Thông báo

Collapse
No announcement yet.

TÂM TÌNH VỀ NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA (Dân Sinh Media phỏng vấn nhà văn Điệp Mỹ Linh)

Collapse
X

TÂM TÌNH VỀ NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA (Dân Sinh Media phỏng vấn nhà văn Điệp Mỹ Linh)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • TÂM TÌNH VỀ NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA (Dân Sinh Media phỏng vấn nhà văn Điệp Mỹ Linh)


    TÂM TÌNH VỀ NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA
    (Dân Sinh Media phỏng vấn nhà văn Điệp Mỹ Linh)

    Bà Điệp Mỹ Linh là tác giả cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Đây là một tài liệu quý giá viết về quân chủng Hải-Quân.

    Trong thời kỳ chiến tranh, bà Điệp Mỹ Linh thường tháp tùng các đơn vị chiến đấu Hải-Quân, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân trung tá Hồ Quang Minh – phu quân của Bà – trong những cuộc hành quân hỗn hợp trên sông rạch thuộc vùng IV Sông Ngòi. Bà đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ác liệt giữa các đại đơn vị Việt Cộng và Hải-Quân V.N.C.H. trên những dòng sông chằn chịt thuộc vùng U Minh hung hiểm.

    Vào thời điểm 30 tháng Tư – 1975, bà Điệp Mỹ Linh may mắn đã cùng gia đình thoát khỏi Việt-Nam trên Đương Vận Hạm Thị Nại, HQ502. HQ502 cùng với Hạm Đội Hải-Quân V.N.C.H. đã thực hiện sứ mệnh cuối cùng của Hải-Quân là đưa hơn 30 ngàn đồng bào và quân bạn đến bến bờ Tự Do.

    Là một phụ nữ có chồng là Lính, bà Điệp Mỹ Linh đã sống đoạn đường gian khổ trong các trại gia binh. Bà can đảm theo chồng hành quân. Bà còn là một nhân chứng đặc biệt trong chuyến hải hành cuối cùng của Hải-Quân V.N.C.H. Bà chứng kiến những cuộc tiếp cứu trên sông, trên biển và sự hy sinh tận tụy của Thủy Thủ Đoàn. Những gì Bà đã trải qua, đã mục kích, tác động rất mạnh vào tâm cảm và tư duy của Bà cùng với sự ngưỡng phục của Bà dành cho quân chủng Hải-Quân là nguyên nhân đã thúc đẩy Bà thu thập tài liệu để thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975.

    Hôm nay Dân Sinh xin hân hạnh giới thiệu và kính mời quý thính giả cùng nghe cuộc đối thoại giữa ông Phạm Phú Nam và bà Điệp Mỹ Linh.



    Tôi là Phạm Phú Nam, xin kính chào quý thính giả khắp nơi. Hôm nay chúng tôi được tiếp chị Điệp Mỹ Linh, là một tác giả nổi tiếng của Hải-Quân về những tác phẩm viết về Hải-Quân.

    Xin chào chị Điệp Mỹ Linh.


    Điệp Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý thính giả và kính chào anh Phạm Phú Nam.

    Thưa chị, bây giờ là 39 năm tỵ nạn, còn vài tháng nữa là 40 năm. Bốn mươi năm nhìn lại, xin chị cho biết, 40 năm trước, vào thời điểm 30 tháng Tư, chị rời Việt-Nam trong trường hợp nào?

    Thưa anh, tôi cùng gia đình rời Việt-Nam khoảng 12 giờ đêm 29 tháng Tư 1975, bằng ngã Sở Hàng Hà. Từ chiều 29 tháng Tư, ông nhà tôi liên lạc với nhiều đơn vị nhưng không được đơn vị nào trả lời. Gia đình tôi cùng một số bạn hữu vào Sở Hàng Hà. Ông nhà tôi nhờ một giang đỉnh đưa sang Dương Vận Hạm Thị-Nại, HQ502 – lúc đó HQ502 đang cặp cầu trước Bộ Tư Lệnh Hải-Quân.

    Giang đỉnh cập bên hông HQ502, mé ngoài sông. Thành tàu rất cao, nước chảy xiết, không có cầu bắt lên HQ502 cho nên phụ nữ và trẻ em gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng, nhờ những người có mặt trước trên HQ502 giúp đỡ tận tình cho nên chúng tôi nhập hạm một cách an toàn.

    Sau khi lên được HQ502, tôi thấy chiến hạm đầy người, không còn một chỗ trống.

    Khoảng 12 giờ rưỡi hay 1 giờ sáng 01 tháng 05-75, HQ 502 rời bến, giang hành về hướng Nhà Bè. Gần đến Nhà Bè tôi thấy lửa rực trời vì kho xăng Nhà Bè bị trúng đạn pháo kích của Việt Cộng.

    Trên đường ra biển, HQ502 vớt thêm không biết bao nhiêu đồng bào và quân bạn từ ghe nhỏ và chiến đỉnh. Trong số quân nhân được HQ502 vớt, tôi được biết có khoảng 60 Người Nhái – thuộc Liên Đoàn Người Nhái – Hải Quân trung tá Trịnh Hòa Hiệp, chỉ huy trưởng Liên Đoàn Người Nhái và Hải-Quân đại tá Trịnh Quang Xuân, Tư Lệ Vùng III Sông Ngòi, từ một PBR (River Patrol Boat – Giang Tốc Đỉnh).

    Sáng 01 tháng 05 – 1975, HQ502 ra đến biển.

    Xin cảm ơn chị. Tôi muốn hỏi chị, vào những ngày cuối tháng Tư chị có cảm nhận hoặc cảm thấy tình hình chính trị của đất nước diễn biến như thế nào không?

    Thưa anh, tôi chỉ xin nói những gì tôi thấy, tôi biết, trong phạm vi Hải-Quân mà thôi.

    Thời điểm đó tinh thần tôi rất rối loạn. Theo báo chí, TV và đài BBC thì quân của V.N.C.H. cứ bị đẩy lùi dần về phía Nam – vì thiếu vũ khí, thiếu đạn dược và cũng vì kẹt đồng bào chạy theo cho nên Lính V.N.C.H. không thể chống trả những đợt tấn công của Việt Cộng! Khi ông nhà tôi cho biết chiến hạm Hải-Quân đã di tản đồng bào và quân bạn khỏi vùng II Duyên Hải thì tôi hoàn toàn không còn tự chủ được; vì em tôi, đại úy Pháo Binh bị kẹt tại Phù-Cát và đại gia đình của tôi bị kẹt tại Cam-Ranh, chỉ một mình tôi ở Saigon!

    Tôi nhờ ông nhà tôi xem có chiến hạm nào ra Trung, xin cho tôi quá giang để về đón đại gia đình của tôi. May mắn là Dương Vận Hạm Nha-Trang, HQ505, Hạm Trưởng là Hải-Quâng trung tá Nguyễn Văn Nhượng, đang nhận đạn tại Thành Tuy Hạ để tiếp tế cho mặt trận Phan-Rang. Tôi quyết định xin theo HQ505 đến Phan-Rang rồi sẽ tìm phương tiện về Cam-Ranh.

    Khi HQ505 đến hải phận Phan-Rang thì Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh – đang chỉ huy các đơn vị Hải-Quân Vùng II Duyên Hải, từ Tuần Dương Hạm Trần Nhật Duật, HQ3, tại vịnh Phan-Rang – không cho HQ505 ủi bãi. Lúc đó tôi mới biết Việt Cộng đã chiếm Phan-Rang và tôi thấy hai xe tăng T54 ngay bãi biển, chỉa mũi súng ra HQ3 và HQ505! Tôi thấy ghe thuyền ồ ạc chèo ra HQ505; trên ghe toàn lính, đủ mọi quân binh chủng! Tôi khóc cho gia đình tôi. Tôi khóc cho những oan khiên đang phủ chụp xuống Quê Hương tôi. Và tôi khóc cho thân phận những người lính đang cố giăng cao chiếc áo trận để thủy thủ đoàn dễ nhận diện!

    Hạm Trưởng Nhượng sắp bước lên đài chỉ huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng!” Nhượng dừng bước, nhìn tôi. Tối tiếp: “Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao?” Hạm Trưởng Nhượng im lặng một thoáng như cố nén xúc động rồi đáp: “Tôi được lệnh không vớt ai cả. Một tàu đạn đầy!”

    HQ505 bẻ một vòng cua ngặt để rời vùng biển Phan-Rang.

    Trên hải hành xuôi Nam, HQ505 được tin Dương Vận Hạm Vũng-Tàu, HQ503 – vừa hoàn tất công tác vớt nhóm quân nhân Nhảy Dù trong vịnh Cà-Ná, theo lệnh của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, từ trực thăng – bị Việt Cộng lấy pháo binh của V.N.C.H. bắn trúng đài chỉ huy, gây tử thương cho bốn năm người. Sau đó, HQ505 được tin Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi – Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III – bị Việt Cộng bắt tại hầm chống pháo kích, sau khi Ông bay trở lại mặt trận Phan-Rang!

    HQ505 đến Phan Thiết vào buổi chiều. Tối đó tôi thấy đạn xẹt xanh đỏ cả vòm trời rồi rơi xuống Phan Thiết. Phan Thiết bị Việt Cộng pháo kích liên tục và dai dẳng! HQ505 nhận được tín hiệu kêu cứu của Tỉnh Trưởng Phan Thiết, nhưng đành chịu!

    Vào thời điểm đó, phu quân của chị là một sĩ quan cao cấp, chị có nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay Cộng Sản hay không?

    Thưa anh, ngay như khi ông Vũ Văn Mẫu đuổi Mỹ ra khỏi Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tôi cũng không nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay Cộng Sản. Lý do là Hải-Quân V.N.C.H. không có dự trù gì cả. Đô Đốc Chung Tấn Cang có ý định đưa Hạm Đội ra Phú-Quốc hoặc về Vùng IV Sông Ngòi, chỉnh đốn hàng ngũ để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài hoặc là nhờ Liên Hiệp Quốc cang thiệp; vì Việt Cộng đã ký Hiệp Định Genève, năm 1954, nhưng Việt Cộng đã vi phạm. Nếu Liên Hiệp Quốc không cang thiệp thì Hạm Đội sẽ về Vùng IV; vì thời điểm đó tình hình Vùng IV rất yên tĩnh.

    Sau này tôi được dịp phỏng vấn Trung Tướng Vĩnh Lộc – Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của V.N.C.H. – thì Tướng Vĩnh Lộc xác nhận rằng chính Tướng Vĩnh Lộc điện thoại trực tiếp cho Tướng Nguyễn Khoa Nam – Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật. Tướng Lộc cho Tướng Nam biết rằng: Nếu không giữ được Saigon, Chính Phủ sẽ di tản xuống Vùng IV và giao trách nhiệm chỉ huy chiến trường cho Tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Nam đáp: “Vâng. Đàn anh đã giao phó thì đàn em xin nhận lệnh.” Điều này xác nhận rằng Hải-Quân V.N.C.H. không hề có bất cứ một dự tính nào để Hạm Đội rời khỏi hải phận Việt-Nam.

    Nhưng cuối cùng, ông Richard L. Armitage – nguyên là cố vấn của Hải-Quân – khuyên Hạm Đội nên tập trung tại Côn-Sơn để xem tình hình chính trị diễn tiến như thế nào rồi mới hoạch định những bước kế tiếp.

    Lúc đó Hạm Đội mới được chỉ thị tập trung tại Côn-Sơn.

    Chị vui lòng thuật lại những biến động quanh hoặc trên HQ502 mà chị đã ra đi. Hải trình của HQ502 như thế nào? Có bị trở ngại gì không? Bao nhiêu người trên HQ502?

    HQ502 rời Saigon, theo sông Soài Rạp. Sau khi chúng tôi rời trại tỵ nạn Camp Pendleton, báo Mỹ phỏng vấn, ông nhà tôi cho biết HQ502 đã chuyên chở khoảng trên năm ngàn đồng bào và quân bạn.

    Khi HQ502 ra đến biển, chúng tôi được tin Việt Cộng bắn vào thương thuyền Việt-Nam Thương Tín, gây tử thương cho nhiều người; trong số nạn nhân có nhà văn Chu Tử.

    HQ502 chỉ còn một máy, đang “ì ạch” tiến, bỗng một L19 bay đến, lượn quanh chiến hạm. Mọi người trên tàu đều nằm rạp xuống, vì sợ Việt Cộng lấy phi cơ của V.N.C.H. bay theo để tấn công chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp xuống, cách mũi HQ502 khoảng 50 thước và anh phi công phụ nhảy ra. Nhiều phao nổi được vất xuống biển.

    Trong khi mọi người chưa biết phương cách nào để cứu anh phi công phụ thì Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, tròng vào người một áo phao và mang theo một áo phao cho nạn nhân rồi nhảy xuống biển.

    Sau khi vớt được phi công phụ, Người Nhái Kiệt cố bơi theo tàu; nhưng vì sức nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến anh Kiệt rất vất vả và khó khăn trong việc cấp cứu.

    Trong khi anh Kiệt đang tận lực chống chọi với sức đẩy của nước thì trên không trung chiếc L19 đảo lại một vòng nữa và anh phi công nhảy ra. Thân người của anh phi công vừa chạm mặt nước liền bị “tưng” lên rồi chìm trong khi chiếc L19 không người lái cũng đâm vào lòng biển.

    Anh phi công phụ – đang trong vòng tay cứu vớt của anh Kiệt – hét to: “Anh thả tôi ra, tới cứu giùm bạn tôi.” Anh Kiệt đáp: “Tôi chưa biết tôi có thể cứu anh được hay không; vì chúng ta đang bị sóng đẩy lùi ra sau thì làm thế nào tôi có thể cứu bạn anh?”

    HQ502 quay lại, vớt cả anh Kiệt và anh phi công phụ trong tiếng reo hò vang dội của mọi người trên tàu.

    Sau đó tình trạng của anh phi công và anh phi công phụ như thế nào?

    Anh phi công chìm luôn. Thời điểm đó gia đình tôi tạm trú tại khoảng không gian nhỏ, giữa đài chỉ huy và sàn tàu – Hải-Quân Việt-Nam gọi là “sân thượng”; Hải-Quân Hoa-Kỳ gọi là spardeck (1). Ngay khuya hôm đó tôi thấy một bóng trắng, gần nơi gia đình tôi tạm trú, phóng mạnh, vượt qua khoảng không gian của sàn tàu và rơi vào lòng biển! Nhiều người và tôi cùng la lên “Có người tự tử!” nhưng tàu vẫn tiến, không ai có thể làm gì được! Về sau nhiều người kiểm chứng và cho biết người tự tử là anh phi công phụ của chiếc L19!

    Điều đó đúng hay không, thưa chị?

    Thưa anh, cả 5 ngàn người trên tàu không ai có thể xác quyết được đúng anh phi công phụ hay không. Nhưng điều quan trọng là không hề thấy hoặc nghe anh phi công phụ lên tiếng. Mấy mươi năm qua cũng chẳng nghe anh phi công phụ lên tiếng.

    Thưa chị, anh phi công phụ đã được cứu, tại sao anh ấy lại tự tử?

    Tôi nghĩ truyền thống cao đẹp của Người Lính V.N.C.H. là Huynh Đệ Chi Binh; lúc nào cũng lo lắng, giúp đỡ nhau. Có thể lúc đầu anh phi công cho anh phi công phụ lên máy bay là có ý giúp bạn. Về sau, anh phi công phụ lại được Người Nhái Kiệt cứu giúp một lần nữa – trên biển – trong khi ân nhân của anh thì không. Có thể trong thời gian hoảng loạn đó anh phi công phụ nghĩ đến Cha Mẹ vợ con bị kẹt lại; chỉ còn vị ân nhân mà vị ân nhân đó cũng không sống được, vậy thì mình sống để làm gì! Đây là tôi suy ra từ tâm trạng của tôi; bởi vì niềm đau khổ đó rất to lớn, rất sâu xa, không dễ gì vượt qua!

    Xin chị cho biết nhận xét của chị về Người Lính V.N.C.H – đặc biệt là thủy thủ đoàn – như thế nào trong chuyến di tản đó.

    Thưa quý vị thính giả, thưa anh Nam, điều nhận xét của tôi không phải để đề cao quân chủng Hải-Quân. Sự thật thì Hải-Quân là một trong những quân binh chủng V.N.C.H. có truyền thống tốt đẹp, đạo đức và tinh thần kỹ luật rất cao; nhờ vậy, những cuộc di tản từ Vùng I Chiến Thuật cho đến suốt cuộc di tản vĩ đại đầu tháng 05-1975 không hề xảy ra bất cứ một sự việc đáng tiếc nào.

    Anh nhớ những cuộc di tản từ miền Trung bằng xà-lang, ghe hoặc tàu dân sự vào Vũng Tàu hoặc Phú Quốc thê thảm như thế nào không? Vì Việt Cộng đã lấy quân phục của Lính V.N.C.H. mặc rồi cố ý gây những điều tàn ác để làm giảm uy tín của Người Lính V.N.C.H. Những thảm trạng đó không hề xảy ra trên bất cứ chiến hạm nào của Hải-Quân; vì Hải-Quân đã đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống để giữ an ninh cho đồng bào và đồng đội. Vả lại, tôi nghĩ, thời gian đó, mọi người đều rơi vào tâm trạng đau đớn, khổ sở và hoang mang trước một thực thể không thể chấp nhận được cho nên không ai còn tâm trí nghĩ đến những điều tàn ác để hại nhau.

    Xin chị cho biết tâm trạng cũng như vấn đề thức ăn, nước uống và vệ sinh cho cả năm ngàn người trên chiến hạm?

    Thưa anh, mấy anh hỏa đầu vụ lo nấu cơm liên tục – ngày cũng như đêm – mới đủ để cung cấp cho đồng bào và quân bạn; nấu nước sôi cho em bé uống sữa. Mấy anh thủy thủ dùng gỗ đóng nhà vệ sinh “dã chiến” dọc theo thành tàu để giải quyết vấn đề vệ sinh. Nhưng tội nghiệp nhất là cảnh nhiều thủy thủ, sĩ quan và hạ sĩ quan, vợ con bị kẹt lại, tối họ đứng riêng, khóc một mình. Nhưng khi ngày đến, họ đều trở lại “vị trí hoặc nhiệm sở” để phục vụ đồng bào và đồng đội.

    Về tâm trạng, tôi nhận thấy trong mắt và trên nét mặt của mỗi người đều mang nét u buồn, thất vọng. Khi nói chuyện với người Lính tôi mới nhận ra rằng quân nhân là những người đau khổ nhất! Bao nhiêu năm hết lòng chiến đấu cho Quê Hương; nếu họ được gục ngã ngoài chiến trận thì họ gục ngã cho Quê Hương, vì Quê Hương, linh hồn của họ có thể yên nghỉ trong niềm hãnh diện của người trai đã làm tròn sứ mạng. Nhưng họ đã không được gục ngã để ngày nay phải thấy đồng bào và đồng đội dắt díu nhau ra đi và Quê Hương rơi vào tay Cộng Sản! Đó là những quân nhân đem theo được vợ con; còn những quân nhân không thể đem Cha Mẹ vợ con theo thì niềm đau khổ của họ là vô tận!

    Một sĩ quan cao cấp Hải-Quân – cựu Hải-Quân đại tá Đỗ Kiểm, nguyên Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải-Quân (2) – là một điễn hình. Với cấp bậc và chức vụ như vậy, đại tá Kiểm đã đặt trách nhiệm trên hết. Đại tá Kiểm đã lo cho đoàn tàu, lo cho mọi người, không có thì giờ về cư xá đưa vợ con của Ông đi.

    Khi Hạm Đội đến Guam, được lệnh phải cởi bỏ cấp bậc, nhiều ông khóc! Tôi nghĩ rằng đó là những giọt nước mắt tủi nhục! Họ tủi nhục vì mấy mươi năm chiến đấu mà vẫn không giữ được miền Nam! Tôi nghĩ, lý do mình không giữ được miền Nam không phải trong tầm tay của người dân miền Nam hoặc do chính phủ miền Nam hoặc do khả năng chiến đấu của Người Lính V.N.C.H. Sự thất thủ miền Nam đến từ bàn hội nghị và cũng do sự lừa đảo của Cộng Sản Việt-Nam. Cộng Sản Việt-Nam xâm phạm hiệp định ngưng chiến năm 1973 không phải bằng súng đạn mà bằng sự xảo trá, gian manh tại bờ sông Thạch Hãn.

    Theo nhà văn quân đội Phan Nhật Nam ghi lại thì, trong thời gian ngưng chiến, Việt Cộng bỏ súng, sang phòng tuyến Thủy Quân Lục Chiến V.N.C.H., bảo: “Anh em cả. Ngưng chiến dzồi, thích quá! Chúng tôi thèm thuốc hút, thèm ăn, các anh ủng hộ tý.” Thủy Quân Lục Chiến tin người, lấy thuốc quân tiếp vụ và thức ăn hộp đãi người anh em bên kia chiến tuyến. Ăn, hút xong, một tiếng “sát” vang lên, nhóm Việt Cộng rút lưỡi lê đâm mấy ông Thủy Quân Lục Chiến chết!

    Tại một địa điểm khác, cũng bên sông Thạch Hãn, sáu tên Việt Cộng sang phòng tuyến của Thủy Quân Lục Chiến xin thức ăn và thuốc hút. Ăn, hút xong, nhóm Việt Cộng mời mấy ông Thủy Quân Lục Chiến sang thăm phòng tuyến của Việt Cộng. Mười hai Thủy Quân Lục Chiến theo sáu tên Việt Cộng đó rồi không bao giờ mười hai Thủy Quân Lục Chiến trở về!

    Rất nhiều người biết chi là tác giả của nhiều tác phẩm viết về Hải-Quân. Xin chị cho thính giả biết chị viết những tác phẩm đó vào trường hợp nào?

    Tôi thực hiện cuốn Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 vì lòng yêu mến, ngưỡng phục của tôi dành cho quân chủng Hải-Quân. Suốt cuộc di tản năm 1975 tôi thấy Hải-Quân đã thể hiện truyền thống cao đẹp của Hải-Quân. Ngoài cuốn tài liệu về Hải-Quân, tôi còn viết nhiều truyện ngắn về Hải-Quân và Lính, thuộc đủ quân binh chủng. Lý do tôi có thể viết về Hải-Quân và Lính là do ngày trước tôi thường tháp tùng các đơn vị chiến đấu Hải-Quân – dưới sự chỉ huy của Hải-Quân trung tá Hồ Quang Minh – lênh đênh trên sông rạch thuộc Vùng IV Sông Ngòi.

    Những lần Hải-Quân đụng trận trên sông, khung cảnh quanh tôi thật “đẹp”, thật hào hùng, như xi-nê. Hình ảnh hùng tráng nhất là, ở những đoạn sông rộng, mấy chiếc forms (Truy Kích Đỉnh) hoặc PBR vừa bắn trả vừa lướt nhanh trên mặt nước, trong tầm đạn xối xả của Việt Cộng. Hình ảnh bi thảm nhất là những khi đoàn chiến đỉnh phải chuyển quân trên những đoạn sông hẹp!

    Trận đánh ác liệt nhất mà tôi được mục kích xảy ra tại kinh Trèm Trẹm, thuộc tỉnh Kiên-Giang, Rạch-Giá. Thời điểm đó ông Minh là thiếu tá, chỉ huy Giang Đoàn 26 Xung Phong. Vào một đêm tối trời, tôi thấy hỏa châu chập chùng hướng kinh Trèm Trẹm – còn gọi là kinh Thứ – và từ máy truyền tin tôi nghe tiếng kêu cứu từ đồn thứ 9. Thiếu tá Minh trực tiếp liên lạc với đại tá Tỉnh Trưởng xin chỉ thị. Đại tá Tỉnh Trưởng không chấp thuận cho đoàn giang đỉnh đi tiếp cứu, vì Trèm Trẹm là một kinh đào tương đối hẹp, đại tá sợ trách nhiệm! Đến khuya, từ máy truyền tin, lời kêu cứu khẩn thiết – hòa lẫn với tiếng đại pháo của Việt Cộng – từ đồn thứ 9 vẫn vang lên từ máy truyền tin. Thiếu tá Minh tự động đưa đoàn giang đỉnh vào đồn thứ 9.

    Đến nơi, dưới ánh hỏa châu, tôi thấy đồn thứ 9 không còn gì và quanh đồn lố nhố Việt Cộng! Dưới sức tác xạ vũ bão của đoàn chiến đỉnh, Việt Cộng “chém vè”.

    Một trận chiến khác trên một kinh đào rất hẹp, thuộc quận Gia-Rai, Chương-Thiện. Giang Đoàn 26 Xung Phong đụng độ dữ dội với Việt Cộng.

    Nhờ những chuyến hành quân đó, tôi thấy Quê Hương mình đẹp vô cùng. Người dân quê nghèo nhưng tâm họ hiền hòa và họ rất thương Lính. Họ thấy Lính là họ cảm thấy yên lòng như được nơi nương tựa. Khi nào chiến trận bùng nổ thì người dân chạy về phía Lính Cộng Hòa.

    Sở dĩ Việt Cộng chiếm được nông thôn vì Việt Cộng dùng chính sách khủng bố, trả thù. Nếu Việt Cộng chiến đấu một cách can cường, ngay thẳng, không man rợ – như Người Lính V.N.C.H. – thì không thể nào Việt Cộng chiếm được nông thôn. Bằng vào thời gian phiêu bạc trên những chiến đỉnh và căn cứ theo chiều dài lịch sử, kể từ ngày tôi đủ hiểu biết, thì chưa bao giờ có cảnh đồng bào Việt-Nam chạy về phía Việt Cộng cả. Năm 1945, bao nhiêu đồng bào rời miền Bắc để di cư vào Nam? Năm 1972 ai khai sinh ra Đại Lộ Kinh Hoàng? Cái dã man tàn ác của Việt Cộng là Việt Cộng pháo kích ngay vào làn sóng người chạy loạn, đi tìm sự bảo vệ từ phía Quốc Gia. Năm 1975, sau khi Việt Cộng “giải phóng (!)” miền Nam, thống nhất đất nước, mà cả trên 30 ngàn người bỏ hết tất cả để ra đi; dù họ không biết sẽ đi về đâu và đi để làm gì! Sau đó, biết bao ngàn người phải liều chết trên biển để trốn khỏi một tập thể đầy ác tính? Từ đó Anh ngữ mới phát sinh ra danh từ Boat People. Tôi tin tưởng rằng Người Lính V.N.C.H. chiến đấu có lý tưởng, có chính nghĩa.

    Rất nhiều người nhận định rằng tác phẩm Hải-Quân V.N.C.H. Ra khơi, 1975 giống như một cuốn hải sử. Làm thế nào chị có thể tìm được nhiều tài liệu, chi tiết như là sự tổ chức của Hải-Quân, quân cụ và các chiến hạm, v.v… mà chị đã viết ra?

    Thưa anh, tôi gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Thời gian đó tôi còn đi làm, các con tôi đang học đại học và thời điểm đó chưa có Internet. Vì vậy, tôi chỉ có thể tận dụng hai ngày cuối tuần để liên lạc bằng điện thoại. Tiền điện thoại viễn liên khá cao. Có vị không trả lời bằng điện thoại, tôi phải “bay” đến để phỏng vấn, xin tài liệu, thu băng rồi về viết lại. Từ nhân vật này tôi tìm ra nhân vật khác. Tỷ dụ trung tá Nguyễn Văn Nhượng – Hạm Trưởng HQ505 – cho tôi biết về cuộc rút quân tại Chu-Lai thì cũng chính Hạm Trưởng Nhượng cho tôi biết thời điểm HQ505 tiến vào Chu-Lai thì có những chiến hạm nào khác, Hạm Trưởng những chiến hạm đó là ai, v.v…Tôi thuộc vào gia đình Hải-Quân từ năm 1962 cho nên nhiều người biết tôi. Họ biết tôi có những hoạt động âm thầm nhưng đáng tin. Đại Gia Đình Hải-Quân cũng nhận thấy rằng việc làm của tôi rất hữu ích, để ghi lại những biến chuyển trọng đại của lịch sử Việt-Nam cận đại qua cuộc di tản vĩ đại do Hải-Quân V.N.C.H. thực hiện. Nếu không ai ghi lại thì Cộng Sản Việt-Nam sẽ bóp méo lịch sử cho nên Đại Gia Đình Hải-Quân đã tận tình giúp tôi. Tôi tốn rất nhiều công sức, thời gian – từ cuối thập niên 70 cho đến năm 1990 mới hoàn tất – và tiền bạc; nhưng bù lại, tôi rất may mắn được sự giúp đỡ vô điều kiện của hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ, cũng như cựu trung tướng Vĩnh Lộc và ông Richard L Armitage.

    Lúc nào tôi cũng quý mến và hãnh diện về Người Lính và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.

    Dân Sinh xin cảm ơn chị rất nhiều; vì đây là dịp nhìn lại quá khứ 40 năm lịch sử mà chị là một trong những nhân chứng và cũng là tác giả ghi lại những biến cố và sự kiện quan trọng của lịch sử. Bốn mươi năm nhìn lại, chị có ý nghĩ gì muốn chia xẻ với thính giả không?

    Thưa anh, ý nghĩ của tôi rất buồn. Bốn mươi năm qua mà Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn không những không đồng nhất mà còn bị chia 5 xẻ 7 cho nên vấn đề đối đầu với Cộng Sản Việt-Nam rất khó khăn. Cái khó khăn mà tôi nhận thấy và đã đưa vào truyện ngắn là: Thế hệ anh và tôi biết V.N.C.H. như thế nào; thế hệ của các con của anh và con của tôi có thể hiểu chút ít. Nhưng đến thế hệ cháu của anh và cháu của tôi – thế hệ di dân thứ III – thì thế hệ thứ III này không biết V.N.C.H. là gì cả!

    Cộng Sản Việt-Nam đưa rất nhiều sinh viên sang đây du học. Vấn đề bạn trai bạn gái giữa sinh viên du học và thế hệ di dân thứ III làm sao có thể tránh được? Thế hệ di dân thứ III được sinh ra và lớn lên trong một xã hội an bình, lương thiện, đạo đức, có văn hóa cao, hoàn toàn khác biệt với môi trường của những sinh viên sang đây du học và những người vợ người chồng được người Việt tỵ nạn về Việt-Nam cưới đem sang đây. Những sinh viên du học hoặc vợ chồng “xuất cảng” từ Việt-Nam – vì lớn lên trong một xã hội Việt-Nam không có đạo đức, thiếu văn hóa – đã đem theo bản chất lừa lọc, dối trá, tham lam, ăn cắp, tàn ác. Những người “xuất cảng” từ Việt-Nam sang đây không thực hiện những hành động tàn ác vì họ sợ pháp luật; nhưng những lời nói độc hại, những lời nói thô tục, những lời nguyền rủa của họ làm xáo trộn nếp sống văn minh và hiền hòa trong cộng đồng Việt-Nam tại ngoại quốc.

    Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi vì Mỹ bỏ cấm vận cho Việt-Nam rất nhiều. Trong tương lai, nếu Mỹ đưa cố vấn về Việt-Nam để huấn luyện cho quân đội Việt-Nam, tôi hy vọng Mỹ sẽ chọn những sĩ quan Hoa-Kỳ gốc Việt – tức là hậu duệ của Q.L./V.N.C.H.

    Nếu niềm hy vọng của tôi thành sự thật thì tôi mong sao những vị cố vấn Mỹ gốc Việt đó hiểu rõ bản chất lừa đảo, gian manh, xảo trá của Cộng Sản Việt-Nam. Bản chất của người Cộng Sản Việt-Nam là họ không có lòng thương người. Cha Mẹ, vợ chồng, con cái mà họ còn đem đấu tố cho đến chết – trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất – thì làm thế nào họ thương ai!

    Xin cảm ơn chị Điệp Mỹ Linh đã dành cho chương trình phát thanh hôm nay cuộc phỏng vấn này. Chúc chị sức khỏe để viết về Nười Lính V.N.C.H.

    Xin cảm ơn quý thính giả. Xin cảm ơn anh Phạm Phú Nam đã giúp cơ hội để Điệp Mỹ Linh được thố lộ những trăn trở và khắc khoải của mình.

    (1)Theo sự giải thích của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.

    (2)Ông Phạm Phú Nam đã nhắc Điệp Mỹ Linh về chức vụ của HQ/ĐT Đỗ Kiểm

  • #2
    CHUYẾN BAY ĐỊNH MỆNH (Điệp Mỹ Linh)


    CHUYẾN BAY ĐỊNH MỆNH
    (Điệp Mỹ Linh)



    LGT – Bất ngờ đọc được bài Tâm Tình Về Người Lính Năm Xưa, do ông Phạm Phú Nam – Giám Đốc Dân Sinh Media – phỏng vấn Điệp Mỹ Linh, Người Tưởng Đã Nhảy Xuống Biển Tự Tử từ Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, năm 1975, liên lạc với Điệp Mỹ Linh.

    Nhận thấy trường hợp di tản của cựu Quân nhân này cũng rất hy hữu, Điệp Mỹ Linh thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn để người Việt trốn thoát chế độ Cộng Sản Việt-Nam – cũng như hơn năm ngàn người Việt trên HQ 502 đã chứng kiến cảnh Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt tiếp cứu trên biển – được hiểu rõ thêm nhiều chi tiết.


    – Kính chào anh Nhiễm.

    Kính chào chị Điệp Mỹ Linh

    – Xin anh cho biết tên, họ. Anh bị động viên hay là Quân nhân tình nguyện ? Anh xuất thân khóa mấy Sĩ Quan Không Quân hay là anh từ Trường Bộ Binh Thủ Đức chuyển sang ?

    Thưa chị, tôi là Nguyễn Viết Nhiễm, tình nguyện gia nhập khóa Hạ Sĩ Quan, Cơ Khí Phi Hành năm 1972 tại căn cứ Tân Sơn Nhất, vài tháng trước Mùa Hè Đỏ Lửa.

    – Anh làm ơn cho biết đơn vị cuối cùng của anh. Nếu anh từ miền Trung hoặc Cao Nguyên di tản về Saigon, anh vui lòng kể lại chuyến di tản của anh.

    Thưa chị, tôi phục vụ tại Phi Đoàn 720 (Vận Tải cơ C-119), Không Đoàn 53 Chiến Thuật, Sư Đoàn 5 Không Quân, Căn Cứ Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Đây là đơn vị duy nhất tôi đã phục vụ từ ngày ra trường cho đến ngày 30/4/75. Tôi không phải di tản trước 30/4/1975, nhưng tôi đã có mặt trong những phi vụ di tản quân và dân tại các phi trường Pleiku, Phù Cát, Nha Trang và Phan Rang.

    – Anh vui lòng cho biết gia cảnh của anh và những diễn tiến chung quanh anh vào thời điểm anh ở Saigon cho đến sáng 30/04/75.


    Thưa chị, năm 1975 tôi mới 22 tuổi, độc thân và còn sống với Bố Mẹ ở khu đối diện cổng C của Sư Đoàn Nhảy Dù, gần ngã tư Bảy Hiền, chỉ cách phi trường Tân Sơn Nhất khoảng 10 phút xe.

    Trách nhiệm của đơn vị tôi phục vụ, Phi Đoàn 720 những ngày mới thành lập, là phối hợp với Hải Quân tuần tiễu vùng Duyên Hải miền Nam. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, vì nhu cầu chiến trường, Phi Đoàn 720 được xử dụng như một Phi Đoàn vận tải, chuyên chở Quân nhân, hành khách và hàng hóa đi khắp miền Nam. Do đó tôi đã có mặt trong những chuyến di tản vào tháng Ba và tháng Tư năm 1975.

    Tại phi trường Pleiku, trưa tháng Ba 1975, trong lúc chúng tôi chờ đợi cho hành khách lên phi cơ về Saigon thì phi trường bị pháo kích. Tất cả hành khách và Quân nhân đang làm việc chạy tán loạn ngược về phía Trạm hàng không; tôi và anh Trưởng Phi Cơ chui xuống một hố cá nhân kế bãi đậu.

    Khi tiếng pháo kích tạm ngưng, chúng tôi vội vã trở lại phi cơ để về Tân Sơn Nhất thì thấy anh Áp Tải đã bị tử thuơng ngay bên cạnh chiếc phi cơ. Chuyến bay trở về Tân Sơn Nhất hôm đó trong thân tàu không có một hành khách nào ngoại trừ thân xác của anh Áp Tải.

    Cuối tháng Ba, 1975 trong một ca Trực Hành Quân, chúng tôi được điều động đến phi trường Phù Cát để “bốc” quân nhân Không Quân và gia đình về Nha Trang. Khi phi cơ vừa chạm bánh trên phi đạo, chúng tôi thấy cả ngàn lính, đủ mọi quân binh chủng, từ mé trái phía cuối phi đạo, cùng ùa chạy ra phi đạo. Trước tình trạng vô trật tự đó, Trưởng Phi Cơ quyết định không vào trạm hàng không như thường lệ mà cho phi cơ chạy đến cuối phi đạo rồi quay đầu lại 180 độ, vẫn để 2 máy quay và chỉ mở 2 cánh cửa đuôi để kéo lính lên. Vì phi trường Phù Cát thiếu an ninh, cho nên, sau phi vụ đó chúng tôi được lệnh không trở lại để “bốc” thêm chuyến nào nữa.

    Kế tiếp là những chuyến di tản Quân nhân và gia đình từ Nha Trang về Phan Rang, rồi từ Phan Rang về Sài Gòn. Những chuyến di tản này trật tự được duy trì chứ không hỗn loạn như ở Phù Cát.

    Ngày 28/4/1975, chúng tôi được phi lệnh chuyên chở hàng hóa và một số Hoa Tiêu – từ Đà Nẵng mới di tản về Tân Sơn Nhất – xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ 2 lượt. Sau khi hoàn tất chuyến bay buổi sáng, trước khi đi ăn trưa tôi cho Trưởng Phi Cơ biết tàu vẫn còn đủ xăng để đi phi trường Bình Thủy chuyến thứ 2. Khi trở lại tàu để bay xuống Cần Thơ lần thứ 2, tôi thấy cả 4 bình xăng đều được bơm đầy. Tôi thắc mắc thì Trưởng Phi Cơ cho biết phi trường Biên Hòa đã bị bỏ rơi vì chiếc C-119 thứ 2 của Phi Đoàn 720 đi Biên Hòa sáng hôm đó, sau khi đáp đã không thấy ai ra bốc hàng. Do đó, anh xin lính trông coi máy bay dưới đất đổ đầy xăng để phòng hờ, nếu cần, chúng tôi sẽ có đủ nhiên liệu để bay thẳng qua Utapao, Thái Lan.

    Khoảng 6:00 giờ chiều cùng ngày, 3 chiếc A-37 từ Phan Rang vào thả bom xuống Tân Sơn Nhất.


    – Xin anh cho biết nguyên do anh gặp lại bạn cùng xóm và cả hai anh lấy L19 bay ra biển từ phi trường nào ? Lúc mấy giờ ? Lúc đó tình hình tại phi trường đó như thế nào ?


    Thưa chị, phi công lái L-19 là Thiếu úy Nguyễn Thành Hưng. Anh Hưng phục vụ tại Phi Đoàn 120 Quan Sát, Sư Đoàn I Không Quân, trong phi trường Đà Nẵng. Tôi và anh Hưng thân nhau từ năm 15 tuổi khi cả 2 cùng sinh hoạt chung trong toán Nhân Dân Tự Vệ.

    Khi Q.L.V.N.C.H. di tản khỏi Vùng I, đơn vị của anh Hưng được dời về Tân Sơn Nhất. Trong thời gian chờ đợi để bổ sung, ngoài giờ làm việc anh, Hưng trở về sống trong căn nhà của Bố Mẹ anh. Những buổi sáng rảnh rỗi chúng tôi thuờng xuyên gặp nhau tại một quán Café gần nhà.

    Tối 28/4, khoảng 11:00 giờ, những sĩ quan cao cấp của Không Đoàn và các Phi Đoàn đã đem gia đình ra Côn Sơn; ngoài ra chúng tôi không nhận được một tin tức hoặc chỉ thị nào khác. Trong khoảng thời gian này thỉnh thoảng Cộng Sản lại pháo vài trái vào phi trường. Một, hai trái nổ rất gần chúng tôi. Trước tình trạng nguy hiểm đó, anh Hưng và tôi quyết định trở về nhà để tránh pháo kích.

    Sáng 29/4, khi đang uống Café tại quán, chúng tôi nghe đài phát thanh thông báo Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh tất cả Quân nhân phải trở lại đơn vị. Thời điểm đó, anh Hưng đang đợi bổ sung, đơn vị của tôi tại Tân Sơn Nhất, cho nên chúng tôi bảo nhau cùng vào Tân Sơn Nhất.

    Khoảng 9:00 giờ sáng chúng tôi vào đến Phi Đoàn 720. Số người có mặt trong Phi Đoàn rất ít. Tuy nhiên các vị chỉ huy của Phi Đoàn có mặt đầy đủ. Anh Hưng và tôi trở về nhà.

    Khoảng 11:00 giờ trưa cùng ngày, đang đùa giỡn với vài người bạn hàng xóm, tôi thấy một chiếc C-119 thuộc Phi Đoàn của tôi cất cánh, kế tiếp là vài chiếc C-130. Tôi đoán có lẽ các Phi Đoàn đã được lệnh mang phi cơ đi về Vùng IV để tránh pháo kích. Tôi vội chạy qua nhà anh Hưng, rủ anh cùng trở lại phi trường Tân Sơn Nhất.

    Bên trong phi trường lúc này rất vắng vẻ. Lối ra các bãi phi cơ chẳng còn ai canh gác. Vào đến nơi thì nguyên một khu vực rộng lớn gồm các Phi Đoàn 720, Phi Đoàn 435, Phi Đoàn 437 và Không Đoàn 53 không còn một bóng người !

    Chúng tôi chạy ra bãi L-19. Nơi này cũng rất vắng vẻ. Tôi và Hưng chia nhau làm việc. Anh Hưng lo kiểm soát bình điện, còn tôi kiểm soát bình xăng. Khi tìm được chiếc phi cơ có điện và xăng đầy đủ thì một nhóm khoảng 5 người đến xin đi theo; nhưng vì chiếc L-19 chỉ có 2 ghế cho nên cuối cùng trên phi cơ chỉ có tôi, Hưng và 2 Thiếu Tá trực thăng. Vì trong tình trạng khẩn cấp, anh Hưng đã không ra phi đạo mà vội vã cho tàu cất cánh ngay trên taxi way (đường dẫn ra phi đạo). Nhưng phi cơ bị quá tải, không đủ sức nâng; vì vậy phi cơ không cất cánh nổi. Sau vài phút điều đình, một vị Thiếu Tá bằng lòng rời phi cơ. Cuối cùng trên tàu còn 3 người và chúng tôi đã an toàn đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ khoảng 1:30 giờ trưa 29/4.

    Vừa ra khỏi chiếc L-19, hai Quân Cảnh ập đến yêu cầu chúng tôi lên xe Jeep. Họ đưa chúng tôi về Văn phòng làm báo cáo vì chúng tôi đã tự ý đem phi cơ từ Tân Sơn Nhất xuống Bình Thủy. Sau khi trình bày tình trạng an ninh tại Tân Sơn Nhất, Quân Cảnh để chúng tôi tự do.

    Ngay sau đó Thiếu Tá trực thăng chia tay chúng tôi để tìm gặp bạn bè. Phi trường Cần Thơ lúc bấy giờ vẫn hoạt động rất bình thường, dường như không hề chịu một áp lực nào của Cộng quân.

    Tối đến, chúng tôi gặp lại những Hoa Tiêu mà ngày hôm trước chúng tôi đã đưa họ từ Tân Sơn Nhất xuống Bình Thủy. Cùng với họ, chúng tôi vô tư ăn uống, vui chơi tại Câu lạc bộ trong phi trường. Không ai ngờ rằng đó là bữa ăn uống cuối cùng trên đất Việt.

    Sáng 30/4, cùng với khoảng 20 người bạn, chúng tôi tụ tập trên sân của một Phi Đoàn A-37. Chúng tôi cùng quây quần lắng nghe tin tức của đài phát thanh Saigon qua một Radio nhỏ.

    Khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chúng tôi bàng hoàng, tức tưởi! Mọi người cùng im lặng với tâm tư chua cay, tủi nhục của những kẻ thua cuộc! Vài phút sau, tất cả đồng loạt đứng dậy chuẩn bị ra phi đạo lấy máy bay để rời phi trường, mặc dầu chưa biết sẽ đi về đâu ! Tuy nhiên, chúng tôi còn do dự vì có vài anh lính phòng thủ phi trường ngăn cản lối ra các bãi phi cơ. Rồi thật bất ngờ, một vị Trung Tá đã đánh liều, vượt qua những anh lính phòng thủ, thế là chúng tôi cùng chạy ùa theo. Tôi và anh Hưng cùng lập lại những công việc đã làm lúc rời Tân Sơn Nhất để tìm một phi cơ đầy đủ xăng và điện.

    Khoảng 11:30 giờ trưa cùng ngày, chúng tôi rời phi trường Bình Thủy.

    – Thưa anh, sau khi cất cánh, anh và anh Hưng dự định bay đi đâu ?

    Sau khi đã bình phi, qua hệ thống vô tuyến trên phi cơ, chúng tôi liên lạc với vài người bạn đang bay trong khu vực và cho họ biết chúng tôi sẽ trở về Saigon. Nhưng ngay sau đó, chúng tôi thay đổi hướng bay khi được tin Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đang chờ đón những Quân nhân miền Nam ngoài khơi Vũng Tàu.

    – Khi thấy Hạm đội Hải-Quân Việt-Nam, tại sao anh và anh Hưng lại chọn HQ 502 ?

    Thưa chị, đến hải phận Vũng Tàu, đầu tiên chúng tôi thấy cả vài chục chiếc tàu đánh cá cùng hướng ra biển. Vài phút sau đó chúng tôi thấy một chiến hạm của Hải-Quân Việt-Nam; chiến hạm này khá lớn nhưng nhỏ hơn HQ 502, trên boong tàu chật kín người. Bay xa thêm một chút nữa, chúng tôi thấy Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, trên tàu cũng đầy nghẹt người. Chúng tôi xuống thấp để quan sát. Hình như tôi đã cầm một miếng vải trắng vẫy tay chào mọi người trên tàu. Tôi và Hưng cùng bàn với nhau, tàu lớn chắc chắn có xuồng cấp cứu; vì vậy chúng tôi bỏ ý định tìm Chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Anh Hưng và tôi đồng ý nhảy xuống biển để theo HQ 502.

    – Trước khi nhảy xuống biển, cảm tưởng của anh như thế nào ?

    Thưa chị, trước khi nhảy ra khỏi chiếc L-19 tôi rất bình tĩnh. Tôi bảo anh Hưng cho tàu bay lòng vòng để tôi cởi bỏ đôi giày. Chắc chắn lúc đó tôi không hề nghĩ đến cái chết. Tôi tin tưởng một cách tuyệt đối rằng cứ nhảy xuống biển rồi sẽ được cứu vớt, do đó tôi đã không một chút phân vân, phóng ra khỏi phi cơ khi anh Hưng hô “Nhảy !”

    – Được Người Nhái Hải Quân vớt, cảm nghĩ của anh như thế nào ?

    Thưa chị, tôi còn nhớ rất rõ, tôi đã nhảy xuống trước mũi chiếc HQ 502. Thế rồi con tàu khổng lồ từ từ trôi qua tôi mà không hề thấy một chiếc xuồng cấp cứu nào đến như tôi mong đợi. Tôi bắt đầu thất vọng ! Đầu óc tôi lúc bấy giờ rất căng thẳng nhưng bình tĩnh. Rồi thật bất ngờ, một thanh niên bơi về phía tôi, trên tay anh mang theo một áo phao. Anh nói tôi ôm vào chiếc phao, dặn tôi cố sức đạp hai chân thật mạnh, rồi anh kéo tôi về HQ 502. Anh thật là một người can đảm, đầy nhân ái đã bất chấp nguy hiểm để cứu vớt một người không hề quen biết.

    Xin cảm tạ Thiên Chúa và muôn vàn cám ơn anh Kiệt đã cứu mạng tôi.

    – Xin anh cho biết, thấy anh Phi công nhảy ra, “tưng lên” rồi chìm ngay, anh nghĩ gì ?

    Thưa chị, trước khi anh Kiệt kéo tôi về đến chiếc tàu thì tôi nghe tiếng chiếc L-19 đâm xuống biển mé bên kia của chiếc HQ 502. Nhưng vì bị chiến hạm to lớn che khuất, tôi không thấy được điều gì xảy ra phía bên kia. Sau khi được kéo lên boong tàu, câu nói đầu tiên tôi nghe là “Bạn anh chết rồi”! Lúc đó tôi mới biết anh Hưng đã vĩnh viễn ra đi !

    – Sau khi lên HQ 502, anh nghĩ gì và cảm tưởng của anh về người bạn thiếu may mắn của anh như thế nào ?


    Thưa chị, lên được boong tàu tôi rất yếu và mệt, có lẽ không quen bơi lội. Sườn bên trái của tôi bị sưng khá lớn. Tôi bị lột mất bộ quân phục đẫm ướt và được đặt nằm trên một băng ca hay trên ghế của chiếc trực thăng, tôi không nhớ rõ lắm. Tôi vô cùng buồn bã, chán chường trước cái chết của anh Hưng! Anh là người thân duy nhất đã cùng tôi chia xẻ những gian nan, nguy hiểm trên đường trốn tránh cộng sản; đến khi được tạm yên ổn thì anh lại bị tử nạn! Những ngày sau đó tôi mang tâm trạng chán chường của một người đã bị tước đoạt tất cả những gì mình yêu quí! Tôi nhận biết tôi đã thiếu anh Hưng một món nợ vô giá, không thể đền đáp được !

    – Anh có thấy hoặc nghe người nào nhảy xuống biển vào tối 30/04/75 hay không ? Hay là anh có nghe đồng bào và quân bạn trên HQ 502 bàn tán về người đã nhảy xuống biển ngay đêm sau khi anh được vớt hay không ?

    Thưa chị, tối 30/4 người tôi vẫn còn yếu, tôi chỉ nằm nghỉ ngơi. Nhưng tối hôm sau, trong lúc tôi lẩn quẩn trên boong tàu để tìm người quen thì nghe hai người đàn bà ở tầng trên bàn tán với nhau về chuyện anh phi công L-19 sống sót đã nhảy xuống biển chết theo người bạn đêm qua. Ngay lúc đó tôi đã đính chính và xác định với họ chính tôi là người đã nhảy ra khỏi chiếc L-19.

    – Thưa anh, gia đình anh Hưng nhận được tin buồn của anh ấy vào thời điểm nào ? Ai báo tin ?

    Thưa chị, đầu năm 1976, tôi không nhớ rõ vào tháng nào, tôi đã gặp Thịnh, em ruột của anh Hưng tại một khu buôn bán của người Việt tại Arlington, VA. Tôi báo tin buồn với Thịnh. Năm 1978 tôi nhờ một người ở Kowloon, Hong Kong chuyển về Việt-Nam một lá thư cho bố mẹ tôi, trong đó tôi cũng báo tin về cái chết của anh Hưng. Cha mẹ anh Hưng đã nhận được hung tin vào thời điểm này.

    Sau đó, vào vài dịp trở về Việt-Nam thăm gia đình, tôi đều đến thăm Bố Mẹ anh Hưng và kể đầy đủ chi tiết về chuyến đi và cái chết của anh. Sau này bố mẹ anh Hưng chuyển đi nơi khác, lâu rồi tôi không còn gặp Ông Bà nữa.

    – Từ 1975 đến nay anh có biết tin hoặc liên lạc với Người Nhái đã cứu anh hay không ?

    Thưa chị, trong thời gian còn ở trên HQ 502 tôi, tìm đến anh Kiệt để cám ơn đã cứu mạng. Khi đến trại Orote Point, Guam tôi cố tìm anh nhưng không gặp. Ở Guam vài tuần, tôi xin đi Indian Town Gap, PA. Từ đó đến nay tôi không gặp và cũng không nghe tin tức gì về anh Kiệt. Tôi dò hỏi vài người bạn sinh sống ở quận Cam về anh Kiệt nhưng cũng không hiệu quả. Rất mong được tin của anh.

    – Xin anh vui lòng cho biết tình trạng gia cảnh của anh hiện tại ?

    Thưa chị, tôi đã lập gia đình vào năm 1981. Được 3 cháu, hai gái, một trai. Hai cháu lớn đã trưởng thành, xong Đại Học và đang có công việc vững chắc. Cô Út vẫn còn trong Đại Học. Bà xã tôi là Accountant, làm việc cho Chính phủ Liên Bang. Phần tôi, trước khi về hưu là Kỹ Sư Cơ Khí (Mechanical Design Engineer) của hãng Philips.

    – Lần đầu tiên đặt chân trở về phần đất mà anh suýt vong mạng lúc anh tìm cách lìa xa, xin anh vui lòng cho biết cảm tưởng của anh như thế nào ?

    Thưa chị, Bố tôi và 8 người em hiện còn sống tại Sài Gòn cho nên tôi đã trở về Việt-Nam vài lần. Lần đầu tiên vào cuối tháng 11, 1990, gần đây nhất, vợ chồng tôi đã đưa các cháu về Việt-Nam ăn Tết Ất Mùi với Bố tôi. Ông cụ nay đã 88 tuổi.

    Năm 1990, trên chuyến bay của Thai Airways đáp xuống Tân Sơn Nhất có lẽ chỉ có vài người Việt Nam, đa số là dân Úc và Đài Loan. Trước khi rời phi cơ, một anh bộ đội bước vào trong thân tàu, tay cầm một tờ danh sách hành khách. Quả thật lúc đó tôi rất lo sợ vì không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình.

    Khi ra khỏi máy bay, quan sát cảnh vật bên trong phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi dâng lên nỗi buồn vô tận! Thời còn tại ngũ, tôi đã quá quen thuộc với cảnh nhộn nhịp người ra, kẻ vào và không khí ồn ào, tấp nập của các phi cơ đủ loại lên xuống.

    Hôm tôi trở về, cả phi cảng chỉ có duy nhất một phi cơ của hãng Thai Airways. Tất cả nhà cửa, công sở xuống cấp một cách tàn tệ và hoang vắng ngoài sức tưởng tượng! Càng buồn hơn nữa khi đi qua những đường phố tàn tạ và chật hẹp trên quãng đường từ Lăng Cha Cả về nhà tôi. Tôi đã vô cùng xót xa trước cuộc sống quá nghèo nàn, cơ cực và luôn luôn sợ sệt của những người thân quen. Cay đắng hơn cả là khi tôi gặp lại cô bạn cũ – người đã từng làm rung động biết bao trái tim của đám trai tráng chúng tôi, ngày trước – nay ngồi bán xôi bên lề đường với bộ quần áo vá víu nhiều chỗ !

    Những gì tôi thấy và nghe được trong chuyến về Việt-Nam đầu tiên đã chứng minh rằng nhà cầm quyền Cộng Sản là một lũ độc tài, ngu dốt, đã đưa toàn dân đến cảnh lầm than, đói khổ. Họ chỉ biết dùng quyền lực để đàn áp, bóc lột người dân.

    – Cảm tưởng của anh sau khi đọc bài ông Phạm Phú Nam phỏng vấn Điệp Mỹ Linh như thế nào ? Làm thế nào anh có địa chỉ email của Điệp Mỹ Linh ?

    Thú thực với chị, nếu không có hình của Chiến hạm mang số 502 trên trang 35 của tờ báo có lẽ tôi đã không đọc bài phỏng vấn. Đã hơn 40 năm rồi, tôi đã đọc cả trăm bài viết về những ngày cuối của cuộc chiến Nam Bắc và các cuộc lui quân, di tản bi thương của quân và dân từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Kontum, v.v… Tôi đọc đã đủ, không muốn đọc thêm nữa. Nhưng chính hình chiến hạm HQ 502 của tạp chí Thế Giới Mới, số 706 đã làm sống lại trong tôi chuyến bay định mệnh ngày 30/4/1975 !

    Tôi vô cùng xúc động, ngồi yên lặng khá lâu, nhớ đến chuyện cũ. Khi đọc đến đoạn nói về chiếc L-19 thì tâm tư tôi lẫn lộn những cảm giác buồn bã, bùi ngùi, tiếc nuối! Đến câu hỏi của ông Phạm Phú Nam “Điều đó có đúng hay không (lời đồn anh phi công phụ tự tử) ?” Chị đã trả lời “Hơn 5.000 người trên chiến hạm HQ 502 không ai xác quyết được. Nhưng đã mấy mươi năm qua không hề nghe anh phi công phụ lên tiếng”. Đọc đến đây tôi bỗng mang mặc cảm của một kẻ có lỗi và đang bị khiển trách ! Lỗi gì và lỗi với ai ? Quả thật tôi không rõ. Bà xã tôi khuyên tôi nên liên lạc với tòa báo để làm rõ câu chuyện; nhưng tôi lại tìm chị vì biết chị là người năm xưa đã chứng kiến chúng tôi nhảy ra khỏi chiếc L-19.

    Trước khi về hưu, trong việc làm hàng ngày tôi thường xuyên dùng Internet để tìm kiếm tài liệu và những thông tin liên quan đến công việc. Do đó kiếm tìm một người có khá nhiều dấu ấn trên mạng Internet (http://www.diepmylinh.com/) không có gì khó khăn cả.

    – Xin cảm ơn anh.

    Xin cám ơn và chào chị.

    Điệp Mỹ Linh thực hiện phỏng vấn
    http://www.diepmylinh.com/
    Last edited by nguyenphuong; 11-02-2015, 05:50 AM.

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X