Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố - Phạm Công Luận

Collapse
X

Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố - Phạm Công Luận

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Nhà hàng Việt cao cấp đầu tiên

    Nha Du Lịch thuộc chính phủ miền Nam thời trước đã lập ra một nhà hàng sang trọng có cái tên giản dị là Hàng cơm Việt Nam, khánh thành vào ngày 9.10.1957.


    Bên trong Hàng Cơm Việt Nam

    Một nhà hàng sang trọng chuyên về món ăn Việt là điều bình thường hiện nay. Ở đó, khách nước ngoài, người sành điệu có thể thưởng thức phong cách ẩm thực thuần Việt, từ thức ăn đến đồ uống, cảm nhận vẻ khác biệt, độc đáo trong cách ăn uống của một dân tộc, thấy được những dấu ấn của khí hậu, hệ thực vật, nền nông nghiệp trong bữa cơm hằng ngày của người Việt.

    Nhiều quốc gia có chiến lược quảng bá nền ẩm thực độc đáo như Pháp, Ý, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ... Ẩm thực truyền thống chính là nét văn hóa riêng đáng tự hào, tạo sự thông cảm giữa các dân tộc và tạo sự thu hút trong công nghiệp du lịch.

    Trở lại cuộc sống của Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Sau khi người Pháp rút về, cuộc sống tự chủ đã xuất hiện thay cho chế độ thuộc địa. Trong ngành ẩm thực, hệ thống nhà hàng hạng sang nấu ăn theo kiểu Pháp sót lại sau 1954 vẫn chiếm lĩnh khu vực trung tâm Sài Gòn, khu Tân Định - Đa Kao. Trong Chợ Lớn, nơi buôn bán sầm uất, có các nhà hàng theo phong cách ẩm thực Tàu, nhất là Quảng Đông, Triều Châu. Nấu ăn theo kiểu Việt hầu hết là ở các quán bình dân, rất đa dạng món ăn từ cơm tấm giò chả, nem chua chả rán, gà xé phay, mắm nêm, mắm Huế. Đồng bào di cư từ miền Bắc, người miền Trung di dân vào Nam góp thêm nhiều món ăn hấp dẫn vào thực đơn món Việt ở Sài Gòn. Tuy nhiên, có thể nói lúc đó ở thành phố này chưa có một nơi tương xứng để đón du khách với món thuần Việt, đủ tiện nghi, có phong cách phục vụ bưng dọn như các nhà hàng Âu - Mỹ. Kế hoạch phát triển du lịch miền Nam lúc đó đã chuyển động, các khiếm khuyết bắt đầu lộ dần và vấn đề này đã được đặt ra.

    Và nhà hàng sang trọng Hàng cơm Việt Nam ra đời vì mục đích đó. Người quản lý là ông Bửu Hoàng, một người thuộc hoàng tộc triều đình Huế, nơi có phong cách ẩm thực Việt đáng tự hào. Chủ trương của nhà hàng cũng giản dị như cái tên nhà hàng: “giới thiệu du khách những món ăn thuần túy của VN”. Nhà hàng đặt tại số 40 Nguyễn Huệ, Q.1 (phải chăng hiện nay là nhà sách Fahasa cùng địa chỉ?).

    Việc trang trí nhà hàng được chú trọng để tạo đẳng cấp. Màu đỏ là tông chính xuất hiện trên các khung cửa sổ, trần nhà. Phòng lắp máy điều hòa, ghế ngồi bằng da, rải rác là các chậu hoa vạn niên trang trí tạo vẻ tươi mát. Về thức ăn, ba đầu bếp tập trung chế biến các món Trung và Nam bộ trong thời gian đầu và ông Bửu Hoàng có ý định tiếp tục tìm một đầu bếp món Bắc thật giỏi để hoàn thiện thực đơn Việt của nhà hàng. Tuy chưa hoàn hảo theo ý muốn, thực đơn của nhà hàng thật phong phú với hơn 50 món khác nhau. Từ nem chua Huế, chả lụa, chả chiên, chả quế, bì, nem cuốn, bánh hỏi chả giò, gỏi gà, tôm sứa, chạo tôm, tôm nướng Rạch Miễu, lươn, ếch, canh chua, miến gà…
    Thực khách đến gọi món, đầu bếp làm ngay. Các món ở đây được đánh giá cao như: gỏi gà Huế có nước dùng nấu với dứa và hoa chuối xắt nhỏ, cao lầu gần với món vằn thắn của Tàu, tôm nướng Rạch Miễu dùng tôm to bóc vỏ, bao một lớp lá mỡ trắng rồi mới nướng, món canh chua nấu với cá chẽm, măng, me, cọng bạc hà được nhiều du khách ưa thích thay cho món súp. Món “giò quốc tế” là món cá nấu như kiểu thịt đông, bỏ vào máy ướp lạnh, cắt thành khúc tròn như mặt đồng hồ trên dĩa, tô điểm thêm hai lá hành thành cây kim đồng hồ...

    Không chỉ chú trọng đến món ăn thuần Việt, Hàng cơm Việt Nam còn đưa vào thực đơn thức uống cũng thuần Việt nốt, đó là rượu... ba xi đế, rượu đậu nành, rượu đào, Tôn Thọ tửu sản xuất trong nước bên cạnh rượu Tây.

    Bên cạnh đó, trang phục của nhân viên phục vụ được trang bị đúng đẳng cấp nhà hàng hạng sang: nhân viên tiếp khách (lúc đó gọi là chiêu đãi viên) bận đồng phục trang trọng, cổ thắt nơ. Đầu bếp có trang phục riêng, đội mũ chuyên dùng.

    Thời điểm đó có một hội nghị quốc tế phát triển kinh tế và xã hội khu vực châu Á tổ chức tại Sài Gòn. Các vị khách quốc tế, đại diện 21 quốc gia dự hội nghị đã trở thành những khách ngoại quốc đầu tiên thưởng thức món ăn Việt trong thực đơn cao cấp này tại nhà hàng Hàng cơm Việt Nam.
    Tự hào và tìm cách khẳng định giá trị của ẩm thực Việt bằng cách tạo lập nhà hàng này là một cố gắng rất đáng trân trọng của những người có trách nhiệm, gần 60 năm trước ở Sài Gòn.

    Phạm Công Luận

    (trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)

    Xe ôm Sài Gòn


    Xe ôm ở Sài Gòn có từ khi nào? Lục tìm qua sách báo, trước 1954 hầu như không thấy nhắc đến chiếc xe ôm. Lúc đó, các phương tiện công cộng chở người trong thành phố là xe kéo, xích lô và taxi.

    Xe gắn máy lưu hành nhưng không dùng làm dịch vụ chở người.

    Năm 1969, một nhà văn đoạt giải nhất phóng sự ở Sài Gòn là ông Lê Hương với cuốn sách Chợ trời biên giới Việt Nam - Cao Miên. Khi viết về chợ trời Gò Dầu Hạ ở Tây Ninh, ông cho biết ngoài xe lam và mô tô lôi chở đông người mỗi chuyến thì năm 1967: “xuất hiện bốn loại xe mới: Honda ôm, Suzuki ôm, Mobilette ôm, Yamaha ôm”. Ông đánh giá: “Thật là một nghề chóng phát tài hơn hẳn các anh em chở Mỹ ở Sài Gòn”.

    Như vậy, phải chăng xe ôm ở Sài Gòn bắt nguồn từ dịch vụ chở người sau sự kiện người Mỹ đến miền Nam năm 1965?
    Từ câu chuyện kể dưới đây của một dược sĩ gốc gác ở Q.4 cho tác giả cuốn sách này bổ sung cho nhận định trên. Năm 1965, khi người Mỹ bắt đầu tham chiến ở VN thì xuất hiện một lớp người làm việc trong các công sở của người Mỹ. Họ làm nhân viên đánh máy hay sửa chữa bảo trì xe cộ, lái xe. Đồng lương của họ khá khẩm, giúp sống thoải mái và dễ dàng mua xe máy.

    Chiến cuộc lúc lên lúc xuống, công sở Mỹ có lúc mở ra và có chỗ đóng cửa tùy theo nhiệm vụ. Phút huy hoàng nào cũng có lúc trở thành điêu tàn và những người quen lãnh lương bằng đô la ở Sài Gòn bắt đầu lo lắng.

    Xe Lambretta được quảng cáo trên báo Sài Gòn Mới xuân Giáp Ngọ năm 1954 - Ảnh: T.L

    Tại một cơ quan của người Mỹ ở trung tâm Sài Gòn có một ông nhân viên tên là X. tuổi vào lứa 50, con đông nheo nhóc. Ông mua được một chiếc xe Lambretta dùng để đến sở làm mỗi ngày. Xe Lambretta hai thì, khỏe, yên thon dài nên ngồi rất thoải mái, thích hợp với vóc dáng cao ráo của ông.

    Đùng một cái, sở làm của ông thu hẹp số nhân viên và ông X. phải nghỉ làm. Sau một thời gian chới với vì “bể nồi cơm”, ông trấn tĩnh lại rồi ráo riết nghĩ đến việc kiếm sống nuôi con. Trong thời gian nghe ngóng, ông X. vẫn thỉnh thoảng lui tới thăm chỗ làm cũ, gặp bạn bè người Mỹ đã cùng làm ở đó.

    Một buổi chiều, ông X. được anh nhân viên Mỹ hỏi thăm về một snack-bar trên khu Kho 18 thuộc Q.4, gần cầu Tân Thuận. Hôm đó là cuối tuần và anh Mỹ này định nhờ ông cho quá giang xe đến đó để giải trí. Ông X. vui vẻ nhận lời.

    Trên xe, anh chàng người Mỹ cho biết cảm thấy thoải mái cho đôi chân khi được chở trên chiếc xe có thân dài này hơn là ngồi trên những chiếc xe máy yên nhỏ của người Pháp hay Đức chế tạo đang có ở Sài Gòn. Khi dừng xe, ông X. giơ tay từ biệt thì anh chàng Mỹ rút túi tặng ông một ít tiền và ngỏ ý vào cuối tuần nhờ ông chở đi vòng vòng Sài Gòn chơi. Ông X. nhận lời và từ đó, ý thức rằng có thể kiếm tiền bằng những lần chở người ở yên sau, ông tìm cách tăng lượng khách. Ông chở thêm những người Mỹ khác và nhận ra rằng tiền kiếm được còn nhiều hơn trước kia đi làm nữa.

    Lúc đó, khu Kho 18 có hai snack-bar là Rạng Đông và Thúy Phương. Thấy ông X. làm ăn được, mấy ông từng làm sở Mỹ đang thất nghiệp bắt chước theo và thấy có ăn. Họ mua toàn là xe Lambretta vì xe khác người Mỹ lắc đầu. Từ đó hình thành đội ngũ xe ôm đầu tiên ở Sài Gòn đậu dài dài ở hai bar rượu này, đi cùng một loại xe và chủ yếu phục vụ cho các nhân viên dân sự Mỹ. Họ không chỉ đi uống rượu mà bằng xe ôm, có thể vô các khu hẻm nhỏ tìm người quen, tìm bạn gái, tìm bạch phiến. Còn người dân Sài Gòn bình thường không ai quan tâm đến loại xe này. Ai không có xe máy thì đi taxi, xe buýt hay xích lô máy, xích lô đạp, xe Lambro...

    Căn cứ vào câu chuyện trên, có thể coi xe ôm có từ giai đoạn đầu khi người Mỹ mới vào miền Nam VN. Nhưng có thể nó trở nên phổ biến hơn sau khi nhập cảng xe Nhật, năm 1967. Một tác giả ở hải ngoại là Lưu Nhơn Nghĩa trong bài Lải nhải đời tôi 1959 - 1969 có viết: “Dân công chức lương thấp nghĩ cách kiếm sống, dùng xe mình đưa khách kiếm thêm... Lần đầu tiên, nhóm xe taxi, xích lô máy, xích lô đạp xô xát với nhóm xe ôm vì quyền lợi.

    Lúc đó tương đối còn sống được, sau này đời sống chật vật, cả đến quân nhân, cảnh sát ngạch thấp, công an chìm cũng chạy xe ôm. Rõ ràng là chỉ có xe Nhựt, yên liền rộng, thấp, vừa tầm người Á châu, chỗ gác chân thoải mái mới sử dụng được trong việc kiếm ăn này. Xe Nhựt lại hết sức bền bỉ, ít hao xăng, chạy suốt từ Sài Gòn ra Vũng Tàu không nằm đường. Xe Pháp như Mobilette, Sachs (thật ra xe này của Đức - TG), Puch chạy không nổi, yên xe nhỏ, chông chênh”. Ông còn kể thêm: “Hình như giới xe ôm cũng có luật riêng giúp đỡ lẫn nhau khi có trường hợp bị khách giựt xe. Khi đưa khách trả tiền đến vùng đáng sợ, anh xe ôm đưa tay ra một hai dấu hiệu gì đó cho đồng nghiệp, một hay hai người sẽ chạy theo kín đáo bảo vệ nhau, tiền chia chác sau đó”.

    Sau năm 1973, người Mỹ rút hẳn về nước, kinh tế miền Nam đi xuống, giới chạy xe ôm lại một phen gặp khó khăn. Sau 1975, nhất là khi kinh tế khá dần lên sau đổi mới, nhiên liệu xăng nhớt thoải mái hơn thì xe ôm hồi sinh. Lúc này người Việt thích đi xe ôm nhờ tính tiện lợi có thể len lỏi vô các hang cùng ngõ hẻm, chợ nhỏ của Sài Gòn - Gia Định. Xe ôm lúc đó tiếp tục dùng các loại xe như Honda Dame, Suzuki nam, Yamaha...

    Câu chuyện lịch sử xe ôm này do ông X. kể lại cho anh dược sĩ hồi sau 1975, trong lúc trà dư tửu hậu. Khi xưa, nhà anh dược sĩ ở khu Kho 18, Q.4 và có chứng kiến nhóm xe ôm kỳ lạ thuở ban đầu, toàn là những người đi Lambretta, đúng như lời kể của ông X.

    Phạm Công Luận
    (trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3

    Comment


    • #17
      Sài Gòn - chuyện đời của phố

      HƯƠNG VỊ NGÃ BA ÔNG TẠ - GÓC QUÊ HƯƠNG



      Góc chợ bán lá dong ngả ba Ông Tạ dịp Tết.

      Ảnh:T.L



      Nhà thuốc Trần Thái Đường, còn gọi là nhà thuốc Ông Tạ.

      Ảnh: Nguyễn Đình
      Từ năm 1954, khu ngã ba Ông Tạ đang vắng vẻ thay đổi hẳn vì cộng đồng người Bắc di cư vào hình thành khu dân cư đông đúc. Nhà thờ, chợ búa, tiệm quán, trường học nhanh chóng xuất hiện. Người dân Ông Tạ mang vào Nam phong cách ẩm thực quê hương miền Bắc và tiếp tục giữ gìn, phát triển nhờ có thực khách đồng hương. Họ mở quán xá ngoài mặt phố, trong chợ, trên vỉa hè. Một số nhà trong hẻm biến thành nơi chế biến thực phẩm cung cấp cho các chợ và quán ăn, từ lò mổ heo, làm giò chả, làm bún, quay thịt heo... Rau củ chợ Ông Tạ luôn tươi mới vì được đưa từ vùng Bà Quẹo, Hóc Môn xuống bằng xe ngựa vào mỗi sáng sớm. Chợ Ông Tạ và khu phố chung quanh trở thành nơi giới thiệu và thưởng thức món ngon vật lạ, cũng là nơi bình phẩm, đánh giá thực phẩm từ các bà nội trợ sành ăn.

      Nói về hàng ăn, trước hết, phải nhắc đến món giò chả, đặc sản khu này. Trong đó, có nhà làm giò chả của ông Trùm Bệ, nằm giữa rạp Đại Lợi và ngõ vào cổng nhà thờ Tân Chí Linh.

      Ông Trùm Bệ có một người con trai và hai cô con gái. Hai cô gái ở hai nhà riêng, đều làm giò chả để hằng ngày đem bán ở chợ Vườn Chuối và chợ Hòa Hưng. Giò chả của hai cô từ một gốc mà ra nhưng mỗi người có một hương vị riêng, đều ngon nổi tiếng ở hai khu chợ họ bỏ mối. Ông Trùm Bệ ở với con trai nhưng hàng ngày đến nhà cô gái nhỏ là cô Nghĩa để phụ làm giò. Ông giúp cô gói những cái giò lụa hay nướng những khuôn chả quế. Đôi khi ông cũng gói những cái bánh giò trong lá chuối rồi hấp nóng, ăn thơm và giòn. Giò chả của cô có tiếng là ngon vì chọn thịt heo và thịt bò tươi rất kỹ, được bỏ mối đến nhà hàng ngày từ lò mổ heo bò gần chợ ông Tạ. Công-xi heo này rất coi trọng khách hàng quen từ chợ và các nhà chế biến giò gần đó. Mỗi ngày họ giao hàng trăm cân thịt loại ngon nhất tớI nhà cô, thịt heo cho giò lụa, chả chiên, chả quế, giò gân và thịt bò cho giò bò, giò gân. Vì chế biến bằng thịt tươi, giò chả của hai cô thơm, ăn rất giòn. Khi chế biến, thịt được thái mỏng cho vào máy điện xay cho nhuyễn. Thêm nước mắm nhỉ nguyên chất từ Phú Quốc và tiêu, hành, bột nổi, gia vị cho đậm đà. Sau khi xay xong, những khối giò sống lại được cho vào cối đá giã cho thịt nhuyễn đều. Với vài khách quen, ông Trùm Bệ thường kể rằng ngày xưa ở miền Bắc chưa có máy xay thịt nên thịt heo phải thái mỏng xong cho vào cối giã cho nhuyễn rồi mới trộn chung với gia vị. Vào Sài Gòn, lúc đầu ông vẫn giữ cách làm xưa, cho vào cối giã. Mãi đến khi có máy xay thịt thì đỡ công giã, sản xuất được nhiều giò hơn hẳn. Tuy nhiên, cối đá vẫn được dùng để giã giò sống cho thịt quyện chắc vào nhau. Giò lụa được gói trong lá chuối tùy theo trọng lượng, nửa ký, một ký hoặc hai ký tùy khách hàng đặt hoặc để bán cho các bà đi chợ. Hai cô cũng bán những cân giò sống cho các bà làm bún mọc hoặc cho các bà đi chợ mua về làm mọc nấu canh.

      Kha, anh bạn tôi ở Mỹ hồi xưa sống cùng gia đình trên đường Thoại Ngọc Hầu, đoạn gần cầu, có kỷ niệm về ông Trùm Bệ này. Kha nhớ nhiều lần mẹ sai đến nhà cô Nghĩa mua vài ký mọc sống để về nhà làm bún mọc, nhồi gà tần hoặc nấu món vịt tiềm đãi khách, hoặc làm mọc nấu canh bí, canh rau ngót. Lúc khác, bà sai sang mua vài ký giò bò sống để làm bò viên ăn mì hay phở, chả chiên để ăn bánh cuốn. Dịp Tết thì mua vài kí chả quế, mấy cây giò lụa để ăn dần mấy ngày Tết. Những lần như vậy, Kha được xem cô Nghĩa xay giò và ông Trùm Bệ gói giò.Ông xúc thịt cho vào lá chuối đặt lên cân đúng trọng lượng rồi cuộn tròn cái giò lại, lấy dây lạt bằng tre gói từng vòng xong xếp vào trong cái vạc lớn để luộc cho đầy một mẻ. Khi làm chả chiên, ông cũng xúc từng nửa cân thịt đặt trên miếng lá chuối rồi thả vào trong vạc dầu sôi sùng sục khoảng chừng mười phút thì chín. Những miếng chả chiên vàng ươm khi chín thì nổi lên trong vạc dầu. Ông vớt ra cho vào cái sọt đan bằng tre và đậy nắp lại để giữ nóng cho tới khi mang ra chợ bán.

      Khi làm chả quế, ông xúc những miếng thịt heo xay có trộn quế đắp lên cái khuôn hình ống dài khoảng chừng sáu tấc, đường kính khoảng chừng hai tấc. Ông đắp thịt cho dầy khoảng chừng ba phân. Sau đó ông đặt cái khuôn chả quế lên quay bên trên bếp lửa than hồng. Làm món này lắm công phu, vì phải quay chậm rãi cho đều chừng hơn một tiếng đồng hồ đến khi chả chín vàng ươm chung quanh. Nếu làm không đúng cách, chả quế có chỗ sẽ bị cháy hoặc có chỗ không chín. Chả quế làm đúng cách khi ăn sẽ cảm thấy trên bề mặt dòn tan như thịt heo quay, nhưng bên trong mềm và dẻo lại thơm mùi quế. Chỉ có những dịp lễ hội đặc biệt hoặc có đám xá, nhất là đám cưới thì người ta mới đặt mua cả cây chả quế về cắt ra từng miếng hình con thoi xếp vào đĩa trông như những ngôi sao rất hấp dẫn. Nhiều lần đến mua giò chả, Kha thấy ông Bệ làm những cái bánh giò gói trong lá chuối cột thành từng xâu cho vô trong cái nồi to để hấp. Khi đi về, ông thường dúi vào tay Kha một hai cái bánh giò hay một cái giò lụa nho nhỏ mà ông vét cối vét chày cho vào lá chuối gói để làm quà cho mấy đứa cháu.

      Mỗi sáng, ông Trùm Bệ đi bộ đến nhà Kha chơi và để uống nước chè xanh. Có lúc ông mang qua cái giò con con cho thằng em của Kha. Mỗi lần đưa cho nó, ông cắn nhẹ tay thằng bé một cái. Miệng ông nhai trầu nên dấu răng ông cắn có vết vôi đỏ lòm, thằng bé tưởng là máu thật. Sau này hai cô con gái của ông sang Mỹ sống nhưng một cô cháu ngoại của ông ở lại Sài Gòn tiếp tục làm giò chả thay mẹ. Giò chả của cô này cũng bán chạy, thậm chí đắt hàng hơn.

      Những tiệm thuốc Bắc có nhiều ở khu Ông Tạ, của người Việt và người Hoa. Đối với con nít khu này, thuốc Bắc không có gì để ham nhưng trong tiệm cũng có vài thứ để nhấm nháp.

      Bên kia cầu ông Tạ, phía chợ Phạm Văn Hai có nhà thuốc bắc Nhơn Tâm Tế tồn tại khá lâu. Chủ tiệm Nhơn Tâm Tế là người Hoa, biết nói tiếng Việt lơ lớ, hiền và tử tế. Tiệm thuốc của chú cũng có cái để ăn, là có bán cam thảo, táo tàu, ô mai. Kha kể có lần đi mua cam thảo, thấy một thằng bé mang một xâu chuỗi vỏ quít khô vô tiệm chú và đổi lấy ô mai. Kha hỏi nếu có vỏ quít khô có thể đổi được lấy ô mai hay cam thảo ăn không. Chú ấy nói: “Nếu có, cứ mang đến tiệm đổi lấy cam thảo, ô mai, táo tàu hay quế, cũng được!”. Biết vậy, ăn quýt xong, Kha giữ lại vỏ, đi xin vỏ quýt của người khác nữa mang về xâu vào dây thép, cột lại một vòng rồi phơi nắng trên mái tôn, xong đem đổi lấy ô mai, xí muội hay cam thảo về ăn... Lớn lên một chút, mới biết vỏ quýt là trần bì cũng là một vị thuốc Bắc.

      Một tiệm thuốc Bắc khác cũng có liên quan đến hàng ăn là tiệm Vạn Hòa Xuân, gần ngõ Cổng Bom. Bà chủ tiệm cũng là người Hoa, do không ai biết tên thật nên chỉ gọi là bà Tàu. Trước cửa tiệm, bà đặt một xe bán nước mía do mấy cô con gái đảm nhiệm. Mỗi tối, mấy cô này thay nhau ra bán nước mía. Lúc đó, nam thanh nữ tú sau khi coi chiếu bóng, cải lương hoặc kịch ở rạp Đại Lợi xong là tà tà đi dạo đường Thoại Ngọc Hầu ra ngã ba ông Tạ. Mỏi chân, họ ghé hàng quán ăn. Mấy cô con chủ tiệm thuốc còn có quầy bán khô mực, khô thiều nướng. Mía được róc vỏ sẵn để một bên, khi có khách gọi nước mía, mấy cây mía được chụm lại đẩy qua máy xay ra nước, kẹp thêm trái tắc cho thơm. Nước mía được xay ra màu vàng bơ tươi thêm vài cục đá lạnh uống vào mát cả ruột. Bên cạnh xe nước mía là một cái bếp than hồng để nướng khô mực, khô thiều. Những con mực khô hoặc cá thiều khô được treo trên sợi dây thép ngay cái bàn bên cạnh. Ai muốn ăn con nào, lựa con đó rồi đưa cho chị bán hàng nướng. Nướng xong đưa vô máy cán cho dẹp, dài ra rồi chấm với nước tương ớt.

      Nếu nói về món chè bánh lọt đậu xanh đậu đỏ, thì có lẽ nhà bà Tầu là người đầu tiên đã mở tiệm bán món chè ở khu này. Bà để trên xe những hũ đậu xanh đậu đỏ bằng thủy tinh, hũ nước dừa bánh lọt thêm đá bào từ cái máy xay để cho vào ly chè. Về sau, mấy cô con gái còn chế thêm mấy món chè đậu ván, chè cốm xanh, chè sương sa, sâm bổ lượng và nhiều loại chè khác nữa.

      Ngày đó khu ông Tạ về chiều là sầm uất nhất. Những người khác thấy quán chè nhà bà Tầu đông khách, đua nhau mở những quán chè trên vỉa hè vào buổi chiều. Đối diện nhà bà Tầu, nhà ông Thạnh và nhà cô Chín, cô Mì cũng có xe bán nước mía và bán chè đậu xanh đậu đỏ. Đầu ngõ Tứ Hải cũng có những quán chè, bên kia cầu ông Tạ cũng vậy. Quán bên kia cầu của mấy chị em có dung nhan khá xinh khiến trai trẻ dọc đường Thoại Ngọc Hầu tấp vô ăn chè hoài để tán tỉnh dù chả tới đâu. Nhớ lại, chè không ngon gì mấy, nhưng luôn luôn đông, là điều dễ hiểu.

      Bốn mươi năm trước, trong ngõ ấp Hàng Dầu có gia đình bác Nhâm bán khoai luộc và bắp luộc rất ngon, ngay trước cổng ấp Hàng Dầu. Mấy chị em nhà này ngày nào cũng nấu khoai, luộc bắp đem bán ở đầu ngõ. Khoai mì được bóc vỏ, ngâm trong nước cho hết chất nhựa chảy ra, sau đó được cắt thành từng khúc và luộc cho chín. Có hai loại khoai mì bở, và dẻo. Khoai mì bở có nhiều chất bột ngon hơn khoai mì dẻo. Trong khi đợi luộc khoai chín, hai chị ngồi bào cùi dừa, xong ép lấy nước cốt để sang một bên. Khi khoai mì được luộc chín, gắp từng miếng khoai ra, nhúng vào nước cốt dừa béo. Sau đó xếp khoai vào một cái nồi khác rồi rắc lên những sợi dừa bào trắng tinh. Cái nồi này không dùng nấu than củi nên bên ngoài bóng loáng sạch sẽ. Xong xếp vào quang gánh, đưa ra đầu ngõ bán. Nghĩ lại, củ khoai mì rẻ tiền mà nhiều công dụng, có thể luộc ăn hoặc bào ra làm đủ thứ bánh, từ bánh cay, bánh khoai mì bọc nhân dừa hoặc nhân đậu xanh.

      Nhà bác Nhâm cũng luộc bắp ngô bán, ngon nhất là bắp nếp. Những trái bắp hạt no tròn, luộc lên hơi nước dâng lên thơm phức. Nhà bác còn bán thêm bắp nướng than, rất hấp dẫn khi quẹt thêm chút mỡ hành để nhâm nhi sau bữa cơm chiều. Có cả khoai lang luộc nóng, loại khoai lang mật Đà Lạt hay khoai lang tím còn gọi là khoai lang Dương Ngọc. Củ khoai tím luộc lên màu tím bên trong, nhưng đến khi cắn một miếng, thì bên ngoài chỗ cắn đổi màu dần thành màu ngọc bích.

      Trong xóm Ấp Hàng Dầu có nhà ông bà Cừ làm bún tươi bán hàng ngày. Nhà nào cuối tuần muốn đổi món, làm nồi bún mọc, bún riêu hay ăn bún chả giò, bún thịt nướng thì sai con nít vào nhà bà Cừ mua bún tươi. Khách đến, bà lấy vắt bún cho vào lá chuối để khách mang về nhà vì bún không bị dính vào lá chuối. Buổi trưa, người nhà bà Cừ giã gạo bằng cái cối đá và chày gỗ to. Cối đá bà xây gắn vào nền nhà, chày thì phải dùng chân mới đủ sức để giã gạo.

      Bà Cừ mua gạo ngon, ngâm qua đêm trong những chậu sành lớn, sau đó để róc nước và cho vào cối đem giã thành những cục bột. Xong, cho bột vào những chậu sành ngâm qua ngày hôm sau. Từ chậu bột đó, bà xúc bột cho vào cái túi vải. Phía dưới túi vải có đặt một cái khung sắt tròn có những hàng lỗ đinh nhỏ để cho những sợi bột lọt xuống. Khi bột được cho đầy túi, bà ngồi vắt những sợi bún vào cái nồi nước to sôi sùng sục. Chừng dăm ba phút sau, bún được luộc chín. Bà lấy cái muôi xúc bún ra, vẩy cho khô nước và đặt lên cái sạp làm bằng tre để bún khô dần. Khoảng xế chiều, bún được mang đi bỏ mối ở ngoài chợ hay cho những bà bán bún mọc, bún riêu, vân vân... Vì làm bằng gạo ngon, làm tươi mỗi ngày nên bún của bà Cừ bao giờ cũng thơm tho, không bị chua như bún người khác bán. Đã vậy, bà có bí quyết riêng nên bún rất tơi, không dính vào nhau.

      Đi từ ngã ba, qua bên kia cầu ông Tạ còn có tiệm bán cháo lòng tiết canh heo rất ngon của ông Nho. Qua cầu, đi bộ chừng năm phút thì tới. Một tô cháo ông bán có để giá bên dưới, cháo lòng và tiết bên trên xong mấy miếng dồi và tìm, gan heo, ông thái mỏng đặt bên trên và rắc thêm hành ngò, rất là hấp dẫn. Thời đó, không ai ngại món tiết canh như bây giờ và không thấy ai bị bệnh vì món này. Những đĩa tiết canh heo ông đánh lên cho đông lại rất ngon, trên lát mấy miếng gan heo thái mỏng, ăn với rau húng quế. Nước nấu cháo lòng của ông Nho là nước thịt heo quay, không biết là mua hay xin ở nhà ông Nhạ mà người ta bảo là anh em ruột của ông, trong ngõ ấp Hàng Dầu. Ngày nào nhà ông Nhạ cũng làm heo quay bỏ mối hoặc bán ở chợ ông Tạ. Khi quay thịt, ông xâu một thanh sắt qua con heo từ đầu xuống đuôi rồi máng trên hai cây. Bên dưới là một lò bếp than củi, giữa bếp lò và thanh ngang xiên con heo có đặt một nồi nước thật to. Ông quay thịt heo bằng hơi nước chứ không trực tiếp bằng than lửa nên khi thịt heo chín dần, nước mỡ từ thân heo chảy xuống cái nồi phía dưới. Khi quay xong mấy con heo thì nồi nước “lèo” phía dưới toàn là nước cốt từ thịt heo chảy xuống. Heo chín xong, da vàng ươm, giòn rụm còn thịt bên trong trắng tinh đậm đà, mềm và béo. Thịt heo đã ngon. Cháo lòng nấu từ nước cốt nhà ông Nhạ càng ngon. Nhà nào trong khu này muốn ăn cháo lòng cho đã thì đến nhà ông Nhạ mua nước thịt heo quay. Ai quen thì ông chỉ cho, không bán.Xong, ra tiệm ông Nho mua tiết, lòng heo, dồi, gan, tim, dầu cháo quẩy, giá về cho vào cháo ăn.

      Kha kể rằng ở bên Mỹ, người lớn tuổi khi nhắc đến Sài Gòn là nhớ nhà hàng Kim Sơn, Thanh Thế, Bát Đạt… còn mình là con nít thời đó nên chỉ nhớ mấy cái quán bán nước mía, xe phở vỉa hè và cái quầy bán bánh kẹo trong mấy nhà gần chợ. Vậy mà khi nhắc lại trong một buổi họp mặt toàn những người U.60, ai cũng tranh nhau kể chuyện ăn vặt thời con nít. Giữa những giọng nói râm ran, Kha cảm thấy như đang đi lại khu phố chợ tuổi nhỏ đông đúc, đoạn từ ngã ba Ông Tạ về phía rạp Đại Lơi, đi ngang qua các quán xá vỉa hè đầy màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngon ngọt của các món ăn trong một buổi tối nay đã xa thật xa.

      Phạm Công Luận
      (Trích cuốn “Sài Gòn - chuyện đời của phố” tập 5)

      Comment


      • #18
        Sài Gòn - chuyện đời của phố

        Bây giờ còn đọng lại mỗi cái tên "Hẻm Ông Tiên" số 96 Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, gần bên nhà thuốc lớn lẫy lừng danh tiếng cả Đông Dương một thời. (bài tư liệu nên khá dài)

        AI CÒN NHỚ NHÀ THUỐC ÔNG TIÊN ?

        Đầu thế kỷ 20, ở Phú Nhuận có một hiệu thuốc nổi tiếng là nhà thuốc mang tên Ông Tiên.

        Thời đó, Tây y do người Pháp đưa qua chưa phổ biến rộng khắp vì chi phí cao, thường dành cho người Pháp và một số người Việt tầng lớp trên. Đa số dân chúng dùng thuốc đông y. Nhà thuốc Ông Tiên, với đầu óc nhạy bén của những người quản lý rất chú trọng đến việc quảng cáo tên tuổi và sản phẩm đã chiếm vị trí lớn về thuốc chữa bệnh bằng đông y trong xã hội Việt Nam lúc đó. Họ đăng báo quảng cáo thuốc rất nhiều từ Nam ra Bắc, từ báo Công Luận trong Nam đến Hà Thành Ngọ Báo ngoài Bắc. Họ tham gia hội chợ để mở gian hàng giới thiệu sản phẩm. Để thu hút người đến xem, họ thuê người đến diễn hoạt cảnh hài hước, diễn xiếc tại gian hàng. Thuốc ở hội chợ bán rẻ hơn ở ngoài tiệm. Nhà thuốc còn tặng sách để quảng cáo cao đơn hoàn tán, kèm thêm bài vè để chơi “lô tô”.

        Ngoài Sài gòn – Gia Định, nhà thuốc Ông Tiên mở ra các chi nhánh khắp nơi, từ Hà Nội, Huế, Phnompenh, Hải Phòng, Bắc Giang, Nam Định, Đáp Cầu, Bắc Ninh, Yên Bái, Cần Thơ, Bạc Liêu, Châu Đốc... và có tới 850 đại lý trên khắp mọi miền đất nước, con số không nhỏ !

        Năm 1936, báo Công Luận số Xuân quảng cáo Nhà thuốc Ông Tiên ghi rõ địa chỉ là số 82 đến 92 đường Paul Blanchy nối dài (Rue Paul Blanchy prolongée) ở Phú Nhuận, nay là đường Phan Đình Phùng, số điện thoại là 1079, có tòa án và chánh phủ Pháp chứng nhận. Hình nhà thuốc chiếm hết bề ngang trang báo là một dãy nhà dài, gồm tất cả sáu gian. Nếu tính trung bình một gian rộng ba mét thì mặt tiền nhà thuốc đã 18 mét, rất bề thế. Tiệm chia thành nhiều bộ phận (gọi là “sở”), bao gồm các sở: gởi thuốc, bút toán, thơ tín, phòng khách, bào chế và khám bệnh. Thầy thợ và nhân công trên 400 người. Các sở đều có người kiểm soát kỹ lưỡng do hai ông “học sĩ y khoa” là Tống Văn Viết và ông Nguyễn Ngọc Châu làm giám chế và ông Nguyễn Hoàng Hoanh chủ trương. Tết năm đó, nhà thuốc có lời mừng Xuân Phước Lộc Thọ đến người đọc và thông báo: “Hiệu thuốc Ông Tiên mới sáng lập không trên mười năm mà đã được đồng bào khắp ba kỳ, Lèo (Lào) và Kim Biên (tên gọi khác của thủ đô Phnompenh, Campuchia) rất chú ý, tín dụng và tiêu thụ một cách mau chóng đến như sở gởi thuốc của chúng tôi hằng 50 người mà công việc làm không muốn xuể. Nói phải, cũng nhờ đồng bào ai cũng đều biết thuốc hiệu Ông Tiên là hay nhứt và hiệu nghiệm ở cõi Á Đông này do hai ông Tống Văn Viết và ông Nguyễn Ngọc Châu là hai nhà học sĩ y khoa chuyên môn lão luyện bào chế đủ loại thuốc: cao đơn hoàn tán trị đủ các chứng bệnh rất hiệu nghiệm, nhất là sưu độc bá ứng hoàn và điều kinh bạch đái là hai món thuốc vô song thần diệu. Có quyền chứng nhận của chánh phủ Pháp và được Đức Đại Nam Hoàng đế ân tứ cấp bằng tài năng”.

        Không chỉ mở các đại lý rộng khắp, nhà thuốc Ông Tiên có xe quảng cáo chạy đến các làng xóm và bán thuốc. Một chiếc xe chạy vào khu xóm An Nhơn nay thuộc Gò Vấp được mô tả như sau trong cuốn hồi ký “Làng cũ người xưa” của tác giả Tiền Vĩnh Lạc: “Đó là một chiếc xe hơi kiểu chở đồ, bít bùng, mở cửa phía sau, hai bên hông có sơn “Nhà thuốc Ông Tiên” và hình nhãn hiệu ông Tiên cầm phất trần. Trên mui xe có gắn một cái loa lớn. Đàng sau xe có để một cái bàn, trên đó bày đầy hộp thuốc đủ thứ”. Tác giả thuật là xe chưa đến đã phát từ xa các bài vọng cổ thịnh hành thuở đó, các bài có lời như “Văng vẳng tiếng chuông chùa / Theo giọng công phu của đoàn sư vãi ớ ơ” và “Ngày mai này anh sẽ ra đi / Đem thân dãi dầu với những ngày âm thầm nắng mưa gian khổ ớ ơ / Cho nên một lần cuối cùng nầy, anh trở lại đầy để đổ cạn lệ sầu...”. Bài vọng cổ để gây chú ý trước, sau đó người bán sẽ giới thiệu các loại thuốc hiệu ông Tiên, trong đó không thể thiếu thuốc “Giải phong sát độc hoàn” với câu sau: “Bà con hằng ngày ăn uống, chất độc tích tụ trong máu sinh ra các chứng bịnh ngoài da, nhứt là bịnh ngứa. Nhiều người ngứa nổi có dề, hoặc mụt ngứa đỏ, gãi tới đâu ngứa tới đó, xức thuốc gì cũng không hết. Chỉ có cách uống thuốc “Giải phong sát độc hoàn” của nhà thuốc ông Tiên mới hết. thuốc này uống vô xổ độc, lọc máu công hiệu như thần! Uống ba ngày thì thấy hiệu quả, uống hết một chai thì hết ngứa. Uống thêm một chai nữa thì dứt nọc, bảo đảm một trăm phần trăm”. Dù lời giới thiệu không có gì mới vì giống như đăng trong báo, nhưng bà con ở lại còn để nghe anh hát hay có khi kêu lô tô: “Tề thiên đại thánh / đánh với Hồng Hài / đại chiến cả ngày / bất phân thắng bại / là con số Bảy !”, “Huỳnh Sào khởi nghĩa / tại Bạch Sơn Đầu / hòa thượng rụng đầu / thương người lòng tốt / con Bốn mươi mốt !”. Hết lô tô lại đến ca vọng cổ cho đến khi vãn người đến xem, xe mới chạy đi bán nơi khác.

        Khoảng thời gian khủng hoảng kinh tế, từ 1929 đến gần cuối thập niên 1930, nhà thuốc Ông Tiên tổ chức một đoàn ra tới tận Hà Nội để quảng bá thuốc. Hà Thành Ngọ Báo, số 2409 ra ngày 22 Tháng Chín 1935 đánh giá “Đối với năm kinh tế quẫn bách này mà nhà thuốc Ông Tiên ở Phú Nhuận, Sài Gòn dám tổ chức một đoàn quảng cáo rất lớn lao mà từ xưa đến nay chưa từng có để phô trương các thuốc hiệu “Ông Tiên” đã được trăm nghìn người dùng đều khen tặng. Cuộc hành trình này rất tốn kém trên một vạn đồng bạc, nào xe ô tô, nào máy truyền thanh và trăm ngàn lộ phí khác”. Trên tấm hình đăng kèm trrong đó có đám đông người vây quanh một chiếc ô tô, báo viết: “Chúng ta hãy coi hình trên đây, đồng bào mình hết sức hoan nghênh trong lúc cổ động ở trước nhà Tổng đại lý Nguyễn Văn Đức 11 Hàng Hòm, vây bọc cả xe ô tô không còn trông thấy đông là thế nào.” Tờ báo rất lịch sự viết: “Vậy chúng ta xin cầu chúc cho đoàn quảng cáo Ông Tiên đi đường được bình yên và được kết quả mỹ mãn, như vậy là dám hy sinh với nghề nghiệp một cách mới mẻ”.

        Hai tháng sau sự kiện đó, tháng 11 năm 1935, nhà thuốc này mở thêm chi nhánh tại Hà Nội số 68 phố Hàng Giấy, khu Đồng Xuân. Dịp này, nhà thuốc thông báo các đại lý ở Hà Nội sẽ bán một và tặng thêm một sản phẩm của nhà thuốc.

        Khi một doanh nghiệp làm ăn được thì không chỉ nhận được lời khen tặng mà còn có cả lời gièm pha. Khi nhà thuốc đăng lời khen của một độc giả từ Marseille bên Pháp khen là thuốc dùng có công hiệu, nhà thuốc bị tố là bịa ra bức thư đó vì cho là thuốc ông Tiên không thể có bên Pháp. Nhà thuốc phải đăng trên báo Tân Văn (số 25 ra ngày 19 Tháng Một 1935) hình biên nhận của Bưu điện khi gửi thuốc đi Pháp và tờ thanh toán của bên Pháp để chứng minh sự minh bạch của mình.

        Hơn tám mươi năm trước, nhà thuốc Ông Tiên tại Phú Nhuận, ngoại ô Sài Gòn đã tỏ rõ sự năng động trong làm ăn, phát triển và quảng bá thương hiệu có thể nói là bắt kịp thời đại. Đó là tấm gương đáng tự hào của một doanh nghiệp sản xuất thuốc chữa bệnh đất Sài Gòn - Gia Định trong thời Pháp thuộc.

        * * *
        Trên báo Sài Gòn, Số 14133, 10 Tháng Mười Một 1938 có bài viết “Dắt độc-giả ở xa. Đi viếng nhà thuốc "Ông-tiên" năm 1938 cho biết chuyện thiệt hư như thế nào?” tường thuật cuộc viếng thăm nhà thuốc này năm 1938. Xin trích một số đoạn để hình dung việc sản xuất của nhà thuốc Đông y lừng tiếng một thời này.

        “Qua khỏi Cầu Kiệu, gần chợ Xã Tài (rue Paul Blanchy prolonggée, Saigon) thấy một tấm bảng to tướng đề Nhà thuốc Ông Tiên nằm dài trên sáu căn nhà rộng lớn, đồ sộ nghiêm trang, khiến cho chúng tôi bắt phải nói thầm trong bụng rằng cuộc thương mãi của người An nam mình ngày nay khuynh trương dược lớn lao tới bực này ư? Vừa vô cửa, thì có người ân cần tiếp rước rất tử tế, lập tức chúng tôi cho biết rằng muốn đi kiếm thăm ông chủ, người ấy mời ngồi đợi một chút, chúng tôi thấy kẻ đến coi mạch, người đến mua thuốc, ra vào không ngớt”.

        Ký giả được ông Hoanh “là một đấng thanh niên trẻ tuổi. Tây học rất rộng mà Nho học cũng khá đứng quản lý cai quản nhà thuốc ấy” dẫn đi một vòng giới thiệu cơ sở này “...đây là chỗ bán lẻ và phòng tiếp khách, ông Hoanh vừa nói vừa chỉ. Chúng tôi thấy cách sắp đặt tủ chưng bày các thứ thuốc không khác nào một hiệu thuốc tây lớn ở đây vậy. Nơi đó có salon, đèn điện, quạt máy, cân máy, thiết tưởng ở Đông Dương này chưa có một hiệu thuốc Annam nào mà đặng hoàn toàn như vậy. Kế qua phòng bút toán (comptabilité) rất rộng rãi, do một người Annam dân Tây đứng chủ trương với 6,7 thầy thơ ký đánh máy phụ giúp, lo xem xét việc sổ sách mấy trăm nàh đại lý và chi cuộc các nơi. Chúng tôi thấy việc làm không ngớt tay, kế qua phòng thư ký do một du học sanh ở Pháp về, chủ trương với rất nhiều thơ ký đang phụ giúp coi những thơ từ đi loại ở các nơi rất bặt thiệp.

        Hết phòng thơ ký đến phòng quảng cáo. Phòng này chiếm luôn một căn nhà do một người chuyên môn tốt nghiệp trường Mỹ thuật chủ trương và rất nhiều anh em thầy thợ phụ giúp để lo về các thứ quảng cáo như trong hát bóng, hát bộ, hát cải lương, in sách, báo chí cả ba kỳ và một équip thợ mộc, thợ thiếc, thợ vẽ để lo làm bản cặm đường, tàu thủy, bảng hiệu lớn nhỏ cho các đại lý khắp Đông dương.

        Sang qua căn nhà khác là nơi trữ thuốc, để chứa những thuốc đã làm rồi, đâu đó có ngăn nắp thứ tự do một người gardien Bengali và một thầy thông Annam cai quản. Tiếp theo kho trữ thuốc đến sở gởi thuốc đi các nơi. Chỗ này nhơn công thầy thợ làm rất đông lớp lo đóng thùng lớp lo sắp thuốc vô thùng, lớp lo dán nhãn, dưới quyền chỉ huy của hai người thầy thông Annam. Sau khi niêm phong kỹ lưỡng, kiểm điểm rất kỹ càng mới cho đem ra xe hơi chở xuống bến tàu, xe lửa hay là đến nhà thơ. Việc làm rất cẩn thận, không khi nào bể, lạc hay là mất”.

        “Quanh co lẫn lộn một hồi trong nhà thuốc, đến một căn phòng hết sức rộng lớn. Đây là phòng bào chế, ông Hoanh nói. Vừa dứt lời, chúng tôi ngó chung quanh, căn phòng ấy bắt chúng tôi phải tưởng tượng mà nói rằng: đây là y viện hay là phòng bào chế nào của người Âu Mỹ, chớ không dè nghề bào chế thuốc Annam mà ông Hoanh đã canh cải dùng đủ khí cụ máy móc theo khoa học tối tân như vậy. Trong đó có một cái lò riêng để dùng hấp, đốt. lùi, nướng, sao, dầm, tẩm, chưng, nấu các phẩm được lấy nguyên chất rất tinh khiết. đâu đó có sắp đặt rất thứ tự lớp lang, có bàn máy riêng tán thuốc ra bột và làm ra viên, thuốc trước khi để vô ve thủy tinh đều đem vào lò hấp khử vi trùng, bởi thế các thứ thuốc để bao lâu cũng không hư mốc.

        Hết phòng bào chế, ông Hoanh dẫn chúng tôi sang qua kho trữ thuốc sống phòng thí nghiệm, chỗ phơi thuốc, đều dùng máy móc riêng theo điệu nhà nghề. Đoạn snag qua chỗ nhơn công dán nhãn, vô bao, hộp các thứ thuốc. Nơi đây hai căn nhà rộng lớn, chia ra làm hai équipes: một équipe lo làm các thứ thuốc, một équipe lo làm dầu Măng và dầu cù là. Nơi đây nhơn công và thầy thợ làm rất đông đảo, cách sắp đặt đúng theo vệ sinh.

        Sự sửa đổi canh tân bày bổ của hiệu ông Tiên hiện giờ theo chỗ quan sát của chúng tôi, không dám so sánh với các Y viện lớn ở các nước Âu Mỹ, chớ ở Á đông mình chẳng những là phươg diện nào chúng tôi dám tự tin là hòan toàn”.

        Ông Hoanh biết rõ những dư luận tỵ hiềm quanh sự phát triển vững mạnh của nhà thuốc ông Tiên. Ông trả lời cho câu hỏi: “… có một số đông người cho rằng thuốc của ông bán chạy là nhớ quảng cáo hay”.

        Không cần nghĩ ngợi, ông Hoanh vui vẻ cho chúng tôi biết: “đó là sự sai lầm của họ không thông thạo trong nghề thương mãi, thấy chúng tôi cổ động làm quảng cáo nhiều mà nói thế, chớ một món hàng tốt, một món thuốc hay cần phải làm quảng cáo cho hung, phải cổ động cho giỏi, người ta mới biết mà dùng, nhưng trái lại món hàng không tốt, món thuốc không hay, dầu cho làm quảng cáo vang trời động đất đi nữa cũng không ăn nhập vào đâu, lỡ người dùng lầm một lần rồi thì sau nầy món hàng hay thuốc ấy dầu có đem cho không đi nửa, củng chẳng ma nào dám thừa nhận. Ông nên nhớ rằng bất cứ là trong thương mại nào sự làm quảng cáo cho món hàng của mình cố nhiên phải có, song bên trong nội dung của món hàng ấy phải tốt đẹp bền chắc mới mong cửa tiệm đứng vững phát đạt được cái lâu dài. Cái gương trước mắt là có nhiều hiệu thuốc mới mọc lên sớm mai quảng cáo tưng bừng chiều lại đã lặn mất há chẵng gì lẽ nói trên sao?

        Còn nhà thuốc của chúng tôi cho rằng bán chạy nhờ quảng cáo thì nó cũng đã chết lâu rồi, có đâu phát đạt kinh dinh đồ sộ đến ngày hôm nay há chẳng phải nhờ thuốc hay mà bán chạy sao?”.

        * * *

        Nhà thuốc ông Tiên tồn tại đến khi nào? Phải chăng chiến cuộc lan tàn khắp đất nước từ 1945, nhất là ở Nam bộ đã khiến nhà thuốc ngưng hoat động?

        Phạm Công Luận

        (bài đã đăng một phần trên báo Thanh Niên với bút danh Đăng Thuyên)

        Comment


        • #19
          Sài Gòn - chuyện đời của phố


          Tạp Chí Mỹ Thuật

          QUÊ HƯƠNG DIỄM ẢO CỦA LOAN DE FONTBRUNE
          (Một bài viết tuyệt hay của NNC Phạm Công Luận về chị Loan de Fontbrune, một trong những nhà sưu tập hiện đang sở hữu những tác phẩm thuộc hàng cực phẩm của hội họa Việt Nam. Không những thế chị còn là một Nhà nghiên cứu Mỹ thuật vô cùng xuất sắc. Bài viết được in trên TCMT số tháng 5&6. Trân trọng kính mời bạn đọc gần xa đặt báo)

          Một buổi chiều tháng 3 năm 1994, có một thiếu phụ đến gõ cửa căn nhà gỗ của ông Vương Hồng Sển trên đường Nguyễn Thiện Thuật quận Bình Thạnh. Ngôi nhà gỗ lúc ấy còn rất đẹp, được chăm sóc kỹ lưỡng. Khi cô đến, ông Sển ra tiếp cô ở trong vườn phía trước nhà. Cô nhắc về ông bà nội mình là ông Chưởng khế Đoàn Bá Lộc và bà Sáu Nhân, vốn là người quen cũ của ông ở Sa Đéc. Ông hỏi thăm về ông Chưởng khế, về số sách quý của ông ấy khi sang Pháp năm 1979 có mang theo được không. Ông cho cô xem một số đồ cổ trước khi cô ra về.

          Cuộc gặp chóng vánh đó được ông Sển ghi lại trong cuốn “Tạp bút năm 1994” xuất bản đầu năm 2014: “…khách này ra về để lại một bức danh thiếp, tôi tiễn khách ra về rồi ăn năn không kịp vì vị khách này, danh thiếp đề:…

          Tôi viết đến đây và chực viết tên họ của thiếu nữ tân khách của tôi ra đây, nhưng chợt nghĩ lại và không viết, vì thiếu nữ trên danh thiếp là mạng phụ của một dòng tộc (dòng đơ “de Fontbr…) thiếu nữ này là nhân viên “đặc cách” (Chargée de mission) của viện trứ danh Musée Guimet ở Paris của Pháp, – cho hay năm 1963, tôi đã từng qua học tập tại viện này về khoa đồ cổ từ tháng sáu… và tôi nói hối hận vì không được tiếp xúc lâu với thiếu nữ này để học mới thêm chút ít về chuyên môn khảo cứu…”

          Hơn hai mươi năm đã trôi qua, chị Loan de Fontbrune vẫn nhớ cuộc gặp đó. Ghé thăm cụ Sển, không chỉ để tìm hiểu về thú chơi cổ ngoạn của cụ mà chị vốn được đào tạo chuyên môn. Đó là chút thời gian trở về quá khứ, khi còn là nữ sinh trường Tây Marie-Curie, đã chớm thích hội họa và cổ ngoạn, từng tìm đến tận nhà họa sĩ Tú Duyên, nhà họa sĩ người Việt gốc Hoa nổi tiếng Đới Ngoạn Quân để mua tranh. Khi gặp cụ Sển, chị như sống lại với ông bà nội những ký ức thời Pháp thuộc, khi bà nội còn quen biết bà Dương Thị Tuyết vợ trước cụ Sển, chơi thân với bà Marguerite Duras và bà Năm Sa Đéc, người vợ sống cho đến cuối đời với cụ Sển.

          Con đường trở thành một chuyên gia nghiên cứu và sưu tầm nghệ thuật có cỡ tại Paris, kinh đô nghệ thuật của cả thế giới của chị Loan là một chặng đường dài, chưa hề bị xao lãng và được dẫn dắt từ ngọn lửa đam mê không thể tắt. Ba mất sớm (gia đình gốc Huế), chị sống cùng với mẹ (ông cố ngoại của chị làm quan dưới đời vua Thành Thái) và người cha kế là một bác sĩ phẫu thuật ở Chợ Lớn. Chị ảnh hưởng ông nội tính ham đọc sách, có thể đọc từ sáng đến tối; đến lúc tuổi già còn học thuộc làu các cuốn tự điển, học tiếng Anh… nói vui là học cho kiếp sau… Ham đọc, chị khám phá trong sách thế giới của nghệ thuật, mỗi ngày thêm đậm. Chị học tiếng Pháp từ mẫu giáo ở trường Fraternité (trường Bác Ái) Chợ Lớn và trường Marie-Curie. Từ năm 1975 đến 1977 học và thi bằng correspondance với Centre National de Télé-Enseignement, CNTE, section Littérature (Văn chương). Chị đậu tú tài Pháp năm 1977, sau đó dạy tiếng Pháp hai năm ở trường mình đã tốt nghiệp. Thời gian rảnh, chị học đàn piano, học vẽ, học võ Aikido đến đai đen. Yêu nghệ thuật từ nhỏ, chị đọc, ghi lại và nhớ tên các danh họa Trung Hoa thời xưa.

          Năm 1979, vì ông nội có quốc tịch Pháp nên cả nhà sang Pháp sinh sống. Ra đi khi mới hai mươi tuổi, trong hành trang mang theo, chị quý nhất là ba bức tranh lụa của họa sĩ Tú Duyên và bốn bức tranh nhỏ xíu chạm ngà của họa sĩ Đới Ngoạn Quân. Đến Pháp, chị qua bảy năm Đại học ở Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (Institut National des Langues et Civilisations Orientales), gọi tắt là Langues’ O, nổi tiếng dạy về các sinh ngữ và văn hoá của Á châu. Môi trường này thích hợp vì chị thích và có khiếu về ngoại ngữ, ở trường cũ đã học tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha và Đức. Chị tốt nghiệp và lấy bằng cấp về tiếng Việt, tiếng Hoa và tiếng Nhật.

          Trong thời gian học ở đây, năm 22 tuổi, một người bạn gái rủ chị ghi tên cuộc thi Hoa hậu Á châu do người Hoa ở Paris tổ chức lần đầu ở quận V, salle Maubert-Mutualité, giải nhất là một vé khứ hồi đi Hong Kong. Chị ghi tên, được vào vòng chung kết trong số vài trăm người đẹp Á châu hải ngoại dự thi và cuối cùng đã được chọn làm Hoa hậu. Chị toại nguyện giấc mơ đi du lịch ở Trung Hoa khi học tiếng Hoa khi xưa. Trong thời gian học, chị còn được học bổng đi Đài Loan (cả nước Pháp chỉ chọn hai người giỏi nhất của hai trường nổi tiếng nhất ở Paris).

          Học ngôn ngữ xong, chị tiếp tục giấc mơ đến với nghệ thuật của mình: học về mỹ thuật Châu Á tại Ecole du Louvre, Institut d’Art et d’Archéologie, Đại học Sorbonne,… Chị lấy bằng cấp về Anh ngữ (Oxford) và bằng cấp cuả Institut d’Etudes Supérieures des Arts (IESA).Vừa học, chị đọc sách bằng tiếng Hoa, Nhật…, tự tìm tòi, sưu tầm và nghiên cứu thêm về mỹ thuật Việt Nam vì lúc đó ở Pháp rất ít và gần như không có người chuyên môn về văn hóa Việt. Chị tìm hiểu và học cách phân biệt đồ Việt Nam với đồ xưa của các xứ châu Á khác (Tàu, Nhật, Hàn, Thái, Khmer…) và dần đi sâu vào ngành này.

          Chị được ông Albert Le Bonheur, Conservateur en chef của bảo tàng Guimet (Musée National des Arts Asiatiques), chuyên về lĩnh vực Khmer và Champa, và cũng là thầy của chị, nhận làm việc dưới quyền của ông, với chức danh là nhân viên “đặc cách” (Chargée de mission) của bảo tàng, khu vực Đông Nam Á (département Asie du Sud-Est). Chị được phép mở các tủ kính trưng bày để lau chùi, chạm vào các hiện vât quý giá, xem xét và nghiên cứu các hiện vật trong kho. Nhờ công việc này, chị phát hiện nhiều tượng gỗ sơn son thếp vàng, bàn thờ, chuông và khánh đồng của Việt Nam rất đẹp nhưng không ai ở bảo tàng rõ xuất xứ. Từ đó, một số bức tượng được đem ra khỏi kho để trùng tu, trưng bày (và được trưng bày trong triển lãm được khai mạc tháng 7/2014: “Rồng bay – Nghệ thuật Cung đình Việt Nam”). Sau đó, các bảo tàng khác của nước Pháp (Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Paris-Museum d’Histoire Naturelle de Paris, Bảo tàng quốc gia về gốm sứ Sèvres-Musée National de la Céramique de Sèvres, Bảo tàng Limoges-Musée de Limoges,…) cũng mời chị vào kho để giám định các hiện vật và chị đã tìm được nhiều món gốm Việt ở các bảo tàng này, ví dụ bộ đồ trà Bát Tràng mà phái đoàn đi sứ của cụ Phan Thanh Giản đã tặng cho bảo tàng Sèvres mà chị đã từng nghe kể về chuyện này trước đó. Trong kho cuả bảo tàng Guimet, có nhiều món Bleus de Hué do cụ Vương Hồng Sển tặng lúc qua Pháp…

          Trong thời gian năm năm làm việc ở bảo tàng, chị viết nhiều bài về đồ sứ ký kiểu cung đình Huế (bài nghiên cứu đầu tiên về đề tài này ở Pháp), các lăng tẩm triều Nguyễn; thuyết trình về văn hoá Việt,… Chị giúp Bảo tàng Hoàng gia Bỉ tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên ở nước ngoài về mỹ thuật Việt Nam. Dự án này phải mất mười năm mới thành hiện thực và để đưa cả trăm hiện vật quý đi triển lãm, Quốc hội Việt Nam phải ra Luật Di sản văn hóa và nhờ đó, sau này mới có những cuộc triển lãm kế tiếp trên thế giới và việc sưu tầm đồ cổ Việt Nam được chính thức thừa nhận. Và nhờ làm việc ở bảo tàng Guimet, chị có dịp đến nhà các tư nhân để xem các hiện vật của Việt Nam mà họ muốn tặng cho bảo tàng, phần lớn do ông bà, cha mẹ khi xưa sống ở Việt Nam để lại.

          Khi bảo tàng Guimet đóng cửa để sửa chữa, chị trở về sống ở Việt Nam trong bảy năm mới trở về Paris. Chị cũng tham gia khai quật các lò gốm xưa ở Bình Định (Gò Hời) với Bảo tàng hoàng gia Bỉ (tài trợ) và Viện khảo cổ Hà Nội, bảo tàng Bình Định. Chị cũng sưu tầm thêm tranh của các hoạ sĩ miền Nam (trường Mỹ Thuật Sài Gòn, trường vẽ Gia Định, trường Mỹ nghệ Biên Hoà,…).

          ***
          Niềm say mê nghệ thuật từ nhỏ cùng với ngành học chuyên môn khiến chị nghĩ đến việc sưu tầm nghệ thuật rất sớm. Lúc đầu là từ những món đồ cổ bắt gặp ở Pháp. Mỗi khi tình cờ thấy đồ Việt Nam, một cái khay trầu, cái dĩa đồ sứ men lam Huế, chị như được gặp một người đồng hương hay bạn cũ. Nhiều vật đối với chị như có linh hồn, có lịch sử, có chuyện để kể. Và khi có hiện vật trong tay, chị muốn tìm hiểu và nghiên cứu sâu, qua những hiện vật đã tìm được hay tình cờ biết thêm được nhiều điều thú vị, nhiều hiện vật còn giữ nhiều bí ẩn, câu hỏi chưa trả lời…

          Sống ở Paris, được thấy tranh đẹp của các họa sĩ nổi tiếng đem ra bán, rất mê nhưng đang là sinh viên nên không có tiền mua và chị tiếc mãi đến giờ. Sau này khi lập gia đình, chồng của chị là chủ galerie Cahiers d’Art nổi tiếng, là người chuyên nghiệp trong lĩnh vực sách và mỹ thuật hiện đại (Picasso, Matisse,…) và có tiếng tăm đã giúp chị sưu tầm tranh Việt Nam mà cách nay hơn 25 năm ít ai quan tâm. Đam mê mạnh mẽ nên có nhiều khi chị lén mua tranh và đồ cổ mà chồng không biết, hoặc nói giá thấp hơn để ông đỡ xót vì lâu nay chị chỉ mua mà không bán ra. Ở Pháp có nhiều tranh của các họa sĩ khóa mỹ thuật Đông Dương mà người Pháp mua vào những năm 1930 ở Việt Nam hay trong các triển lãm thời đó ở Paris. Đó là một thời kỳ phát triển hội họa vàng son nhất của mỹ thuật hiện đại Việt Nam mà chưa từng trở lại. Chị bắt đầu mua tranh Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ,… dễ tìm mua vì các tác giả này lúc đó còn đang sống ở Pháp và có thể mua qua các buổi đấu giá tranh. Rồi có khi “của tìm người”, nhờ bạn bè biết chị thích sưu tầm tranh nên giới thiệu người bán hay mang tranh đến bán. Bao nhiêu năm qua, chị bỏ rất nhiều công sức theo dõi tất cả các cuộc đấu giá ở Pháp và các nước khác, đến các phòng tranh xem triển lãm và mua tranh, đi rảo các chợ trời bán đồ xưa hay mua thẳng từ họa sĩ hoặc gia đình của họ…Về sau, biết dễ bị thách giá vì ham mua, chị đấu giá không ra mặt nữa mà chỉ qua điện thoại vì khi thấy chị có mặt là mọi người biết ngay là có tranh hay đồ quý chị muốn mua.

          Qua thời gian, bộ sưu tập của chị, riêng về tranh thì cũng khoảng vài trăm bức, có gần như đầy đủ các họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam và Pháp thời đó. Trong đó cũng có những bức tranh đẹp của họa sĩ ít tiếng tăm hơn mà chị mua để nghiên cứu. Chị có việc để làm nhưng chưa thể làm đối với bộ sưu tập của mình như kiểm kê, chụp hình, nhận định, đánh giá, nghiên cứu, viết sách và triển lãm để giới thiệu, chia sẻ với mọi người. Ngoài tranh, trong đó có các chủ đề khác sưu tập như tài liệu, hình ảnh, bưu thiếp, sách vở xưa, đồ gốm, đồ gỗ, đổ cẩn xà cừ, đồ đồng, đồ thêu, cổ vật thời nhà Nguyễn, tượng, bàn ghế, vật dụng của dân tộc ít người…

          Vài bức tranh quý hiếm nhất mà chị có, gắn với những kỷ niệm đẹp khi đi mua tranh. Đa số đều có tiểu sử và nguồn gốc rõ ràng mà dưới con mắt chuyên môn, chị đã nghiên cứu, tìm đọc tài liệu và thư từ của ông Giám Đốc đầu tiên trường Mỹ thuật Đông Dương, Victor Tardieu và các catalogues triển lãm xưa ở Pháp. Trong đó có những bức như “Jeunes femmes prenant le thé” của Vũ Cao Đàm; “Deux jeunes filles” của Mai Trung Thứ; “Les Cannas” của Nguyễn Tường Lân, là một bức lụa rất hiếm của hoạ sĩ nổi tiếng này. Trong số tranh chị mua, có những kỷ niệm chị còn lưu lại trong trí nhớ:

          Một hôm, chồng chị được một bạn đồng nghiệp rủ đến nhà một bà cụ ở Paris cần bán sách để chia gia tài cho con cháu. Bước vào nhà, ông thấy treo bức tranh lụa trên tường nên hỏi thăm. Bà cụ nói bức này bà được ông chồng mua tặng lúc vợ chồng mới cưới và đã được in trong tạp chí l’ Illustration, số No#l 1932. Bà nói bức này vẫn treo trên tường từ đó đến nay và đồng ý bán cho “cô vợ việt Nam” sưu tầm tranh Việt của khách. Chị rất vui mừng khi nhận bức tranh từ tay của bà vì nó vô cùng quý giá, đó chính là bức “Lên đồng” của họa sĩ tài danh về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh. Bà cụ, tên là Pierre Massé viết giấy chứng nhận để lại bức tranh cho chị, nêu cái tên mà chị thuộc lòng từ lâu qua chú thích trong tờ tạp chí “Les sorcières, sưu tập P. Massé”. Chị thật không ngờ có ngày mình tìm lại được và sở hữu bức tranh ngỡ đã thất lạc từ lâu. Chị nghĩ đúng hơn, bức tranh đã tìm ra chị..!

          Bức “La classe familiale” của họa sĩ Phạm (Quang) Hậu là một bức tranh lụa hiếm hoi của tác giả này vì ông chuyên vẽ sơn mài. Bức này chị có được hoàn toàn do may mắn. Số là chị có một cô bạn làm y tá, người Pháp. Khi phải đến nhà một bà cụ để chăm sóc, cô bạn phát hiện bức tranh nằm trên tường, rất đẹp. Hỏi ra, bà cụ cho biết khi dọn về căn hộ này cách nay vài chục năm, bà đã thấy nó nằm trên tường do người chủ cũ bỏ lại khi giao nhà. Qua sự giới thiệu của cô bạn y tá, chị đã rất sung sướng mua được bức này.

          Về bức “Les brodeuses” của Tô Ngọc Vân, trước khi có được bức này chị đến phòng đấu giá Paris và lần đầu thấy hai bức tranh lụa quý hiếm của họa sĩ Tô Ngọc Vân, nổi tiếng về sơn dầu, được bán bởi con trai của bác sĩ nổi tiếng Pierre Huard (đã viết quyển Connaissance du Viet Nam). Rất tiếc hai bức tranh đẹp và quý hiếm này được chị đẩy gía rất cao nhưng không mua được, cuối cùng dùng số tiền dự tính chuyển sang mua bức tranh lụa “La cueillette des simples” tuyệt đẹp của họa sĩ Lê Phổ. Vài năm sau, chồng của chị đến một galerie nổi tiếng ở Paris đã mua tặng chị bức tranh lụa “Les brodeuses”, là một trong hai bức đã bị vuột mất trước kia. Anh tặng chị bức này để mừng sinh nhật vợ. Chị vô cùng cảm động khi nhận món quà quý giá này sau bao năm thương nhớ và luyến tiếc.

          Cách đây nhiều năm, chị suýt mua được tranh của họa sĩ Lương Xuân Nhị, họa sĩ rất nổi tiếng từ trường Mỹ thuật Đông Dương. Lúc đó, một tỉnh nhỏ ở Pháp có đấu giá một bức tranh lụa đẹp của ông. Chị đấu giá qua điện thoại khi đang đi trên xe hơi cùng với chồng đến gặp một người bạn. Đang đấu giá, xe đi ngang qua một vùng không phủ sóng, điện thoại bị ngưng nên bức tranh đã được bán với giá rẻ. Mãi sau này, chị mới mua được bức tranh “L’Hiver” của Họa sĩ Lương Xuân Nhị.

          Về bức “La couturière” của họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh. Bức lụa này có lẽ là bức tranh duy nhất và rất quý hiếm của họa sĩ này. Khi mua cùng với một bức tranh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, chị không biết họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh là ai. Người bán hai bức tranh đó lúc đó cũng không biết tác giả của hai bức tranh là ai. Sau này, xác định được họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh tốt nghiệp thủ khoa Khóa IV trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1928-1933).

          Bức sơn mài lớn thật đẹp “La rencontre” của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung mà chị có là bức tranh đã được tặng cho bà Mộng Điệp, thứ phi của Vua Bảo Đại trong khoảng thời gian đầu thập niên 1950 khi bà ở Buôn Ma Thuột giữ “hoàng triều cương thổ”. Lúc bà còn sống, chị thường đến nhà bà ở Paris thăm viếng và trò chuyện với bà cả ngày. Bà rất thương chị, thường kể chuyện xưa trong cung, về mẹ vua Bảo Đại, Nam Phương hoàng hậu, về ấn kiếm,…, và cho xem hình ảnh xưa. Bà đã để lại cho chị bức tranh này và nhiều đố sứ ký kiểu cung đình Huế khác của vua Bảo Đại…

          Nhờ sưu tầm được nhiều tranh của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương, chị được giới nghệ thuật Paris biết đến và trân trọng sự hiểu biết về lĩnh vực này. Các nhà đấu giá, chuyên môn thường nhờ chị thẩm định giúp tranh Việt, thật, giả. Lợi thế của chị là nhờ có được số lớn tranh gốc để nghiên cứu, so sánh cũng như nhiều năm kinh nghiệm, quen nhìn tranh. Đến năm 2012, bảo tàng Cernuschi (bảo tàng của thành phố Paris) có ý định tổ chức triển lãm về Việt Nam cho năm chéo Pháp -Việt, chị đề nghị tổ chức triển lãm tranh Việt Nam và các thầy trò của Trường Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp lập ra. Triển lãm này rất thành công, khoảng 15.000 người từ các nước trên thế giới đã đến xem, trong số đó có gia đình và học trò của các hoạ sĩ Việt Nam và Pháp như Nam Sơn, Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh, Jules Galand, Robert và Mariette Balick,… đến xem và viết thư khen ngợi, cho biết thêm thông tin về các họa sĩ Pháp trong triển lãm khiến chị rất cảm động. Catalogues in mấy ngàn cuốn đã bán hết và được in lại thêm mấy ngàn cuốn nữa cũng đã bán hết. Chị là “Commissaire invité” của triển lãm này.

          Cũng trong năm chéo Pháp-Việt 2013/2014, Viện Hàn Lâm Hải Ngoại Pháp (ASOM) mời chị làm “Commissaire” cho triển lãm họ tổ chức ở Hà Nội (Viện Lưu Trữ Quốc Gia số 1), TP HCM (Bảo tàng Mỹ Thuật, Viện Văn Hoá IDECAF) về đề tài “Bốn Thế Kỷ Giao Lưu Pháp-Việt”. Sau đó, ở Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia Paris (CARAN), tổ chức triển lãm đề tài đặc biệt là “Các Nhà Nhiếp ảnh Pháp đầu tiên ở Việt Nam”. Chị đóng vai trò chính trong triển lãm này, hoàn toàn được tự do lựa chọn các hình ảnh xưa và chi phí không giới hạn, mời những nhà nghiên cứu để viết bài trong catalogue, sắp đặt triển lãm… Triển lãm thành công được dư luận khen ngợi, chờ đợi ra catalogue đang được thực hiện và các tỉnh phía Nam nước Pháp cũng đề nghị mang xuống đó trưng bày. Cuối tháng 6, chị Loan được bầu với số phiếu cao nhất để nhận chức danh “Correspondant” của Viện Hàn Lâm Hải Ngoại Pháp (5e section – Enseignement, Littérature, archéologie, et Beaux-arts). Trong số những người nổi tiếng có tên trong Viện Hàn Lâm, là: Alexandre Yersin, các vua Khải Định, Bảo Đại, hoàng thân Bửu Lộc; Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng,…

          Đối với chị Loan de Fontbrune, nghệ thuật giúp chị nhận dạng và đánh thức tình yêu quê hương nằm sẵn trong tiềm thức. Quê hương ban đầu là Sài Gòn, nơi sinh ra và lớn lên, với những tiếng rao hàng, kiosques Nguyễn Huệ dịp Tết về, bữa ăn sáng ở cà phê Givral, tiếng ca cải lương văng vẳng trên radio, hương vị mì Tàu Chợ Lớn,… Đến khi bước vào thế giới nghệ thuật, quê hương mang tầm vóc lớn hơn, quê hương của những phụ nữ Việt nâu sồng, quê nghèo trong tranh của Nguyễn Phan Chánh, của Hà Nội hào hoa thanh lịch và nét mơ màng trên mặt thiếu nữ Hà Thành một thời trên tranh Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Mai Trung Thứ. Quê hương thấm vào từng chút một lại từ nơi rất xa, nên khi trở về Paris sau bảy năm về Việt Nam làm việc nghiên cứu từ 1989 chị cảm thấy mình lại làm một cuộc ly hương nữa. Khi sống ở Pháp, mùa đông lạnh khiến chị nhớ nắng ấm của Sài Gòn, ra đường nhớ những người buôn bán ở vỉa hè mời gọi mua nước, mua báo, nhớ các bài hát. Cũng như tất cả những người Việt ở hải ngoại, chị nhớ thương về Sài Gòn xưa và tiếc những kiến trúc, cảnh quan đẹp đã không giữ được.

          Nên những bức tranh, cổ vật Việt Nam đang bù đắp những trống trải trong lòng khi nhớ về nơi sinh ra và lớn lên. Quê hương trong tranh luôn rất đẹp, nên chị Loan de Fontbrune luôn nhìn thấy một quê hương đầy diễm ảo và thơ mộng. Đó là hạnh phúc của chị, bên cạnh niềm hạnh phúc rất lớn là được sống trong môi trường nghệ thuật đỉnh cao ở một kinh đô nghệ thuật của thế giới, có lẽ là quá viên mãn đối với một đời người.

          Phạm Công Luận

          (Trích sách Sài Gòn chuyện đời của phố tập 2)

          Comment


          • #20
            Lời ca dọc đường đời

            Sài Gòn - chuyện đời của phố
            Phạm Công Luận



            LỜI CA DỌC ĐƯỜNG ĐỜI


            Bây giờ còn ai nhớ những lời ca này:
            “Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió, hồn như đám mây trắng lửng lơ, giang hồ không bờ không bến, đẹp như kiếp Bô-hê-miên”.

            Hay:
            “Bánh xe quay nhanh nhanh, chiếc thân xe lung linh, chìm trong làn cát trắng, xe nhịp nhàng quay bánh lướt hình xe mờ khuất trong không gian...”.

            Đó là những câu hát mà tôi thường nghêu ngao lúc bảy hay tám tuổi, trong căn nhà nhỏ ở Phú Nhuận những buổi sáng mùa hè hơn bốn mươi năm trước.

            Ai cũng có những bài hát, lời ca, giai điệu đi dọc cuộc đời mình. Chúng nằm trong kho ký ức, chỉ đợi một cú chạm nhẹ tình cờ là hồi sinh. Nhớ về dăm bài hát cũ đôi khi đánh thức cả những khoảnh khắc đẹp đẽ nhất mà đời ta có lúc trải qua.

            Mười tuổi, học lớp bốn, tôi mê chương trình Tuổi Xanh của bà Kiều Hạnh, chương trình “Thế giới của trẻ em” của ông Lê Văn Khoa và mơ có lúc được dự chương trình để cùng hát hay chơi trò chơi tập thể. Anh tôi có lần bảo: “Tao thấy ông Lê Văn Khoa ở trong Tòa Cơ Đốc Phục Lâm ngay ngã tư Phú Nhuận, muốn lên chương trình “Thế giới của trẻ em” không, tao dắt đến đó xin!”. Nghe thế, tôi rụt cổ lại ngay vì không tin mình có thể được vinh hạnh như vậy và cũng không tin ông anh làm được điều đó. Dù sao, tôi vẫn thích được dạy ca hát. Một buổi sáng, cô giáo báo tin là sáng chủ nhật ai thích học hát thì lên trường sẽ có các anh “Xây dựng nông thôn” đến dạy. Tôi mừng quá, về không dám xin ai (có xin cũng không được phép), lẳng lặng đi ngủ sớm và sáng chủ nhật dậy sớm chuồn ra khỏi nhà, đi bộ lên trường. Ở đó, đã có sẵn một nhóm thanh niên bận áo đen cầm sẵn hai cây đàn. Không nhiều đứa học trò đến lắm, nhưng các anh vui vẻ dạy các bài hát. Tôi không nhớ nhiều, đại khái: “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…”, rồi “Anh em ta, cùng mẹ cha, nhớ chuyện cũ, trong tích xưa, khi thế gian, còn mù mờ…”, “Chiêng trống cồng mừng anh lên rẫy xuống đồi xuống nương đi cày…”. Mỗi đứa được phát một xấp giấy vài trang in ronéo lời bài hát. Đến khi về nhà, mới tá hoả khi biết cả nhà và vài người hàng xóm táo tác đi tìm tôi khắp xóm và vòng quanh ba con đường Nguyễn Minh Chiếu, Võ Tánh và Trương Tấn Bửu suốt buổi sáng. Tôi bị đòn một trận nên thân nhưng bụng lại vui vì giấu được “bửu bối” là xấp lời ca.

            Lúc đó là lúc ca khúc boléro rất thịnh hành. Bấy giờ người ta hát nhiều các ca khúc của Trúc Phương như Tàu đêm năm cũ, Ai cho tôi tình yêu, Bóng nhỏ đường chiều... hay của Lam Phương như Biết đến bao giờ, Xót xa... Vài người lính trong xóm, khi về phép thường thích ngồi ngoài khoảng sân rộng trong hẻm để uống bia, gảy đàn Tây ban cầm và hát boléro. Lời ca những bài đó thường u uẩn, giai điệu đằm buồn, không gần với gout nhạc nhà tôi. Anh chị tôi chỉ mê ca khúc của Phạm Duy, không phải là bài Tình ca hay Con đường cái quan, mà là các ca khúc trẻ trung. Lúc đó nhạc sĩ Phạm Duy tóc đã bạc trắng mà sao viết toàn những ca khúc rất trẻ trung như Em hiền như Ma soeur, Cô Bắc kỳ nho nhỏ, Còn chút gì để nhớ, Hai năm tình lận đận... Anh tôi kiếm một cuốn sổ rất đẹp, trang trọng chép từng bài và vẽ bức tranh minh họa bên cạnh, toàn là những gương mặt thiếu nữ tóc dài... rồi mấy anh em thay nhau ôm cuốn sổ mà hát hò. Các anh chị tôi không thích nhạc Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng... những tác giả mà bạn bè người miền Trung ở trường đại học của các anh chị rất thích.

            Lớn lên một chút, vào lớp sáu, tôi có kênh âm nhạc riêng của mình, cũng có một cuốn sổ chép mấy bài như Đồng xanh, Trong nắng trong gió, Hè 72, Những mùa nắng đẹp, Tiễn em nơi phi trường, Búp bê không tình yêu, Xin em gõ ba tiếng, Hôm nay không sữa... đó là những năm tâm hồn bắt đầu nhạy cảm, biết buồn vui. Tôi như tìm được một thế giới âm nhạc riêng có thể giải tỏa những nhộn nhạo trong tâm hồn đứa con nít mới lớn. Tôi nhớ lúc mình ngồi trện vỉa hè đợi thằng bạn cùng đi học mà hát thầm trong miệng: “Thu đang êm đềm trôi qua. Lũ em bé đang cắt lúa. Đống gỗ kia khô, em đã mang vô. Anh mặc binh phục oai nghiêm, với bạn hữu ra chiến tuyến. Chiến tuyến xa xăm...”. Hay: “Hè sang lá cây xanh màu. Hè sang vang tiếng ve sầu. Hè sang phượng tươi thắm màu, ru say hồn thi nhân…”. Cái duyên dáng rất Hà Nội xưa của Phạm Duy, Vũ Xuân Hùng khi họ đặt những lời ca vào nhạc ngoại quốc khiến tôi cảm thấy gần với văn hóa miền Bắc hơn sau giai đoạn xem sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và tiếp tục mê đọc truyện Duyên Anh, Nhật Tiến, Mai Thảo...

            Lúc ấy lòng cũng đã biết buồn khi nghe hát về những cuộc chia ly. Đã vậy, ca sĩ Thanh Lan khi hát thì mắt luôn ướt, long lanh như sắp khóc khiến thằng tôi cũng rưng rưng theo. Tuy vậy, những ca khúc buồn đó không đủ chiếm hết thế giới cảm xúc của tôi. Tôi vẫn gào theo mấy bài theo điệu twist: “Có nhớ đêm nào, về chung với nhau nơi này. Tìm đến hòa khúc sum vầy. Tình xuân ngất ngây ta cùng say...” Hay theo điệu jazz nhừa nhựa nhưng hấp dẫn của bài Điệu ru nước mắt: “Gió... mưa gào thiết tha. Hình bóng xưa vừa thoáng qua. Ngoài hiên mưa rơi rơi ướt, sầu lắng trong tâm hồn...”. Tôi cứ rên rỉ riết cho đến khi ông anh cả nghe được, la cho một trận vì tội làm con nít mà hát nhạc người lớn. Từ đó tôi quay trở lại hát mấy bài tủ: “Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió...”.

            Đầu năm 1974, khi chiến tranh ngày càng căng thẳng, có tin vài người anh trong xóm chết ở chiến trường. Họ không còn về lại xóm cũ để hát mấy bài boléro nữa. Vài bữa trưa ăn cơm xong, chuẩn bị đi học, tôi nghe văng vẳng giọng ca sĩ Hoàng Oanh hát những bài Tám điệp khúc, Nhớ nhau hoài, Những đốm mắt hoả châu... Những lời ca làm xốn xang tâm hồn đứa con nít mười ba tuổi. Tôi bắt đầu thích nhạc boléro, chậm rãi như giải bày, như tâm sự giữa hai người trong một đêm giã biệt, nhìn sâu vào thân phận mình, được chiến tranh và sự chia cắt giúp lớn lên, thành một thứ “vọng cổ tân thời” như nhà văn Sơn Nam đúc kết. Nếu được như vậy, sức sống của boléro là điều không cần giải thích khi còn vẹn nguyên trong tâm tưởng người miền Nam đến nay, chưa kể sự lan tỏa của nó đã xa hơn dần về phía Bắc.

            Tôi luôn tự hỏi vì sao những bài hát được nghe khi còn niên thiếu luôn có những âm thanh và dư vị ngọt ngào hơn bất cứ điều gì nghe được khi đã trưởng thành? Phải chăng khi ấy chỉ có âm nhạc thuần chất phát ra từ cái radio và máy dĩa, máy cassette, không có hình ảnh kèm theo (trừ những chương trình ca nhạc vài chục phút trên ti vi sau này) là nguồn cung cấp lớn nhất cho trí não đang mở ra của tuổi trẻ. Các nhà tâm lý cho rằng, cho dù một ca khúc có giai điệu và tiết tấu không quá xuất sắc, nó vẫn có sức mạnh kết nối với hệ thần kinh của chúng ta và kết nối đó không mất đi khi đã trưởng thành. Và cho dù thị hiếu của chúng ta có thể phát triển như thế nào đi chăng nữa, bộ não của chúng ta vẫn có thể bị kẹt lại trong những bài hát mà chúng ta bị ám ảnh khi nghe lời hát trong cái radio hay máy hát cũ kỹ phát ra thứ âm thanh xoàng xĩnh kém xa bây giờ.

            Nghĩ về điều đó, tôi nhớ lại bài Dạ khúc, lời Việt của bài Serenade của Franz Schubert do anh bạn thời trung học vừa hát vừa gõ ngón tay trên mặt bàn gỗ để tập đánh piano. Anh ngạc nhiên khi tôi kể là tôi biết ca khúc lừng lẫy đó từ những câu hát ngập ngừng của anh: “Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời. Cho người thôi khóc thương ai, cho niềm yêu đến bên tôi! Chiều nay lỡ ghé môi trên mi sầu, ru người qua chốn thương đau, cho làn nước mắt... chìm sâụ....”. Lời ca và giai điệu đó rơi xuống hồn tôi năm mười sáu tuổi đầy lo lắng giữa lúc cuộc sống khó khăn nhưng vẫn đầy mộng tưởng, dù không hiểu hết nhưng làm lòng tôi chùng xuống. Vài người bạn của tôi trong một lần bàn về âm nhạc trên mail group lớp cũ thời trung học, vẫn cho là mình nhớ bài hát này, điệu nhạc kia có thể vì nó rơi vào cái năm quan trọng nhất đời mình. Có thể là từ làn môi người yêu đầu tiên, được nghe trong nụ hôn đầu tiên đầy run rẩy nhưng say đắm, trong vũ hội đầu tiên ở trường trung học khi đã ra nước ngoài. Chúng luôn lung linh trong trí nhớ bất trị chỉ thích nhớ những gì đẹp đẽ.

            Sau này, tôi nhận ra mình không bao giờ yêu được một ca khúc theo cách mình đã yêu khi còn trẻ. Phải chăng vì cách đánh giá của chúng ta đã trưởng thành hơn? Tôi thích một ý hay: âm nhạc chính là một lỗ hổng thần kinh mang đến cho chúng ta cái nhìn thoáng qua, vào những năm khi bộ não của chúng ta biết nhảy lên với niềm vui trong âm nhạc. Những năm đó có thể đã trôi qua, nhưng mỗi lần chúng ta nghe những bài hát đã từng yêu thích, niềm vui mà chúng từng mang lại đã tăng lên thêm một lần nữa.

            PHẠM CÔNG LUẬN
            (trích NHỮNG BỨC TRANH PHÙ THẾ)

            Comment



            Hội Quán Phi Dũng ©
            Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




            website hit counter

            Working...
            X