Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Rồi xa Diên Khánh

Collapse
X

Rồi xa Diên Khánh

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Rồi xa Diên Khánh

    Rồi xa Diên Khánh
    Tác Giả: DIÊN HOÀNG
    Kính nguyện đến ba, vị quận trưởng Diên Khánh không hề giống vị quận trưởng Diên Khánh trong Mùa Biển Động.

    Quê ở đâu, tôi thật khó trả lời chính xác; tôi sinh ra ở Huế, lớn lên ở Nha Trang, trưởng thành ở Sài Gòn. Huế là nơi chôn nhau cắt rốn, chỉ còn trong tôi giọng trọ trẹ của vài trái ớt hiểm dầm trong chén nước mắm mỗi bữa cơm gia đình. Sài Gòn ăm ắp kỷ niệm, lấn át Nha Trang bé nhỏ, nhưng nếu, một chữ nếu xa xôi được tiếp nối với muôn vàn chữ nếu khác, về hưu, tôi sẽ chọn thành phố thùy dương cát trắng dưỡng già. Từ Nha Trang vào lại Sài Gòn chỉ mất tám tiếng lái xe, Nha Trang đi Huế cũng rút ngắn được gần nửa đường.

    1.
    Năm 69, ba tôi thuyên chuyển từ quận Minh Long, Quảng Ngãi về Tiểu khu Khánh Hòa. Lần này, có lẽ đã ổn định với đời sống quân ngũ, ba đưa mẹ con tôi từ Huế vào định cư. Thời gian đầu, buồn kinh khủng, đỡ hơn ở Minh Long đèo heo hút gió nhưng chắc chắn không tấp nập bằng phố Trần Hưng Đạo, Huế. Căn nhà lớn của Ngoại tôi nằm ngay phố chính Huế, ngó thẳng qua là café nổi tiếng Lạc Sơn, chợ Đông Ba và rạp xinê Tân Tân. Tôi quen chạy chơi ngoài đường phố tấp nập người. Vào Nha Trang, gia đình tôi phải ở nhờ nhà của bà cô ruột của mẹ, số 50 đường Gia Long, gần ga. Vì mới được thuyên chuyển vào, ba tôi bận bịu lung tung, tôi ít thấy mặt. Ở phố Gia Long, tôi được cậu Cu Ti dạy cách luyện nội công, ở trần, chạy chơi cho đổ mồ hôi rồi nằm lăn ra sàn xi măng bóng loáng mát lạnh, vệt mồ hôi in trên sàn nhà là bằng chứng của cuộc luyện công.

    Sau vài ba tuần, ba mẹ tôi mướn một căn nhà nhỏ, tôi không còn nhớ chính xác vị trí, chỉ nhớ mang máng gần đó có một nhà thờ Tin Lành, đi qua vài con phố, có quán bán bánh pâté chaud và sữa đậu nành ngon tuyệt vời, nằm ở ngã ba đường, gần rạp Minh Châu. Lúc đó, ba tôi ở đâu, làm gì... tôi không biết, nhà chỉ có ba mẹ con, buồn ơi là buồn, tôi nhớ Huế não nuột.


    Hình ba tôi lúc là Quận trưởng Diên Khánh

    Rồi gia đình tôi lại dọn vào cư xá đường Lê Văn Duyệt, tôi nhập học lớp một trường tiểu học Long Vân. Khúc dưới đó có quán phở gà số Một, mỗi lần đi học ngang qua, thơm phức. Cạnh đó, có mấy tiệm bán văn phòng phẩm, tôi mê lắm, lân la đứng ngắm nhìn. Tôi mê những cây bút xanh đỏ, tôi mê những cuốn vở trắng mới tinh... Tôi thích viết bằng viết nguyên tử, sạch sẽ, nhưng mẹ tôi bảo sợ hư chữ, bắt phải viết bằng viết chấm mực tím, ngòi bút lá tre bầu bầu. Tôi đòi viết bút máy, mẹ cũng không cho, sợ làm mất bút; kết quả là ngày nào bàn tay cũng lem luốc dính mực. Con nít, làm sao tránh khỏi. Cầm được cây bút máy hiệu Parker hay Pilot là một dấu hiệu trưởng thành. Tôi học xong lớp hai ở trường Long Vân, cùng thời gian đó, ba mẹ cho tôi gia nhập đoàn Sói Thùy Dương.

    Khi bà cô ruột vào Nha Trang sinh sống, ba mẹ tôi nhường căn nhà cư xá Lê Văn Duyệt lại, gia đình tôi lại dọn lên quận Diên Khánh ở chung với ba. Diên Khánh là nơi ông nội từng làm quan lãnh binh, bây giờ ba được làm quận trưởng, ba tự hào lắm. Ông nội có tới ba bà vợ, bà nội quê ở Ninh Hòa, ông nội cưới làm vợ ba vì lúc đó, theo lời kể, hai bà lớn đang còn ở Huế. Nhưng chữ Diên là không phải do ba tôi đặt cho tên lót của tôi, mà từ bà ngoại. Ông anh đã mất khi ba tháng tuổi là Diên Anh. Tôi không còn nhớ hết quận Diên Khánh có mấy xã, nhưng tôi biết chắc tên xã nào cũng bắt đầu bằng chữ Diên như xã Diên An, xã Diên Thạnh, xã Diên Thủy... nghe dễ thương lắm.

    Tòa hành chính của quận Diên Khánh gồm nhiều dãy nhà, phía trước hình chữ U bao quanh cột cờ. Phía sau, một dãy nhà dài dùng làm nhà ở của ba, cuối dãy bên trái, lên tầng lầu cất cao bằng gỗ là chỗ của mấy cố vấn Mỹ, có gắn máy lạnh. Ở giữa dãy nhà ở và văn phòng làm việc, ba cho đổ xi măng làm thành sân chơi bóng rổ, có khi làm sân bóng chuyền hay đánh vũ cầu, tôi tập chạy xe đạp cũng nhờ cái sân đó. Năm 73, sau khi đám cưới của cậu tôi ở Huế vào, Nha Trang bị lụt nặng. Thằng em kế mon men đi trên tấm gỗ bắc ngang qua sân để lên văn phòng của ba bị lọt tỏm xuống nước lụt, hôi rình. Năm ấy, nhờ trận lụt, ba dạy tôi đánh cờ tướng và cho ăn cá trê nướng trui chấm nước mắm gừng. Cái sân chơi đó giữ nhiều kỷ niệm tuổi thơ, những đêm cố vấn Mỹ chiếu phim cho toàn chi khu coi, những đêm sinh hoạt nghe mấy chú lính hát vang vang trên đầu súng quê hương tổ quốc đã vươn mình... Hay đến với quê hương tôi, nói với quê hương tôi dù hờn căm còn đầy...

    Điều thích thú nhất khi được sống trong quận với ba, là tôi được chạy rong chơi khắp sau giờ làm việc. Tôi lang thang giao thông hào quanh quận, chơi trò bắn súng tưởng tượng một mình. Tôi bò qua hàng rào kẽm gai phía sau bao cát, tới chỗ đặt hai khẩu đại bác của pháo binh rờ mó hay ăn cắp những viên đạn M16 rồi kề vào cột sắt kẽm gai để bẻ đầu đạn, lấy thuốc súng đốt cháy xèo xèo... Tôi lén ra garage xe, nhảy phóc lên những chiếc GMC, Dodge bẻ vô lăng như những tài xế chuyên nghiệp. Tôi phá máy vô tuyến, nhấc ống liên hợp, bắt chước mấy chú lính truyền tin gọi cho nhau Hồng Hà gọi Đống Đa, nghe rõ 5/5... Ba không hề biết những bí mật tuổi thơ, nếu biết, tôi đã ăn đòn no nê. Tính con trai ưa hoạt động, phá phách, tôi đã ăn đòn của ba với mọi thứ, từ cột treo mùng ghế bố, giày lính đá đít, dây điện quất đít... đến móc kẽm quần áo bẻ ra làm roi... tôi sợ ba ghê lắm, nghe nạt một tiếng là im phắc. Ông dùng đúng nghĩa câu thương cho roi cho vọt. Ba có tính thích ăn khuya, có nhiều đêm, ông nhờ mấy chú lính chạy ra ngoài chợ Thành mua mì xào giòn hay xí quách về ăn, phần tôi con nít phải đi ngủ sớm, tôi ấm ức lắm. Có khi có người đi săn được thịt nai cho, mấy chú lính làm thịt nấu ăn ồn ào, tôi nằm trên giường không ngủ được, cứ ngóng tai nghe.

    Khi Nha Trang bắt đầu tiếp sóng truyền hình từ Sài Gòn ra, ba mẹ tôi sắm một cái TV trắng đen nhỏ, tôi được coi Thái Hiền nhí nhảnh hát Tuổi Hồng, Tuổi Ngọc, Tuổi Thần Tiên, Ông Trăng Xuống Chơi... Mẹ tôi thích coi ban kịch Sống của bà Túy Hồng hay những vở kịch trinh thám do ông Tâm Phan có bộ râu ngầu ngầu đóng. Tôi nhớ cảm giác sợ sợ khi coi vở Người Lữ khách thứ Mười ba, lấy tay che mặt nhưng lại nhìn qua kẽ hở. Ba không mê TV lắm, ông chỉ thích đánh mạt chược, đánh chắn hay tổ tôm. Đôi lần ông cho phép tôi ngồi chia bài. Ông dạy tôi Hán văn cũng chỉ để tôi có thể nhận mặt quân bài mạt chược, nào Thi, nào Sách, nào Vạn, Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung, Bạch... tôi nhớ tướng sỹ tượng, xe pháo mã của cờ tướng nhưng không nhớ hết nổi quân bài mạt chược.


    Tam tự kinh, rinh cơm nguội.
    Tứ bổn thiện, lỗ miệng hay ăn.
    Mắm treo trên giàn, con thò tay vô bốc.
    Bị mẹ khỏ cái cốc, con la đau.
    Con chưa rờ rau, con đã rờ mắm...


    Hán văn của tôi rộng như thế, tôi chỉ biết viết chữ Quang và chữ Trung gộp lại thành tên của vị vua Tây Sơn Nguyễn Huệ...
    Nói tới tiếng Hán thời đó là phải nhắc đến Tiêu Ban Lộ hay dầu Nhị Thiên Đường. Tôi căm thù Tiêu Ban Lộ, đến bây giờ vẫn còn nhớ, mỗi lần lên ban lên sởi, mẹ bắt uống thuốc đắng nghét. Đau một đứa, lây sang cả bầy, tôi là thằng anh cả, bị lôi ra làm gương uống trước, ba tôi trao cho cái quyền Quyền Huynh Thế Phụ to tát vô cùng!

    2.
    Giống như mọi cậu ấm con quan khác, tôi được một chú lính trung sỹ có bằng tú tài một dạy kèm thêm trong quận. Chú Côn nhìn mặt khá nghiêm khắc, giọng nói nhỏ nhẹ dạy tôi tiếng Pháp và đàn mandolin. Miệng luôn gọi là chú Côn nhưng thật ra là thầy, tôi kính trọng chú ấy lắm. Có hôm thấy chú ngồi gác ở vọng gác cổng sau, lân la đến nói chuyện, tôi bị chú ấy đuổi về. Sau 75, bà cô ruột còn ở lại Nha Trang bảo chú ấy là thiếu úy công an, tôi không tin lắm vì ba mẹ coi chú ấy thân tình như người trong nhà. Năm 74, khi gia đình tôi đã dọn về Tản Viên, quận bị pháo kích, một quả rơi trúng vào chỗ ngủ của ba nhưng may mắn đêm ấy ông phải đi ngủ Ấp. Ai điểm trúng tọa độ, chỉ có thánh mới biết, tôi không dám đổ cho người thiếu úy công an đó. “Ngủ ấp” là để giữ an ninh trong quận, ba thường ngủ lại mỗi ấp, mỗi xã trong quận, để thanh tra, đôn đốc thúc giục lính dưới quyền.

    Tác giả (bên trái) và em, lúc nhỏ

    Diên Khánh cách Cam Ranh 50 cây số, trên đường đi vào Nam ngang quận Cam Lâm có vườn ươm cây và suối Tiên, là hai địa điểm khá nổi tiếng. Trong vườn ươm, người ta chiết cành, cố tạo những giống cây mới, tôi ăn thử những trái chanh vỏ ngoài xanh ngắt nhưng bên trong lại ngọt lịm như quýt. Kỳ lạ lắm! Vào suối Tiên như vào động thiên thai, nước trong vắt, trên cao nước mát, xuống thấp, nước ấm. Nước chảy không mạnh như thác Cam Ly của Đà Lạt nhưng với cái óc con nít thời đó, tôi cảm giác đang làm nhà thám hiểm đi vào vùng đất kỳ bí.

    Đường Quốc lộ 1 qua cầu Trần Quý Cáp là tới ngã ba Thành, một chạy xuống Nha Trang, một rẽ trái chạy ra Lương Sơn. Dưới chân cầu có đền thờ Trần Quý Cáp, nghe đồn Ngài rất linh thiêng, thường đánh thức lính canh cầu bắn đặc công.

    Thành Cổ @ Diên Khánh

    Ở ngã ba Thành còn có cây dầu đôi cổ thụ, một thân chẻ làm hai nhánh, đường kính đến ba bốn người dang tay ôm. Năm 2000 trở về, tôi đi qua thấy cây dầu đôi vẫn trơ gan. Đi thêm 10 cây số nữa, là Nha Trang. Trước khi vào phố có một quán ăn bên tay phải, cách quốc lộ chừng nửa cây, chuyên bán thịt vịt nổi tiếng. Từng bầy vịt nuôi ngoài ruộng quanh quán kêu quàng quạc, nặng mùi.
    Cây dầu đôi, symbol của Diên Khánh - Khánh Hoà.


    Tôi ăn cái Tết cuối cùng trong quận lỵ vào năm 74. Mẹ mở cassette nghe miết bài Qua Cơn Mê. Ba mẹ tôi quyết định mua nhà và ở hẳn Nha Trang, theo dự tính, nếu lên lon ba sẽ về làm ở Tiểu khu.
    Căn nhà số 5 Tản Viên khá rộng, hai dãy chụm lại hình chữ L ngược quay qua bên trái, ba mẹ mua lại từ ông hiệu trưởng trường Phước Xuân. Bên cạnh cổng vào, vẫn còn một căn có người khác thuê, hay mua phần đất đó, tôi không biết, chỉ thấy hai vợ chồng chú thím giáo viên ấy xài chung một cửa ra vào với nhà mình. Sau khi sửa sang lại, căn nhà rất thoáng mát, đằng trước có vườn hoa nhỏ, dưới tàn vú sữa nếp ngọt lịm ba để cái xích đu. Sau nhà lại có cây vú sữa tím, một cây mít và một cây khế nhỏ, cây nào cũng sai trái và ngọt ngay. Cái chuồng gà dưới gốc cây mít, trước phòng của bà ngoại tôi, sáng nào mấy con gà trống cũng gáy inh ỏi. Cây khế bên cạnh hành lang từ nhà trên xuống nhà dưới thấp tủn, đủ cho tôi leo trèo. Ăn quả khế, trả ngàn vàng, may túi ba gang, mang theo mà đựng, ai còn nhớ chuyện cổ tích ngày xưa?


    Tác giả với cha mẹ và em trai lúc nhỏ

    Mé trái hông nhà, mẹ trồng một giàn đậu ngự, để dọa rắn thường ở trong mấy giàn đậu, tôi sợ lắm, ít ra đó phá, chỉ thích trèo lên cây khế ngồi. Mặt bằng kiến trúc của ngôi nhà khá nhẹ nhàng, đằng trước là phòng để bàn thờ ông nội và phòng khách. Tới phòng ăn dài bằng chiều rộng của ngôi nhà, bên trái là phòng ngủ dành cho khách, có phòng tắm ở cuối phòng ăn. Bước xuống là phòng ba mẹ tôi bên phải, bên trái không ngăn tường, mẹ đặt hai cái giường cho tôi và thằng em kế. Thế là tôi có giường riêng, không phải ngủ chung với mấy thằng em. Đầu giường đặt cái kệ nhỏ, tôi cất mấy cuốn sách của tôi, hãnh diện vô cùng. Nhà dưới là bếp, cầu tiêu, buồng tắm, nhà kho, phòng cho người ở và phòng của bà ngoại lớn nhất.

    Xong lớp ba trường Tiểu học Khánh Hòa ở Diên Khánh, tôi vào lớp bốn trường Phước Hải. Buổi sáng đi bộ đi học, có khi mẹ cho ăn xôi hay ăn bánh căn. Bánh căn chỉ là cục bột gạo đổ trên mấy khuôn bằng đất sét, chế thêm tí trứng và mỡ hành, chấm nước mắm ớt chua ngọt mà thành món đặc sản của Nha Trang, thú kinh khủng. Ngay góc đường Tịnh Tâm và Tản Viên, người ta bày bán ở đó, buổi sáng chỉ cần vác tô ra mua, nóng hổi, vừa thổi vừa nhai.
    Ba vẫn ở trên quận, chỉ về cuối tuần hoặc ghé nhà ăn cơm khi về tỉnh họp. Chú Côn không còn dạy kèm tôi, bà ngoại bắt ghi danh cho đi học Pháp Văn ở Collège Français, “Cô Lé Bán Chè Khoai”, để thầy người Pháp dạy đọc cho trúng giọng Paris phát âm với chữ gờ rờ...! Buổi tối, phải đi học thêm Anh văn ở nhà thờ Tin Lành gần nhà, tôi lẫn lộn Anh Pháp tùm lum, khó chịu, không muốn học tiếng Anh, chê đọc khó, viết một đằng, đọc một nẻo, kỳ cục. Mẹ và bà ngoại bắt học dữ lắm, nhưng ba chỉ cười, chỉ “thằng này khóa 42.”, ông muốn tôi theo đường binh nghiệp, tôi bảo bụng, tôi sẽ làm phi công.

    Tính tới thời gian đó, tôi đã gia nhập Hướng đạo đã hơn hai năm, đã lên “đầu đàn trắng”, được phép giữ cây trượng có hình sói con và lá cờ hình tam giác của bầy. Một ngày hướng đạo, một đời hướng đạo, tôi không còn nhớ huynh trưởng nào phát biểu câu trên, đúng ghê lắm. Lúc mới vào, bạn là sói chưa mở mắt, sau đó, được tuyên thệ, học Cách Ngôn Rừng, mới thành sói mở mắt. Đêm tuyên thệ ở hội quán có đốt lửa cho thêm phần long trọng. Này Akela, này Baloo, này Bagheera, này Mowgli... tuổi thơ tôi hồn nhiên ca hát, họp mặt, cắm trại... Bầy sói họp mặt mỗi sáng Chủ Nhật từ 7 giờ đến độ 10 giờ, mỗi tuần ở một trường khác nhau trong thành phố nên tôi biết khá nhiều trường, trường Hàn Thuyên, trường Võ Tánh, Lasan Bá Ninh, trường Thánh Tâm, trường Âu Cơ, trường Nữ, trường Nam... không nhớ hết! Mỗi sói con có một cuốn sổ tay ghi việc thiện trong tuần đã làm, tôi là cậu ấm con quan, đâu có đi ra ngoài động đậy việc chi nên mỗi tối Thứ Bảy lại ngồi phịa ghi vào làm công việc quét nhà. Sói con thật thà ngay thẳng, Cách Ngôn Rừng dạy thế, tôi chỉ quét cái phòng ngủ của tôi nhưng tôi viết là quét cả nhà cho oai. Không viết quét nhà, lại viết cắt móng tay, móng chân. Phải nói rằng nhờ gia nhập Hướng đạo, tôi trở nên dạn dĩ xông xáo ngoài đời, không sợ sệt khi ra khỏi vòng tay bảo bọc của ba mẹ.

    Có năm, Nha Trang tổ chức họp bạn Hướng Đạo Toàn Tỉnh, khá đông Hướng đạo sinh, ở trường Lasan ở trên đồi cao gần bên Hòn Chồng, Đồng Đế, tôi được tham dự ngủ lại đêm, trong khi thằng em kế phải về nhà ngủ. Tôi tham gia trò chơi lớn với mấy anh Thiếu, Kha và Tráng, chạy rần rật quanh trường, trèo dốc, lội suối... Tối đến, tháo khăn quàng quấn lên đầu, dự lửa trại với chương trình văn nghệ, tôi chỉ mong lớn cho nhanh để lên Thiếu, bận đồ kaki, đeo ba lô oai vệ vô ngần. Tôi bắt đầu thấy sói là con nít. Một lần tôi làm cả nhà hoảng hồn, tôi dắt thằng em kế đi bộ từ Ty Thông tin, theo đường Trần Quý Cáp ra Mã Vồng rồi thẳng đường Phương Sài về tới nhà ở Tản Viên. Ba, mẹ và bà ngoại đang ngồi đánh bài xẹp chưng hửng, bà ngoại quát hỏi ba sao không cho tài xế đi đón, tôi bảo được về sớm. Hôm đó, tôi được bà ngoại tẩm bổ cho nguyên một miếng đùi gà rôti, gặm như truyện tranh Obélix gặm đùi heo quay, không chia cho ai cả.

    Nói tới Nha Trang mà không nhắc đến biển và đảo thì quả thiếu sót lớn. Ba mẹ cho tôi đi gần hết mấy hòn Tre, hòn Yến, hòn Tằm... Ba thường vác về bãi một đống tôm càng, cua, ghẹ... cho mẹ tôi luộc chấm muối tiêu chanh. Mẹ hỏi đâu ra nhiều quá, ba cười bảo lính thả lựu đạn. Mỗi lần tắm biển xong, chú tài xế hay chở tôi ra lò bánh mì ở đường Nguyễn Hoàng, gần bến xe, mua cho một ổ bánh mì không nóng hổi. Biết tôi thích ăn bánh mì, mỗi sáng Chủ Nhật đi họp Hướng đạo, tôi lại được mẹ tôi cho tiền mua bánh mì chả lụa ở mấy xe bánh mì quanh ngã Sáu, dưới chân nhà thờ núi.
    Đi biển, đi đảo, đi Hòn Chồng, đi Tháp Bà, đi nhà thờ Núi, đi lên ngôi chùa có tượng Phật to đùng cũng nằm cao trên núi... nếu tôi không đặt chân tới với ba mẹ, tôi cũng theo bầy sói lang thang tới. Khi chán biển Nha Trang, ba mẹ lại cho đi ra Đại Lãnh, Lương Sơn, Dốc Lết... tắm. Bờ biển thoai thoải, cạn queo, nước ấm, tôi làm chú sói mê tít thò lò mũi xanh.

    Nha Trang nhỏ nhưng có khá nhiều rạp ciné, tôi nhớ vài rạp như Tân Tân, Tân Tiến, Tân Quang, Minh Châu, Ciné Nha Trang và rạp Hưng Đạo mới xây xong sau này. Thời đó mẹ nhất quyết không cho tôi coi mấy phim Hồng Kông do Vương Vũ, Khương Đại Vệ, Lý Tiểu Long đóng, cũng không cho coi mấy phim Việt như 5 Vua Hề Về Làng do La Thoại Tân, Phi Thoàng, Thanh Việt, Khả Năng, Tùng Lâm đóng. Xin hoài nhưng không cho là không cho. Khi ông cậu ruột từ Huế vào thăm, lén dẫn cho đi hay bà cô ruột lén cho đi coi Tứ Quái Sài Gòn cười nức bong bóng. Ba cho hai anh em tôi đi coi phim Patton một mình ở rạp Tân Tân, còn mẹ lại dẫn đi coi The Sound Of Music, “Lụy Tình Chưa Dứt”. Bà cô dẫn cho đi coi phim Người Tình Không Chân Dung.

    3.
    Tết Ất Mão 75, hai cây mai trong chậu kiểng đặt bên cửa hông vào phòng ăn nở rộ đúng ngày mùng một Tết, mẹ tôi mừng bảo chắc năm nay đường công danh của ba sẽ tấn tới. Ba mang lon thiếu tá thực thụ đã gần hơn năm năm, bè bạn cùng lứa đã có người mang lon đại tá, như bác Thông làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 45 Bộ Binh. Trong sáu ông quận trưởng ở tiểu khu Khánh Hoà, các quận Khánh Dương, Vạn Ninh, Vĩnh Xương, Ninh Hoà, Cam Lâm và Diên Khánh, ba tôi là trẻ nhất, lại học cùng trường với ông tỉnh trưởng nên ông ta thân tình coi như đàn em, ba rất kính trọng ông ta. Nếu được về làm ở Tiểu khu, ba tôi đỡ khỏi xách xe Jeep đi đi về về Nha Trang - Thành. Phần tôi đã xong nửa lớp bốn, bắt đầu ngó tới chữ trung học, nghe cụm từ “vào được Đệ Thất” sao oai phong lẫm liệt. Đổi từ trường nhỏ của quận lỵ về trường thành thị, sức học trong lớp của tôi không thay đổi mấy, tháng nào cũng mang bảng Danh Dự đứng nhất nhì lớp về khoe khiến tôi khá tự tin, hy vọng mai mốt ba mẹ sẽ cho tôi vào học trường tư thục Hàn Thuyên để so tài với những cậu học sinh giỏi khác của thành phố.

    Có ai ngờ rằng chỉ vài tháng sau đó, trời làm đứt phim!

    Khi chú tài xế lái chiếc xe Jeep chở mẹ con tôi và bà ngoại vào cổng quân sự của phi trường Nha Trang, ba đã ở đó trước bảo vừa có lệnh cho quân cảnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ba dặn mẹ là chỉ thu dọn áo quần cho con cái đủ đi ba ngày rồi về, không có chi phải lo lắng nhiều hết. Mẹ theo lời, bỏ lại tất cả mọi giấy tờ nhà, đồ đạc... áo quần bỏ vào mấy cái túi gọn nhẹ, tay xách nách mang bốn anh em tôi và bà ngoại theo chú tài xế vào phi trường. Tôi hí hửng như tham dự một trò chơi lớn, mừng là sắp được ngồi máy bay, mừng là được vào lại thủ đô Sài Gòn hoa lệ. Tôi có dự trại Hướng đạo toàn quốc ở Trảng Bom, đã từng ghé Sài Gòn một đêm, biết mùi vị Sài Gòn hơn hẳn thằng em kế.

    Phi trường quân sự Nha Trang la liệt mấy chú lính bận quân phục rằn ri, mấy chú lính băng bó tay chân trắng toát nằm đầy trên bãi cỏ và sàn xi măng ngoài trời.
    Nắng hắt lên từ sàn xi măng nóng ghê gớm, gió biển không thèm thổi lên, mẹ con tôi lúp xúp ngồi đợi máy bay thật lâu. Không còn nhớ ngồi đợi bao lâu, không còn nhớ hai đứa em nhỏ cẳn rẳn ra sao, không còn nhớ sắp hàng leo lên chiếc C130 như thế nào... tôi chỉ biết ba phải ở lại, tôi chỉ còn nhớ khi chiếc C130 đóng kín lại chuẩn bị cất cánh, không khí trong phi cơ ngột ngạt nóng bức còn hơn khi ngồi chờ dưới sân phi đạo. Tôi co người ngồi cạnh một chú lính bị thương, vài người bị thương nặng được nằm cáng treo hai bên thành phi cơ, lủng lẳng mấy bịch nước biển. Khi phi cơ lấy được cao độ, cánh cửa sau đuôi chất đầy quân trang, quân dụng được hé xuống, không khí từ ngoài tràn vào mát lạnh, dễ thở, tôi bớt đổ mồ hôi. Chiếc C130 đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất chạy về phía khu quân sự, đi ngang qua khu dân sự, tôi thấy những chiếc phi cơ dân sự mang đủ huy hiệu màu sắc to nhỏ sắp hàng thật đẹp mắt, chỉ chỏ ra sau đuôi với chú lính bên cạnh. Sau đó, gia đình tôi đi taxi về nhà ông bà sui gia của bà ngoại tôi ở đường Pasteur, gần chợ cũ Sài Gòn.

    Chuyến đi không phải ba ngày rồi về như ba nói, ròng rã mấy tháng trời ăn nhờ ở đậu nhà người ta, mẹ quyết định đưa anh em tôi về lại Nha Trang sau khi ba tôi đi trình diện.

    Chiếc xe đò Phi Long Tiến Lực chở mẹ con tôi về tới bến xe Nha Trang ở đường Nguyễn Hoàng đã gần chạng vạng tối, tôi chỉ mang hai cuốn truyện tranh Sách Vàng đóng bộ của bà ngoại mua cho ở nhà sách Khai Trí.

    Về tới căn nhà Tản Viên, cổng nhà mở toang hoác, đồ đạc trống trơn, chỉ còn cái bàn thờ được mang ra giữa phòng khách với hình Hồ Chủ Tịch chễm chệ trên đó. Trên đường vào nhà, tôi nhận ra mấy cái ghế gỗ dựa nhà mình lúc xưa nằm ở nhà hàng xóm đường Tịnh Tâm. Cái chuồng gà biến mất cùng với bầy gà, ba trái mít cũng không cánh mà bay. Cái giường của tôi không còn! Bà cô ruột dọn về ở bảo rằng không còn gì, cô chỉ đi lòng vòng xin lại được vài tấm hình trong mấy cuốn album gia đình cũ kỹ.

    Tối đó, anh em tôi ăn cơm chan nước lọc, mẹ nuốt cơm với nước mắt, dưới ngọn đèn dầu leo lét. Vài người quen tới khuyên răn mẹ nên vào lại Sài Gòn ngay lập tức, không nên ở lại Nha Trang. Sáng sớm hôm sau, mẹ lại dắt díu anh em tôi ra bến xe vào Sài Gòn, tôi tìm mãi không ra hai cuốn Sách Vàng đóng bộ, mẹ gắt bảo bỏ đi, người ta sẽ nói lưu trữ “văn hóa phẩm đồi trụy”. Một lần nữa, tôi lại giã từ Nha Trang, lần này, thật sự xa nó. Dù chưa biết nói tiếng giã từ, tôi biết, tôi không còn được sống cuộc sống nâng trứng hứng hoa nữa!

    Trắng tay!
    Tại sao tôi nhớ chuyện xưa nhiều như vậy?
    Chính tôi cũng tự hỏi mình câu hỏi đó. Nhìn hình, lúc ấy tôi chỉ là thằng bé con lên tám, bây giờ đã là gã đàn ông sắp qua tuổi trung niên nhưng chuyện xưa mãi nằm trong khối óc bụi bặm.

    Tôi nghĩ có nhiều câu trả lời. Thứ nhất, gia đình tôi đã mất hết, người ta có thể lấy hết đồ đạc, nhà cửa, vật chất xung quanh... nhưng người ta không thể cướp đi những chuyện xưa đã nằm trong đầu tôi. Nó mãi là quá khứ của gia đình tôi. Thứ đến, khi mất hết để thành dân vô sản, chuyện quá khứ như một chiếc phao cứu rỗi, nó giúp tôi bám vào để lạc loài bơi tới tuổi trưởng thành. Nó thành cái gốc của một cây non vươn mình lên giữa bão táp cuộc đời, dù mưa sa nắng hạn, cái cây non vẫn không mất gốc. Thứ ba, một khi đã quyết định ôm miết cái gốc, tôi cứ ôn cố, không chịu học cái mới, sợ tẩy não! Tôi cũng không chia sẻ với ai, ngay cả người trong gia đình. Khi ba đi tù về, chuyện quá khứ là quá khứ, nhắc lại chỉ thêm đau lòng, ba lo nhìn về phía trước khi nói chuyện với con cái. Chuyện tương lai phía trước là làm sao kiếm gạo cho đủ bỏ vô miệng bốn thằng con đang độ tuổi lớn. Chuyện phía trước là chuyện làm sao để vượt biên khi trong túi không có đến nửa chỉ vàng. Chuyện phía trước là làm sao móc bốn thằng con ra biển, móc được rồi làm sao cho nó ăn học... Chưa kịp nhắc lại chuyện cũ với ba, thì ba mất!

    Năm 2000, tôi về Sài Gòn lấy vợ, hai vợ chồng tôi thuê xe về Nha Trang ở ba ngày honeymoon. Tôi chỉ đường cho bác tài chở vợ chồng tôi về lại căn nhà đường Tản Viên, căn nhà ở đã trở thành trụ sở y tế khám bệnh của phường. Tôi bảo vợ ngày xưa anh ở đó. Xe chạy qua, tôi nhói trong lòng, muốn về thăm nhưng không muốn nhìn sự thay đổi của căn nhà, tôi nói bác tài chở vợ chồng tôi lên Thành. Qua cổng Thành cũ kỹ rêu phong, tới ngang qua Tòa hành chính cũ, tôi muốn dừng xe lại chụp hình, bác tài ngăn lại bảo coi chừng công an tới bắt, xe chạy tới trường Tiểu học Khánh Hòa rồi quành lại. Tôi ngó thêm một lần nữa, quận Diên Khánh đã trở thành Ủy ban Nhân dân Huyện Diên Khánh, tôi thở dài vẫy tay chào tuổi thơ.

    Lúc xưa ba làm ở đó, tôi bảo nhỏ cho vợ. Vậy hả anh? Vợ tôi hỏi cho có, vợ tôi không cảm giác được những suy nghĩ xáo trộn lung tung bên trong của tôi. Cũng tội, cô nàng bé quá mà, biết chi mà nói! Tôi lại bảo bác tài về lại Nha Trang, dạo đường Độc Lập và đường Bá Đa Lộc. Con đường Bá Đa Lộc một thời nổi tiếng đẹp nhất Nha Trang hiu quạnh buồn buồn, mất luôn bảng hiệu trường Tây... Loanh quanh con đường Phan Bội Châu ra phía chợ Đầm, đây là chỗ ba mua chiếc xe đạp mini, đó là chỗ ba cho ăn kem, kia là chỗ mẹ mua khẩu súng lục nhựa có dây đeo như cao bồi viễn tây Hoa Kỳ... tôi chỉ thầm thì cho mình tôi nghe...

    Hẹn Nha Trang với muôn vàn chữ NẾU,
    vì từ đây, tôi sẽ phải quên dần miền cát tuổi thơ để lo toan cho thế hệ thứ ba bước tới trên xứ này.
    DH
    Nguồn: baotreonline.com


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X