Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Trường Sanh Bất Tử

Collapse
X

Trường Sanh Bất Tử

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trường Sanh Bất Tử



    Bàn Về Xác Ướp Của Các Đại Sư
    (Trường Sanh Bất Tử)

    Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh

    1.- Tu Pháp Sa Môn

    Khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo rồi, Ngài còn ngồi dưới cây ba la bảy ngày, nghĩ bụng, “Ta nay đã thành chánh quả, bản nguyện đã được viên mãn, nhưng cái đạo pháp của ta rất mầu nhiệm, Chỉ Có Phật Với Phật Mới Biết Được, còn hết thảy chúng sinh ở trong đời ngũ trọc này vì tham dục sân uế ngu si tà kiến kiêu mãn che lấp, làm thế nào mà hiểu được đạo pháp của ta. Nếu ta đem đạo pháp ấy truyền ra, chúng sinh tất mê hoặc, không tin theo và buông lời phỉ báng, thành ra phải tội ra phải tội“. Nhưng sau Ngài nghĩ lại, “Ta đã phát nguyện tu thành Phật để cứu chúng sanh, lẽ nào tự giác mà không giác tha, để chúng sanh chìm đắm ở chỗ sinh tử“.
    Ngài nghĩ như thế rồi đứng dậy đi thuyết pháp. Chỗ này có sách ghi chép Phạm Thiên và Đế Thích thấy ngài đắc đạo mà không muốn đi thuyết pháp, bèn xuống kêu nài, Phật mới ưng chịu.
    Ngài dùng đức từ bi bác ái dạy người và tùy phương tiện để phổ độ chúng sanh, lời dạy của Ngài nếu gom lại cho đơn giản đều nằm trong Tứ Thánh Đế, Thập Nhị Nhân Duyên và Bát Chánh Đạo. Về sau các vị cao tăng và thấp tăng thêm thắt và diễn giải làm cho giáo lý của ngài rậm rịt như cánh rừng huyền bí, chúng sanh nhìn con đường nào cũng giống con đường nào mà ngõ ra thì mờ mịt.
    Trong một lần thuyết pháp có ông Ca Hy La Nan Đà, thông minh trí tuệ, xuất gia nhiều năm mà mùi vị Phật Pháp không được nếm, nằm vật ra giữa đất như núi thái sơn đổ, quì lại trước Phật sám hối nên Ngài A Nan cung kính quỳ chắp tay bạch Phật xin Phật vì chúng con mà thuyết pháp.
    Từ đó Đức Phật mới giải thích cái nghiệp của ông Ca Hy La Nan Đà và dạy pháp hệ niệm, tu pháp Sa Môn, pháp này cần nơi vắng vẻ, trải nệm ni sư đàn, ngồi xếp bằng, y phục chỉnh tề, chính thân ngay ngắn, bàn tay trái đặt trên bàn tay phải, nhắm mắt đem lưỡi lên hàm trên. định tâm cho trụ, chớ phân tán. Trước hết phải hệ niệm ngón chân cái của bàn chân trái v.v...
    Ông Cưu Ma La Thập (344-413), một dịch giả, đã dịch ra chữ Hán lời dạy của Phật về tu pháp Sa môn thành 3 cuốn sách nhỏ, bản tiếng Việt là cuốn Thiền Bí Yếu Pháp dày gần 200 trang. Trong khi dạy tu pháp Sa Môn ngài nói thêm : Qua một ngàn năm khi ta đã vào Niết Bàn vô thường quán này tuy được lưu hành trong cõi Diêm Phù Đề ức ức thiên vạn chúng sanh đa đệ tử, bằng hai tu quán vô thường được đạo giải thoát, sau một ngàn năm trăm năm nếu tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di tán thán tuyên thuyết vô thường, khổ, không vô ngã quán thì có nhiều chúng sinh mang lòng ghen ghét.. mắng chữi ngu si thế gian... trăm ngàn người không có một người tu quán vô thường.... Khi có hiện tượng ấy thì vô thượng Chính Pháp của Phật đã diệt từ lâu.

    2.- Tâm Truyền Chính Pháp

    Tuy đã dạy pháp tu Sa Môn nhưng trong khi thuyết pháp vào một ngày nọ ở hội Linh Sơn đức Phật cầm một cánh hoa cho đại chúng xem thì ai nấy chẳng rõ ý chi đâm ra ngơ ngác yên lặng làm thinh, duy có một mình tôn giả Đại Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật thấy thế nói rằng :
    “Ta có Chính-Pháp Nhãn-tạng, Diệu tâm Niết-Bàn, Pháp-môn ấy mầu nhiệm vô cùng, chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo-lý. Nay Ta trao cho Ma-Ha Ca-Diếp, vậy ông phải ân cần mà nhận lãnh, giữ gìn Chính-pháp, rồi sau sẽ truyền cho hậu thế, để nối tiếp về sau, chớ để diệt mất”.
    Khi truyền Y Bát cho ngài Đại Ca Diếp, có lẽ đức Phật cũng có truyền luôn Chính Pháp như ngài đã có lần nói. Y Bát được truyền đến đời Bồ Đề Đạt Ma (thế kỷ thứ V), là vị tổ đời thứ 28 và là vị tổ cuối cùng của Thiền Tông Ấn Độ. Ngài đi sang Trung Hoa và trở thành sơ tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Y bát được truyền thêm 5 đời nửa ở Trung Hoa đến đời Lục Tổ Huệ Năng ( 638-713) thì việc truyền Y Bát mới chấm dứt.
    Lần theo những lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng trong Kinh Pháp Bảo Đàn để mong tìm đôi chút tăm hơi Chính Pháp của đức Phật chỉ thấy Lục Tổ Huệ Năng dạy :
    1.- TỌA THIỀN : Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là THIỀN.
    2.- THIỀN ĐỊNH : Bên ngoài lìa tướng gọi là THIỀN, bên trong chẳng thấy loạn là ĐỊNH.
    Thiền Tông Trung Hoa từ đời của Lục Tổ Huệ Năng trở về sau được chia hai nhánh Bắc Tông và Nam Tông. Bắc Tông do Thần Tú (sư huynh của Lục Tổ Huệ Năng) chủ trương dùng suy luận tu tập dần dần theo sự chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Nam Tông do Lục Tổ Huệ Năng chủ trương giác ngộ là một sự nhảy vọt bất ngờ mang tính trực giác (Đốn Ngộ).
    Thiền Tông Ấn Độ đi theo Bồ Đề Đạt Ma vào Trung Hoa và biến thể thành Thiền Tông Trung Hoa. Cuộc di tản này mang theo 84.000 pháp môn của Phật Giáo hay cả nền văn minh Ấn Độ vào giao lưu với nền văn minh Trung Hoa nên Thiền Tông Trung Hoa có rất nhiều dấu ấn của Đạo Lão.

    3.- Thất Truyền Chính Pháp


    Thiền Tông Trung Hoa đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường nhà Tống rồi theo các thương nhân lan ra các nước chung quanh. Cho đến ngày nay Thiền Tông Trung Hoa vẫn còn là nguồn cảm hứng sâu xa và là một pháp môn cho các phật tử tu tập.
    Lục Tổ Huệ Năng trong lúc ôm Y Bát đi trốn hàng chục năm mới hiểu được trong đời ngũ trọc đầy tham dục sân uế ngu si tà kiến kiêu mãn che lấp và lắm hiểm nguy cũng vì Y Bát mà ra, và cũng có thể ngài không tìm được người hữu duyên để truyền Y Bát nên ngài mới chấm dứt việc truyền Y Bát và cũng chẳng bạch hóa cho nhân loại biết được Chánh Pháp Nhãn Tạng, Diệu Tâm Niết Bàn mà có lần đức Phật nói ở hội Linh Sơn là sẽ trao cho ngài Đại Ca Diếp.
    Như thế từ lời Phật nói khi dạy pháp tu Sa môn đến hành động chấm dứt truyền Y Bát của ngài Lục Tổ Huệ Năng chuyển đạo Phật đi dần vào thời Mạt Pháp, thời Chính Pháp không còn, thời thiên hạ đại loạn, với hàng vạn thiền sư tự phong với hàng vạn loại "lạ" pháp ra đời. Trong cánh rừng dày đặc mung lung đầy chữ nghĩa và giả dối có rất nhiều chúng sanh nhìn các thiền sư tọa thiền mà chẳng hiểu họ đạt được gì thấy được gì khi tọa thiền, có rất nhiều chúng sanh đọc hằng trăm bài kệ của các thiền sư mà chẳng hiểu nghĩa gì nên bực mình "kệ nó ! ", có rất nhiều chúng sanh nghe các thiền sư la lên vừa đốn ngộ khi thấy ... cái gì gì bay ngang mà chẳng hiểu họ có đốn ngộ hay không đốn ngộ và đốn ngộ cái gì. Lục Tổ Huệ năng không còn tại thế thì biết tin ai và hỏi ai để tìm cho ra Chính Pháp của đức Phật và ai là kẻ đủ tư để cách trả lời ?
    Phật pháp vô biên, 84.000 pháp môn của đức Phật thích hợp với mọi trình độ và đáp ứng với mọi căn cơ chúng sanh thăng tiến trên con đường khai phóng sinh lộ tự độ độ tha nhưng 84.000 pháp môn chỉ là sắc chất là ngôn từ, chữ nghĩa dùng để cứu độ chúng sanh chứ có thể không đủ khả năng diễn tả những gì trên con đường hành giả đi đến và sau khi đắc đạo nên đức Phật không truyền theo giáo lý vì sợ chúng sanh mê hoặc không tin theo mà buông lời phỉ báng thành ra phải tội ra phải tội.
    Thời đại ngày nay là thời đại thông tin. Mọi thứ cần được bạch hóa và phơi bày ra ánh sáng. Bậc vĩ nhân của thế kỷ 20 là Albert Einstein cũng không giấu cái gì của ngài nghĩ ra và có cả. Thiền Tông không thể là một ngoại lệ nên mới có bài viết này để mong các vị thức giả giúp cho người viết một tay đưa Thiền Tông ra ánh sáng của nền khoa học hiện đại.

    4.- Chính Pháp nằm trong lời dạy của Lão Tử ?

    Cùng thời với đức Phật Thích ca Mâu Ni có một bậc vĩ nhân khác ở Trung Hoa tánh tình chất phát trong lúc cưỡi trâu đi ra sa mạc ẩn cư bị ông quan Doãn Hy chặn lại năn nỉ viết thành sách những gì ông biết được. Ông chỉ để lại cho hậu thế một cuốn sách nhỏ tên là Đạo Đức Kinh với 5.000 chữ mà được hậu thế tôn vinh ngang hàng với đức Phật vì trong 5.000 chữ đó có gói ghém một phương pháp tu đơn giản hơn mà bản thân người viết cho là Chính Pháp vì nền khoa học hiện đại và những hiện tượng thấy được trên thế giới đang bị buộc phải công nhận tính chính xác của nó. Vị đó là Lão Tử, ngài dạy rằng :
    1.- C5- ĐĐK. " Đa ngôn số cùng, bất như hữu trung" dịch ra " Càng nói nhiều càng vô cùng, không bằng giữ huyệt đan điền " người viết hiểu lời dạy của Lão Tử là không nên tựa vào lời nói mà nên hành đạo bằng cách luyện khí công để cho huyệt đan điền có điện, khí công là những môn tập của võ công giúp cho cơ thể cường tráng mà Thiền Tông Trung Hoa thường sử dụng để trợ lực cho các hành giả.
    2.-C16-ĐĐK. " Trí hư cực, thủ tỉnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngộ dĩ thị quang kỳ phục" nhiều bản không có chữ thị, nhiều bản không có chữ kỳ, riêng bản của Hà Thượng Công có chữ thị và có luôn chữ kỳ nên người viết tin vào bản này vì thấy nó không tối nghĩa và dịch câu nói nầy ra bằng văn xuôi như sau " trí óc không nghĩ gì cả, giữ yên tỉnh lên tối đa, vạn vật sinh, ta có thể thấy được điểm sáng kỳ lạ (ẩn phục) sinh". Chữ Phục trong câu này có thể nghĩa là ẩn phục và có thể nghĩa là quẻ Phục là quẻ Dương Sinh ( 5 Âm 1 Dương), Đây có thể là cách chơi chữ của người xưa nhưng rất chính xác vì ánh sáng đó xuất hiện nhiều nhất vào thời điểm thế giới chuyển Dương ( giờ tý, mồng 3, đông chí ). Người viết hiểu lời dạy này của Lão Tử cũng giống lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng về Tọa Thiền và Thiền Định là hành giả phải giữ nội bất xuất ngoại bất nhập. Tuy nhiên lời dạy này có giải thích thêm là khi ta giữ tỉnh lên cực điểm thì động manh nha ( động sinh ) là lúc vạn vật sinh hay Dương sinh và điểm sáng ấy cũng sinh mà hành giả thấy được.
    Cái điểm sáng ẩn phục ấy được Lão Tử gọi tên là Đạo và nhắc đến 70 lần trong 5.000 chữ để lại cho hậu thế và định nghĩa nó vài lần (C.4. ĐĐK; C14. ĐĐK) cũng như khuyên ta phải ăn trộm cho được nó khi thấy được nó (C.14. ĐĐK). Hành động này gọi ăn trộm này gọi là ăn trộm khí tiên thiên hay ăn trộm Âm Dương Tạo hóa Chi Quyền.
    Cái điểm sáng ẩn phục ấy được các đạo sĩ gọi là Hống, Huyền Châu, Hoàng Nha, Dương Tinh ( khoảng vài chục tên khác nhau) và họ diễn tả khi thấy nó là một điểm sáng Yểu Yểu Minh Minh, Hoảng Hoảng Hốt Hốt. Họ tìm cách giữ cái điểm sáng ấy trong huyệt Đan Điển để được kết thành Kim Đan, tức là Anh Nhi, để thoát sanh sanh thành vô sanh, sống trường cữu cùng với trời đất.
    Vì bài viết không nhắm mục đích nói về chuyện luyện Kim Đan nên bạn đọc nào muốn đi sâu vào đề tài này thì xin đọc thêm 2 bài trước (1) để có được một cái nhìn khoa học trước khi đi vào trang mạng của bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, trong đó có nhiều cuốn sách về Đan Học do ông ta dịch. Chuyện sinh tử là chuyện hệ trọng của con người không phải ai muốn biết và hiểu đều được cả mà phải tùy duyên và nghiệp của mình. Bởi thấy con người chia rẽ, thù ghét nhau, giết nhau vì khác tôn giáo nên người viết đã Hướng tư tưởng mình vào Thái Cực (Nhất) để tìm hiểu tại sao nên trình độ người viết chỉ ngang mức đang còn Tầm Đạo.

    5.- Khí Công Là Con Đường Đi Vào Chính Pháp

    Vì đang Tầm Đạo nên nghe theo lời dạy của Lão Tử hay Hành Đạo bằng cách luyện khí công và thấy được môn này được sáng tạo do nhiều thầy, mỗi thầy đều tạo ra mỗi cách tập khác nhau và mỗi cách tập đều đem lại mỗi lợi ích khác nhau giúp cho cơ thể cường tráng để đủ khả năng tu tập nên tôi xin trình bày cùng bạn đọc những cách tập có hiệu quả tốt hiện nay :
    1.- Cách tập 1 : Thiền Hành, bàn tay trái ôm quyền bàn tay phải để trước bụng hay để sau lưng bước khoan thai sáu bước hít vào, sáu bước giữ hơi thở, sáu bước thở ra. Mỗi bước niệm 1 danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Cách tập này vừa bơm oxy vào cơ thể vừa tạo được Vô Biệt Niệm để bảo vệ con người tránh được mọi ma chướng.
    2.- Cách tập 2 : Dịch Cân Kinh, của Đạt Ma Sư Tổ, xem trong youtube để biết cách tập, cách tập này tạo cho kinh mạch được điều hòa và bơm thêm oxy vào nuôi sống các tế bào trong cơ thể.
    3.- Cách tập 3 : Pháp Luân Công, của Lý Hồng Chí, xem trong youtube để biết cách tập, cách tập này nhắm mục đích đem điện trời vào huyệt đan điền để cho cơ thể thêm điện và cường tráng
    4.- Cách tập 4 : Phép Hành Công bát Quái, của đạo sĩ Lý Thành Vân, đạo sỉ này là một bác sĩ có 19 bà vợ, sống 239 tuổi chết năm 1930, cách tập này nằm ở trang 31 sách Khí Công Toàn Thư. Tôi xin chép lại một vài chiêu căn bản ở phần chú thích để bạn đọc tham khảo. Cách tập này chú trọng việc khai mở các huyệt đạo trên đầu (thiên cốc). Trong khi tập nên chú tâm vào việc nuốt nước miếng từ huyệt Huyền Ưng (dưới lưỡi) và thở theo vòng Chu Thiên kiêm Thai Tức.
    5.- Cách tập 5 : Xả Thiền, khi ngồi quá lâu để chờ đợi điểm sáng ( Đạo) xuất hiện nên khi chấm dứt ngồi con người hành giả cứng lại nên cần có những động tác xả thiền như xoa huyệt đan điền theo chiều kim đồng hồ và ngược lại cho điện lan ra, xoa huyệt dưới bàn chân, xoa đầu, tay chân và cơ thể cho điện chạy khắp người và cả đi bộ cho giản gân cốt theo cách tập 1.
    Thời gian tập là buổi hừng sáng hay buổi chiều tối riêng cách tập 4 nên tập vào lúc nửa đêm, Không nhất thiết chuyên một cách tập mà có thể tập tất cả các cách hay cách nào cũng được theo ý thích của bản thân, có thể vừa đứng tập vừa xem TV.

    6.- Hạt Higgs và Hống (Đạo)


    Nền khoa học hiện nay đang có những thí nghiệm để chứng minh lý thuyết của nhà vật lý người Anh Peter Higgs (1929) đưa ra năm 1960 là một lý thuyết đúng. Lý thuyết này cho rằng toàn vũ trụ đang bị bao phủ bởi một dạng lưới giống như Trường Điện Từ, nó có ảnh hưởng đến hạt di chuyển xuyên qua nó nhưng nó cũng có liên hệ với vật lý chất rắn, gọi là trường Higgs hay cơ chế Higgs, theo Cơ Học Lượng Tử thì tất cả các trường lượng tử đều có một hạt cơ bản đi kèm, hạt đi kèm Trường Higgs gọi là hạt Higgs có thể là một dạng của hạt boson hay một tập hợp hạt mà chúng có thể tạo ra những hạt có khối lượng khác.
    Sự tìm kiếm hạt Higgs lâu dài và khó khăn đến mức các nhà khoa học bực bội gọi nó cái tên Goddamn Particle tạm dịch là Hạt Mắc Dịch về sau thấy công dụng nó tựa như một diễn viên điện ảnh đứng giữa đường phố Hollywood thu hút những người mộ điệu vây quanh tạo thành một đám đông (tạo khối lượng) nên người ta gọi gọn lại God Particle tạm dịch là Hạt Của Chúa. Tên mới có thể đúng hơn vì Vạn Vật có thể hình thành do các nguyên tử đi qua trường Higg nhập vào hạt Higg mà sinh khối lượng.
    Phải chăng hạt Higgs là Hống là Đạo là điểm sáng mà Lão Tử đề cập trong cuốn sách Đạo Đức Kinh 5.000 chữ của ngài vì hạt Higgs tạo ra khối lượng còn Hống tạo ra Anh Nhi, cũng là một khối lượng, như thế hạt Higgs và Hống có cùng chung nhiệm vụ.
    Đạo Phật từ Ấn Độ di chuyển sang Trung Hoa mang theo 84.000 pháp môn của đức Phật vừa chân thật muôn đời và vừa thích hợp với mọi căn cơ của chúng sinh muôn đời nên đạo Phật trở thành nguồn cảm hứng cuốn hút dân tộc Trung Hoa và dân tộc các nước chung quanh, đã đẩy Đạo Lão, vốn thích cảnh tịch mịch và ít nói, vào rừng sâu lẫn suy tàn.
    Nào ngờ ngày 4 tháng 7 năm 2012 ở bên trời Âu Châu các khoa học gia tuyên bố đã tạo một vụ va chạm hạt trong máy gia tốc hạt LHC của phòng thí nghiệm CERN và đo được một góc độ lệch để đưa đến việc xác nhận sự tồn tại của một loại hạt có đặc tính thích hợp với hạt Boson Higgs, Hạt này có đặc tính tạo ra khối lượng mà các đạo sĩ đã đề cập trong một môn gọi là Đan Học nhưng bị thất truyển từ lâu. Tôi xin chúc mừng các đạo sĩ nhưng có lẽ khó tìm ra một đạo sĩ trong thời đại ngày nay trong lúc đó các thiền sư thì nhiều như lá rụng mùa thu.

    7.- Bí mật về các xác ướp của các đại sư


    Nhờ chúng ta đang sống trong thời đại thông tin nên chúng ta nhìn thấy được hình ảnh nhục thân của các vị đại sư Vũ Khắc Trường, Vũ Khắc Minh tại chùa Đậu, Hà Tây nhục thân của vị đại sư Như Trí tại chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh v.v…tồn tại gần 300 năm mà vẫn bất hoại. Gần đây cũng có hình ảnh 2 nhục thân bất hoại của 2 vị đại sư khác ở Thái Lan và Nga và hình ảnh những nhục thân bất hoại của các vị thánh của Thiên Chúa Giáo cũng được truyền đi trên mạng.
    Trong tháng trước chúng ta lại nhìn thấy được hình ảnh một xác ướp của một đại sư khác ở Mông Cổ ở trong trình trạng bảo quản tốt qua hàng trăm năm mà bác sĩ Barry Kerzin, một bác sĩ của vị lãnh tụ tinh thần Tây Tạng Dalai Lama, nói với tờ Thời Báo Siberia rằng vị sư đó còn sống và đang ở một trạng thái thiền rất hiếm có tên gọi là “tukdam”.
    Khi quan sát và nghiên cứu các xác ướp của các đại sư các khoa học gia Phương Tây có một nghi vấn không thể giải thích được :
    - Làm cách nào các đại sư có thể tự rút hết nước ra khỏi cơ thể ?
    Chúng ta và các khoa học gia Phương Tây không thể hỏi các vị đại vì các vị đại sư tuy còn đó nhưng chỉ là xác ướp không thể nói. Riêng người viết nhờ có đọc được một vài cuốn sách của Đan Học mới biết được rằng trong Đan Học có cuốn sách Tính Mệnh Khuê Chỉ ở trang 177 do bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch có chương Ngọc Dịch Luyện Hình Đồ dạy cách tự rút nước trong cơ thể qua huyệt huyền ưng dưới lưỡi và trong cách tập Khí Công của đạo sĩ Lý Thành Vân cũng có chiêu thức tự rút nước ra khỏi cơ thể qua huyệt huyền ưng.
    Vậy Đan Học là gì ? Đan Học nói gì ? Các Đại Sư của Phật Giáo và các vị thánh của Thiên Chúa Giáo đã tu theo phép luyện Đan của Đan Học nên đã biết cách rút nước ra khỏi cơ thể làm cho nhục thân bất hoại chăng ?

    8.- Trường Sanh Bất Tử


    Đan Học có từ thuở nào không biết nhưng phải trước khi có Lão Tử. Về sau có nhiều nhân vật tiếng tăm như Trần Đoàn, Lưu Nhất Minh, Thiệu khang Tiết v.v... tham gia nâng nó lên ngang hàng với những bộ môn khoa học khác nên được gọi là Đan Học. Đan học nói cho cùng cũng chỉ là một phương pháp tu tiên bằng cách ăn trộm cái điểm sáng hoảng hoảng hốt hốt kia rồi luyện cho Anh Nhi cứng lại gọi là Luyện Đan. Phật giáo gọi Anh Nhi là thân Kim Cang, Lão giáo gọi là Kim Đan. Những người luyện Kim Đan thành công thì nhục thân trở thành bất hoại giống như nhục thân của các đại sư mà chúng ta thấy qua các trang mạng.
    Các bậc vĩ nhân thời xưa quan sát được sự hình thành của trái đất và mặt trời ( Âm Dương ) trong vũ trụ mà rồi bắt chước sự hình thành trời đất của Tạo Hóa mà áp dụng vào con người để luyện cho con người hình thành được một con người khác sống vĩnh hằng cùng trời đất trong vũ trụ, cách luyện đó gọi là ăn trộm Âm Dương Tạo Hóa Chi quyền.
    Vũ trụ vào khoảng 13 tỷ năm trước là một đống hổn mang, vật chất tụ lại một điểm gọi là Điểm Kỳ Dị rồi bùng ra trong một vụ nổ ( thuyết Big Bang của George Lemaitre (1894-1960) ). Vật chất thời kỳ đó ở trong trạng thái Plasma cực nóng. Cái gì đã kết nối chúng để cho chúng thành những khối lượng như ngân hà, trái đất, mặt trời ? Sau một thời gian dài các nhà khoa học mới tìm ra nó chính là Hạt Higgs, hạt này là loại một phản hạt nằm trong trường Higgs, có liên hệ với vật lý chất rắn, tạo ra khối lượng được các nhà khoa học đặt tên là Hạt Của Chúa, vì vạn vật trong vũ trụ hình thành do các nguyên tử đi qua trường Higgs, nhập vào hạt Higgs mà sinh ra khối lượng mà vũ trụ hiện nay không đơn thuần như khái niệm của người xưa hình dung mà trong đó còn có một vùng không gian khác thời gian chứa các vật chất tối năng lượng tối hay còn gọi là phản vật chất và phản thế giới.
    Hạt này được Lão Tử gọi là Đạo và đức Phật Thích ca Mầu Ni gọi là Phật ( Xin xem lại bài trước ) và cả hai bậc vĩ nhân này đều diễn tả nó như sau :
    Lão Tử : Vật này bản thể là hư không mà tác dụng của nó thì cơ hồ là vô cùng… Nó vô thanh vô hình đứng một mình không thay đổi vận hành khắp vũ trụ.
    Đức Phật : Pháp Thân không phải là sắc chất mà cũng không phải là tâm trí, Mà Khắp Đầy Vũ Trụ Đâu Đâu Cũng Có, Không Sinh Không Diệt, Lúc Nào Cũng Hiện Hữu.
    Cả hai bậc vĩ nhân trong lúc đi tìm chân lý đã vào trường Higgs, thấy được hạt Higgs vận hành khắp vũ trụ tạo ra muôn vật ( Hạt Của Chúa ), cách diễn tả của hai bậc vĩ nhân ngày xưa về hạt Higgs như trên là cách diễn tả hay nhất thời đó nhưng không rõ ràng bởi thuở đó không ai nói đến và chứng minh được sự tồn tại của phản hạt và phản thế giới.
    Đan Học, cũng như phép luyện Đan, được các học giả thời xưa truyền lại cho hậu thế bằng những lời ẩn dụ lẫn những câu nói xa xôi bởi họ là những học giả không thể đề cập những thứ không thể chứng minh được như phản hạt và phản thế giới.
    Khí công chẳng qua là cách luyện tập cho con người có điện để con người hòa nhập vào trường Higgs thấy được hạt Higgs rồi ăn trộm cho được hạt Higgs để làm cho hạt Higgs tích tụ được một khối lượng phản vật chất hay tích tụ thành một Phản Con Người sống trường sanh trong Phản Thế Giới. Đan học luôn tôn Lão Tử là ông tổ của Đan Học bởi Lão Tử là người đầu tiên định nghĩa chữ Đạo như một phản vật chất và chỉ cho người sau cách nhìn thấy phản vật chất đó và cách ăn trộm vật chất đó để luyên thành Kim Đan.
    Đan Học đến với nên văn hóa Việt Nam quá chậm qua 3 tác phẩm Tính Mệnh Khuê Chỉ, Huỳnh Đình Kinh và Tham Đồng Khế do bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch vào năm 2002, nhờ cơ duyên nên tôi có được 2 cuốn gối đầu, tìm hoài không ra cuốn Huỳnh Đình Kinh bỗng một hôm thấy toàn bộ các tác phẩm của bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ nằm trên mạng. Như thế có thể là bác sĩ muốn nhờ tin học phổ biến rộng rãi Đan Học ra ánh sáng khoa học cho mọi người cùng biết nên tôi xin đóng góp một bàn tay nhỏ bé.
    Sinh tử là chuyện hệ trọng mà mọi con người đều phải trải qua, chỉ có những con người nhờ cơ duyên đạt đạo trường sinh mới để lại nhục thân bất hoại như các đại sư. Phần Phản Con Người của các đại sư chắc chắn vẫn còn sống và tồn tại đâu đó trong vùng Phản Thế Giới của vũ trụ bao la. Điều đó đã được 3 nhà khoa học được giải Nobel là Paul Diract, Victor Francis Hess và Carl David Anderson đã nói đến khi tìm ra Phản Hạt : Lực của hạt thế nào thì lực của phản hạt thế ấy. Con người của các đại sư bất hoại thì Phản Con Người của các đại sư cũng bất hoại, hay đang vui chơi trong Phản Thế Giới.

    Nhất Hướng Nguyễn kim Anh


    chú thích :
    - Phương pháp tập khí công của đạo sĩ Lý Thành Vân nằm trong trang 31 sách Khí Công Toàn Thư do nhà xuất bản thể dục thể thao phát hành. Phương pháp tập này có đến 17 chiêu thức nếu bạn đọc muốn đi vào chi tiết để tập thì nên mua 1 cuốn mà tham khảo vì quá dài tôi không thể chép lại hết mà chỉ lưu ý các chiêu thức sau đây là cần phải có khi tập.
    1.- Gõ răng 36 lượt
    2.- Hai bàn tay ôm côn luân.
    3.- Trái phải gõ trống trời
    4.- Tai nghe 24 độ.
    6.- Rồng đỏ đảo bến nước, xúc miệng 36 lần
    7.- Nín khí xát bàn tay xoa tinh môn
    Hai bài viết trước cùng đề tài nên đọc để có một cái nhìn khoa học trước khi đi vào tìm hiểu Đan Học
    (1)- http://www.danchimviet.info/archives/75977/chuyen-the-truong-sanh-bat-tu/2013/05
    (2).- http://quanghuongtu.dk/index.php?option=com_content&view=article&id=2478: thn-nhan&catid=3:tin-tuc-phat-giao&Itemid=20
    Tác giả bài viết này cũng là tác giả sách " Cửa Trời Rộng Mở " có bán trên trang mạng Tuluc.com và tác giả sách " Messages From Aliens The Path of Evolution " Có bán trên các trang mạng.
    https://www.google.com/webhp?sourceid=chrome-instant&ion=1&espv=2&ie=UTF-8#q=nguyen%20kim%20anh%20messages%20from%20aliens% 20the%20path%20of%20evolution


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X