi tướng Giáp về rồi, Lê Đức Thọ phẩy tay và nói với ông: Tao còn để cái đầu thằng Giáp trên cổ nó là may lắm rồi.
          (Quyền bính – Huy Đức)

          Sử lịch với ngày tháng
          Năm 1954, khi Điện Biên Phủ lâm nguy, ngày 25-3, chính phủ Pháp cử tướng Paul Ely đi Washington cầu cứu Hoa Kỳ gấp rút tiếp viện cho đoàn quân viễn chinh Pháp. Tổng thống Eisenhower từ chối: Điện Biên Phủ thất thủ.

          Trùng hợp với lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng: Đúng 21 năm sau, cũng cùng ngày 25-3 (năm 1975) khi quân đội VNCH đang di tản ở Đà Nẵng, chính phủ VNCH cầu cứu Hoa Kỳ, Tổng thống Ford làm ngơ: Đà Nẵng thất thủ.

          Lịch sử là gì
          Lịch sử là gì? Lịch sử là chuyện kể của kẻ chiến thắng…
          (Halikamasseus)

          Chuyện kể của kẻ chiến thắng
          Sau khi giải phóng Đà Nẵng, ngày 4-4-1975, tướng Lê Trọng Tấn được tướng Võ Nguyên Giáp gửi một mệnh lệnh cho Quân đoàn 2 yêu cầu quân đoàn sẵn sàng cơ động vào Nam tăng cường cho Quân đoàn 1. Lê Trọng Tấn cho rằng địch củng cố tuyến phòng thủ mạnh từ Phan Rang, Phan Thiết trở vào, Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn chưa dứt điểm được Xuân Lộc. Tại sao không đưa toàn bộ Quân đoàn 2 theo đường 1 đánh phá hệ thống phòng thủ của địch ở miền duyên hải để chia lửa cho Quân đoàn 4 và nếu phá vỡ sự phòng thủ của địch ở phía duyên hải, địch sẽ cơ bản mất khả năng tử thủ Sài Gòn.

          Lê Trọng Tấn đã thuyết phục Võ Nguyên Giáp như thế nào để thay đổi quyết định điều động Quân đoàn 2 thì chưa biết. Nhưng thực tế chiến sự sau đó đã cho thấy Quân đoàn 2 đã tiến công trong hành tiến trên trục đường 1 từ Đà Nẵng vào Phan Rang. Ngày 16-4, với lực lượng Sư đoàn 3 và 2 trung đoàn của Sư 325 được pháo binh và thiết giáp yểm trợ, quân ta đã đánh tan 1 vạn quân địch phòng thủ Phan Rang. Mộng “tử thủ Phan Rang” để giữ phần đất còn lại chờ cứu viện của Nguyễn Văn Thiệu tan thành mây khói.

          Cũng phải nói thêm, sau khi giải phóng Phan Rang, cánh quân duyên hải của tướng Tấn nhập vào đội hình chiến dịch Hồ Chí Minh. Tướng Tấn được cử làm phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh phụ trách hướng đông gồm Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4.

          Một lần nữa, Tướng Tấn lại là người về đích sớm nhất khi mũi cơ giới thọc sâu của Quân đoàn 2 là đơn vị vào được dinh Độc Lập đầu tiên.
          (Hồi ký chiến trường - Nguyễn Hữu An)

          Trận tuyến cuối cùng
          Phan Rang, Phan Thiết sát nhập vào Quân đoàn III

          Lúc 2 giờ chiều ngày 3-4-1975, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ này lẽ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói: Kể từ buổi thị sát này, Phan Rang, Phan Thiết sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của Vùng 3 chiến thuật. Cùng ngày tôi nhận được lệnh bộ Tổng tham mưu chỉ định phụ trách bảo vệ Phan Rang.

          Ngày 4-4, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chính thức đến Phan Rang nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang. Trung tướng Nghi quan niệm: Phải chống giữ mặt Bắc từ quận Du Long, để giữ an toàn cho căn cứ Không Quân, cũng như giữ an ninh cho thị xã Phan Rang.

          Theo quan niệm đó, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở tối thiểu 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được.
          (Trận tuyến cuối cùng – Phạm Ngọc Sang)


          Góp nhặt…ghi chép… (…trích lục lại)
          Quân đoàn II trước 75 gồm 7 tỉnh Cao Nguyên:
          Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng.

          Và 5 tỉnh Duyên Hải:
          Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà (và Đặc khu Cam Ranh), Ninh Thuận, Bình Thuận.
          – : Phan Rang thuộc Ninh Thuận, Phan Thiêt thuộc Bình Thuận.

          Góp nhặt…ghi chép…

          Kể từ ngày 6-4 Phan Rang tái phối trí, sau 10 ngày chiến đấu:

          Phan Rang thất thủ ngày 16-4-1975.

          Hai hôm sau, ngày 18-4-1975 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Bắc quân.

          Như vậy Bắc quân kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 quân khu, hai phần ba Nam Việt Nam.

          Ngày thứ 25 : từ 3-4 tới 16-4-1975
          Phan Rang – Phan Thiết


          Sau khi các đơn vị VNCH triệt thoái khỏi Nha Trang ngày 2-4, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, tình hình tỉnh Phan Rang (Ninh Thuận) trở nên hỗn loạn, công chức bỏ nhiệm sở, quân nhân các đơn vị địa phương quân bỏ đơn vị đi tìm gia đình.

          Gần một nửa địa phương quân tỉnh Ninh Thuận bảo vệ căn cứ Phan Rang đã bỏ vị trí phòng thủ. Tỉnh trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang sau khi ra lệnh thiêu hủy một số dụng cụ và phương tiện thiết yếu.
          (SQTB K10B/72)

          Trận Tuyến Cuối Cùng
          Kể từ ngày 2-4-1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của miền Nam. Ngoài thị xã, dân chúng ngơ ngác, phân vân. Trên Quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của trường Võ Bị Đà Lạt (1) đang theo Quốc lộ 1 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức hỗn loạn.

          Buổi tối cùng ngày, lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù cùng bộ chỉ huy lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh bộ tư lệnh KQ. Được biết đó là do bộ Tư lệnh Dù yêu cầu để Lữ đoăn 3 được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ,
          (Phạm Ngọc Sang)

          Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 KQ/QĐ2.
          Sở Liên Lạc – Nha Kỹ Thuật…đi vào nơi gió cát
          Bắc quân bắt đầu pháo vào phi trường Phan Rang nơi đặt bộ Tư lệnh mặt trận từ 4 giờ sáng. Liên tục, dữ dội khoảng nửa tiếng. 5 giờ sáng đơn vị tôi đươc lệnh di chuyển đến bộ Tư lệnh.

          Giờ đây, đạn pháo không còn dồn dập nhưng lai rai. Chúng tôi di chuyển trong tình trạng như thế. Mà cái hiện thực đang trùm phủ không chỉ lên người mà lên cả số phận. Như những cái máy, chân bước mà lòng không thể xua tan được cái “mùi” khó tả của sự chết đang tán lạc quanh đây, đang phân phát, chia đều cho từng người, không sót một ai. Thứ “mùi vị” khiến đầu óc mê mụ đi, thân xác rã rời và không có ma lực hoặc thần lực nào châm dứt được “thứ trò chơi” pháo khủng bố ấy. Mỗi quả pháo là một nổi kinh hoàng, vãi xuống bung thành những…cái dấu chấm hết cho nhiều số phận. Điều lạ lùng là cho tới giờ phút này. Sự phản pháo chả có. Phi trường của Sư đoàn 6 KQ không có lấy một phản ứng. Mặt trận không có pháo binh và phi cơ. Hoàn toàn bất lực và cam chịu.

          Trời sáng dần, gió lồng lộng, mặt trời đỏ rực nhô lên báo hiệu một ngày hè nắng chói. Trong cái hangar nằm giữa phi trường, nơi đặt bộ tư lệnh mặt trận. Phía trước hangar, hai chiếc trực thăng cấp tướng đậu cùng phi hành đoàn túc trực. Hangar kế bên đậu toàn xe jeep cần câu. Đơn vị chúng tôi đươc phân công bảo vệ bộ tư lệnh. Bộ đội nón cối lúc này vẫn pháo rời rạc. Cái lạ là bên ta không có tiếng pháo giao tranh. Sự hoạt động duy nhất mang tính trận địa là chiếc L19, phi cơ trinh sát bay vòng vòng trên phi trường. Nhưng rồi, từ phi cơ bốc ra những làn khói và rất nhanh phi cơ lao xuồng bay một vòng thấp đáp vội xuống phi trường.

          Đang lúc có một cuộc họp tư lệnh bên trong hangar. Chóng vánh và ngắn gọn. Người ta trao đổi, báo cáo, nét mặt buồn so thể hiện trên mọi khuôn mặt. Hai dẫy máy truyền tin hoạt động nhộn nhịp, tất tả. Kẻ ra người vào vội vã va chạm, có người đã ngã chúi. Từ cửa hangar, tôi được phân công canh giữ và có dịp chứng kiến cảnh tượng diễn ra bên trong bộ tư lệnh…
          (Nguyễn Văn Hải)

          Ngày thứ 26 : 4-4-1975
          Phan Rang – Ninh Thuận


          Sau khi 6 tỉnh Cao Nguyên và 8 miền tỉnh miền Trung bị lọt vào tay Bắc quân, để ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, thành lũy cuối cùng của Quân đoàn II.

          Tình hình tỉnh Ninh Thuận: Ngay sau khi bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân đoàn III được thành lập tại Phan Rang. Tỉnh trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang ngày 3-4 được lệnh trở về phòng thủ quanh thị xã. Tuy nhiên lực lượng nòng cốt để bảo vệ Phan Rang vẫn trông cậy vào Nhảy Dù cùng lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân. Với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và tình hình tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
          (SQTB K10B/72)

          Trận Tuyến Cuối Cùng
          Ngày 6-4, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ để thay thế Lữ đoàn 3 Dù tại phòng tuyến Phan Rang. Đại tá Lương liền điều động giải tỏa đoạn Quốc Lộ 1, Tiểu đoàn 11 Dù được trực thăng của Sư đoàn 6 Không Quân đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đi Du Long. Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số Bắc quân, vì ngỡ Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển.

          Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh sư đoàn dù và Trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ Phan Rang. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chữa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu ngon lành mà thay bằng đơn vị đã từng vội vã rút quân và còn đang chờ đợi bổ sung quân số (Lữ đoàn 2 Dù).

          Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được 2 trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc Sư đoàn 2
          như đã hứa trước để nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang. (,,,)

          Sở Liên Lạc – Nha Kỹ Thuật…đi vào nơi gió cát
          Cũng giống như xem một phim câm, tôi suy đoán và ghi nhận mọi diễn tiến bên trong bằng hình ảnh chứ không thể nghe thấy bất cứ một lời nói nào từ những nhân vật chỉ huy. Nói môt cách khác tôi chỉ chứng kiến sự việc bằng vào cái tầm nhắm chỉ từ đỉnh đầu ruồi đến lỗ châu mai.

          Ngoài kia người ta đang tiếp cứu phi công của chiếc L19 lâm nạn. Nhưng rồi, vài người lính không quân leo vội lên chiêc xe đậu gần đó, nhìn thẳng về phía đường băng phi trường, tay chỉ trỏ. Bât giác tôi nhìn theo rồi sửng sốt. Rất đông, rất đông, môt đoàn quân lũ lượt ào ạt di chuyển, đúng hơn là đang chạy, tựa như con trăn khồng lồ trườn tới. Một vị Trung tá già từ trong hangar đi vội ra và ra lệnh cho hai trực thăng cất cánh…

          Không khi nơi đây sôi động hẳn lên kể từ lúc đó. Rồi đến lượt chiêc xe không quân nổ máy biến dạng. Quang cảnh hỗn loạn, tất tật của mọi người, vội vã, câm nín… Sự giống nhau biểu lộ trên mọi khuôn mặt mà hơi hướng làn gió thất trận đang quất thẳng vào từng người, không chừa môt ai, kể cả những “người hùng” nhất. Người ta chỉ kịp truyên nhau câu lệnh tìm đường ra bãi biển, sẽ có tầu hải quân đến đón. Và rồi không ai bảo ai nhịp chân cứ thế nối đuôi nhau tiến bước. Sự hòa đồng quan cũng như quân bỏ lại những chiếc xe jeep tội nghiệp, cùng xác người chết và bị thương, chờ bộ đội nón cối chôn và chữa chạy dùm!

          Ra khỏi dẩy hangar, trên bải sân rộng, hai chiếc trưc thăng võ trang đang nổ máy trên chất đầy người. Và rồi, một cảnh tượng như xiếc, hai trưc thăng bốc ngược lên khá cao, rồi mới chịu bay đi. Từ trực thăng, ai đó đã làm rơi cái nón sắt xuống sân.

          Thế là phi trường đang bị bỏ lại.
          Chiến thắng của bộ đội nón cối sau 6 tiếng đồng hồ tấn công chỉ là cái phi trường trống rỗng.
          (Nguyễn Văn Hải)

          Tác giả thuộc Chiến đoàn 1 Xung kích/Sở liên lạc/Nha kỹ thuật.
          Trận Tuyến Cuối Cùng


          Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu khởi sự pháo kích vào căn cứ Không Quân. Đơn vị 968 (1) bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ Không Quân, phối họp với từng đợt pháo kích. Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần. Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phận nặng rời căn cứ. Liên đoàn 31 Biệt động quân cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C130. Quân số liên đoàn gồm khoảng 1,000 người đến trám vào các địa điểm đóng quân của lực lượng Dù tại Du Long và Ba Râu.

          Ngày 14-4-1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 BB cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ. Ngày 15-4, từ sáng sớm Bắc quân liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn III đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xã, nghe tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, trung tướng tổng trưởng quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt. (…)

          (1) Sư đoàn 968 và Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân đoàn 3 từ Pleiku bôn tập xuống phối hợp với 2 trung đoàn của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 kéo xuống Xuân Lộc trên QL1 dọc theo ven biển từ Đà Nẵng vào và hợp lực đánh Phan Rang.

          Ngày thứ 27 : 5-4-1975
          Sài Gòn thay đổi nhân sự


          Ngày 5-4, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính phủ kiêm Tổng trưởng Quốc phòng nộp đơn lên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xin từ chức. Tổng thống chấp thuận và cử ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch hạ viện, thành lập nội các.
          (SQTB K10B/72)

          Ngồi ở quán nhậu nghe chuyện súng đạn
          Khi bị bại trận, hắn kê khẩu súng sát vào màng tang. Và bóp cò…
          Bốn mươi năm sau, hắn vẫn chưa nghe tiếng súng nổ.
          (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

          Trận tuyến cuối cùng
          Từ chiều ngày 15-4 trở đi, trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công Phan Rang 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với chiến xa, theo Quốc lộ 1 từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân án ngữ ở đồi Du Long. Bắt đầu 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v… Chúng vượt đồi Du Long tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân tiến về hướng nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chỗ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sáng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề với con số tử vong gần 100 cán binh.

          Kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả Phan Rang lúc 7 giờ sáng ngày 16-4-1975. (…)

          Lạc đạn
          Qua ngọn đồi Du Long với những nấm mộ hoang chẳng thể không nhắc đến nhà thơ “điên” Nguyễn Đức Sơn người Ninh Thuận với chuyện thời hậu chiến đã buông xả qua:

          Nhắn
          Mai sau người nhớ đến ta
          Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
          Đường xa xin chớ bồi hồi
          Mồ hoang nhảy đại lên ngồi đi cha


          Ngày thứ 28 : 6-4-2075
          Phan Thiết – Bình Thuận


          Ngày 6-4, Sư đoàn 7 (?!) xâm nhập phiá Tây Phan Thiết. Về hỏa lực Không Pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không Quân. Yểm trợ hỏa lực có 1 tiểu đoàn Pháo Binh của sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn III điều động đến để phòng thủ và bảo vệ Phan Thiết.
          (Wikipedia)
          (?!) Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 đang sửa soạn đánh Xuân Lộc (Vùng 3 chiến thuật VNCH).


          Anh hùng mạt vận
          Ðiều đáng tiếc là nhiều cựu chiến binh lúc trở về gia nhập vào hàng ngũ những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ. Chắc một số người sẽ cho rằng điều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều cho họ là một lũ bất tài, và hèn nhát, phải như vậy không?

          Không, hoàn toàn sai.

          Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ để đánh đổ cái huyền thoại này, đồng thời xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy. Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hảo. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những chịu đựng những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở đây cũng không hơn gì. Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối cộng sản hỗ trợ?

          Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Ðộc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence), dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm thuận lợi như: Cái quy mô của cuộc Chiến tranh cách mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn, quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự, Quân Anh không quá ngoan cố như quân Bắc Việt và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam.

          Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những yếu tố để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.
          (Harry F. Noyes III)

          – : Tựa đề “Anh hùng mạt vận’’, tên nguyên bản Heroic Allied.

          Trận tuyến cuối cùng
          Khoảng 10 giờ 30 sáng ngày 16-4, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào bộ tư lệnh tiền phương thì trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ rút theo hướng nam về Cà Ná (Phan Thiết) để lập phòng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, ông Lewis chuyên viên tòa đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền Phương, Sư đoàn 6 Không Quân, Liên đoàn 3I Biệt động Quân lối 400 người rời căn cứ tiến về hướng Nam đến thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa. Khoảng 4 giờ chiều, trung tướng Nghi được truyền tin cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu. Vì vậy trung tướng Nghi quyết định vì an toàn nên ra lịnh toán cứu cấp không nên đáp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.

          Lúc 9 giờ tối, đoàn người bắt đầu rời thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22-4 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ.
          Chúng thả ông Lewis vào tháng 8-1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.
          (Phạm Ngọc Sang)

          Phan Thiết thất thủ

          Từ 7 giờ đêm 18-4, các TĐ249, TĐ275 và TĐ290 ĐPQ rút cùng lúc với chi khu Hải Long.

          Tới 9 giờ tối đêm 18-4, xe tăng và bộ binh của Bắc quân, chiếm tòa hành chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn còn nhiều đơn vị địa phương quân chống trả như ĐĐ95 và Tiểu đoàn 229 ĐPQ. Nói chung, khắp thành phố lửa đạn mịt mù, Bộ binh của Bắc quân tuy vào được trong thành phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không dám bung ra trong đêm, vì chỗ nào cũng còn quân ta chiến đấu.

          Gần nửa đêm 18-4-75, tất cả các đơn vị Địa phương Quân đang chiến đấu trong thành phố, được lệnh cố gắng tập trung về bãi biển Kim Hải để chờ tàu HQ vào đón về Vũng Tàu.
          (Mường Giang)

          Anh Hùng Mạt Vận
          Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cãi. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy?

          Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là: Không.

          Chứng cớ: Trận Tổng công kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, họ đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu. Không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Trong cuộc Tổng tấn công năm 72, quân trú phòng Nam Việt bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân địch cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẩu chuyện một tiểu đội lính Nam Việt trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách đuổi bắt hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường.

          Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát. Ðể minh chứng hơn, hãy nhìn vào Miền Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược).

          Thế mà một đơn vị Nam Việt tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn Bắc Việt trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Họ sau đó đành phải lui binh vì không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu. Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên đồng nghiệp quay phim và tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên Hoa Kỳ, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ Nam Việt. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. (1) (…)
          (1) Xem ‘’Ngọn đồi cuối cùng’’ của Pierre Darcourt ở tiết mục Ngày thứ 34 – 12 ngày trận chiến Xuân Lộc.

          Lạc đạn
          Nhắc đến Địa phương Quân Phan Thiết thì không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn không những ông là người Phan Thiết mà ông còn là lính địa phương quân tiểu khu Phan Thiết nữa. Thơ ông ngập những bi ai cũng như bi hài của thơ miền Nam thời chiến của một thời một thuở như “tai trời ách nước”, vì “chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi…”

          Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
          Ăn muối đá và say sưa chiến đấu
          Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
          Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
          Mang trong mình những ý nghĩ trong veo
          Xem cuộc chiến là tai trời ách nước
          Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
          Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
          Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
          Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
          Lũ chúng ta sống cuộc đời vô vị
          Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau…

          (1) Người thơ Phan Thiết Nguyễn Bắc Sơn vừa mất tháng 8-2015. Trùng hợp Tạp ghi sau 40 năm đang dàn trải vào tháng 8-2015.


          Anh Hùng Mạt Vận
          Vậy thì do đâu mà Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu?

          Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng Pháo Binh Hoa Kỳ khi hay tin đại đội Bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn. Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực Hoa Kỳ là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam Việt Nam bị suy vong.

          Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không. Vị công tước đáp, Ngoài chiến trường người lính nào cũng có thể bỏ chạy cả, thưa bà.

          Một nghiên cứu trong quân sử cũng xác minh được điều này.

          Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.

          Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị Bộ Binh Hoa Kỳ thời Ðệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Ðơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vỡ lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.

          Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội miền Nam. Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu tai tiếng bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần “sô-vanh’’ nước lớn của người Mỹ. (…)

          Chữ nghĩa của một thời chinh chiến trong quán nhậu
          Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:

          Capstan : Chiếc áo phong sương tình anh nặng.

          Anh Hùng Mạt Vận
          Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan Hoa Kỳ, Ðại tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập san Quân Ðội) số ngày 19-4-1971 như sau:

          Một tiểu đoàn Nam Việt gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông từ 2.500 đến 3.300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía Hoa Kỳ không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Họ còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch. Ðơn vị chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu nên họ phải chạy. Một số ít kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng Hoa Kỳ đến tăng viện để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc? Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc.

          Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng họ sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã và…can đảm.

          Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế chiến thứ hai. Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngũ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình. Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Ðiều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này. (…)

          Tàn Cuộc Binh Đao
          Tính từ ngày 10-3 khởi đầu ở Quân khu II đến ngày 18-4-1975 không có con số chính xác nào cho quân nhân VNCH bị bắt làm tù binh, ngoài hai vị tướng bị bắt ở Tuy Hoà và Phú Yên:

          Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, Chỉ huy Trưởng Biệt động Quân QĐ II.
          Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành Quân Tư Lệnh QĐ II.
          Hai tướng bị bắt trên đường lui quân từ Phan Rang về Phan Thiết:
          Chuẩn tướng Tư Lệnh Sư đoàn 6 KQ Phạm Ngọc Sang.
          Trung tướng Tư Lệnh Tiền Phương Nguyễn Vĩnh Nghi.

          Giã từ vũ khí
          Tính từ ngày 3-10 trận chiến Ban Mê Thuột đến ngày 18-4-1975 Phan Thiết thất thủ, cũng không có con số chính xác tử vong của QĐ 1 và QĐ 2. Nhưng chiến sử ghi nhận: Chuẩn tướng TL/SĐ1/BB Nguyễn Văn Điềm thuộc QĐ 1 đã bị tử nạn máy bay trực thăng ở Quảng Ngãi.

          Giã từ vũ khí
          (…tổng hợp & trích lục lại)
          Chiều 24-3-1975, HQ 7 tuần tiễu từ cửa Tư Hiền đến cửa Thuận An thấy một ghe nhỏ nhấp nhô, sắp chìm. Hạm trưởng đặt ống dòm và thấy rõ trên ghe là một toán bộ binh nên điều động chiến hạm đến vớt mới biết trong toán quân nhân trên ghe có Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh Sư đoàn 1 BB. Sau khi gọi một WHEC đến đưa chuẩn tướng Điềm về Đà Nẵng.

          Về lại Đà Nẵng, một ngày sau số phận không may lại đến với chuẩn tướng Điềm lần nữa:
          Chiều 25-3, lúc 5 giờ, trong khi bay điều động cuộc rút quân, trực thăng chở tướng Điềm bị trục trặc phải đáp khẩn cấp phía Bắc đèo Hải Vân. Lúc đó, tại bãi cát bên kia đầm Cầu Hai có một chiếc trực thăng đang thả cơm sấy và thịt hộp tiếp tế quân nhân Thủy Quân Lục Chiến ở dưới đất, Nghe tiếng kêu cứu trên máy truyền tin, chiếc trực thăng của Thủy quân Lục chiến vội rời vùng Cầu Hai đến cứu Chuẩn tướng Điềm.

          Bốn ngày sau, tận cùng của anh hùng mạt vận đến với Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm. Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm cùng bộ Tham mưu Sư đoàn 1 khoảng 10 người trên trực thăng UH1 từ phi trường Non Nước, Đà Nẵng bay về hướng Quảng Ngãi. Máy bay bị trúng đạn chao đảo, cánh quạt đụng nước tại gần bờ biển Sa Huỳng và Bồng Sơn. Tất cả mọi người đều bị tử nạn trừ Trưởng phi cơ (phi đoàn 257) là Trung tá Lê Ngọc Bình sống sót.

          Đó là ngày 29-3-1975.

          Góp nhặt sỏi đá
          Ngày 29-3-1975, Đà Nẵng di tản với Tướng Trưởng, Tướng Khánh, Tướng Thoại,
          Tướng Lân, và Tướng Hình.

          Một tháng sau:
          Ngày 29-4-1975, Sài Gòn di tản với Tướng Trưởng, Tương Kỳ, Tướng Đôn, Tướng Đống.

          Anh Hùng Mạt Vận
          Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc rất anh dũng. Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ của phía người Mỹ ắt Nam quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.

          Vấn đề là không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ. Sự thật là quân Mỹ nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi như chính Nam Việt đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá hơn.

          Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắt lưng buộc bụng, họ đã phải đếm từng viên đạn đại pháo để tiết kiệm để còn đạn xử dụng. Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây.

          Phải, quân Nam Việt đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía Bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế? Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ, làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bảo vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang cần đến mình.

          Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như miền Nam hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch sung mãn, trang bị tối tân. Tôi e là không thắng nổi.

          Liệu Nam Việt có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho Nam Việt không kém với chi viện mà khối Cộng sản dành cho miền Bắc? Câu trả lời là không biết được (1). Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu thế.
          (Harry F. Noyes III) - Harry F. Noyes III là cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân.

          (1) Sau khi người lính tác chiến cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam năm 73, quân lực VNCH đã chiến đấu dũng cảm và đáng kính phục trong 2 năm kế tiếp, để chống lại lực lượng cộng quân được viện trợ đầy đủ hơn. Từ cuộc Tổng công Kích Tết Mậu Thân 1968 cho đến khi Sài Gòn sụp đổ, miền Nam Việt Nam không bao giờ thua một trận lớn nào. (Melvin R. Laird)

          – : Melvin R. Laird là Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng thống Richard Nixon.

          Comment


          • #6
            Chương 7

            Vùng 3 Chiến Thuật - Quân đoàn III

            Vùng 3 CT từ Bình Tuy đến Tây Ninh.
            (gồm các tỉnh: Long Khánh, Biên Hòa, Bình Dương, v…v…Long An)
            Quân đoàn III có 3 sư đoàn: Sư đoàn 5, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25.


            Xuân Lộc, một chiến thắng ngắn ngủi
            Xuân Lộc là một thành phố chính yếu của tỉnh Long Khánh, có vị trí cách thủ đô Sài Gòn khoảng 60 km về hướng đông bắc. Ở vào thời điểm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam thì trận đụng độ tại nơi này giữa quân đội Bắc Việt và VNCH được coi như là một trận chiến khốc liệt nhất trước khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị thất thủ. Đây là trận chiến duy nhất mang tính cách quy mô toàn diện trong giai đoạn cuối của kế hoạch xâm chiến miền Nam, qua đó quân Bắc Việt đã tận dụng hết toàn bộ lực lượng quân chính quy với những hỏa lực hùng hậu nhất nhằm tấn công triệt để quân đội VNCH hầu tạo thế quyết định chiến trường.

            Nhưng có một điều đau lòng đối với chính quyền Sài Gòn là qua trận chiến ác liệt này mặc dù Sư đoàn 18 của VNCH dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo đã chiến đấu thật mãnh liệt và đẩy lui những đợt sóng tấn công ào ạt của địch bảo vệ Xuân Lộc trong một chiến thắng oanh liệt cũng như chiến thắng này đã đưa tên tuổi của tướng Lê Minh Đảo trở thành một vị anh hùng trong quân sử VNCH. Nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó chính quyền Sài Gòn sụp đổ tan tành. Thành phố Xuân Lộc có khoảng 100 ngàn dân cư, được những đồn điền cao su dày đặc bao bọc xung quanh. Trong thành phố, người ta thấy có rất nhiều tiệm buôn nho nhỏ xen kẽ với nhà cửa dân chúng và sự nổi bật của những ngôi nhà thờ nghiêm trang, cung kính như làm tăng thêm phần thanh nhã, êm đềm vốn là đặc tính của phong cảnh nơi này. Tôi cũng đã có nhiều dịp dùng xe đi ngang thành phố Xuân Lộc mỗi khi phải thực hiện phóng sự tại các tỉnh cao nguyên Trung phần và các thị trấn ven biển của miền Trung.

            Mức độ tấn công của quân Bắc Việt vào Xuân Lộc đã thực sự trở nên ác liệt từ ngày 9-4-1975, tức thời điểm trước khi Sài Gòn thất thủ đúng 3 tuần lễ. Đầu tiên, để uy hiếp và trấn áp tinh thần của Sư đoàn 18 VNCH, quân Bắc Việt đã dùng loại pháo 130 ly liên tục pháo kích vào những cứ điểm đóng quân của sư đoàn này và hầu hết những địa điểm trong ngoài thành phố Xuân Lộc. Loại pháo 130 ly này có xạ trình đến 27 km do Liên Xô và Trung Quốc phối hợp chế tạo và là một trong những vũ khí có sức công phá dữ dội nhất của quân Bắc Việt.


            Pháo 130 ly tầm tác xạ từ 15 đến 27 km

            Sau khi Sài Gòn bị rơi vào tay quân đội Bắc Việt, tôi đã được chúng kiến tận mắt loại pháo 130 ly này với một số lượng không sao đếm hết. Đồng thời, với kích thước to lớn của nó, cũng đã cho thấy phần nào hỏa lực hùng mạnh của quân Bắc Việt. Qua việc tận dụng cả lực lượng chính quy của Quân đoàn 4 trong mục tiêu đánh chiếm Xuân Lộc đã cho thấy phía Bắc Việt rất coi trọng địa điểm này trong vị trí chiến lược xung yếu. Nếu chiếm được Xuân Lộc thì những lộ quân của Bắc Việt xuất phát từ đây dễ dàng phối hợp cùng những tuyến quân xâm nhập từ phía đông nam để chọc thủng hàng rào phòng thủ cuối cùng quanh thủ đô Sài Gòn. Từ đó, Xuân Lộc đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiếc lược tấn công của Bắc Việt. Mặt khác, nếu nhìn từ Sài Gòn ta sẽ thấy Xuân Lộc quả thật là một thành trì quan trọng nằm ở hướng đông, có khả năng che chở cho cả thủ đô vì nó là giao điểm của quốc lộ số 1 dọc theo các bờ biển Trung phần và quốc lộ số 2 từ các tỉnh cao nguyên miền Trung. Nếu cho quân thẳng tiến vào Nam thì phải đi theo 2 tuyến đường quốc lộ nói trên nên Bắc Việt phải giải tỏa nút chặn chiến lược trọng yếu Xuân Lộc.

            Sau khi chịu đựng những đợt pháo kích liên tục như bão táp mưa sa của quân Bắc Việt, lực lượng phòng thủ Sư đoàn 18 VNCH với tương quan quân lực kém hẳn địch thủ là 1 đối 3 bắt đầu tổ chức những đợt phản công đánh trả lại một cách hữu hiệu. Và thật đáng kinh ngạc, những chiến sĩ Sư đoàn 18 đẩy lui không biết bao nhiêu đợt tấn công xâm nhập vào Xuân Lộc của địch với gần 1.000 xác quân Bắc Việt và mấy chục chiến xa phải bỏ lại tại thành phố đầy lửa đạn này. Trong tình thế liên tiếp mấy ngày liền bị vây hãm như vậy, chính quyền Sài Gòn đã tăng phái quân tinh nhuệ thuộc sư đoàn nhảy dù lúc đó đang đóng tại phía bắc Sài Gòn, dùng trực thăng đến Xuân Lộc để tiếp ứng. Dưới sự chỉ huy tài tình của tướng Lê Minh Đảo, những chiến sĩ VNCH đã cố thủ cũng như phản công mạnh mẽ.

            Kết quả, sau ba ngày tấn công tới tấp vào Xuân Lộc, quân Bắc Việt đã bị nhiều tổn thất nặng nề nên đành phải ngưng chiến. Liên quan đến sự kiện này, tướng Văn Tiến Dũng của Bắc Việt, tổng tham mưu cuộc tấn công Xuân Lộc, đã viết: Tại Xuân Lộc, lần đầu tiên quân đội ta chạm phải một đội quân quyết tử của địch. Tuy quân ta đã nhiều lần xâm nhập được vào trong thành phố và tạo được thế uy hiếp mạnh mẽ nhưng đều bị đánh lui trở lại. Điều này chứng tỏ Quân đoàn 4 của ta đã không lượng định được chính xác sức đề kháng kiên cường của địch.

            Lúc này, 3 sư đoàn thuộc Quân đoàn 2 Bắc Việt đã từ những vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến về Xuân Lộc để tăng cường thế công và tổng cộng có 5 sư đoàn của phía Bắc Việt với quân số đầy đủ vây hãm duy nhất 1 Sư đoàn 18 của VNCH.

            Sau mươi ngày cầm cự, chịu đựng không nổi trước chiến thuật áp đảo của địch, Sư đoàn 18 bắt đầu triệt thoái khỏi thành phố Xuân Lộc vào ngày 20-4-1975. Sau đó, sư đoàn này được tái tập trung và đóng quân phòng thủ ngay sát nách Sài Gòn về phía đông, nhưng đã quá muộn màng vì quân Bắc Việt gỡ được nút chận Xuân Lộc và các tuyến quân Nam tiến của họ đã tựa như thế chẻ tre tiến công ào ạt về Sài Gòn khiến cho quân đội miền Nam bị tan rã thành từng mảnh, từng mảnh. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 cùng các binh sĩ của ông chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.

            Sau ngày miền Nam sụp đổ, tướng Lê Minh Đảo đã bị cộng sản giam giữ tại các trại tù khổ sai, cưỡng bức lao động. Người hùng Xuân Lộc năm nào nay đã trở thành người hùng cô đơn với nhiều tâm sự mà ít người thấu hiểu.
            (The Fall Of Sai Gon – Komori Yoshihisa)

            Ngày thứ 29 : 7-4-1975
            Bình Dương – Long Khánh

            Ngày 7-4, Bắc quân tiến về gần Bình Dương và Long Khánh.
            Bình Dương có Sư đoàn 5 BB với Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ.
            Long Khánh có Sư đoàn 18 BB với Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.
            (SQTB K10B/72)

            Quân sử ngoại truyện
            Ngày 7-4-1975, Ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ, thành viên ký Hiệp định Paris đại diện Bắc Việt, bay vào Lộc Ninh để chỉ đạo cuộc xâm chiếm miền Nam.

            Tình hình căng thẳng tại Xuân Lộc khiến Thượng tướng Trần Văn Trà và lãnh đạo lo âu:
            Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh.

            Tướng Trần Văn Trà nhận định lực lượng VNCH: Chiếm ưu thế so với ta. Ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ, vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi.
            (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

            12 ngày trận chiến Long Khánh (Xuân Lộc)
            Xuân Lộc là quận châu thành của tỉnh Long Khánh, được thành lập năm 1957, là nơi định cư của đồng bào miền Bắc di cư vào Nam ở thời điểm 1954, gồm cả người Việt lẫn đồng bào sắc tộc như Nùng, Thái, Mường… Quận Xuân Lộc nằm dọc trên Quốc lộ 1, từ Gia Rai đến ngã ba Dầu Giây (giáp ranh tỉnh Biên Hoà), do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và Sài Gòn.

            Ngoài ra, Xuân Lộc cũng nằm trên đường giao liên của địch, giữa chiến khu C và D, với mật khu Mây Tào, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển.
            (ĐBT – Hồ Đinh)

            Ngày thứ 30 : 8-4-1975
            Trận chiến trên Quốc Lộ 20

            Bắc quân áp lực nặng phòng tuyến Long Khánh.

            Ngày 8-4, Bắc quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đóng chốt ở ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

            Ngày 8-4, để ngăn chận các đợt tấn công của Bắc quân, không quân VNCH đã thực hiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Bắc quân, nhưng đã gặp khó khăn do màn lưới phòng không dày đặc của các trung đoàn pháo binh phòng không của Bắc quân.

            Góp nhặt…ghi chép…
            Theo Sài Gòn thất thủ của Komori Yoshihisa, mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là Quân đoàn 4 do tướng Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng Hoàng Đình Hiệp. Các đại đơn vị thuộc quân đoàn này gồm có: Sư đoàn 6, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 và các trung đoàn xe tăng, pháo, phòng không… Thêm 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 2 Bắc Việt (thuộc Vùng 1 chiến thuật VNCH) đã từ vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến đến Xuân Lộc để tăng cường.

            Quân đoàn 4 tại Vùng 3 chiến thuật
            Quân đoàn 4 tức Binh đoàn Cửu Long, quân số 35.000 người.

            Ngoài các Sư đoàn 6 (2.300 người), 7 (4.100 người), 341 (4.500 người), Trung đoàn 26 tăng thiết giáp, Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn công binh 25. trung đoàn truyền tin, v…v…

            – : Quân đoàn 4 vừa được thành lập ngày 20-7-1974.
            – : Sư đoàn 341 trừ bị vừa di chuyển từ Thanh Hoá vào để tăng cường.
            – : Tư lệnh Quân khu 7 (hay CT7) là tướng Trần Văn Trà.

            12 ngày trận chiến Long Khánh (Xuân Lộc)
            Chiến tuyến Xuân Lộc được thiết lập dọc theo Quốc lộ 1 dài hơn 10 km. Chiến đoàn 52 và thiết đoàn xe tăng giữ mặt tây tại ngã ba Dầu Giây trên đường đi Đà Lạt, Trung đoàn 48 BB và Liên đoàn 7 Biệt động quân phòng thủ mặt đông từ núi Chứa Chan, Giá Rai đến Xuân Lộc.

            Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 BB và các tiểu đoàn Địa phương Quân Long Khánh bảo vệ. Tướng Lê Minh Đảo và bộ tư lệnh sư đoàn đóng tại Tân Phong phía nam Xuân Lộc 3 cây số.


            Sư đoàn 7 & Sư đoàn 341

            Xuân Lộc và các đơn vị VNCH
            Sư đoàn 6 nằm trong vòng đai màu xanh.

            Năm giờ sáng 9-4 Bắc quân pháo kích thị xã Xuân Lộc trong 2 tiếng đồng hồ. Pháo vừa ngưng tức thì bộ binh, xe tăng ào ạt tiến vào, quân trú phòng chống trả ác liệt, hơn 10 xe tăng bị bắn hạ sau 6 tiếng đồng hồ giao tranh. Hai tiểu đoàn đặc công bị thiệt hại nặng, hơn 100 tên bỏ xác tại trận, Bắc quân rút lui giữa ban ngày bị máy bay, pháo binh ta truy kích dữ dội.

            Ngày thứ 31 : 9-4-1975
            Trận chiến Long Khánh (Xuân Lộc)

            Ngày 9-4, Bắc quân pháo kích như mưa vào Biên Hòa, và căn cứ tiếp vận Long Bình.
            Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, ngày 9-4, Bắc quân điều động 3 sư đoàn chính quy trải rộng bao quanh khu vực ngã ba Dầu Giây.
            (SQTB K10B/72)

            Xuân Lộc tháng Tư
            Đầu tháng 4-1975, Quân đoàn II không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ hướng dẫn Liên đoàn 24 Biệt động quân từ Quảng Đức về sân bay Long Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của bộ tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Xuân Lộc (6-4-1975) tôi không hề có ý nghĩ rằng tại nơi này chỉ mấy hôm sau, đơn vị tôi lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất.

            Rạng đông 9-4 trận Long Khánh bắt đầu. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Những chiếc Khủng Long AC119 bao vùng cả ngày lẫn đêm với những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 100 ly và 57 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc T54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch.

            Trong những ngày đầu tháng Tư ở Long Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn!

            Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của Bắc quân gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 100 ly, 57 ly.

            Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 57 ly để bắn trực xạ vào Trại 181 Pháo binh của Sư đoàn 18, nơi tôi đặt bộ chỉ huy Tiểu đoàn 82 Biệt động quân.
            (Vương Mộng Long, K20 VB, Thiếu tá BĐQ).

            Quân sử ngoại truyện
            Ủy viên bộ chính trị Lê Đức Thọ cũng phải công nhận thất bại tại trận Xuân Lộc, Long Khánh:
            Sau hai lần B2 xin quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị miền vừa kết thúc. Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc lại. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ hết tình hình: Cứ để các đồng chí đánh vậy.

            Kết cục là anh em ta không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng phải rút ra.
            (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

            Ngày thứ 32 : 10-4-1975
            12 ngày trận chiến Xuân Lộc – Long Khánh

            Sáng 10-4, Sư đoàn 7 và 341 Bắc quân tấn công tuyến phòng thủ Long Khánh. Hai trung đoàn Bắc quân giao tranh ác liệt với chiến đoàn 52, một số tiền đồn các cao điểm trên Quốc lộ 20 bị mất, tuyến phòng thủ của chiến đoàn nay thu ngắn lại còn chừng 10 km.

            Trưa 10-4, Bắc quân di chuyển từ Định Quán xuống bị máy bay L19 phát hiện, không quân liền được gọi tới oanh kích gây nhiều thiệt hại nặng cho địch, hàng chục xe tăng, hằng trăm Bắc quân bị tiêu diệt. Hai trung đoàn Bắc quân từ hướng bắc Long Khánh ồ ạt tấn công vị trí phòng thủ của BĐQ và Trung đoàn 48 BB nhưng bị thảm bại, hàng trăm tên bỏ xác tại trận.
            (Trọng Đạt)

            Góp nhặt…ghi chép…
            Darcourt (1), sử gia người Pháp nhận xét: Trong hai ngày pháo binh Bắc Việt tác xạ hơn 8.000 trái đạn vào các vị trí của Sư đoàn 18. Liên lạc vô tuyến với bộ chỉ huy của tướng Đảo bị gián đoạn rồi lại được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lùi, mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ.
            (1) “Ngọn đồi cuối cùng” – Pierre Darcourt.

            Xuân Lộc tháng Tư
            Qua hàng chục đợt xung phong, đoàn chiến xa của Bắc quân cũng không làm cách nào vượt nổi cái doanh trại bé tí teo đó để xông thẳng vào tòa hành chánh tỉnh, nơi ông Đại tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em chơi trò ú tim với xe tank địch. Khi bánh xích của chiếc chiến xa đầu tiên vướng vào cuộn kẽm gai của trại Pháo binh 181 thì cũng là lúc đoàn quân xâm lăng khựng lại vì tiếng thét: “Biệt Động! Sát! ” … “Biệt Động! Sát!”. Lũ cán binh hung hăng không ngờ biệt động quân đang có mặt nơi đây!

            Một quả M72 làm cho chiếc PT76 (*) xấu số cháy bùng, những cán binh Bắc Việt tùng thiết vội vàng chạy trối chết về hướng rừng lau. Ngày nào cũng như này nấy, sau những màn pháo kích như mưa, T54 có bộ binh tùng thiết, lại từng đợt, từng đợt ào ào xung phong vào vị trí tử thủ của chúng tôi. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ82/BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T54 này đến con cua T54 khác.

            Yên chí vì có chỗ dựa lưng là lực lượng bạn ở phía sau, tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái “Gót chân Achilles” của xe tank Bắc quân. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.

            Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là “tỉa” tên xạ thủ 12.8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng “bùm!” rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ “lóc! tóc! ùm! ùm!” ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong! (…)

            Góp nhặt sỏi đá
            Lực lượng tăng thiết giáp của Bắc Việt: 320 xe tăng, và xe bọc thép gồm các loại xe tăng T34,T54/55, pháo tự hành SU100 của Liên Xô, xe tăng lội nước PT76, xe thiết giáp BTR40/50/60/152 của Liên Xô, xe tăng chủ lực kiểu 59, xe thiết giáp K63 của Trung Quốc.

            T54 tương đương với M48, nhưng PT76 có hoả lực mạnh hơn M113.



            Xe tăng lội nước PT76 do Ba Lan viện trợ
            (.....)

            Quân sử ngoại truyện
            Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã phải công nhận tinh thần chiến đấu dũng mãnh của quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh như sau…

            “Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 6 và Sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc tập kích của địch. Trung đoàn 43 địch bị tổn thất nặng. Pháo binh chiến dịch và pháo binh đi cùng các sư đoàn của ta đã phải dùng thêm cơ số đạn. Xe tăng, xe bọc thép của ta một số bị hỏng, một số phải trở về vị trí xuất phát tiến công để bổ sung xăng dầu, đạn dược. Kế hoạch tiến công Xuân Lộc của Quân đoàn 4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này không phải trong phạm vi của Xuân Lộc-Long Khánh nữa rồi…”
            (Đại thắng mùa Xuân – Văn tiến Dũng)

            Chuyện của một thời chinh chiến trong quán nhậu
            Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt
            Còn hơn là le lói cả trăm năm
            Người lính giữa tháng Tư


            Đạn pháo, hỏa tiễn của binh đoàn quân Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội xuống như mưa lũ ở Long Khánh. Cửa ngỏ phía đông-bắc dẫn vào Sài Gòn, nơi bản doanh Sư đoàn 18 do Thiếu tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh. Vị tướng lãnh thăng cấp cuối cùng (1) của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử: Những người lính đã chiến đấu thực sự. Tuy nhiên tất cả sự sụp vỡ ngày 30-4-1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ.

            Mặt đối mặt qua bãi lửa:
            Sau thành công đánh chiếm Vùng 2 và Vùng 1 chiến thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội miền Nam, phía Bắc Việt rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 quyết tâm tiêu diệt miền Nam qua chiến thuật tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn. Mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh “giải phóng” ngụy danh.

            Trung ương đảng ra lệnh cho Trung ương cục miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam: Xung phong tiến công Sài Gòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười-lăm sư đoàn, chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá nào: Đấy là quan điểm của trung ương đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc, các đồng chí ở bộ chính trị đã nói rằng: Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí chỉ trở về với chiến thắng.

            Chiến dịch Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam: Mười lăm sư đoàn quân chính quy Bắc Việt. Những danh xưng nầy cần phải viết đủ để trả lời cho quan điểm chiến lược từ Tòa bạch ốc, Ngũ giác đài, được phổ biến khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: Chiến tranh Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam” hay MTGPMN nổi dậy lật đổ chính quyền VNCH), nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì 98% của vấn đề (chiến tranh) là ở miền Nam chứ không là miền Bắc.

            Chúng ta trở lại chiến trường với Tướng quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh. Ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18 đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng 3-75, Trung đoàn 48 lại tăng phái cho Sư đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, cùng chung Vùng 3 chiến thuật với Sư đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu 9-4-1975, ông chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ). Trước khi trận chiến bùng nổ lớn, thiếu tướng Đảo yêu cầu tư lệnh quân đoàn, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung đoàn 48, khi nhận được trung đoàn này về, tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt đông thị xã, đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai. Với quân số như trên, Sư đoàn 18 quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4-1975. Trước 1972, vùng nầy được tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ đoàn 11 chiến xa do đại tá Patton chỉ huy, chưa kể đến Sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc lộ 15, đường đi Vũng Tàu. Sư đoàn 18 lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư đoàn 3 BB của Vùng 1).

            Trận thử sức cuối cùng, tháng 4-1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử. Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác.

            Với ý định vất bỏ Hiệp định Paris, quyết thanh toán miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn công Phước Long. Sau lấn chiếm đóng Phước Long mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, Tướng Hoàng Cầm trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt đông bắc qua ngõ Long Khánh. Tướng Cầm có dưới tay ba sư đoàn, chưa kể lực lượng địa phương (du kích), tương quan lực lượng coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng không hẳn thế, tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, tổng tham trưởng quân đội miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư trung ương cục miền Nam, Lê Đức Thọ ủy viên bộ chính trị, bí thư chiến dịch. Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay. Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn Hồ Chí Minh” với ba lô trên lưng như cách “mô tả” thành thạo trong những cuốn sách “nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam, nhưng ông ta đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda chở tới Lộc Ninh. Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, tư lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời.

            Đấy không phải là lời nói đùa, sau này khi thắng lợi nghiêng về phía VNCH, bộ tư lệnh mặt trận đã cho thay thế tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, và Trung đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ sông Cửu Long kéo lên tăng cường, nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.

            Trận đánh:
            Thiếu Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức coi như là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân khu I và II, ông nhận ra rằng, sở dĩ các đơn vị nầy mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình, một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia đình, người lính chỉ còn một hướng trước mặt, hướng địch quân tiến tới.

            Pháo binh là một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực VNCH thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh đường 20 lên Định Quán, đi Đà Lạt), (cạnh Quốc lộ 1, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía đông và đông nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của bộ chỉ huy, phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa, Phước Tuy), dọc Tỉnh lộ 2 những vị trí pháo nầy sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản. Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo cùng bắn một lượt nên tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu mà địch không phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo).

            5 giờ 40 sáng ngày 9-4-1975 – “Giờ H của Ngày N”, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu với một trận mưa pháo 2.000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại An Lộc. Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng đơn vị tiền phong Sư đoàn 7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư đoàn 18. Bắc quân ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xẩy ra ở những mặt trận “không cần giao tranh” nơi Vùng 1 và 2 của tháng 3 vừa qua. Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng nầy mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà thiếu tướng Đảo đã sẵn bố trí, không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của Trung đoàn 165 không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại.

            Trung đoàn 48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân (lưu ý hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa tiễn nầy trở nên thặng dư, thiếu tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin) bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng. Mặt đông của thị xã, dọc Quốc lộ 1, Trung đoàn 209 (cũng của SĐ7) số phận cũng không mấy khả quan hơn bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận, Tiểu đoàn 82 Biệt động quân của Thiếu tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuột, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt động Quân.

            Sau nầy Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi ký lịch sử quân đội nhân dân:
            Những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư đoàn 18 và hậu cứ Trung đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với địch từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chận lại không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu…

            Viên tư lệnh Trần Văn Trấn đi theo với Trung đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tấn công. Tùng thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gài, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến vùng “Hố Heo Rừng”, nơi Quốc lộ 1 chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị xã. Nhưng quả như ước tính của tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hắc Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên minigun bốn nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu. Sư đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm tân binh thiếu kinh nghiệm của đơn vị nầy quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của Trung đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh (ba mươi người) bị bắt giữ. Buổi chiều, thiếu tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho phòng quân tiếp vụ sư đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới.

            Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn công. 5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư đoàn 341 tiến chiếm từ hướng tây bắc, Sư đoàn 7 từ mặt bắc đâm thẳng vào thị xã, Sư đoàn 6 từ hướng đông, tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến trung tâm thị xã, bộ tư lệnh Sư đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng mấy vinh quang nầy được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch sử quân đội nhân dân: Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1.200. Cụ thể tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy. Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại thắng mùa xuân: Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn của ta. tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.

            Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân Lộc để có thế đão ngược tình thế. để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn xử dụng Lữ đoàn 3 Thiết kỵ của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc. Tướng Toàn xử dụng Lữ đoàn 1 Nhảy dù được Tiểu đoàn 3 Pháo binh dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của miền Nam vào trận. Sự xuất hiện của lực lượng Nhảy Dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo bộ tư lệnh chiến dịch. Chiều ngày 11-4, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta nên xử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ lữ đoàn Dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hũy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.

            Tóm lại, bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía VNCH nghĩ rằng phía Bắc Viêt vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu. Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực hiện kế hoạch. Ngày 13, Trà họp ban tham mưu Quân đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ: Địch tăng cường phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã. Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (trên Quốc lộ 1, lối về Biên Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử dụng pháo 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.

            Cũng quả thực Tướng Đảo không biết được sự thay đổi kế hoạch của Trung ương cục miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm đươc gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến. Không một ai trong bộ tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa, có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng bắc và đông) bằng cách cắt Quốc lộ 1 ở Dầu Giây và Quốc lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại và biến thất bại nầy thành một kế nghi binh. Kế sách nầy càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3.

            Chiến trận lắng xuống, các đơn vị Bắc quân dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20-4, tướng Toàn đích thân đến giao cho tướng Đảo một lệnh mơ hồ: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn. Hoá ra Bắc quân đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu! Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân. Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất. Bởi đã mang sẵn mầm thất bại. Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon, Rommel. Nhưng như phép màu, Thiếu Tướng Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn.

            Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu tướng (1) Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng trường Bộ binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn là nghĩa trang Quân đội. Ông thấy thấp thoáng bức tượng “Tiếc thương” tạc hình “Người lính chờ đợi” in hình trong không gian mờ khói đạn.

            Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn,

            Vì anh là lính áo rằn. (2)
            Ra đi nào biết mấy trăng mới về…
            (Phan Nhật Nam)


            (1) Sau trận Xuân Lộc, tướng Đảo được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp thiếu tướng.

            (2) Những câu thơ trên của em Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Trung tá Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 TQLC “Trâu Điên”, người lính đã ra đi từ một ngày hè năm 1966 nơi chiến trường ở chân cầu thuộc Phong Điền, Thừa Thiên. (Phan Nhật Nam)


            Ngày thứ 33 : 11-4-1975
            12 ngày trận chiến Xuân Lộc

            Đêm 11-4 Tiểu đoàn 2 của Chiến đoàn 52 đã phục kích đánh tan một tiểu đoàn Bắc quân đang di chuyển trên đường từ đồn điền Bình Lộc về Xuân Lộc. Một đoàn xe 30 chiếc chở đầy bộ đội, đạn dược, lương thực, quân dụng bị lọt ổ phúc kích của Tiểu đoàn 2/52 , hàng ngũ địch bị rối loạn vì chúng bị hoàn toàn bất ngờ. Bắc quân bị bắn chết như rạ ngay khi còn trên xe cũng như nhẩy xuống đất, cả tiểu đoàn bị chận đánh tơi bời, hằng trăm tên bỏ xác tại trận.
            (Trọng Đạt)

            Góp nhặt…ghi chép…
            Nhà báo D,Warner, người Úc, những nhà quân sự ngoại quốc không ngớt lời ca ngợi chiến thắng Long Khánh: Với ba sư đoàn 7, 341 và 6, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng. Ông đã lầm, Sư đoàn 18 chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của miền Nam VN. Trái lại, có lần sư đoàn này còn được xem là sư đoàn tệ nhất. Vậy mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN, sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm. Không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày.

            Xuân Lộc tháng Tư
            Một ngày giữa tháng Tư, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M72 của toán diệt tank của Đại đội 1/TĐ82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐ82 BĐQ cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12.8 ly nổ dòn ngoài xa.

            Trong máy PRC25 tiếng Thiếu úy Đặng Thành Học, ĐĐT1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T54 đã nằm bất động; anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12.8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như xối. Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1/TĐ3/TĐ43BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho thiếu úy Học ĐĐ1/82 dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long Khánh đã bị đan chằng chịt kẽm gai vòng. (…)

            Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn
            Lần ấy, đại đội hắn bị phục kích. Bạn bè chung quanh hắn đều bị bắn gục. Hắn kinh hoàng vùng lên chạy. Ðạn bắn gắt theo sau. Hắn vẫn chạy. Tiếng đạn rượt theo. Véo véo véo. Hắn vẫn chạy. Lâu, thật lâu sau, tiếng đạn thưa dần rồi tắt hẳn. Hắn kiệt sức nằm xoài trên một bãi cỏ, giữa một khu rừng thưa. Trời gần sáng. Chung quanh thật im ắng. Hắn chỉ nghe tiếng hắn thở. Rồi bỗng dưng hắn nghe có tiếng sột soạt trong một bụi rậm phía trước.

            Hắn giật mình, tay ghì chặt khẩu súng, mắt chăm chăm nhìn. Im lặng. Hắn toan gục đầu xuống nghỉ thì lại nghe tiếng sột soạt vang lên. Hắn lại căng mắt ra nhìn. Hình như có bóng người lom khom sau lùm cây. Cái bóng ấy rõ ràng là đang rình hắn. Tiên hạ thủ, ý nghĩ ấy vừa loé lên trong đầu, hắn bóp cò. Ðoành. Tiếng nổ khô, lạnh. Cái bóng nọ gục xuống.

            Chờ một lúc, thấy chung quanh vẫn im tĩnh, và trời lại hừng sáng, hắn mới chồm dậy, chạy lại bụi cây dò xét. Hắn giật mình thấy hắn đang nằm chết, viên đạn xuyên từ trán ra sau ót, nhưng không có một giọt máu nào cả.
            (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

            Góp nhặt…ghi chép…
            Nói về tinh thần chiến đấu của Sư đoàn 18 tại Long Khánh tháng 4-1975, ông Dawson (1), trưởng nhóm phóng viên hãng thông tấn UPI viết:
            "Trận đánh kéo dài một ngày nữa, rồi lại một ngày nữa, và cứ thế. Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận đánh mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. Bắc quân tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18 vẫn tiếp tục chống cự."

            Ngày 10-4. Bắc quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui.
            Ngày 12, Bắc quân vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai trung đoàn của quân đội Nam Việt Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dữ dội hơn… Thêm 2.000 đạn nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18 vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu…

            (1) Alan Dawson trong tác phẩm Black April: The Fall of South Viet Nam.

            Ngày thứ 34 : 12-4-1975
            12 ngày trận chiến Xuân Lộc

            Ngày 12-4, mặt trận Long Khánh được tăng cường lữ đoàn dù và một tiểu đoàn pháo, cuộc đổ quân bằng trực thăng vận đã được Sư đoàn 3 và 4 Không quân thực hiện đúng thời gian qui định. Lữ đoàn dù đã giao tranh dữ dội với Bắc quân quân để yểm trợ cho các lực lượng trú phòng. Hai tiểu đoàn Bắc quân đã đột nhập thị xã chiếm được một số cơ sở hành chánh quân sự, địa phương quân và Trung đoàn 43 đã dũng cảm đẩy lui địch, nhờ sự chiến đấu anh dũng của các đơn vị trú phòng Xuân Lộc vẫn còn đứng vững.

            Xuân Lộc tháng Tư
            Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân Lộc, khách sạn Long Khánh cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng tư TĐ82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi. Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh (K15 VB) làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do tôi chỉ huy.

            Giữa tháng Tư, Lữ đoàn 1 Nhảy dù tung ra nhiều đợt tấn công nhắm vào một trung đoàn Bắc quân trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo dù nổ rền trời phía bờ bên kia. Từ nơi đồn điền Thống tướng Lê Văn Tỵ, cán binh từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét.

            Những tay súng BĐQ nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc quân bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn để thành…tử sĩ. Những tiếng hô“Biệt Động! Sát!” hòa lẫn tiếng súng M16, M60 làm cho một số cán binh vừa ló đầu ra đã vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu: Thế là họ đầu hàng!

            – Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?
            – Dạ cháu nghe rõ ạ!
            Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.
            – Cậu mấy tuổi rồi?
            – Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!
            – Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?

            Chuyện một thời chinh chiến
            Dép râu dẫm nát đời son trẻ
            Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai


            – Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!
            – Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?
            – Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!
            – Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ!
            – Thủ trưởng có nói thật không hử thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi!
            Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi… (…)

            – : Tiểu đoàn 82 Biệt động Quân Biên Phòng của Thiếu tá Vương Mộng Long. Phải nói qua đơn vị kỳ lạ nầy với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu đoàn 82 vốn thuộc Quân khu II cao nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuột bị vỡ, thiếu tá Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuột, thiếu tá Long đưa đơn vị vượt cao nguyên Di Linh băng rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục băng rừng theo hướng Tây Nam về Long Khánh. (1)

            Ngày 6-4 (gần một tháng sau trận Ban Mê Thuột), tướng Đảo nhận được công điện khẩn từ tiền đồn. Một đơn vị lạ với quân phục biệt động quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng với bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu III (Biên Hòa), tướng Đảo dùng trực thăng bốc toán quân của thiếu tá Long, một tiểu đoàn biệt động chỉ còn khoảng 200 người.
            (Nguồn: Phan Nhật Nam)

            Lạc đạn
            (1) Tác giả Vương Mộng Long hướng dẫn Liên đoàn 24 Biệt động quân từ Quảng Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan Thiết thì Tiểu đoàn 82 Biệt động quân được đưa thẳng về sân bay Long Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 BB của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.
            (Nguồn: Vương Mộng Long)


            Quân sử ngoại truyện
            Ngày 13-4-1975, Thiếu tướng Hoàng Cầm bị thay thế, Thượng tướng Trần Văn Trà, tư lệnh quân giải phóng Miền đến sở chỉ huy chiến dịch để chỉ đạo trực tiếp. Sau khi đánh giá tình hình, tướng Trà (1) quyết định thay đổi cách đánh: Không tập trung lực lượng tấn công vào nội ô thị xã mà chuyển sang bao vây, cô lập, cắt rời Xuân Lộc ra khỏi các hành lang giao thông nối vào Biên Hòa, ra Bình Thuận, lên Đà Lạt và xuống Bà Rịa-Vũng Tàu.

            Theo đó, quân giải phóng chỉ giữ lại một bộ phận kìm chế quân địch trong thị xã, điều chỉnh lực lượng, tổ chức tấn công đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường số 1, chặn quân địch từ Trảng Bom lên, từ Gia Kiệm về, làm chủ chi khu Tân Phong, cắt đường số 2 đi Bà Rịa.
            (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

            (1) Sự thay đổi kế hoạch này, không do tướng Trà mà từ tướng Dũng:
            Chiều ngày 11-4, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta nên xử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi trước khi chúng đặt chân xuống đất (Lữ đoàn Dù)."

            – : Xem “Người lính giữa tháng Tư” của Phan Nhật Nam ở khúc trên.

            Quân sử ngoại truyện
            Ngày 15-5-1975 duyệt binh mừng ngày giải phóng miền Nam và ra mắt Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định. Trong cuộc lễ này, trên khán đài có các thành viên của Bộ chính trị Hà Nội như Lê Duẫn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ… Và các đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, v.v. Hàng ghế sau dành cho các tướng lĩnh như Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, v…v…

            Khi các đoàn quân lần lượt di quyển qua khán đài, người ta thấy toàn là bộ đội chính quy Bắc Việt, nào đội tên lửa phòng không, chiến xa, pháo binh… với cờ đỏ sao vàng. Còn đại diện quân MTGPMN chỉ có một toán nhỏ nam, nữ du kích, mặc đồ bà ba đen, đội nón tai bèo. Thấy vậy, Chủ tịch chính phủ lâm thời Huỳnh Tấn Phát đưa mắt nhìn Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ…Chủ tịch Thọ quay sang Lê Duẩn, hỏi:

            – Đồng chí Tổng bí thư, các Công trường 3, 5, 7 của quân giải phóng đâu cả rồi, sao không thấy xuất hiện?
            Lê Duẫn không trả lời quay ra phía sau nói:
            – Xin hỏi đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng.
            Văn Tiến Dũng trả lời lạnh lùng:
            – Quân đội đã sát nhập rồi!
            Nguyễn Hữu Thọ lại hỏi:
            – Ủa, sát nhập hồi nào sao tôi không hay?
            Văn Tiến Dũng đáp:
            – Đất nước nay đã thống nhất thì tất nhiên phải thống nhất quân đội,

            Ngọn đồi cuối cùng
            Cứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường. Trên bãi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn Chinooks CH47C và 2 trực thăng võ trang UH1D đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: Tiếp tế đạn cho một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 48 Bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su Xuân Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của Bắc quân.

            Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4.000 giờ bay, 12 huy chương), đã chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa 60 cây số dàn quân của chiến trường Xuân Lộc trên Quốc lộ 1 và Tỉnh lộ 24.

            Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks CH47C và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Trong phòng lái là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mũ và ống nói dưới cằm. Phía sau, hai bên hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chĩa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 8 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút. Trực thăng lấy cao độ và trực chỉ hướng đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của Quốc lộ 1, lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo: Đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh Sư đoàn 5 đang phòng thủ các ngõ vào Trảng Bom.

            Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp, bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hãng S.I.P.H. Trên một con đường mòn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá bẻ cần quẹo gấp, Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường mòn. Thình lình hai, rồi bốn rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đã được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt. Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa, khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, vì nó bay rất thấp. Chiếc trực thăng võ trang UH1D rung lên từng chập. Các đại liên thôi thì thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không còn nghe thấy gì nữa cả.

            Chiếc Chinooks CH47C lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao su, chỉ còn nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng. Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng tôi đã thấy núi Thị. Một mỏm đá với một chòm cây và một gian nhà lớn chỉ còn nửa nóc. Đó là biệt thự của chủ đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp xuống một bãi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng, nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến bộ chỉ huy của trung tá Phát, một phòng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại. Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một chút rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói:
            – Các anh đừng lo, căn nhà này chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt. Năm 1947 biệt thự này đã bị cháy và người Pháp đã bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc máy lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây.

            Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với Thiếu tá Luân :
            – Tôi đã mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu 105 ly và 3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu. Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bích kích pháo. Anh cố tìm mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để tôi có một chiếc AC-119K trước 12 giờ đêm và cho nó trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, vì bọn Bắc quân chắc chắn sẽ chơi tôi vào lúc 2, 3 giờ sáng.
            – Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho anh 3 tấn đạn. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa thôi. Về phần còn lại tôi sẽ làm cho anh tối đa.

            Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Hòa, Trung tá Phát đốt một điếu thuốc, lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe về tình hình…

            Sư đoàn 18 và Liên đoàn Biệt động quân của đại tá Phước đã đánh nhau với bọn nó trong suốt 12 ngày ở thành phố Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đã lãnh đủ hơn 20.000 quả pháo và rốc kết. Nhưng họ đã bắn sụm 37 chiến xa T54. Thứ hai vừa rồi, Bắc quân đã bọc vòng phía sau thành phố chiếm lại giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của mình. Sau đó họ bố trí cẩn thận hai bên ngã tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đã “chộp” được chúng nó.

            Trưa thứ hai tướng Đảo đã phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số, đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay vì lui về ông đã cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay, Xa Bang, Bình Ba, Bà Rịa. Ông đã bất thần phá vỡ vòng vây Bắc quân, mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa). Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đã cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của chúng để cho Bắc quân tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài Gòn theo Quốc lộ 1. Tiểu đoàn dù tình nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đã băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đã bắn hạ 2 chiến xa T54. Chúng tôi đã lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân phòng thủ, và chúng tôi đã mất hết hai ngày hai đêm để tổ chức vị trí phòng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả? Chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt.

            Thiếu tá Luân đã cất cánh với chiếc trực thăng của ông ta. Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu, Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên, súng phóng lựu và súng không giật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng. Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần. Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên bộ chỉ huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được. Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi…

            Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc quân bay vào ngọn đồi. Có một số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi. Đó là lệnh xung phong của Bắc quân. Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường. Binh sĩ miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho “bộ đội” đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt. Mấy ống bich kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái các khẩu trung liên của Biệt động Quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai chiếc AC119K lại xuất hiện, đang xé gió bay tới…Sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng. Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây. Pháo binh 155 ly của miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét..

            Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng. Lúc trời sáng tỏ binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều xác của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây, đội nón cối.

            Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói:

            – Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa thiếu tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ về với ông ta.
            Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng bắc. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt, các chiến xa, các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang. Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù…

            Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến nỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 1500 thước bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được thăng bằng. Khi khói tan mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời. Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt. Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường. Không có một tiếng súng bắn trả.

            Thì ra Thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết…..

            Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa, Thiếu tá Luân vừa cởi nón bay ra vừa nói với tôi:

            – Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom CBU 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ “tử giác”. Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao.
            – Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào?
            – Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng. Khi rời khỏi Việt Nam, họ để lại cho chúng tôi một số loại bom này và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng. Gần như đây là loại vũ khí của “cơ may cuối cùng”, chúng tôi đã xử dụng nó trong vòng 3 ngày nay.
            (Pierre Darcourt)

            Ngày thứ 35 : 13-4-1975
            12 ngày trận chiến Xuân Lộc

            Ngày 13-4, lực lượng VNCH vẫn giữ vững vị trí, nhờ sự yểm trợ chính xác của không quân, pháo binh, lực lượng phòng thủ đã gây thiệt hại nặng nề cho Bắc quân.
            (Trọng Đạt)

            Xuân Lộc tháng Tư
            Một hôm, đại tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại! Rồi đại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời: Không trở ngại!, Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường cao nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng “ủn!… ủn!” theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3kmx1km, Box 2kmx1km, hoặc Box 1kmxkm. Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang của một Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1kmx1km ngày nào?

            Tôi thấy một cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là một trong hai trái CBU 55 (1) (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân Lộc. Một trái được thả xuống vùng Suối Tre hướng tây bắc Long Khánh, tôi không nghe báo cáo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ của Trung đoàn 43/SĐ18 BB trong đó có Tiểu đoàn 82 BĐQ tăng cường.

            Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân Lộc. Đại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của Bắc quân có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại PB181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội Bắc quân gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích! Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng.
            (Vương Mộng Long)
            (1) Theo tướng Lê Minh Đảo, 2 trái bom đó là: BLU 82.


            Quân sử ngoại truyện
            Theo nhận xét của Hà Nội về Trung tướng Hoàng Cầm của họ có đoạn như sau:
            Quân đội đối phương hoàn toàn bị động. Tướng Cầm quá vội vã, muốn thắng mau, nên luôn luôn lúng túng. Họ sử dụng quân lính tân binh nhiều, không có kinh nghiệm chiến đấu.

            Thượng tướng Trần Văn Trà cho pháo tấn công sân bay Biên Hòa, không cho máy bay ném bom từ đấy bay đến yểm trợ Xuân Lộc. Tướng Trà cho chiếm Dầu Giây, và đường 20, áp sát Biên Hòa, là sở chỉ huy Quân đoàn III của tướng Toàn, lúc này, cục diện chiến trường thay đổi, bộ chỉ huy của tướng Toàn bị uy hiếp. Trước đó mấy ngày, tướng Toàn còn cho quân và máy bay, pháo đến yểm trợ tướng Đảo. Thì nay, chính tướng Toàn phải ra lệnh cho tướng Đảo rút khỏi Xuân Lộc, để về cứu nguy cho tướng Toàn. Thế tức là tướng Trà không cần đánh trực tiếp vào Xuân Lộc nữa, mà vẫn đuổi được tướng Đảo ra khỏi Xuân Lộc.

            Đến đây, lại thấy người chỉ huy là rất quan trọng. Nếu quân đội Hà Nội của ta cứ tiếp tục để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của Hà Nội cứ tiếp tục bị cầm chân ở Xuân Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay đổi lớn. Tướng Trà thay tướng Cầm, nên cục diện chiến trường thay đổi nhanh chóng.
            (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

            Comment


            • #7
              Chương 8

              Ngày thứ 36: 14-4-1975
              Trận chiến Long Khánh (CBU 55)

              Ngày 14-4, Chiến đoàn 52 và địa phương quân đã bị thiệt hại và mệt mỏi vì giao tranh liên tục với quân số đông đảo của Bắc quân. Tại ngã ba Dầu Giây trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, Bắc quân tung thêm nhiều sư đoàn có xe tăng yểm trợ cùng với pháo binh để chọc thủng phòng tuyến của ta tại ngã ba Dầu Giây do Chiến đoàn 52 bảo vệ. Trong trận đánh cuối cùng này các chiến sĩ ta phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp mười lần.
              (Trọng Đạt)

              Ngày thứ 37 : 15-4-1975
              Trận chiến Long Khánh (BLU 82)

              Ngày 15-4, trận chiến rất ác liệt tàn khốc ngay từ lúc mới giao tranh, Những đợt xung phong biển người của Bắc quân đã tràn ngập các vị trí chiến đấu của VNCH, địch chọc thủng phòng tuyến và chia cắt các lực lượng ta, 4 xe tăng M48 của ta bị trúng pháo kích, trời tối nên máy bay cũng không yểm trợ được. Chiến đoàn 52 gồm một trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 và các lực lượng tăng phái đã bị địch quân đánh tan đêm 15-4, chỉ có hai đại đội thoát được.

              Phòng tuyến của Chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây bị vỡ đêm 15-4-1975,
              (Trọng Đạt)

              Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo - BLU 82 & CBU 55

              Mặc Lâm: Vâng thưa Thiếu Tướng cho tới nay vẫn còn một câu hỏi đặt ra trước việc nhiều người cho là có hai trái bom CBU 55 đã thả trong trận Xuân Lộc. Nhưng cũng có người nói là chuyện này không có. Xin Thiếu Tướng cho biết vấn đề này như thế nào trong ngày 16-4-1975.

              Thiếu Tướng Lê Minh Đảo: CBU 55 thì nó hút hết tất cả không khí oxygen làm người ta chết chứ còn hai trái bom mà đánh ở đó là BLU 82 đó nặng 14 ngàn pound nói theo kilogram thì nó chừng 7 tấn. Trái bom đó Hoa Kỳ họ đem qua Việt Nam họ dùng trong khi họ còn ở đây. Quả bom đó để tại Việt Nam nhưng không có ngòi nổ vì họ đã đem ngòi nổ về Mỹ.

              Và khi có phái bộ của ông Đại tướng Frederick Weyand, ông qua duyệt xét tình hình, mang hai chiếc tank M48 trên phi cơ Galaxy để làm quà viện trợ cho quân lực VNCH đồng thời chở các em mồ côi về Mỹ. Chiếc phi cơ này bị rớt ở Tân Sơn Nhất. Phái bộ này họ đem mấy cái ngòi nổ cho mấy quả bom BLU 82 qua bởi họ thấy cộng sản nó đi lẹ quá, họ cho VNCH cái đó (BLU 82) để cản bước tiến của cộng sản. Trong mặt trận Xuân Lộc của tôi được họ cho 2 trái.



              Xuân Lộc tháng Tư(…tiếp với BĐQ ở Xuân Lộc)
              Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?), pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?). Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.

              Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều ngày 20-4-1975, đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,

              – Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long Khánh rút về Bà Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.

              Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long Khánh là từ tổng thống Thiệu. Địch không vây Long Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên Hòa và thủ đô Sài Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân Lộc, về bảo vệ Sài Gòn. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng tổng thống và tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ82 BĐQ về ngã ba Tân Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh.

              Tiểu đoàn 82 Biệt động Quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi.

              Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh thì Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Đại tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt động Quân đi với đoàn quân của tiểu khu Long Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui.

              Tôi từ chối với lý do: Đại Tá có cả một Tiểu khu, Đại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Đại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy, Đại tá Hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại tá Phúc trong trại cải tạo Nam Hà A ngoài Bắc.

              Trong cuộc rút binh, Đại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân Lộc, Bà Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.
              (Vương Mộng Long)

              (?!) Xem Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm của Trần Văn Trà ở tiết mục Ngày thứ 42: 20-4-1975 – Xuân Lộc triệt thoái.

              Ngày thứ 38 : 16-4-1975
              Trận Dầu Giây

              Trung tướng Nguyễn Văn Toàn xin lệnh bộ Tổng Tham Mưu cho ném bom Daisy Cutter, hồi đó còn gọi là bom CBU để ngăn sức tiến của Bắc quân.

              Hôm sau 16-4 vào lúc 11 giờ sáng hai trái bom khổng lồ CBU đã được thả xuống vị trí đóng quân của Bắc quân cùng với một đoàn xe dài đầy những xe tăng đại bác trên Quốc lộ 20 từ Định Quán trở xuống.
              (Trọng Đạt)



              Bên lề trận chiến
              Ngày 17-4-1975 đang kịch chiến tại khu vườn của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Thì đồng thời trong hai ngày 17 và 18-4 Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn thuận dự chi 327 triệu cho phép Tổng thống Gerald Ford được quyền sử dụng quân lực di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.

              Ngày 19-4, tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với Sư đoàn 18. Thì cũng cùng ngày 19-4, Đô đốc Noel A. Gayler, tư lệnh quân lực Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương đến Sài Gòn, trực tiếp thẩm định tình hình và lượng giá các khả năng di tản. Tại Washington, ủy ban đặc nhiệm di tản WSAG (Washington Special Assignment Group)được thiết lập do Dean Brown thuộc bộ ngoại giao cầm đầu.

              Ngày thứ 39 : 17-4-1975
              12 ngày trận chiến Xuân Lộc

              Ngày 17-4, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 341, 6 và 7 Bắc quân tiếp tục mở các đợt tấn công vào phòng tuyến phía nam thị xã Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa Nhảy Dù và Bắc quân đã diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không Quân đã thực hiện nhiều phi tuần F5 và A37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Bắc quân trong khu vườn này.

              Góp nhặt…ghi chép…
              Ngày 17-4, ông Martin đề nghị với Kissinger trong một công điện tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức:

              Nếu Quốc Hội bỏ phiếu chống viện trợ cho VNCH thì địa vị ông Thiệu hết rồi. Vì vậy tôi sẽ thuyết phục ông Thiệu từ chức với tính cách là người bạn. Nếu ông ta không chịu, tôi sẽ đi đến một kết luận vô tư là các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm chuyện này.

              Kissinger đồng ý và cho hay: Tôi và Tổng thống Ford đã chấp thuận từ trước rồi.
              (Nguyễn Tiến Hưng)

              – : 10 giờ sáng, Đại sứ Graham Martin vào gặp Tổng thống Thiệu và cuộc gặp kéo dài trong tiếng rưỡi đồng hồ về nhận định của tòa đại sứ Hoa Kỳ đối với tình hình quân sự hiện tại.

              Xuân Lộc tháng Tư
              Ra tới QL1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính Bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long An.

              Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau. Tôi chờ khoảng mười phút thì Đại tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chọn TĐ82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ bộ Tư lệnh di chuyển. Không lâu sau đó, một chiếc jeep trờ tới, Chuẩn tướng Đảo cùng bốn quân cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.
              Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.
              (…)

              Góp nhặt…ghi chép…
              Thực ra thì bản nhận định này đã được Frank Nepp, một chuyên viên phân tích tình báo (intelligence analyst) của CIA soạn thảo. Trong cuốn Decent Interval, Frank Nepp tiết lộ rằng ông đã được Polga, giám đốc CIA tại Sài Gòn ra chỉ thị phải:

              Soạn thảo bản nhận định càng đen tối càng tốt chừng đó. Vì đại sứ Martin sẽ dùng bản nhận định này để thuyết phục ông Thiệu rằng đã đến lúc ông ta phải ra đi.
              (Frank Snepp)

              Ngày thứ 40: 18-4-1975
              12 ngày trận chiến Xuân Lộc

              Sáng 18-4, tổng kết tình hình 3 phần 4 quân số của Trung đoàn 52 BB bị thương. Về Thiết Giáp, 9 chiến xa và M113 bị tiêu hủy, hơn một phần tư quân số bị loại ra khỏi vòng chiến đấu.

              Chiều 18-4, pháo 130 đã bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên Hòa không cho Không Quân của ta yểm trợ Xuân Lộc.
              (Trần Hiếu Đức)

              Góp nhặt…ghi chép…
              Ngày 18-4, bộ tư lệnh Quân đòan III chuẩn bị di chuyển từ Biên Hòa về Gò Vấp. Trong khi đó các hoạt động phối hợp yểm trợ chiến thuật của Sư đoàn 3 KQ cũng bắt đầu suy giảm mạnh. Những kho dự trử bom đạn tại Biên Hòa, Long Bình, Gò Vấp và thành Tuy Hạ đều cạn kiệt những loại bom 500, 750, 1.000 lbs, chỉ còn loại bom nhỏ MK81 cở 250 lbs.
              Các phi đoàn máy bay của Sư đoàn 3 KQ phân tán về Tân Sơn Nhất và Cần Thơ.
              (Trần Hiếu Đức)

              Long Khánh triệt thoái

              Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.

              Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng với tình hình mà Thiếu tướng vừa diễn tả khiến ông phải rút quân ồ ạt vào ngày 20-4. Có những chi tiết gì quan trọng trong cuộc rút quân thưa Thiếu tướng?

              Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Mặt trận Xuân Lộc nó ác liệt đẫm máu ngay vào ngày đầu tiên 8-4-1975 và kéo dài cho tới ngày Sư đoàn 18 rút ra khỏi trận địa vào ngày 21-4. Tình hình bắt đầu thay đổi khi ngày 16-3 thì mặt trận Phan Rang bắt đầu bể, một quân đoàn gọi là Quân đoàn 2 Hương Giang của họ đi ở Quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Họ đi vô Bình Tuy ngang Xuyên Mộc về Bà Rịa để tấn công Biên Hòa, vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ đi ngõ đó. Đồng thời Trần Văn Trà thay đổi kế hoạch đánh phá rất mạnh vào phi trường Biên Hòa vì họ biết phi trường còn thì sẽ yễm trợ cho chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi có chừng 50 phi xuất của Biên Hòa yễm trợ cho chúng tôi, anh em đó đánh rất là ngoạn mục, đánh rất hay, rót bom lên địch thành ra họ bị thiệt hại rất nhiều vì phi pháo của chúng tôi.

              Chiến đoàn 52 của tôi ở tại ngã ba Dầu Giây họ đánh nhiều ngày hết đạn dược rồi nên phải xuyên rừng đi thẳng vào rừng, đi xuyên rừng Bình Sơn để về Biên Hòa. Trước sự uy hiếp trên quân đoàn sợ rằng mặt trận của tôi nằm ở phía trên mà nó đã lọt được vào bên dưới do Quân đoàn Hương Giang đi từ bên kia nó vòng ngõ tắt về Biên Hòa cho nên ông Trung tướng Toàn ra lệnh phải thay đổi chiến thuật, xin tổng thống Thiệu và tổng thống chấp nhận là đưa Sư đoàn 18 về giữ Trảng Bom, giữ Quốc lộ 1 về Biên Hòa. Mặt trận này hồi nào đến giờ do Chuẩn tướng Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Thiết Giáp, đem chiến đoàn lên giữ mặt trận đó mà không lên tiếp cứu được cho Sư đoàn 18 vì tụi nó chận ông và ông phải cầm cự ở đó. Thật ra thì ông Toàn cũng muốn giữ lực lượng này để bảo vệ cho Quân đoàn III nếu cái đoạn này mà Lữ đoàn 3 dính vào mà nó đánh vô thì ông không có đường mà đỡ, ông ra lệnh cho tôi rút càng sớm càng tốt.

              Góp nhặt…ghi chép…
              Trước khi cuộc lui binh khỏi Xuân Lộc bắt đầu, ngày 18-4, Uỷ ban quốc phòng thượng viện Hoa Kỳ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Mỹ, họ chỉ cho tiền cứu trợ di tản.
              Hai hôm sau cuộc lui binh (ngày 21-4), ngày 23-4 tại Đại học Tulane, New Orléans, Tổng thống Ford tuyên bố: Đối với Hoa Kỳ chiến tranh VN đã kết thúc…
              (Trần Hiếu Đức)

              Ngày thứ 41 : 19-4-1975
              12 ngày trận chiến Xuân Lộc

              Ngày 19-4, tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với quân ta. Mất Dầu Giây và Quốc lộ 20, Biên Hòa trở thành mục tiêu và Xuân Lộc bị cô lập.

              Tư lệnh Quân đoàn III bay trực thăng xuống Long Khánh, và tất cả nhận được lệnh rút khỏi Xuân Lộc 12 giờ đêm 19-4 theo con đường mòn qua Long Giao-Bình Giả về Phước Tuy để trở về phòng thủ Biên Hoà. Đội hình lui quân được dự trù như sau:

              BTL/SĐ18 BB và BCH/TK/LK đi trên đường mòn qua Long Giao. Hai bên sườn được bảo vệ bởi lữ đoàn Dù, liên đoàn BĐQ, và liên đoàn ĐPQ. Đến Bình Gỉa, BCK/TK bị phục kích. Đại Tá Phạm Văn Phúc, TKT Long Khánh bị bắt.
              (Trần Hiếu Đức)

              Long Khánh triệt thoái
              Muốn rút trên con đường này tôi lại ra lệnh lần nữa là không rút ban ngày, rút ban ngày địch nó biết nên tôi rút ban đêm. Bắt đầu 8 giờ tối, tôi cho rút quân vì tôi biết họ không bao giờ có thể nghĩ rằng một đại đơn vị của Quân lực VNCH mà rút quân vào ban đêm như thế này hết, họ không bao giờ ngờ! Sáng hôm ông Toàn ra lệnh tìm cách rút quân thì tôi đã cho lệnh tất cả Lữ đoàn Dù và một tiểu đoàn của tôi ở trên núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để làm cho họ thấy rằng chúng tôi bắt đầu phản công để tiêu diệt họ thì họ lo chống đỡ và nghĩ rằng chúng tôi đánh họ chứ họ không biết khi đó tôi chuẩn bị rút đi.

              Rút quân trong cuộc hành quân này thì rất táo bạo nhưng phải bình tĩnh tối đa, rút từng đơn vị. Trước hết tôi cho trung đoàn của tôi đi đầu, trung đoàn đó được một đơn vị pháo lớn tại căn cứ Long Giao của Trung đoàn 48 nằm đó nó yễm trợ. Khi họ rút được êm rồi thì đơn vị pháo đó rút sâu dưới kia họ bắn ngược lên. Sau đó là lực lượng cơ giới do ông Đại tá Tham mưu Trưởng Hành quân Hứa Yến Lến của tôi ổng dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe xác chết của binh sĩ mình trong ngày hôm đó không đi được bỏ lên xe chở về hết tất cả.

              Tôi chỉ biết là mỗi một ngày tôi chấm tọa độ. Tối tôi chấm tọa độ nơi nào họ đóng quân, chẳng hạn chỗ này sư đoàn đóng chỗ này trung đoàn đóng, chỗ này là điểm tập trung quân của quân đoàn còn chỗ này là điểm của một đơn vị sắp sửa xuất phát. Tại sao tôi biết? Bởi vì trong cuộc chiến thì tới giờ này tôi nói luôn cho biết về vấn đề gọi là mật mã. Tháo ra hết tất cả mật mã của họ thì chúng tôi có phòng 7 họ gửi bao nhiêu chúng ta mở ra hết tất cả. Buổi chiều khi họ truyền tin thì chúng tôi bắt được hết. Họ báo tất cả bức điện của họ bằng chữ, ví dụ một lô chữ azkd…nhưng trong số chữ đó chúng tôi biết đọc ra mật mã, chính chỗ đó nên tôi đánh trúng họ và họ thiệt hại rất nhiều. Trung tâm phối hợp hỏa lực của tôi chiều nào cũng kiểm tra cái này hết. Những mục tiêu xa tập trung những đơn vị của họ ở gần trên Định Quán thì tôi xin quân đoàn cho tôi đánh mục tiêu này.

              Tôi xin đánh vào mục tiêu đó nhưng tôi không biết rõ là Quân đoàn đánh bằng quả bom BLU 82. Sự thiệt hại của địch quân rất cao. Còn một quả nữa thì tôi thấy nó không ép-phê gì trong trận địa của tôi, trái thứ hai không kết quả bao nhiêu.
              (Mặc Lâm-Lê Minh Đảo)

              Ngày thứ 42: 20-4-1975
              Xuân Lộc triệt thoái


              Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường Long Khánh.
              Rạng sáng ngày 20-4, hai trung đoàn Bắc quân từ hướng Đông-Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 và bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh. Bắc quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.

              10 giờ sáng cùng ngày 20-4, theo lệnh của bộ Tư lệnh Quân đoàn III, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 đã có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và Tiểu khu Trưởng Long Khánh. Trong vòng 1 giờ, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 phổ biến lệnh mới của bộ Tư lệnh Quân đoàn III là toàn bộ lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Xuân Lộc.
              (SQTB K10B/72)

              Giã từ vũ khí …
              Trong cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, lộ trình rút quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số đường rừng ven theo liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Long Lễ về Bà Rịa…

              Nhưng có một điều đã làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang chờ đợi tải thương. Trong một tình thế bất khả kháng, tất cả những người lính dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của mình đang bị trọng thương ở các chiến hào.

              Trước phút lên đường, nhiều người lính Dù đã òa lên khóc, ôm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo mình, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường…Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi các Quân y Sĩ, Y tá Quân y chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh.

              Như một thước phim bi tráng trong điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường.
              (Vương Hồng Anh)

              Bên lề trận chiến
              Henry Kissinger qua trung gian của Anatoly Dobrynin, đại sứ Liên Xô tại Washington, gửi một công điện tối khẩn cho tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev. Theo Kissinger, vì quyền lợi lâu dài Xô–Mỹ, vì nguyên tắc tự chế (principle of restraint), đồng thời để tránh hậu quả rất tai hại có thể xảy ra cho miền Bắc Việt Nam, Moscow nên hợp tác, giúp sắp xếp với Hà Nội một thỏa thuận ngầm về ngừng bắn ngắn hạn cho công tác di tản công dân Hoa Kỳ, cùng một số người Việt Nam có liên hệ đặc biệt với Hoa Kỳ. Đề nghị được Liên Xô chấp nhận mau lẹ và Hà Nội cũng bắn tiếng không có ý định ngăn cản việc di tản, hay muốn làm tổn thương thêm danh dự của Hoa Kỳ (Biên bản cuộc họp ngày 24-4 của Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ, Thư viện Tổng thống Gerald Ford giải mật năm 2004).

              Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cử Đại tá Harry Summer làm thông tín viên con thoi thường trực với Hà Nội. Chỉ có Đại sứ Graham Martin và Phó Đại sứ Wolf Lehmann biết mối liên hệ tay ba Hà Nội, Moscow và Washington. Điều thỏa thuận căn bản đã đạt được là Hà Nội đồng ý sẽ chờ bên ngoài Sài Gòn cho Hoa Kỳ rút đi trong yên ổn, chỉ với điều kiện mọi chiến cụ và phương tiện chiến tranh đều phải được để lại toàn bộ nguyên vẹn.

              Tuy nhiên trong một bức thư trao tay trực tiếp cho Hà Nội, Hoa Kỳ nhấn mạnh đến các pháo đài bay B52 ở Thái Lan và lực lượng Không Quân của Hạm đội 7, đã và đang được đặt trong tình trạng báo động. Bất kỳ một sự khinh suất nhỏ nào của Hà Nội cũng đều có thể đưa đến một hành độngtrả đủa khốc liệt (1). (Larry Engelmann, sđd, Hoàng Đức Nhã, cố vấn Tổng thống VNCH, dẩn theo Pièrre Darcourt, Vietnam: Qu’as – tu fait de tes fils, 1977).

              (1) Để cụ thể hóa áp lực, ngày 21-4, Hoa Kỳ giúp Sư đoàn 5 KQ thả tiếp hai quả hai bom CBU 55, xuống vùng Bảo Vinh, Bình Lộc,
              (Nguyễn Hiệp)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Chủ Nhật 20-4-1975

              Đại sứ Martin đã đưa cho ông Thiệu bản nhận định do Frank Nepp viết nguyên văn như sau:

              (…) Với cuộc sụp đổ của các cuộc phòng thủ của quân đội của chính phủ quanh tỉnh lỵ Xuân Lộc và sự tiếp tục gia tăng tập trung quân đội của Bắc quân trong Vùng 3 chiến thuật cán cân lực lượng trong vùng chung quanh Sài Gòn hiện nay đã nghiêng về phía Bắc Việt. Mặc dù chính phủ vẫn còn có thể tăng viện cho một trong những mục tiêu có thể sẽ bị tấn công như Biên Hòa, Long Bình ở về phía đông Sài Gòn, các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa ở về phía tây hay tỉnh Bình Dương ở về phía bắc, tuy nhiên lực lượng của chính phủ sẽ không đủ sức mạnh để phòng thủ tất cả các mục tiêu nầy một cách hữu hiệu. Mặt khác về phía Bắc Việt chỉ trong vòng ba hay bốn ngày nữa, họ lại có đủ khả năng phóng ra những cuộc hành quân mức nhiều sư đoàn vào tất cả những mục tiêu này. Như vậy thì chính phủ VNCH sẽ phải đối phó tình trạng Sài Gòn sẽ bị cô lập và sẽ không còn liên lạc được với bên ngoài chỉ trong vòng vài tuần lễ và có thể rơi vào tay của các lực lượng Bắc Việt trong vòng 3 hay 4 tuần lễ. (…)

              ***

              Frank Nepp nói rằng ông muốn viết “chỉ vài tuần lễ” thế nhưng Polgar không muốn như vậy. Frank Nepp cho biết thêm rằng sau khi ra đi, ông Thiệu vẫn còn để bản nhận định nầy trên bàn giấy của ông trong dinh Độc Lập. Khi Bắc quân chiếm Sài Gòn, tướng Văn Tiến Dũng đã lấy được bản nhận định này và đã cho đăng nguyên văn không sót một chữ trong cuốn sách Đại thắng mùa Xuân của ông ta (*** Frank Nepp: sđd, trang 382).
              (Trần Đông Phong)

              Quân sử ngoại truyện
              (qua “Xuân Lộc tháng Tư” của VMLong với…Họ án binh chờ lệnh? có thể vì lý do dưới đây).

              Theo Thượng tướng Trần Văn Trà, tình hình lúc đó khiến cho đồng chí Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ hết sức lo lắng. Vì Quân đoàn 1 đang được điều động từ miền Bắc vào. Quân đoàn 2 (Lê Trọng Tấn) vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết:
              “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, pháo chỉ còn hai viên. Có xe tăng đến nơi nhưngxăng dầu hết, hậu cần vùi đầu vơi công việc. (*** Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 258)

              Ngày 18-4-1075, trong Điện sô 07, ông Lê Duẩn viết: Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn 3 và Quân đoàn 1 đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn. Chưa nên làm ngay bây giờ. (*** Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 261)

              Thế nhưng rạng sáng ngày 21-4 (1a). các tuyến phòng thủ của Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ. Vì Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo …”triệt thoái” khỏi thành phố.
              (Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – Trần Văn Trà)

              Ngày thứ 43 : 21-4-1975
              Sài Gòn thay đổi nhân sự (2)

              Sáng ngày 21-4, trong khi cuộc rút quân của lực lượng VNCH đang triệt thoái khỏi Xuân Lộc trên Quốc lộ 2, thì tại Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia với sự tham dự của Phó Tổng thống Trần Văn Hương, v…v…

              Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo quyết định từ chức và trao quyền lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
              7 giờ 30 ngày 21-4 (1a), lễ bàn giao chức vụ Tổng thống đã diễn ra tại dinh Độc Lập.
              (SQTB K10B/72)

              Góp nhặt…ghi chép…
              Ngày 29-4-1975, mặc dù rất bận rộn trong việc di tản, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin cũng đến tư dinh đường Công Lý với một Tham vụ Sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại sứ nói:
              "Thưa Tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng thống cho đến ngày trăm tuổi già."

              Cụ Trần Văn Hương mỉm cười trả lời :
              "Thưa ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến nỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng thăm tôi."

              Khi nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités” (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), Đại sứ Martin giật mình nhìn trân trân cụ Trần Văn Hương.
              (Trần Đông Phong)

              – : Trước đó vào tháng 4-1975 khi Nam Vang sụp đổ, Thủ tướng Sirik Matak cũng được Đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean mời di tản nhưng ông Sirik Matak đã từ chối qua một lá thư trách Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi dân tộc Cao Miên. Ông viết: Tôi chỉ ân hận một điều vì quá tin vào người Hoa Kỳ… Thủ tướng Sirik Matak chọn ở lại vì ông quan niệm đã sinh ra thì sẽ chết một ngày nào đó. Ngày 17-4-1975, ông đã chết vì vì bàn tay đẫm máu của Khờ Me đỏ.

              – : Thủ tướng Sirik Matak bị Khờ Me đỏ chặt đầu tại vận động trường Nam Vang ngay ngày đầu tiên Cao Miên bị sụp đổ. Tuy nhiên theo Henry Kissinger thì ông bị bắn vào bụng. Sau đó ông bị bỏ mặc cho máu chảy, bị bỏ mặc đến chết ròng rã trong 3 ngày.

              – : Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27-1-1982 tại Sài Gòn.
              (Wikipedia)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Hai 21-04.1975

              Sau đêm suy nghĩ, trưa ngày hôm sau, thứ hai 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời Phó tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng, đến dinh Độc Lập và thông báo với họ rằng ông sẽ từ chức. Tổng thống Thiệu kể lại cho hai nhân vật này cuộc hội kiến với đại sứ Pháp và đại sứ Hoa Kỳ ngày hôm trước và nhấn mạnh rằng cả hai ông đại sứ đều không chính thức khuyến cáo ông từ chức, tuy nhiên vì tình hình quân sự đã trở nên vô vọng và ông cảm thấy rằng ông không còn có thể phục vụ đất nước hữu hiệu được nữa nên ông phải từ chức. tổng thống Thiệu nói với cụ Trần Văn Hương và ông Trần Thiện Khiêm rằng ông muốn bảo tồn tính hợp pháp của chế độ VNCH và do đó ông yêu cầu Phó Tổng thống Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng thống VNCH để cứu vãn tình thế.
              (…)

              Di tản
              Ngày 21-4, trong khi lực lượng VNCH đang triệt thoái khỏi Xuân Lộc thì từ ngày 21 đến 28-4-1975, Mỹ đã bốc ra khỏi Sài Gòn qua 170 chuyến bay bằng phi cơ vận tải C130, C134 và C141 đưa tới căn cứ Không Quân Clark ở Phi Luật Tân, một số nhỏ được đưa thẳng tới Guam. Nhân viên của các đài phát thanh bí mật, được chở ra đảo Phú Quốc, rồi ít ngày sau được bốc đi.

              Trong Chiến dịch Frequent Wind ngày 29-4 trực thăng vận, từ toà đại sứ bốc 978 người Mỹ, 1.120 người Việt cùng công dân các nước khác. Từ DAO bốc 395 người Mỹ và 4.475 người tị nạn. Ngoài những chuyến trực thăng do Mỹ bốc, còn rất nhiều phi công đã đi một mình hoặc chở người thân bay thẳng ra Đệ Thất Hạm Đội.

              Trong 4 ngày cuối tháng 4, Mỹ đã xử dụng 45 tầu Hải quân, từ mẫu hạm, chiến hạm, tầu vận tải vớt tổng cộng 40,000 người. Tổng cộng cả tháng 4, Đệ Thất Hạm Đội vớt khoảng 130,000 người. Lúc đầu, họ được cho tạm trú tại đảo Grande Island ở Subic Bay.

              Ngày 28-4, Quốc Hội Mỹ chính thức cho phép người tị nạn vào Mỹ tại 3 nơi:
              Camp Pendleton, California; Eglin Air Force Base, Florida; Fort Chaffee, Arkansas. Sau mở thêm Camp Indiantown Gap, PA. vào đầu tháng 6.
              (Đinh Từ Thức)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Frank Snepp, tiết lộ rằng khi ông Thiệu nói chuyện với Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm (hay Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn) tại dinh Độc Lập thì bộ phận nghe lén của CIA ở tòa đại sứ Mỹ nghe hết không sót một lời nào.

              Trùm CIA tại Sài Gòn là Thomas Polga sau đó đã ra lệnh cho Phụ tá của ông là Thiếu tướng Charles Timmes đến gặp Đại tướng Dương Văn Minh ngay chiều hôm đó và hỏi thẳng ông Dương Văn Minh rằng nếu người Mỹ có cách loại ông Hương ra khỏi ghế tổng thống thì ông Minh có sẵn lòng đảm nhận chức vụ này để điều đình với Việt cộng hay không? Đại Tướng Minh nhận lời, và tin tưởng rằng ông có thể thuyết phục “phe bên kia”. Ông nói với tướng Timmes ông cần gởi ngay một đại diện của ông sang Paris để thương thuyết với phe bên kia.

              Nghe ông Minh nói như vậy, tướng Timmes liến mở cặp lấy ngay một ngàn đô la (1) tiền mặt trao cho ông Minh để mua vé máy bay cho người đại diện này.
              (…)

              (1) Frank Snepp chú thích là ông Minh không hề gửi người nào sang Paris, không dùng đến số tiền này và cũng không trả lại cho người Mỹ. Frank Snepp cũng cho biết thêm là đại sứ Martin không hề hay biết gì về việc CIA cho người tiếp xúc với Dương Văn Minh trước khi ông Thiệu từ chức. (*** Frank Snepp: sđd, trang 395)

              Những ngày cuối VNCH
              Theo hồi ký của ông Trần Văn Đôn, tòa Đại sứ Pháp đã nhẩy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của Sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp ông Đôn cho biết Sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh: Nếu có thương thuyết thì Hà Nội chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi. 10 giờ tối ngày 22-4, ông Đôn gặp ông Minh cho hay Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết.

              Ông Minh chưa tiếp xúc với ông Trần Văn Hương vì vị Tân Tổng thống không thích ông Minh.

              Ông Minh đề nghị ông Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục ông Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong đêm 22-4, ông Đôn đã đến tư gia Đại sứ Martin dù đã gần 12 giờ khuya. Sau đó, ông Đôn trao đổi với ông Martin về ý kiến của ông Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị ông Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết với Hà Nội.
              (Vương Hồng Anh)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Hai 21-04-1975

              Lễ bàn giao đang diễn ra tại dinh Độc Lập, các đơn vị còn lại của Sư đoàn 18 bắt đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đã chiến đấu vô cùng anh dũng chống lại một lực lượng chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần lễ. Khi cụ Trần Văn Hương nhậm chức Tổng thống thì Bắc quân đã tiến về tới gần Biên Hòa và bộ máy của cơ quan tình báo Mỹ CIA cùng tình báo của Pháp, cũng như Đại sứ là ông Jean-Marie Mérillon đã bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa ông Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần Văn Hương nhằm thương thuyết với Hà Nội.

              Trong khi đó thì từ Hà Nội, ban bí thư đảng đã gửi điện văn số 316-TT/TW ngày 21-4-1975 cho tất cả các chi bộ đảng chỉ thị về việc chọn lựa cán bộ để tiếp thu Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Chỉ thị nầy nói rằng ưu tiên dành cho các cán bộ quê ở miến Nam, nếu trường hợp thiếu thì mới dùng cán bộ miền Bắc. Chỉ thị nầy do Lê Văn Lương, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức đảng ký tên.
              (*** Văn kiện đảng: trang 291-293)
              (…)

              Ngày thứ 44 : 22-4-1975
              Long Khánh hoàn tất cuộc triệt thoái

              Ngày 22-4, lực lượng VNCH tại Long Khánh đã triệt thoái về Phước Tuy:
              Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục giao chiến và đánh bật Bắc quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xã và là lực lượng đoạn hậu sẽ rút đi sau cùng. Cánh quân của Sư đoàn 18 rút đi tương đối an toàn. Còn cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh chỉ
              huy đã bị Bắc quân chận đánh ở Liên tỉnh Lộ 2.
              (Phạm Huấn)


              – : Trong hồi ký: Cuộc hành trình 10 ngàn ngày của Hoàng Cầm, tướng chỉ huy trận tấn công Xuân Lộc viết: “…sau 3 ngày chiến đấu, Sư 341 thương vong 1.200 chiến sĩ, Sư 7 thương vong 300 chiến sĩ…”

              Nhân ngày 30-4-2010, BBC phỏng vấn Nguyễn Văn Thái, trung tướng, nguyên phó chính ủy Sư đoàn 7. Về trận Xuân Lộc, ông ta đưa ra con số lính Bắc Việt tử thương là 4.000 người. Sau 35 năm thì tay tướng này có vẻ thành thật hơn trong những con số. Và, “… trận Xuân Lộc diễn ra 12 ngày đêm ta đã tiêu diệt 2.056 tên địch” (Chiến thắng Xuân Lộc- Long Khánh). Đó là con số tử vong của binh sĩ thuộc VNCH.
              (Nhớ lại trận chiến Xuân Lộc – Hoàng Định Nam)


              – : Xuân Lộc thất thủ sau 2 tuần lễ chống trọi với Bắc quân, chiến trận này đã làm trì hoãn Chiến dịch Hồ Chí Minh của quân Bắc Việt ít nhất 2 tuần.

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Ba 22-04-1975

              Tổng thống Trần Văn Hương cho phép thả bom CBU ở Xuân Lộc.

              Ngay sau khi cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng thống VNCH, trong ngày 22-4, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III đã yêu cầu Đại tướng Cao Văn Viên xin Hoa Kỳ yểm trợ một phi vụ B52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối.

              Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại tướng Federick Weyand và Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU. Bộ Tổng tham Mưu đề nghị lên Tổng thống Trần Văn Hương xin xử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của Bắc Việt và chính Tổng thống Trần Văn Hương đã chấp thuận cho phép Không Quân VNCH thả những trái bom này.

              12 ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của Bắc Việt, Sư đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã “được hoạch định và thi hành rất hay” và các đơn vị nầy về đến Biên Hòa chỉ bị thiệt hại chừng 30% quân số.
              (Trần Đông Phong)

              Góp nhặt…ghi chép…
              Cuộc họp tại Bộ Tổng tham Mưu 6 giờ chiều ngày 22-4-1975, với chức danh là Tổng trưởng Quốc Phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã họp các Tướng lĩnh tại văn phòng Tổng Tham mưu Trưởng. Tại buổi họp này, Tướng Đôn nói: Dù có thương thuyết để đình chiến, chúng ta cũng cố giữ những gì chúng ta có. Vị Tổng trưởng Quốc Phòng yêu cầu Đại tướng Viên, Trung tướng Toàn sắp xếp lại tuyến phòng thủ để bảo vệ Sài Gòn. Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng Viên đã báo cáo tình hình chiến sự và khả năng phòng ngự của quân lực VNCH tại khu vực vòng đai thủ đô và khu vực các tỉnh lân cận.
              (Mường Giang)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Ba 22-04-1975

              Trái bom CBU được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh Sư đoàn 341 của quân Bắc Việt lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía Tây-Bắc thành phố Xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đã xử dụng loại vũ khí hóa vi quang.

              Theo Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không Quân Hoa Kỳ cũng còn trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Bắc quân kiểm soát quanh thị trấn Xuân Lộc bom Daisy Cutters, gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho Bắc quân. (Sau 1975, họ tìm được 3 trái bom BLU 82 chưa xử dụng và cho triển lãm tại Sài Gòn).
              Mặc dù có bom CBU nhưng một sư đoàn không thể nào chống cự được với một lực lượng địch đông gấp bội, các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc.
              (…)


              SàiGòn thất thủ
              Sau khi rút quân từ miền Trung, quân đội VNCH sẽ tập trung để tạo thành tuyến phòng thủ Sài Gòn. Trước đó, Hà Nội đã dốc hết toàn lực để sớm đánh chiếm Sài Gòn bằng cách đưa thêm quân số của Quân đoàn 2 vượt qua Vĩ tuyến 17 để đột nhập Quảng Trị và Huế. Nói chung là Hà Nội đã rót hết lực lượng chiến đấu vào miền Nam với tổng cộng 20 sư đoàn lúc đó đang trên đường Nam tiến. Kết quả là phía miền Nam đã từ từ mất Ban Mê Thuột, Đà Nẵng và các khu vực chung quanh SàiGòn cũng lần lượt bị rơi vào vòng kiểm soát của quân Bắc Việt.

              Lúc này, Tổng tham Mưu chỉ huy quân Bắc Việt là Tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả 5 Quân đoàn gồm 15 Sư đoàn với quân số khoảng gần 200 ngàn để chọc thủng những tuyến phòng thủ vòng đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn.

              Dọc theo Quốc lộ 13, cách Sài Gòn khoảng 50 km về hướng bắc là căn cứ Lai Khê do Sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây là một trong năm sư đoàn được phối trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn. Sư đoàn 5 tan vỡ và vị Tư lệnh Sư đoàn là Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất khuất. Mặt khác, tại cứ địa Củ Chi cách Sài Gòn khoảng 30 km về hướng Tây Bắc, Sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn công dữ dội và ngã gục trước Quân đoàn 3 Bắc Việt. Tư lệnh Sư đoàn là Tướng Lý Tòng Bá vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù binh.

              Ngày 30-4-1975, Sài Gòn đã phải hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của 4 quân đoàn Bắc quân, lực lượng lại quá ít so với quân số hùng hậu của quân Bắc Việt,
              (The Fall Of SaiGon – Komori Yoshihisa)

              Quân đoàn 1 và 4 tại Vùng 3 Chiến Thuật
              Sài Gòn lập tuyến phòng thủ vì:

              Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) đang trên đường kéo tới Sài Gòn:
              Các Sư đoàn bộ binh 312, 390, Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn 202 tăng thiết giáp, Trung đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin.

              Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) đang từ Xuân Lộc kéo xuống:
              Các Sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, các Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn công binh 25, Trung đoàn 26 tăng thiết giáp.
              – : Quân đoàn này trước khi đánh Xuân Lộc có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số trực tiếp chiến đấu 29.034 người.
              – : Tổng số lực lương chính qui Bắc Việt bao vây Sai Gòn gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).
              – : Với 5 quân đoàn, số đại pháo 130 ly khoảng 400 khẩu. Không kể xe kéo pháo, cối từ 61 đến 120 ly, pháo cao xạ nòng dài, nòng ngắn từ 37 đến 57 ly, hỏa tiễn H12, hoả tiễn Sam.

              Ngày thứ 45 : 23-4-1975
              Sài Gòn lập tuyến phòng thủ

              Ngày 23-4, Sư đoàn 18 sau khi rút về được bộ Tư lệnh Quân đoàn III cho nghỉ dưỡng quân hai ngày tại Long Bình, sau đó các đơn vị được điều động tăng cường phòng thủ khu vực Đông-Nam Biên Hòa và mặt Đông Sài Gòn, kéo dài từ kho đạn Long Bình đến kho đạn thành Tuy Hạ.



              Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa, là lực lượng tiếp ứng Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công. Với kế hoạch phối trí của bộ Tư lệnh Quân đoàn III để bảo vệ Sài Gòn, kể từ sáng 22-4, phòng tuyến án ngữ phía Bắc và phía Đông được thành hình với tuyến Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại phòng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ và Lữ đoàn 468, 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến là lực lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Hòa.
              (Phạm Bá Hoa)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Tư 23-04-1975

              Tổng thống Trần Văn Hương cử Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp đi Hà Nội.

              Trong Decent Interval, Frank Snepp kể lại….
              Trong khi quân đội Bắc Việt đang chuẩn bị tấn công Sài Gòn thì ông Tổng Thống già Trần Văn Hương cũng tìm cách tiếp xúc kín với phái đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất và ông đề nghị gửi một người trung gian đi Hà Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ.
              (*** 141: Frank Snepp: sách trang 433)

              Tác giả của bộ The Vietnam Experience cũng có đề cập đến chuyện này như sau:
              Ông Hương không tin việc Hà Nội sẵn sàng chịu thương thuyết với Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi chỉ tin vào việc đó sau khi tôi có đủ bằng chứng. Ông Huơng đưa ra một đề nghị hoà bình của ông, đó là đề nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội đồng Quốc gia Hoà giải, loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trong 9 ngày và đề nghị gửi Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, Tổng trưởng Thông Tin trong nội các Nguyễn Bá Cẩn làm đặc sứ đại diện cho miền Nam đi Hà Nội. Bắc Việt bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemptuously), nhất là đề nghị về ngưng bắn.
              (*** 143: Thevietnam Experence. sđd, trang 142)

              Trong một cuộc tiếp xúc với Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp (cũng là cựu Trưởng phái đoàn VNCH trong Uỷ ban Liên hợp Bốn Bên năm 1973), Tướng Hiệp đã cho người viết biết một vài chi tiết khá lý thú về chuyện này. Tướng Hiệp nói rằng vào khoảng hai ngày sau khi Tổng thống Hương nhậm chức (23-4), ông trở về nhà vào lúc đã khuya và được bà Hiệp cho biết văn phòng Tổng thống gọi điện thoại nhiều lần vì Tổng thống muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến Phủ Tổng thống nói chuyện với Tổng thống Trần Văn Hương…
              (Trần Đông Phong)

              Góp nhặt…ghi chép…
              Chiếc HQ 802 nhổ neo lúc 6 giờ chiều 30-3-75, nhưng vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8 giờ tối mới rời quân cảng Cam Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4,000 tàn binh của SĐ/TQLC, như vậy chỉ có 1/3 quân số của sư đoàn thoát được về Cam Ranh, gần 8,000 TQLC còn lại thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng.

              LĐ468 TQLC khi lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ. Cuộc lui binh của LĐ258 và LĐ147 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được tàu. HQ 802 về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31-3-75.
              (Phạm Vũ Bằng)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Tư 23-04-1975

              Tổng thống Trần Văn Hương nói với tướng Hiệp cụ muốn tìm một đường dây đề nghị thẳng với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Chuyện thương thuyết này cần phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua phái đoàn Bắc Việt trong Ủy ban Liên hợp Bốn bên, do đó cụ chỉ thị cho Tướng Hiệp liên lạc với phái đoàn Bắc Việt nếu họ chấp thuận thì Tướng Hiệp có thể ra Hà Nội mở đầu cho sự thương thuyết.

              Tướng Hiệp nói rằng ông liên lạc với phái đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm sau, 24-4-1975, sẽ có một chuyến phi cơ C130 đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài Gòn để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về Sài Gòn vào buổi tối hôm đó.

              Tướng Hiệp vào phi trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt. Đại diện của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên…Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhất vào buổi tối thì cho ông biết kết quả.

              Chiều hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trở về cho ông biết Hà Nội bác bỏ đề nghị thương thuyết của Tổng thống Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội còn nói thêm rằng Hà Nội đòi chính quyền miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện.
              (Mạn đàm với cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp tại Anaheim, Califomia, ngày 4 tháng 1 năm 2003).

              Đó là nổ lực duy nhất mà chính phủ VNCH cố gắng tìm cách gửi đại diện ra Hà Nội để thăm dò nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này là tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cũng cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn còn có thể giàn xếp để cho hai phe Sài Gòn và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào đó.

              Tuy nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là Đại sứ Martin cũng không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker) cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ý định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói chuyện với nhau, dù lúc đó đã là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.
              (…)

              Ngày thứ 46 : 24-4-1975
              Bà Rịa

              Ngày 24-4, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SĐ3/BB (Vùng 1 CT) nhận trách nhiệm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa bảo vệ thị xã này.

              Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được cử làm Tổng Trấn thị xã Vũng Tàu, tái phối trí lực lượng tại các phòng tuyến quanh Sài Gòn.
              (SQTB K10B/72)

              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Năm 24-04-1975

              Theo các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt Nam nhân chứng, Frank Snepp trong Decent Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril thì hồi 10 giờ sáng ngày 24-4-75, qua sự trung gian của cựu Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng thống Trần Văn Hương đã đến gặp cựu Đại tướng Dương Văn Minh tại tư gia của Đại tướng Khiêm trong cư xá sĩ quan tại bộ Tổng Tham Mưu gần phi trường Tân Sơn Nhất. Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, Tùy viên của Tổng thống Trân Văn Hương thuật lại cho người viết biết rằng cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở dinh Độc Lập cũng như tại phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia ở đường Hồng Thập Tự như ông Minh muốn, do đó cụ nhờ ông Khiêm sắp đặt cuộc gặp gỡ này.

              Trong cuộc tiếp xúc, Tổng thống Trần Văn Hương đã yêu cầu Tướng Minh nhận chức thủ tướng toàn quyền để thương thuyết với phe bên kia theo đề nghị của Đại sứ Pháp. Tổng thống Trần Văn Hương đã nói với Lưỡng viện Quốc Hội về việc gặp gỡ Tướng Dương Văn Minh rằng:
              "Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm đã qua, mọi sự không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia."

              Tuy nhiên tướng Minh đã cương quyết từ chối và ngược lại ông đã yêu cầu Tổng thống Hương từ chức, nhường chức vụ Tổng thống VNCH lại cho ông Minh để được toàn quyền nói chuyện với phe bên kia.
              (Phỏng vấn Đại úy Nguyễn Văn Nhựt)
              (Trần Đông Phong)


              Xuân Lộc tháng Tư
              (…tiếp Xuân Lộc tháng Tư của Vương Mộng Long di tản từ mặt trận Long Khánh về đến Bà Rịa)
              Đường Liên tỉnh Lộ Long Khánh, Bà Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân Phong một đỗi, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người. Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!

              Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban Mê Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng 3-1975. Gia đình tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng Đức.

              Đoạn đường vài chục cây số từ Tân Phong đi Bình Ba, Bà Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với những người lính TĐ82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư lệnh Hành Quân đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng. Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ. Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư lệnh (Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo) quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,

              – Quân của Long đâu sao qua không thấy?

              Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội hình, nên Tư lệnh không thấy rõ họ. Nghe tôi giải thích có lý, Tướng Tư lệnh gật đầu,

              Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn
              Ði lính hơn ba năm, hắn khoe hắn đã bắn chết đúng tám tên địch. Sang Mỹ, mỗi lần nhậu ngà ngà, hắn lại khoe khoang thành tích ấy. Bạn bè hắn không tin. Hắn cởi áo và xắn quần lên khoe: Trên lưng và dưới chân hắn còn thấy rõ tám vết sẹo. Bạn bè hắn cười: Ông bị tám vết thương đâu có nghĩa là ông giết được tám tên địch.
              Hắn vẫn khăng khăng: Thì có gì khác nhau đâu?
              (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

              Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư lệnh và Đại tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.
              (Vương Mộng Long)

              Ngày thứ 47 : 25-4-1975
              Bình Dương, Long An
              Giao tranh ở phòng tuyến Bình Dương.

              Ngày 25-4, Bắc quân điều động sư đoàn có bí số CT-7 (1) và 2 trung đoàn cơ động áp sát tại tuyến phòng thủ của Sư đoàn 5 BB. Bắc quân muốn chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa để tiến về Sài Gòn.

              Tuyến phòng thủ Long An
              Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 BB được giao nhiệm vụ phòng thủ vòng đai thị xã Long An và khu vực từ Tân An về Sài Gòn. Các đơn vị của Sư đoàn 22 được đặt thuộc quyền điều động của Biệt Khu Thủ Đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư lệnh.
              (SQTB K10B/72)
              (1) CT là tên gọi một sư đoàn. CT-7 là Công trường 7.


              10 ngày cuối cùng của VNCH
              Thứ Sáu 25-04-1975

              Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21-4, tuy nhiên ông vẫn còn trú ngụ trong dinh Độc Lập cho đến ngày 25-4. Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp kể lại vào hồi 5 giờ 30 chiều ngày 25-4-75, trùm CIA Thomas Polgar gọi Tướng Charles Timmes và Frank Snepp vào văn phòng của ông ta và ra lệnh cho họ phải giúp cho ông ta đưa ông Thiệu và ông Khiêm đi Đài Loan vào tối hôm đó.

              Khoảng 8 giờ rưỡi tối, Tướng Timmes, Frank Snepp cùng 2 nhân viên CIA khác lái ba chiếc xe đến tư gia của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ tổng tham m­ưu và khoảng 9 giờ tối thì trùm Polgar cũng đến nơi. Ít lâu sau thì một chiếc xe Mercedes (1a) chạy đến đậu ngay trước nhà ông Khiêm và ông Thiệu vội vã bước vào nhà.

              Frank Snepp kể rằng ông Thiệu có mái tóc bạc chải bóng loáng, quần áo ủi thẳng nếp và trong lúc trời còn tranh tối tranh sáng: Ông ta có vẻ giống như là “Một người mẫu trong tạp chí Gentleman’s Quartery” hơn là một vị cựu Tổng thống đi tỵ nạn.

              Ngồi ở quán nhậu kể chuyện di tản

              Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
              Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày


              Đoàn tuỳ tùng của ông Thiệu người nào người nấy đều to con vạm vỡ tay xách những chiếc va-li quá khổ đến những chiếc xe của toà đại sứ Mỹ và họ đòi phải để cho họ đích thân đặt những chiếc va-li đó vào thùng sau xe. Frank Snepp nói ông ta không biết trong những va-li đó đựng gì, tuy nhiên có vẻ rất nặng vì khi những hành lý đó được đặt xuống xe thì nghe như có tiếng kim loại chạm vào kim loại.

              Theo Frank Snepp thì sau khi đưa hành lý vào thùng xe, Polgar, tướng Timmes cùng nhiều nhân viên người Việt ra khỏi nhà và bước lên xe. Ông Thiệu lên ngồi đằng sau xe của Frank Snepp, ông ta ngồi giữa tướng Timmes và một nhân viên người Việt. Trên xe, tướng Timmes nói với ông Thiệu: Xin Tổng thống cúi đầu xuống. Khi xe đi vào cổng phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta lại vội vã nhắc ông Thiệu cúi đầu xuống nữa vì lính gác có thể nhìn mặt người trong xe, nhất là lúc đó đã sau giờ giới nghiêm. May thay, khi thấy xe mang bảng số Ngoại Giao Đoàn, lính gác vẫy tay cho đoàn xe chạy thẳng.
              (…)

              Góp nhặt sỏi đá
              Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái Samsonite vào, (lúc ông Polgar đang viết gì đó, tôi bỏ thêm cây K54 vào Samsonite) hai khẩu súng chạm nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
              (Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

              Nguyễn Tấn Phận, Thiếu Tá Tuỳ viên đi theo Tổng thống Thiệu qua Đài Bắc.

              Lạc đạn
              Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một xe Mercedes mầu xanh đen đã đậu sẵn. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình thò tay vào túi áo. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác.

              Ông Thiệu và ông Điền vội vã bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chính thức của Tổng thống và chịu làm Lê Lai cứu chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi:
              – Có mấy cây súng?
              Đại tá Điền đáp:
              – Có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.
              (Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

              Lạc đạn
              Ngày 2-9-1975, chiếc xe Mercedes được sử dụng để chở Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ duyệt binh ở Ba Đình, Hà Nội nhân dịp quốc khánh ngày Việt Nam thống nhất. Trong khi tiếp quản dinh Độc Lập, một đơn vị bộ đội phát hiện một chiếc xe nhãn hiệu Mercedes 4 chỗ, biển số 72 M-0217 màu xanh đen, số khung 100248, số máy 027150. Chiếc xe này có kính chống đạn, sườn sắt chống mìn đã được cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt mua năm 1970.
              (Wikipedia)

              Ngộ Không
              Last edited by KiwiTeTua; 03-17-2017, 12:46 AM.

              Comment


              • #8
                Chương 9

                10 ngày cuối cùng của VNCH
                Thứ Sáu 25-04-1975

                Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn phòng của hãng hàng không Air America, người lái xe trước tắt đèn, Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội vã tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bỗng Frank Snepp chợt nhìn thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước, tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích gì. Polgar mở cửa xe và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lời cám ơn rồi bước vội đến phi cơ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại sứ Graham Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc phi cơ vận tải C118 bốn động cơ của không lực Hoa Kỳ, ông đại sứ cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn lên phi cơ rồi sau đó phi cơ cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất bay đi Đài Bắc.(…)

                Bên lề trận chiến
                Một thời gian sau đó, bà Anna Chennault tuân hành lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford từ Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc để gặp Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Khiêm. Bà Anna Chennault là vợ của vị Tướng anh hùng thời Đệ nhị thế chiến, Trung tướng Claire Lee Chennault, Tư lệnh Không đoàn 14 của Không Lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa. Bà Anna Chennault sau nầy là một nhân vật quan trọng trong bộ Tham Mưu tranh cử của ông Richard Nixon, bà là người trung gian trong sự liên hệ mật thiết giữa Tổng Thống Nixon và Tổng Thống Thiệu trong thời gian đó. Nhiệm vụ trong chuyến đi này của bà Anna Chennault là chuyển lời Tổng thống Hoa Kỳ yêu cầu cựu Tổng Thống Thiệu và cựu Thủ Tướng Khiêm đừng vào nước Mỹ.
                (Những ngày cuối của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

                – : Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu từ Anh sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, và mất tại Boston.
                Góp nhặt…ghi chép…(..trích lục lại)

                Ngày 29 là ngày có nhiều góp nhặt…để ghi chép…như ngày 29-9-2001, ông Thiệu nằm xuống.Ngày 29-3-1975, ngoài Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm tử trận, còn chuyện Đà Nẵng di tản với Tướng Trưởng, Tướng Khánh, Tướng Thoại, Tướng Lân, và Tướng Hình…
                Tháng Ba buồn … hiu!
                (…tiếp ở bãi biển dưới chân núi Sơn Trà)

                Mặt trời khuất bóng về hướng Tây, cái váng vàng úa của buổi chiều tàn phản chiếu lại lên bầu trời một mầu ảm đạm thê lương! Hay tại tôi “lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”! Màn đêm bắt đầu bao phủ cũng là lúc Tư lệnh TQLC đến rồi lần lượt các vị Tư Lệnh quân binh chủng khác đáp trực thăng về đây mở cuộc họp ngay tại TOC/HQ (Trung Tâm Hành Quân Hải Quân). Ngồi ở cửa hầm TOC với Tr/úy Tạ Hạnh, chúng tôi nhận diện được quý tướng lãnh vào họp trong TOC là Trung Tướng Tư Lệnh QĐ1 Ngô Quang Trưởng, Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 Lâm Quang Thi, Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh SĐ3 BB, Tướng Tư Lệnh.HQ Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi không biết rõ cấp bậc Hải Quân nên cứ gọi là…ông tướng cho chắc ăn.

                Cũng cần nói thêm là trong các vị Tướng Tư lệnh đến họp, tôi không thấy 2 vị Tư lệnh “Không Quân”, (nói lại cho rõ là tôi không thấy chứ chưa hẳn là nhị vị này vắng mặt), Đó là Tướng “Không Quân”Tư lệnh SĐ1 BB (1), đại đơn vị của ông đã bị cái “cầu phao” lừa, còn Tướng Khánh, Tư Lệnh Không Quân Vùng 1 chả nhẽ cũng…“Không Quân” nên không cần đến dự? Có cũng như không chăng? Vì mấy ngày này chẳng thấy phản lực bỏ bom đâu cả mà bỏ đi đâu! Chằng thấy chuồn chuồn chuyển quân, tiếp tế, tải thương đâu cả! Chẳng lẽ “mắng mí phí táy, thiểm zường tú lọoc tài zi?”, có nghĩa là chuồn chuồn bay mất thì mưa ngập bờ ao!

                Trong khi các vị Tướng lãnh đang họp trong TOC thì bộ đội nón cối bắt đầu pháo kích vào BTL/HQ, cường độ tăng dần, lúc đầu có những trái rớt ngoài vòng đai nhưng rồi tiền sát viên của chúng nằm gần đâu đây để điều chỉnh dần vào mục tiêu, nhiều trái nổ gần chỗ chúng tôi. Tài xế Ngọc báo cho biết xe jeep của Tư lệnh bị pháo không còn sử dụng được nữa.

                Cuộc họp chấm dứt, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đi ra trực thăng trước, Thiếu Tướng Tư lệnh TQLC ngoắc tôi và bảo mang máy theo Trung Tướng TL/QĐ1. A-lê-hấp, tôi quảy máy PRC25 lên lưng và tức tốc chạy theo, ra đến nơi trực thăng đậu, còn đang chờ một vị Thiếu Tá lên trước rồi tôi mới lên. Ngồi trên trực thăng ngó xuống, thấy tôi Trung Tướng hỏi:
                – Chú đi đâu đây?
                – Thưa Trung tướng, Thiếu Tướng Tư Lệnh tôi bảo tôi mang máy theo Trung Tướng.

                Suy nghĩ trong giây lát rồi ông Tướng khoác tay bảo:
                – Thôi, không cần, chú trở lại với Tư lệnh đi, cho tôi gửi lời cám ơn ông.

                Rồi tất cả mọi người trong phòng họp lần lượt bước ra và rời BTL/HQ, lúc đó vào khoảng gần 10 giờ đêm, bộ đội nón cối vẫn còn pháo lai rai vào sân cờ.

                Thiếu Tướng Tư Lệnh bước tới chỗ tôi và Tr/úy Hạnh, gương mặt tư lệnh đăm chiêu, suy nghĩ, Tr/úy Hạnh vội trình với Tư Lệnh:
                – Thưa Thiếu Tướng, mình phải bám theo Tư Lệnh HQ thôi, vì tất cả phương tiện không còn nữa, xe trúng pháo hư rồi, trực thăng cũng hư…

                Tư Lệnh suy nghĩ đôi phút rồi gật đầu, Tr/úy Hạnh quay sang tôi:
                – Tiểu Cần, chạy sang gọi tất cả anh em lên đường.

                Đi vòng dưới chân núi Sơn Trà chừng 2 tiếng thì chúng tôi ngồi nghỉ, Tư Lệnh HQ làm tín hiệu bằng đèn pin cho tàu vào rước, có lẽ đến hơn 30 phút sau mà cá lớn cá nhỏ vẫn lặn mất tiêu, không có tàu nào vào đón cả nên Tư Lệnh HQ Hồ Văn Kỳ Thoại nhờ tôi liên lạc bằng hệ thống TT. Trời đất! Một giới chức đứng đầu Vùng 1 Duyên Hải mà không có một ATV hay hệ thống LL/TT đi theo? Cũng may là trưa nay, trong lúc rỗi rảnh chờ lệnh mới, và qua nhiều năm tháng trong nghề đã dạy cho tôi những kinh nghiệm và lanh lợi nên tôi đã xin được tần số nội bộ của HQ nên bây giờ tôi vô tình lại kiêm nhiệm thêm vai trò một ATV của Tư Lệnh HQ nữa, một ATV, hai Tư Lệnh! Chuyện hi hữu như các Tướng lãnh họp hành quân mà không có (2) Tướng KQ, như Tư lệnh HQ mà phải hành quân bộ trong đêm bên bờ biển!

                Sau khi liên lạc được với HQ, họ gửi vào 2 tàu chiến, không phải để chở quân, hình như là giang tốc đỉnh. Vì có nhiều đá ngầm và sóng biển nên tàu chỉ đậu cách xa bờ chừng 10 m nên chúng tôi phải bơi ra. Muốn giữ cho máy PRC25 khỏi ướt, tôi phải đội máy lên đầu, vì vậy chuyện bơi ra tàu khá vất vả và mệt nhọc, và tư lệnh cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng an vị trên boong tàu. Thiếu Tướng Tư lệnh, Tr/úy Hạnh và tôi ngồi trên boong, cuối đuôi tàu, bộ quân phục ướt sũng, gió thổi mạnh, hơi nước biển, sương đêm phủ trùm càng làm tăng thêm cái lạnh suốt một đêm dài, ba thầy trò bó gối nhìn nhau. Người ta thường nói “bụng đói cật rét” nhưng chúng tôi bụng đói thì có, nhưng không phải cật rét, rét bên ngoài mà là rét từ trong, tự đáy lòng. Hai hàm răng lập cập vào nhau, cố mím môi cắn lợi để kềm lại mà không được, vậy mà tư lệnh luôn nhắc tôi phải cố giữ liên lạc với hải quân, với HQ 802, Tư Lệnh nói:
                – Chú cố gắng giữ liên lạc với HQ 802, không có tôi họ không vào bốc anh em mình đâu.

                Nhắc lại điều này chắc hẳn một số bạn lính biển không vui, nhưng sự thật nó là vậy mà. Điển hình là khi Phó Đề đốc TL/HQ phải nói rõ tên thì “tàu trưởng” mới tin và cho tàu vào đón. Điển hình là sau khi họp xong, tại sao phó đề đốc không đi ra hướng cầu tầu ngay trong BTL/HQ mà lại phải đi bộ, mò mẫm trong đêm dưới chân núi Sơn Trà? Vì cầu thì có mà tàu thì không!

                Theo lời yêu cầu của TL/TQLC, chiếc tàu chở Tư lệnh và anh em chúng tôi cứ ngược xuôi ngoài khơi trước cửa bãi biển Non Nước. Mãi tới 8 giờ sáng ngày 29-3-75, sau khi được biết đã có 2 tàu vào đón TQLC tại bãi biển Non Nước thì giang tốc đỉnh mới chuyển chúng tôi sang tàu lớn HQ 802, đậu ở ngoài khơi để đón các TQLC chuyển đến. Tới xế chiều không còn thấy tàu thuyền nào từ trong bờ chuyển quân ra nữa thì HQ 802 nhổ neo, trực chỉ hướng Nam, nối đuôi nhau vượt trùng dương! Vĩnh biệt vùng đất địa đầu giới tuyến! Vĩnh biệt anh em LĐ147/TQLC nằm lại hay bị bắt trên bãi cát Thuận An!

                Để chấm dứt ở đây những gì tôi chứng kiến, tôi xin được mượn lời của Đại tướng Cao Văn Viên khi được báo chí phỏng vấn:
                – Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, 100 chứng nhân có 100 sự thật (hoặc sai sự thật). Định kiến làm cho lịch sử sai lệch.

                Vì thế tôi đã hết sức cố gắng loại bớt những chi tiết không cần thiết để tránh suy diễn bàn cãi mất thì giờ, nhưng cũng sẽ không thể tránh được một số sự kiện khác với cái nhìn của người khác. Nhưng cái chính xác không thể phản bác được mà ai cũng phải công nhận là SĐ1/BB đã bị tan hàng bất dắc dĩ một cách đau khổ. LĐ147 TQLC với hơn 3,000 quân đã bị lùa vào bước đường cùng, đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Và cuộc lui binh này nếu dựa theo trục chính là QL1 thì hẳn sẽ tránh được những thảm họa và không có thảm họa tiếp theo ở Đà Nẵng.

                Tiểu Cần tôi ước mong được đọc những sự thật về “Hell on Thuận An Beach” của Lâm Tướng quân (3) trước khi (tôi) nhắm mắt…!
                (MX Tiểu Cần)

                MX Tiểu Cần tên thật: Nguyễn Thế Thủy. Tác giả là Hạ sĩ quan Truyền Tin cho Thiếu tướng tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân. (…trích lục lại)

                (1) Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm bay đi Quảng Ngãi, một ngày sau đó tử nạn máy bay.
                (2) Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 1 KQ Nguyễn Đức Khánh, vì trực thăng hết xăng phải đáp xuống bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu HQ 404 cùng Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn.
                (3) Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 Lâm Quang Thi.

                Góp nhặt sỏi đá
                Tướng Kỳ cho đáp trực thăng xuống bộ Tổng Tham Mưu, không thấy Tướng lãnh nào ngoài Tướng Trưởng đang…trầm ngâm nhìn bản đồ và…hút thuốc lá. Tướng Trưởng nhờ Tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau buổi trưa ngày 29-4.

                Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
                – Nhờ Tướng Kỳ nhà tôi mới đi được.
                (Nguyễn Tường Tâm)

                Quân sử ngoại truyện
                26-4-1975, Quân đoàn 2 có mặt trước cửa ngõ Sài Gòn ở một địa danh có tên là Rừng Lá.
                5 giờ chiều 26-4, quân đoàn xin được nổ súng (sớm 1 ngày so với toàn mặt trận) trên hướng Đông Nam của Sài Gòn. Từ các hướng F304 đánh Nước Trong, Long Bình, Thủ Đức… F325 tiến công Long Thành, Nhân Trạch… F3 nổ súng ở Bà Rịa, Vũng Tàu.

                Vị Tướng già tóc bạc hơi nghiêm nét mặt nói:
                “Hiện nay có ý kiến sai trái cho rằng lúc này địch đã như trái sung chín rụng, không cần đánh cũng phải đầu hàng. Hoàn toàn sai. Sáng 30-4, chúng còn cố thủ quyết liệt tại cầu Sài Gòn và bắn cháy của chúng tôi 2 chiếc xe tăng… Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đến phút chót”.
                (Hồi ký “Đời chiến đấu” - Nguyễn Công Trang)

                – Ký hiệu phân cấp của quân đội Bắc Việt
                A: tiểu đội B: trung đội C: đại đội.
                D: tiểu đoàn E: trung đoàn F: sư đoàn.

                Góp nhặt…ghi chép…
                Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân đoàn 3 từ Pleiku bôn tập xuống phối hợp với 2 trung đoàn của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 từ Đà Nẵng kéo xuống dọc ven biển và hợp lực đánh Phan Rang. Xong, hợp quân này theo Quốc Lộ 1 xuyên qua Phan Thiết qua ngả Bình Tuy ngang Xuyên Mộc để đánh Biên Hòa và Sài Gòn. Vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ phải đi đường vòng về hướng đông của Sài Gòn bọc qua Vũng Tàu và Bà Rịa.

                Ngày thứ 48 : 26-4-1975
                Bà Rịa

                Ngày 26-4, khoảng 6 giờ Bắc quân pháo kích kéo dài 3 tiếng vào thị xã Bà Rịa, bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh Tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.

                Khoảng 10 giờ đêm, Bắc quân (1) tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp phối hợp đánh vào Trung tâm Tiếp vận Tiểu khu và tư dinh Tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xã Bà Rịa. Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Băc quân ra khỏi trung tâm thị xã. Tiểu đoàn Dù đã bắn cháy 5 chiến xa Bắc quân ngay trong đêm 26-4.

                – Tại Bà Rịa, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3/BB từ Quảng Ngải vào đụng trận với Sư đoàn 3 Sao Vàng (1) thuộc Quân đoàn 2 của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo. Trung đoàn 141 của sư đoàn này và Đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa chiều ngày 27-4-1975.

                10 ngày cuối cùng của VNCH
                Thứ Bảy 26-04-1975

                Ngày 22-4-1975, Bộ chính trị của đảng cộng sản đã quyết định chấp thuận kế hoạch cuối cùng của cuộc tổng tấn công, và ngày 14-4-1975, “Chiến dịch 275” được chính thức cải danh là “Chiến dịch Hồ chí Minh”, tức là chiến dịch đánh chiếm thủ đô Sài Gòn.


                Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ chí minh đặt ở Lộc Ninh soạn thảo kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn - Khởi sự tấn công vào ngày 27/4/1975

                Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu sau đó đã soạn thảo kế hoạch (1) hành quân chớp nhoáng sử dụng các đơn vị chiến xa và cơ giới tiến chiếm 5 mục tiêu trong thành phố Sài Gòn: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, bộ Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và phi trường Tân Sơn Nhất.

                Tướng Văn Tiến Dũng trình kế hoạch hành quân này cho 2 uỷ viên Bộ chính trị là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, nhân vật số 2 và số 4 trong bộ chính trị của đảng cộng sản. Cả hai nhân vật này chấp thuận kế hoạch và ra lệnh các cuộc tấn công vào vùng ven biên sẽ khởi sự vào ngày 27-4 và giai đoạn cuối cùng tấn công vào Sài Gòn sẽ khởi sự vào ngày 29-4-1975. Trong các kế hoạch của Bắc Việt cũng như chỉ thị của Bộ chính trị, không hề có một điều nào, một câu nào nói đến việc “có thể thương thuyết với chính quyền mới của Dương Văn Minh (2)”.
                (Trần Đông Phong)

                (1) Kế hoạch hành quân trên đã có từ trước ở Hà Nội do tướng Võ Nguyên Giáp soạn thảo.
                (Xem Thâm u bí sử ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975)

                (2) Cựu Đại tướng Cao Văn Viên sau này cho biết:
                Tồng Thống Dương Văn Minh thú nhận ông bị Cộng sản lừa. Ông khuyên những cố vấn thân cận và con rể là Đại tá Nguyễn Hồng Đài nên rời Việt Nam. (*** Cao Văn Viên, trang 225).

                – Sau này ông Dương Văn Minh cũng qua Mỹ, ông sống chung với vợ chồng con rể Nguyễn Hồng Đài ở miên nam California và mất tại Rose Hill.

                Góp nhặt…ghi chép…
                Ngày 26-4, Bắc quân bao vây Sài Gòn bằng 5 cánh quân do 4 quân đoàn và Đoàn 232.
                Đoàn 232 quân số tương đương với một quân đoàn gồm: 3 sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng 16 sư đoàn. Ngoài ra Bắc quân còn có vào khoảng 15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn, toàn bộ chủ lực quân chính qui của Bắc quân vào khoảng 20 hoặc 21 sư đoàn bộ binh với trên 100 nghìn người chưa kể 20 trung đoàn pháo binh, thiết giáp và phòng không, v…v…

                10 ngày cuối cùng của VNCH
                Thứ Bảy 26-04-1975

                Sáng ngày 26-4-1975, Văn Tiến Dũng cùng đoàn tùy tùng của ông rời Lộc Ninh di chuyển bằng quân xa về Bến Cát khoảng gần 50 cây số ở phía tây-bắc Sài Gòn, tại đó ông ta thảo luận với tướng MTGPMN Trần Văn Trà về những chuẩn bị cuối cùng cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Cấp chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, hai ủy viên Bộ chính trị không đi theo bộ tư lệnh tiền phương của Văn Tiến Dũng mà ở lại Lộc Ninh để phối hợp mọi hoạt động cả chính trị lẫn quân sự trong giai đoạn cuối của chiến dịch.

                Tại trại Davis trong phi trường Tân Sơn Nhất, tối 25-4, phái đoàn MTGPMN trong Ủy ban liên hợp bốn bên đã nhận được mật điện của Văn Tiến Dũng cho biết quân đội Bắc Việt sẽ khởi sự tấn công Sài Gòn, do đó Đại tá MTGPMN Võ Đông Giang đã ra lệnh cho tất cả các nhân viên trong phái đoàn Việt cộng phải đào hầm để tránh pháo kích. Bức mật điện của Văn Tiến Dũng kết thúc bằng câu“chúc các đồng chí may mắn. Hẹn gặp các đồng chí tại Sài Gòn“.

                Đúng 5 giờ chiều ngày 26-4, được lệnh của Lê Đức Thọ (1) qua Văn Tiến Dũng (1), tướng Bắc Việt Lê Trọng Tấn ra lệnh cho 6 sư đoàn dưới quyền chỉ huy của ông ta tấn công vào quận Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hoà cùng các vùng nằm về phía đông Sài Gòn.(…)

                Xuân Lộc tháng Tư
                (…tiếp tục với TĐ82 BĐQ từ Long Khánh về Bà Rịa)
                Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy, cánh quân của TĐ82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ chuẩn tướng tư lệnh trên đường di chuyển. Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay bay đi. Không rõ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với những pháo thủ dù, họ quay sang tiến về phía TĐ82 BĐQ. Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, tướng Toàn đi một vòng, bắt tay từng người lính trong hàng. Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,
                – Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát căn cứ Mây Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào.

                Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo trong hội đồng xã Bình Ba, ông cho biết Lữ đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình Ba. Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng Đảo để ra Bà Rịa, vào trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì cả.

                Khi tôi về lại hội đồng xã Bình Ba thì Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngã ba Xà Bang, Đại Tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) Tỉnh trưởng Long Khánh bị địch bắt ở địa điểm này.

                Ngày hôm đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Đó là ngày 21-4-1975.
                (Vương Mộng Long)

                Góp nhặt sỏi đá
                Chuẩn tướng Lê Minh Đảo được giao nhiệm vụ trấn giữ Xuân Lộc, với hy vọng có thể chặn được đà tiến quân như vũ bão của quân đội Bắc Việt. Ở Xuân Lộc, Tướng Đảo có 12,000 quân chọi lại 40,000 quân của tướng Hoàng Cầm. Cũng may cho Tướng Đảo, tướng Hoàng Cầm của Hà Nội là một vị tướng xoàng, nên ông Đảo có thể đối phó không khó lắm.

                Dựa theo nhận xét của Hà Nội về tướng Hoàng Cầm:
                (…) Nếu Hà Nội cứ tiếp tục để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của ta bị cầm chân ở Xuân Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay đổi lớn. (…) – (…trích lục lại: Chiến tranh Việt Nam toàn tập).

                Lạc đạn
                Nhưng “bếp Hoàng Cầm” thì không…xòang! Năm 1951-1952 khi trận Điện Biên Phủ đang tiếp diễn, có anh “bộ đội” ở Sư đoàn 308 sáng tạo ra bếp không có khói. Chuyện là bộ đội phải đào hầm trú ẩn, công sự chiến đấu, trong hầm phải nấu nướng nếu có khói thì lộ mục tiêu. Vì vậy trên bếp, anh bộ đội phủ cành cây trải một lớp đất mỏng rồi tưới nước để giảm độ khói của bếp nấu nướng. Khói len lỏi qua các rãnh cây ẩm ướt chỉ là một dải nước tan nhanh khi rời mặt đất. Vì bộ đội là “anh nuôi” tên Hoàng Cầm nên được gọi là…bếp Hoàng Cầm.

                Còn “anh nuôi Hoàng Cầm” 1951-1952 có phải là tướng Hòang Cầm 1975 chăng thì không thấy….quân sử ngoại truyện nói tới?! Nhưng chỉ biết rằng với chuyện bếp núc, “bộ đội” học theo Hồng quân Trung Hoa thì tiểu táo: 1 hay 2 người ăn và đại táo: ăn tập thể.

                Xuân Lộc tháng Tư
                Tháng 3-1979 tôi được đưa từ trại cải tạo Phú Sơn 4, Thái Nguyên về trại Nam Hà A, Phủ Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên tay. Khi chúng tôi nhập trại, anh em tù cải tạo chào đón những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng. Hôm sau có người nhắn với tôi rằng chủ nhật tới Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở buồng số 1. Trưa chủ nhật đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng tướng Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 KQ, và đại tá Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh.
                Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất vui khi bắt tay Tư lệnh.(…)

                Tàn cuộc binh đao
                Đa số các tướng lãnh VNCH bị giam giữ ở trại Hà Tây (Hà Nội-Sơn Tây), cách Hà Nội 25 km về phía Tây, Sau các Tướng Nguyễn Hữu Có, Lê Minh Đảo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Nam Định-Hà Nam) nằm về phía Tây Phủ Lý 30 km.

                *****

                30 tháng 4! Ký ức của một người chưa cầm súng
                Từ ngày mấy ngày nay, lính Nhảy Dù đã có mặt nhiều trên các tuyến đường vùng Hố Nai, Biên Hòa. Vùng đất mấy tháng trước chỉ có mặt các đơn vị Biệt Động Quân và Sư đoàn 18. Hai ngôi làng quê tôi vốn là hai giáo xứ Công Giáo. Giáo xứ Lộ Ðức, qui tụ đa số là dân Công Giáo di cư gốc gác từ tỉnh Hòa Bình, Bắc Phần. Giáo xứ Ðông Hải, tên làng từ thủa xa xưa còn giữ lại vốn là một ngôi làng từ tình Bắc Ninh, Kiến An, Hải Phòng và Kẻ Sặt, Hải Dương.

                Chiến cuộc đã ập đến sát với chúng tôi. Ngoài Quốc lộ 1, đoạn cây số 9 tính từ thị xã Biên Hòa ra hướng bắc, từ chiến khu D đã có đạn pháo cối ùng ục dội vào phi trường Biên Hòa, đường đạn bay qua làng tôi những buổi mờ sáng khét lẹt. Loại đạn cối này cho chúng tôi hiểu là thế thượng phong của lính chính qui miền Bắc đã hiện lên rõ rệt. Vì thông thường từ mấy năm nay, pháo kích từ chiến khu D rót vào phi trường Biên Hòa bằng hỏa tiễn, loại pháo giàn, phóng hàng loạt vài chục quả hỏa tiễn trong chỉ phút đồng hồ. Sau đó là trực thăng từ phi trường Biên Hòa lên quần thảo nhưng đương nhiên là không còn dấu tích gì nơi vách rừng chiến khu D, cách làng tôi chừng 4, 5 km. Nghe tiếng pháo cối dội vào làng, nhìn hàng đoàn lính rằn ri màu xanh đóng các chốt quanh làng, Thầy tôi nói với cả nhà:
                – Thu gom gọn nhẹ những thứ cần thiết để chạy loạn.

                U tôi hỏi lại.
                – Giờ chạy đi đâu bây giờ? Ðây chỉ cách Sài Gòn có hai giờ xe máy. Sau Sài Gòn là bể rồi, đi làm sao được?
                – Cứ thu xếp để đi. Ðến đâu biết đến đấy. Ra bể cũng đi …

                Thầy tôi vừa nói vừa lẩm nhẩm đọc kinh. Tôi dáo dác nhìn mẹ. U tôi lật đật thu gom mớ quần áo. Bà lọng cọng nhấc cái này bỏ cái kia, cuối cùng cũng xong ba cái bao vải lính của quân đội Pháp mà thầy tôi còn giữ lại từ 1954. Có tin lính chính quy Bắc Việt làm chủ tính từ bên này sông Sài Gòn, tức cầu Sài Gòn sẽ là điểm phân ranh. Thầy tôi bảo chị tôi thuê một xe tải để chở hết thóc gạo chạy loạn. Thuê xe tải lúc này là điều vạn nan nhưng chị tôi có quen biết một gia đình có xe tải và cũng cần chạy loạn vào Sài Gòn nên ý định của thầy tôi đã được thực hiện ngay. Chiều 27, các dàn pháo hỏa tiễn và pháo cối của lính chính quy Bắc Việt nã đạn vào phi trường Biên Hòa cực kỳ ác liệt. Làng tôi mịt mù khói pháo của hai phía bắn qua bắn lại. Trực thăng đã có vẻ rất e dè, bay thường là hai ba chiếc cặp kè nhưng không còn chúi sát xuống rừng nữa. Mẹ tôi cùng xe thóc lúa đã ra ngoài quốc lộ, đậu gần nhà thờ Kẻ Sặt đoạn cây số 7 Quốc lộ 1. Hàng xóm đã di tản hết. Thầy tôi quyết định ở lại cố thủ sau khi linh mục Nhật đi một vòng làng tới nhà tôi.
                – Ði đâu bây giờ! Phải giữ làng chứ. Còn đi đâu được nữa mà đi.
                – Thế thì con cũng ở lại.
                – Ừ, cha cũng ở lại đây. Ðào xong “tăng-xê” rồi.

                Thế là thầy tôi quyết định không đi. Tôi vơ nhanh cái xẻng chạy ra hiên nhà đào cái hố cá nhân hình chữ L, ba con chó lăng xăng cào cào bơí bới khi thấy tôi đào cật lực. Thầy tôi đào một hầm phía sau nhà, có chận nắp bằng những bao cát và gỗ vuông chắc chắn. Hố đào sắp xong thì một ông lính đến bên cạnh sân nhà tôi, hỏi vọng vào.
                – Bộ muốn tử thủ hả?

                Tôi đáp “Dạ”, vừa đáp vừa lúi húi đào. Người hạ sĩ quan này thường ngồi trước sân nhà tôi mỗi tối vừa đàn vừa hát. Ông hỏi thêm khi thấy thái độ của tôi là thái độ muốn “chơi tớí cùng”.
                – Súng ống gì không thằng em?
                – Dạ, “Cặc bin”.

                Ông ta phá ra cười ngặt nghẽo rồi hỏi.
                – Biết chơi M16 không?
                – Dạ biết.
                – Vậy để lát tụi anh đưa cho, còn ba cây,…cặc bin chơi sao nổi.

                Ðúng lúc ấy, trên đường có bốn năm người lính Nhảy Dù thúc súng đẩy một bóng người đàn ông bước sâm sấp trên đường cái dẫn về phía cuối làng. Tôi chợt dưng sởn tóc gáy. Năm Trình! Ông Năm Trình tay bị trói giật khuỷu, chiếc áo đen đẫm máu. Chắc chắn kiểu này là ông Năm sẽ bị bắn! Tôi bỏ xẻng bỏ cuốc, lặng lẽ bước theo sau bốn năm người lính và ông Năm Trình. Ông bước thấp bước cao đi theo hướng mũi súng của mấy người quân nhân mặc đồ rằn ri. Khoảng chừng 500 mét tính từ cổng cuối làng, những người lính nhảy dù nơí dây trói rồi bảo ông Năm Trình tự bắn mình sau khi đưa cho ông khẩu súng M16 chỉ có một viên đạn. Ông lắc đầu, quỳ hai gối xuống bờ ruộng. Hoàn toàn không thấy ông nói một lời nào, mắt nhìn về hướng ngọn núi Chùa phía gần bờ sông Trị An. Mấy ngưới lính lùi lại cách ông chừng 5 mét. Hai ngươì cầm súng cúi gập mình như chào ông Năm Trình. Khi hai cái đầu hất thẳng lên là đồng thời với một tiếng nổ chát chúa. Thân thể ông Năm giật lên rồi té sấp. Hai người lính cúi mình một lần nữa rồi quay lui, không xem xét xem ông Năm đã chết hẳn hay chưa. Thấy tôi còn đứng lần khân gần đó, một ngườì bảo.
                – Về thôi thằng em. Nó pháo bá thở bây giờ!

                Tôi tần ngần, rất muốn đến xem ông Năm đã chết thật chưa. Cái dáng té sấp mặt của ông xuống mặt ruộng làm tôi xao xuyến lạ lùng. Bỗng tiếng quát sau như dựng cả hồn vía tôi dậy.
                – Nằm xuống! Thằng nhóc!

                Tôi còn đang quờ quạng thì một bóng người nhào đến tôi, một tay ôm ngang lưng vật tôi xuống bờ ruộng, đúng lúc hàng ngàn tiếng rít đinh tai nhức óc xẹt ngang qua đầu. Chưa bao giờ tôi ngửi thấy mùi thuốc đạn gần và nhiều đến như vậy! Một dàn pháo hỏa tiễn vừa bắn đi sát ngay phía đồi chuối bên bìa làng, tầm đạn bay qua đầu chúng tôi nhắm lên đồi Pháo Binh. Ðường đạn đi vun vút muốn rách màng tang. Người lính vật tôi xuống chính là người hạ sĩ quan ban nãy bảo đưa cho tôi cây M16. Dưới làn khói pháo mù đặc, ông túm áo tôi kéo chạy về đầu làng, vừa chạy vừa gào bên tai tôi.
                – Coi chi ba chuyện giết người vậy thằng em!
                – Em biết ông ấy!
                – Quên đi! Chiến tranh là vậy! Sống nay chết mai. Ta không giết người thì người giết ta!
                – Mà sao bắn ông ấy. Sao không nhốt lại?
                – Giờ này, đến tụi mình còn không biết sống hay chết đêm nay, nói chi đến ổng. Số chả phải chết trước thôi …

                Tôi và người lính Dù về đến nhà, ông bỏ đi về phía nhà thờ, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của lính dù. Trên gờ hố cá nhân một cây M16 bốn băng đạn, ba trái lựu đạn mini móc ở một dây ba chạc. Tôi ráp đạn kéo chốt cho bật ra ba bốn viên rồi lại tháo băng xếp lại đạn, cài chốt an toàn, ngồi vật ra, đầu đầy ắp hình ảnh ông Năm Trình với khuôn mặt úp sấp lên mặt ruộng. Mặt ruộng tháng tư khô nứt nẻ!

                Ông bị bắt đâu hồi 11 giờ trưa. Hai cái làng này, ai cũng biết là ông hoạt động cho Mặt trận Giải phóng miền Nam, nôm na gọi là Việt cộng nằm vùng. Ông không tỏ ra ác ôn bao giờ. Ông dữ hay ông hiền, chẳng ai biết được vì ông không sống trong làng. Ông cất một cái chòi sát chân núi, nơi được coi là cửa ngõ để giao liên với trong bưng, lâu lâu đi vào làng mua dăm thứ lặt vặt hoặc đi qua làng ra vùng Hố Nai. Trưa nay, từ vọng canh rất cao, những người lính Ðịa Phương Quân đã nghi ngờ khi ông từ lối núi Chùa đi thẳng vào đường làng. Những bước đi mang nhiều sự tần ngần. Từ rừng đi vào làng rồi đi qua khu trung tâm bộ chỉ huy Tiểu đoàn Tiền Phương của sư đoàn Dù, hướng ra Quốc lộ 1. Có lẽ người ta sẽ để cho ông đi ra phía Quốc lộ nếu như ông giữ con đường bình thường ấy. Ðàng này ông lại quay trở lại bằng một ngõ xóm khác, sau khi đi qua bộ chỉ huy tiểu đoàn chừng 300 mét. Ông bị bắt. Bộ chỉ huy tiểu đoàn Dù gọi trưởng ấp tên là Thái. Ngoài việc hỏi ông Thái, bên bộ chỉ huy tiểu đoàn còn hỏi bốn năm người khác. Ai cũng nói là ông Năm Trình từng được biết là một cán binh Vệt Cộng nằm vùng. Với kinh nghiệm trận mạc, bên bộ chỉ huy kết luận dứt khoát ông Năm Trình là một “đề–lô” chấm tọa độ cho đơn vị pháo! Thời cuộc đang nóng lên từng phút! Mặt trận Xuân Lộc thất thủ, Biên Hòa Sài Gòn nghìn cân treo sợi tóc! Số ông Năm Trình rơi vào tuyệt lộ ngay khi ngày chiến thắng của những người bên phía ông chỉ còn hơn 48 giờ đồng hồ!!!

                ***

                Tiếng xe Honda cua rất gấp từ mặt đường quặt vào trong sân xi măng. Mùi khét của cao su từ lốp xe bốc lên hòa với khói pháo thật khó chịu. Ðó là xe của anh tôi. Tôi chưa thấy ông chạy như thế này bao giờ. Vừa chống càng xe anh tôi quát ngay.
                – Thầy đâu?
                – Thầy ở sau nhà – Tôi luống cuống.
                – Sau nhà làm gì?
                – Ðào hầm!
                – Ðào cái con khỉ gì mà đào!

                Quay nhìn tôi, nhìn mớ súng đạn lỉnh kỉnh. Ông gắt.
                – Ðồ dở hơi! Mặc ngay quần áo vào. Ði!

                Bố tôi rất nể anh tôi, nên đang lấm lem, anh tôi nói tắm rửa để chạy là bố tôi kéo nước giếng tắm ngay. Chừng chưa đến 5 phút, ba cha con tôi đã trên chiếc xe Honda 67. Anh tôi mặc đồ bay, mũ ca-nô nghiêm chỉnh, cũng là lần đầu tiên ông đeo súng tòn ten bên hông.

                Chiếc Honda nhấc đầu phóng đi với ba con chó chạy theo sau. Bàu trời kĩu kịt khói pháo. Ðàng sau là những những người lính Dù đang tất bật với những hố công sự chiến đấu. Ðâu đó, những bàn tay giơ lên đầu, có lẽ để chào anh tôi, người phi công lạc lõng nơi chiến địa trong những giờ phút dầu sôi lửa bỏng gần như cuối cùng của một trận chiến đang ở những phút khởi đầu tràn ngập sát khí.

                ***

                Quốc Lộ 1 cơ man nào là người! Ðủ mọi thứ xe. Từ máy cày máy kéo bám đầy bụi đất đỏ của vùng Gia Kiệm, Long Khánh đến xe lam xa ba gác! Từ người đi bộ đến người thồ xe đạp. Từ những khuôn mặt cháy nắng đến những đôi môi nứt nẻ. Tất cả đều xốc xếch! Tất cả đều thảm thương! Tất cả như một đoàn người ma đi tìm thiên đường nơi xa lắc! Tuyệt không một tiếng cười trong đoàn người mênh mông ấy.

                Anh tôi lạng lách, lúc đâm ngang, lúc xiên dọc, lúc leo bờ lúc thúc xe. Tôi nhìn đoàn người chung quanh, chỉ sợ những con chó của tôi bị thất lạc. Nhưng không. Có lẽ chúng cũng đã bị cộng hưởng với hoàn cảnh hoang mang cực độ của hàng trăm con người đang trong giờ cùng quẫn bi thảm. Chúng bám sát bên hông xe, miệng thè lưỡi nhọc mệt vừa chạy vừa nhìn bố con tôi. Ánh mắt chúng như nói lên sự van xin đừng bỏ chúng, lại như khuyến khích bố con tôi đừng sợ hãi. Thấy tôi có vẻ nhì nhằng với mấy con chó, anh tôi bắt đầu bực.
                – Mày làm ơn ngồi cho ngay ngắn. Chó nó tự biết theo.

                Tôi ngồi trên bình xăng vì Thầy tôi ôm nguyên một cái túi lính Tây chứa toàn những ảnh tượng chúa. Tôi biết anh tôi rất khó lái vì tôi 15 tuổi nhưng là dạng cao lớn hơn bình thường, ngồi lại quay trước quay sau vơi mấy con chó nên ông quạu cũng là phải. Dù bị ông quát nhưng lòng tôi rất biết ơn ông, vì ông biết tôi rất thương chó nên lúc bắt đầu rời nhà, tôi gọi chó theo mà ông không nói gì. Ông biết tôi rất khó thể xa chúng … Chỉ có 2 km Quốc lộ từ nhà thờ giáo xứ Hòa Bình đến nhà thờ giáo xứ Hà Nội mà bố con tôi vật lộn hơn tiếng đồng hồ với rất nhiều lần phải đâm vào những đường ngang ngõ tắt. Ðến nhà thờ Ðại Lộ là leo lên xe tải đã thuê khởi hành nhằm vượt cầu Sài Gòn ngay.

                Trên xe, ba con chó và tôi nằm gọn ngay góc cửa đóng phía cuối xe. Anh tôi rồ máy chiếc Honda 67 phóng ngược về phía phi trường Biên Hòa. Dáng áo bay nổi bật lên trong dòng người hỗn độn. Nhìn theo anh, tôi không cầm được nước mắt. Ra là anh đã rời phi trường cấp tốc, áo bay, súng ống còn vắt cả trên người khi nghe bảo rằng bố con tôi tử thủ nơi căn nhà đầy kỷ niệm. Anh tôi vượt ngược dòng người đang như thác lũ, phóng xe vào vùng đất đã báo động chiến sự sắp xảy ra trong gang tấc giữa bầu trời mịt mù khói pháo ven rừng chiến khu D. Giờ này anh lại phóng đi với những chuyến bay bất định, chơi vơi lời ca của đời phi công ra đi không tìm xác rơi.

                Cực kỳ vất vả chiếc xe tải mới bò đến được cầu Sài Gòn. Xe nhích từng bước một. Lính trên cầu đủ mọi thứ binh chủng. Không khí sắt máu sát rạt. Anh rể tôi mặc quân phục với giấy chứng thực đặc biệt của Căn cứ Long Bình, xin đường để qua cầu. Một người lính mặc đồ đen đeo khẩu súng rất lạ yêu cầu mở cửa xe tải. Cửa mở, tôi và ba con chó ôm nhau sát ngay cửa, bên cạnh là u tôi và chị tôi. Người lính nhìn vào khoang xe rồi nhìn tôi, cuối cùng là nhìn ba con chó. Ông lấy tay cầm lấy tai của con chó bé nhất. Con chó không hề sợ cũng không hề làm dữ, ngẩng mặt lên liếm láp bàn tay xương xẩu đen đủi đầy mồ hôi của người lính đặc biệt này. Tôi im lặng không nói gì, phó mặc số phận đưa đẩy theo gia đình. Bỗng một loạt đạn bắn chiu chíu từ phía mặt sông thốc lên vọt qua sát mí nóc xe. Người lính lạ nhảy xuống hô kéo bửng cửa rồi chạy trước xe nhà tôi, tay vẫy vẫy cho xe vượt lên trước hàng trăm xe khác.

                Xe nhà tôi qua cầu Sài Gòn. Cầu Sài Gòn như một nút thắt cổ chai kinh khủng, chỉ cần qua hết cầu là có thể dễ dàng đi lại. Xe chúng tôi nhắm về phía Hóc Môn, Trung Lương.

                Sáng 28-4 (1975) gia đình tôi vào tới sát căn cứ Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tá túc tại một xứ đạo qui tụ rất nhiều người cộng giáo gốc Kiến An, Hải Phòng. Xứ đạo có tên Chợ Cầu. Tôi sống quen với không gian rộng từ ngày bé tí nên không thể nào chợp mắt được trong hoàn cảnh này. Ba con chó từng bước không rời cậu chủ nhỏ. Ðời sống tỵ nạn chiến tranh đây là lần đầu tôi phải chịu đựng. Tuổi 15 nội tâm sớm, vơí tôi, đây là cú sốc rất nặng. Ngay đêm đầu tiên, tôi khóc thầm và trách sao mình đã bỏ nhà, bỏ làng mà đi.

                Ðêm 29. Các đơn vị tăng của lính chính quy Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngang qua căn cứ huấn luyện. Cơ man nào là các lằn đạn bắn ra từ trung tâm huấn luyện, đặc biệt là M72, một lọai hỏa tiễn cầm tay chống tăng. Rất nhiều phát đạn bắn hụt xe tăng và bay sát các nóc nhà ở xứ đạo này. Tôi vốn đã quen với pháo kích từ ngày nhỏ nên không cảm thấy nao núng, nhưng những người chung quanh thì mặt cắt không còn giọt máu.

                30. 4. Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Người hàng xóm mở radio khá lớn và ra bờ giếng sau nhà ngồi một mình. Tôi từ trong khoảng tối của căn buồng hẹp chăm chú quan sát ông. Mấy hôm nay tôi không thấy ông này, tuổi khoảng 60 mặt rắn rỏi tóc húi cua. Ông ngồi bên gờ bờ giếng, mặt cúi xuống, hai vai gồ cao. Tôi thấy vai ông rung lên. Tôi thật sự cô độc.

                Chiều 30-4. Tôi đi một mình ra doanh trại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Trên đường vài ba chiếc tăng T54 cháy rụi nằm bổ ngửa. La liệt quần áo lính vứt ngổn ngang. Tôi đến sát cổng quân trường, mấy người bộ đội áo quần xanh lụng thụng dép râu, mình còn cài lá ngụy trang, răng mặt vàng lườm… bắt tôi đứng lại, không được đến sát cổng vì đoàn phim đang quay. Tôi nhìn theo hướng tay chỉ và thấy một đoàn khóa sinh tân binh từ trong trung tâm đi ra. Tất cả đều phải đứng lại trước các máy quay phim, khi được lệnh từ phía sau máy thì từng người cúi xuống lột hết giày và quần áo lính, chỉ mặc độc mỗi quần lót. Những đoàn lính bộ đội đứng cười cợt khoái chí, một số ít thay vì cười cợt sảng khoái thì quay sang nói chuyện với những người dân hai bên đường. Có những câu hỏi và trả lời khắc mãi trong lòng tôi mà sau này nhiều người lấy đó làm giai thoại.
                Với tôi, ngay lúc bấy giờ, tôi không thể cười được. Có cô hỏi:
                – Sao anh trẻ thế?
                – Trẻ gì nữa. Mười sáu mà còn trẻ.

                Cô đang cầm que kem, hỏi anh bộ đội:
                – Anh thích ăn cà-rem không?
                – Không?
                – Thế Hà Nội có cà-rem không?
                – Có. Khối gì. Còn phơi để dành nữa.
                – Hà Nội có Ti-vi không?
                – Khối gì. Tivi chạy đầy đường.
                (Phạm Văn Thành)

                – : Tác giả Phạm Văn Thành không ở Hố Nai nữa mà đang ở…Paris.

                Một cơn gió bụi
                Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Chỉ huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chết trong tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.

                Ngày thứ 49 : 27-4-1975
                Tân Cảng - Sài Gòn

                Ngày 27-4, Sài Gòn sôi động khi Bắc quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng Biệt khu thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch.

                Đến chiều ngày 27-4, Bắc quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
                (SQTB K10B/72)

                – : Ngày 27-4 là ngày Bắc quân dự định 5 quân đoàn tấn công cùng một lúc và dự trù đánh chiếm Sài Gòn ngày 29-4-1975.

                10 ngày cuối cùng của VNCH
                Chủ Nhật 27-04-1975

                Rạng sáng ngày Chủ Nhật 27-4, vào lúc 3 giờ rưỡi, Bắc Việt pháo kích 5 trái hỏa tiễn vào Sài Gòn gây cho 6 người chết và 22 người bị thương, tuy nhiên tình hình vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối loạn. Theo ông Trần Văn Đôn thì vào lúc 3 giờ chiều, đại sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông và báo tin cho biết rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi thì quân cộng sản sẽ pháo kích vào Sài Gòn bằng đại bác 130 ly.

                Theo Jean Lartéguy trong cuốn L’Adieu à Saigon thì sau ngày 30-4, một sĩ quan Bắc Việt đã tiết lộ với ông Vũ Văn Mẫu rằng các đơn vị họ được lệnh bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu vào lúc 11 giờ tối 30-4 nếu Sài Gòn tiếp tục chống cự và họ dự tính rằng họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7-5 tức là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ của họ 21 năm về trước.

                Theo Frank Snepp vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm đã chống lại việc Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh. Người đầu tiên là Thương tọa Thích Trí Quang, kế tiếp là cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Linh mục Trần Hữu Thanh. cựu Phó Tổng Thống Kỳ lên án những kẻ hèn nhát đã bỏ nước di tản theo người Mỹ và hô hào tử thủ bảo vệ Sài Gòn. Ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu chứ không đi đâu cả, không di tản ra ngoại quốcvì ở bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm mà ăn?

                8 giờ 45 tối ngày 27-4, Dân biểu và Nghị sĩ bỏ phiếu thuận Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đuờng vãn hồi hòa bình cho Việt Nam?
                (Trần Đông Phong)

                – Theo Frank Snepp, đại sứ Martin chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân. Trong số những hành khách trên chuyến bay này có cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã và cựu Thiếu tướng Tư lệnh Cảnh sát Nguyễn Khắc Bình. (*** Frank Snepp, Sđd, trang 448).

                Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
                Ngày 21-4, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía Ðông. Tiếng “womp-womp-womp” của Pháo Binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng tiếng “dit-dit-dit” của súng cá nhân, ngoại trừ vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết Mậu Thân 1968, đã dung tha cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh, cái mà bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy. Về quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, Tổng Thống Thiệu và bộ Tham Mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.

                Chỉ còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn. Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những tháng trước đó. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu, rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người. Phần lớn người dân trong phần còn lại của miền Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh Sài Gòn và các tỉnh trong vùng Ðồng Bằng sông Cửu Long, hy vọng vào một điều kỳ diệu: Hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm lặng pháo binh Bắc Viêt đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và nhà ngoại giao. Rằng Phnom Penh đã bị Khmer đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa.

                Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng
                Đội ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến gần tới mức có thể nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng của khách sạn cao tầng Caravelle. Thay cho các thông tin về chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị “mật” cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng. Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách sạn lớn Caravelle, Continental và Majestic. Tín hiệu, các nhà báo được thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn cấp, đài Phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức “every hour on the hour”, sẽ thêm vào câu: “The temperature is 105 degrees and rising”, tiếp theo sau đó là bài “I am dreaming of a White Christmas” của Bing Crosby. Người ta sẽ chờ nhà báo tại địa điểm tập trung với nhiều nhất là một món hành lý.

                Chính sếp CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một “Giải pháp Lào”, để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn. “Giải pháp Lào”, đó là: Một chính phủ trung lập, bao gồm các nhân vật của “lực lượng thứ ba”, phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.

                Nguồn thứ hai, dường như xác nhận các thông tin của CIA, bắt nguồn từ sứ quán Pháp mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của De Gaulle, đã tự mình tin rằng “Grande Nation” thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng Bắc Việt thông qua tiếp xúc với người Pháp đã đưa ra “Giải pháp Lào”: tước quyền “bè lũ Thiệu”, thành lập một chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền “Big Minh” và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị mới ở Nam Việt Nam.

                Vòng vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26-4, buổi chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Đài phát thanh của Mặt trận giải phóng từ chối lời đề nghị ngừng bắn của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Hương đại diện cho một “chế độ Thiệu không có Thiệu”. Vào ngày 26-4, thứ bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, Quốc hội đã họp biểu quyết yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương nhượng quyền lại cho tướng Dương Văn Minh. Đại sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để cho “Big Minh” bước ra hoạt động.

                Vào tối ngày Chủ Nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng thống được bổ nhiệm,không cương quyết yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện Bắc Việt, sau hiệp định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt, để tự mình thăm dò cơ hội của một “chính phủ hòa bình Big Minh” qua sếp của phái đoàn, Đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như một cái máy nói không có xúc cảm. Tuy vậy, viên đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết định: Liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như là đối tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.

                Mặc dù không có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và những người đi theo “Big Minh” vẫn bắt đầu làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều kiện.

                Xe tăng Bắc Việt đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, lúc này phần lớn các quốc gia phương Tây đã di tản các sứ quán của họ và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá vứt đi. Người Mỹ, dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar, vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường hàng không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn của một cuộc chạy trốn.

                Sáng chủ nhật, 2 giờ trước khi mặt trời mọc, Bắc quân bắn vài hỏa tiển vào thành phố, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.

                Chỉ các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong Ðại sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những dấu hiệu đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình chính trị. Bắc Việt, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ “mất thể diện”, nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ Bắc Việt.

                Sài Gòn, 21-4-1975. Lần bắn hỏa tiển đầu tiên là vào lúc 4 giờ 30 sáng, đánh vào trung tâm Sài Gòn và đốt cháy 150 căn nhà bằng gỗ. 14 người chết và hơn 40 người bị thương.

                Các chính trị gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm đều nghe được tiếng “womp-womp-womp” của đạn pháo. Bây giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ có chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.

                Khi một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì “Giải pháp Lào” cho phép ông bay về quê hương để hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành phố, và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi (?). Đó là “tuyên truyền của CIA”, người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.

                Công việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28-4, buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh được bật lên khi những người của “lực lượng thứ ba”, nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được phép vào trong dinh Tổng Thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai. Hàng ghế đầu dành cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và các Bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.

                Chống gậy khập khiễng, Phó Tổng Thống Hương bước vào gian sảnh, có “Big Minh” đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì, những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về chuyên môn có nhiệm vụ bổ sung cho Big Minh, Thượng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư xã hội chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang.

                Cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu Tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Nhiều câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà không giao quyền lực thật sự cho ông. Còn lại là một sự cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.

                Ông diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ “Big Minh”, chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa bình mà người cộng sản muốn chấp nhận. Hương khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới “Big Minh”. Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.

                Rồi cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính, đeo thắt lưng trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống VNCH ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.

                Giới chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng. Ông đã tạo khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.

                Đối với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500,000 lính Mỹ đã được gởi tới đây để củng cố cho Nam Việt Nam mà 50,000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.
                Hàng triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch sử.

                Người lính quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu Tổng Thống mới trên hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của Tổng Thống “Big Minh” vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.

                Chỉ sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, “Big Minh” đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra. Như đã thỏa thuận với Đại Sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về “những người cộng sản” nữa, mà là về “những người bạn của chúng ta ở phía bên kia…Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn…Tôi không hứa hẹn nhiều.”

                Lúc đó, tôi không nghe bài diễn văn của “Big Minh” cho tới khi kết thúc. Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: Nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.

                Để đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một “dự thảo văn bản” cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng 6 giờ chiều, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều. Tới khách sạn Continental có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh Tổng Thống. Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp lần nhậm chức của “Big Minh” trước các màn hình. Những chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước Continental như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.
                Sau hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A37 bay ở phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A37 bị Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét Đông Bắc Sài Gòn, và được gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào ngũ.

                Hiệu ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của (nhà đạo diễn) Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu. Lần bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới nghiêm bắt đầu sau đó. VNCH đã chấm dứt tồn tại trước khi bị xâm chiếm. Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.

                Các cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29-4, vào trong trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của “người da trắng” ở Châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo của người Nhật trong “chuyến bộ hành tử thần Bataan” để đi tới các trại tù binh; và “Cầu sông Kwai” đã quan tâm tới sự tưởng tượng của phương Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaysia và Singapore.

                Thật sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà “Big Minh” đã đứng tại tâm điểm của nó, được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm lý và chính trị. Ngay sau bài diễn văn của “Big Minh”, đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một yêu cầu dứt khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài Phát Thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy “nổi dậy”.

                Qua đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. “Giải pháp Lào” giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết cuộc. Lần ném bom phi trường vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển. Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ Ba: lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa Đại sứ Quán Mỹ. Bốn giờ sáng ngày thứ Tư, 30 tháng Tư, Đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính Thủy Quân Lục Chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh Tổng Thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ của “chính phủ cách mạng lâm thời” lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu hiệu của chiến thắng.

                Lá cờ cũ đã được lấy ra từ lâu rồi.
                (Những ngày cuối cùng của Sài Gòn - Winfried Scharlau)

                – Winfried Scharlau là một nhà báo, sử gia người Đức. Ông là phóng viên chiến trường đã từng bị thương ở gần Vĩ tuyến 17 vì chiếc trực thăng chở ông đáp trúng mìn.

                Ngộ Không
                Last edited by KiwiTeTua; 03-27-2017, 09:03 PM.

                Comment


                • #9
                  Chương 10


                  Ngày thứ 50 : 28-4-1975
                  Sài Gòn thay đổi nhân sự

                  Ngày 28-4, Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28-4.

                  Trong buổi lễ này, quân lực VNCH cử Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Quân và Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Tham Mưu Trưởng Liên Quân thay mặt Đại Tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng Thống Trần Văn Hương đã công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại Tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng (theo nguyện vọng của Đại tướng Viên).

                  Cũng trong ngày 28-4, căn cứ Không Quân Biên Hòa bị pháo kích dữ dội. Tất cả các phi cơ được dời qua phi trường Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường Trà Nóc ở miền Tây. Sư đoàn 3 Không Quân bắt đầu phá hủy những phương tiện còn lại trong căn cứ Biên Hòa.

                  Ngay sau lễ trao quyền, khoảng 6 giờ chiều, 5 (?) máy bay phản lực chiến đấu A37 Bắc quân lấy được từ VNCH khi chiếm miền Trung, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt.
                  (SQTB K10B/72 – Đinh Từ Thức)

                  “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
                  Cuộc oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất chiều 28-4-75 của năm chiếc phi cơ A37, đã được Hà Nội tuyên dương như một chiến tích anh hùng.

                  Bài tường thuật đăng trên tờ Lao Động ở Hà Nội xuất bản ngày 2-5-96 cho biết “Phi đội quyết thắng” do Nguyễn Thành Trung bay ở vị trí số một, vừa là chỉ huy “biên đội” (phi đội), vừa là người dẫn đường. Bay số hai là Từ Đễ. Bay số ba là Nguyễn Văn Lục. Bay số bốn là Hán Văn Quảng. Máy bay số năm có hai người: Mai Vượng và Trung úy phi công “Ngụy” Trần Văn On. (On và Xanh là hai phi công VNCH, tù binh bị bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành công tác huấn luyện cấp tốc cho giặc lái MIG).

                  Bọn giặc lái Vi-Xi (Lục, Đễ, Quảng, Vượng) từ trước chỉ quen với máy bay MIG17 của Nga, chưa từng biết tới A37 của Mỹ bao giờ. Giặc lái Vi-Xi vào Đà Nẵng từ ngày 22-4-75 để học lái A37 cấp tốc trong vòng năm ngày. “Nhân viên lái” Nguyễn Văn Lục cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến trong năm ngày đó, ngày đầu tập ở buồng máy nhìn không ra những đồng hồ bay to nhỏ với tiếng Mỳ viết tắt nên có người định bỏ cuộc. Lục nói: Các bộ phận điều khiển của máy bay A37 toàn là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy dán đè lên tiếng Anh để biết mà xử dụng… Y khoe, sau chiến thắng trở về, đồng chí Đinh Đức Thiện gặp chúng tôi, nói rất vui: "Chúng mày rất giỏi. Lính tao chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống gì là máy bay của chúng mày…Giỏi, giỏi lắm!"

                  Cái “giỏi lắm” của bọn giặc lái là cái giỏi… “nói phét!”. Cái này phải hỏi cậu Trác “Thuốc lào”, tự nhà văn KQ Trác Vũ. Theo lời cậu Trác “Thuốc lào” phi công C130 kẹt lại, cậu đã từng bay chở cán bộ, bộ đội từ Bắc vào Nam công tác. Sau cậu còn được trưng dụng dạy bay và dạy Địa huấn cho bọn giặc lái trước khi “thầy” bị cho đi tù cải tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu một lần chịu không nổi những quả…ngu của lũ giặc lái con cháu lão Hồ, đã buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội mũ vì lỡ “hỗn”, lỡ coi thường các đấng đỉnh cao trí tuệ. Cậu Trác kể…
                  (Chuyến bay cuối cùng – Đào Vũ Anh Hùng)
                  – : Cậu Trác “Thuốc lào” tên thật Bùi Văn Trác SVSQKQ 64D (Phạm Hy Oánh)

                  Góp nhặt…ghi chép…
                  Dương Văn Minh vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ dội bom Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ tối, chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sài Gòn ban đêm chẳng có gì khác để làm.

                  Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong phòng truyền tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện đài. Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh.

                  Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu. Ông nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.
                  (Tears Before The Rain – Larry Engelmann)

                  “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
                  Cậu Trác kể: Phi công Vi-Xi, chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến 6, 7 năm mà khi về nước vưỡn đếch biết nói tiếng Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có thông dịch viên đi kèm theo để theo dõi, kiểm soát. Trong lớp thầy dạy gì, kệ bố thầy, vì khi về phòng có thằng thông dịch lại. Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy chúng nó hoàn toàn bằng tiếng Việt. Thế mà mình đọc, chúng không hiểu. Đánh vần đi, đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít, chúng nó vẫn không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như chúa tàu nghe kèn, mặt đần độn trông phát giận. Một lần, nhịn không được, tớ buột miệng chửi thề: ĐM, sao các anh ăn gì mà ngu quá vậy?. Mình quen mồm như trước đây đùa rỡn với bạn bè…Chúng nó sừng sộ hỏi tội làm tớ xanh mặt.

                  Cậu Trác “Thuốc lào” tiếp: Mẹ kiếp! Mà học chỉ vài ngày thì bay thế chó nào được A37. Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland trụ trì ít nhất vài tháng học Anh ngữ chứ đâu có đùa. “Nhân viên lái” Nguyễn Văn Lục sau đó kể rằng y và đồng bọn được hai “nhân viên lái” mới được lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học Anh văn và học bay. Cả hai đều gầy nhom. Người cao để râu tên là Xanh, người Quảng Bình, theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On, quê ở Gò Công. Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không hỏi đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử trí trong trường hợp máy móc có sự cố, mà hỏi ngay vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay… Mẹ kiếp! Chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát rét. Huống hồ bọn giặc lái tiếng Anh tiếng u không biết một mẩu, ngoài ba tiếng “oẳn tù tì” thì làm thế nào hiểu chó được hết những tiếng Anh trong buồng lái để khỏi phải nhớ các công-tắc, vị trí các đồng hồ? Cái này phải xét lại ạ! “Những vấn đề cơ bản” nghĩa là cần điều khiển phi cơ, là những nút bấm, nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều khiển bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, v…v…Các con không cần hỏi tới thì bay cái củ gì?

                  “Người lái” kiêm nhà văn Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Gia Lâm vào Đà Nẵng đêm đó lo cóc ngủ nghê gì được. Phần vì cấp trên giao phó cho nhiệm vụ học bay A37 chỉ trong vài ngày. Tuy nhiên Hữu Mai dẹp tự ái “đỉnh cao trí tuệ”, ao ước: Giá có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để yêu cầu họ ghi lại cho những hàng chữ Anh ở trong buồng lái thì hay quá…(…)

                  Góp nhặt…ghi chép…
                  Ngày 28-4, Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống, việc đầu tiên là gửi điện văn cho đại sứ Martin vào sáng sớm 29-4, yêu cầu các nhân viên của cơ quan tùy viên quốc phòng DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975.

                  Thời điểm yêu cầu của Dương Văn Minh trùng hợp với lịch trình rút lui đã được định trước của Hoa Kỳ. Theo Kissinger, lời yêu cầu này của ông Dương Văn Minh đã tránh tiếng dùm cho Hoa Kỳ là đãbỏ rơi miền Nam Việt Nam. (Tears Before The Rain – Larry Engelmann)

                  “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
                  Để biết rõ cái “giỏi lắm” của những chiến sĩ “người lái anh hùng” Vi-Xi thế nào, mời bạn đọc hãy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn “Trận đánh cuối cùng” của văn hữu…Hữu Mai viết ca tụng “anh hùng” Nguyễn Thành Trung và các đồng chí giặc lái Vi-Xi một cách vô duyên trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 25, năm 82, để thấy trình độ nói phét của Vi-Xi nó “siêu” đến chừng nào mà cười đau khóc hận cho vận số hẩm hiu đất nước…

                  Cứ như trong xi-nê-ma! Cảnh 5 chiếc A37 đánh phá Tân Sơn Nhất được mô tả y hệt trong phim “Bla Bla Black Ship” vừa bay bỏ bom, bắn cà nông, vừa cười vui vẻ. Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom không ra, làm vòng tiếp. Đại đội phó Từ Đễ theo sau Trung, nhắm hangar A37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C130 vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này bãi đậu Whiskey Five (W-5). Rồi đại đội trưởng Lục thả bốn trái nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng và On, theo tớ Vượng chỉ là… “thợ vịn”! Ngoài Bắc chúng gọi bằng danh từ rất kêu, là “tháp tùng tử” nhắm vào hangar A37 nhưng đều trật lất! Đến lúc đó mới nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
                  – Tân Sơn Nhất bị pháo kích…!

                  Một giọng nói khác bằng tiếng Anh, chắc là của một tên Mỹ:
                  – A37 của phi đoàn nào?

                  Giọng hách dịch của tên Mỹ làm cho đại đội phó Từ Đễ nổi nóng. Anh quát to:
                  – Phi đoàn A-Mê-Ri-Ca đây!

                  Mẹ kiếp, thối không ngửi được. Đang bay trên trời, trong phòng lái kín mít, lo bỏ bom, nhắm bắn mục tiêu mà có “thiên lý nhĩ”, nghe được cả “tiếng tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên…” thì quả là Tề thiên đại thánh! Rồi đang từ một thằng “người lái” mới vài hôm trước không biết tiếng Anh và “làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái…” vậy mà hôm sau đã nghe rành rọt “giọng một tên Mỹ” mới ly kỳ!

                  Bây giờ từ sân bay mới vang lên những tiếng hoảng hốt:
                  – Bốn A37 ném bom Tân Sơn Nhất…Đề nghị các máy bay hãy tránh xa!

                  Cái vụ “nghe thấy tên trực sân bay” ở đoạn trên có thể tạm hiểu là đương sự nghe trên tần số hành quân của bọn Ngụy cũng được đi. Nhưng việc “từ sân bay bấy giờ mới vang lên những tiếng hoảng hốt” thì đúng là…“bu-siệt”! Không quân miền Nam đâu có lối nói lịch sự kiểu Vi-Xi “đề nghị”? Người miền Nam nói “yêu cầu tránh xa” chứ trong trường hợp bấn xúc xích đó, làm quái gì có mục…“đề nghị tránh xa”?

                  Văn hữu Hữu Mai vớt vát thể diện cho biên đội trưởng Nguyễn Thành Trung và bọn thợ gắn bom mà bom không nhả (có thể lính của ta bị ép buộc trang bị bom đạn cho Vi-Xi đã cố tình chơi đểu (?)… Chiếc máy bay của biên đội trưởng đã giận dữ lao xuống lần thứ ba. Lần này, bốn trái bom của anh cùng rơi một lúc. Một đám cháy mới bùng lên tại khu vực tập trung máy bay tiêm kích F5… Xạo ke! Tân Sơn Nhất làm chó gì có khu vực nào tập trung F5?
                  (Chuyến bay cuối cùng – Đào Vũ Anh Hùng)

                  – : Tất cả đài kiểm soát hạ và cất cánh phi trường cũng như đài không lưu đều là người Việt, không có cố vấn Mỹ làm việc trên vô tuyến. (Phạm Hy Oánh)
                  – : Nguyễn Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong Không quân VNCH.

                  Góp nhặt…ghi chép…
                  Tướng Trần Văn Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28-4-1975:
                  Vào 6 giờ chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đã về đến nhà, lại nghe tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ tổng tham mưu và Bộ Tư Lệnh Không Quân thì được báo cáo có 3 phi cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và họ đã sử dụng để bay vào Sài Gòn dội bom. Hai phản lực cơ F5 của Không quân từ Biên Hoà đã bay lên nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này.

                  – : Tài liệu của Đại Tướng Cao Văn Viên cũng cho biết chỉ có 3 phi cơ trong cuộc dội bom.
                  – : Trong Những ngày cuối cùng của Sài Gòn, Winfried Scharlau viết: 4 chiếc máy bay.
                  – : Hãng thông tấn Reuter đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành Trung, phi công A37 của không lực VNCH đã lấy máy bay xạ kích dinh Độc Lập. Và hướng dẫn 3 chiếc A37 khác đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 28-4-75, ngày hấp hối của miền Nam Việt Nam.

                  10 ngày cuối cùng của VNCH
                  Thứ Hai 28-04-1975

                  Ông Trần Văn Đôn kể lại trong Việt Nam nhân chứng rằng tối hôm trước ông nói với ông Dương Văn Minh là nên “nhận liền nhiệm vụ để bắt tay vào việc” thì ông Minh nói rằng: 5 giờ chiều mai. Ông Đôn nhận xét rằng sở dĩ ông Minh muốn đợi đến 5 giờ chiều hôm sau là vì “ông coi ngày giờ tốt trước khi nhận việc”. Ông Trần Văn Lắm kể lại tối 27-4, ông Lắm đến gặp ông Minh và đề nghị nên làm lễ bàn giao vào 9 giờ sáng ngày hôm sau 28-4. Ông Minh đi qua phòng bên cạnh để bàn luận với Trung tướng Mai Hữu Xuân là người rất tin bói toán, sau đó ông Minh ra nói rằng: 9 giờ sáng không được tốt, bàn giao lúc 5 giờ rưỡi’ chiều đi.

                  Theo Tiziano Terzani tác giả cuốn sách Giải phóng! (The Fall and Liberation of Saigon), người ký giả Ý bị trực xuất ra khỏi Việt Nam trước đó ít lâu và vừa mới trở lại Sài Gòn sau khi ông Thiệu từ chức. Tiziano Terzani, một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi lễ giao quyền 5 giờ chiều 28-4 tại dinh Độc Lập, đã tả lại như sau:

                  Sau khi cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một người lính tiến vào tháo gỡ lá Quốc kỳ sau bục diễn đàn rồi gỡ quốc huy của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế bằng huy hiệu mới của Dương Van Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa, tượng trưng cho hai yếu tố đối nghịch tạo thành sự đồng nhất trong vũ trụ”. (*** Tiziano Terzani, Sđd, trang 40-41).

                  Nhiều nhân chứng dự buổi lễ trao quyền hôm đó đã xác nhận rằng ông Dương Văn Minh chỉ đọc diễn văn mà không hề tuyên thệ “trung thành với Hiến pháp VNCH”, điều đó có nghĩa là tân Tổng thống Dương Văn Minh không còn công nhận bản Hiến Pháp l967 của nền đệ nhị cộng hòa. Như vậy, cho tháo gỡ lá quốc kỳ trước khi đọc diễn văn và không tuyên thệ khi nhậm chức tổng thống VNCH, phải chăng ông Dương Văn Minh muốn gián tiếp nói với phe bên kia rằng không còn liên hệ gì đến đệ nhất và đệ nhị cộng hòa mà tượng trưng là lá cờ vàng ba sọc đỏ vừa được ông cho gỡ xuống cất đi?
                  (Trần Đông Phong)

                  Góp nhặt sỏi đá
                  Tướng Cao Văn Viên làm đơn từ chức tổng tham mưu trưởng, trong khi chờ đợi Tổng Thống Trần Văn Hương ký sắc lệnh. Tướng Cao Văn Viên chỉ định Trung Tướng Đổng Văn Khuyên, Tổng cục Trưởng Tiếp Vận, xử lý thường vụ tham mưu trưởng.
                  Rồi Tướng Cao Văn Viên di tản ra Hạm đội 7 vào trưa thứ Hai ngày 28-4-1975.

                  Quân sử ngoại truyện
                  Mấy ngày sau tôi (sau buổi duyệt binh ngày 2-9-1975) và anh Ba (Lê Duẩn) vào Nam, tôi đã đến quan sát bộ Tổng tham Mưu quân đội Nguỵ. Tại phòng làm việc của Tổng tham mưu Trưởng, tôi chú ý đến tờ lịch ngày 28 tháng 4 còn bóc dở.
                  Trong phòng trang trí vũ khí, nhiều loại vũ khí hiện đại đều được trưng bày. Trên một tấm bản đồ Đông Dương chi chít những dấu chấm xanh, đỏ, đánh dấu những nơi mà vũ khí mà trang bị điện tử phát hiện các căn cứ của ta, nhất là trên đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Cảm tưởng sâu sắc nhất của tôi là: Vũ khí kỹ thuật Mĩ dù hiện đại vậy đấy mà vẫn thất bại.
                  (Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng – Võ Nguyên Giáp)

                  Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
                  Sáng hôm sau chúng tôi rút về Long Bình. Ngày 28-4-1975, Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân có nhiệm vụ hỗ trợ cho một đơn vị bạn tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành.

                  Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của Bắc quân đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân. Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ là người chết đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm poncho. Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí phòng ngự thì bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong”. Chúng tôi phải dùng lựu đạn M26 để chặn bước tiến của địch. Những trái M72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi đã khiến cho chiến xa địch thoái lui.

                  Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T54 tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi, xe đè nát thân thể những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông Thượng sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M67 xuống chân đồi. Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh địch loạng choạng ngã chúi xuống đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen.

                  Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những nòng M72 đã sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu M60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ phòng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền đồi, xạ thủ 12.8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa.
                  (Vương Mộng Long)

                  Góp nhặt…ghi chép…
                  Sau khi Trung tướng Đồng Văn Khuyên, rời bộ tổng tham mưu trưa ngày 29-4. Tiếp đến là Trung tướng Nguyễn Văn Minh. quân lực VNCH coi như không còn cấp chỉ huy.

                  3 giờ chiều 29-4, tân Tổng thống Dương Văn Minh cử một số cựu tướng lãnh đã về hưu giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng, phụ tá là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Chiều 30-4, tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp với các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”.

                  Sáng 30-4, Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng tổng cục chiến tranh chính trị đến bộ tư lệnh hải quân tìm phương tiện di tản. Chuẩn tướng Hạnh “đương nhiên” là tổng tham mưu trưởng của tân Tổng thống Dương Văn Minh.

                  Giây phút hấp hối của VNCH
                  Big Minh nhận chức vụ vào trưa ngày 28-4 với phó tổng thống là Thương nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, cựu khoa trưởng luật khoa giữ chức vụ thủ tướng. Khoảng 2 giờ trưa ngày 28-4, Lý Quý Chung điện thoại yêu cầu hệ thống trưởng hệ thống truyền thanh sang họp. Tôi điện thoại về nhà thiếu tá Thăng, không có ai bốc điện thoại. Buộc lòng tôi phải đại diện ông sang họp. Buổi họp kéo dài khoảng 15 phút. Chỉ thị duy nhất của ông Chung vắn tắt có bấy nhiêu lời: Tình hình nghiệm trọng, có nhiều phần trăm chúng ta phải đầu hàng, nhưng nhiệm vụ của truyền thanh và truyền hình là phải túc trực để nhận chỉ thị. Còn nước còn tát.

                  Sau đó ông Chung ra lệnh phải bỏ tất cả nhạc quân hành của cục chính huấn. Có thể nói tình thế tuyệt vọng được phản ảnh qua hiện tình của “Tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hòa, phát thanh từ thủ đô Saigon” vào lúc đó. Chúng tôi còn khá đủ biên tập viên, phóng viên, kiểm thính viên và kỹ thuật viên teletype cần thiết để làm việc. Bộ phận quan trọng nhất về kỹ thuật và đài dự phòng tại trung tâm phát tuyến Quán Tre ở Quang Trung. Nhưng các phóng viên tại hai mặt trận Long Khánh và Long An thì không còn phương tiện gởi bản tường trình nào nữa kể từ 5 giờ chiều ngày 28-4. Trước đó, Tổng thống Dương Văn Minh đích thân gọi điện thoại vào đài phát thanh. Vẫn giọng hiền lành và dùng chữ “qua” làm ngôi thứ nhất, ông cho biết đã cử tướng Lâm Văn Phát làm tổng tham mưu trưởng quân đội và yêu cầu tôi loan báo trước khi văn thư chính thức đến đài được gởi tới đài vào sáng hôm sau.

                  Xong, Big Minh hỏi tên và tuổi: Em còn trẻ, sao không tìm cách đi đi?
                  Tôi trả lời vắn tắt: Thưa tổng thống chẳng còn đường, tôi lại quen biết ít.

                  Ông lại hỏi tiếp: Qua thấy tình hình không hy vọng gì. Cụ Huyền đang ở Tân Sơn Nhất để thương lượng với họ (Cộng sản), mặt trận Long Khánh tan rồi, họ đưa xe tăng và hỏa tiễn vào sát Sài Gòn. Em liệu giữ được tiếng nói quốc gia trong bao lâu nữa.
                  Tôi đáp: Chừng nào tôi còn được bảo vệ, chừng đó làn sóng phát thanh vẫn còn duy trì được tiếng nói quốc gia, thưa Tổng thống.
                  (Vũ Ánh)

                  Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
                  Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Dưới ánh đèn xe, những cán binh Bắc quân trong đợt xung phong này hình như không còn hăng hái như hai đợt trước, họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá nhấp nhô. Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ “Ùm!” thì những anh bộ đội cũng quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng rừng. Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng tôi. Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương, miệng la, “Biệt Động!…Sát!” tay bóp cò M16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp. Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không còn biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những con quái vật T54 để đánh quả lựu đạn sau cùng.

                  Tôi đã leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini thì một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc!

                  Chuyện thời hậu chiến
                  Thường, sau khi chết, linh hồn người ta còn lại nhưng thân xác thì mục rữa. Riêng hắn, sau khi tử trận vào ngày 30-4-75, linh hồn đã tan mất nhưng thân xác thì vẫn còn. Hiện hắn đang ở Mỹ, trông rất hồng hào. Mỗi lần hắn đi khám bệnh, các bác sĩ đều bảo: “OK”.
                  (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

                  Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù, một biệt động quân đã bỏ được một trái M26 vào trong lòng chiếc T54 hướng ĐĐ4/TĐ82 khiến nó quýnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn tên nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu họng M16 đã nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than tiếng nào. Có vài biệt động quân còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chúi mũi M16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng. Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ.
                  Đoàn xe biến dạng trong đêm.(…)

                  10 ngày cuối cùng của VNCH
                  Thứ Hai 28-04-1975

                  Trong Decent Interval, Frank Snepp cho biết cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn Tiến Dũng nói: Chiều 28-4, bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh phân tích tình hình toàn bộ ở Sài Gòn và thấy rằng phe địch rất hoang mang, bộ chỉ huy mất trật tự trong hai ngay đầu của chiến dịch, các mũi tiến quân của ta vẫn hoạt động theo đúng kế hoạch. Do đó Văn Tiến Dũng ra lệnh cho cuộc tổng tấn công phải được khởi sự vào sáng ngày 29-4 để tiến về Sài Gòn. Lệnh này đã được gởi đến mọi đơn vị cũng như thông báo cho Hà Nội. Tối hôm đó Lữ đoàn chiến xa 203 của Bắc Việt với nhiệm vụ tiến thẳng vào Sài Gòn đã được lệnh xuất từ Biên Hòa, tắt đèn tiến theo Quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn”. (*** Frank Snepp, sđd, trang 470)

                  Trong khi Dương Văn Minh đang chuẩn bị tổ chức lễ trao quyền tại dinh Độc Lập thì Bắc Việt đã lấy phi cơ A37 của VNCH vào hồi đầu tháng 4 từ Nha Trang bay vào oanh tạc dinh Độc Lập. Việc này có nghĩa là tuy đã được biết Dương Văn Minh nhận chức tổng thống để thương thuyết theo sự đòi hỏi của họ như ông ta đã rêu rao, những “người anh em bên kia” của ông vẫn ra lệnh cho phi cơ bay vào oanh tạc Sài Gòn. Trong cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn Tiến Dũng đã nói rằng: Đó là một cuộc phối hợp một cách tuyệt vời.(…)

                  Giây phút hấp hối của VNCH
                  Buổi chiều 28 là buổi chiều có khá nhiều biến chuyển. Khoảng 6 giờ 30 chiều, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu chúng tôi có mặt tại đài truyền hình THVN9 ở ngã tư Hồng Thập Tự-Cường Ðể để thu hình và thu thanh lời yêu cầu của ông đòi chính phủ Hoa Kỳ rút hết lực lượng bảo vệ sứ quán Mỹ, các nhân viên và chuyên viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ đồng hồ.

                  Ðó là lần cuối cùng tôi gặp Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Từ phòng thu hình ra, ông Mẫu không nói năng gì thêm ngoại trừ trả lời một câu hỏi của tôi về hiện tình. Ông nói thẳng: "Tình hình tuyệt vọng. Họ (những nhà lãnh đạo trước) đã làm nát bấy đất nước trước khi quá muộn để phía bên kia thương lượng với chúng ta. Việc yêu cầu Mỹ rút hết những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam chỉ để thành phố này không thành biển máu vô ích mà thôi".

                  Tôi không nhớ hết những điểm giải thích của thủ tướng Mẫu nhưng những điểm chính trong lời lẽ của ông thì không thể nào quên được. Vì đài truyền hình và đài phát thanh chỉ cách nhau sân vận động Hoa Lư nên chúng tôi lội bộ về đài. Gặp Vũ Thành An vào tăng cường, tôi giao cuốn băng ghi âm cho anh yêu cầu hoàn chỉnh với nhạc hiệu và cho phát thanh cứ 15 phút một lần.

                  Sau khi tắm rửa xong, tôi ghé qua phòng tin tức. Ðủ tám biên tập viên và chủ bút cho ca chiều. Ông H.C đưa tôi một bản tin của AP nói đến việc di chuyển của hàng không mẫu hạm chở trực thăng Midway ra khỏi Vịnh Thái Lan hướng về Việt Nam. Ông HC là một chủ bút rất giỏi và nhạy bén với tình hình. Lúc tôi còn học lớp huấn luyện phóng viên vô tuyến truyền thanh, ông là một người thầy tận tụy chỉ dẫn cho chúng tôi cách viết một bản tin, cách chuyển một bản tin từ tiếng Anh qua Việt ngữ, cách phỏng vấn và làm sao khi dự một cuộc họp báo xong chỉ 10 phút sau có một bản tin ngắn. Ông nói: Muốn được như vậy cần có kiến thức thời sự và nắm bắt được điểm chính trong những lời tuyên bố tràng giang đại hải của người chủ trì họp báo.

                  Khi tôi vừa xem xong bản tin AP, ông HC nói: Chắc mất rồi bạn ơi. Nhưng thôi kệ mẹ nó. Hút một điếu thuốc lào không. Tao có trà nóng ngon lắm. Hồi chiều trước khi đi làm, vợ mới mua cho một ít bánh bía nhân hạt sen mới sang chứ.(…)

                  Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
                  Đêm ấy tôi đã sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ.

                  Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi quyết định cho đơn vị rút lui. Một trái mìn cóc nổ dưới chân chuẩn úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều sập của đại úy Hoàn, xác đại úy tiểu đoàn phó đã bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng một ngả. Chúng tôi xuống đồi tuần tự, các đại đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi, tất cả đã ra đi êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm 28-4-1975 máu chúng tôi, máu những người biệt động còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương.

                  Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia.

                  Đêm 28-4, chợ chiều rồi! Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu đội hình trong bãi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông.

                  Gió ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng…
                  (Vũ Mộng Long)

                  – : Sư đoàn 325 (F325) đánh chi khu Long Thành, ngoài đụng độ với biệt động quân ở trên còn đụng trận với thủy quân lục chiến ở khu vực này. Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3-1075.

                  Giây phút hấp hối của VNCH
                  Tôi áp dụng phương thức khẩn cấp: Loại bỏ tất cả những tin nào có thể gây hoang mang trong dân chúng khiến họ đổ vào sứ quán Mỹ trên đường Thống Nhất vì những vụ đạp lên nhau và những vụ người di tản cố gắng trèo lên tường sứ quán bị TQLC Hoa Kỳ đánh trọng thương đã xảy ra. Trong những ngày cuối cùng, phải nói rằng các hãng thông tấn AP, UPI. Reuters làm việc rất hữu hiệu. Những bản tin họ phát đi giúp tôi nhận ra ngay chiều hướng của tình thế: “Kế hoạch dùng TQLC bảo vệ hành lang Saigon-Vũng Tầu để di tản những nhân viên cao cấp của chính phủ VNCH mà tính mạng sẽ nguy hiểm nếu lọt vào tay Bắc Việt không thể nào thực hiện được sau khi có lời tuyên bố của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đòi Hoa Thịnh Ðốn rút toàn bộ nhân viên Mỹ ra khỏi Việt Nam".

                  Khoảng chín giờ tối 28, chủ bút H.C đưa tôi bản phân tích của hãng thông tấn AP và nói:
                  "Bọn Mỹ có thể sẽ phải áp dụng kế hoạch di tản khẩn cấp nhân viên Mỹ bằng trực thăng vào ngày mai ra tầu Midway lúc đó đậu cách Vũng Tầu có 40 hải lý và hai hàng không mẫu hạm và các khu trục hạm của Ðệ thất hạm đội cũng đang tiến sát Vũng Tầu".

                  Ông còn cho tôi xem một bản tin khác nói đến việc mất tuyến Long Khánh và bộ chỉ huy của tướng Lê Minh Ðảo rút về tới Biên Hòa. Bản tin cũng còn nói Sư đoàn 18 là sư đoàn duy nhất của VNCH còn chống trả khá mãnh liệt trên đường rút. Văn phòng trưởng của hãng thông tấn AP lúc đó là George Esper cũng gởi trên máy một bản tin rất dài về việc rút lui có trật tự của Liên đoàn 81 Biệt kích dù và các sinh viên sĩ quan các khóa cuối cùng của trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.

                  Ông hỏi tôi: Lo chứ?. Tôi nói: Có gì mà không lo nhưng sẽ phải viết rất khéo, tránh gây xúc động cho gia đình những đơn vị nào chưa biết số phận chồng con họ ra sao. Vị chủ bút đầy kinh nghiệm này cười và nói: Ðược cậu khỏi lo, đó là nghề của tao.

                  Sở dĩ tôi nhắc lại chi tiết này để cho thấy rằng cho tới giờ phút hấp hối của chế độ đài phát thanh Saigon vẫn là tiếng nói VNCH, tuy có người bỏ chạy nhưng không phải là tất cả. Những người được giao phó làm công việc của mình vẫn làm việc với một thái độ bình tĩnh… Chứ không đã tan hoang như Văn Tiến Dũng viết trong cuốn Ðại thắng mùa xuân, một cuốn sách viết hết sức cẩu thả và dựng đứng nhiều chi tiết.(…)

                  Tháng Tư đen - A
                  Vào đúng dịp kỷ niệm 37 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam, một cuốn sách về những ngày cuối của xung đột kéo dài hai thập niên với sự thiệt mạng của hàng triệu người đã ra mắt mang tênTháng Tư đen, sách dày gần 600 trang của tác giả George J. Veith vẽ lại bức tranh hãi hùng của những trận chiến cuối cùng với sự thiệt mạng của 100.000 lính Nam Việt Nam.

                  Bản thân Hà Nội ước tính họ mất 6.000 bộ đội chỉ trong vài ngày cuối tháng Tư năm 1975, theo điểm sách Tháng Tư đen trên báo Wall Street Journal của chuyên gia tư vấn quốc phòng Mark

                  Moyar, người cũng là tác giả cuốn Thắng lợi bỏ lỡ: Cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965.
                  Moyar đánh giá Tháng Tư đen đã “điền vào khoảng trống lịch sử” của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và cuộc chiến Việt Nam không còn là mối quan tâm hàng đầu của các phóng viên Hoa Kỳ, khiến các tài liệu tham chiếu bằng tiếng Anh để viết về giai đoạn này không có nhiều. Ông Veith nhận xét thất bại trong tháng 4-1975 không phải do sự lúng túng của chính quyền miền Nam và càng không phải do sự yếu kém trên chiến trường của lực lượng VNCH. Theo ông, lực lượng Nam Việt Nam bao gồm nhiều chỉ huy từng đẩy lùi cuộc tấn công của miền Bắc hồi năm 1972 và đã có những trận đánh thành công nhưng ít được biết tới trong giai đoạn 1973-1975. Theo bài điểm sách của chuyên gia Moyar nói: Ông Veith đã minh chứng rằng lý do gốc rễ của sự thất bại ở miền Nam là việc cắt giảm trợ giúp của quốc hội Hoa Kỳ trong năm 1974. Ngoài ra nguyên nhân khiến VNCH bị sụp đổ để rộng đường dư luân. Đồng thời qua tuyên bố của tướng Westmoreland (tại Nam Cali vào tháng 9, 1995), vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM(!).

                  Ông Veith nói sự thiếu hụt Không Quân cũng làm cho miền Nam không thể cho máy bay ném bom lực lượng miền Bắc ngay cả khi họ biết những nơi đối thủ tập trung đông quân (1). Theo các con số từ sách Tháng Tư đen được cây viết Moyar trích dẫn, Nam Việt Nam có tới hơn 760,000 binh sĩ nhưng chỉ tập hợp được 110,000 ở Sài Gòn trong trận đánh cuối cùng.

                  Thêm nữa việc dân thường di tản với số lượng lớn cũng ảnh hưởng đến khả năng triển khai và di chuyển quân của Nam Việt Nam. Ông Veith nói việc Bắc Việt Nam giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường khi quân miền Nam rút đi. Việc tắc nghẽn đường và cầu khi dân thường di tản làm cho một số đơn vị chiến đấu của VNCH không rút kịp và bị lực lượng miền Bắc tiêu diệt. Một trong những ví dụ ông Veith đưa ra và được chuyên gia Moyar dẫn lại là đợt rút quân của Nam Việt Nam để cố thủ ở Đà Nẵng.

                  Phần kết thúc bài điểm sách cuốn Tháng Tư đen, chuyên gia quốc phòng Moyar nói cuốn sách là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái giá phải trả bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh. Ông nói 100.000 lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại “cải tạo”. Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng đã bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản. (Alan Dawson)

                  (1) Xem “Rules Of Engagement” của Mark Berent ở trang dưới.
                  – : George J. Veith là nhà văn đồng thời cũng là sử gia.
                  – : Tháng Tư đen, dịch giả Nguyễn Ngọc Anh.
                  Nguyên tác Black April: The Fall of South Viet Nam, tác giả George J. Veith.
                  – : Khác với cùng tựa đề Tháng Tư đen của dịch giả Nguyễn Kim Vinh.
                  Nguyên tác Cruel April (The Fall Of Sai Gon), tác giả Ouvier Todd).


                  Tháng Tư đen - B
                  Cú lừa đảo lớn nhất thế kỷ 20 do Cộng sản Việt Nam thực hiện, đã hoàn toàn thành công bằng “Cái chết của Sài Gòn” ngày 30-4-1975, khi quân đội chính quy Bắc Việt dưới là cờ ngụy trang hai màu xanh đỏ với ngôi sao vàng của Mặt trận giải phóng miền Nam, tiến vào thủ đô Sài Gòn. Hàng triệu người miền Nam, và hàng triệu người miền Bắc cùng rơi lệ trong ngày đó.

                  Người ta không chỉ khóc vì đau khổ mà còn khóc vì sung sướng nữa. Không chỉ ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghiã, ngay ở các nước phương Tây, và ngay chính ở Mỹ người ta cũng ăn mừng ngày 30-4-1975. Để thoả mãn cái mặc cảm tự ti thua kém chăng? Ngày 30-4-1975, ở Paris, London, Washington, những người phản chiến và thiên tả mở champagne ăn mừng, rồi tràn ra đường reo hò cho chiến thắng của người cộng sản miền Bắc với những đoá hoa cẩm chướng màu đỏ đeo trên áo hay cài trên tóc. Nhưng cuộc vui đã không kéo dài.

                  Phải mất “20 năm đánh giết” mới có được “một ngày” vui toàn thắng, thế mà niềm vui chiến thắng lại vội sớm ra đi. Nhất là đối với những người cộng sản miền Nam trong Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (1973), tiền thân là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập ngày 20-12-1960 ở Tân Lập, một xã trong vùng “giải phóng” Tây Ninh theo nghị quyết của miền Bắc năm 1959, với nhiệm vụ kết hợp các lực lượng võ trang ở miền Nam.

                  Mặc dù là con đẻ của người miền Bắc, nhưng mặt trận giải phóng luôn tuyên truyền và xuất hiện trong mắt của thế giới, như một phong trào võ trang của nhân dân miền Nam tự đứng lên để giải phóng miền Nam. Và họ đã được 70 quốc gia (1) trên thế giới công nhận sau đó.

                  Cuộc vui không kéo dài cho những người cộng sản miền Nam, vì ngày 15-11-1975, chỉ 7 tháng sau ngày chiến thắng 30-4. Tại dinh Độc Lập cũ, và người miền Bắc tuyên bố: ”Thống nhất đất nước, nước Việt Nam là một”. Mặt trận giải phóng miền Nam đã bị các “đồng chí lãnh đạo miền Bắc” khai tử như VNCH đã bị khai tử với “Cái chết của Sài Gòn” 7 tháng trước.

                  Những người miền Nam ngỡ ngàng nhớ lại lời Phạm Văn Đồng tuyên bố năm 1968 tại Hà Nội: Miền Nam sẽ có chính phủ và chế độ theo sự chọn lựa riêng. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bộ trưởng y tế chính phủ cách mạng lâm thời là người đầu tiên trả lại thẻ đảng cùng với…”niềm tin cách mạng”. Phạm Văn Đồng chấp thuận đơn xin ra khỏi đảng của bà với điều kiện chỉ được công bố 10 năm sau đó. Bộ trưởng tư pháp chính phủ cách mạng lâm thời Trương Như Tảng sau đó đã xuống thuyền vượt biên qua Pháp. Và ngay cả tướng Trần Văn Trà, chủ tịch ủy ban quân quản Sài Gòn ngày nào cũng được về hưu non dưới hình thức quản thúc tại gia.

                  Thật ra mặt trận giải phóng đã không còn lực lượng võ trang của mình từ năm 1968. Trong cuộc Tổng tấn công Tết Mâu Thân năm 1968, những nhà lãnh đạo miền Bắc sau khi vi phạm “Thoả thuận ngưng bắn đón Tết Mâu Thân” giữa hai chính phủ, đã mượn tay người Mỹ và quân đội VNCH giết chết gần 80% lực lượng võ trang của mặt trận giải phóng (2), khi đưa những “người đồng chí miền Nam” ra làm lực lượng xung kích, dẫn đường cho quân chính quy Bắc Việt đi sau, trong cuộc tấn công vào các thành phố miền Nam để ngăn trừ hậu hoạn sau này.

                  Thế giới bắt đầu hoài nghi với những cái nhìn quan ngại về Việt Nam, nhưng 70 quốc gia đã từng công nhận Mặt trận giải phóng miền Nam vẫn không lên tiếng sau ngày Chính phủ cách mạng lâm thời bị khai tử. Trong thế giới ngày càng có mấy ai đủ can đảm để thú nhận những lỗi lầm của mình? Phải mất 40 năm người ta mới hiểu rõ điều gì đang xẩy ra ở Liên Xô. Phải mất 30 năm người ta mới hiểu rõ điều gì đang xẩy ra ở Trung Quốc. Nhưng chỉ cần 3 năm người ta hiểu ngay điều gì đang xẩy ra ở Việt Nam. Lương tâm của thế giới bắt đầu rúng động trước thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam, với những con người liều chết bỏ nước ra đi ngày càng đông. Người Mỹ đã rút quân từ năm 1973, chính quyền Sài Gòn đã chết từ năm 1975. ”Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào” rồi, vậy điều gì đã khiến người dân Việt Nam liều chết rời bỏ đất nước ra đi, trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé được chế tạo không phải để vượt biển.

                  Những trí thức thiên tả, những người phản chiến đã từng ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội và Mặt trận giải phóng, những người đã đeo những bông hoa cẩm chướng màu đỏ trên áo và cài bên tai, những người đã thức suốt đêm uống champagne ờ Paris, London, Washington ăn mừng ngày 30-4-1975 năm xưa bỗng thấy lương tâm mình chao đảo. Lại những cuộc xuống đường ở Washington do Joan Baez chủ xướng, nhưng lần này không phải để ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội, mà là để lên án chính phủ miền Bắc. Và với những giọt nước mắt muộn màng, những trí thức thiên tả phương Tây đã thú tội với người Việt Nam bằng cách quyên góp tiền mua tàu cứu vớt người Việt Nam vượt biển.

                  Nhưng lịch sử đã sang trang rồi.

                  Những giọt nước mắt hối hận muộn màng của thế giới, và cả của những người chiến binh miền Bắc tiến vào Sài Gòn ngày 30-4 năm xưa, không thể làm sống lại VNCH.

                  VNCH đã chết 40 năm rồi. Nhưng cái chết của VNCH đã không trở thành vô ích. VNCH đã đóng góp phần mình vào công cuộc chống lại sự phát triển của chủ nghiã cộng sản cho nhân loại, đã giúp thế giới phá vỡ huyền thoại “cách mạng và giải phóng” để nhận diện rõ ràng chân tướng của người cộng sản. Nhưng bất hạnh thay, VNCH đã hy sinh mà không giúp được chính mình trước cú lừa đảo lớn nhất trong thế kỷ 20, hay còn có thể là cú lừa đảo lớn nhất trong lịch sử nhân loại, mà đảng Cộng sản Việt Nam đã biên kịch, đạo diễn và thủ vai chính.

                  Bằng cái chết của Sài Gòn ngày 30-4-1975, Việt Nam là đất nước bất hạnh cuối cùng trên thế giới, rơi vào tay người cộng sản sau cái chết của Nam Vang 18 ngày trước đó.
                  (The Fall Of Sai Gon – Olivier Todd)

                  Olivier Todd là nhà văn, nhà báo thiên tả Pháp. Thiên tả và là chuyên gia về chiến tranh VN đã viết nhiều bài báo gây bất lợi cho VNCH. Đến năm 1973, sau Hiệp định Paris mới có cơ hội nhìn thấy sự thật nên đã nhận sai lầm và viết tác phẩm nổi tiếng Cái chết của Sài Gòn.

                  (1) Chỉ có 23 nước công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước đã đặt quan hệ ngoại giao. Những nước này là các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa và một số nước thuộc Thế giới thứ ba.
                  (2) Trận Mậu Thân, xem Thâm u bí sử 1 với Võ Văn Kiệt, Thâm u bí sử 2 với Trần Văn Trà, nằm ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.


                  Quân sử ngoại truyện
                  Tháng 9 năm 1975, tại Hà Nội, Hội nghị trung ương lần thứ 24 của Đảng lao động Việt Nam xác định mục tiêu thống nhất đất nước về mọi mặt. Đại diện đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, do ông Trường Chinh đứng đầu, và đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, do ông Phạm Hùng đứng đầu. Thống nhất đất nước về mọi mặt:

                  Xóa bỏ khu phi quân sự theo vĩ tuyến 17.
                  Quốc kỳ, quốc huy là cờ đỏ sao vàng.
                  Lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
                  Quốc ca là bài Tiến quân ca.
                  Thủ đô là Hà Nội.
                  Đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành…thành phố Hồ Chí Minh.

                  Những quy tắc giao chiến
                  Thiếu tá phi công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam có thể đã chiến thắng tại chiến trường vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ ngưng ném bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp cho Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng 4-1975. Hãy nghe Mark Berent tâm sự:
                  "Lần đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực lượng không kiểm tiền phương (Forward Air Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà tổng thống Johnson ra lệnh ngưng ném bom. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném bom, có lúc phi vụ không được chấp thuận. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai biết.
                  Trong giai đoạn đó chúng tôi bay trên lãnh thổ Bắc Việt. nhưng vì “Những quy tắc giao chiến” (Rules Of Engagement): Chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang bi đã bị cắt giảm. Trước kia tôi vẫn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Mỹ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này! chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái nguyên tắc giao chiến oái oăm này!?. Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng…Tất cả những gì Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam mới phải?
                  Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng!"

                  (To Bear Any Burden – Al Santoli)

                  – : Trần Văn Trà, tư lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời …”. (…trích lục lại)

                  Lạc đạn
                  Lịch sử xuất phát đường Hồ Chí Minh, hay đúng ra là một hệ thống đường dùng để tiếp viện cho các phong trào võ trang của cộng sản ở miền Nam, bắt đầu sau khi Nghị quyết 15 ra đời vào tháng 5-1959. Trong quyết nghị này, nói một cách tổng quát, bí thư thứ nhất Lê Duẩn biểu quyết là phải dùng bạo lực võ trang để chiếm miền Nam và thống nhất đất nước. Muốn thực hiện mục đích đó, miền Bắc phải tìm cách du nhập vũ khí, cán bộ khung (cán bộ nồng cốt) vào Nam để chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kỳ.

                  Từ nghị quyết đó, cộng cản Việt Nam cho thành lập một tổ chức có tên là “Đoàn 559” để tìm và thành lập một con đường tiếp vận vào Nam. Về giai đoạn thành hình đường Hồ Chí Minh, tác phẩm cho một cái nhìn tổng quát và khá chi tiết là Mở đường Trường Sơn – đường mang tên bác, của Thiếu tướng Võ Bẩm, lúc đó mang quân hàm thượng tá. (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)

                  Những quy tắc giao chiến
                  Các phi công của không quân Hoa kỳ khẳng định rằng, tăng cường ném bom Bắc Việt ngay từ đầu chứ không phải leo thang dần dần theo kiểu Johnson hẳn đã có thể nghiền nát Bắc Việt trước khi Liên Xô, Trung Quốc kịp giúp họ xây dựng các đơn vị phòng không hết sức hữu hiệu.

                  Đại tá Harry G. Summers Jr., một nhà phân tích xuất sắc, tỏ ra ít cay cú với báo chí và chính trị gia hơn là nhiều sĩ quan đồng sự của ông. Nhưng ông phê phán các nhà kế hoạch quân sự Mỹ về việc truy lùng quân du kích, những người được bố trí để quấy rối quân Mỹ cho đến khi các sư đoàn Bắc Việt có thể tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn. Nói tóm lại, người Mỹ đã tự làm cho mình kiệt sức vì những nỗ lực vô ích để chống nổi dậy: Giống như một con bò mộng chỉ tấn công tấm choàng màu đỏ của người giác đấu hơn là tấn công chính người giác đấu.
                  (“Vietnam – A History” – Stanley Karnow)

                  Stanley Karnow là phóng viên có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh. Tác phẩmVietnam – A History của ông là một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại từ khi tiếp xúc với phương Tây, trọng tâm là cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam-Bắc.

                  Lạc đạn
                  Để sửa soạn cho đường Hồ Chí Minh, tướng Trà đã đích thân đến nhà của bí thư Lê Duẫn, để xin cho một số cán bộ nồng cốt, đa số là các cán bộ tập kết ra bắc năm 1955 như Trà xâm nhập trở lại miền Nam. Tướng Trà nói ông xin 100 người nhưng Lê Duẫn chỉ cấp cho trước 25 người như một thử nghiệm đầu tiên. Sách của tướng Trà chỉ nói sơ qua đường Hồ Chí Minh, và những chi tiết tổng quát đều giống như những gì tướng Võ Bẩm viết. Nhưng qua sách của tướng Trà chúng ta biết được thêm cộng cản Việt Nam có hai kế hoạch song song: nhiệm vụ dọn đường, tuyển mộ cán bộ cấp dưới là nhiệm vụ của tướng Bẩm, tuyển chọn một số cán bộ “khung,” cán bộ có kinh nghiệm quân sự gởi vào B để thành lập và chỉ huy các đơn vị chủ lực Miền (các trung đoàn cơ hữu của Trung ương cục miền Nam), là nhiệm vụ của tướng Trà. Theo hai sách này, toán phụ trách chuyển vận đầu tiên được gọi là Tiểu đoàn 301. Cấp số quân khoảng 470 người, được tuyển chọn từ Sư đoàn 305, một đơn vị được thành lập từ các đoàn quân từ miền Trung (Liên khu 5, trong thời chiến tranh Việt-Pháp) tập kết ra Bắc.

                  Trên đường di chuyển bị oanh tạc, bị dội bom phá hủy, tổng số thiệt hại về nhân mạnh trên đường Hồ Chí Minh là 12.487 người chết và 21.802 bị thương.
                  (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)

                  Góp nhặt…ghi chép…
                  Alan Dawson nói 100.000 lính miền Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại cải tạo. Hơn nửa triệu người miền Nam cũng đã bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản.

                  Melvin R. Laird cũng nói vào thời điểm này, miền Bắc đã tổn thất 1,1 triệu binh sĩ và thường dân. Ông thêm: Bắc Viêt chiếm đoạt được miền Nam bằng võ lực nhưng đã không chiếm được lòng dân. Chính sách xã hội hoá miền Nam và củng cố xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã thất bại hoàn toàn. Cộng sản Việt Nam đã theo đuổi một cuộc chiến mà không có kẻ chiến thắng. Chỉ có nhân dân ở cả hai miền Bắc và Nam là những kẻ thua cuộc vì phải trả một giá rất đắt bằng hàng triệu sinh mạng và đổ vỡ thê thảm về vật chất và tinh thần. Biết bao gia đình bị ly tán và đạo đức suy đồi, mà ảnh hưởng tai hại sẽ còn kéo dài qua nhiều thế hệ.

                  – : Con số lính miền Nam tử trận 220.350 người được dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 315.000.
                  – : Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975):
                  1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chết trận mất xác).


                  Cuộc chiến tranh không có người chiến thắng

                  Tác phẩm VietNam – A History của Stanley Karnow,
                  (trích đoạn ở dưới có tựa đề: “The War Nobody Won”).


                  Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có người chiến thắng, ít ra là theo ngôn ngữ nhân văn, đó là cuộc chiến tranh giữa các nạn nhân. Nguồn gốc của nó cực kỳ phức tạp, những bài học của nó luôn được tranh cãi và hậu quả của nó các thế hệ mai sau nhận định. Nhưng cho dù đó là một cuộc dấn thân hợp lý hay một nỗ lực sai lầm, nó cũng là một bi kịch mang tầm vóc sử thi và văn học sử.

                  Tháng giêng năm 1989, tại thành phố Hồ chí Minh, tên trước kia là Sài Gòn, một cựu thương binh du kích Việt Cộng tên là Trần Văn Lê đã đưa cho người phóng viên truyền hình Mỹ Morley.

                  Safer một bài thơ mà ông ta viết để vinh danh sự trở lại của những “lính Mỹ”.

                  Bao nhiêu lính Mỹ
                  Chết ở đất này?
                  Bao nhiêu người Việt
                  Vùi dưới cỏ cây?
                  Hòa bình gặp lại,
                  Bên ly rượu đầy
                  Nào cùng nâng chén
                  Nước mắt tràn xuống tay.(…)


                  Hơn bốn triệu binh lính và thường dân VN ở cả hai bên, tức là khoảng 10 phần trăm dân số bị chết hoặc bị thương. Đa số những người Nam Việt Nam chết được chôn cất trong những nghĩa trang gia đình hoặc dòng tộc. Đi thăm miền Bắc đất nước sau cuộc chiến, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp những bia mộ trắng trong mỗi nghĩa trang làng xã, mỗi tấm bia mang dòng chữ liệt sĩ. Nhưng những ngôi mộ ấy đều là mộ gió, thi hài của những người đã khuất đã bị xe ủi đẩy xuống những hố chôn chung trong những nấm mồ tập thể ở miền Nam, nơi họ ngã xuống.
                  (The War Nobody Won – Stanley Karnow)

                  (1) Mộ gió là ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết đuối, chết trận không tìm được xác. Thân nhân làm hình nhân bằng rơm rạ và làm lễ an táng như lễ an táng thông thường.

                  Chuyện kể thời hậu chiến
                  Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình hắn định mang hài cốt của hắn từ nghĩa trang liệt sĩ về quê. Nhưng đào mãi, đào mãi, cái huyệt vẫn trống trơn, không hề có vết tích gì cả. Có người nói: Anh ấy hiển thánh rồi! Lại có người đề nghị: Thôi thì mang tấm bia có tên tuổi của anh ấy về quê cũng được. Nhưng tấm bia bằng đá ấy lại quá nặng.
                  Cuối cùng, bố mẹ hắn quyết định chỉ đục tấm bia, lấy hai chữ “liệt sĩ” mang về nhà.

                  Biên Hoà không bị thất thủ
                  Theo Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi: Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Hòa không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược của miền Nam, phi trường Biên Hòa còn là bản doanh BTL/Quân đoàn III. Để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam VN.

                  Theo hồi ký Hoàng Cầm:
                  (,,) Đã sang ngày 28-4, như bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, hầu hết các hướng phát triển thuận lợi, các binh đoàn chủ lực đã tới trước cửa ngõ Sài Gòn, địch lập tại đây một tuyến phòng thủ và cũng tại đây “lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông Dương”, địch cấu trúc các tuyến hào chống tăng để chặn đối phương. Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ binh ở các căn cứ, đồn bót sẵn có từ trước, địch đã thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống tăng, đưa các xe tăng M41, M48 nằm sâu dưới các ụ đất, các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các dãy phố thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát thành lô cốt, hoả điểm, thành những ổ đề kháng lợi hại. Chúng đặt súng M72 hoả tiễn chống tăng, súng máy 12.7 ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta (…).

                  Vì vậy sáng ngày 30-4-1975, quân đội Bắc Việt đi đường vòng qua Biên Hòa để đánh vào Sài Gòn.Đến khi Chuẩn tướng Trần Quang Khôi được tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ sau 17 năm tù đày trong trại cải tạo, có một số người mới biết sự thật rằng Biên Hòa không hề thất thủ.

                  Quân sử ngoại truyện
                  Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn 4 của Thượng tướng Hoàng Cầm bỏ Biên Hòa, đi đường vòng hợp quân với Quân đoàn 2 tấn công Sài Gòn vì địch ở căn cứ Biên Hoà, khu vực phòng thủ mạnh nhất của địch trước cửa ngõ Sài Gòn vẫn tiếp tục chống trả. Các đơn vị quân đoàn chưa vượt được sang sông Đồng Nai. Bốn giờ sáng, phân đội đi đầu của Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) tiến đến cầu sắt xe lửa Biên Hoà nhưng tăng không qua được vì cầu này yếu, trọng tải chỉ cho xe 12 tấn. Cầu Mới bị địch phá. (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

                  Ngộ Không

                  Comment


                  • #10
                    Chương 11

                    Bốn mươi năm Sài Gòn thất thủ: Chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc
                    (Bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian)

                    Ngày tiếp theo sau khi Bắc Việt lấy được Sài Gòn, người ta đã nghe thấy từ lúc tinh mơ bài hát mừng chiến thắng. Trong đêm các “kỹ sư” của đội quân chiến thắng đã dựng loa phóng thanh lên và từ khoảng 5 giờ sáng phát không ngừng điệu nhạc giải phóng khô khốc. Đó là ngày 1-5- 1975, khi ánh mặt trời chiếu xuống phố phường gần như trống rỗng của Sài Gòn mà thời khắc đó trước kia đã bắt đầu xe cộ rộn rịp và đường phố huyên náo dần lên. Nhưng nay hầu như chẳng ai biết phải làm gì, đi làm hay không, còn chợ búa cò bày bán không, hay có khi một cuộc đọ súng khác sẽ vẫn có thể bùng nổ ra nữa. Qua bao năm tháng chiến tranh, chiến cuộc chẳng mấy khi dính tới Sài Gòn, ngoài thỉnh thoảng có vài cuộc pháo kích bằng hỏa tiễn, một số vụ đánh bom nhà hàng, hay vụ xâm nhập nhỏ gây sửng sốt vào thành phố, thậm chí vào ngay khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ trong trận tấn công vào dịp Tết 1968. Trong cơn khiếp hãi qua đi Saigon cảm thấy như đã thoát khỏi điều tồi tệ nhất. Thực tế với điệu nhạc giải phóng vang vọng đường phố, một lần nữa Sài Gòn đã thoát dẫu ít người biết rằng Bắc Việt đã chuẩn bị sẵn sàng bắn nát thành phố với pháo binh hạng nặng và chiến đấu theo cách vốn dĩ của họ “theo từng khối” nếu gặp phải hàng phòng thủ và sức đối kháng mạnh hơn. Nếu tổng thống cuối cùng của Nam Việt Nam, tướng Dương Văn Minh không ban lệnh cho quân đội hạ vũ khí, Sài Gòn có thể lâm vào tình trạng xấu thực sự. Người Việt đã nói tếu rằng Hà Nội lấy Sài Gòn “mà không chạm tới một cái bóng đèn” hay nói sái đi: Thương vong nặng nề cho cả đôi bên, nhưng giao tranh vừa đến thành phố thì dừng.

                    Ở trong thành phố, mọi người lo lắng tình trạng vô luật pháp và nạn cướp bóc. Stewart Dalby của tờ Financial Times và tôi đang đi bộ dọc đường Tự Do, một trong những con phố chính của Sài Gòn, thì một người đàn ông mặc áo bỏ ngoài quần đứng chắn lối chúng tôi. Anh ta đưa tay vào dây thắt lưng để lộ ra một khẩu súng, và liền đó thản nhiên nhấc chiếc máy ảnh đắt tiền ra khỏi cổ Dalby. Sự thể như thế đủ để thuyết phục mọi người rằng thà để họ nắm quyền kiểm soát càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Với một số khác như chúng tôi chẳng hạn, chẳng có lý gì phải lo như vậy, những lo âu vốn bắt nhịp với những xung động của thời thế đó. “Nỗi sợ Cộng sản đã làm Sài Gòn mất hết vẻ thông thái vốn có”, một phóng viên đã viết thế. Nhiều người tìm cách ra đi trên những chuyến không vận đầu tiên bằng máy bay trực thăng, mọi người sẽ được đưa đi hết vào phút cuối cùng. Đây là một lời hứa mà họ đã không giữ được. “Tiếng hét hoảng loạn của người di tản trên sóng vô tuyến CIA vào ngày cuối cùng giờ đây vẫn còn lay động lương tâm tôi”. Frank Snepp, một nhân viên của chi nhánh CIA tại Sài Gòn, đã viết kể lại vài năm sau đó. Trước phút cuối một ngày, từ một chỗ ngồi thuận lợi dưới mái vòm của Caravelle, một trong hai khách sạn sang trọng của thành phố, tôi và các phóng viên khác chứng kiến cảnh hàng người ngày càng dài thêm, đang chờ đợi trong tuyệt vọng tại một điểm rước đi trên nóc của một tòa nhà gần đó. Như một vở bi kịch câm không lời, trong vòng quay đập nhòe đi của cánh quạt máy bay, chúng tôi chợt dần hiểu rõ ra rằng không thể nào có được nhiều máy bay trực thăng Mỹ hơn nữa. Tại tòa đại sứ Mỹ, sự tuyệt vọng như thể chết lặng đi. Đám đông khóc lóc bao vây nơi này, trong lúc thủy quân lục chiến cố kéo vào một người có quyền thế, một khuôn mặt trắng bệch cầu cứu và đẩy ra khỏi những người không được chọn.

                    Ngày hôm sau, đoàn xe tăng tiến vào trước, chiếc nào chiếc nấy nòng súng chĩa dài ra như cái mũi của Pinocchio, hướng đến trung tâm của thành phố và dinh tổng thống. Chiến tranh thì có cái gì là quy củ và có một số chiếc tăng bị lạc đường. Chúng tôi đã nhìn thấy một chiếc tăng quay đầu lui lại, bánh xích của nó rít lên ghê tai, sau đó tiến vào một bệnh viện Việt Pháp cũ (Grall), một nơi khó có vẻ gì là một mục tiêu quân sự được. Nhưng rồi đoàn tăng cũng tập hợp đủ tại cổng dinh và sau đó băng qua cổng, chiếc đi đầu mang theo James Fenton vừa có vẻ hân hoan vừa bồn chồn, ông ta là một thi sĩ cũng là một ký giả, người có thể được xem như là thông tín viên cuối cùng của tờ Washington Post còn ở lại Sài Gòn. Khi đoàn quân mới tiến vào thì những người lính cũ của quân đội VNCH tản mác đi dần, có khi họ phất tay với vẻ thất vọng cay đắng lần chót. Chúng tôi thấy có một đơn vị binh lính cố tình bắn ra tất cả các trái hỏa châu đỏ, trắng lên trời, trước khi giải tán.

                    Những người lính mới, mà người ta đã sớm nhận ra cách gọi họ bằng chữ “bo doi” (người lính đi bộ), mặc một thứ đồng phục màu xanh lá cây trơn hơi mềm và đội mũ giống như mũ Tây thuộc địa cũ. Họ trông có vẻ nhẹ nhõm, chiến tranh đã kết thúc, họ đã không chết, và đã góp một phần làm nên chiến thắng này. Vài ngày sau có một cuộc diễn binh để rồi sau đó nhiều người trong số họ rời bỏ Sài Gòn. Những người ở lại có vẻ nhã nhặn và gần như có cái gì đó ngập ngừng do dự. Họ cho rằng hễ cứ người ngoại quốc da trắng thì là người Nga. Một số có vẻ như được mở mắt trước sự thịnh vượng của Sài Gòn, họ bị cuốn hút bởi đồng hồ vốn chỉ các cấp tá quân đội Bắc Việt mới có được và thích nhất là các đồng hồ có ngày tháng.

                    Họ gọi chúng là những “đồng hồ có cửa sổ”
                    Nhưng họ cũng đã chứng tỏ đã được huấn luyện kỹ. Khi một vài tay súng còn kháng cự bắn vào một đơn vị quân đội Bắc Việt gần công viên giữa dinh Tổng Thống và nhà thờ gạch đỏ của Sài Gòn (nhà thờ Đức Bà), các phóng viên đã nhìn thấy sự sắp xếp đội ngũ gần như tức thì. Những người lính một phút trước đó còn cười nói, hút thuốc liền nằm sấp xuống vừa thận trọng bắn lại vừa tổ chức đội ngũ tiến gần đến những kẻ tấn công. Điều đó nhắc ta nhớ tới một thời chiến tranh dài ngày. Bắc Việt đổ vào Sài Gòn mọi thứ mà một quân đội hiện đại muốn có. Họ có dồi dào lượng xe bọc thép và pháo binh tất cả mọi thứ ngoại trừ Không lực. Trong khi đó Nam Việt Nam đã hầu như đã chẳng để lại tí nào.

                    Việt Nam là một đấu trường quân sự trong nhiều năm qua. Cuộc chiến đã choán quá nhiều trong tâm khảm của mọi người đến nỗi đôi khi ta có thể nói tất cả những gì không đúng ở nơi khác thì lại thành đúng ở đây. Thực tế rõ ràng là cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là một sai lầm vì nó có tính cách hời hợt, theo đuổi một cách hung hăng và rồi bỏ rơi một cách phũ phàng. Đó là những nét hiện rõ của cuộc chiến này. Chuyện miền Nam Việt Nam sụp đổ đã là một “Biên niên sử” của một thất bại được báo trước.

                    Richard Nixon và Henry Kissinger biết cuộc chiến đã hết đường nên đồng tình rút quân theo Hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Họ biết điều đó có nghĩa là miền Bắc sẽ giành chiến thắng, nhưng họ muốn thế, theo như lời của Kissinger: Đó là một “khoảng lặng vừa đủ” (nguyên văn: “decent interval”) độn vào giữa đủ cho họ rút lui rồi miền Nam Việt Nam mới thua trận.

                    Các phóng viên báo chí quyết định ở lại Sài Gòn là người Pháp và Nhật Bản, cộng với một vài người Anh và ước chừng một hoặc hai người Mỹ giả vờ làm người Canada. Dù không chắc gì không gặp nguy hiểm, nhưng trong vai trò nhà báo chúng tôi mới tường trình cuộc chiến được dễ dàng hơn. Trước kia chúng tôi dễ được ưu tiên chở đi khắp nơi bằng máy bay Mỹ và máy bay trực thăng, được lo chỗ ăn, chỗ ở và được lính Mỹ cũng như được binh sĩ Nam Việt Nam bảo vệ. Bạn có thể tới mép rìa của cuộc chiến ở phía Bắc, gần một nơi có tên mỉa mai là Khu Phi quân Sự rồi trở lại Sài Gòn cùng ngày tắm mát dưới vòi sen và uống trà vào buổi chiều…

                    Bây giờ đột nhiên chúng tôi thấy mình trong một tình trạng lửng lơ. Nguyên một hệ thống hỗ trợ sống còn cho chúng tôi với những phi công, những người giúp đỡ, các nhân viên phân tích tin người Mỹ. Tùy viên quân sự sứ quán Úc bỗng biến đâu mất. Nhiều mối liên hệ người Việt đã bỏ đi hoặc ẩn mặt. Các tài xế và người thông dịch cũng thế (có một số người nằm vùng, hay là đặc công thì họ vẫn còn đó, bây giờ họ lộ diện ra, nghĩ cũng phải thôi). Bắc Việt cũng có một ít nhân viên nói thạo tiếng Anh và Pháp lắm lúc thật cần nhưng rất hiếm. Có một tình thế cần thiết như vậy, ngay sau khi thành phố thất thủ, đó là lúc một đơn vị làm phim của quân đội Bắc Việt xông vào văn phòng của CBS và yêu cầu thực hiện cho họ một cảnh quay trận đánh cuối cùng tại cầu Tân Cảng ngay bên ngoài thành phố. Họ vã mồ hôi và giận dữ, dường như họ đã đến cây cầu quá muộn để có được những thước phim riêng cho họ, vì vậy họ muốn thu đoạt hết những gì đoàn làm phim truyền hình Mỹ đã quay. Tôi đã chứng kiến cuộc đối đầu đó và bước ra gặp một đại tá Bắc Việt ôn hòa hơn mà chúng tôi đã có gặp trước rồi. Ông ta làm dịu tình hình và ra lệnh cho đồng đội ông bỏ đi. Trưởng văn phòng nhẹ nhõm và mời ông uống chút gì. Ông nhã nhặn từ chối một cách duyên dáng và nói thêm, với nụ cười gượng: Để sau, chúng ta sẽ còn nhiều thời gian vui vẻ. Có lẽ chẳng ngạc nhiên gì là chúng tôi chẳng còn gặp ông ta để mà vui vẻ, và vội cuốn đi bỏ lại đó các vật dụng chả đáng gì.

                    Như một sự an bài không hiểu nổi, về phía Nam Việt Nam, cấp số đạn dược, lượng các phi vụ và các phụ tùng cũng như quân trang quân dụng cứ bị cắt giảm từng tháng. Vào cuối tháng 8 năm 1974, Thiếu tướng John E Murray người có trọng trách giữ nguồn cung cấp cần thiết cho quân đội Nam Việt Nam duy trì chiến đấu, đã viết thẳng ra rằng: Nếu không còn nguồn hỗ trợ đích thực, QLVNCH sẽ thua, nếu không tuần tới, tháng tới, thì sẽ là vào năm tới. Nhưng nếu Nam Việt ở trong một tình trạng bấp bênh, thì Bắc Việt cũng có những âu lo sâu xa của riêng họ. Dù đảng và chính phủ lúc nào cũng đóng một vai diễn sặc mùi tuyên truyền rằng họ tin chắc chiến thắng sẽ đến và thống nhất được đất nước, nhưng trong thâm tâm họ lại không chắc như vậy. Họ cũng gặp vấn đề về nguồn viện trợ vũ khí khi Nga và Trung Quốc cũng đã cắt giảm nguồn cung cấp sau Hiệp định hòa bình Paris. Và, giống hệt như Nam Việt Nam, họ rất lo về độ tin cậy của các đồng minh của họ. Như George J Veith đã viết trong một cuốn sách lịch sử quân sự của ông về những năm cuối cùng của cuộc chiến: Tháng Tư đen, rằng Hà Nội đã cảm thấy rằng họ chỉ có một cơ hội quá mong manh để giành chiến thắng.

                    Một kế hoạch của miền Bắc đã hình thành cho một chiến-dịch-hai-năm dự trù sẽ mang lại chiến thắng vào năm 1976. Tuy nhiên, những cuộc triệt thoái bỏ trống trận địa ở Tây Nguyên đã quá thuận lợi khiến họ đã dẹp bỏ ý định ban đầu, vào năm 1975. Mọi việc đã đi đến kết thúc trong vòng có hai tháng. Chiến thuật sai lầm của ông Thiệu đã gây ra bao điều tồi tệ, nhưng miền Nam bại trận quá sớm sự thực vẫn do thiếu nguồn dự trữ và bị cắt giảm hỏa lực. Rồi quân Bắc Việt tiến gần về Sài Gòn. Ở cao nguyên, Huế, Đà Nẵng và những nơi khác nữa đã xảy ra những cảnh hoảng loạn và rối loạn khủng khiếp, dù nhiều trường hợp bất tuân thượng lệnh và đào ngũ, nhưng vẫn có nhiều đội quân còn chiến đấu dũng cảm và nhiều gương anh hùng. Nhưng Nam Việt Nam, hoặc là một con thực thể bù nhìn, hoặc là bất cứ điều gì đi nữa, đã biến mất trong làn khói tan của chiến trận. Cả thế giới vô cùng kinh ngạc.

                    Trên đường đi, chúng tôi có đi ngang qua sứ quán Anh, và tôi nhận thấy một đội lính canh gác đã hạ lá quốc kỳ Anh xuống và dùng nó làm một tấm bạt để che nắng. Nghẹn ngào và ngạc nhiên, một cơn giận dữ đột ngột thôi thúc, tôi bước ra khỏi xe, sải bước qua họ, và nhấn mạnh rằng họ nên trả nó trở lại vào cột cờ. Giả như tôi là người Nga hoặc Đông Đức và tưởng tượng tôi có tí quyền, ít nhất tôi cũng gấp lại nó lại. “Cái gì vậy?”, tôi chợt tự hỏi. Nói cho cùng, nó chỉ là một mảnh vải. Nhưng sự thật là tất cả chúng ta, trong một mức độ nào đó hay vì một cái gì khác đi nữa, vẫn còn đọng lại trong tâm khảm cuộc chiến vừa qua nên sự kiện này đã biểu hiện trái ngược tinh thần đó và gây cảm xúc quá mạnh.

                    Quả là như vậy, mặc dù một vài trong chúng tôi đã từng ủng hộ mạnh mẽ chiến tranh. Trước khi Saigon thất thủ, Philip Caputo, một nhà báo Mỹ, người đã từng là một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến tại Việt Nam và đã viết một cuốn sách rất hay về những kinh nghiệm của mình, đã mạnh miệng tự hỏi liệu những gì đang xảy ra có na ná như việc đoàn quân Lê Dương rút ra khỏi vòng ngoài của đế chế La Mã hay không. Mà Mỹ là một hiện thân cuối cùng, có phải sắp kết thúc? Một cái gì đó đã bị hạ bệ và cái khác không phải thuộc về “chúng ta” sẽ điền thế?
                    Phác họa ra 2 hình ảnh song song như thế thì sáo mòn, một thứ tự huyễn lãng mạn có vẻ khó chịu khi ngoái nhìn lại quá khứ. Người Việt, Bắc và Nam, đang trong khoảnh khắc lịch sử đặc biệt của họ, còn chúng tôi thì ngồi vòng ngoài và trưng dẫn Edward Gibbon. (1)
                    (Martin Woollacott)
                    (1) Edward Gibbon là một sử gia người Anh với tác phẩm: The History of the Decline and Fall of the Roman Empire (“Lịch sử suy tàn và sụp đổ của đế chế La Mã”).


                    Ngày thứ 51 : 29-4-1975
                    Sài Gòn di tản

                    Sáng ngày 29-4, Bắc quân pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly vào phi trường Tân Sơn Nhất.
                    Chiều 29-4, toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1.000 người Mỹ và khoảng 6.000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
                    (Phạm Bá Hoa)

                    Những ngày cuối VNCH
                    Ngày 29-4-1975 Bắc quân điều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 để chiếm Bến Sắn, từ đó chọc thủng mặt Đông của tỉnh Bình Dương và mặt Tây của tỉnh Biên Hòa.

                    Lực lượng phòng thủ vòng đai xa của Sài Gòn, có 3 sư đoàn: Sư đoàn 18BB do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, trấn giữ phía bắc Biên Hoà và Sài Gòn. Sư đoàn 25BB do Tướng Lý Tòng Bá chỉ huy, tại phòng tuyến, Hậu Nghĩa, Long An. Sư đoàn 5BB do Tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách phòng tuyến Bình Dương. Quanh vòng đai Sài Gòn, chiến trận khốc liệt đã diễn ra tại Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Tại Long An, các đơn vị Sư đoàn 22 BB đã giao chiến quyết liệt với hai trung đoàn Bắc quân muốn chọc thủng phòng tuyến thị xã Tân An.
                    (Vương Hồng Anh)

                    – : 29-4, 10 giờ sáng, Quân đoàn III báo cáo Bộ Tham mưu Tiểu khu Hậu Nghĩa thất thủ.

                    10 ngày cuối cùng của VNCH
                    Thứ Ba 29-04-1975

                    11 giờ 30 phút trưa ngày 29-4-1975, ông Vũ Văn Mẫu chính thức nhận chức Thủ Tướng. Ngay sau đó ông lên đài phát thanh tuyên bố, yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ…5 giờ sáng ngày 29-4-1975.

                    Sáng ngày 29-4, trong khi bản thông cáo của Chính phủ Dương Văn Minh đòi người Mỹ phải triệt thoái nhân viên của DAO được Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc đi đọc lại nhiều lần trên đài phát thanh thì trên đài Phát thanh của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam được gọi tắt là AFRS, vào buổi trưa một ngày cuối tháng 4 nóng bức, người xướng ngôn viên đọc đi đọc lại nhiều lần lời nhắn: “Mother wants you to call home” (Mẹ muốn con gọi về nhà) và người dân Sài Gòn được nghe bản nhạc I’m Dreaming of a White Christmas (Tôi mơ một Giáng Sinh đầy tuyết trắng) phát đi phát lại liên tục trong ngày hôm đó.

                    Lời nhắn và bản nhạc này là mật hiệu báo cho tất cả mọi người Mỹ và các phóng viên ngoại quốc tại Sài Gòn biết rằng Chiến dịch Frequent Operation IV đã khởi đầu và tất cả mọi người phải đến những điểm hẹn đã ấn định sẵn từ trước để được di tản ra khỏi Việt Nam.
                    (Trần Đông Phong)

                    Những ngày cuối VNCH
                    Tại phòng tuyến Củ Chi cách Sài Gòn 60 km, Bắc quân tung 1 sư đoàn chính quy có 1 trung đoàn chiến xa yểm trợ tấn công ồ ạt vào các vị trí của quân trú phòng thuộc Sư đoàn 25BB. Từ hầm chỉ huy, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trực tiếp điều động các tuyến chống trả các đợt xung phong biển người của địch quân.

                    Đêm 29-4, bộ Tư Lệnh Sư đoàn 25 phải bỏ phòng tuyến Củ Chi rút về Hóc Môn. Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, và một thượng sĩ cận vệ đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Bắc quân. Cuối cùng vị Tư lệnh Sư đoàn 25 bị lọt vào tay địch (1) khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
                    (1) Người bắt Tướng Lý Tòng Bá là tướng Hoàng Minh Thảo, tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột. Tướng Thảo là người mang Sư đoàn 316 bí mật xuất phát từ Nghệ An vào Vùng 2 Chiến Thuật để tăng cường cho Quân đoàn 3 đánh Ban Mê Thuột. (…)

                    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn
                    Anh đi chiến dịch Ban Mê Thuột xong vài bữa rồi về với em

                    Quân sử ngoại truyện
                    – Tấm hình quen thuộc chụp hàng người leo thang lên chiếc trực thăng mà theo nguồn ở ngoài nước ghi chú là ở…trường đua Phú Thọ.
                    – Sách Đại thắng mùa Xuân 1975 trang 153 in ảnh chú thích:

                    Cuộc tháo chạy trên nóc tòa đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn.
                    – Theo Don Southerland, ảnh được chính ông chụp vào buổi chiều ngày 29-4 tại một trạm CIA ở sô 22 đường Gia Long. Đài RFA phỏng vấn nhà báo Mỹ Don Southerland trong đó ông lý giải chuyện Phạm Xuân Ẩn cứu bác si Trần Kim Tuyến. Dan Southerland là người chứng kiến phút giây đó:

                    Đêm 29-4 trước khi các trực thăng chuẩn bị rời Việt Nam, tôi đang liên lạc với các trụ sở truyền thông nước ngoài thì Ẩn nói có một vấn đề hệ trọng là cần tìm cách cho bác sỹ Tuyến ra đi. Tôi sau khi liên lạc với một giới chức cao cấp của tòa đại sứ Mỹ và được bảo là hãy nói cho ông Tuyến hay rằng có thể đến 22 Gia Long để được bốc đi khỏi Sài Gòn.

                    Những ngày cuối VNCH
                    Tại tuyến phòng thủ Trảng Bom do một đơn vị thuộc Sư đoàn 18BB phụ trách, vào 7 giờ 30 sáng ngày 29-4, nhiều vị trí bị Bắc quân chọc thủng và đến 10 giờ phòng tuyến này hoàn toàn bị tràn ngập. Một số đơn vị của Sư đoàn 18BB rút về phía Nam căn cứ Long Bình.

                    Lữ đoàn 257 Thủy Quân Lục Chiến án ngữ mặt Bắc Long Bình cũng bị tấn công. 11 giờ sáng Bắc quân tấn công vào phòng tuyến Nam Long Bình, Sư đoàn 18BB đã đẩy lùi được nhiều đợt xung phong của các trung đoàn Bắc quân. (…)

                    (Nhà số 28 đường Gia Long là 1 trong 13 bãi đáp tại nhiều nơi ở Sài Gòn-Chợ Lớn).
                    Theo Bob Caron, một trong hai phi công cho biết trong số 12 người trong trực thăng có 3 người đi đầu bước lên trực thăng là người Việt Nam: Trung tướng Trần Văn Đôn (1), Bác sĩ Trần Kim Tuyến (2) và Bác sĩ Quân y Huỳnh Minh Tòng.

                    Vào năm 1992 khi tôi bắt đầu viết cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời, tôi đã phỏng vấn ông về ngày 30-4 ở Sài Gòn vì sao ông lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta là người đứng đầu bảng danh sách số người mà Mỹ phải đưa đi?

                    Phạm Xuân Ẩn tả lại: Người cháu ông Tuyến, một viên Thiếu tá, chở ông Tuyến đến nhà tôi bằng xe Honda. Ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo (Hubert van Es). Nhờ thế ông biết còn chuyến di tản cuối cùng của CIA tại ngôi nhà số 28 của CIA ở đường Gia Long.

                    Khi xe Renault của ông tới nơi, cánh cửa tòa nhà đã đóng lại. “Đề nghị cho gọi ông Polgar” (3). Ẩn yêu cầu được gặp người sếp của ông. Nếu gặp được Polgar chắc chắn ông ta biết được chuyện của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Vừa may lúc người lính gác mua đồ ăn về, cánh cửa hé ra. Thế là ông Ẩn một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy thật mạnh bạn mình vào lọt.

                    Sự thể diễn ra đúng như báo chí đã nói rồi. Chi tiết này sau tôi biết thêm được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình minh chứng phút cuối cùng đó của phóng viên hãng UPI Hubert van Es được sử dụng 20 năm, gần đây tác giả mới lấy bản quyền.
                    (Nguyễn Thị Ngọc Hải)

                    (1) Ông Trần Văn Đôn không sao đi được mấy chuyến trước. May nhờ cô bí thư của Polgar tên Hà Hiếu Lang nhường chỗ cho gông Đôn.

                    (2) Tối 1-4, Bác sỹ Trương Khuê Quang, Giám đốc Trường Quốc gia Nghĩa tử, người trung gian của ông Tuyến đưa ông Tuyến đến gặp Thượng tọa Thích Trí Quang. Đêm mùng 3 rạng mùng 4, ông Thiệu bắt nhốt hết những phần tử “âm mưu đảo chính”, trong đó có ông Tuyến… Ông Tuyến nghĩ rằng Thiệu bỏ chạy sớm, những người thân cận ông Thiệu sẽ thả ông ra. Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi, ngày 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí CIA phải đưa mình đi.

                    (3) Thomas Polgar, Chỉ huy Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cuối cùng còn ở Sài Gòn trong những ngày cuối của chiến tranh Việt Nam năm 1975. Polgar đã chỉ huy việc đưa công dân Mỹ và nhân sự của chính quyền VNCH lên máy bay để đi Mỹ. Chỉ ít phút trước khi Polgar hủy chiếc máy điện tín mà CIA sử dụng để liên lạc với Washington, trước khi lên trực thăng rời Sài Gòn, Polgar dừng lại một chút để làm nhiệm vụ cuối, đánh bức điện với nội dung:


                    Đây là thông điệp cuối cùng từ văn phòng Sài Gòn.

                    – : Ngày 30-4-1975, từ nóc sân tòa đại sứ Hoa Kỳ:
                    Lúc 4 giờ sáng, Đại sứ Graham Martin rời Sài gòn sau khi đã di tản 1.373 nhân viên Hoa Kỳ, 5.595 người Việt Nam và 815 người các nước khác ra hạm đội đậu ngoài khơi.

                    – : Có giả thuyết cho rằng sở dĩ ông Đại sứ G. Martin nhiệt tâm trong vấn đề di tản này vì ông có một người con trai là binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã tử trận tại Khe Sanh vào năm 1968 trong cuộc đụng độ với quân Bắc Việt. (The Fall Of Sai Gon – Komori Yoshihisa)

                    Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
                    Sáng 29-4-1975 tôi nhìn về hướng căn cứ Long Bình, có vài cột khói đen bốc lên. Tôi lấy cái PRC25 rà những tần số quen. Tôi bắt được giọng nói của Đại Tá Hiếu, Sư đoàn 18BB đang lún càng tại Trảng Bom! Đại Tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 căn cứ Long Bình.

                    Muốn về Long Bình tôi phải tạt qua ngã Hố Nai. Pháo hai bên đều tập trung trên vùng này.Vậy là, đội pháo ta đi! Chúng tôi đi như những cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn nổ chụp trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế mà đi, hướng Long Bình, Tôi vào tới vòng rào căn cứ Long Bình vào lúc buổi chiều. Tôi là dân vùng 2 không biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm cái cổng số 10 thì biết nó ở đâu? Tôi thấy một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ huy Liên đoàn 32 Biệt động Quân bỏ trống, vậy là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi ngủ như chết.

                    Đến ba giờ sáng 30-4-1975, truyền tin dựng tôi dậy…
                    – Có tin từ liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút về Sài-Gòn!
                    Tôi uể oải ngồi dậy,
                    – Mẹ kiếp! Về Sài Gòn! Về Sài Gòn làm cái con mẹ gì đây!

                    Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng Sài Gòn. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn chuẩn bị lên đường.Cầu xa lộ đã bị xe tank chận đường, chúng tôi rẽ vào thành phố Biên Hòa. Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho đơn vị đi dọc theo đường xe lửa, ngang qua những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn mặt buôn phấn bán hương thò ra, ánh đèn vàng hiu hắt..... Chúng tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang, tôi cho đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ trống bên đường. Từng đoàn quân xa, chiến xa có biệt động quân và lính dù tùng thiết đi qua mặt chúng tôi, hướng về Sài Gòn.

                    Tôi cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn cách Thủ Đức chừng vài cây số, người lính có radio loan tin Tổng thống Dương Văn Minh đang kêu gọi đầu hàng!
                    (Vương Mộng Long)

                    Gia Kiệm - Hố Nai
                    Xe tăng lính bộ đôi ông Hồ từ Long Khánh qua Gia Kiệm, Hố Nai định ra xa lộ Biên Hòa đã bị chặn đánh tại Tam Hiệp trước khi có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. “Chiến lũy Tam Hiệp”, phải coi như thế, bởi những người Bắc di cư đã chạy một lần rồi, bây giờ họ không còn nơi nào để chạy nữa, bởi một số lính nhẩy dù mà đơn vị đã tan hàng từ đêm 29-4 và họ cũng chạy lạc về đây. Họ phối hợp cùng nhân dân tự vệ và dân chúng Tam Hiệp, dùng máy cầy ủi đất đắp mô ụ nghênh địch vì tất cả đang ở cuối đường.

                    Mẩu chuyện này, được xem những thước phim của đài truyền hình Pháp ghi lại..
                    Trận chiến thật ngắn ngủi nhưng rất anh dũng. Đài Truyền hình Pháp công bình ghi nhận rằng, chỉ còn quân dân miền Nam chiến đấu với lính bộ đôi ông Hồ từ Bắc kéo vào. Xe tăng chúng phải dừng lại. Chúng bắn thẳng vào chiến lũy. Đạn T54 khạc tới tấp, khạc không thương xót.

                    Quân dân ta chống trả kịch liệt. Những em nhỏ cỡ 10 tuổi bám sát các anh lính Dù để được sai bảo. Một em trúng đạn. Hai anh lính dìu em vào chỗ an toàn, băng bó cho em. Em bé khóc. Khuôn mặt hai anh lính ưu tư. Một hình ảnh đẹp nhất, nhân bản nhất của người lính Quốc Gia. Cuộc chiến vẫn tiếp tục. Những người lính Dù phóng lên phía trước. Đạn thù bắn như mưa. Lính Dù của ta gục ngã trên những vũng máu. Trận chiến kết thúc mau lẹ. Họ chết hết.

                    Xe tăng chúng nghiến lên xác lính của ta, san bằng mô ụ. Chúng ngạo nghễ bò ra xa lộ và tiến vào Sài Gòn. Bất ngờ, đến cây cầu nhỏ gần nhà máy xi măng Hà Tiên, xe tăng bị lính Chi khu Thủ Đức chặn đánh. Súng phóng lựu bắn cháy một T54. Chiến trận cũng không thể kéo dài. Bộ đôi ông Hồ làm chủ tình hình và kết thúc lẹ. Chúng khẩn trương chạy vào thành phố.

                    Những người lính Nhẩy Dù và Chi khu Thủ Đức đã hy sinh vào buổi sáng 30-4. Họ không cần ai mạc mặt, gọi hồn cả…(Duyên Anh)

                    Những ngày cuối VNCH
                    Trong khi căn cứ Long Bình đã bị pháo kích liên tục. Tại căn cứ kho đạn Thành Tuy Hạ, nhiều vựa chứa đạn trong kho đã bị pháo kích và vòng đai phòng thủ kho đạn đã bị khoảng 2 tiểu đoàn Bắc (1) quân bao vây. (…)
                    (1) Sư đoàn 304 thuộc Quân đoàn 2 từ Vùng 1 Chiến Thuật (VNCH) kéo về đánh Long Bình.

                    Cầu Đồng Nai Xa lộ Biên Hòa
                    Những người lính thủy được giao cho sứ mạng đánh sập cầu Đồng Nai trên xa lộ Biên Hòa để ngăn chặn xe tăng lính bộ đội ông Hồ tiến vào Sài Gòn. Những người lính thủy đã hoàn tất nhiệm vụ lúc 9 giờ ngày 30-4-1975. Cả tấn TNT gài kín gầm cầu, bọc kín chân cầu. Xe tăng bộ đội ông Hồ từ Long Khánh bò vào, đã bị quân dân Tam Hiệp đón đánh. Trận chiến hào hùng và lãng mạn này kết thúc mau lẹ nhưng đã làm chậm bước tiến của địch. Xa lộ lúc ấy, hai bên cầu Đồng Nai, nườm nượp dân chúng chạy giặc và đông đầy binh sĩ tan hàng. Dân chúng Sài Gòn chạy xuôi. Dân chúng Biên Hòa chạy ngược. Cầu Đồng Nai nghẹt người và xe cộ. Cùng với ông già, bà lão, phụ nữ, nhi đồng. Những anh lính thủy giữ trọng trách đánh sập cầu còn nhìn rõ xe tăng bộ đội miền Bắc. Sức công phá của TNT gài dưới cầu sẽ làm tung bay cốt sắt xi-măng, phạm vi cả mấy trăm thước. Nếu thế dân sẽ bị chết, bị thương vô kể.

                    Những người lính thủy quay giang đỉnh về lại căn cứ. Cầu Đồng Nai không bị đánh sập. Nếu là Mỹ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Nếu là bộ đội ông Hồ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng với người lính miền Nam, cây cầu không bị đánh sập. Hình như ít ai biết chuyện này. Chúng ta thua trận, còn vì tình thương và lòng nhân đạo nữa.
                    (Duyên Anh)

                    Lạc đạn
                    4 giờ sáng ngày 29-4, Bắc quân pháo kích nhiều trái đạn đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly vào khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt. Cuộc pháo kích này đã gây tử thương 2 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Hạ sĩ Darwin Judge và Hạ sĩ Charles McMahon, vừa mới được đưa đến Sài Gòn cách đó 10 ngày để phụ trách về an ninh cho chiến dịch di tản. Hai binh sĩ này là 2 người Mỹ cuối cùng bị thiệt mạng trong lịch sử Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

                    Một điều đáng chú ý là dường như “McMahon” là một cái tên định mệnh:
                    Người Mỹ đầu tiên bị chết tại Việt Nam là Trung tá Peter Dewey, nhân viên của cơ quan tình báo OSS, ông ta đã nhiều lần lên tiếng phản đối người Pháp và tiếp xúc trực tiếp với các đại diện của Việt Minh, do đó đã bị người Pháp yêu cầu phải rời khỏi Sài Gòn. Vào ngày 26-9-1945, Trung tá Dewey phải trở về Ấn Độ, tuy nhiên vì máy bay bị trục trặc, ông từ phi trường Tân Sơn Nhất lái xe trở về Sài Gòn ăn trưa và đã bị tự vệ của Việt Minh tưởng lầm là người Pháp cho nên bắn chết tại cầu McMahon, (sau này là cầu “Mạc-má-Hồng” hay câu Công Lý).

                    Đúng 30 năm sau, người Mỹ cuối cùng bị chết tại phi trường Tân Sơn Nhất vì pháo kích của Bắc Việt vào sáng ngày 29-4-1975 là một hạ sĩ quan Mỹ cũng mang tên là…McMahon.
                    (Trần Đông Phong)

                    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (1)
                    Mặc áo lính ăn cơm chính phủ, không giữ được bờ cõi, phải bỏ nước mà chạy thì thật chẳng có gì hay ho để kể lại, cho nên, đã nhiều lần, tôi tính viết lại chuyện bỏ chạy của tôi, nhưng nghĩ lại, đành bỏ luôn. Bây giờ, tuổi đã gần 60, tôi đành viết lại một lần cho…bõ ghét.

                    Trước đó một tháng, Phi đoàn 114 tôi từ Nha Trang được lệnh bỏ thành phố bay về Phan Rang. Thành thật mà nói, Thành phố Nha Trang lúc ấy chưa hề có một thằng nón cối dép râu, chưa hề bị một trái pháo của giặc. Nhưng kinh nghiệm những ngày máu lửa vừa qua cho tôi biết là cái thành phố thân yêu của mình đang giẫy chết. Chết như thế nào thì tôi không biết, vấn đề chỉ còn là thời gian. Lúc ấy, dân quân di tản từ Tuy Hòa, Quy Nhơn, Pleiku đã tràn ngập thành phố. Lính không còn cấp chỉ huy, lại có súng ống trong người cho nên Nha Trang chẳng bao lâu biến thành một thành phố vô trật tự, coi như bỏ ngỏ và gần như hỗn loạn. Hàng quán đóng cửa, trường học biến thành chỗ tạm trú cho dân tị nạn, dân chúng ít có ai dám ra đường.

                    Quân Cảnh ngày thường thì đầy dẫy khắp nơi, nhưng những lúc ấy không hiểu bận chuyện gì lại thấy mất biệt (chuyện này dễ hiểu). Ngay cả anh em lính tráng chúng tôi đi đâu cũng phải đi thành nhóm để đề phòng bất trắc…

                    Một vài ngày sau, một sáng cuối tháng 3, chúng tôi vừa vào phi trường thì không trở ra được nữa. Một đơn vị Biệt động Quân (không rõ số quân) từ Vùng 2 rút về đòi vào phi trường Nha Trang nhưng bị ngăn lại bên ngoài cổng. Thế là hai bên gườm nhau. 8 giờ sáng, chúng tôi được lệnh quyền Phi đoàn Trưởng là Thiếu Tá Oanh cho cất cánh đem tàu về Phan Rang.

                    Chúng tôi vừa taxi ra phi đạo thì trực thăng cũng cất cánh ào ào. Lên trời, không hiểu sao tôi có cảm giác đây là lần cuối cùng mình còn thấy thành phố Nha Trang thân yêu, nên tôi bay thấp, lượn nhiều vòng trên thành phố…Ở dưới, thiên hạ hốt hoảng chạy tới chạy lui trong thành phố bằng đủ thứ phương tiện, từ xe gắn máy đến xe Lambretta, đến xe nhà binh lớn nhỏ đủ cỡ. Tôi không biết thiên hạ chạy đi đâu và để làm gì nhưng tôi thông cảm. Nếu tôi là họ, tôi cũng chỉ biết làm như thế thôi.

                    Trưa đó, chúng tôi đáp Phan Rang, ai nấy lo để chuẩn bị tử thủ căn cứ này. Nhưng không hiểu sao, Sư đoàn 2 Không Quân lại được lệnh di tản, đem tàu về Sài Gòn, Sư đoàn 6 Không Quân sẽ chịu trách nhiệm phòng thủ căn cứ. (Trường Sơn Lê Xuân Nhị)

                    Tôi…đào ngũ (1)
                    Hùng mỗi ngày hỏi tôi mấy bận: Chừng nào mình tái chiếm lại Nha Trang? mà tôi đâu phải là Ban 3 Bộ tổng tham mưu. Mỗi sáng Hùng lên Tân Sơn Nhất trình diện, mặc xi-vin ra đường ôm theo cái túi đựng quân phục, vào đến căn cứ an toàn rồi mới chịu thay vào. Những ngày chót ở Nha Trang, lính không quân ưa bị lính các đơn vị khác gây. Tôi đeo ba lô chạy bộ còn Hùng không những chạy lén trước mà còn gầm thét ồn ào mấy trăm cây số giờ ở phía trên đầu. Tôi nói: Ở Sài Gòn, máy bay lên chưa có ai bắn với theo đâu. Hùng nói: Thì cũng phải. Tụi nó ác thật, đi không chở người, tôi thấy nguyên một tàu tụi nó chở toàn những gì đâu! Cái đêm Hùng vào trại ngủ, đã định ôm theo đứa con trai nhỏ nhưng sợ cô vợ mè nheo bèn vào có một mình. Sáng ra, đơn vị chạy, Hùng lên tàu theo, nhặt được một khẩu P38 si kền nhưng bỏ lại cả vợ lẫn con. Được mấy bữa, đài vẫn nói Nha Trang Việt cộng chưa vào đến, đang còn bỏ ngỏ, Hùng ngẩn ngơ đòi tình nguyện,…trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu để trở về.

                    ***

                    Về đến Sài Gòn, ông dượng trao cho tôi một cái radio và nhiệm vụ phải nghe đài tiếng Anh của quân lực Mỹ 16/24. Khi nào đài phát Bing Crosby hát bài I’m dreaming of a white Christmas, sau đó có dự báo thời tiết, câu: “Nhiệt độ Sài Gòn đang 105 Fahrenheit và vẫn còn tiếp tục gia tăng” thì phải gọi cả nhà. Tôi bị ông dượng tôi làm khó, đã không đi đâu xa được mà còn lúc nào cũng phải ôm một cái đài. Sài Gòn vào tháng 4 thì lúc nào nhiệt độ cũng quanh quẩn 100 Fahrenheit, không 104 thì 106 cho nên lại cũng phiền. Ngồi quán nước thì nhạc ầm ĩ, ra xe hủ tíu thì xe cộ lại ồn ào. Nhưng trong khi chờ đợi chiến dịch Frequent Wind mở màn để di tản những người có sẵn trên danh sách Mỹ thì vỡ tuyến Phan Rang, tướng Nghi bị bắt sống.

                    Tôi mới nói với bố: Con có đường ra nước ngoài. Trúng ngay ý. Ông bảo bố đã lo rồi, đợi có chuyến chở người Hoa trốn lính (!) từ Vũng Tàu ra biển gặp tàu lớn chở thẳng đến Hồng Kông.
                    Thì tôi cũng đang…đào ngũ hay trốn lính đây. (Đỗ Kh)

                    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (2)
                    Về Sài-Gòn, sáng chúng tôi vào trình diện rồi nhận tờ giấy phép 24 tiếng về nhà, hôm sau lại trở lại, bổn cũ soạn tiếp…Cứ như bình thường thì đây là một dịp cho tôi được ăn nhậu thả dàn nhưng hoàn cảnh đất nước lúc ấy, tôi chẳng còn lòng dạ nào. Hàng ngày đi vào phi trường, thấy người di tản ở đầy khắp mọi nơi, phi trường, toà đại sứ v…v… Gặp nhau ai cũng nói đến chuyện đi Mỹ, chẳng ai nói đến chuyện gì khác.

                    Một buổi trưa, sau khi đi trình diện ở phi trường Tân Sơn Nhất, vừa về đến nhà thì tôi nghe nhiều tiếng nổ to lớn lạ thường và rất gần, đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đang ở trọ một người quen ở Gia Định, cũng gần phi trường Tân Sơn Nhất nên hoảng hốt leo lên sân thượng quan sát. Lúc ấy tôi cũng chưa biết việc tụi nón cối dép râu lái A37 của ta tấn công dinh Độc Lập nên thấy mấy chiếc A37 bay thấp gần đó, tôi nghĩ là phi cơ ta lên tìm pháo. Lại nghe tiếng đại liên phòng không bắn khắp nơi, tôi hốt hoảng đưa mắt tìm. Nhìn về phía bến Bạch Đằng, tôi giật mình kinh hãi khi nhận ra đại liên phòng không tứ hướng bến Bạch Đằng đang bắn lên cả máy bay C130 Mỹ đang chở người di tản. May mà chiếc máy bay không hề hấn gì nhưng tôi biết anh phi công chắc phải teo chim cả tháng sau mới trở lại bình thường được.

                    Mò chiếc Honda, xe bị xì lốp. Phóng ra ngoài đường, nhìn thấy thiên hạ ào ạt chạy lên chạy xuống càng làm tôi rối ren thêm. Tôi cảm thấy yên tâm khi còn nhìn thấy hình bóng lính mình và cảnh sát ở nhiều chỗ. Mẹ, như thế là tốt rồi, nón cối dép râu có thể về bến Bạch Đằng nhưng ở đây còn yên. Tôi đứng ở một góc đường và bắt đầu thò tay đón xe Lam và gặp ngay được, nhưng một điều ngạc nhiên khác mà tôi không hề nghĩ tới. Không hiểu vì một lý do… kỳ thị nào đó, tất cả những chiếc xe Lam chạy qua đều làm ngơ, không chịu dừng lại để đón tôi. Có thể họ sợ bộ đồ lính tôi đang mặc, cũng có thể vì giờ phút ấy không còn ai muốn đón khách nữa.

                    Tôi đứng chưng hửng chừng một phút đồng hồ rồi quyết định rằng, bằng mọi giá, tôi phải vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi muốn đón xe để đi nhưng không ai chịu ngừng thì tôi đành phải… cướp xe vậy. Thành thật mà nói, từ thuở sinh ra và lớn lên, tôi chưa hề làm một việc phạm pháp, chưa hề ăn cướp ăn giật của ai một đồng bạc, nhưng trong hoàn cảnh này, tôi không còn một sự lựa chọn nào khác hơn. Tôi sẽ làm bất cứ chuyện gì để thoát khỏi Sài Gòn. Quyết định đến với tôi thật dễ dàng, dễ dàng như hút thuốc ăn cơm. (…)

                    Tôi…đào ngũ (2)
                    Ông cậu, trước giờ trong họ nổi tiếng là sát cộng, công tác với tình báo Mỹ trong chương trình Phượng Hoàng, gọi tôi ra một chỗ và trao thêm cho một trọng trách khác. Ông đưa tôi khẩu súng ngắn, bảo: Khi mình đã lên tàu rồi, thì chỉ có đi, không đi là bắn. Lần này là tàu biển, đang đổ dầu ở cảng Sài Gòn. Tôi cũng “OK” (sau mấy ngày liền phải nghe đài Mỹ 16/24) tuy không biết là phải bắn ai. Khẩu súng này lại bảnh, của Tây Đức, là loại tôi chưa từng thấy, hàng hiếm CIA 9mm chứ không phải hàng thông dụng của Cảnh sát Smith &Wesson38, quân đội Colt45. Tôi mang về phòng tháo gỡ ra và lau chùi, cây súng lạ như đã nói nên đỏ cả mặt mãi tôi mới ráp lại được, may mà không có ai chứng kiến. Giờ thì tôi đã có đài, lại có súng.

                    Ông cậu đi ngã DAO bằng máy bay chẳng ai hay và chẳng phải ra lệnh ra hiệu cho tôi bắn ai hết. Bố con tôi sang nhà một người bạn ông ở Đa Kao. Bố tôi thì thận trọng, nhà của ông bạn này chính là điểm hẹn của chương trình di tản và có đường dây điện thoại riêng đến thẳng sứ quán, ở ngay đó thì khỏi phải đi đâu và không sợ bị mất liên lạc với… Hoa Kỳ.

                    Giới nghiêm được ban hành vào 8 giờ tối. Sài Gòn khoá cửa lại, lính tan hàng không còn vào được. Tôi ăn cơm xong thì súng nổ đì đoẹt cạnh ngay nhà. Tôi leo lên sân thượng xem, có người cháu của gia chủ vội vã vác cây Garand lên nạp đạn. Anh này sinh viên Võ Bị, mấy hôm trước về cùng với quân trường từ Đà Lạt, còn mang theo cả khẩu súng. Giờ anh ở phía bên trong “tuyến”, còn ngoài kia họ đang bắn với Quân Cảnh đang gác chốt, họ là những người đi lạc, không còn đơn vị và chạy hụt hơi về Sài Gòn lại bị ngăn. Tôi đứng ở tầng 4, xem màn ciné dưới đường này thích thú, bắn qua bắn lại chẳng biết phải trái phía bên nào.

                    Tôi chịu khó dậy sớm, đang ăn sáng ở quán trước nhà và mơ màng Photomic chứ không phải
                    mơ màng nhà thổ thì Khang xuống tới.
                    – Ông già mới gọi điện thoại về. Mình đi.

                    Tôi nhìn cái đài vẫn còn chịu khó mang theo và đặt ở trên bàn. Chẳng lẽ tôi lỡ mất dịp chính tai tôi được nghe bài hát và câu mật hiệu.
                    – Không phải đi với Mỹ mà mình đi đường khác. Bố nói bố về đến là đi. (…)

                    Những chuyến “bay đen” (black airlift)
                    Ngày 16-4, Đại sứ Graham Martin ra lệnh cho một nhân viên thân tín của mình là John Hogan bí mật dàn xếp với CBS những chuyến “bay đen” (black airlift) bằng máy bay của Air America, trong mấy ngày kế tiếp để di tản những phóng viên ngoại quốc trong trường hợp khẩn cấp.
                    (Đinh Từ Thức)

                    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (3)
                    Thế là tôi mở quai đeo súng, thò tay nắm chặt cán cây P38. Một chiếc xe Lam khác chạy tới, tôi bất ngờ phóng ra chận trước đầu chiếc xe, tay kia rút súng chỉa thẳng vào mặt người tài xế. Cha tài xế xe Lam hốt hoảng thắng gấp chiếc xe. Tôi vòng sang phía bên hông, phóng lên ngồi bên cạnh tài xế. Tôi chỉa họng cây súng P.38 còn mới toanh vào mặt người tài xế, gằn giọng :
                    – Ông chở tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất, giá bao nhiêu tôi cũng trả. Ông không chở, tôi bắn chết ông liền tại chỗ rồi lấy xe này đi vào…

                    Cha tài xế bị một vố bất ngờ, miệng ú ớ không nói lên lời, tay run cầm cập, không có được một phản ứng. Cho rằng thằng này muốn làm khó, tôi gõ mũi cây súng vào thái dương thằng chả nghe đến đốp một phát, đổi liền cách xưng hô:
                    – Đm mày không chở tao nổ một phát mày chết liền tại chỗ rồi lấy xe mày đi cũng vậy thôi.

                    Tôi nói thế và tôi sẽ làm thật, và làm mà không hề do dự. Trong hoàn cảnh tôi lúc ấy, tôi không có thì giờ để đi hù dọa ai cả. Lần này thì cha tài xế gật đầu lia lịa, rồ ga sang số. Tay thằng chả run quá làm chiếc xe Lam nhào lên ụp xuống, xém ủi cả vào lề. Tôi ngồi xích ra ngoài một chút, một tay giữ vững thành xe, tay kia vẫn hườm hườm cây súng, để ngay trên vai cha tài xế…

                    Chạy được một lúc, tôi ôn tồn cắt nghĩa cho cha hiểu tại sao tôi phải có những hành động như thế. Chả cũng nói chuyện với tôi và lần lần, 2 người trở nên thông cảm. Tôi xin lỗi cha tài xế và bảo tôi sẽ “bồi thường” cho chả 2 ngàn đồng. Cha tài xế chở tôi vào ngay trước phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đưa tiền, vỗ vai chả cười cười… Khi tôi tới phi trường thì mọi nơi trở lại yên tĩnh. Lúc ấy tôi mới được biết là chẳng có nón cối dép râu nào chiếm thành phố cả và những tiếng nổ vừa rồi là kết quả của một cuộc dội bom của tụi nó dùng A37 của mình. Vào trong phi trường, tôi đi lang thang, ngồi nhậu vớ vẩn… (…)

                    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến ở quán nhậu
                    Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
                    Bastos : Bộ anh sợ tôi ói sao.

                    (…) với đám bạn bè trong câu lạc bộ chừng vài tiếng đồng hồ thì pháo lại ào ào rớt xuống phi trường. Lần này cường độ nghe kinh khiếp hơn cả những lần trước. Kinh nghiệm cho tôi biết tối nay Tân Sơn Nhất sẽ ăn pháo nặng. Thế là tôi lại dọt về nhà. Việc đầu tiên tôi làm là giắt cái xe Honda đi vá vì để lâu nên bị xẹp lốp. Tối hôm đó, quả đúng như tôi nghĩ, phi trường bị ăn pháo nặng. Tôi ngồi trên sân thượng nhà mình nhìn từng quả đạn bay về phi trường mà lòng đau như cắt. Đó là buổi tối cuối cùng của tôi nơi thành phố thân yêu. (…)

                    Tôi…đào ngũ (3)
                    Sứ quán Đại Hàn đã có vài ba trăm người đợi sẵn, dân sự và đàn bà con nít cả Hàn lẫn Việt. Bố tôi dẫn anh em tôi vào bàn giấy ông Đại sứ, ông khép cửa lại, chính tay ông lấy ảnh dán vào giấy thông hành của sứ quán, tự tay đóng mộc và ký tên. Tôi thấy ông liều thật, làm giấy không phải giả nhưng mà bất hợp pháp tuy ông chỉ mới biết bố tôi qua loa, sau mới có vài tháng nhậm chức. Ông gia ân này vì sự gửi gấm của ông Đại sứ tiền nhiệm, một vị mà bố tôi đã có giao du khá thân tình. Hạm đội Đại Hàn đang có mặt ở Tân Cảng, mang muối gạo viện trợ gì sang và di tản Hàn kiều về nước, anh em tôi cầm giấy trên tay là giả thuộc dạng này. Nhưng trước tiên, họ phải chở dân từ miền Trung ty nạn đến Phú Quốc định cư và bố tôi quyết định: Chưa rõ ra sao, cứ lên tàu trước đã, đến Phú Quốc hãy hay.

                    Đoàn năm bảy cái xe buýt Mỹ được toà Đại sứ Đại Hàn mượn. Đây là cổng vào Tân Cảng, cửa xe buýt mở, một anh quân cảnh trang phục tề chỉnh leo vào. Bằng ấy người trên xe đứng ngồi, anh nhìn ngay vào tôi mà hỏi giấy. Tôi đẫn người ra không có phản ứng. Tưởng là xe sứ quán bảng quân đội Mỹ đã an toàn, tôi còn đang ú ớ chưa ra một chữ tiếng Anh thì ông nhân viên sứ quán đi kèm đã nhanh trí…ngoại giao. Ông lôi từ đâu ra một nắm tiền, giấy 500 Trần Hưng Đạo dúi vào tay anh quân cảnh. Anh này một tay còn cầm súng, một tay không đủ để cầm tiền, cả tập rơi ra sàn vương vãi, anh lom khom nhặt nhét vào túi trên, túi dưới, túi quần ngang. Cả đời anh có lẽ chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, nghệch cả mặt mày. Anh lùi ra khỏi cửa phất súng ra hiệu với các bạn gác ở bên dưới.

                    Đoàn xe vào cảng có tiền mở đường máu qua khỏi trạm 2, trạm 3, đỗ trước bến, anh quân cảnh còn đứng đó nhìn trước nhìn sau bảo vệ cho mọi người xuống. Ở cầu tàu, cặp sẵn chiếc Dương vận Hạm, cả một trung đội Thuỷ Quân Lục Chiến Triều Tiên chắn hàng ngang. Mấy anh này dang chân đứng tấn, súng gác trên hông, mắt nhìn thẳng, dây quai nón sắt ở dưới cầm như là duyệt binh lên truyền hình vào ngày Quốc Khánh.
                    Suốt mấy tháng trời…đào ngũ không có giấy tờ hợp pháp, tôi đã len lén đi qua bao nhiêu là trạm kiểm soát ngày đêm. Nay qua trạm gác có Quân Cảnh hướng dẫn nên sướng tê…

                    Kế hoạch di tản
                    Kế hoạch di tản được dự trù: đầu tiên bằng máy bay thương mại, tiếp là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là trực thăng bốc người ra Hạm đội 7. Kế hoạch (Operation Frequent Wind) đầu không thực hiện được. Kế hoạch thứ nhì, chuyên chở bằng phi cơ vận tải quân sự C130, bắt đầu từ ngày 21-4, người di tản được đưa tới tập trung tại trụ sở DAO ở Tân Sơn Nhất, rồi lên máy bay ra đi, cứ nửa tiếng một chuyến. Chỉ có thể hoạt động ban ngày, ban đêm giới nghiêm. Để có sẵn người đi cho những chuyến bay sớm, mỗi tối có khoảng từ 200 đến 600 người dự trù cho hôm sau, ngủ tại các văn phòng ở DAO.

                    Về kế hoạch ba, có mấy tầu vận tải và xà lan đậu sẵn ở bến Tân Cảng, gần cầu xa lộ Sài Gòn - Biên Hoà. Kế hoạch này chỉ thi hành được một nửa. Cho đến 26-4, có hai chiếc chở nhân viên toà đại sứ cùng với thân nhân và những người quen thuộc, ra đi suông sẻ. Phần còn lại không thực hiện được trọn vẹn, vì ngày 29-4, khu Tân Cảng không còn đủ an ninh.

                    Kế hoạch cuối cùng, trực thăng vận, bắt đầu chuẩn bị vào lúc Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức, tối 21-4: Xếp đặt 13 bãi đáp trên nóc nhà tại nhiều nơi ở Sài Gòn-Chợ Lớn.

                    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (4)
                    Sáng hôm sau, tôi thức giấc sớm, phóng Honda vào lại phi trường. Vào trong phi trường thì pháo địch bắt đầu rớt ào ạt, càng lúc càng mãnh liệt. Pháo rớt khắp nơi và quan trọng hơn cả là rớt rất là chính xác. Tôi biết tiền sát viên của giặc nhất định phải nằm đâu đó trong phi trường cho nên chúng nó mới bắn như để như thế. Cứ trong một tình trạng bình thường thì kiếm thằng chó đẻ này không khó, nhưng trong hoàn cảnh này thì tiền sát viên giặc có thể là bất cứ ai, từ anh lính mang cái băng đen với hai chữ “QC” đang đứng gác ngay cổng, cho đến ông thiếu tá không quân đang lái xe jeep chạy vòng vòng trong phi trường.

                    Và thiên hạ bắt đầu tháo chạy. Tôi dùng chữ thiên hạ đây nghĩa là từ lính cho đến quan, từ dân bay cho đến dân không phi hành, chẳng còn ai làm việc nữa mà chỉ lo chạy. Tôi vào phi đoàn, phòng làm việc bỏ ngỏ, không còn một cảnh tượng nào đau lòng hơn. Đi lang thang, tôi tình cờ đụng đầu đại úy Hưởng. Hai anh em gặp nhau mừng quýnh. Chúng tôi bàn nhau một lúc rồi quyết định ra phi đạo tìm một chiếc tàu bay cất cánh. Cất cánh đi đâu thì chưa biết nhưng phải thoát ra khỏi cái phi trường Tân Sơn Nhất này cái đã. Tôi phóng lên chiếc xe Honda rồ máy, Đại úy Hưởng ngồi sau. Tôi phóng Honda chạy giữa những trái pháo rớt, giữa giòng xe cộ, giòng người chạy tới chạy lui khắp nơi. Đang chạy, tôi nhìn thấy một người mặc áo bay, tướng lùn lùn mập mập đang vừa chạy vừa thở, vai ôm một cái túi nhà binh lớn. Tôi tới gần và nhận ra đó là Thiếu Tá Lý Bửng, Trưởng phòng Hành quân của phi đoàn tôi. Thế là tôi rà tới, thắng xe sát bên ông thầy, la lớn:
                    – Thầy chạy đi đâu, lên xe đi với tôi.

                    Nhìn thấy chúng tôi, Thiếu Tá Bửng mừng quýnh người, liền phóng lên xe. Nhưng vì ông thầy phóng quá nhanh làm chiếc xe Honda bị đổ nghiêng sang một bên. Tôi dựng xe lên đạp máy nhưng không sang số được vì cần đạp chân bị quẹo cong. Chuyện nhỏ. Tôi bảo mọi người ngồi yên trên xe rồi bước xuống, móc cây P38 ra, trở ngược, giộng báng súng xuống cái cần để chân. Chuyện này tôi làm hoài mỗi khi đi nhậu bị té xe nên chỉ sau chừng vài cú đập, cái cần để chân lại thẳng xuống như cũ. Tôi lại lên xe, đạp máy, lần này sang số ngon lành. (…)

                    Tôi…đào ngũ (4)
                    Vào lúc 5 giờ, khi đi ngang bến Sài Gòn vào thứ bảy vẫn ngàn hoa trên đường, một người lính trẻ đào ngũ rời xa quê hương. Người lính chiến…đào ngũ ấy là tôi! Lần đi khi nắng lưng đôi, chiều 26 tháng 4, chúng tôi là những người ra đi đầu tiên.

                    Hạm đội Hàn Quốc gồm chiếc LST 810 chở tị nạn miền Trung đi trước, tàu tôi LST 815 cũng là soái hạm đi nhì. Chiếc thứ ba, tàu yểm trợ kỹ thuật, còn đang ở Tân Cảng thì bị pháo. Đạn trúng tàu sơ sài, không chết anh Đại Hàn nào. Dấu hiệu pháo địch đã về đến vòng đai, đã cách mấy giờ tàu, tôi không được chứng kiến, chỉ thấy trên tàu tôi nhốn nháo, đại đội Thuỷ Quân Lục Chiến từ trong khoang chui lên vào vị trí tác chiến, thuỷ thủ đoàn lăm lăm quay Bofor và 12 ly7 hướng bờ. Đêm như mực thì thầm nhưng hành lang ra Vũng Tàu vô sự.

                    2 ngày hôm sau khi Nguyễn Thành Trung dắt A37 vào ném bom Tân Sơn Nhất thì chúng tôi đã bập bềnh ngoài khơi ngang Côn Sơn. Biển lặng lờ nên mọi người ngủ ngay ở trên boong đón gió là ngay đêm đầu tiên căng thẳng trên sông, ông đại đức với bà ni cô vẫn trùm mền thực thi bài tập của bí quyết phòng the bất kể các thí chủ nằm bên. Cặp này đã lớn nhưng nhìn nhau mặn nồng như trai gái dậy thì, bà vãi thì mỗi lần di chuyển hai tay phải ôm đầu chỉ sợ mái tóc giả bị gió cuốn. Có lẽ trên đất liền họ chưa từng có cơ hội gần gũi, lên đến tàu họ là 2 người nếu không được cách mạng giải phóng, thì cũng đã được hoàn cảnh giải phóng.

                    ***

                    Tối ngày 29, vào lúc phần lớn những lời đồn này đã có căn cứ hẳn hòi thì tàu tôi đến Phú Quốc. Tôi ngủ say dậy trễ, nên cái giờ trọng đại của lịch sử tôi chỉ mở được có một mắt. Mọi người lao xao tụ tập quanh mấy cái đài mở to khọt khẹt. “Ông Minh tuyên bố đầu hàng rồi!” .

                    Người ta nhắc nhau, nhắc đi nhắc lại. Tưởng ông tuyên bố tử thủ Sài Gòn, tái chiếm…Quảng Trị, di tản xuống Quân khu 4 lập phòng tuyến mới, dời chính phủ kháng chiến về Phú Quốc… thì mới lạ chứ đầu hàng thì ai cũng đã chờ đợi. Mấy nhà quân sự nghiệp dư ở trên tàu tính kế hộ Tướng Nam, đánh Kampuchia hướng Tây và giữ phà Mỹ Thuận ở miệt Bắc. Tôi chấp hành nghiêm chỉnh quân lệnh cuối cùng của Tổng Tư Lịnh Quân Lực là giữ nguyên vị trí… đang nằm. (…)

                    Những ngày cuối VNCH
                    Tại Vũng Tàu, ngay từ đêm 28-4, bộ chỉ huy hành quân của Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Vũng Tàu (?!), đã phải làm việc tại Duyên đoàn 33 Hải Quân để điều động các cánh quân.

                    4 giờ sáng ngày 29-4, Tướng Hinh được biết Đại Tướng Viên và Chuẩn Tướng Thọ, Trưởng Phòng 3 BTTM, đã ra đi từ chiều ngày 28-4. (Vương Hồng Anh)

                    (?!) Thiếu Tướng Bùi Thế Lân mới là Tư Lệnh Mặt trận Vũng Tàu.

                    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (5)
                    Vào tới khu bãi đậu máy bay của phi đoàn, tôi mới biết là trong thiên hạ không phải chỉ có mình ba người chúng tôi tìm đường đi. Tôi nhìn thấy một lô phi công đang leo lên cánh máy bay để kiểm soát bình xăng những chiếc phi cơ. Dựng xe sang một bên, chúng tôi liền chia ba đi coi cánh tàu bay. Nghĩ rằng tất cả những máy bay tốt và bánh căng đầy đều đã có người kiếm, tôi chỉ chọn những chiếc máy bay cũ, lại có bánh hơi xẹp là những chiếc mà theo tôi là đã bị thiên hạ chê. Quả nhiên, chỉ không lâu, tôi tìm thấy một chiếc L19 với 2 cánh còn đầy xăng. Tôi leo lên vặn cọc bình vào rồi nhấn thử công tác, tạ ơn trời đất, chong chóng quay mấy vòng thật nhanh, đầy hứa hẹn.

                    Đáng lẽ tôi là người lái chiếc đó vì tôi là người tìm ra máy bay, nhưng nể tình thầy trò, tôi nhường tay lái cho Lý Bửng, tôi và anh Hưởng ra ngồi phía sau. Ông Bửng cất cánh tại taxiway. Không hiểu lúng túng lạng quạng thế nào không biết, khi tống ga, tàu bay quay sang một bên, xém tí nữa thì lật mẹ nó con tàu. Nhưng số chúng tôi còn may nên chúng tôi bay lên được. Tôi ngồi sau không đội nón bay nên không biết ông Bửng liên lạc với ai. Sau chừng hơn một tiếng hay hai tiếng đồng hồ gì đó, tôi nhìn thấy hòn đảo Côn Sơn…
                    Lúc ấy là vào khoảng 11 giờ sáng ngày 29-4-1975…

                    Một tháng sau, tôi chính thức đặt chân lên đất Hoa kỳ, trại tị nạn Fort Chaffee, Arkansas.
                    (Trường Sơn Lê Xuân Nhị)

                    Trường Sơn Lê Xuân Nhị tên thật là Lê Xuân Nhị. Tác giả là phi công lái máy bay L19 thuộc Phi đoàn 114, Không đoàn 62 Chiến Thuật, Sư đoàn 2 KQ tại Nha Trang.

                    Tôi…đào ngũ (5)
                    Cho tới lúc này thì nhốn nháo, tiếng chân thình thịch, thuỷ thủ đoàn nai nịt áo phao, gỡ vỏ khỏi đại liên, đại bác, hạ nòng. Đại Tá chỉ huy hạm đội xuất hiện, áo giáp súng ngắn đường đường. Ông cho biết những người một giờ trước còn là quân đội Đồng Minh của ông, các đơn vị VNCH Phú Quốc, và giờ là tàn quân ô hợp, đang đòi lên tàu này. Tôi nhìn ra mé tàu, bên dưới vài cái tiểu đỉnh chập chờn trên sóng, phần lớn là lính tráng đang ngóng cổ nhìn lên tràn trề hy vọng. Tôi cứ tưởng thả thang cho họ rồi lên tàu tước vũ khí, đại đội Thuỷ Quân Lục Chiến trên tàu thừa sức giữ an ninh cho việc nhân đạo này. Nhưng ông Đại Tá tuyên bố, quý vị an tâm, giờ nào tôi còn sống, không có quân quan lính lạ nào leo được lên. Có lẽ kinh nghiệm di tản người ty nạn từ miền Trung vào khiến ông quyết liệt như vậy mặc dù hoàn cảnh lần này có khác. Tàu đã hết chỗ chứa, họ chỉ việc chịu khó chạy ra vài mươi hải lý nữa, đã có hạm đội Mỹ, đến 4 chiếc Hàng Không Mẫu Hạm và cả trăm tàu đủ loại đợi sẵn, hộ tống họ về đến Subic Bay. Biển Nam Hải đang nườm nượp như là Ngã Tư Bảy Hiền vào giấc sáng, việc gì mà sợ lạc.

                    Ở trên bờ, phi trường Dương Đông tấp nập không kém, trực thăng là đà bốc thẳng, phi cơ quân sự hết chiếc này đến chiếc khác ra đường băng. Tôi thấy rõ nhiều xe máy nhỏ, chở cả gia đình đuổi ra đến tận nơi, vất xe cái bẹt để bồng bế nhau lên tàu. Từ vị trí đã an toàn trên biển tôi điềm nhiên theo dõi, nhưng nếu tôi đang ở trên bờ và không có phương tiện ra đi thì tôi cũng vẫn hai tay thọc túi mà nhìn. Ở lại thì ở, chết thì chết tại chỗ cho đỡ… tốn sức chứ tôi không chen lấn. Tôi chẳng có nghĩ ngợi, tôi nhìn, nom những hàng cây xanh lơi lả mát bên trong mà bỗng dưng thèm một cốc dừa.

                    Tàu lầm lì từ từ quay ra hướng biển, mấy cái tiểu đỉnh vây quanh dãn ra nhường kiểu ngập ngừng vẫn còn tiếc nuối, theo như ông Đại tá nói, hạm đội 2.300 hải lý nữa sẽ đến cảng Busan, Nam Triều Tiên.
                    (Đỗ Khiêm)

                    Tác giả tên thật là Đỗ Khiêm, sinh năm 1954. Trước 75, đi lính Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, 6 tháng sau…đào ngũ tới Đại Hàn. Qua Pháp học trường Cao đẳng Sư phạm Ulm tại Paris. Nay là nhà văn thành danh. Bài viết trên có tên nguyên thủy: “Ngày 30 tháng Tư của tôi”.

                    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện di tản

                    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
                    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
                    Canh khuya thao thức mạn thuyền
                    Biết người quân tử vượt biên chốn nào?


                    Camp Orote Point - Guam
                    Ngày 17-4, Lữ đoàn 9 Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, căn cứ ở đảo Okinawa (Nhật) được lệnh thành lập Lực lượng Thuỷ bộ An ninh di tản. Lực lượng này được lệnh lên đường ngay, tới vịnh Subic (Phi), tập hợp nhân sự cùng phương tiện cần thiết. Nhân sự gồm 720 TQLC, chia thành 14 toán, mỗi toán 54 người, phân chia đi các tầu vớt người ty nạn. Họ được huấn luyện rất kỹ, từ bí quyết nấu cơm cho hàng ngàn người ăn trong chốc lát bằng cách cho gạo vào những bồn chứa lớn, rồi xịt hơi cực nóng từ hệ thống ống dẫn hơi nóng trên tầu để có cơm ngay trong mấy giây đồng hồ đến những câu chào hỏi bằng tiếng Việt, cùng những điều nên và không nên trong cách giao tiếp với người tị nạn và thông dịch viên được chú trọng hàng đầu.

                    Giây phút hấp hối của VNCH
                    4 giờ sáng ngày 29-4 vừa mới chợp mắt một chút. Người thư ký trực với tôi, anh Bào báo cho biết có điện thoại của Tổng thống Dương Văn Minh. Bên đầu dây bên kia tiếng Big Minh:

                    – Qua là Minh đây. Trong đài ai là người cao cấp nhất vào lúc này?
                    – Thưa Tổng Thống, không có ai ngoại trừ tôi, một số phóng viên, và nhân viên kỹ thuật.
                    – Qua hỏi để là hỏi thôi, giờ này họ bỏ đi hết rồi. Có tin tức gì mới liên quan đến tòa đại sứ Hoa Kỳ không trên những bản tin viễn ấn?

                    Tôi đáp không, ngoại trừ một bản tin rất ngắn của hãng Thông tấn UPI cho biết mọi liên lạc giữa tòa Đại sứ Mỹ và chính phủ Vũ Văn Mẫu bị cắt đứt. Hãng thông tấn AFP nói đến vai trò trung gian cuối cùng của Đại sứ Pháp Merillon và cựu Tướng Vanuxem để tránh cho Saigon một cuộc đổ máu. Bắc quân đã kéo hỏa tiễn SAM vào tới Tân Uyên và sẵn sang mở cuộc tấn công. Tôi đặt một vài câu hỏi liên quan đến khả năng tử thủ của những tướng lãnh dưới vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tổng Thống Minh chỉ nói:
                    – Khả năng thì có đấy, nhưng giữ được trong bao lâu và sẽ chết bao nhiêu người.

                    Sau đó ông nhờ tôi chuyển lời cám ơn đến tất cả anh em trong đài đã cố gắng làm việc với ông
                    trong giờ phút nghiêm trọng này.

                    Sáng 29-4, tôi vào phòng hệ thống trưởng để tắm vì phòng vệ sinh cho nhân viên dưới lầu bị nghẹt. Nước lạnh làm giúp tôi tỉnh táo. Bước ra lan can, hút một điều thuốc lá.

                    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến ở quán cà phê
                    Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán cà phê, như:
                    Pallmall : Phòng anh lạnh lẽo, mình anh lạnh lùng.

                    Hoài An thò đầu ra cửa cười toe toét:
                    – Ê sao không về thăm nhà, tôi thấy ông ở đây hoài.
                    – Còn ông, sao không về?

                    Hoài An hỏi:
                    – Ê, ngoài cái tớ biết rồi, còn tin gì cậu biết mà tớ đếch biết không. Nghe nói bọn nó pháo kích vào Tân Sơn Nhất dữ dằn lắm, mẹ kiếp, coi chừng đây cũng dám lãnh quả lắm ạ.

                    Khoảng 11 giờ, một phóng viên chót của đài phải rút chạy theo Sư đoàn 18BB về đến đài. Anh cho biết bộ Chỉ huy của sư đoàn này đã về đến nhà máy xi măng Hà Tiên và đang củng cố các tuyến phòng thủ mới. Hải trước là Quản đốc đài Ban Mê Thuột. Sau khi Ban Mê Thuột mất, anh trốn được theo dân di tản. Tháng Ba, Hải đã về trình diện và tôi tạm sắp xếp cho anh công việc của một phóng viên. Trung tuần tháng Tư, Hải xin vào mặt trận Long Khánh của Sư đoàn 18. (Vũ Ánh)

                    Ngộ Không
                    Last edited by KiwiTeTua; 04-14-2017, 07:55 PM.

                    Comment



                    Hội Quán Phi Dũng ©
                    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                    website hit counter

                    Working...
                    X