Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Kế Hoạch Đánh Dinh Gia Long

Collapse
X

Kế Hoạch Đánh Dinh Gia Long

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Kế Hoạch Đánh Dinh Gia Long

    Kế Hoạch Đánh Dinh Gia Long
    Lữ Giang


    Mặc dầu đã chiến đấu với Mỹ 20 năm và sống trên đất Mỹ 40 năm, đa số người Việt quốc gia vẫn còn biết rất ít về Mỹ, một số hiện đang tin tưởng rằng Mỹ sắp tấn công Trung Quốc!

    Hôm nay, nhân kỷ niệm 62 năm ngày Mỹ tổ chức đảo chánh để lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng tôi xin tóm lược lại dưới đây kế hoạch đánh chiếm Dinh Gia Long do Mỹ thiết lập để người Việt đấu tranh thấy rằng với Mỹ, cũng như với Cộng Sản, nhất cử nhất động đều được tính toán rất kỹ càng và chuẩn bị lâu dài. Nếu chỉ nhìn vào những kịch bản mà tưởng đó là Tin Mừng thì hết vỡ mộng này đến vỡ mộng khác.
    Vì bài báo có giới hạn, ở đây chúng tôi chỉ nói về kế hoạch hành quân chứ không nói các trận đánh đã xảy ra. Xin thành thật cám ơn những người trong cuộc đã cung cấp những thông tin cần thiết. Hy vọng người Việt đấu tranh sẽ rút thêm được một số bài học.


    Lựa Chọn và Cài Đặt Tay Chân Bộ Hạ

    Để tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, Hoa Kỳ đã phối hợp với Tướng Trần Văn Đôn, Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu để soạn thảo một kế hoạch hành quân rất tỷ mỹ và hoàn chỉnh, trong đó hai điệp viên CIA là Tướng Khiêm và Đại Tá Thiệu đóng vai trò chính. Trần Thiện Khiêm sinh ngày 15.12.1925 tại Long An, tốt nghiệp Chuẩn Úy khoá 1 Nguyễn Văn Thinh Trường Võ bị Liên quân Viễn đông Đà Lạt khóa 1946 – 1947. Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5.4.1923 tại Ninh Thuận, tốt nghiệp khóa Sĩ Quan Đập Đá Huế 1948 – 1949. Năm 1951, qua sự mai mối của thân phụ Chuẩn Tướng Lê Văn Tư, Nguyễn Văn Thiệu theo đạo Công Giáo để lấy cô Nguyễn Thị Mai Anh ở Mỹ Tho, con một gia đình công giáo danh giá.

    Đại Tá Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đã được ông Diệm cho đi học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ, khóa 1957 – 1958 với một số sĩ quan khác. Nhưng Khiêm và Thiệu và đã được CIA tuyển mộ làm cộng tác viên để thực hiện các kế hoạch của Mỹ sau này mà ông Ngô Đình Nhu không hay biết. Trái lại, ngầy nay CSVN biết rất rõ Mỹ cũng đang làm như thế đối với các viên chức được Hà Nội gởi qua Mỹ du học nên đã có kế hoạch theo dõi và thanh lọc.

    Theo Tướng Trần Văn Đôn kể, khi cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 không thành, chính ông Miller và Tướng McGarr, trưởng cơ quan MACV tại Sai Gòn, đã bảo Đại Tá Trần Thiện Khiêm đem Sư Đoàn 21 về giải cứu ông Diệm để được tin dùng. Ngày 6.12.1962, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký Sắc Lệnh thăng Đại Tá Khiêm lên Thiếu Tướng và giao cho giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân thay thế Tướng Nguyễn Khánh vừa được cử đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn II.

    Năm 1962, do sự sắp xếp của CIA, Đại Tá Thiệu đã xin gia nhập Đảng Cần Lao để được ông Nhu tin tưởng hơn. Trong kế hoạch xây dựng Ấp Chiến Lược, Đại Tá Thiệu đã có nhiều ý kiến rất xuất sắc nên được ông Nhu khen ngợi. Sau đó, Đại Tá Thiệu được cử đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở Huế. Đầu năm 1963, khi thấy tình hình lộn xộn, Tổng Thống Diệm đã đưa Đại Tá Thiệu về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 đóng ở Biên Hòa thay thế Đại Tá Nguyễn Đức Thắng, mặc dầu về quân sự Đại Tá Thắng có nhiều kinh nghiệm hơn Đại Tá Thiệu. Đại Tá Thiệu được ông Ngô Đình Nhu trao nhiệm vụ giải cứu thủ đô khi có đảo chánh. Ông Nhu không hề hay biết Đại Tá Thiệu là người của CIA.

    Cuối tháng 7 năm 1963, Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, được đưa qua Mỹ, nói là để chữa bệnh “ung thư phổi phải”. Tổng Thống Diệm cử người tin cậy số 1 của mình là Tướng Trần Thiện Khiêm làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. CIA coi như ông Diệm đã trúng kế. Không ngờ sau đó ông Diệm lại cử Tướng Trần Văn Đôn giữ chức vụ này thay Tướng Khiêm, nên Mỹ lại phải cho đi móc nối với Tướng Đôn. Theo báo cáo ngày 26.8.1963 của CIA, chính Lucien Conein được giao nhiệm vụ tiếp xúc với Tướng Trần Văn Đôn và Tướng Nguyễn Khánh ở Pleiku. (FRUS 1961 – 1963, Vol. III, trang 642). Chính Tướng McGarr đã cùng với Tướng Khiêm và Tướng Đôn lập kế hoạch đảo chánh.

    Còn Dương Văn Minh đóng vai trò gì? Đại Tá Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng của Tướng Khiêm kể lại rằng trong một cuộc nói chuyện vào đầu tháng 3/2007 ông có hỏi Tướng Khiêm cuộc đảo chánh 1.11.1963, bắt đầu từ phía Hoa Kỳ hay từ phía Việt Nam, Tướng Khiêm cho biết bắt đầu từ phía Hoa Kỳ, ông S. là người móc nối (ông S. là Al Spera, cố vấn chính trị tại Bộ TTM). Tướng Khiêm là người được móc nối đầu tiên, nhưng thấy việc lớn quá, Tướng Khiêm giới thiệu Trung Dương Văn Tướng Minh.

    Tuy được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, cầm đầu cuộc đảo chánh, nhưng Dương Văn Minh chỉ được Mỹ giao cho một nhiệm vụ duy nhất là làm SÁT THỦ dưới sự chỉ đạo của Lucien Conein: Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu; giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; giết Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và người em là Đại Úy Lê Quang Triệu. Ngoài ra, ông không có quyền hành nào khác. Như vậy Mỹ đã quyết định đổ mọi tội ác lên đầu Dương Văn Minh. Theo sự phân công, Tướng Đôn phối hợp các lực lượng, Tướng Khiêm chỉ huy cuộc hành quân, Đại Tá Thiệu đem Sư Đoàn 5 chiếm Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long. Tóm lại, hai tên phản tặc Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu đóng vai trò chính trong cuộc đảo chánh 1963.


    Phối Hợp các Lực Lượng

    Bản báo cáo ngày 29.10.1963 của Hilsman, Phụ Tá Bộ Ngoại Giao về Viễn Đông Vụ, cho biết lực lượng đứng về phe đảo chánh lúc đó gồm có: (1) Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến, (2) Không Quân, (3) Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung của Tướng Mai Hữu Xuân và (4) Sư Đoàn 5 ở Biên Hòa, cách Sài Gòn khoảng 20 dặm. Vì biết rõ hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến không thể khống chế Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, Tướng Trần Văn Đôn đã liên lạc với Thiếu Tá Vĩnh Lộc chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Vũng Tàu, yêu cầu đưa Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đang được thụ huấn tại đây và một đơn vị thiết giáp do Thiếu Tá Nguyễn Văn Toàn và Đại Tá Phan Hòa Hiệp chỉ huy, về Sài Gòn tiếp ứng khi cuộc đảo chánh bắt đầu.

    Theo kế hoạch hành quân, trước ngày đảo chánh, hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên chỉ huy gồm có Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Nhựt và Tiểu Đoàn 4 của Đại Úy Lê Minh Hằng, được lệnh mở cuộc hành quân giả đánh núi Thị Vãi ở Ba Rịa, rồi bất thần quay về chiếm Tổng Nha Công An Cảnh Sát, đài Phát Thanh Sài Gòn và tấn công vào Dinh Gia Long.

     Trung Đoàn 1 Thiết Giáp ở Gò Vấp do Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa chỉ huy, được phân công như sau: Chi Đoàn 1/1 Chiến Xa M24 do Đại Úy Bùi Ngươn Ngãi chỉ huy, yểm trợ chiếm Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa. Hai Chi Đoàn Thiết Vân Xa M113 là 4/1 do Đại Úy Trần Văn Thoàn chỉ huy và 5/1 do Trung Úy Nguyễn Văn Tỷ (thay Đại Úy Hà Mai Việt) chỉ huy, sẽ phối hợp với hai Chi Đoàn Thám Thính M114 là 2/1 và 3/1 bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.
     Lực lượng của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung chiếm phi trường Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng Tham Mưu và Đài Phát Thanh Quân Đội ở Quang Trung.
     Lực lượng của Trung Tâm Vạn Kiếp ở Vũng Tàu do Thiếu Tá Vĩnh Lộc chỉ huy, trong đó có Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đang thụ huấn tại đây, và một số thiết giáp của Trường Thiết Giáp sẽ về Sài Gòn yểm trợ cho Thủy Quân Lục Chiến.


    Kế Hoạch Điệu Hổ Ly Sơn

    Lúc đó ở Sài Gòn, ngoài Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gồm khoảng 2.500 quân với võ khí tối tân, còn có khoảng 1.840 quân thuộc Lực Lượng Đặc Biệt rất thiện chiến, khó đánh thắng được. Vậy vấn đề là làm sao di chuyển được Lực Lượng Đặc Biệt ra khỏi Sài Gòn và đưa Sư Đoàn 5 của Đại Tá Thiệu vào thay.

    Ngày 15.3.1963, Tổng Thống Diệm ra quyết định thành lập Lực Lượng Đặc Biệt trên cơ sở của Sở Khai Thác Địa Hình. Lực Lượng này có 2 đơn vị tác chiến là Liên đoàn biệt kích 77 và 31, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống. Sau khi Mỹ dọa cắt viện trợ, Lực lượng này được chuyển sang Bộ Quốc Phòng, có quy mô tương đương cấp Lữ Đoàn, nhưng trên thực tế Bộ Chỉ Huy Lực lượng Đặc Biệt do Đại Tá Lê Quang Tung làm Chỉ Huy Trưởng vẫn có quyền điều động.

    Một tuần trước ngày đảo chánh xẩy ra, CIA bảo Tướng Đôn đã vào trình Tổng Thống Diệm rằng các tin tình báo cho biết một số đơn vị Việt Cộng đã xâm nhập vào vùng ven đô. Đặc biệt tại khu Hố Bò ở Củ Chi, Gia Định, phía Tây và Tây Bắc Sài Gòn. Tướng Đôn xin Tổng Thống Điệm cho xử dụng Lực Lượng Đặc Biệt và Sư Đoàn 5 để mở cuộc hành quân tảo thanh Việt Cộng. Bị trúng kế, ngày 31.10.1963, Tổng Thống Diệm đã ký Sự Vụ Lệnh cho phép mở cuộc hành quân tảo thanh Việt Cộng ở khu Hố Bò. Được sự chấp thuận của ông Diệm, Tướng Đôn đã ra lệnh cho Đại Tá Lê Quang Tung cho lập kế hoạch hành quân đưa Lực Lượng Đặc Biệt đi tảo thanh vùng Hố Bò, còn Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu lập kế hoạch hành quân vùng ven đô. Sau này, các đơn vị thuộc Lực Lượng Đặc Biệt cho biết họ bị chia ra thành từng đơn vị nhỏ và được đem thả rải rác trong rừng, chứ không phải đi hành quân ở khu Hố Bò!


    Vai Trò của Sư Đoàn 5

    Lúc đó Sư Đoàn 5 đóng tại Biên Hòa do Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu làm Tư Lệnh, Trung Tá Hoàng Gia Cầu làm Phó Tư Lệnh, Thiếu Tá (nhiệm cách) Phạm Quốc Thuần làm Tham Mưu Trưởng. Sư đoàn này có 3 trung đoàn:

    - Trung Đoàn 7 do Thiếu Tá Vũ Ngọc Tuấn làm Trung Đoàn Trưởng, đóng tại Ngã Ba Tam Hiệp. Bộ Chỉ Huy đóng tại Trung Tâm Huấn Luyện Trần Quốc Toản.
    - Trung Đoàn 8 do Thiếu Tá Nguyễn Văn Tư làm Trung Đoàn Trưởng, đóng tại Bến Xát, Bình Dương. Bộ Chỉ Huy đóng ở Trại Trần Nguyên Hản.
    - Trung Đoàn 9 do Thiếu Tá Vòng Đồng Phóng làm Trung Đoàn Trưởng, đóng tại Tây Ninh.
    Khi Lực Lượng Đặc Biệt bị đưa đi thả rải rác trong rừng, Đại Tá Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tá Lộ Công Danh, Trưởng Phòng 3, lập kế hoạch hành quân. Kế hoạch này được đặt tên là “Kế Hoạch Hành Quân Rừng Sát”. Theo kế hoạch này, Trung Đoàn 7 sẽ về đóng tại Hàng Xanh, Trung Đoàn 8 tại cầu Bình Lợi và Trung Đoàn 9 ở cầu Bến Lức. Đây là lực lượng chính của quân đảo chánh.

    Lệnh hành quân được ban hành lúc 12 giờ trưa ngày 1.11.1963 như sau:

    - Trung Đoàn 7 phụ trách từ Ngã Ba Tam Hiệp đến cầu Hàng Xanh. Bộ Chỉ Huy đóng ở cầu Hàng Xanh, chặn đường tiếp viện từ quốc lộ 1 và quốc lộ 15.
    - Trung Đoàn 8 đóng ở cầu Bình Lợi, chặn đường tiếp viện từ Biên Hòa theo ngã Thủ Đức xuống.
    - Trung Doàn 9 đóng ở cầu Bến Lức, chận quốc lộ 4, ngăn chận Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 21.
    Việc chuyển quân từ 12 giờ trưa đến 10 giờ tối mới đến mục tiêu chỉ định. Mỗi trung đoàn cung cấp 1 tiểu đoàn kéo vào đóng tại Sài Gòn, bao vây Vườn Tao Đàn, Thành Cộng Hòa và Tổng Nha Cảnh Sát. Bộ Chĩ Huy nhẹ được đặt tại Trường Đại Học Sư Phạm ở đường Cộng Hòa, do Trung Tá Hoàng Gia Cầu chỉ huy.


    “Thế Gọng Kềm Nam - Bắc” Bị Phá

    Để bảo vệ Thủ Đô, ông Ngô Đình Nhu giao cho Quân Đoàn III chỉ huy luôn Sư Đoàn 7 ở Định Tường và cử Đại Tá Lâm Văn Phát làm tư lệnh sư đoàn này thay Đại Tá Bùi Đình Đạm. Ông Nhu nghĩ rằng Sư Đoàn 5 giữ phía Bắc và Sư Đoàn 7 giữ phía Nam sẽ tạo thành một “Thế Gọng Kềm Nam – Bắc” bảo vệ Thủ Đô khi có nguy biến. CIA biết rõ điều đó, nên đã biến hai sư đoàn này thành hai lực lượng chính thực hiện cuộc đảo chánh. Sư đoàn 5 mở cuộc tấn công trước, nếu không thanh toán nổi, Sư đoản 7 sẽ tiếp ứng.

    Đại Tá Phát được lệnh phải đến trình diện Quân Đoàn III vào ngày 30 hay 31.10.1963 và đến nhận chức ở Mỹ Tho vào ngày 1.11.1963. Lúc đó Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III đang đặt tại trại Lê Văn Duyệt ở Quận 3, Sài Gòn. Tuy nhiên, khi Đại Tá Phát đến trình diện thì bị nhóm thuộc đơn vị tham mưu do Đại Tá Nguyễn Hữu Có chỉ huy, bí mật giữ lại ở Quân Đoàn III trước khi Trung Tá Nguyễn Khắc Bình, Tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường, tố cáo với ông Nhu rằng Đại Tá Có rủ rê ông tham gia đảo chánh.

    Tướng Trần Văn Đôn cho biết: Tối ngày 31 tháng 10, sau khi dùng cơm ở nhà hàng Trung Hoa, Tướng Weede, Tham Mưu Trưởng của Tướng Harkins, và ông có ghé thăm Tướng Đính tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vào lúc 11 giờ 30 và nói quyết định của ông đưa Đại Tá Nguyễn Hữu Có xuống làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kể từ ngày 1.11.1963. Trưa 1.11.1963, Tướng Đính gọi điện yêu cầu Tướng Trần Văn Đôn ra lệnh cho Đại Tá Đạm bàn giao Sư Đoàn 7 cho Đại Tá Có. Như vậy, cả Sư Đoàn 5 lẫn Sư Đoàn 7 đã nằm trong tay quân đảo chánh.


    Hành Động Theo Kiểu “Quân Tử Tàu”!

    Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, lúc đó là Quyền Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tống Thống, cho biết Lữ Đoàn có 6 đại đội với khoảng 2.500 quân, với một Chi đoàn Chiến Xa M24, một Chi Đoàn Thám Thính M48 và một đoàn xe gắn đại liên. Khi cuộc đảo chánh mới xảy ra, ông đã cho thăm dò và thấy lực lượng của quân đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu rất yếu, chỉ toàn là tân binh quân dịch, nên ông đã đề nghị Tổng Thống Diệm cho tạm bỏ Thành Cộng Hòa, dùng 3 đại đội của Lữ Đoàn với sự phối hợp của xe tăng, mở cuộc tấn công thẳng vào Bộ Tổng Tham Mưu bắt các tướng đảo chánh. Nhưng Tổng Thống Diệm không đồng ý và ra lệnh qua sĩ quan tùy viên: “Bảo Duệ đừng nóng nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các nhóm tướng lãnh để tránh đổ máu.”

    Gần sáng 2.11.1963, khi còn ở nhà Mã Tuyên, ông được báo cáo Liên Binh Phòng Vệ đang đánh nhau với quân đảo chánh. Tổng Thống Diệm liền nói: “Vậy đổ nát, chết chóc, không lợi chi cả.” Lúc 5 giờ 15 sáng 2.11.1963, sau khi ra lệnh cho Liên Binh Phòng Vệ buông súng, Tổng Thống bảo ông Nhu rời khỏi nhà Mã Tuyên vào nhà thờ Cha Tam xưng tội, dự thánh lễ rồi ra đầu hàng. “Quân tử Tàu” mà chơi với CIA chắc chắn phải thua.
    Trong một báo cáo mật gởi đi lúc 2 giờ chiều ngày 7.9.1963, Đại Sứ Cabot Lodge đã tường trình với Bộ Ngoại Giao về cuộc họp giữa các viên chức Hoa Kỳ với ông Ngô Đình Nhu từ 6 đến 8 giờ 15 chiều thứ sáu 6.9.1963, trong cuộc họp này, ông Nhu có nói một câu như sau:

    “Nếu tôi đi, Quân Lực sẽ nắm chính phủ. Bọn cóc nhái này của CIA và USIS sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh”. (FRUSS 1961 – 1963, Volume IV, tr. 131).

    Lời tuyên bố đó đã trở thành hiện thực.


    Ngày 29.10.2015
    Lữ Giang


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X