Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tháng Tư Nghiệt Ngã - Lời Giới Thiệu - Philong 51

Collapse
X

Tháng Tư Nghiệt Ngã - Lời Giới Thiệu - Philong 51

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tháng Tư Nghiệt Ngã - Lời Giới Thiệu - Philong 51

    Tháng Tư Nghiệt Ngã - Lời Giới Thiệu

    Thưa quý niên trưởng, chiến hữu và độc giả,

    Lời giới thiệu của nhà xuất bản, tác giả Olivier Todd và dịch giả Dương Hiếu Nghĩa xem ra rất thyết phục. Quyển sách đầy công phu nầy chứa hàng ngàn tài liệu rất chi tiết mà tôi chưa được biết, nhưng những chi tiết mà tôi có cơ duyên mắt thấy tai nghe thì quyển sách nầy kể lại chẳng những không đúng sự thật mà lại bẻ cong bóp méo lịch sử để nhục mạ KQVNCH nói riêng và QLVNCH nói chung.
    Trích:
    Chương thứ 21. 29/4: Hãy tắt hết đèn.


    “Ngày 29 tháng 4 1975

    Vào lúc 4 giờ chiều, pháo binh Bắc Việt càng bắn càng chính xác, tác xạ tập trung phần lớn vào các đường bay của phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Miền Nam Việt Nam và Bộ Tư Lệnh Hải Quân . Ở phi trường thì các kho xăng kho đạn, xe vận tải, xe nhỏ quân sự hay dân sự bị trúng đạn đang bốc cháy khắp nơi. Bộ binh Bắc Việt không thể ở quá xa vì các quả đạn bách kích pháo và những hỏa tiễn phát nổ với ngọn lửa còn đỏ, và xanh lục. Có hai Thủy Quân Lục Chiến là Charlie McMahon và Darwin Judge bị tử thương ở vòng đai phòng thủ. Tướng Homer Smith và những sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ bị hất tung lên khỏi giường ngủ. Có một số người trong số 1500 người Việt tỵ nạn đang ở trong nhà thể thao, đã bị thương. Một chiếc vận tải cơ C.130 bị trúng đạn khi vừa đáp xuống sân bay.

    Trời sáng dần… Các phi công của những phi cơ F.5 và A.37 cuối cùng cất cánh lên được và bay đi luôn không trở lại. Các phi công nầy giống như những phi công còn muốn chiến đấu đều không điều động được phi cơ vì vướng hằng trăm binh sĩ Miền Nam đang nằm rải rác khắp các đường bay. Nhân viên của trạm kiểm soát không lưu không thể làm việc được . Một phi công của chiếc AC.119 đặc biệt bướng bỉnh vì không đúng nhiệm vụ mà cứ cất cánh bay lên đánh vào các vị trí cộng sản mà anh thấy rõ chung quanh Sài Gòn, trở lại lấy thêm bom đạn, bay lên nữa, và đến 6 giờ 46 thì anh bị một hỏa tiễn SA.7 bắn rơi.

    *****

    Tướng Nguyễn cao Kỳ lái chiếc trực thăng của ông ta lên, bay chung quanh Sài Gòn, ông thấy một pháo đội Bắc Việt đang tác xạ, mỗi phút một phát. Ông bắt liên lạc được với một đội Skyriders đang bay từ Cần Thơ về :

    - “Đây Nguyễn cao Kỳ đây, phải tiêu diệt các pháo đội địch nầy.

    - Nhận rõ, nhưng tôi chỉ còn có một quả bom, sĩ quan chỉ huy trả lời.

    Đúng là giờ đã điểm, đối với những chiến trận danh dự không đáng kể !

    5 giờ 45 giờ Sài Gòn:


    Ông Martin đến tòa đại sứ . Lệnh cuối cùng của Tư Lệnh Không Quân Miền Nam Việt Nam: Tất cả các phi cơ còn trong tình trạng khiển dụng đều phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam “(Hết trích)


    Thưa quý niên trưởng, chiến hữu cùng đọc giả,

    Tôi xin vắn tắt kể lại và quý niên trưởng, chiến hữu và độc giả phán xét:

    Trong lúc CSBV pháo kích dồn dập vào TSN và Thủ Đô Sài Gòn tôi được lịnh của Th/Tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 518 cất cánh khẩn cấp tại TSN và Th/Tá Trương Phùng tình nguyện cùng đi bay với tôi trong mưa pháo. Không may phi cơ của Th/Tá Phùng bị hư bình điện không thể quay máy, buộc lòng tôi phải cất cánh một mình lúc 04 giờ 25 phút khuya ngày 29/4/1975.

    Với sự hướng dẫn và yểm trợ thả trái sáng của chiếc AC-119 danh hiệu Tinh Long 06, mục tiêu là vườn xoài cách Đài Radar Phú Lâm hơn 500 thước về hướng Tây Bắc (Bây giờ có con đường xuyên qua khu nầy được mang tên đường Tên Lửa). Sau khi lần lượt thả 2 trái bom xuống 2 làn khói còn đọng lại từ 2 dàn pháo, tôi ngưng lại và chờ đợi. Khoảng năm, mươi phút sau tôi nghe trong vô tuyến:

    “Phi Long 51 (danh hiệu của tôi) cứ trút hết bom đạn xuống rồi tối nay ghé nhà tôi nhậu”

    Sau khi xác định giới chức vừa ra lịnh cho tôi là Tướng Nguyễn Cao Kỳ, tôi trả lời ông:

    “Thần Phong 01! Tôi bay lên có một mình với 10 trái bom. Tôi có kinh nghiệm chống pháo. Xin ông an tâm. Tôi nên thả bom khi nào tôi thấy rõ mục tiêu. Tôi có thể ở đây hơn 3 giờ nữa.

    Chừng hơn mươi lăm phút sau CSBV có thể Cộng quân nghĩ tôi đã hết bom và bắt đầu pháo trở lại. Từng loạt hoả tiễn 122 ly bay lên và rót vào TSN và Sài Gòn. Tôi lập tức nhào xuống thả từng trái bom vào 1 trong những vị trí đặt pháo. Sau đó Th/Tá Phùng vừa bay tới (máy vô tuyến của anh Phùng bị hư nên chúng tôi không liên lạc được) và cùng tôi triệt hạ tất cả các dàn pháo của CSBV tại Phú Lâm.

    Sau khi tôi thả hết bom (nhưng anh Phùng còn lại 2 trái) tôi còn 800 viên đạn đại bác 20 ly dành để phòng thủ phi trường và chúng tôi bay về TSN lúc 05 giờ 25 phút.

    Trong khi chờ phi tuần khu trục khác lên thay thế, tôi chỉ nhìn thấy 1 chiếc AC-119 danh hiệu Tinh Long 07, Trưởng P/C là Tr/uý Trang văn Thành bay lên thay chiếc Tinh Long 06 đã cạn hoả lực về đáp, ngoài ra không có phi cơ nào khác cất cánh hoặc đáp.

    Khoảng 06 giờ hơn qua vô tuyến tôi được biết 1 phi tuần 2 chiếc A-1 danh hiệu Phượng Hoàng 11 của PĐ 514 do Th/Tá Hồ Ngọc Ấn và Đ/U Nguyễn Tiến Thuỵ từ Cần Thơ đang trên đường tiến về Thủ Đô.

    Vào khoảng 06 giờ 25 phút Tr/uý Thành nghi ngờ có 1 nhóm 5, 7 tên đặc công định cắt hàng rào kẻm gai của vòng rào phòng thủ ở hướng Bắc và yêu cầu Phượng Hoàng 11 thả bom xuống bên ngoài vòng rào chổ miếng đất trống hình tam giác cạnh khu An Nhơn. Vì biết phi tuần của Th/Tá Ấn chưa lên tới nên tôi bay đến mục tiêu nhưng với cao độ 4.000 bộ tôi không thấy gì cả và bắt đầu xuống thấp để quan sát. Thình lình 1 trái bom nổ ở mục tiêu và tiếp theo 1 trái bom khác rơi xuống gần nhà dân hơn. Tôi nghe tiếng Tr/uý Thành gọi phi tuần Phượng Hoàng 11 ngưng thả bom, anh sợ sập nhà dân.

    Từ khi bay về TSN tôi giử yên lặng trên tần số vì vậy anh Thành tưởng lầm phi tuần của tôi là phi tuần Phượng Hoàng 11 nên tôi lên tiếng cho anh Thành biết Th/Tá Phùng vừa thả xong 2 trái bom cuối cùng, anh bay chiếc số 2 của tôi. Vô tuyến của anh Phùng bị trục trặc và phi tuần của tôi đã hết bom.

    Ánh mặt trời sáng tỏ hơn, anh Thành báo cho chúng tôi biết anh xuống cao độ để quan sát rõ hơn.

    Nóng lòng về sự an nguy của vợ con tôi đang tạm trú gần cư xá nữ Quân Nhân, cư xá nầy đã bị trúng pháo và cháy rụi, nên tôi đáp xuống TSN lúc 06 giờ 50 phút. Riêng về anh Phùng tôi không hiểu vì lý do gì anh không chịu đáp xuống và mất tích từ đó.

    Vào khoảng 07 giờ sáng tôi cùng các anh em phi đạo A-1 theo dõi chiếc TL 07 ở cao độ vài ba ngàn bộ nghiêng cánh trái và xạ kích bằng súng Gatling, đại bác 20 ly 6 nòng xuống vùng nghi ngờ. Thình lình 1 hoả tiễn tầm nhiệt SA-7 bắn trúng chiếc Tinh Long 07, đuôi phải rơi lả tả, động cơ phải phát hoả, cánh phải gãy lìa, đồng thời phòng lái bị cháy, phi cơ lao xuống đất như con vụ rơi xuống bên trong vòng đai TSN trước sự ngỡ ngàng, thương tiếc của hàng vạn người trong và ngoài TSN.

    Mặc dù phi trường vẫn còn khả dụng nhưng sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của các loại phi cơ, cuộc thả bom và xạ kích dọc theo vòng rào của chiếc TL-=7, cộng thêm cuộc ném bom của NT Trung chiều hôm trước đã làm cho tình hình trong TSN càng hỗn loạn như ong vỡ tổ. Sau đó các loại phi cơ F-5, C130, C-47… lần lượt bay lên. Về Tr/Uý Trang Văn Thành. Dù anh đã thi hành 1 phi vụ Tinh Long 01 trước đó nhưng trong tình trạng khẩn cấp cần phải bảo vệ phi trường TSN và Thủ Đô Sài Gòn, anh cùng PHĐ Tinh Long-07 tình nguyện bay lên để thay chiếc Tinh Long 06 đã hết hoả lực thì sử gia Olivier gọi là :đặc biệt bướng bỉnh?

    Xin xem những bài dưới đây để hiểu được tính trung thực của quyển "Tháng Tư Nghiệt Ngã" nầy và đáng để đọc không ?

    *****

    Sự thật Đời Tôi

    Trung Tướng Trần Văn Minh


    Để tôi kể bạn nghe về sự thật của tôi. Đó không phải là sự thật về bất cứ sĩ quan hay ông tướng ông tá người Việt nào. Nó không phải là sự thật về một chính khách người Việt nào. Nó chẳng là sự thật về gia đình tôi hay bạn bè tôi. Và trên hết, nó chẳng phải là sự thật của Chúa. Đến một lúc nào đó thì chúng ta sẽ biết sự thật của Chúa. Đến một lúc nào đó.

    Nhưng nãy giờ tôi đang nói về sự thật của tôi. Đó là những gì tôi đã thấy và tôi đã tin. Đó là sự thật của tôi. Câu trả lời cho thảm kịch thất trận của miền Nam Việt Nam thật đơn giản. Nó có thể tóm gọn với hai chữ “không đủ”. Chúng tôi không có đủ tiếp liệu trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến. Và chúng tôi không có đủ lính. Chỉ có thế. Đó là toàn bộ vấn đề. Không đủ. Báo chí Mỹ nói là chúng tôi thất trận vì chúng tôi tham nhũng. Tôi không chối là đã có tham nhũng tại Việt Nam. Có. Có tham nhũng trên thị trường, trên chính trường và trong một vài đơn vị quân đội. Nhưng dứt khoát không có tham nhũng trong Không Quân. Những người lính KQ tin vào Tổ Quốc Không Gian, và họ tin cậy cấp chỉ huy. Không có chuyện tham nhũng nơi các sĩ quan quanh tôi.

    Vấn đề sinh tử là chúng tôi không còn cơ phận và cũng không có nhiên liệu. Chúng tôi bị thiếu hụt nhiên liệu trong những ngày cuối cuộc chiến. Vì vậy mà chúng tôi không thể cất cánh. Không lực chúng tôi bị nằm ụ dưới đất. Thế mà người Mỹ, có computer với đầy đủ dữ kiện. Họ nói rằng chúng tôi có đủ. Họ cả quyết là chúng tôi có đủ nhiên liệu và đồ phụ tùng. Họ cả quyết trên cơ sở chính trị. Họ không cả quyết trên cơ sở thực tế.

    Tất cả những gì chúng tôi cần đến là Tiếp Vận. Có tiếp liệu mới đánh đấm được. Khi mà hàng tiếp liệu không được chuyển giao, thì tinh thần chiến đấu của sĩ quan và binh lính chúng tôi sẽ xuống thấp. Ai cũng thấy là đồ tiếp liệu đang cạn kiệt. Họ biết chúng tôi sẽ hết sạch. Và khi họ thấy như vậy, họ sẽ biết là chúng tôi đang bị đồng minh thân thiết bỏ rơi. Và rồi họ sẽ mất sạch tinh thần chiến đấu. Tôi chưa bao giờ nghĩ là đồng minh sẽ lừa dối và bỏ rơi chúng tôi. Tôi nghĩ đến Bá Linh và Đại Hàn khi nghĩ đến các giải pháp của người Mỹ. Và tôi thấy người Mỹ đã bảo vệ họ. Tôi nghĩ là chúng tôi, là tiền đồn của thế giới tự do, rồi cũng được bảo vệ như thế. Đại sứ Graham Martin nói đi nói lại là Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng tôi. Ổng nói là chúng tôi nên tin như thế.

    Những gì đã xảy ra vào phút cuối đã như một vài người Mỹ đã nói trước. Chúng tôi thua trận nhanh hơn Bắc quân có thể thắng. Đúng vậy. Tôi coi như sách lược của tổng thống Thiệu là bỏ rơi vùng cao nguyên sau khi mất Ban Mê Thuột là một chiến thuật hay. Nhưng nếu chúng ta được tiếp vận hợp lý, thì tinh thần chiến đấu của chúng ta vẫn còn, và chúng ta có thể tái phối trí quân đội để tiếp tục chiến đấu.

    Khi tổng thống Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng Tư, tôi đã nghĩ đó là dấu hiệu lạc quan. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ có những thỏa ước mới, những chế độ mới. Phó tổng thống Hương trở thành tổng thống. Ông là một nhà giáo lão thành đáng kính. Ông là một người trung thực.

    Nhưng rồi ông giao quyền tổng thống cho tướng Dương Văn Minh. Một vài người chúng tôi tin rằng tướng Minh có thể đạt được những thỏa ước hòa bình. Nhưng chúng tôi cũng nghĩ tình hình đang diễn ra là một bóng đen hắc ám. Chúng tôi tin rằng người Việt sẽ không còn tự quyết một điều gì. Bất cứ điều gì, chúng tôi tin chắc rằng, phải được quyết định sau bức màn siêu quyền lực. Người Mỹ, người Nga, người Tàu _ chúng tôi tin chắc là thế _ sẽ quyết định số phận của Việt Nam. Chúng tôi đã chờ đợi ngày này qua ngày khác mới thấy những điều họ đã âm mưu. Chúng tôi nghĩ một phần trong những âm mưu đó là người Mỹ sẽ ngưng cung cấp hàng tiếp liệu cho chúng tôi.
    Trong những ngày cuối cùng của VNCH nhiều lần tôi đã có nói chuyện với tướng Nguyễn Cao Kỳ. Và nhiều lần ông đã yêu cầu tôi làm đảo chánh. Ông nói, “Hãy cẩn thận. Người Mỹ đang bảo vệ tổng thống Thiệu. Đừng để họ biết kế hoạch của các anh”. Rồi khi tôi gặp ổng vài ngày sau đó, ổng lại yêu cầu tôi, “Khi nào thì anh cầm đầu cuộc đảo chánh? Khi nào thì đảo chánh?” Tôi nói với ổng là tôi không muốn cầm đầu đảo chánh. Tôi hỏi ông ấy là ông có muốn đảo chánh không? Và ổng nói không, không muốn. Ông nói là ông nghĩ tôi muốn. Ổng quá cẩn thận. Ông muốn tôi cầm đầu đảo chánh để ông trở thành lãnh đạo mới của đất nước. Nhưng điều mà tướng Kỳ không thể nào hiểu được là tôi và binh lính của tôi sẽ không trung thành với ai cả. Chúng tôi chỉ trung thành với Tổ Quốc. Chúng tôi trung thành với Việt Nam, Chúng tôi yêu Việt Nam. Rất nhiều người lính chúng tôi đã chết cho Việt Nam. Họ đã chiến đấu và chết không vì bất cứ ai, mà cho Việt Nam.

    Trong một cuốn hồi ký tướng Kỳ nói là tôi đã đến nhà ổng và nói là tôi sẽ trung thành với ổng bằng bất cứ giá nào. Ông nói tôi đã nói với ổng là người của tòa Đại sứ Mỹ đang đút tiền cho tôi để thăm dò ông cho Mỹ. Không có điều nào đúng cả. Không hề có ai đưa tiền cho tôi cả _ đặc biệt là người của tòa Đại sứ Mỹ. Và tôi không hề có chuyện đàm phán nào với tướng Kỳ. Đọc nó rất buồn cười. Tại sao ổng lại bịa ra những điều này trong cuốn hồi ký? Ông moi những chuyện này ở đâu ra vậy? Có thể là ông đang nhắm tới một ai đó chớ không phải tôi. Ông không được bịa chuyện về tôi.

    Gần trưa ngày 29 tháng Tư, tôi nhận một cuộc điện gọi từ cơ quan DAO nói rằng sẽ có một cuộc họp giữa Mỹ và các cấp chỉ huy của VNAF. Tôi qua cơ quan DAO với nhiều người nữa. Chúng tôi được đưa vào một gian phòng. Rồi người ta để chúng tôi ngồi đó một lúc lâu. Chúng tôi nghĩ Đại sứ Martin hoặc tướng Homer Smith (Tùy Viên Quân Sự) hoặc ai đó sẽ thuyết trình một kế hoạch đẩy lui Cộng quân. Nhưng chẳng có ai thuyết trình cả. Không có ai thuyết trình cho tới xế trưa. Sau khi chúng tôi đi vào khu vực cơ quan DAO thì một người lính gác đã tước vũ khí của chúng tôi. Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đó. Rồi cuối cùng cũng có một người, mặc đồ sĩ quan, bước vào phòng và nói, “Đã kết thúc rồi, thưa tướng Minh. Một trực thăng đang đợi ngoài kia sẽ đưa ông đi”. Chúng tôi bước ra chiếc trực thăng. Nó đưa chúng tôi bay ra chiếc Blue Ridge ngoài biển Đông.
    Một đại tá Không quân Mỹ đang ngồi trên tàu với tôi. Ông ta ngồi kế bên tôi. Ổng khóc suốt chuyến bay. Ổng không nói được. Nhưng ông ấy đã viết gì đó lên một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. Tôi đọc, “Thưa tướng quân, tôi rất tiếc” Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy đó cho tới ngày hôm nay. Tôi sẽ giữ mảnh giấy đó suốt đời. Tôi sẽ luôn nhớ tới chuyến bay buồn thảm ra chiến hạm Blue Ridge.

    Đối với những người theo đạo Phật như chúng tôi, chúng tôi tin rằng thượng đế đã an bài mọi sự. Chúng tôi tin rằng chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ trong cuộc đời này bởi vì kiếp trước chúng tôi đã tạo nhiều ác nghiệp. Tôi tin rằng trong cái kiếp trước mà tôi không nhớ nổi chắc là tôi đã phạm nhiều điều sai quấy. Đó là lý do tại sao chuyện ác lai này lại báo ứng với tôi và với quê hương tôi. Đôi khi chúng ta có thể cưỡng lại số phận nếu chúng ta hành thiện và chỉ làm những điều lương tâm sai bảo. Đó là những gì tôi đang cố tu thân. Tôi phải cố tu thân và làm những gì hợp với lương tâm.

    Nhưng từ khi đất nước tôi sụp đổ, tâm hồn tôi đã hóa ra tan nát. Trong 20 năm qua thâm tâm tôi đã cảm thấy trĩu nặng nỗi buồn đau và trống vắng. Nó vẫn không phai đi. Tôi cảm thấy nó hằng ngày. Không một ngày nào trôi qua trong đời mà tôi không nhớ về Việt Nam./.

    Trung Tướng Trần Văn Minh



    Philong51
    Trần Văn Phúc


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X