Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn.

Collapse
X

Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn.

    Đây là bài của một anh em 7505 Sheppard, nhờ bebau post lên HQPD giùm.
    Sẽ gửi tiếp những bài sau.
    Cám ơn.






    Ba Kiem Mai

    HAI NGÀY GÁC LINH CỮU HOÀNG VĂN NHẠN


    Quả là ngẫu nhiên, khi từ tháng 12/1972 đến 30/4/1975, cả 3 đồng đội ngã xuống đều có mối liên hệ gần gũi với tôi. Trong Stt trước, cố thiếu úy Phan Huỳnh Vân có số quân liền kề với tôi, trong Stt này, cố chuẩn úy Hoàng Văn Nhạn, là SVSQ nằm giường dưới, còn tôi nằm giường trên (giường 2 tầng), thuộc trung đội 341, đại đội 34, khóa 3/72 trường Bộ binh Thủ Đức. Ở Stt sau, tôi sẽ viết về cố chuẩn úy Phan Văn Mang rớt máy bay T.37 ở bên trái phi đạo 33R, Sherppard Air Force Base, ngay trước mắt, lúc tôi chuẩn bị cất cánh.

    Như đã kể trong Stt trước, đầu tháng 12/1972, SVSQ thuộc ba khóa: 3, 4, 5/72 Thủ Đức được đưa về các tỉnh miền Tây trong chiến dịch giành dân, giữ đất trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực, trừ 60 SVSQ khóa 3 và 9/72, trong đó có tôi, được ở lại để chờ ngày chuyển sang Không quân học bay. Theo phóng đồ, mỗi SVSQ sẽ về một ấp, ăn ngủ tại uỷ ban hành chánh xã, ban ngày SVSQ cùng trưởng ấp và lính địa phương đi vào từng xóm, để giải thích Hiệp định Paris sẽ ngừng bắn vào ngày 27/1/1973. Lúc đó, chỗ nào của quân đội VNCH kiểm soát là lãnh thổ quốc gia, cấm quân Mặt trận Giải phóng xâm nhập, đồng bào phải treo Quốc kỳ VNCH, nếu phía bên kia lén treo cờ MTGP thì phải báo chính quyền để hạ cờ. Đồng bào không được đi vào vùng của MTGP kiểm soát. Theo trung úy Tâm, đại đội trưởng ĐĐ 34, quản lý tụi tôi, thì mục tiêu của tổng thống Thiệu trong chiến dịch này, đưa SVSQ về kèm sát trưởng ấp và xã trưởng để ngăn ngừa các viên chức vùng xôi đậu có thể làm ngơ để MTGP tái chiếm lãnh thổ mà quân VNCH vừa tiếp thu.

    Ai dè, đúng một tuần sau, tin báo thằng Nhạn tử trận. Nhạn cùng trưởng ấp và 2 lính nghĩa quân đi trên ghe máy, qua đám dừa nước rậm thì bị trái lựu đạn ném lên nổ, kèm theo hàng loạt đạn AK bắn xối xả. Bốn người trên ghe đều tử trận. Nhạn con nhà giàu, đẹp trai, mặt vuông, cằm bạnh, đeo kiếng cận, giọng nói rổn rảng, yêu đời. Nó thường ca chế lời bài Love Story: “Bởi bà già rắc rối, cuộc tình rối rắm, ôi biết nói gì, thì đành nói dối…”. Tướng nó nhìn rất thọ, không thể chết yểu, trừ một điều tôi phát hiện là một tuần trước khi đi chiến dịch, da mặt nó từ màu xạm đầy vết lõm mụn bọc, bỗng dưng chuyển sang màu trắng xanh như người đau gan. Hỏi thăm, nó nói tao có đau yếu gì đâu!

    Nhạn chết ngoài đồng, ông nội Nhạn không cho quàn Nhạn trong nhà, nên xin quàn Nhạn tại Nghĩa trang Quân đội. Trong đại đội 34 có 14 thằng chờ qua Không quân được xe GMC chở lên nghĩa trang gác linh cữu Nhạn. Bọn tôi mặc đồ tiểu lễ, đeo dây biểu chương, mang bao tay trằng, mỗi ca gác một tiếng, hai đứa bồng súng chào, đứng nghiêm như trời trồng ở hai bên hòm. Thay phiên gác từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều thì xe GMC đưa bọn tôi về Thủ Đức, hôm sau xe chở lên gác tiếp.

    Bấy giờ, chiến trường Bình Long, Kontum, Cổ thành Quảng Trị đã kết thúc, nhưng quân VNCH còn đánh tái chiếm vùng nam Sông Thạch Hản và vùng Cửa Việt với tổn thất nhân mạng lớn, nên Nghĩa trang Quân đội có rất nhiều tử sĩ. Từ bên ngoài nhìn vào, phía tay phải nhà quàn có khoảng 70 quan tài xếp thành 2 dãy của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Phật. Bên trái nhà quàn có khoảng 50 quan tài của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Công giáo. Ở sảnh giữa chỉ có ba quan tài sĩ quan.


    DÂY CHUYỀN AN TÁNG

    Mặc dù bên trong các quan tài đều được bọc thiết và hàn chì, nhưng mùi hôi vẫn xông ra nồng nặc, do xác lính chở về đến đây đều sình thối. Nhìn số quân mới biết đa số các anh sinh từ năm 1954 đến 1952 (18-20 tuổi) và thuộc các bình chủng thiện chiến: Nhảy dù, TQLC, Biệt động quân. Do quân đội tôn trọng tâm linh, nên nghi lễ an táng rất trang trọng nhưng không che giấu được những chi tiết thê lương! Bên dãy quan tài theo đạo Phật, vị tuyên úy Phật giáo, mặc cà sa vàng, đầu cạo trọc, mẫn cán lần lượt đọc kinh cúng cơm trưa và cúng cơm chiều từ quan tài này đến quan tài khác.

    Vì mùi rất hôi, nên tang gia đều không đến gần quan tài, mà ở tại khu nhà nghỉ cách đó 100 mét. Khi đến lượt cúng cơm, nhà sư tụng kinh với hai người lính Liên đội Chung sự đứng hầu hai bên bàn thờ, tang gia mới đến quỳ trước bàn vong. Khi thầy tụng đến đoạn: “Kiềng tiền tửu châm, nhị tuần lễ nhị bái…” thì người lính hầu bưng nhạo rượu châm thêm ba ly rượu và vợ con tử sĩ lạy 2 lạy. Phần lớn tử sĩ có vợ trẻ, cha mẹ trên tứ tuần và anh chị em ruột đến, một số vợ tử sĩ bồng con nhỏ trên tay với vành khăn tang. Khi thầy đọc dứt kinh cúng cơm, hai người lính hầu bê cái bàn thờ sang quan tài kế bên, tang gia của quan tài kế bên liền đến quỳ. Tang gia của quan tài vừa tụng xong khóc tức tưởi trên hành lang trở về nhà nghỉ.

    Một vòng cúng 70 quan tài phải mất 3 tiếng đồng hồ, vị sư tuyên úy và hai lính hầu phải chịu mùi hôi suốt 6 tiếng/ngày. Trong khi đó, bên 50 quan tài theo đạo Công giáo có nghi thức gọn hơn: Vị linh mục tuyên úy mặc áo dài thụng màu đen, một tay cầm chén nước thánh, một tay cầm nhánh hoa, rãi nước lên đầu quan tài, miệng đọc kinh, cũng có hai lính hầu nghiêm chào. Một tour làm phép rửa tội cho 50 quan tài chỉ mất một giờ. Tất cả quan tài đều phủ Quốc kỳ to kèm vành khăn tang nhỏ, Quốc kỳ dành để vinh danh Tổ quốc, khăn tang để tạ tội vì chết trước cha mẹ các anh, tôi không cầm được nước mắt khi nghĩ đến ý nghĩa đó.

    Bình quân mỗi ngày, đội mai táng phải chôn phân nửa số quan tài đang quàn và đội tẫn liệm phải điền vào chỗ trống 60 quan tài mới. Liên đội Chung sự lo hữu sự từ lúc nhận xác đến lúc xây phần mộ. Cấp số của Liên đội khoảng bằng đại đội, nhưng không gọi là đại đội vì gồm đủ sắc lính: Một toán quân nhu đóng hòm, một toán quân y rửa xác, cho vào bọc nylon và đưa vào ngăn lạnh. Ngoài ra, mỗi binh chủng: Hải quân, Không quân, TQLC, Nhảy dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Quân đoàn… phải cử hai hạ sĩ quan biệt phái về đây vừa để làm đội dàn chào danh dự, vừa nhận xác tử sĩ cùng binh chủng để báo cáo về đơn vị và trích quân bạ của tử sĩ đó để viết điếu văn. Tất cả quân nhân biệt phái đều dưới quyền chỉ huy của trung úy Liên đội trưởng, nếu nhớ không lầm tên là Xuân.


    PONCHO BUỒN PHỦ KÍN ĐỜI ANH

    Trung úy Xuân xuất thân từ trường Sĩ quan Thủ Đức nên rất mến đàn em tụi tôi. Tôi vốn hiếu kỳ, ngoài giờ gác thường theo trung úy Xuân để hiểu các khâu vận hành của Nghĩa trang. Đa số xác ở Vùng III được đưa đến bằng xe GMC bít bùng (vì gần), Các tử sĩ ở Vùng 1, II, IV (xa) được tẫn vào quan tài và chở bằng máy bay C.130 về Tân Sân Nhất, rồi xe GMC chở về nghĩa trang. Một số xác ở Vùng III được chở về bằng trực thăng UH. Nghe tiếng trực thăng đáp, trung úy Xuân rủ tôi ra bãi đáp nhận xác. Anh cơ phi trực thăng cho biết, một trận đánh ở Hậu Nghĩa đến ngày thứ ba mới lấy được 5 xác tử sĩ ra. Xác được bọc kín trong Poncho (dùng làm áo mưa, làm võng, nếu ghép 3 cái thì thành lều chung) và được buộc bằng dây dù vào băng ca. Do xác sình sinh biogas, nên Poncho phồng lên, những chỗ buộc dây dù thì khuyết xuống, trông giống như đòn bánh tét mới nấu chính.

    Không biết, khi NS Phạm Duy phổ thơ bài "Kỷ vật cho em" hoặc khi thi sĩ Linh Phương làm bài thơ này, có nhìn thấy cảnh tượng này không, mà viết lời thơ, ca quá chính xác: “Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả - Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa - Anh trở về trên chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng (trực thăng cứu thương sơn trắng có chữ thập đỏ) - Anh trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh…”

    10 người lính của trung úy Xuân khiêng 5 băng ca vào phòng tắm xác. Cơ phi trực thăng chạy vào kho lấy 5 băng ca đã rửa và sấy khô đem lên trực thăng, giống như người uống xá xị phải trả lại vỏ chai. Tại phòng rửa xác, các anh lính mang khẩu trang dùng dao cắt đứt dây dù, rồi tưới nước compound và dùng vòi nước cực manh phun vào Poncho bung ra, một vài con còng núp dưới lớp poncho bị nước bắn lên cao. Sau khi xác tử sĩ sạch máu, các anh lính dùng dao, kéo hớt quân phục bó chật ra, rồi phun "bọt tuyết" lần nữa cho xác sạch, mới cho vào túi nylon và đưa vào ngăn lạnh. Trung úy Xuân cho biết, từ năm 1966 (khi bắt đầu nhận xác trận Đồng Xoài) đến trước Tết Mậu Thân xác tử sĩ về ít, nên quân y còn lấy da từ chỗ kín đem vá đắp các vết thương hở lớn ở mặt, bàn tay để thân nhân bớt đau lòng. Còn bây giờ xác nhiều quá, vết thương ra sao cứ để vậy.

    Các lính biệt phái có trách nhiệm lấy thẻ bài của tử sĩ cùng binh chủng và báo về đơn vị. Đơn vị trưởng báo về Bộ Tổng tham mưu để ký quyết định thăng cấp và tặng huy chương, rồi báo về tiểu khu nơi thân nhân tử sĩ cư ngụ. Tiểu khu có trách nhiệm lấy xe chở thân nhân tử sĩ đến Nghĩa trang quân đội. Liên đội Chung sự phát mùng mền chiếu gối lẫn đồ tang cho thân nhân tử sĩ, cấp thức ăn cho thân nhân (món ngon như đám giỗ). Sau khi ổn định chỗ ăn ở, thân nhân được đưa xuống phòng lạnh nhận xác tử sĩ để liệm theo ngày giờ mà thân nhân đã xem bói. Xác nào mất thẻ bài hoặc có thẻ bài nhưng lâu quá thân nhân chưa đến nhận cũng đem ra liệm và chôn theo nghi thức. Vì vậy, có những quan tài đề tên rất lạ như: “Phi hành đoàn C.47”. Trung úy Xuân cho biết, khi lính hành quân vào mật khu, phát hiện có 5 cái sọ nằm gần xác máy bay C.47, không thấy xương thân thể, không thấy thẻ bài, bèn nhặt về giao. Trung úy Xuân cho bỏ tạm 5 sọ vào một quan tài, và báo cho Không quân sưu tra, chiếc C.47 rơi tại tọa độ đó là phi vụ nào, hồi năm nào, để tìm ra phi hành đoàn. Có quan tài gắn hình một cô gái cười tươi rất đẹp, tưởng là nữ quân nhân, ai dè Trung úy Xuân giải thích, trong bóp tử sĩ có ảnh cô gái, nhưng không có ảnh anh ta, mà thân nhân chưa đến, nên anh em tẫn liệm lấy hình người yêu gắn ở đầu hòm mong vong linh tử sĩ tạm vui.

    Vì sĩ quan chỉ huy các tử sĩ đều ở chiến trường, nên trung úy Xuân phải thay mặt họ đọc quyết định thăng thưởng huy chương - cấp bậc và đọc điếu văn. Một ngày chôn 60 tử sĩ, trung úy Xuân phải đọc 60 quyết định thăng cấp, 60 quyết định tặng huy chương và 60 điếu văn ngắn. Do các quyết định đều do Bộ tổng tham mưu ký, nên theo hệ thống quân giai, trung úy Xuân phải thừa lệnh nhiều cấp: "Thừa lệnh đại tướng Tổng tham mưu trưởng, thừa lệnh trung tướng tư lệnh quân đoàn, thừa lệnh chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, thừa lệnh đại tá tiểu khu trưởng tiểu khu Biên Hòa, tôi trung úy Xuân xin đọc quyết định, đọc điếu văn…". Sau khi trung úy Xuân đọc điếu văn, một phút mặc niệm bắt đầu, hai lính quân nhạc thổi bài Exodus bằng kèn và 8 người lính bồng súng chào ở hai bên hòm. Lúc hạ huyệt cũng với tiếng kèn đưa tiễn, 8 người lính bắn 8 phát súng chỉ thiên. Có những người vợ trẻ đôi mươi và bà mẹ tứ tuần nhào xuống huyệt đòi chết theo chồng, con mình. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào tử sĩ không quen biết lần cuối mà không cầm được nước mắt. Hai ngày gác ở Nghĩa trang, mới thấy được những thi thể không lành lặn của người lính và hiểu thấu được nỗi đau của những người vợ trẻ, mẹ trẻ.

  • #2
    Đây là bài của một anh em 7505 Sheppard, nhờ bebau post lên HQPD giùm.
    Sẽ gửi tiếp những bài sau.
    Cám ơn.



    Bài của người chứng kiến.


    Ba Kiem Mai
    April 22 at 7:59pm ·

    Nhớ Phan Văn Mang: Chim non gãy cánh!


    Khoảng 9AM một ngày trong tháng 10/1974, tại phi trường Sheppard Air Force Base (Texas, USA), Phan Văn Mang (Khóa 7505) cất cánh chiếc T.37 từ phi đạo 33C trong phi vụ solo vùng (Mang đã solo 7 phi vụ), còn tôi (Khóa 7506) đang đậu chiếc T.37 tại vị trí số 1 (number one position) trong phi vụ dual contact (bay với thầy - trung úy James Russ Richard), nghĩa là tôi sẽ cất cánh ngay sau Mang một phút. Nhưng trời ơi, chuyện gì đã xảy ra? Máy bay của Mang lên cao mà không xếp flaps (cánh tăng nâng) và landing gear (bánh). Giọng một thầy ở Mobile ATC Tower (Đài điều khiển nằm ở mặt đất cạnh phi đạo, trong đó có một thầy và một trò trực để quan sát máy bay cất cánh và đáp qua ống dòm, sẵn sàng nhắc nhở các thiếu sót của học viên bay solo, còn Control Tower nằm ở trên tháp cao để điều khiển không lưu chung) nhắc “Raise flaps and landing gears up”. Mang đáp: “Ít’s too hot in the cockpit, I request for emergency landing” (buồng lái nóng quá, tôi xin đáp khẩn cấp). Control Tower: “Clear the runways for emergency landing” (giữ phi đạo trống chờ đáp khẩn cấp), nghĩa là máy bay sắp cất cánh như tôi không được phép ra phi đạo, máy bay sắp đáp phải go around (bay vòng vòng) chờ lệnh.

    Ngay sau đó, Mang líu lưỡi nói tiếng Việt mà tôi nghe không rõ, máy bay của Mang quẹo trái định vòng lại đáp, nhưng máy bay không nghiêng 60 độ, mà nghiêng 90 độ, nó triệt nâng, run lắc rồi cắm mũi xuống bãi cỏ bên trái phi đạo 33R (Sheppard có 3 phi đạo 15C/33C (giữa dành cho T.37), 15L/33R (phải, dành cho máy bay siêu thanh), 15R/33L (trái dành cho máy bay cánh lớn). Một tiếng nổ lớn và lửa bốc lên, không thấy Mang nhảy dù ra, nhiều xe cứu hỏa, cứu thương chạy ra phi đạo 33R rồi băng ra đồng cỏ để dập lửa và kéo Mang ra. Ngày sau đó, toàn bộ học viên VN (khoảng 120 người) bị ground (cấm bay) để giảm stress, học viên các nước Tây Đức, Iran, Kuwait, Saudi Arabia… vẫn bay bình thường. Chiều hôm sau, toàn thể huấn luyện viên và học viên các nước vào hội trường nghe một thiếu tướng phụ trách an phi (từ Bộ tư lệnh Không quân Mỹ ở Randolph AFB) briefing (huấn thị).

    Viên thiếu tướng này (quên tên) tự giới thiệu từng là đại tá phi công F.4 bị nhốt ở Hỏa Lò và được trao trả tù binh năm 1973, ông giải thích trong buồng lái có máy điều hòa không khí, thông thường phi công set thermostat ở vị trí cool (mát). Ở mặt đất trời nóng, bơm máy lạnh chạy để cung cấp hơi lạnh, nhưng khi máy bay lên 20.000 feets, thì nhiệt độ bên ngoài âm, bơm máy lạnh sẽ ngưng chạy, lúc đó đường ống dẫn hơi nóng từ buồng nén khí (compressor chamber - của động cơ phản lực) sẽ tự động mở valve cho hơi nóng vào buồng lái. Khi Mang cất cánh động cơ chạy 95% công suất, áp suất hơi nóng lớn mà ống dẫn hơi nóng vào buồng lái bị mòn và vỡ làm Mang bị phỏng và để rơi máy bay. Vị thiếu tướng thừa nhận, đây là tai nạn đầu tiên, nên trong flight guide (hướng dẫn bay) không có manoeuvres (thao tác) xử lý tinh huống hơi nóng trong buồng lái. Tuy nhiên, tình huống này tương tự như khói trong buồng lái (smoke in the cockpit) có trong flight guide: Sau khi ngắt hết circuit breaker và fuse (rờ le và cầu chì) nếu khói ít, lấy lưỡi lê đục kiếng canopy (nắp buồng lái), nếu khói dày đặc không thấy đường thì giật bỏ canopy và bay tốc độ tối thiểu để máy bay ít run lắc, rồi đáp khẩn cấp). Vị thiếu tướng kết luận, đáng tiếc Mang đã không nghĩ đến việc nhảy dù. Cũng đáng tiếc, ca trực Mobile sáng qua gồm một thầy người Mỹ và một trò người Iran, nên không thể hiểu Mang nói gì bằng tiếng Việt, nếu như có trò người Việt trực, có thể giúp đỡ Mang. Có lẽ vị thiếu tướng an ủi, vì thiếu tá Phước (sĩ quan liên lạc tại Sherppard) đã nghe lại băng và cũng không hiểu Mang nói gì (cũng như tôi đã nghe qua điện đàm).

    Ba hôm sau, xác Mang cháy đen được xử lý vệ sinh và dịch tể, rồi tẫn trong hòm (có kiếng ở trên mặt) của quân đội Mỹ. Toàn Khóa 7505 mặc đại lễ ra đứng giàn chào tiễn Mang về nước, nhưng lần này khác lượt đi ngồi trên khoang hành khách, Mang phải nằm dưới khoang hành lý.

    Tôi, Đinh Cao Thắng và Phan Văn Mang là bạn thân trong số 40 người thuộc khóa 7505, qua Mỹ cùng một lượt. Sau khi học bay T. 41 lớp D Flight ở Hondo AFB, 20 người sang Webb AFB (trong đó có Thắng) học T.37. Còn 19 người sang Sheppard AFB (trong đó có Mang). Tôi bị delay lại khóa sau 7506, được ở lại Hondo chơi 8 tuần. Nhớ hồi học T.41 ở Hondo, bọn học viên Iran rất láu cá (học viên Kuwait và Saudi Arabia ít mất dạy hơn). Bọn chúng có mồ hôi dầu lại ở máy lạnh nên phòng chúng nặng mùi rất ghê, mà chúng thường xuyên mở cửa. Trên xe buýt từ Hondo lên sân bay mất hai tiếng đồng hồ, sáng sớm chúng cho một thằng ra trước để cặp táp giành hết ghế phía trước, bận về cũng một thằng ra xe trước xí ghế. Thắng, tôi và Mang thường cự chúng nhưng không ăn thua. Một tối nọ, Thắng rủ tôi, Mang và nhiều bạn khác, canh chúng đi từ nhà ăn về lên cầu thang. Chúng tôi tắt đèn hành lang, trùm mền 3 tên, đánh hội đồng. Thắng đai đen Taekwondo, Trần Đa hoàng đai Vovinam, tôi đai nâu Taekwondo đã đánh một trận nhừ tử cho chúng phải chừa tật giành ghế. Sau đó sĩ quan liên lạc Iran mét với thiếu tá Duy - sĩ quan liên lạc VN, nhưng chúng không nhận dạng ra ai đã đánh chúng, nên chúng tôi chỉ bị khiển trách, không bị kỷ luật. Trong khi đó, ở Lackland AFB, các học viên VN đã đánh hội đồng học viên Cao Miên giữa ban ngày, nên chúng kiện đích danh và Trung tá Đệ vừa kỷ luật anh em vừa trách yêu: “Mấy cậu đánh mà không biết trùm mền như bọn bên Hondo”.
    Last edited by chieutim; 04-26-2016, 08:57 PM.

    Comment


    • #3
      Một Thời Để Nhớ.....

      Không Quân VNCH Huấn Luyện T-41 ở Hondo Airfield

      Comment


      • #4
        Đã hơn 42 năm trôi qua, chiếc T-37 giờ đây cũng bị đào thải và cho về hưu như những người đã từng bay với nó.

        bebau thân tặng các bạn Sheppard và Webb.

        Trong video clip này từ những giây đầu tiên cho ta thấy hai chiếc phi cơ phản lực bay Finger-Tip Formarion.



        Chiếc #2 Wing-man đang ở vị trí TRAIL postion và đang re-joint để vào vị trí Finger-tip. Nếu tinh mắt bạn sẽ thấy chiếc Wing-man bay từ xa ở vị trí TRAIL (góc phải của màn hình computer screen) và từ từ cặp sát vào sát chiếc lead (3 feet wing-tip clearance). Vì quá nervous hồi hộp lo sợ vì nếu move control stick mạnh quá sẽ đụng vào chiếc Lead , đó là lý do tại sao chiếc wing-man bị nhồi lên nhồi xuống, lạng qua lạng lại.

        4 chiếc Finger-tip formation sẽ nhồi lên nhồi xuống gấp 4 lần nhiều hơn.



        Tôi nhớ rõ tôi đã bay re-join trong trường hợp này khi solo Formation với chiếc Lead là Môn "con" 73A (chết) và thầy là Major James Beger.

        bebau 72G 75-02 Sheppard,
        Last edited by bebau; 07-11-2016, 04:43 PM.

        Comment


        • #5
          Anh Đinh Cao Thắng & Mai Bá Kiểm nhờ bebau post lên HQPD :

          Tôi là Mai Bá Kiếm, sinh năm 1951, SVSQ khóa 3/72 Thủ Đức, rồi khóa 73Đ1 KQ, tốt nghiệp T.37 khóa 7506 tại Sheppard AFB. Chung Hữu Trí thủ khoa (Overall), tôi á khoa (First flying award), lớp trưởng là Nguyễn Chu Môn. Tôi lớn hơn các bạn KQ tân tuyển 2-3 tuổi, vì đang học năm thứ hai Đại học Khoa học Sài - gòn thì bị động viên vào Thủ Đức.

          Hôm nay, trước sự khẩn thiết của Đinh Cao Thắng yêu cầu tôi lên tiếng và đặc biệt là 4 điểm thắc mắc rất chính đáng trong email của chị thuhanguyen (4 điểm khác biệt giữa 2 bài “Hai Ngày Gác ở Nghĩa Trang Quân Đội”và “Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn”), tôi buộc lòng phải nói:

          Thứ nhất, tôi khẳng định bài “Hai Ngày Gác ở Nghĩa Trang Quân Đội” chỉ là bản thảo nháp tôi viết chưa chỉnh sửa (dài 4412 chữ). Là cây bút chuyên nghiệp, tôi có thói quen tự đọc lại, sửa lỗi chính tả và cú pháp 5 lần trước khi gửi tòa soạn. Riêng bản nháp “Hai Ngày Gác ở Nghĩa Trang Quân Đội” tôi đã email và forward cho 4 người để đọc và góp ý, trong đó có Đinh Cao Thắng (Vì Thắng thân và hiểu tôi, chứ không nhờ Thắng góp ý, vả lại lúc đó Thắng chưa sử dụng facebook và thường xuyên mail cho tôi những tin, bài Thắng tâm đắc). Tôi có lỗi là không nói rõ với Thắng đây là bản nháp tôi chưa phát hành. Thế là, Thắng email cho bạn bè hải ngoại và vài tuần sau Thắng điện khoe với tôi là bài đăng trên trang nhất HQPD. Tôi mở website đọc và vô cùng thất vọng vì xấu hổ, do còn nhiều lỗi chính tả và cú pháp. Tôi không thèm lên tiếng và âm thầm chỉnh sửa bài viết, nhưng vì tư liệu về nghĩa trang quân đội quá mỏng, mà trí nhớ của mình thì không chắc chắn chính xác.

          Tôi phải đến nhà gặp Mai Ngọc Chiếu, Huỳnh Văn Bền (Khóa 3/72 TĐ cùng sang KQ) để đếm lại từng thằng của đại đội 34 sang KQ là 14 chứ không phải 10 thằng như tôi viết. Tôi tìm nhạc sĩ Bảo Chấn (thiếu úy huấn luyện viên Trường Quân nhạc Thủ Đức), vì có lần anh Chấn (sinh 1950) kể với tôi trong lúc cắm trại 100%, anh lẻn dù về Sài – gòn đệm piano cho các phòng trà, nên bị phạt đưa lên Nghĩa trang quân đội làm nhạc trưởng thổi cho tử sĩ. Anh Chấn coi bản thảo và nói tôi nhớ sai tổ nhạc (thổi tiễn đưa binh lính) chỉ có 2 nhạc công kèn, không có trống. Tôi phải về huyện Ba Tri, Bến Tre để tìm trung sĩ nhất Mai Bá Điều (anh chú bác ruột tôi). Năm 1970, anh Điều là hạ sĩ quan phòng vệ Sư đoàn 3 KQ, được biệt phái sang Nghĩa trang quân đội để làm toán quân danh dự và báo cáo về Bộ TL KQ nếu nhận được tử sĩ là KQ. Sau 1975, anh Điều về quê vợ Bến Tre lập nghiệp. Tôi đưa bản thảo anh đọc và anh sửa cho tôi rất nhiều chỗ tôi nhớ sai, như số lính dàn chào ở hai bên quan tài khi đi chôn.

          Cuối cùng, mãi cho đến tháng tư đen năm 2016, tôi mới viết lại bài “Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn” và đăng loạt bài trên Facebook của mình (cùng với bài “Thương tiếc Cố thiếu úy pháo binh Phan Huỳnh Vân” và bài “Nhớ Phan Văn Mang: Chim non gãy cánh”). Bài “Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn” tôi biên tập lại chỉ còn 2369 chữ, so với 4412 chữ trong bản nháp “Hai Ngày Gác ở Nghĩa Trang Quân Đội”.

          Vì vậy, tôi khẳng định bài “Hai Ngày Gác ở Nghĩa Trang Quân Đội” chưa phải là tác phẩm hoàn chỉnh và tôi không có ý định phát hành. Đề nghị HQPD và các bạn nào đã share bài này thì nên delete nó, coi như không có, và nếu các bạn có quan tâm đến đề tài này, hãy sử dụng bài “Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn”

          http://hoiquanphidung.com/showthread...n-Nh%E1%BA%A1n.

          Tôi có trách nhiệm nên phải mất cả năm mới hoàn chỉnh một tác phẩm, nhưng chắn chắn không tránh khỏi sai sót, mong các bạn thông cảm và chỉ giáo.

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X