Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Erich Maria Remarque Chiến hữu

Collapse
X

Erich Maria Remarque Chiến hữu

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Erich Maria Remarque Chiến hữu




    Ba Người Bạn (Chiến Hữu) - Erich Maria Remarque



    Ba Người Bạn (Chiến Hữu) là cuốn tiểu thuyết chiến tranh của tác giả người Đức nổi tiếng thế giới, Erich Maria Remarque.

    Erich Maria Remarque là nhà văn Đức, chuyên viết về chiến tranh, với rất nhiều tiểu thuyết lừng danh thế giới như: Ba Người Bạn (Chiến Hữu), Khải hoàn môn, Đài tưởng niệm Bia mộ đen, Một thời để yêu và một thời để chết ...vv. Các tác phẩm của ông là những bản tráng ca về tình yêu và sự khốc liệt của chiến tranh ...

    Tại Việt Nam, từ lâu nhiều tác phẩm của Erich được dịch và xuất bản ở cả hai miền Bắc và Nam. Hiện nay, vẫn có nhiều tác phẩm của ông được tái bản tại Việt Nam.

    Đọc "Ba Người Bạn" mới thấy được rằng những người lính bại trận thậm chí còn phải gánh chịu những mất mát tổn thương hơn bất cứ ai. Họ phải chịu tâm lý của kẻ bại trận trở về không được người thân, bạn bè chào đón. Đó là một cuộc chiến phi nghĩa mà chính họ cũng không biết tại sao họ phải dấn thân vào để rồi phải chứng kiến những cuộc tàn sát, những cái chết của đồng loại, của đồng đội mà đến khi chiến tranh kết thúc, họ vẫn còn bị ám ảnh. Thêm vào đấy là tâm lý bị cả xã hội ruồng bỏ, khinh miệt. Họ tay không trở về, không tiền bạc tài sản, không nhà cửa người thân, không việc làm và trở thành những kẻ ở tận đáy cùng của xã hội. Hình ảnh ba người bạn trong truyện là đại diện cho cả một tầng lớp, thế hệ "bỏ đi" ấy. Họ phải chịu tất cả những nỗi đau , mặc cảm mà xã hội không ai hiểu và thông cảm trừ những người cũng ở trong tầng lớp nghèo hèn như họ....

    Nội dung tác phẩm nói về tình bạn và tình yêu của những người lính sau chiến tranh, vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống, nhưng luôn sống và yêu hết mình. Một tác phẩm tuyệt vời mà bất cứ ai khi đọc cũng đều cảm động và khâm phục....




    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 1
    Bầu trời vàng ửng màu đồng, chưa bị che lấp bởi khói từ các cột ống khói lô nhô. Đàng sau dãy mái ngói của xí nghiệp, ánh sáng đặc biệt lộng lẫy. Mặt trời hẳn vừa mới mọc. Tôi nhìn đồng hồ; chưa đến tám giờ. Sớm mười lăm phút.
    Thế nhưng tôi vẫn mở cổng, chuẩn bị máy bơm sẳn sàng đón khách. Giờ này thường có một, hai chiếc xe hơi chạy ngang cần nạp nhiên liệu.
    Thình lình sau lưng tôi vang lên một âm thanh the thé, chát chúa -- như tiếng một cái cần cẩu rỉ sét di động dưới lòng đất. Tôi đứng im, lắng nghe. Tôi băng qua sân trở lại cổng và thận trọng mở ra.
    Một con ma -- trong bóng tối mờ ảo quờ quạng tiến tới! Một thếp vải trắng cáu bẩn quấn quanh đầu, váy vén cao phơi bày đầu gối; mình choàng tạp dề xanh lơ, chân mang dép dầy cộp, vung vẩy một cây chỗi trên tay; nó nặng chừng một tạ tây, và thực sự chính là Matilda Stoss, người lau dọn cho cơ sở của chúng tôi.
    Tôi đứng nhìn bà. Với tất cả duyên dáng của một con hà mã, bà vừa lảo đảo len giữa các bộ tản nhiệt xe hơi, vừa ậm ừ hát bản "bài ca chàng Khinh Kỵ Can Trường." Trên băng ghế cạnh cửa sổ có hai chai cognac, một chai gần cạn. Tối hôm qua chúng còn đầy. Tôi quên cất chúng vào tủ khóa.
    "Kìa Frau Stoss!" tôi phản đối.
    Tiếng hát ngưng bặt; cây chổi rơi xuống sàn. Nụ cười sung sướng tắt ngúm. Bây giờ đến lượt tôi là ông kẹ.
    "Lạy Chúa tôi!" Matilda thốt lên, hấp háy mắt. "Tôi đâu ngờ cậu tới sớm như vậy."
    "Tôi thì không ngạc nhiên chút nào. Rượu ngon chứ?"
    "Đương nhiên rồi. Nhưng thế này xấu hổ quá, Herr Lohkamp ạ." Bà lấy tay chùi quanh miệng. "Tôi chỉ chẳng hiểu tại sao ---"
    "Nào, Matilda, bác quá lời đấy. Bác chỉ say quắc cần câu mà thôi, phải không?"
    Bà cố sức giữ thăng bằng và đứng đó, chớp mắt như một con cú già. Rồi dần dần sự minh mẫn của bà trở lại. Bà tiến tới một bước, quả quyết.
    "Nói cho cùng, con người thì yếu đuối, Herr Lohkamp ạ... Đầu tiên, tôi chỉ ngửi ... rồi tôi nhấp một ngụm mà thôi, bởi vì -- cậu biết đấy, bao tử của tôi yếu lắm... và rồi... rồi tôi nghĩ Quỷ Sứ đã hớp hồn tôi. Dù sao, cậu cũng không nên tạo điều kiện cho một bà lão phạm tội, để rượu ngon hớ hênh như thế..."
    Đây không phải lần đầu tôi bắt gặp bà làm chuyện này. Bà thường đến xưởng của chúng tôi mỗi ngày hai giờ để lau chùi; và mặc dầu ta để bừa bãi một số tiền lớn, bà sẽ không đụng tới một xu teng -- thế nhưng bà có thể đánh hơi rượu schnapps tài tình như một con chuột đánh mùi thịt mỡ.
    Tôi cầm hai chai rượu đưa lên. "Lẽ tự nhiên! Bác chừa lại chai cognac của khách ... còn thứ rượu ngon, rượu của Herr Koster -- thì bác nốc sạch."
    Một nụ cười nở trên gương mặt dãi dầu sương gió. "Tin tôi đi, Herr Lohkamp; tôi là người sành rượu! Nhưng Herr Lohkamp, cậu sẽ không thóc mách lại -- tôi, một góa phụ đáng thương?"
    Tôi lắc đầu. "Lần này thì không, Matilda."
    Bà tháo kim, thả váy xuống. "Vậy tôi nên đi ngay. Kẽo Herr Koster bắt được.. " bà dơ hai tay ngang đầu.
    Tôi đến cạnh tủ thức ăn, mở cửa. "Matilda ..."
    Bà nặng nề bước tới. Tôi cầm một chai màu nâu, hình chữ nhật đưa lên.
    Bà dơ tay cao, phản đối.
    "Không phải tôi đâu," bà nói. "Thề danh dự, không phải tôi, Herr Lohkamp ạ. Tôi còn chẳng ngửi qua nữa là."
    "Thế bác không biết đó là cái gì, phải không?" tôi nói, rót vào cốc.
    "Không?" bà đáp, liếm môi. "Rum. Thời đồ đá."
    "Tuyệt lắm! Bác nghĩ sao, làm một cốc nhé?"
    "Tôi ấy à?" Bà giật nẩy người. "Thế thì quá sức, Herr Lohkamp ạ! Đầu tôi hừng hực than hồng đây. Mụ Stoss này đã uống trộm hết sạch cognac của cậu, thế mà cậu lại còn mời mụ ấy uống rum nữa! Cậu là bậc thánh, Herr Lohkamp, cậu đúng là một người như thế! Có chết tôi cũng chẳng dám đụng tới một giọt."
    "Bác chắc không, Matilda?" tôi nói, làm như sắp uống.
    "Thôi, được rồi," bà nói và nhanh tay cầm lấy cốc rượu. "Phải chụp lấy cơ hội. Ngay cả khi ta không hiểu. Chúc cậu khỏe mạnh! Tôi đoán, không chừng hôm nay là sinh nhật của cậu?"
    "Cũng đâu đó, Matilda. Đoán giỏi lắm."
    "Không, có thật không?" Bà nắm tay tôi. "Chúc cậu sống lâu trăm tuổi! Và giàu có, Herr Lohkamp.... Ôi chao, sao tôi run rẫy cả người thế này ... Tôi cần một cốc nữa để ăn mừng sinh nhật cậu. Tôi thương cậu cứ như là con đẻ ấy!"
    "Tốt lắm!"
    Tôi rót một cốc rượu nữa cho bà. Bà nốc cạn và, vẫn tiếp tục ca ngợi tôi trong khi bước ra khỏi xưởng.
    Tôi cất chai rượu, ngồi xuống bàn. Ánh nắng yếu ớt qua khung cửa chiếu trên tay tôi. Một cảm xúc kỳ lạ, một sinh nhật -- cho dù không mang một ý nghĩa nào. Ba mươi năm... Tôi nhớ laị thời kỳ tôi đã tin rằng không bao giờ mình sống tới hai mươi tuổi -- thời kỳ đó dường như đã xa xưa lắm. Và rồi....
    Tôi lấy một tờ giấy từ ngăn kéo và bắt đầu tính sổ đời mình. Tuổi ấu thơ, học đường -- một hỗn hợp khắn khít của nhiều sự vật và sự kiện -- đã quá xa vời, như một thế giới khác, không có thực. Cuộc đời thực chỉ bắt đầu từ năm 1916. Tôi vừa đăng lính -- mười tám tuổi, gầy gò, lỏng khỏng. Và một tay thượng sĩ hách xì xằng thường bắt tôi tập đi tập lại, trườn bò, trên mặt đất bùn lầy của cánh đồng vừa cày xới đàng sau trại lính ... Một buổi chiều, mẹ tôi đến thăm; nhưng bà phải chờ hơn một tiếng đồng hồ, vì tôi không sắp xếp quân trang đúng cách, do đó bị phạt bằng cách kỳ cọ bồn cầu. Bà xin phép phụ giúp tôi, nhưng bị từ chối. Bà khóc, và tôi mệt lả đến nỗi thiếp ngủ ngay giây phút được ngồi cạnh mẹ.
    1917. Flanders. Mittendorf và tôi mua một chai vang đỏ ở căng tin... Chúng tôi dự tính ăn mừng. Nhưng chúng tôi chưa kịp làm gì, sáng sớm hôm ấy, quân Anh lại bắt đầu dội bom. Gần trưa, Koster bị thương; đến chiều, Meyer và Deters tử trận. Rồi, khi màn đêm buông xuống, vừa lúc chúng tôi tưởng rằng tình hình đã lắng dịu, và sắp sửa khui rượu thì hơi độc tràn đến, ngập khắp công sự. Chúng tôi kịp thời mang mặt nạ, nhưng mặt nạ của Mittendorf hỏng, và khi anh biết được thì đã muộn. Anh lột phắt nó đi, nhưng trước khi tìm được mặt nạ mới, anh hít phải nhiều khí độc đến mức ói ra máu. Anh qua đời sáng hôm sau, sắc mặt xanh chàm.
    1918. Trong quân y viện. Mấy ngày trước có một đoàn công xa chở thương bệnh binh đến. Băng bằng giấy. Nhiều trường hợp trầm trọng. Tiếng rên xiết áo não. Xe đẩy rộn rịp cả ngày. Giường của Joseph Stoll ở cạnh giường tôi. Hai chân đã cụt, nhưng anh không biết. Anh không nhìn thấy, vì họ phủ khăn trải giường bên trên một cái giá kẽm. Dù sao anh cũng không tin, vì anh vẫn còn cảm giác đau đớn ở chân. Hai người bạn trẻ chung phòng chết trong đêm, một người chết chậm và nhọc nhằn.
    1919. Lại về nhà. Cách mạng. Đói khát. Và ngoài kia súng máy nổ từng tràng. Chiến binh đối kháng chiến binh.
    1920. Putsch°. Karl Broger bị bắn. Koster và Lenz bị bắt. Mẹ tôi nằm bệnh viện. Ung thư.
    1921...
    Tôi nghiền ngẫm hồi lâu. Không, tôi không nhớ nỗi. Không nhớ gì đã xảy ra trong năm ấy. 1922, tôi làm thợ lắp đường rầy xe lửa ở Thuringia; 1923, quản đốc phụ trách quảng cáo cho một xí nghiệp sản xuất sản phẩm cao su. Lúc đó đang thời lạm phát. Có lúc lương tháng của tôi lên đến hai trăm tỉ đồng mark. Chúng tôi thường được phát lương mỗi ngày hai lần, mỗi lần được nghĩ nửa tiếng để chạy ra phố sắm sửa trước khi tỷ giá trao đổi đô-la được công bố -- vì đến khi ấy, tiền chỉ còn trị giá phân nửa.
    Và rồi gì nữa? Những năm sau đó? Tôi đặt bút chì xuống. Không có ích gì ôn lại quá khứ. Dù sao, tôi cũng chẳng nhớ thêm gì hơn; tất cả đã trở nên rối rắm. Năm trước, vào sinh nhật của mình, tôi chơi dương cầm cho quán Café International. Ở đó, tôi gặp lại Koster và Lenz. Và hiện nay tôi đang làm việc ở Aurewo -- Auto-Repair-Workshop; Koster & Co. Lenz và tôi là "Co.," nhưng chỉ có Koster mới thực sự làm chủ. Anh là bạn học chung trường, và trong quân đội, là cấp chỉ huy đại đội của chúng tôi; rồi anh trở thành phi công, và sau đó trong một thời gian, là sinh viên; rồi là tay đua... Cuối cùng anh mua cái nhà chòi này. Lenz, sau những năm lưu lạc ở Nam Mỹ, là người đầu tiên gia nhập -- sau đó mới đến tôi.
    Tôi lục túi lôi ra một điếu thuốc. Nói cho cùng, tôi có đầy đủ lý do để hài lòng. Thật ra cũng đâu đến nỗi nào. Tôi có công ăn việc làm, tôi cường tráng dẽo dai, và khỏe mạnh... Nhưng có lẽ tốt nhất ta không nên suy nghĩ thái quá về những điều ấy -- khi cô độc, bằng mọi giá; đặc biệt về đêm. Bởi thỉnh thoảng sẽ có những thứ từ quá khứ tìm cách trồi lên và trân trối nhìn ta bằng đôi mắt chết. Chính để chống lại những lúc ấy, ta cần một chai rượu mạnh.
    °Đảo chánh
    Bản lề cánh cổng rít lên ken két. Tôi xé vụn tờ giấy với những tháng ngày trên ấy, quẳng vào sọt rác. Cửa mở toang, và Gottfried Lenz -- cao, gầy, với mớ tóc vàng như rơm và cái mũi lẽ ra phải thuộc về một người khác -- đứng chắn ngang khung cửa.
    "Bobby," anh rống lên, "anh ù kia, đứng lên! Nghiêm, chào! Thượng cấp có chuyện muốn nói với anh!"
    "Herrgott!"° Tôi đứng dậy. "Tớ hy vọng cậu không nhớ... Đừng hát hỏng gì nhé."
    "Cậu không phải là thứ duy nhất được quan tâm," Gottfried trả lời, đặt lên bàn một gói giấy, trong đó có một cái gì chạm vào nhau lanh canh. Koster bước theo sau.
    Lentz đứng cạnh tôi, hơn hẳn một cái đầu. "Sáng nay cậu gặp điều gì đầu tiên thế, Bob?"
    Tôi ngẩm nghĩ một lúc. "Một bà già múa may quay cuồng."
    "Thánh thần ơi! Đó là điềm xấu, cậu tin không! Trùng hợp với tử vi của cậu! Hôm qua tớ vừa lấy lá số cho cậu. Cậu sinh dưới cung Nhân Mã -- yếu ớt, không vững chãi, một cây sậy mong manh trong gió -- với Thổ Tinh chiếm ngự một tam cá nguyệt kém may mắn và Mộc Tinh chẳng lấy gì thuận lợi cho cả năm nay. Koster và tớ, in loco parentis°°, cậu biết đấy, vì lẽ đó tớ ra lệnh, cậu phải nhận, để bảo vệ tính mạng, trước tiên lá bùa này. Tớ có được nó từ một hậu duệ chính cống của người Incas cuối cùng. Bà ấy có dòng máu quý tộc và lòng bàn chân phẳng bẹt; bà ấy trông ghê tởm, và có tài tiên tri. 'Hỡi chàng trai da trắng xa lạ,' bà ấy nói với tớ, 'các bậc vua chúa đã mang lá bùa này; sức mạnh của mặt trời, mặt trăng và trái đất chứa trong đấy, chưa kể những hành tinh kém nổi bật khác... Đưa cho già một đô-la bạc để mua rượu nhắm và lá bùa này sẽ thuộc về cậu.' Chuỗi may mắn ấy không nên để gián đoạn, do đó, hôm nay tớ tặng lại cậu. Mong nó sẽ gìn giữ cậu và đánh đuổi Mộc Tinh thù nghịch." Anh choàng lên cổ tôi một hình tượng đen trên một sợi dây mỏng. "Đây nhé. Chống lại vận rủi....Chống lại vận rủi mỗi ngày, và đây rồi -- sáu chai rum. Quà của Otto. Mỗi giọt rượu có số tuổi gấp đôi cậu."
    Anh mở gói, sắp từng chai một cạnh nhau dưới ánh nắng ban mai. Chúng óng ánh như hổ phách. "Trông tuyệt vời," tôi nói. "Cậu mua ở đâu thế, Otto?"
    Koster mỉm cười. "Chuyện dài lắm. Nhưng này, Bob, cậu có cảm tưởng ra sao? Ba mươi tuổi?"
    Tôi lắc đầu. "Như mười sáu và năm mươi tuổi cùng một lúc. Một cách khác, khá côn đồ..."
    "Khá côn đồ! Cậu nói gì thế?" Lenz phản đối. "Ôi, đó là điều đẹp nhất trên đời. Có nghĩa là, cậu đã chinh phục thời gian và sống đến hai lần!"
    Koster nhìn tôi. "Mặc kệ anh ây, Gottfried ạ," anh nói. "Sinh nhật là gánh nặng cho lòng tự tin của con người. Nhất là vào buổi sáng. Rồi anh ấy sẽ từ từ đỡ hơn."
    Lenz cau mày. "Người đàn ông càng nghĩ ít về hắn chừng nào càng tốt chừng ấy. Cậu thấy có được an ủi chút nào chưa, Bob?"
    "Chưa," tôi đáp. "Một người đàn ông cần phải sống sao cho xứng đáng là một người tốt. Tớ cảm thấy như thế thật khó khăn và chán nản."
    "Tuyệt! Anh ấy đang triết lý, Otto! Anh ấy đã được cứu rỗi," Lenz nói. "Điều xấu nhất qua rồi -- cơn khủng hoảng đã chấm dứt -- anh ấy đã trải qua phút giây kỷ niệm sinh nhật, khi người đàn ông nhìn thẳng vào mắt mình và nhận thấy mình chỉ là một thằng ngốc đáng thương... Nào, ta hãy cụng ly cho một ngày mới với tâm trí bình an, và cho máy móc của cái xe Cadillac già được bôi mỡ trơn tru."
    Chúng tôi làm việc đến tối, rồi tắm rửa và thay y phục.
    Lenz thèm thuồng nhìn mấy chai rượu. "Khui một chai uống được chưa, Otto?"
    "Nói thật, đó là quà của Bob, không phải của tớ." Koster đáp. "Grottfried, cậu biết đấy, tặng cho người ta rồi nhắc nhặng xi như thế thì không được lịch thiệp mấy."
    "Nhưng vẫn còn hơn để cho ân nhân của mình chết khát," Lenz trả đủa, vặn cái nút bần.
    Mùi thơm ngào ngạt cả phòng.
    "Đức Mẹ ơi!" Gottfried kêu.
    Chúng tôi đua nhau ngửi.
    "Hết sảy, Otto! Chỉ có thi sĩ mới đủ lời để diễn đạt."
    "Cái nơi tăm tối này không xứng," Lenz nói. "Tớ có ý kiến... Chúng ta hãy lái xe ra một chỗ nào đó ở miền quê, đem theo những chai rượu này. Chúng ta sẽ uống cạn trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời."
    "Xuất sắc!"
    Chúng tôi đẩy chiếc Cadillac mà chúng tôi đã tận lực sửa chửa nguyên buổi chiều qua một bên, để lộ ra một vật kỳ lạ trên bốn bánh: chiếc xe đua của Otto Koster -- niềm hảnh diện của xưởng sửa xe của chúng tôi.
    Koster đã mua chiếc xe này, một xe bus cũ có nóc kềnh càng, tại một chỗ bán đấu giá với số tiền rẻ mạt gần như biếu không. Lúc ấy những tay sành điệu không ngần ngại tuyên bố rằng xe ấy xứng đáng được chưng bày ở viện bảo tàng giao thông. Bollwies, chủ nhân một công ty bán sĩ quần áo phụ nữ và tình cờ cũng là một người say mê đua xe, khuyên Otto nên sửa xe ấy thành một chiếc máy may. Nhưng không dễ gì làm nản lòng Koster. Anh tháo xe ra từng mảnh như thể là một chiếc đồng hồ, và cặm cụi với nó, đêm này sang đêm khác hàng tháng trời. Rồi một tối, anh xuất hiện ở quán rượu nơi chúng tôi thường lai vãng. Bollwies cười suýt té ghế khi thấy nó, trông nó vẫn buồn cười lắm. Để mua vui, hắn thách Otto đua. Hắn cá hai trăm mark ăn hai mươi nếu Koster nhanh hơn chiếc xe thể thao mới toanh của hắn, đường đua mười cây số, chấp Otto một. Nhưng Otto còn bảnh hơn. Anh ấy không nhận chấp và muốn nâng tiền cược lên một ngàn mark cho cả hai bên. Bollies, hớn hở, đề nghị chở anh đến bịnh viện tâm thần lập tức. Mọi người cười ầm, sẳn sàng cho trò vui. Koster lẳng lặng phản ứng bằng cách mở máy xe. Hai người ra đi để tranh thắng bại. Bollwies trở về, thất thần như vừa nhìn thấy một con rắn biển, và viết chi phiếu trả tiền và rồi thêm một chi phiếu khác. Hắn muốn mua chiếc xe ấy lập tức. Nhưng Koster chỉ cười mũi. Anh không bán nó với bất cứ với giá nào. Bề ngoài xe trông xấu xí, nhưng bên trong, mọi thứ đều tinh khôi. Cho việc lái xe hàng ngày, chúng tôi đã tái sử dụng một thùng xe kiểu xưa nhưng ngẫu nhiên vừa vặn; lớp sơn đã tróc, mấy miếng chắn bùn sứt mẻ và nắp xe cũ mười năm. Lẽ đương nhiên chúng tôi thừa sức làm tốt hơn. Nhưng chúng tôi có lý do để không làm vậy.
    "Karl," chúng tôi đặt tên thánh cho nó --Karl, con Ma Xa lộ.
    ° Chúa Trời
    °° Quyền Huynh Thế Phụ
    Karl thở phì phò trên xa lộ.
    "Otto," tôi nói, "nạn nhân đến kìa."
    Đàng sau chúng tôi, một chiếc Buick to kềnh nóng nảy bóp còi. Nó nhanh chóng vượt qua. Chẳng mấy chốc, hai bộ tản nhiệt đã sánh vai. Người đàn ông ngồi sau tay lái ném một cái nhìn lơ đãng sang chúng tôi. Đôi mắt của hắn khinh khỉnh lướt qua thằng Karl tồi tàn. Rồi hắn nhìn về hướng khác -- và quên bẳng chúng tôi.
    Vài giây sau hắn không thể nào không nhận thấy là Karl vẫn chạy song song không thua nửa bước. Hắn cựa mình ngồi thẳng, nhìn chúng tôi một cách thú vị, và nhấn ga. Karl vẫn không chịu thua. Nhỏ nhắn và nhanh nhẹn như một con terrier cạnh con bloodhound, Karl giữ vững vị trí của nó bên cạnh cỗ máy bóng lộn nước sơn và kền.
    Người đàn ông ghì chặt tay lái. Vẫn không một chút nghi ngờ, hắn ngạo nghễ nhìn chúng tôi. Hắn quyết định, rõ ràng như thế, cho chúng tôi biết xe của hắn có khả năng ra sao. Hắn đạp ga mạnh đến nỗi ống thải khí rít lên ầm ỉ. Nhưng không ích gì. Hắn không thể nào nhanh hơn. Karl, kín đáo và đáng ghét, vẫn bám dính.
    Người đàn ông nhìn chúng tôi, kinh ngạc. Hắn không thể tin nỗi mắt mình -- vận tốc trên sáu mươi dặm một giờ mà vẫn không bỏ rơi được cái xe lộc xộc cổ tích này! Hắn liếc nhìn đồng hồ tốc độ của xe mình, bối rối -- hẳn có một điều gì không ổn. Hắn cho cô nàng xả hết tốc lực.
    Hai chiếc xe kèn cựa bên nhau trên đoạn đường thẳng. Được mấy trăm mét, một chiếc xe vận tải lọc xọc chạy tới. Chiếc Buick phải lùi lại, nhường chỗ. Vừa khi cô nàng trườn tới, một chiếc xe tang lù lù hiện ra, ruy-băng của các vòng hoa phất phơ trong gió; một lần nữa, cô nàng phải lui lại. Sau đó đường mở ra thênh thang.
    Khi ấy người đàn ông đã mất đi vẻ kiêu kỳ; tức tối, môi mím chặt, hắn ngã người ra phía trước -- máu đua xe đã bốc và giờ đây cuộc đời hắn tùy thuộc vào chuyện không để cho chú cẩu lai tạp, nhỏ bé của chúng tôi đánh bại.
    Về phần mình, chúng tôi ngồi im thin thít trên ghế. Với chúng tôi, đơn giản là chiếc Buick không tồn tại. Koster bình thản canh chừng con đường trước mặt; Lenz, cho dù rất kích động, cầm một tờ nhật báo đọc, như không có gì đáng hơn để làm.
    Vài phút sau, Koster nháy mắt với chúng tôi. Một cách vô cùng tinh tế, thằng Karl giảm dần tốc độ và nàng Buick rướn tới. Những miếng chắn bùn bóng bẩy, nở nang của nó lướt qua. Ống thải khí phả khói xanh vào mặt chúng tôi. Từng chút từng chút, hắn đã bỏ xa -- mười chín mét -- rồi, như chúng tôi tiên đoán, gương mặt đỏ lựng đẫm mồ hôi nhưng hạnh phúc, gương mặt của ông chủ xe, hiện ra ở khung cửa và một nụ cười vinh quang toe toét nở. Hắn nghĩ rằng mình đã thắng.
    Nhưng hắn không dừng lại ở đấy; hắn không thể bỏ lỡ cơ hội phục hận. Hắn vẫy tay -- hững hờ, như người thắng trận.
    "Otto," Lenz cảnh cáo.
    Nhưng anh không cần phải lên tiếng; ngay lúc ấy Karl vọt tới. Máy xe gầm rú. Và bất thình lình cánh tay vẫy chào ở khung cửa biến mất -- Karl đã đáp lại lời mời; nó đã đến. Nó phóng, vững vàng đều đặn cho đến phút cuối, khi chúng tôi giành được phần đất đã mất; và rồi lần đầu tiên chúng tôi chú tâm đến kẻ lạ. Trong nỗi hiếu kỳ trong trắng, chúng tôi quan sát người ngồi sau tay lái, như muốn biết vì sao hắn lại ra tín hiệu. Nhưng hắn vẫn hướng ánh mắt về chỗ khác; và Karl, thằng bé lêu lỏng đầu đường xó chợ, bụi đường dính khắn, những miếng chắn bùn đập phành phạch, đã bỏ xa hắn với tốc độ siêu đẳng.
    "Otto, lái hay tuyệt," Lenz nói với Koster. "Tối nay thế nào cũng có người ăn không ngon. "
    Cuộc rượt đuổi là lý do khiến chúng tôi không cải biến bề ngoài của Karl. Chỉ cần Karl xuất hiện trên đường phố là có người bị khiêu khích. Đối với những loại xe khác, Karl là con quạ tật nguyền trước lũ mèo háu đói. Ngay cả những loại xe gia đình hiền hòa nhất cũng cảm thấy kích động muốn qua mặt; trước cảnh một cỗ xe cũ rích, cà rịch cà tang, lạng lờ khi trước mặt, khi sau lưng, ngay cả những con hải ly điềm đạm nhất cũng nổi máu rượt bắt. Bởi lẽ có ai biết được, dưới bề ngoài quái đản ấy, một trái tim đua tranh vĩ đại đang thổn thức?
    Lenz nhấn mạnh tính chất giáo dục của Karl; nó dạy người ta biết tôn trọng đúng mực tài sáng tạo, một thứ luôn ẩn nấp dưới bề ngoài không thấm nhiễm bởi thành kiến. Ít nhất cũng như thế, Lenz nói -- anh cũng tự cho rằng, mình là người lãng mạn cuối cùng còn sót lại.
    Chúng tôi ngừng trước một lữ quán nhỏ và bước xuống. Buổi chiều đẹp và yên ả. Trên cánh đồng mới vỡ, rảnh của những luống cày ánh màu tím thẩm; sống ửng màu nâu và vàng óng. Những cụm mây huy hoàng, tựa bầy chim hồng hạc, lênh đênh trên nền trời xanh màu vỏ táo, và mảnh mai ở giữa chúng là vầng trăng lưỡi liềm. Cành hãy còn xơ xác không lá nhưng đã hứa hẹn những mầm non, một bụi cây phỉ ôm ấp buổi chiều và giấc mơ trong vòng tay của nó. Từ lữ quán tỏa ra mùi thơm phưng phức của món gan chiên. Và củ hành. Bụng chúng tôi cồn cào.
    Lenz theo mùi thơm lần vào trong. Hài lòng, anh trở ra. "Các cậu cần xem món khoai tây chiên! Nhanh lên, kẻo người ta ăn hết phần ngon bây giờ."
    Vừa lúc ấy một chiếc xe êm ái trờ tới. Chúng tôi nhìn. Chính là chiếc Buick. Nó thắng gấp, giật nảy mình bên cạnh Karl.
    "Hay thật!" Lenz nói. Mấy lần trước, chúng tôi đã đánh nhau với thiên hạ cũng vì lý do tương tự.
    Anh chàng bước xuống. Người to lớn, nặng nề và áo khoác nâu màu lông lạc đà. Mặt không vui, anh ta nhìn Karl thật lâu rồi lấy từ túi ra một đôi găng tay vàng dầy cộp, và bước tới.
    "Cậu gọi nó là gì, một phát kiến tân kỳ?" hắn hỏi Koster, đứng cạnh, mặt chảy thiu như một lọ dấm.
    Cả ba chúng tôi nhìn anh ta nhưng không trả lời. Rõ ràng anh ta coi chúng tôi như những tay thợ máy diện quần áo láng cóng ngày Chúa Nhật, rong chơi một mình một cõi.
    "Anh vừa mới nói gì thế, phải không ?" cuối cùng Otto nói, làm ra vẻ ngờ vực, để cho hắn biết cách ăn nói lịch sự hơn một chút.
    Anh chàng đỏ mặt. "Tôi hỏi về cái xe đàng kia." anh ta ủng oẳng trả lời, hệt như lần trước.
    Lenz đứng thẳng người lại. Cái mủi to của anh giần giật. Anh đặc biệt chú trọng tới sự lễ độ của người khác. Nhưng trước khi anh kịp mở miệng, đột nhiên, như bởi một bàn tay vô hình, cánh cửa phía hành khách của chiếc Buick mở ra -- một bàn chân xinh xắn đặt xuống đất, một dáng chân thon, tiếp đến là đầu gối -- rồi một thiếu nữ bước ra và chậm rãi đi về phía chúng tôi.
    Chúng tôi bở ngở nhìn nhau. Chúng tôi không hề biết có người khác trong xe. Lenz đổi thái độ ngay lập tức. Nụ cười bừng nở trên gương mặt đầy tàn nhang của anh. Thình lình tất cả chúng tôi đều mỉm cười -- tại sao, chỉ có Trời biết.
    Anh béo nhìn chúng tôi, chưng hửng. Anh ta bối rối và rõ ràng không biết tình thế đang biến chuyển ra sao.
    "Binding," cuối cùng anh nói, hơi cúi mình, như thể cái tên ấy là thứ duy nhất anh còn biết chắc.
    Cô gái đã đến gần. Chúng tôi tỏ ra thân thiện hơn.
    "Giới thiệu cái xe đi, Otto," Lenz nói, liếc thật nhanh Koster.
    "Sao lại không?" Otto trả lời, với một tia sáng lấp lánh, hài lòng trong đôi mắt.
    "Tôi rất mong được xem qua," Binding nói, giọng hòa hoàn hẳn ra. "Chắc nó phải chạy nhanh thần tốc. Vừa mới hạ tôi đo ván kia mà."
    Hai người băng ngang sân đến bải đậu xe và Koster dở nấp xe lên.
    Cô gái không đi theo. Mảnh khảnh và lặng lẽ, nàng đứng cạnh Lenz và tôi trong ánh hoàng hôn. Tôi nghĩ Gottfried sẽ chớp lấy thời cơ và bắng nhắng như một trái bom. Những trường hợp này rất thích hợp với anh. Thế nhưng dường như anh mất đi khả năng phát ngôn. Bình thường anh có thể xun xoe như một chú gà tây --nhưng bây giờ anh chỉ đứng, không nhúc nhích, như một sư huynh dòng Carmel đang nghĩ phép.
    "Xin cô tha lỗi cho chúng tôi," cuối cùng tôi nói. "Chúng tôi không thấy cô ngồi trong xe. Nếu biết, chúng tôi đã không hành động kỳ cục như thế."
    Cô gái nhìn tôi. "Nhưng tại sao lại không nhỉ?" nàng bình thản trả lời, giọng trầm đục không ngờ. "Làm như thế có gì xấu đâu chứ."
    "Không xấu; nhưng thiếu công bình. Xe đó có thể đạt tới vận tốc khoảng hai trăm kí lô mét một giờ."
    Nàng hơi nghiêng mình tới trước và cho hai tay vào túi áo khoác. "Những hai trăm kí lô mét?" nàng hỏi.
    "Một trăm tám mươi chín phẩy hai, nói chính xác, theo sổ đăng ký." Lenz trả lời, hảnh diện như một khẩu súng vừa khai hỏa.
    Nàng cười."Thế mà chúng tôi nghĩ chỉ chừng sáu mươi hay bẩy mươi."
    "Vậy cô đã thấy," tôi nói, "cô không tài nào biết được, phải không?"
    "Không," nàng đáp, "chắn chắn chúng tôi không thể đoán biết. Chúng tôi nghĩ chiếc Buick chạy nhanh gấp đôi xe của các anh."
    "Có thể là như thế," Tôi lấy chân đá một cành cây khô sang bên. "Nhưng chúng tôi có một lợi thế lớn. Tôi e là Herr Binding đàng ấy khá bực mình với chúng tôi."
    Nàng cười to lần nữa. "Vâng, trong một lúc, dĩ nhiên. Nhưng người ta thỉnh thoảng cũng phải biết cách bỏ qua."
    "Đúng thế."
    Một khoảng im lặng. Tôi liếc Lenz. Nhưng chàng trai lãng mạn cuối cùng chỉ nhe răng cười, chun mũi, và để mặc tôi bì bỏm lội.
    Những cây bạch dương xào xạc lá. Đàng sau quán, một con gà trống gáy vang rân.
    "Thời tiết đẹp quá," cuối cùng tôi nói để phá vỡ im lặng.
    "Vâng, tuyệt vời," nàng đáp.
    "Và êm dịu lắm," Lenz thêm vào.
    "Êm dịu một cách khác thường," tôi bổ sung.
    Một khoảng im lặng theo sau. Hẳn nàng phải nghĩ, chúng tôi là một đôi cừu già ngon sơi; nhưng ý chí mạnh nhất thế giới cũng không giúp tôi nghĩ ra được chuyện gì để nói. Lenz đánh hơi.
    "Nước sốt táo," anh đoán. "Sẽ có nước sốt táo dọn kèm với gan, rõ ràng thế. Món ngon đấy."
    "Hẳn thế," tôi tán đồng và tự nguyền rủa hai đứa.
    Koster và Binding quay lại. Chỉ vài phút thôi, thế mà Binding đã biến thành một người khác. Trông anh rạng ngời như đang bay trên chín tầng mây, hẳn vì đã tìm thấy một chuyên gia, trong Koster. Anh hỏi chúng tôi có muốn ăn tối chung với bọn anh không.
    "Dĩ nhiên," Lenz đáp.
    Chúng tôi đi vào lữ quán. Ngang qua cửa, Lenz nheo mắt với tôi và hất đầu về hướng cô gái."Cô ấy bù cho mười bà phù thủy già múa may hồi sáng."
    Tôi nhún vai. "Có thể lắm -- nhưng trong trường hợp ấy, sao cậu để một mình tớ cà lăm, cà lập như thằng ngốc vậy?"
    Anh cười. "Bé ơi, đôi khi cưng phải học bơi một mình."
    "Tớ chả muốn học gì sất," tôi nói.
    Chúng tôi theo chân họ. Họ đã ngồi vào bàn. Cô hầu bàn nhanh nhẩu mang gan và khoai tây chiên đến. Cô cũng đem ra một chai to whiskey lúa mạch đen để khai vị.
    Binding tỏ ra là một tay ăn nói lão luyện. Thật lạ lùng, anh có thể thao thao bất tuyệt về những đề tài có liên quan đến xe cộ. Khi biết Otto thực sự đua xe, thiện ý của anh lại càng không giới hạn.
    Tôi nhìn kỹ. Anh là một chàng trai to lớn với lông mày rậm trên gương mặt hồng hào; khoe khoang một ít, ồn ào một ít, và rõ ràng là dễ dãi hiền hòa, như những người đã thành đạt trong đời. Tôi có thể hình dung ra anh, buổi tối trước khi đi ngủ, trịnh trọng, hài lòng, khi chiêm nghiệm về mình trước gương.
    Cô gái được xếp ngồi giữa Lenz và tôi. Nàng cởi áo choàng và bên dưới là bộ đầm xám kiểu Anh. Một chiếc khăn quàng trắng ôm khít khao quanh cổ như bâu áo. Mái tóc nâu và óng ả như tơ và dưới ánh đèn, ánh màu hổ phách. Đôi vai gầy hơi nghiêng ra trước, bàn tay thon, khá dài và xương xẩu hơn là mềm mại. Mặt hẹp và xanh xao, nhưng cặp mắt to đem đến một sức mạnh gần như đam mê. Nàng xinh lắm, tôi thấy thế -- nhưng tôi không nghĩ gì khác hơn.
    Ngược lại, Lenz sôi nổi, nồng nhiệt. Anh hoàn toàn khác hẳn với con người cũ của mình, mới đây không lâu. Bờm tóc hoe vàng của anh óng ánh như mào một con chim đầu rìu. Anh tuôn ra những câu nói đùa duyên dáng và cùng với Binding, thống lĩnh bàn ăn. Tôi chỉ việc ngồi bên và không thể làm điều gì cho người ta chú ý đến -- cùng lắm chỉ là một lần chuyền đĩa thức ăn hay mời thuốc lá. Và chạm cốc với Binding. Tôi làm thế khá nhiều lần.
    Lenz chợt vỗ tay lên trán: "Rum! Bob, ra lấy mấy chai rum sinh nhật."
    "Sinh nhật? Sinh nhật của ai thế?" cô gái hỏi.
    "Sinh nhật của tôi," tôi nói. "Tôi khổ vì nó cả ngày hôm nay."
    "Khổ? Vậy, chắc anh không muốn tôi chúc mừng đâu nhỉ, phải không?"
    "Ô, muốn chứ," tôi nói; "chúc mừng lại là chuyện khác."
    "Tốt lắm, vậy xin chúc anh tất cả những gì tốt đẹp nhất."
    Trong một thoáng, tôi giữ tay nàng và cảm thấy sức ép, ấm và khô, của nó. Rồi tôi ra ngoài lấy những chai rum. Đêm mông mênh, tĩnh mịch quanh căn nhà nhỏ. Ghế da của xe chúng tôi ẩm hơi sương. Tôi đứng nhìn về phía chân trời, nơi quầng sáng màu đỏ của đô thị hắt lên. Tôi sẽ vui lòng đứng mãi ở đây; thế nhưng tôi nghe tiếng Lenz gọi.
    Binding không uống được rum. Sau cốc thứ nhì ta có thể nhận thấy điều đó. Anh ra ngoài vườn, lảo đảo. Tôi đứng lên và đi với Lenz đến quầy rượu. Anh gọi một chai gin.
    "Một cô gái tuyệt vời, hén?" anh nói.
    "Đừng hỏi tớ, Gottfried," tôi đáp. "Tớ chẳng để ý gì mấy tới cô ấy."
    Anh chăm chú nhìn tôi một lúc với đôi mắt xanh màu hoa diên vỹ và rồi lắc mái đầu óng ả. "Vậy cậu sống để làm gì, hở bé cưng?"
    "Tớ cũng hỏi mình câu ấy từ lâu lắm rồi," tôi đáp.
    Anh cười. "Tớ đoán, cậu muốn tớ nói cho cậu biết chứ gì. Hừm, tớ sẽ không nói đâu, chỉ vậy thôi nhé. Nhưng tớ nghĩ, tớ sẽ cố tìm hiểu xem cô ấy là gì của Bé Bự, thằng chả rành tất cả mọi thứ về xe cộ, y như một quyển tự điển sống."
    Anh theo Binding ra vườn. Một lúc sau, cả hai cùng trở lại quày rượu. Tin tức phải tốt đẹp, vì Gottfried, chắc là thấy con đường thênh thang rộng mở, quá vui mừng nên đã sốt sắng kết thân với Binding. Hai người gọi thêm một chai gin mới, và một giờ sau đó, đã vỗ vai nhau như đôi tri kỷ. Lenz luôn luôn toát ra một thứ gì đó rất duyên dáng, vì thế khó có ai cưỡng lại sức hấp dẫn của anh khi anh đang vui. Thật tình mà nói, trong những lúc này, anh còn không cưỡng lại được chính mình nữa là. Đơn giản rằng anh đang ồ ạt lôi cuốn Binding và chẳng bao lâu, hai người đã kéo nhau ra góc sân dưới dàn dây leo, hò hát những bài nhạc lính. Và trong khi ấy, cô gái đã quên mất chàng trai lãng mạn cuối cùng.
    Chỉ còn lại ba người trong phòng khách của lữ quán. Không gian đột nhiên yên tỉnh. Đồng hồ cuckoo tíc tắc. Cô hầu bàn đã thu dọn xong và nhìn chúng tôi trìu mến như mẹ hiền. Một con chó săn lông nâu nằm xoãi trước lò sưởi. Thỉnh thoảng nó lại ngắt ngứ sủa trong mơ, giọng êm, thanh và áo não. Ngoài cửa sổ, gió thổi lướt thướt. Từng khúc nhạc lính thoang thoảng lùa vào; căn phòng nhỏ dường như nâng chúng tôi lên và cùng nhau bềnh bồng qua đêm thâu và qua năm tháng, qua những hồi niệm và những thứ đã nửa vời quên lãng.
    Đó là một cảm giác lạ. Thời gian như lắng đọng -- không còn là một dòng sông chảy từ miền đen tối rồi quay trở về -- nó là một hồ nước, trong đó cuộc đời lặng lờ soi bóng. Tôi nâng ly rượu. Rum lóng lánh. Tôi nghĩ đến bản kết toán của tôi sáng hôm ấy ở xưởng sửa xe. Tôi đã buồn rầu chán nản. Tôi không còn buồn nữa. Tôi nhìn Koster. Tôi nghe anh trò chuyện với cô gái; nhưng tôi không ghi nhận những lời họ nói. Tôi cảm thấy hơi ấm ban đầu của cơn say làm nóng dần huyết quản và lan tỏa ảo giác phiêu lưu. Bên ngoài, Lenz và Binding đang hợp ca bài Argonnerwald. Cạnh tôi, người con gái chưa quen đang nói -- êm ái và chậm rãi, bằng một giọng trầm, kích thích, và hơi khàn đục. Tôi uống cạn ly.
    Hai người kia trở vào. Họ đã tỉnh rượu phần nào nhờ không khí thoáng mát. Chúng tôi chia tay. Tôi giúp nàng mặc áo khoác. Nàng đứng ngay trước tôi, đôi vai nhích khẻ để đón nhận chiếc áo, đầu hơi ngã ra sau và quay sang một bên, môi hé mở một nụ cười về phía trần nhà không dành cho ai cả. Tay tôi chùng xuống một giây. Mắt tôi để đâu suốt thời gian này cơ chứ? Tôi chợt hiểu sự nhiệt tình của Lenz.
    Nàng xoay nửa người lại, dò hỏi. Tôi lập tức nâng chiếc áo khoác lên và liếc nhìn Binding, đứng cạnh bàn ăn, đỏ hồng như quả anh đào và vẫn còn chút ánh đờ đẫn trong đôi mắt.
    "Cô có nghĩ anh ấy đủ tỉnh táo để lái xe không?" tôi hỏi.
    "Tôi tin là có."
    Tôi chăm chú nhìn nàng. "Nếu anh ấy không ổn mấy, một trong ba đứa tôi có thể đưa cô về."
    Nàng cầm hộp phấn lên và mở nấp. "Không sao đâu," nàng nói."Nếu uống một chút gì đó, anh ấy lái xe còn cừ hơn."
    "Lái cừ hơn, nhưng có thể không an toàn cho lắm," tôi trả lời.
    Nàng nhìn tôi qua bờ gương nhỏ.
    "Cầu trời cho mọi chuyện được bình an," tôi nói. Phản ứng của tôi có phần thái quá, bởi cách đứng của Binding cũng không tệ. Nhưng tôi muốn làm một điều gì đó để nàng đừng biến mất vào hư không.
    "Có thể nào tôi gọi điện cho cô, sáng mai không chừng, để hỏi thăm, được không?"
    Nàng không trả lời.
    "Tôi nghĩ chúng tôi cũng có lỗi một phần trong việc nhậu nhẹt say sưa này," tôi nài nỉ. "Đặc biệt là tôi, với rum mừng sinh nhật."
    Nàng cười. "Được rồi, nếu anh muốn. Western 2796."
    Tôi lập tức ghi lại con số và ra ngoài. Chúng tôi nhìn Binding lái đi và uống ly sau chót. Rồi chúng tôi tháo xích cho Karl. Nó phóng vun vút trong sương mù tháng Ba mỏng mảnh, gió bạt mạnh và hơi thở chúng tôi dồn dập; thành phố tiến gần, dữ dội trong đêm đen, và cuối cùng nổi bật lên trong bóng tối tù mù, như một con tàu đèn đuốc sáng choang vui nhộn, quán "The Bar." Chúng tôi đem Karl đến gần và thả neo. Cognac sáng bóng như vàng, gin long lanh như ngọc biếc và rum, tự nó đã là sự sống. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế cao ở quầy rượu; tiếng nhạc xập xềnh, nhịp đập của cuộc sống rõ và mạnh; nó kiêu hãnh đập trong tim chúng tôi; sự chán chường của những căn phòng bài trí tồi tàn đang chờ đợi, niềm tuyệt vọng của sự sinh tồn, tất cả đều được quên lãng; quày của quán "The Bar" là buồng lái của Thuyền Trưởng con tàu Cuộc Sống, và chúng tôi, một lần nữa lại ra khơi.

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 2


    Hôm sau là Chúa Nhật. Tôi ngủ nướng và chỉ dậy khi nắng rọi đến bên giường. Tôi nhanh nhẹn nhảy xuống và mở tung cửa sổ. Bên ngoài trời trong và tươi mát. Tôi đặt cái bếp cồn lên bệ cửa sổ và đem ra hộp cà phê. Frau Zalewski, bà chủ nhà, cho phép tôi được pha cà phê trong phòng. Cà phê của bà rất nhạt -- nhất là khi người ta đã say bí tỉ đêm trước.
    Tôi ở trọ nhà bà đã hai năm. Tôi ưa thích địa phương này. Lúc nào cũng có chuyện để làm, vì Phòng Thương Nghiệp, tiệm Café International và Salvation Army Barracks nằm gần nhau như môi với răng. Và ngay trước nhà trọ là một nghĩa trang cũ, không sử dụng nữa. Nhiều cây to bóng mát như ở công viên, và trong những đêm tỉnh mịch, ta có thể tường chừng đang ở thôn quê. Một mặt khác, thường thì phải đến khuya mới có sự yên lặng; vì ngay bên cạnh nghĩa trang là khu giải trí với các vòng ngựa gỗ và thuyền đu.
    Đối với Frau Zalewski, nghĩa trang là một tài sản đáng giá. Khi cho thuê phòng, bà thường ca tụng không khí trong lành và tầm nhìn thoáng đãng, và do đó ra giá cao lên. "Nhưng, thưa ông, hãy nghĩ đến lợi thế ấy!" là công thức bất di bất dịch của bà.
    Tôi chậm rải mặc y phục. Điều ấy cho tôi cảm giác lười lĩnh của ngày Chúa Nhật. Tôi rửa mặt; tôi thư thả đi quanh phòng, đọc báo, pha cà phê; tôi đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống đường; tôi lắng nghe tiếng chim hót trên đầu ngọn cây ở nghĩa trang đối diện -- những ống tiêu bạc bé bỏng của Thượng Đế, chúng ríu rít phụ họa cho tiếng phong cầm rền rĩ, êm đềm và buồn thảm ở Hội Chợ bên kia. Có khoảng nửa tá áo sơ-mi và vớ, nhưng tôi chọn thật kỹ, như thể tôi có nhiều gấp hai mười lần; vừa huýt sáo tôi vừa lộn trái các túi quần áo -- tiền lẻ, dao xếp, chìa khóa, thuốc lá -- và đây rồi, mẩu giấy có ghi tên và số điện thoại của cô gái. Patricia Hollmann -- một cái tên thánh hiếm gặp, Patricia. Tôi đặt tờ giấy xuống bàn. Có thật chuyện ấy mới xảy ra hôm qua? Dường như đã xa xôi lắm -- gần như đã quên lãng qua hơi rượu xám ngọc. Đó là điều đáng kể của việc chén chú chén anh; nó đưa người ta đến gần nhau rất nhanh, nhưng cũng làm cho khoảng cách giữa đêm và ngày hôm sau dài như những năm trường.
    Tôi nhét mẩu giấy dưới chồng sách. Tôi có nên gọi nàng không? Có lẽ có--mà cũng có lẽ không. Sáng hôm sau, ta thường nghĩ khác về những chuyện như thế. Tôi khá hài lòng, thực vậy, có được chút bình yên. Đã có đủ phiền toái trong những năm gần đây. Hãy giữ một khoảng cách an toàn, Koster thường nói. Nếu để cho một điều gì đó thân cận quá, ta sẽ muốn nắm giữ. Mà ta nào có thể giữ được một điều gì.
    Vào lúc ấy, sự thù ghét thường lệ của ngày Chúa Nhật bắt đầu ở phòng bên cạnh. Tôi đi tìm cái mũ, có lẽ đã cất kỹ ở một chỗ nào đó đêm qua, và nghe lõm câu chuyện của họ. Đó là Hasse và bà vợ đang lăng mạ lẫn nhau. Suốt năm năm trời, hai người chung sống trong một căn phòng nhỏ hẹp nơi đây. Họ không phải là người xấu. Nếu họ có một căn hộ ba phòng, với gian bếp cho người vợ và thêm một đứa trẻ, có lẽ cuộc hôn nhân của họ đã diễn biến tốt đẹp. Thế nhưng nguyên một căn hộ rất đắt tiền và một đứa trẻ trong thời buổi thiếu an ninh này -- làm sao có được! Cho nên họ đành sống vật vã ở đấy, bà vợ phát cuồng và ông chồng lúc nào cũng thắt thỏm lo bị mất việc. Nếu chuyện ấy xảy ra, đời ông sẽ tàn. Ông đã bốn mươi lăm tuổi. Không ai sẽ mướn, một khi ông bị sa thải. Thật là một bất hạnh thời đại -- trước đây người ta từ từ lắng chìm và luôn luôn vẫn có một cơ hội để ngoi lên -- thế nhưng trong thời buổi này, ở bờ xa bên kia của mỗi lần sa thải, vực thẳm không đáy thất nghiệp kinh niên lại há mõm đón chào.
    Tôi cố lẽn ra, nhưng có tiếng gõ cửa và Hasse thất thểu bước vào. Ông gieo mình xuống ghế. Ông là một người hiền lành với đôi vai xuôi và râu mép thưa. Một thư ký nhún nhường, siêng năng. Nhưng nay họ là những người kém may mắn nhất. Có lẽ luôn luôn là thế. Sự khiêm nhường và tính chuyên cần chỉ được tưởng thưởng trong tiểu thuyết. Ngoài đời, họ bị bóc lột rồi quẳng sang một bên.
    Hass dơ tay lên. "Có hai người ở văn phòng sẽ bị đuổi. Chắc tôi sẽ là người thứ nhất, cậu nghĩ xem, có phải không."
    Từ kỳ lương này đến kỳ lương sau, ông sống trong nỗi lo sợ ấy. Tôi rót cho ông một cốc rượu mạnh.Toàn thân ông run lẩy bẩy. Ta có thể đoán, một ngày nào đó ông sẽ ngã quỵ. Ông không còn một chút sức kháng cự nào.
    "Và lúc nào cũng là những câu đay nghiến này," ông khẻ nói.
    Bà vợ quy chụp trách nhiệm cho ông, hiển nhiên là thế, về cuộc đời của bà. Bà bốn mươi hai tuổi, da thịt hơi nhão và nhan sắc phai tàn, nhưng dĩ nhiên chưa đến mức tang thương như ông chồng. Bà bị bệnh kinh hoảng phút chót.
    Dính líu vào cũng chẳng ích gì.
    "Hasse này," tôi nói, "Ông cứ yên lặng ở chơi nơi đây cho tới khi nào cũng được. Tôi phải ra ngoài. Có cognac trong tủ áo, nếu ông muốn. Trong đấy cũng có rum nữa. Mấy tờ báo đây nhé. Rồi chiều nay, dẫn bà ấy đi dạo, chỗ nào cũng được, miễn là ra khỏi ngôi nhà này. Xem chiếu bóng. Không đắt tiền hơn vài giờ ở quán cà phê mà còn một chút gì lưu lại sau đó. Lời vàng ngọc của ngày hôm nay là hãy quên đi, đừng nung nấu trong lòng."
    Cửa phòng của họ vẫn mở. Người đàn bà khóc tỉ tê. Tôi đi dài trên hành lang. Căn phòng kế cửa khép hờ. Lắng nghe. Một vầng phấn hương lan tỏa. Erna Bonig, thư ký riêng, sống ở đấy. Quá sang trọng so với đồng lương của chị; nhưng mỗi tuần một ngày, xếp thường đọc văn thư cho chị chép đến sáng. Và hôm sau chị sẽ rất gắt gỏng. Bù lại, chị ra ngoài khiêu vũ mỗi đêm. Khi không khiêu vũ được nữa, chị sẽ không muốn sống làm gì, chị giải thích. Chị có hai người bạn. Một người yêu chị, tặng hoa cho chị. Người kia, chị yêu và đưa tiền cho hắn.
    Phòng kế bên thuộc Bá Tước Orlov, bậc thầy kỵ mã, người Nga lưu vong, hầu bàn, phụ diễn phim và điếm đực, râu hai bên má hoa râm. Thiên tài chơi ghi-ta. Mỗi đêm ông cầu nguyện Đức Mẹ Kasan ban cho một chân tiếp tân ở một khách sạn sang bậc nhất; và ông thường khóc khi say.
    Phòng kế. Frau Bender. Y tá ở viện nuôi trẻ mồ côi. Năm mươi tuổi; chồng chết trong chiến tranh; hai con chết vì suy dinh dưỡng, năm 1918. Có một con mèo tam thể. Con mèo duy nhất của cả nhà.
    Tiếp đó -- Muller, kế toán viên đã về hưu, biên tập cho tạp chí của một hội chơi tem. Một bộ sưu tập tem biết đi, không có gì khác hơn. Một người hạnh phúc.
    Tôi gỏ cánh cửa cuối cùng. "Này, Georg," tôi nói, "vẫn không có gì mới hả?"
    Georg Block lắc đầu. Anh ấy là sinh viên học kỳ thứ tư. Để đeo đuổi việc học, anh đã làm thợ mỏ trong hai năm. Hiện nay, số vốn dành dụm gần cạn; chỉ còn đủ tiền mua thực phẩm trong hai tháng. Anh không thể trở lại mỏ -- có quá nhiều công nhân mỏ thất nghiệp. Anh cố làm đủ nghề vặt để kiếm thêm. Có lần, anh dành nguyên một tuần giao hóa đơn cho một hảng sản xuất bơ thực vật, và rồi hảng phá sản. Ngay sau đó, anh tập tành bán báo và tưởng là dễ thở. Chỉ ba ngày sau, hai tay buôn có môn bài đã tấn công, xé bỏ tất cả báo của anh, và cảnh cáo anh không được để chúng thấy anh ở địa bàn của chúng thêm một lần nữa. Đủ lắm rồi, họ cũng chật vật như anh, nào có khác. Hôm sau anh lại đi, dù phải trả tiền cho số báo đã mất ngày trước. Một người lái mô tô tông phải anh, và báo văng tứ tung xuống bùn. Thế là đi đời thêm hai đồng mark. Anh cố gắng lần thứ ba, chỉ để về nhà với tấm áo khoác rách bươm và mặt mày sưng húp. Thế là anh bỏ cuộc. Nay anh ngồi nhà cả ngày trong tuyệt vọng, học như hóa rồ, như thể việc học có đưa đến một lợi ích nào. Anh chỉ ăn mỗi ngày một bửa. Thế nhưng hoàn tất việc học hay không cũng chẳng có gì khác biệt -- nếu như thi đỗ, ít nhất cũng phải mười năm anh mới hy vọng tìm được việc làm.
    Tôi đưa anh một bao thuốc lá. "Sao không bỏ cho rồi, hở Georgie? Tớ đã, như cậu biết. Sau này nếu muốn, ta học lại mấy hồi."
    Anh lắc đầu. "Không, nếu không kiên trì ta sẽ đánh mất những kỷ năng đã có. Tớ hiểu như thế, nhờ làm thợ mỏ. Tớ không thể làm việc ở mỏ một lần nữa."
    Gương mặt xanh xao, đôi tai vễnh to, ánh mắt cận thị ngây dại, thân hình tiều tụy, ngực lép kẹp-- lạy Chúa tôi!
    "Thôi thì chúc anh may mắn, Georgie."
    Và tiếp đến là nhà bếp. Đầu lợn lòi --quà của Zalewski, người quá cố. Điện thoại. Bóng tối nửa vời. Mùi ga và mỡ lâu ngày hăng hắc. Cửa mở vào hành lang, với nhiều danh thiếp gắn cạnh nút chuông. Danh thiếp của tôi, một trong số đó, ghi: Robert Lohkamp, sinh viên ban triết, bấm hai chuông dài. Tấm thiệp cáu bẩn và ố vàng theo thời gian. "Sinh viên ban Triết." Oách nhỉ. Ngày xưa, có như thế. Tôi xuống cầu thang, đi ra quán Café Internatiional.
    International là một lổ hổng dài, tối thui, tù mù khói thuốc, với nhiều phòng ở cuối nhà. Gần cửa ra vào, cạnh quày rượu là cây đàn dương cầm. Thật đáng buồn vì nó sai giọng, có nhiều dây chùng và long mất vài phím trắng. Nhưng tôi rất mến nó vì tất cả những khiếm khuyết ấy. Nó là con ngựa già tàn tật, đã chia sẻ ít nhất một năm của cuộc đời tôi, bởi đây là chỗ tôi được thuê để chơi đàn.
    Các gian phòng phía sau, những tay chăn gia súc thỉnh thoảng tụ tập ở đó, cũng như khách vãng lai từ công viên giải trí. Các cô gái điếm thường ngồi gần cửa.
    Phòng rượu vắng tanh, trừ Alois, người bồi có gan bàn chân phẳng dẹp, đứng sau quày. "Như thường lệ?" anh hỏi.
    Tôi gật đầu. Anh mang đến một cốc rum. Tôi ngồi xuống bàn và nhìn mông lung vào khoảng không trước mặt. Một dãi ánh sáng xám rọi xéo qua ô cửa sổ trên cao, phản chiếu trên những chai rượu mạnh cài trên giá. Brandy anh đào lấp lánh như hồng ngọc.
    Alois tiếp tục tráng rửa ly cốc. Con mèo của bà chủ quán rù rù trên mặt dương cầm. Tôi chậm rãi rít mấy hơi thuốc. Không khí làm cho người ta ngầy ngật... Hôm qua, cô ấy có giọng nói đặc biệt làm sao! Hơi khàn một chút, có lẽ thế, nhưng mà, cũng dịu dàng.
    "Đem cho chúng tôi mấy tờ báo, Alois," tôi nói.
    Cửa mở kẻo kẹt. Rosa bước vào. Rosa, cô gái điếm ở nghĩa trang, còn được gọi là "con ngựa sắt" -- tên thân mật mô tả tính bất khuất của chị. Chị ấy đến, như thói quen mỗi sáng Chúa Nhật, uống một cốc sô-cô-la. Sau đó, chị sẽ đi Burgdorf thăm con.
    "Chào em, Robert."
    "Chào Rosa. Con gái chị khỏe không?"
    "Chút nữa sẽ biết. Đây --nhìn cái này." Từ một bọc giấy, chị rút ra một con búp bê má đỏ hây hây, và lấy tay ấn lên bụng nó. "Mama," con búp bê thỏ thẻ, nét mặt Rosa bừng sáng.
    "Hay nhỉ," tôi nói.
    "Đã xong đâu, đợi đấy," chị ngửa con búp bê ra sau. Đôi mắt nó cụp lại, một tiếng 'cách' vang lên khe khẻ.
    "Ơ, em không ngờ!"
    Rosa sung sướng, sẳn sàng gói con búp bê lại. "Robert, em hiểu những việc này. Chị có thể thấy. Một ngày nào đó, em sẽ là một người cha tốt."
    "Chị nghĩ thế à?" tôi nói, hoài nghi.
    Rosa hết lòng sống vì con. Cho đến ba tháng trước đây, khi con bé chưa biết đi, chị còn giữ nó trong phòng. Chị có thể làm được điều ấy, mặc dù nghề nghiệp của mình, nhờ khéo sử dụng một tủ áo nhỏ kế bên phòng chị. Đêm đêm khi trở về với người tình, chị thường viện một lý do nào đó để hắn chờ bên ngoài, trong khi chị vào nhà, hộc tốc đẩy xe em bé vào trong tủ áo, đóng lại; rồi quay ra đón khách. Nhưng trong tháng Mười Hai, con bé thường bị đẩy từ căn phòng ấm của mẹ vào tủ áo không sưởi, nên nhiễm lạnh và khóc toáng vào những lúc mẹ nó cần tiếp khách.
    Rất khó khăn cho Rosa xa rời con. Chị gửi nó ở một nhà trẻ đắt tiền, nơi ấy chị đóng vai một bà góa đáng kính-- nếu người có thẩm quyền biết sự thật, họ không đời nào chấp nhận đứa trẻ.
    Rosa đứng lên. "Thứ Sáu em đến, chắc nhé?"
    Tôi gật đầu.
    Chị nhìn tôi. "Em biết lý do, phải không?"
    "Tất nhiên."
    Tôi không có một ý niệm nào; nhưng tôi không hỏi. Đánh đàn chỗ ấy trong năm đó, tôi có quy tắc của mình. Như thế là tốt nhất. Cùng một nguyên tắc, tôi đối xử với tất cả các cô gái bằng một thái độ thân thiện như nhau. Tôi không thể làm khác hơn, ở vị thế của mình.
    "Au revoir, Robert."
    "Cheerio, Rosa."
    Tôi nán lại một lúc. Với tôi, International gần như là chỗ nghĩ ngơi thanh tẩy, thế nhưng hôm nay, vì một lý do nào đó, tôi không đạt được trạng thái mơ màng bình yên thường có những ngày Chúa Nhật. Tôi uống thêm một ly rum, vuốt ve con mèo và bỏ đi.
    Cả ngày tôi rong ruỗi khắp thành phố. Tôi không biết vì sao tôi cảm thấy bất an. Tôi bức rức không dừng lại một chỗ nào đủ lâu. Buổi chiều sắp tàn, tôi ghé xưởng sửa xe. Koster đang cắm cúi với chiếc Cadillac. Cách đây không lâu, chúng tôi mua nó với giá rẻ như bèo. Nó đã được tu sửa toàn diện và Koster sắp tô điểm những nét chấm phá cuối cùng. Đó là một sự đầu tư liều lĩnh. Chúng tôi hy vọng sẽ có lời, nhưng tôi không chắc tìm được người mua. Trong thời buổi khó khăn, người ta thường muốn xe nhỏ, không phải một chiếc to kềnh thế này.
    "Tớ sợ mình sẽ kẹt với nó, Otto," tôi nói.
    Nhưng Koster đầy hy vọng. "Chính xe cở trung mới bị kẹt, Bob ạ," anh giải thích. "Có thị trường cho loại xe rẻ tiền, và cũng có thị trường cho loại xe hạng sang. Vẫn còn rất nhiều người giàu có; hoặc những người thích phô trương."
    "Gottfried đâu rồi?" tôi hỏi.
    "Đi họp chính chị, chính em."
    "Cái ông điên. Thế anh ấy muốn gì ở những nơi đó?"
    Koster cười lớn. "Tớ nghĩ, anh ấy cũng chẳng biết. Một chút mùa xuân khơi động bầu nhiệt huyết. Và hẳn là anh ấy luôn luôn chơi trò đuổi bắt những điều mới lạ."
    "Có lẽ thế," tôi nói. "Cậu có cần tớ làm gì không?"
    Chúng tôi hí hoáy với chiếc xe cho đến khi trời tối không thấy gì được nữa. "Tớ nghĩ như thế đủ rồi, ta về thôi," Koster nói. Chúng tôi gột rửa dầu mỡ. "Đố cậu, tớ có cái gì đây," anh nói, vỗ vào cái ví da trong túi.
    "Ai mà biết."
    "Vé xem đấu quyền Anh tối nay. Hai vé. Đi nhé?"
    Tôi ngần ngừ. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên.
    "Stilling so găng với," anh nói, "Walker. Một trận gay cấn đấy."
    "Cậu đi với Gottfried đi," tôi đề nghị, cảm thấy mình là thằng khờ vì không đi xem đấu võ. Nhưng không hiểu sao, tôi chẳng thấy tha thiết.
    "Cậu có sao không?"
    "Không."
    Anh nhìn tôi.
    "Chắc tớ về nhà," tôi nói. "Cần viết thư và làm vài thứ lặt vặt. Đôi khi ta phải ..."
    "Cậu không bệnh chứ?" anh hỏi, lo lắng.
    "Không bệnh một tị nào. Có lẽ, cũng có một chút xuân thì khơi lòng nao nức."
    "Thôi được. Tùy cậu."
    Tôi rảo bước về nhà. Một lần nữa, tôi ngồi trong phòng và không nghĩ ra được điều gì muốn làm. Tôi đứng dậy, bước loanh quanh. Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao tôi muốn về. Cuối cùng, tôi bước ra hành lang, ghé thăm Georg. Trên lối đi, tôi chạm mặt Frau Zalewski.
    "Chèng đéc ơi!" bà nói, ngạc nhiên. "Cậu đấy à?'
    "Làm sao chối được," tôi nói, hơi bực mình.
    "Không lông nhông ở ngoài đường!"" Bà lúc lắc mái tóc bạc uốn lọn. "Một kỳ quan, trong những kỳ quan!"
    Tôi không ở chơi lâu với Georg. Mười lăm phút sau tôi đã quay về. Tôi lưỡng lự, không biết có nên uống một cốc rượu hay không. Tôi không thấy thèm. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngắm nhìn đường phố.
    Hoàng hôn buông nhanh xuống những cánh dơi chấp chới bên kia nghĩa trang. Nền trời phía sau Phòng Thương Nghiệp xanh như màu táo non. Đèn đường đã thắp, dù trời chưa tối hẳn -- trông chúng như đông đá. Tôi lần tay dưới chồng sách, tìm mảnh giấy có ghi số điện thoại. Cuối cùng rồi . . . Gọi điện thoại chắc cũng không hại gì. Dù sao đi nữa, hầu như tôi đã hứa. Vả lại, không chừng cô ấy vắng nhà.
    Tôi bước ra hành lang, chỗ có điện thoại, cầm ống nghe và gọi tổng đài. Trong lúc chờ đợi, tôi cảm thấy một cảm giác hy vọng dễ chịu trào dâng và ứa ra ở đầu cái ống nghe màu đen. Nàng có nhà. Rồi khi một giọng nói rất trầm và hơi khàn đột nhiên cất lên như bóng ma trong mùi mỡ và tiếng bát đĩa lanh canh từ phòng khách của Frau Zalewski -- một giọng nói từ tốn, như nghĩ ngợi từng chữ -- tất cả nỗi niềm băn khoăn của tôi tan biến. Tôi gác ống nghe, sau khi đã hẹn gặp nàng vào ngày mốt. Thình lình, cuộc đời dường như không còn vô nghĩa nữa. "Mình điên thật," tôi nghĩ, lắc đầu.
    Rồi tôi lại cầm ống nghe lên và gọi Koster.
    "Otto, cậu còn dư vé không ?"
    "Còn."
    "Tốt lắm. Vậy tớ đi."
    Sau đó, chúng tôi lang thang rất lâu trong thành phố. Những con đường, dù sáng sủa, nhưng hoang vắng. Bảng hiệu neon và đèn ở các cửa hàng thắp lên vô ích. Những tượng sáp bên trong cửa sổ một gian hàng, đầu tô vẽ, phô mình trần trụi. Trông chúng ma quái và bệnh hoạn. Nữ trang lấp lánh trong cửa kính gian hàng kế bên. Rồi một tiệm bách hóa, sáng choang, trắng lốp, nổi bật như giáo đường, tơ lụa màu sắc tươi vui như bọt biển trong cửa kính. Nhiều tượng người xanh xao, hao gầy dựng trước một rạp chiếu phim; và dọc theo đó, một cửa hàng thực phẩm phô bày sự huy hoàng của nó: trái cây đóng hộp chất cao như tháp, đào tiên nằm trong vĩ lót, ngỗng béo xỏ trên dây như phơi quần áo, các ổ bánh mì nâu xếp giữa thịt nguội và xúc xích gia vị cầu kỳ, và, ở trung tâm tất cả, pa-tê gan và cá hồi cắt lát, hồng mượt và vàng mơ.
    Chúng tôi ngồi trên ghế, gần công viên. Đêm mát lạnh và trăng treo như một ngọn hồ quang trên những nóc nhà. Đã quá nửa đêm. Công nhân sửa đường xe điện dựng lều trên mặt đường đá gần đó. Ống bễ rên xiết thổi và hoa lửa bắn như mưa xuống những bóng người lom khom, trịnh trọng. Bên cạnh đó, nồi nhựa đường tỏa khói như một cái bếp dã chiến.
    Chúng tôi đắm chìm trong suy tư.
    "Khá lạ kỳ cho một ngày Chúa Nhật, Otto nhỉ?"
    Koster gật đầu.
    "Ta hài lòng vì nó đã chấm dứt," tôi trầm ngâm nói.
    Koster nhún vai. "Có lẽ một khi ta đã quen sống trong khuôn khổ, nếu có một chút tự do, ta sẽ cảm thấy khó chịu."
    Tôi bẻ cao cổ áo khoác. "Chẳng nói lên gì mấy cho cuộc đời của chúng ta, Otto."
    Anh nhìn tôi, mỉm cười. "Lại càng ít có gì để nói, chỉ mới vài năm trước thôi, Bob."
    "Đúng," tôi đồng ý. "Tuy thế . . ."
    Máy khoan lực xịt thứ ánh xanh lục chói gắt xuống mặt đường nhựa. Lều công nhân, với ánh đèn lung linh bên trong, như một miền quê nhỏ bé, ấm cúng.
    "Theo cậu, thứ Ba này chiếc Cadillac sẳn sàng chưa?" tôi hỏi.
    "Có lẽ," Koster nói. "Sao cậu hỏi?"
    "Tớ chỉ thắc mắc . . ."
    Chúng tôi đứng dậy và quay về nhà. "Tớ có phần gắt gỏng tối nay, Otto," tôi nói.
    "Ai cũng thỉnh thoảng bị như thế," Koster nói. "Ngủ ngon nhé, Bob."
    "Tạm biệt, Otto."
    Trong phòng mình tôi tiếp tục ngồi thêm một lúc. Bỗng nhiên tôi không còn ưa thích chỗ này nữa. Ngọn đèn chùm trên trần -- xấu xí ghê gớm-- ánh sáng chói mắt; và những ghế bành, vải bọc đã mòn xơ xác; nhựa lót nền nhà, trông ảm đạm nghèo nàn; bồn rửa tay -- ta không thể mời một người đứng đắn đến đây, tôi nghĩ. Phụ nữ, chắc chắn không. Cùng lắm, một cô gái làng chơi từ quán International mà thôi.

  • #2
    Erich Maria Remarque Chiến hữu Chương 3

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 3


    Sáng thứ Ba chúng tôi ngồi ở sân trong, ngay trước xưởng sửa xe, dùng điểm tâm. Chiếc Cadillac đã sửa xong xuôi. Lenz cầm một tờ giấy, nhìn chúng tôi đắc thắng. Là 'quản đốc phụ trách quảng cáo' cho xưởng, anh vừa đọc cho chúng tôi nghe mẩu rao vặt bán xe do chính anh soạn. Bắt đầu với dòng chữ "Sang trọng. Hãy du lịch miền Nam nắng ấm," nó là một pha tạp giữa một bản tình ca và thánh ca.
    Koster và tôi im thin thít. Ta cần thời gian để hồi phục sau một cơn lũ văn chương hoa gấm như thế. Lenz lại tưởng nhầm chúng tôi đã bị chinh phục.
    "Vừa thơ mộng vừa mạnh mẽ, hén?" anh nói, hãnh diện. "Trong thời kỳ thực dụng, cần phải lãng mạn, bí quyết nằm ở chỗ đó. Những cực đối lập hấp dẫn nhau."
    "Không đúng, khi tiền bạc dính dáng vào," tôi đáp.
    "Người ta không mua xe để tiết kiệm, em ơi," Gottfried giải thích, giọng kẻ cả. "Họ mua xe để đầu tư; và đó là lúc mà, với các doanh nhân, cái lãng mạn tình tứ bắt đầu nảy nở, bất kể ra sao chăng nữa. Còn với phần lớn công chúng, nó tắt ngúm ở đấy. Otto, cậu nghĩ sao?"
    "Ơ, cậu biết là --" Koster thận trọng bắt đầu.
    "Đừng phí thời gian bàn cãi, Otto," tôi chêm vào. "Đó là thứ rao vặt dành cho những miền sông nước hay cho kem dưỡng da, không phải cho xe hơi."
    Lenz há mồm.
    "Gượm đã," tôi tiếp tục. Cậu nghĩ tụi này có thành kiến chứ gì. Tớ đề nghị thế này -- hãy hỏi Jupp. Ba người sẽ có tiếng nói đa số."
    Jupp là nhân viên duy nhất của chúng tôi, một thiếu niên mười lăm tuổi, giống như thợ tập việc. Thằng bé phụ trách việc bơm xăng, mua thức ăn sáng cho chúng tôi, và dọn dẹp ga-ra buổi tối. Jupp có thân hình nhỏ nhắn, đầy tàn nhang, và đôi tai to nhất tôi từng thấy trong đời. Koster tuyên bố, nếu có bao giờ Jupp bị rơi khỏi máy bay, nó sẽ không hề hấn gì. Đôi tai sẽ giúp nó lượn theo gió, đáp xuống đất an toàn.
    Chúng tôi gọi thằng bé đến. Lenz đọc cho nó nghe mẩu rao vặt.
    "Em có thích mua một chiếc xe như thế không, hở Jupp?" Koster hỏi.
    "Một chiếc xe?" Jupp hỏi.
    Tôi cười to. "Dĩ nhiên, một chiếc xe," Lenz gầm lên. "Thế em nghĩ đó là cái gì, một con hà mã hay sao?"
    "Nó có bộ sang số phối hợp, bánh đà thủy lực và thắng hơi không?" Jupp hỏi, không chùn bước.
    "Ngốc tử, đương nhiên đó là chiếc Cadillac của chúng ta," Lenz khịt mũi.
    "Anh có nói thế bao giờ!" Jupp trả đũa, cười toe toét tận mang tai.
    "Gottfried, cậu thấy rồi." Koster nói. "Đó là tính lãng mạn thời hiện đại."
    "Trở về bơm xăng đi, Jupp, thằng quỷ sứ thế kỷ hai mươi."
    Cầu nhầu, Lenz lại biến vào trong văn phòng -- thêm thắt vài chi tiết kỷ thuật đủ để tương thích và bảo toàn ý thơ tình tứ của mẩu rao vặt.
    Vài phút sau, Thanh Tra Barsig xuất hiện ở cổng sân trong. Chúng tôi đón tiếp ông cực kỳ tôn kính. Ông là kỹ sư và nhân viên kiểm tra cho hãng Bảo Hiểm Phượng Hoàng -- một người có ảnh hưởng quan trọng tới việc chúng tôi được giao xe để sửa hay không. Chúng tôi có quan hệ tốt với ông. Là một kỹ sư, ông không để thứ gì lọt khỏi cặp mắt cú vọ tinh tường của mình. Thế nhưng với tư cách một người sưu tập bướm, ông mềm như cọng bún thiu. Ông có một bộ sưu tập phong phú, và có lần chúng tôi cho ông một con bướm đêm lớn một hôm bay lạc vào xưởng. Khi chúng tôi đưa nó ra, mặt ông tái xanh vì xúc động. Đó là con bướm đầu lâu, rõ ràng rất hiếm quý, mà ông vẫn hằng ao ước. Ông không bao giờ quên được điều ấy, và từ đó trở đi, luôn luôn tìm cách cho chúng tôi được chia việc theo đúng lẽ công bằng. Để đổi lại, chúng tôi bắt cho ông bất kỳ con bướm đêm nào trong tầm tay.
    "Một ly vermouth nhé, Herr Barsig?" Lenz, vừa mới nhú đầu ra, lễ phép hỏi.
    "Không uống rượu trước khi trời tối," Barsig trả lời. "Đó là nguyên tắc nghiêm nhặt của tôi."
    "Nguyên tắc cốt để phá vỡ, hoặc sẽ không có niềm vui," Lenz trả lời, vừa rót rượu vào ly. "Vì tương lai của bướm đêm phi ưng-thủy lạp, bướm lông công, và bướm đốm."
    Barsig ngần ngừ trong một thoáng.
    "Các bạn đã nói thế, làm sao tôi từ chối được," ông nói, nhận lấy ly rượu. "Nhưng trong trường hợp ấy, chúng ta cũng phải uống mừng tiểu bạch cúc." Ông cười ra vẻ ngượng nghịu. "Các bạn sẽ hài lòng khi biết, tôi đã khám phá được một loài bướm mới. Râu có lông tơ như lược."
    "Trời đất ơi!" Lenz kêu to. "Hoan nghinh! Vậy nay ngài là một người tiên phong và sẽ lưu danh hậu thế!"
    Chúng tôi cạn thêm một ly nữa, mừng loài bướm với cặp râu lược. Barsig lau bộ râu mép.
    "Tôi cũng có tin mừng cho các bạn. Đến đấy, mang chiếc xe Ford về. Cấp trên đã chấp thuận cho các bạn."
    "Tốt quá," Koster nói. "Chúng tôi sẽ làm. Còn tiền ước lượng thì sao ạ?"
    "Cũng duyệt xong."
    "Không bị cắt giảm?"
    Barsig nheo một mắt. "Ban đầu có vẻ khó khăn một chút. Nhưng cuối cùng thì . . ."
    "Một ly nữa mừng Công ty Bảo hiểm Phượng Hoàng," Lenz nói, rót thêm một đợt nữa.
    Barsig đứng lên.
    "Một nghề nghiệp kỳ quặc," ông nói trong khi ra về.
    "Các bạn nhớ người đàn bà trong chiếc xe Ford chứ? Bà ấy chết cách đây mấy hôm. Vết thương rất nhẹ và cạn. Rõ ràng chết vì mất máu."
    "Bà ấy được bao nhiêu tuổi ạ?" Koster hỏi.
    "Ba mươi bốn," Barsig trả lời; "và có mang bốn tháng. Bảo hiểm nhân thọ trị giá hai mươi ngàn marks."
    Chúng tôi lập tức đi lấy hàng, xe của người chủ tiệm bánh. Ông ta lái xe khi đã ngà hơi men và tông vào một bức tường trong đêm. Người vợ bị thương, nhưng ông ta chỉ trầy trụa qua loa mà thôi.
    Ông ta nhìn vào ga-ra khi chúng tôi chuẩn bị kéo xe. Đôi vai ú nụ, cổ bò mộng, đầu hơi chúi nghiêng tới trước. Ông ta quan sát chúng tôi một lúc lâu nhưng chẳng nói lời nào. Với gương mặt tai tái, kém sức khỏe của những người thợ nướng bánh, trong bóng tối lờ mờ, ông ta giống một con mọt gạo khổng lồ buồn thảm. Ông ta uể oải đến gần.
    "Chừng nào thì xong?" ông ta hỏi.
    "Khoảng ba tuần," Koster trả lời.
    Ông ta chỉ vào mui xe: "Dĩ nhiên gồm cả món này, phải không?"
    "Tôi không hiểu," Otto nói. "Tôi không thấy nó hỏng chỗ nào."
    Ông chủ tiệm bánh làm một cử chỉ nóng nảy. "Tôi có nói nó hỏng đâu. Ý của tôi là, tôi muốn thay cái mới. Theo tôi biết, các cậu có một mối hời, phải không? Chúng ta hiểu nhau quá mà, tôi nghĩ thế?"'
    "Chẳng hiểu một ly ông cụ nào," Koster nói.
    Anh thừa hiểu quá đi chứ. Ông ta muốn một cái mui xe mới mà chúng tôi, không phải công ty bảo hiểm, phải đài thọ. Chúng tôi dằng co một lúc, nhưng ông ta dọa sẽ hủy hợp đồng, đi tìm một xưởng khác ngoan ngoãn hơn. Cuối cùng, Koster đành nhượng bộ. Anh không bao giờ làm vậy, nếu chúng tôi không cần việc làm một cách khẩn thiết thế này.
    "Các cậu thấy chưa, sao không thỏa thuận ngay từ đầu?" ông chủ tiệm bánh nói, nụ cười quỷ quyệt. "Vài hôm nữa, tôi sẽ quay lại chọn chất liệu. Màu kem, tôi nghĩ. Màu êm dịu."
    Chúng tôi lái đi. Khi ra khỏi nơi ấy, Lenz trỏ vào nệm xe Ford. Có các vết bẩn to và đen sẩm. "Máu của bà vợ lão hãy còn đấy. Thế mà lão ta bắt chẹt cho bằng được một tấm mui mới! 'Màu kem," Chúa ơi! "Màu êm dịu'! Tớ phải ngã mũ bái phục! Tớ nghĩ lão ta dám đòi tiền bảo hiểm của hai mạng người lắm cơ. Barsig nói vợ lão ta đang có bầu, phải không?"
    Koster nhún vai. "Tớ đoán, lão sẽ nói, buôn bán là buôn bán, và chuyện này không liên hệ gì tới chuyện kia."
    "Có lẽ thế," Lenz nói, "nhưng cậu biết đấy, nhiều người có thể rút rỉa lợi lộc từ những niềm bất hạnh. Dù sao chăng nữa, chúng mình cũng sắp mất toi năm mươi đồng mark."
    Buổi chiều, tôi viện lý do để về sớm. Tôi có một cái hẹn với Patricia Hollman vào khoảng năm giờ, nhưng tôi không nói cho một ai ở xưởng sửa xe biết. Không phải tôi muốn dấu; nhưng bỗng dưng tôi cảm thấy chuyện ấy khó thành.
    Nàng cho tôi địa chỉ một quán cà phê. Tôi chưa bao giờ vào quán ấy; tôi chỉ biết đó là một cơ ngơi nhỏ và lịch sự. Không một chút nghi ngờ, tôi đi vào. Nhưng tôi giật mình kinh hoàng ngay khi bước qua cửa. Phòng đông nghẹt đàn bà con gái trò chuyện huyên thiên. Tôi đã lạc vào một quán trà tiêu biểu của nữ giới. Với một chút khó khăn, tôi cũng dành được một bàn trống. Tôi khổ sở nhìn quanh. Ngoài tôi ra, chỉ có hai người đàn ông khác và tôi không thích bề ngoài của họ.
    "Cà phê, trà hay sô-cô -la?" người bồi bàn hỏi trong lúc lấy khăn phủi những mẩu bánh vụn trên mặt bàn xuống áo tôi.
    "Một ly cognac lớn," tôi đáp.
    Hắn mang đến, cùng với một đám người, dẫn đầu bởi một bà dáng dấp lực lưỡng khó đoán tuổi, đầu đội một cái mũ tang thương.
    "Bốn người? Xin đi lối này," hắn nói, và chỉ về phía bàn tôi.
    "Khoan đã --" tôi nói. "Bàn này không còn trống. Tôi đang chờ một người."
    "Không được, thưa ông," người bồi bàn nói. "Không thể để dành chỗ vào giờ này."
    Tôi nhìn hắn. Rồi nhìn bà lực sĩ đứng cạnh bàn, tay bấu chặt thành ghế. Nhìn nét mặt của bà, tôi đành từ bỏ tất cả những ý định đối kháng. Nếu không có một bộ súng đại bác tầm gần, đừng ai hòng cản trở người đàn bà đang cương quyết chiếm hữu cái bàn này.
    "Dẫu sao, mang cho tôi một ly cognac nữa, hén?" tôi hậm hực nói với anh bồi.
    "Vâng, có ngay. Một ly to nữa?"
    "Một ly thật to, như thế này!"
    "Dĩ nhiên, thưa ông." Hắn cúi chào. "Bàn này đủ cho sáu người, ông biết đấy," hắn nói, ra vẻ hối lỗi.
    "Được rồi. Chỉ cần mang cognac ra."
    Bà lực sĩ có vẻ cũng là hội viên của hội bài trừ rượu. Bà gườm gườm nhìn ly rượu mạnh của tôi, như thể đó là một con cá ương sình. Để chọc tức bà, tôi gọi thêm một ly nữa và dương mắt nhìn lại. Bỗng nhiên tôi thấy mọi thứ đều vô lý. Tôi muốn gì ở đây nhỉ? Và tôi muốn gì với nàng? Tôi cũng không biết trong không khí náo nhiệt này, liệu tôi có thể nhận ra nàng hay không.
    Bực dọc, tôi nốc cạn ly cognac.
    "Salut," ai đó đàng sau tôi, lên tiếng.
    Tôi giật nẩy mình. Nàng đứng đấy, cười. "Anh bắt đầu thưởng thức rồi đấy à."
    Tôi đặt cốc rượu trong tay xuống bàn. Bỗng dưng tôi bối rối. Nàng khác hẳn với hình ảnh trong trí nhớ của tôi. Giữa đám đàn bà béo tốt phục phịch ở quán cà phê, trông nàng như một cô gái rừng núi Amazon, thon thả, điềm tỉnh, tươi tắn, vững vàng và ngoài tầm tay với.
    "Nơi này không bao giờ thích hợp với chúng ta," tôi nghĩ bụng, và nói: "Và cô từ đâu xuất hiện một cách bí ẩn thế? Tôi liên tục canh chừng cửa ra vào mà."
    Nàng chỉ qua bên phải. "Có một cái cửa ở đấy nữa. Nhưng tôi tới trễ. Anh có chờ lâu không?"
    "Không lâu chút nào. Giỏi lắm là hai hay ba phút. Tôi cũng vừa đến."
    Câu lạc bộ cà phê ở bàn đã im bặt. Tôi có cảm giác cái nhìn của bốn bà cố nội tỉnh như sáo đang dán sát vào lưng. "Cô muốn ngồi lại đây không?" tôi hỏi.
    Nàng liếc mắt quan sát những người chung bàn. Nàng cắn môi. Nhìn tôi với vẻ thú vị, nàng nói, "Tôi e là, quán cà phê nào cũng như nhau."
    Tôi lắc đầu. "Những quán vắng tốt hơn chứ. Chỗ này là cái hang quỷ, gây cho người ta cảm giác sút kém. Chúng ta đến bar rượu có lẽ hay hơn."
    "Bar rượu? Thế có tiệm rượu mở cửa lúc ban ngày ban mặt à?"
    "Tôi biết một tiệm," tôi nói. "Ở đó lúc nào cũng yên tỉnh. Nếu cô thích --"
    "Ô, tôi thích?"
    Tôi nhìn nàng. Trong một thoáng, tôi không hiểu ý nàng. Tôi không ghét những lời cay đắng mỉa mai nếu nó không nhắm vào tôi; thế nhưng, tôi luôn luôn có mặc cảm.
    "Được thôi, mình đến đấy," nàng nói.
    Tôi ra hiệu cho người bồi bàn. "Ba ly cognac lớn," ông ta quang quác như một con chim báo điềm gở muốn thanh toán vấn đề với khách nằm dưới mộ. "Ba đồng rưỡi."
    Nàng quay lại. "Ba ly cognac trong ba phút? Giỏi thế."
    "Có hai ly ngày hôm qua," tôi vội vàng thanh minh.
    "Đồ láo khoét!" bà lực sĩ ở bàn sau lưng, rít lên. Bà ấy nhịn từ nãy giờ đã lâu.
    Tôi quay lại và cúi chào. "Giáng Sinh vui vẻ, các bác." Rồi tôi chuồn ngay lập tức.
    "Anh đã cãi nhau với họ à?" nàng hỏi, khi chúng tôi ra khỏi quán.
    "Không hẳn thế. Tôi chỉ có ảnh hưởng không thuận lợi với các bà, trong vài trường hợp đặc biệt."
    "Tôi cũng thế," nàng đáp.
    Tôi nhìn nàng. Với tôi, nàng như đến từ một thế giới khác. Tôi hoàn toàn không hình dung nỗi nàng như thế nào và sống ra sao, ở nơi đấy.
    Trong bar rượu, vị thế của tôi vững vàng hơn. Khi chúng tôi bước vào, Fred, người pha rượu, đang đứng phía sau quầy chùi bóng cái ly rót cognac lớn. Anh chào tôi như thể mới gặp lần đầu, như thể anh không phải là người đã đưa tôi về nhà, chỉ mới hai đêm trước. Anh được đào tạo từ một trường dạy nghề giỏi, và anh giàu kinh nghiệm.
    Phòng vắng tanh chỉ trừ một bàn, như thường lệ, nơi Valentin Hauser ngồi. Tôi quen anh trong thời chiến; chúng tôi cùng chung một đại đội. Có lần anh đem ra tận tiền tuyến một lá thư mà anh nghĩ là của mẹ tôi. Anh biết tôi đang trông tin, vì mẹ tôi vừa trải qua một cuộc giải phẩu. Nhưng anh nhầm --nó chỉ là tờ quảng cáo cho một thứ nón ấm dệt bằng sợi tầm gai. Trên đường về, anh bị thương ở chân.
    Sau khi chiến tranh chấm dứt không lâu, Valentin được thừa kế một gia tài nhỏ và anh nhậu nhẹt lu bù từ đấy. Anh coi đó là bổn phận, uống để mừng vận may đã giúp anh sống sót trong chiến tranh. Anh không cần biết là đã nhiều năm trôi qua. Không ai có thể ăn mừng cho đủ, anh thường nói. Anh là một trong những người lưu giữ một ký ức siêu phàm về cuộc chiến. Những người khác đã quên hầu hết; nhưng anh còn nhớ mồn một, từng ngày, từng giờ.
    Tôi nghĩ anh uống đã khá nhiều, vì anh ngồi trong góc riêng, xa xôi, chìm lắng. Tôi dơ tay chào.
    "Salut, Valentin."
    Anh ngước lên và gật đầu. "Salut, Bob."
    Chúng tôi chọn một góc phòng. Người pha rượu đến gần.
    "Cô uống chi?" tôi hỏi.
    "Một ly Martini, có lẽ," nàng đáp. "Martini không đá."
    "Fred là chuyên viên về chuyện ấy," tôi nói.
    Fred tự cho phép mình nở một nụ cười.
    "Còn phần tôi, như thường lệ," tôi nói.
    Quán lạnh và tối, thoang thoảng mùi gin và cognac vương vãi đâu đây -- một mùi giống mùi rễ đỗ tùng và bánh mì. Một mô hình thuyền buồm bằng gỗ treo trên trần. Vách tường phía sau quầy được bọc đồng. Ánh sáng mờ ảo ở một giá đèn hắt sắc đỏ lên lớp vách đồng như thể một đám cháy ngầm đang lung linh soi bóng. Trong số các giá đèn nhỏ bằng sắt trên vách, chỉ có hai ngọn sáng hơn -- một ngọn gần Valentin và ngọn kia, gần chúng tôi. Chụp đèn bằng da mỏng làm từ bản đồ cũ và trông như những giải đất hẹp của địa cầu được chiếu sáng.
    Tôi ngượng ngập, không biết bắt đầu câu chuyện ra sao. Gần như tôi chẳng biết gì về nàng, và càng nhìn nàng, tôi càng thấy lạ lẫm. Đã từ lâu, tôi không kết giao với ai; tôi không còn thành thạo nữa. Tôi chỉ quen đàn đúm với đám bạn trai. Mới đây thôi, tiệm cà phê quá ồn ào -- và bây giờ ở đây, thình lình bỗng quá yên tỉnh. Không khí lắng đọng làm tăng trọng lượng từng con chữ khiến ta ngại ngùng không dám hé môi. Tôi ao ước phải chi tôi đang ở quán cũ...
    Fred mang rượu đến, và chúng tôi nâng ly. Rum nồng đậm và có hương vị nắng mới. Điều đó đáng kể đấy chứ. Tôi cạn ly và lập tức gọi thêm.
    "Cô thích chỗ này không?" tôi hỏi.
    Nàng gật đầu.
    "Hay hơn tiệm bánh ngọt phải không?"
    "Tôi ghét tiệm bánh ngọt," nàng nói.
    "Thế tại sao chúng ta lại gặp ở đấy, thay vì những chỗ khác?" tôi ngạc nhiên hỏi.
    "Tôi không biết." Nàng bỏ nón xuống. "Tôi chẳng nghĩ ra nơi nào khác."
    "Cô thích chỗ này lại càng tốt. Chúng tôi thường đến đây. Vào buổi tối, hầu như nơi này là nhà của chúng tôi."
    Nàng mỉm cười. "Chẳng phải như thế đáng thương lắm sao?"
    "Không," tôi nói, "phù hợp với thời đại."
    Fred đem đến cho tôi ly rượu thứ nhì. Anh đặt một điếu Havannah xanh lục lên bàn, cạnh cốc rượu. "Herr Hauser gửi anh."
    Từ góc của mình, Valentin ra dấu và nâng ly.
    "Ba mươi mốt tháng Bảy, mười bẩy," anh nói, giọng khàn đặc.
    Tôi gật đầu chào và cũng nâng ly.
    Anh luôn luôn phải uống mừng một điều gì đó. Có một đêm, tôi gặp anh ở một lữ quán vùng quê, đang uống rượu thưởng trăng; một ngày ở chiến hào, anh uống khi tình thế đặc biệt tồi tệ, và anh biết ơn vì mình còn sống và còn ngồi ở đấy.
    "Anh ấy là bạn cũ," tôi giải thích với nàng. "một người bạn thời chiến. Anh ấy là người duy nhất tôi biết có thể tinh luyện một chút hạnh phúc từ một nỗi bất hạnh lớn. Anh ấy không biết làm gì với đời mình nữa --do đó anh ấy vui sướng chỉ vì anh ấy còn sống."
    Nàng đăm chiêu nhìn tôi. Một vệt sáng rơi trên vầng trán và đôi môi nàng. "Tôi có thể hiểu điều ấy," nàng nói.
    Tôi ngước mắt. "Ơ, làm sao có thể? Cô còn trẻ quá mà."
    Nàng mỉm cười. Nụ cười lãng đãng trong ánh mắt mà thôi. Nét mặt gần như không đổi; chỉ trong trẻo hơn, như thể tỏa sáng từ bên trong.
    "Còn trẻ quá," nàng nói. "thật là một câu phát biểu! Với tôi, ta không bao giờ quá trẻ. Ta chỉ luôn luôn quá già!"
    Tôi im lặng trong chốc lát.
    "Từ một bình diện khác, có nhiều thứ để nói lắm " sau cùng tôi đáp, và ra hiệu cho Fred mang thêm một chút gì nữa để uống. Nàng tự tin và độc lập trong cách nghĩ; so với nàng, tôi có cảm giác mình giống một súc gỗ ngu si. Tôi muốn khởi đầu một cuộc đối thoại nhẹ nhàng vui tươi, một cuộc đối thoại lý thú, thứ mà ta thường nhớ đến khi còn lại một mình. Lenz có thể làm được chuyện ấy; còn với tôi, câu chuyện luôn luôn trở nên vụng về, khó nhọc. Cũng không sai lắm khi Gottfried thường nói, trong vai trò một người chiêu đãi, tôi có trình độ của một bà giám đốc sở bưu điện.
    May mắn thay Fred là một người bạn đầy hiểu biết. Thay vì loại ly nhỏ xíu như cái đê khâu thường ngày, anh mang đến một cốc vang to và đầy. Giúp anh khỏi mất công đi tới đi lui nhiều lần và tôi không ra vẻ uống quá nhiều. Tôi phải uống, nếu không tôi không thể nào thoát khỏi sự tẻ nhạt, trì độn này.
    "Cô không dùng thêm Martini sao?" tôi hỏi nàng.
    "Thế anh đang uống gì đấy?"
    "Cái này à? Rum."
    Nàng nhìn ly rượu của tôi. "Cùng một loại như thứ anh vừa uống."
    "Vâng," tôi nói. "Phần lớn tôi chỉ uống rum."
    Nàng lắc đầu. "Tôi không thể tin rằng nó có mùi vị thơm ngon."
    "Thật tình tôi không còn biết nó thơm ngon ra sao nữa," tôi nói.
    Nàng nhìn tôi. "Vậy anh uống làm gì?"
    "Rum," tôi nói, -- vui mừng vì vớ được một thứ mà tôi có thể ba hoa, --"rum không liên quan gì đến hương vị. Nó không phải chỉ là một thức uống --nó còn là một người bạn. Một người bạn giúp cho mọi việc dễ dàng hơn. Nó thay đổi thế giới. Và cho nên ta uống, dĩ nhiên là thế --" tôi đẩy cốc rượu sang một bên. "Nhưng tôi có nên gọi cho cô một ly Martini nữa hay không?"
    "Gọi rum, thì hơn." nàng nói. "Tôi nên thử một lần cho biết."
    "Tốt lắm," tôi nói, "nhưng đừng thử hôm nay. Rum rất nặng cho người mới tập. Làm ơn cho một ly cocktail Bacardi," tôi gọi với sang Fred.
    Fred mang đến các thứ. Anh còn mang một dĩa hạnh nhân tẩm muối và cà phê rang đen. "Để chai rum của tôi lại đây, anh nhé?"
    Dần dần mọi thứ bắt đầu mang một sắc thái mới. Cảm giác thiếu an toàn biến mất, chữ nghĩa nối gót theo nhau. Tôi không còn xét đoán từng chút những gì mình nói. Tôi tiếp tục uống và cảm thấy một con sóng lớn, ấm áp, mềm mại ập đến và ôm ấp tôi; những giờ đen tối đong đầy hình ảnh và cuộc diễn hành lặng lẽ của những giấc mơ len lén trở về, xếp chồng lên vùng phong cảnh ảm đạm xám xì của cuộc sống gieo neo. Vách của quán rượu lùi vào và thình lình, không còn là quán rượu nữa -- mà là một góc nhỏ của trái đất, một địa đàng để nương náu, một hầm trú ẩn, bên ngoài đó trận chiến muôn đời của sự hổn loạn diễn ra gay gắt và bên trong, hai đứa tôi ngồi an trú, xô dạt vào nhau một cách bí ẩn qua hoàng hôn của thời gian.
    Nàng cuộn mình trên ghế, một thiếu nữ xa lạ, huyền bí, như thể trôi nổi đến đây từ bờ bên kia cuộc đới. Tôi nghe tiếng mình nói, nhưng như thể không phải là tôi, như thể giờ đây có một người khác đang trò chuyện, một người mà tôi ước muốn được trở thành. Lời nói không còn trung thực nữa, chúng mang những ý nghĩa mới, lấn ép vào nhau, nhiều vùng đất màu sắc rực rỡ hơn những sự kiện xẩy ra trong đời tôi. Tôi biết chúng cũng không thực, chúng biến thành những mơ tưởng viễn vông và dối trá; nhưng tôi bất cần -- sự thật nhạt nhẻo buồn tẻ, và chỉ có ý nghĩa cùng với vẻ quyến rũ mê hoặc của những giấc mộng mới chính là cuộc sống.
    Ánh sáng lung linh trong cái chum đồng đặt trên quày. Thỉnh thoảng Valentin lại nâng ly và nói thầm một con số tháng ngày với khoảng không trước mặt. Âm thanh náo động của đường phố văng vẳng lọt vào, đôi lúc bị ngắt quảng bởi tiếng còi xe như tiếng của loài ác điểu. Mỗi khi có người mở cửa, chúng lại gào to. Dai dẳng như một mụ già ghen tuông.
    Trời đã tối khi tôi đưa Patricia Hollman đến tận nhà. Tôi thong thả cuốc bộ trở về. Bỗng nhiên tôi cảm thấy cô độc và trống vắng. Cơn mưa phùn đang rắc hạt. Tôi ngừng chân trước một khung kính cửa hàng. Tôi đã uống quá nhiều. Tôi có thể cảm nhận điều ấy. Không, tôi đâu đã chuyếch choáng, quay cuồng --nhưng tôi biết chắc là thế.
    Tôi thấy nóng bức. Tôi mở cúc áo choàng và đẩy mũ ra sau. Tôi bắt gập mình gục thiếp một lần nữa. Kệ bố chúng mày -- tất cả những lời mắc gió tôi đã phun ra! Chúng chẳng mang một ý nghĩa nào. Mà tôi cũng không nhớ gì; đấy mới là điều tai hại nhất. Tại đây, một mình trên đường, xe buýt rầm rộ lao qua, tất cả mọi thứ đều mang một vẻ khác biệt so với lúc tôi còn ngồi trong vùng nửa sáng nửa tối của quán rượu. Tôi tự nguyền rủa mình. Ấn tượng ban đầu của nàng về tôi mới đẹp làm sao! Chắc chắn nàng đã nhận ra. Nàng gần như không uống gì cả. Và nàng đã cho tôi một cái nhìn kỳ lạ khi chia tay...
    Herrgott! tôi quay ngoắt lại và do đó, đụng phải một lão béo lùn -- "Ê?" tôi cáu kỉnh nói.
    "Mắt để trên đầu hay sao mà không nhìn thấy bố đây, hở thằng cán chổi?" lão béo quát.
    Tôi trân trối nhìn lão.
    "Thế đằng ấy chưa bao giờ trông thấy loài người, hả?" lão ta sừng sộ nói tiếp.
    Lão lọt đúng tầm nhắm của tôi.
    "Con người hả, thấy rồi," tôi đáp, "nhưng thùng bia biết đi thì chưa."
    "Quân khốn khiếp!" lão nói.
    "Lão mập khờ," tôi đáp lại.
    Lão trịnh trọng nhấc mũ. "Chào đằng ấy, nhé." lão nói, và chúng tôi chia tay.
    Những câu xã giao đó làm tôi tỉnh ra, nhưng nỗi ưu phiền vẫn còn đó. Quả tình càng tỉnh táo, tôi càng bực bội. Tôi thấy mình ngu ngốc không tả. Nhưng rồi, dần dần tôi không còn khó chịu với bản thân: tôi khó chịu với tất cả mọi thứ -- kể cả nàng. Chính vì nàng mà tôi đã say mèm. Tôi bẻ cao cổ áo. Nàng thích hay không thích một điều gì về tôi, tôi cũng không cần --dẫu sao, nàng là ai cơ chứ? Buổi hẹn hò dù có kết quả xấu tệ đến mấy, tôi cũng không quan tâm -- chuyện gì xảy ra, đã xảy ra. Không thể làm gì khác để cứu vãn. Và cũng thế, không chừng . . .

    Comment


    • #3
      Erich Maria Remarque Chiến hữu Chương 4

      Erich Maria Remarque

      Chiến hữu

      Chương 4

      Thời tiết trở nên ấm ướt và mưa dầm suốt mấy ngày. Rồi trời trong và nắng ấm mang theo cái nóng âm ỉ. Sáng thứ Sáu, khi đến xưởng sửa xe, tôi gặp Matilda Stoss, chổi kẹp nách, đứng giửa sân như một con hà mã bị thôi miên.
      "Xem kìa, Herr Lohkamp, có lộng lẫy không chứ? Mỗi lần như thế, lại là một phép mầu."
      Tôi bàng hoàng - cây mận già cạnh máy bơm xăng tưng bừng nở hoa, chỉ trong một đêm.
      Nó đứng đấy, còng queo, trơ trọi, suốt cả mùa đông; chúng tôi thường máng vỏ xe cũ và đặt các can nhớt lên cành cho dễ chiết; nó được dùng như một cái giá rất tiện nghi để cất đủ thứ, từ giẻ lau xe cho đến nắp đậy máy xe. Vài ngày trước, các bộ áo liền quần thợ máy của chúng tôi hãy còn bừa bãi phơi trên đấy; chiều hôm qua cũng không có gì đáng chú ý; thế mà giờ đây, chỉ trong một đêm, nó đã biến đổi, như chuyện thần tiên, thành một vầng mây hồng và trắng lung linh, một vầng mây những bông hoa tươi thắm, như một đàn bướm bỗng nhiên đáp xuống chỗ làm việc lem luốc của chúng tôi.
      "Và hương thơm!" bà ấy nói, mắt đảo tròn phấn khởi. "Tuyệt diệu! Cứ như là mùi rượu rum."
      Tôi không ngửi được gì cả, nhưng tôi hiểu ngay. "Theo tôi, thơm như cognac của khách hàng," tôi đề nghị.
      Bà ấy thẳng tay bác bỏ. "Herr Lohkamp, chắc cậu bị cảm lạnh. Hoặc là gai thịt trong mũi, có lẽ thế? Thời buổi này, gần như ai cũng có gai thịt trong mũi. Không, mũi của già Stoss này thính như chó săn; tin tôi đi, đó là mùi rum, rum lâu năm."
      "Được rồi, Matilda . . ."
      Tôi rót một cốc rum và đi ra cây xăng. Jupp đã ngồi sẳn nơi đấy. Cạnh thằng bé, nhiều cành hoa mận cắm trong một lọ mứt cũ bằng thiếc han rĩ. "Cái này để làm gì thế?" tôi ngạc nhiên hỏi.
      "Dành cho quý cô quý bà," Jupp giải thích. "Nếu họ đổ đầy bình, họ sẽ được biếu một cành. Cháu đã bán được chín mươi lít xăng rồi đấy. Cái cây này giá trị tương đương với vàng. Nếu không có nó, chắc chúng ta phải làm một cây hoa giả."
      "Cháu thật giỏi buôn bán," tôi nói.
      Thằng bé cười hể hả. Nắng xuyên qua vành tai của nó, trông như ô cửa kính nhuộm.
      "Cháu còn được chụp ảnh hai lần," thằng bé nói tiếp. "Trước cây hoa."
      "Tốt lắm, cháu sẽ sớm thành tài tử xi-nê," tôi nói, và đi tới ổ sửa xe, nơi Lenz từ dưới gầm xe Ford chui ra.
      "Bob," anh nói. "tớ mới nhớ một chuyện. Thể nào chúng ta cũng sẽ bận rộn với cô bạn của Binding."
      Tôi chăm chú nhìn anh. "Cậu nói gì thế?"
      "Thì y như tớ vừa nói. Mà sao cậu lại nhìn chòng chọc thế?"
      "Đâu có --"
      "Có mà, cậu nhìn tớ chòng chọc. Tên họ đầy đủ của cô ấy là gì nhỉ? Pat -- nhưng Pat gì mới được?"
      "Tớ không biết."
      Anh đứng thẳng người. "Cậu không biết? nhưng cậu có viết địa chỉ của cô ấy. Tớ nhìn thấy tận mắt."
      "Tớ làm mất mẩu giấy ấy rồi," tôi giải thích.
      "Làm mất!" Anh ôm mái tóc vàng bằng cả hai tay. "Sau khi tớ phải bỏ ra suốt một giờ ở ngoài sân với Binding! Làm mất! Ơ, không chừng Otto biết."
      "Otto cũng không biết đâu," tôi nói.
      Anh nhìn tôi. "Đồ nửa mùa chết tiệt! Cậu còn tệ hơn thế. Hôm ấy, cậu không biết à, đấy là một thiếu nữ tuyệt vời. Hergott!" Anh đăm đăm nhìn trời. "Khi chỉ một lần duy nhất trong đời, một điều tốt đẹp xảy đến với chúng ta, thì một thằng cả đẩn xúi quẩy như cậu lại làm lạc mất địa chỉ."
      "Tớ có thấy cô ấy tuyệt vời chỗ nào đâu," tôi nói.
      "Bởi vì cậu là một thằng ngốc," Lenz đáp; "một thằng khờ, không nhận thức được điều gì có giá trị cao hơn một cô gái điếm ở tiệm cà phê International. Cậu là nhạc công dương cầm, thế thôi. Một lần nữa, tớ nói cho cậu biết, cô gái ấy, là một điều may mắn không ngờ, thật thế. Dĩ nhiên, cậu chẳng biết cóc khô gì. Cậu có nhìn vào mắt cô ấy không? Hẳn là không, cậu còn mãi ngắm ly rượu của cậu."
      "Ô, cậu nín đi," tôi chặn lại, bởi nhắc tới rượu, anh chạm đúng chỗ nhược của tôi.
      "Và đôi tay của cô ấy," anh tiếp tục, không màng tới tôi --" thon dài, như tay của một cô gái hai dòng máu --Gottfried hiểu những chuyện này, Gottfried biết mà. Lạy thánh Moses! Cuối cùng con cũng đã gặp nàng, với những thứ một người phụ nữ cần có -- đẹp, dĩ nhiên, và quan trọng hơn cả, khí sắc --" Anh tự ngắt lời. "Cậu có biết, chẳng hạn, khí sắc là gì không?"
      "Là không khí, thứ ta bơm vào bánh xe," tôi nói.
      "Cố nhiên," anh nói một cách thương hại. "Không khí, cố nhiên! Khí sắc, vẻ tinh tuyền, rạng rỡ, ấm áp, huyền bí -- là những thứ tạo nên cái đẹp của một linh hồn và làm nó trở nên sống động. Nhưng cậu cần quái gì, khí sắc của cậu là mùi rượu rum --"
      "Nín ngay, không thì tớ sẽ phang một cái gì đó lên đầu cậu đấy," tôi gầm lên.
      Nhưng Gottfried vẫn tiếp tục nói và tôi không làm gì cả. Dĩ nhiên anh không biết chuyện gì đã xảy ra và mỗi chữ của anh cắm trúng tâm điểm -- nhất là những chữ tả chuyện nhậu nhẹt. Tôi gần như đã quên, tôi đã an ủi mình một cách khá hữu hiệu; thế nhưng giờ đây anh lại đào bới lên tất cả. Anh ca tụng và ca tụng cô gái đến khi tôi cảm thấy mình đã vĩnh viễn đánh mất một điều vô cùng quý báu.
      Sáu giờ chiều, vẫn phiền muộn tôi đến Café International. Đấy là nơi trú ẩn xưa nay của tôi; Lenz nói đúng.
      Tại đấy, tôi ngạc nhiên trước khung cảnh nhộn nhịp. Các loại bánh kem ướp lạnh và bánh nho khô bày trên quày, và Alois- bàn chân dẹp, tất tả bê một khay đầy ly tách cà phê khua lanh canh vào phòng trong.
      Tôi chựng lại. Cà phê, cả bình to ư? Hẳn phải có một bầy đàn lén lút say sưa ở đâu đây.
      Nhưng bà chủ quán giải thích. Hôm nay ở phòng sau có tiệc từ giả Lilly, bạn của Rosa. Tôi vỗ trán. Tất nhiên, tôi đã được mời! Và tôi là người đàn ông duy nhất, như Rosa ngụ ý -- vì Kiki, chàng trai ẻo lả, cũng có mặt, nhưng không kể. Tôi chuồn ra ngoài, mua một bó hoa, một trái thơm, một cái lúc lắc của trẻ con, và một thanh sô cô la.
      Rosa đón tôi với nụ cười của bậc nữ lưu. Chị vận một chiếc áo đầm vải dầy, cổ khoét rất sâu và ngự ở đầu bàn. Răng vàng của chị lại lấp lánh. Tôi hỏi thăm cháu bé, và đưa cái lúc lắc nhựa cùng với phong sô cô la. Rosa rạng rỡ.
      Với trái thơm và bó hoa, tôi quay sang Lilly; "Chúc chị những điều tốt lành nhất."
      "Cậu ấy luôn luôn là một người hào hoa phong nhã," Rosa nói; "Bob ơi, đến đây, ngồi giữa chúng tôi nhé."
      Lilly là bạn thân của Rosa. Có một bề dầy sự nghiệp sáng chói. Chị là gái điếm trụ ở khách sạn, là ước vọng xa vời của những cô điếm trẻ. Gái điếm ở khách sạn không cần kiếm khách ngoài phố --cô ta thuê phòng trọ và chiêu khách tại đấy. Rất ít người đạt được vị trí này -- họ không đủ y phục hay vốn liếng để kiên nhẫn đợi khách. Đúng thế, Lily chỉ hành nghề ở một khách sạn tỉnh lẽ; nhưng theo thời gian, chị đã để dành gần bốn ngàn marks. Bây giờ chị muốn lấy chồng. Chồng tương lai của chị có cửa hàng sửa ống nước. Anh biết rõ về chị, nhưng chấp nhận. Và anh không cần lo lắng cho tương lai; khi một người trong bọn lập gia đình, họ là những người đáng tin cậy. Họ đã có đủ những thăng trầm trong đời.
      Lilly sẽ cử hành đám cưới ngày thứ Hai. Hôm nay Rosa tổ chức một buổi tiệc nhẹ chia tay. Các cô có mặt đầy đủ để gặp Lily lần cuối. Một khi có chồng, chị ấy sẽ khó lòng đến đây.
      Rosa rót cà phê cho tôi. Alois, nhanh nhẩu tiến đến với một cái bánh khổng lồ rắc đầy quả phúc bồn tử, hạnh nhân và bạch chỉ. Chị cắt một lát to, đặt trước mặt tôi.
      Tôi biết mình phải làm gì. Tôi thành thạo nếm một miếng và bày tỏ sự ngạc nhiên cao độ.
      "Donnerwetter°, chắc chắn không thể nào mua ở tiệm!"
      "Chị tự làm đấy," Rosa sung sướng nói. Chị nấu ăn rất ngon và thích được mọi người tán thưởng. Món ra-gu Hung Gia Lợi và bánh nho khô của chị không ai sánh kịp. Dòng dõi Bohemia của chị, đâu phải là thừa.
      Tôi nhìn quanh. Các cô ngồi ở bàn, những người hái nho trong vườn của Chúa, những bậc thầy thấu hiểu bản chất của con người, những chiến sĩ của ái tình: Wally, người đẹp, áo lông chồn trắng đã bị cuỗm mất trong một phi vụ về đêm mới đây; Lina chân gỗ, thế nhưng lúc nào cũng tìm được mối; Fritzi, người vui tính, yêu thương chàng Alois- bàn chân dẹp, mặc dù chị có thể xây tổ ấm với một người khác, nhưng chị vẫn khước từ; Margot đôi má hồng, lúc nào cũng mặc y phục nữ gia nhân và do đó luôn luôn kiếm được khách hàng thông thái; Marion trẻ nhất bọn, rạng rỡ và phóng túng; Kiki, không được coi như đàn ông vì anh mặc quần áo đàn bà và tô son điểm phấn; Mimi, con người đáng thương, bốn mươi lăm tuổi và bị giãn tỉnh mạch, đi bộ là một việc khó khăn cho chị; vài cô hầu rượu, vài người khách buổi tối mà tôi không quen; và cuối cùng, nhân vật danh dự thứ nhì, thấp bé, tóc bạc và nhăn nheo như một quả táo mùa đông -- "Bu," người mà ai cũng trao gởi nỗi lòng, người an ủi và giúp đở tất cả các cô gái giang hồ. Bu của quày xúc xích ở góc đường Nikolaistrasse, ban đêm là căn bếp di động, là cơ quan đổi tiền, nơi đấy, ngoài xúc xích Frankfort, bà còn dấm dúi bán thuốc lá và bao cao su, và cũng cho vay, nếu cần.
      Tôi hiểu phép lịch sự. Hôm nay, không được nhắc tới cửa tiệm, không được có những lời nham nhở; quên đi sức mạnh khét tiếng của Rosa đã tạo cho chị ấy hỗn danh "con ngựa sắt"; quên đi cuộc thảo luận về đề tái ái tình của Fritzi và Stefan Grigoleit, người buôn gia súc; quên đi vũ khúc của Kiki quanh giỏ brezel °° mỗi sớm mai. Cuộc chuyện trò ở đây phải thích đáng trong một buổi họp của các hiền mẫu.
      "Chị chuẩn bị xong chưa, Lilly?" tôi hỏi.
      Chị gật đầu. "Chị sắm sửa tư trang cô dâu đã từ lâu."
      "Tư trang của chị ấy, thật tuyệt," Rosa nói. "Có cả tấm trải lưng ghế và tay ghế!"
      "Tấm trải lưng và tay ghế? Để làm gì?" tôi hỏi.
      "Ô hay, Bob này!" Rosa nhìn tôi trách móc đến độ tôi phải lập tức giải thích rằng, lẽ dĩ nhiên, tôi biết chúng là gì: những miếng ren, hoặc chỉ móc để trang hoàng bàn ghế, biểu tượng của một chút sang trọng trưởng giả, biểu tượng thiêng liêng của tình yêu trong hôn nhân và thiên đàng đã mất. Không một ai trong họ làm gái mãi dâm vì bản chất; họ là những hoang tàn đổ nát của tầng lớp trung lưu. Tham vọng thầm kín của họ không phải là sự trụy lạc, mà là giường chiếu của hôn nhân. Nhưng không đời nào họ thú nhận điều ấy.
      Tôi ngồi xuống ghế dương cầm. Rosa chỉ chờ mong thế. Chị ấy, giống như cả bọn, rất ưa chuộng âm nhạc. Như một lời chia tay, tôi đàn những bản mà Rosa và Lilly yêu thích nhất. Bài mở đầu là "Lời nguyện cầu của nàng trinh nữ." Tên của bản nhạc có lẽ không thích hợp chút nào với nơi chốn này, nhưng nó là một bản nhạc vui tươi, hào hứng. Tiếp theo là những bản, "Dạ khúc của bầy chim," "Ánh sáng trên núi cao," "Khi tình yêu chết," " Bạc triệu của anh hề," và cuối cùng, "Mái nhà yêu dấu." Rosa đặc biệt yêu thích bản nhạc ấy. Gái điếm là hạng người mà cùng một lúc, vừa cứng rắn nhất vừa yếu mềm nhất. Mọi người đều cất tiếng ca. Kiki hát giọng nữ trầm.
      Lilly đứng lên. Chị phải đi gặp chú rễ của mình. Rosa hôn chị một cái rõ to. "Chúc chị may mắn. Đừng nghĩ ngợi nhiều."
      Tay xách nách mang quà cáp, chị ra về. Có trời chứng giám, vẻ mặt của chị khác hẳn khi xưa. Nét khắc nghiệt, thường thấy ở những người phải tiếp xúc với sự đê tiện của loài người, đã hoàn toàn biến mất; gương mặt của chị trở nên hiền thục; quả thật lại có một chút băng trinh.
      Chúng tôi đang đứng ở cửa vẫy tay tiễn Lilly, bỗng nhiên Mimi bật khóc. Chị cũng có chồng, nhưng chồng chị mất vì bệnh sưng phổi trong thời chiến. Chị than vãn, nếu anh ấy chết trận, chị đã có một ít tiền hưu bổng và không phải lang thang đầu đường xó chợ.
      Rosa vỗ lưng chị. "Thôi đừng buồn nữa, Mimi. Vào uống thêm một chút cà phê."
      Cả đám quay vào tiệm International như một bầy gà mái lục tục vào chuồng. Nhưng bầu không khí thích hợp không còn nữa. "Bob ơi, chơi thêm vài bản trước khi kết thúc," Rosa nói. "Một bài giúp chúng ta sôi động."
      Rồi đến lượt tôi ra về. Rosa dúi thêm bánh vào túi tôi. Tôi biếu cho con trai của "Má", vừa chuẩn bị xong xuôi quày xúc xích bán đêm.
      °Donnerwetter: một tán thán từ
      °°brezel: pretzel (bánh bột mì cọng nhỏ, thường uốn tréo cong queo hình quả tim)
      Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì. Dù sao đi nữa, tôi cũng không muốn đến "The Bar"; hay rạp chiếu phim. Còn xưởng sửa xe thì sao? Tôi nhìn đồng hồ tay. Tám giờ. Giờ này có lẽ Koster đã trở lại; nếu anh ấy có ở đấy, hẳn Lenz sẽ không càm ràm tôi hằng giờ về nàng. Tôi đi.
      Có ánh đèn trong nhà xe. Không chỉ nhà xe mà thôi -- toàn thể sân trong sáng rực. Koster ở đấy một mình.
      "Rọi đèn làm chi, hở Otto?" tôi hỏi. "Bán được xe Cadillac rồi hở?"
      Koster cười. "Không, Gottfried chỉ chiếu đèn xem chơi, thế thôi."
      Tất cả đèn pha chiếc Cadillac đều bật sáng và xe được đẩy nhếch tới trước để chùm đèn xuyên qua cửa sổ vào sân và rọi thẳng lên cây mận. Nó đứng đấy, đẹp tuyệt trần, trắng xóa như phấn bảng và bóng đêm như mặt hồ đen thẩm lấm láp vỗ hai bên.
      "Một sự trình bày ngoạn mục," tôi nói. "Thế cậu ấy đang ở đâu?"
      "Mua thức ăn."
      "Tốt," tôi nói. "tớ cảm thấy hơi chán. Có lẽ chỉ vì đói."
      Koster gật đầu. "Bob, hãy ăn khi có thể; đó là quy tắc đầu tiên của người lính già. Hồi chiều này, tớ cũng bồng bột lắm -- tớ đã ghi danh đua xe với Karl."
      "Cái gì?" tôi nói. "Lần thứ sáu?"
      Anh gật đầu.
      "Nhưng, chết nỗi, Otto, tất cả những xe chiến đấu nhất sẽ tham dự lần ấy."
      Anh lại gật đầu. "Hạng xe thể thao, tranh với Braumuller."
      Tôi xắn tay áo, "vậy hãy làm việc ngay, Otto! Tắm táp người thương cho nhiều vào."
      "Chờ một tí," chàng lãng mạn cuối cùng vừa bước vào và nói. "Ăn trước đã." Anh bày bửa tối ra, phô-mai, bánh mì, xúc xích hun khói cứng như đá, và cá mòi. Trong khi ăn, chúng tôi uống bia lạnh. Chúng tôi ngấu nghiến như một đám thợ đập lúa đói khát. Rồi chúng tôi bắt đầu với Karl. Suốt hai giờ, chúng tôi mầy mò, kiểm tra và vô dầu mỡ không sót chỗ nào. Sau đó, Lenz và tôi ngồi xuống ăn thêm đợt hai. Gottfried cũng bật đèn pha chiếc Ford. Trong vụ đụng xe, một bên đèn vẫn còn nguyên. Từ khung xe méo mó, nó ngước lên, đăm đăm nhìn trời.
      Lenz quay lại, mãn nguyện. "Vậy, đem mấy chai rượu ra. Chúng ta phải ăn mừng ngày lễ của Cây Hoa."
      Tôi đặt chai cognac, chai gin, và hai cốc thủy tinh lên bàn.
      "Còn cậu thì sao?" Gottfried hỏi.
      "Tớ không uống."
      "Cậu nói gì? Sao thế?"
      "Tại vì tớ chán mấy thứ rượu chè mắc dịch này rồi."
      Lenz ngẫm nghĩ lời tôi. "Thằng con nhà mình uống quá đô rồi, Otto," cuối cùng anh nói với Koster.
      "Vậy để mặc hắn, nếu hắn không muốn thì thôi," Koster trả lời.
      Lenz rót đầy ly của mình. "Mấy hôm nay, đôi khi hắn lại điên điên."
      "Có những chuyện còn tệ hơn," tôi nói.
      Trăng đã lên cao, to và đỏ, bên trên nóc nhà máy phía đối diện. Chúng tôi ngồi im một lúc.
      "Này, Gottfried," cuối cùng tôi bắt đầu, "cậu tự cho mình là chuyên viên trong lãnh vực tình yêu --"
      "Chuyên viên ư? Trời, tớ chỉ là thầy đời," Lenz khiêm tốn đáp.
      "Tốt. Vậy cậu cho tớ biết nhé: có phải khi yêu, người ta luôn luôn hành xử như một thằng ngu?"
      "Theo ý cậu, thế nào là một thằng ngu?"
      "Như nửa tỉnh nửa say, ba hoa, khoác lác và lừa gạt."
      Lenz phá lên cười. "Bé cưng ơi! tất cả chỉ là một sự dối lừa. Một sự dối lừa tuyệt diệu của Bà Mẹ Thiên Nhiên. Thí dụ nhé, hãy nhìn cây mận kia. Nó đang tô điểm cho nó đẹp hơn là về sau. Thật khủng khiếp nếu tình yêu dính dáng ít nhiều với sự thật. Tạ ơn trời, các nhà luân lý không thể nào kiểm soát tất cả mọi chuyện."
      Tôi nhỏm dậy. "Anh muốn nói, nếu không có một chút gian dối thì sẽ không đi đến đâu?"
      "Tuyệt đối không, con ạ."
      "Thế nhưng một người đàn ông có thể tự làm cho mình trở nên lố bịch," tôi nói.
      Lenz toét miệng cười. "Ghi nhớ điều này, con trai ơi: không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ một người đàn ông lại trở thành lố bịch trong mắt của người đàn bà, khi anh ta làm bất cứ chuyện gì vì nàng. Ngay cả những hành động ấu trĩ nhất. Làm bất kỳ điều gì cậu muốn -- trồng chuối ngược, nói những câu nhảm nhí nhất, huyênh hoang như một con công, hát dưới cửa sổ nhà nàng -- tất cả đều được, ngoại trừ một điều: đừng bao giờ khô khan, thẳng thừng, vô tri như miếng ngói. Đừng bao giờ duy lý, thực dụng."
      Tôi bắt đầu phấn khởi. "Otto, cậu nghĩ thế nào?"
      Koster cười. "Có lẽ cậu ấy nói đúng."
      Anh đứng dậy, đi đến Karl và dở nắp đậy. Tôi đem ra một chai rum, một cốc thủy tinh và đặt chúng lên bàn. Otto mở máy. Động cơ rồ lên, trầm và khỏe. Lenz gác cả hai chân lên bệ cửa sổ và chăm chú nhìn màng đêm.
      Tôi kéo ghế ngồi cạnh. "Có bao giờ cậu say khi ở cạnh một người đàn bà?"
      "Thường lắm," anh trả lời, không cựa ngoạy.
      "Và?"
      Anh liếc tôi. "Cậu muốn nói, và rồi làm rối tung cả lên? Đừng bao giờ xin lỗi. Đừng bao giờ nói. Gởi hoa. Đừng viết gì. Chỉ hoa mà thôi. Hoa che phủ mọi thứ. Kể cả những nấm mồ."
      Tôi nhìn anh. Anh không cử động. Ánh sáng trắng ngoài kia phản chiếu trong mắt anh, long lanh. Máy xe vẫn nổ đều, gầm gừ khe khẻ, như thể mặt đất dưới chân chúng tôi đang rung động.
      "Ơ, thế thì tớ có thể uống vài giọt cũng được," tôi nói và mở chai rượu.
      Koster tắt máy xe. Rồi anh quay sang Lenz. "Trăng sáng đủ cho chúng ta có thể nhìn thấy ly rượu, Gottfried ạ. Thế thì, tắt đèn rọi được không? Đèn xe Ford, ấy mà. Cái xe quái quỷ, với cái đèn pha xéo xẹo như mắt lác làm cho tớ nhớ lại thời chiến. Chẳng phải đùa, khi những chùm đèn ấy rọi theo máy bay của ta."
      Lenz gật đầu. "Và nó cũng nhắc nhở tớ -- ối chào, thôi không nói. "Anh đứng lên và tắt hết đèn xe.
      Trăng đã lên cao quá nóc nhà máy và lơ lửng như một chiếc đèn lồng Trung Hoa vàng giữa những cành trên ngọn cây mận. Nhánh cây đung đưa nhè nhẹ trong gió thoảng.
      "Thật lạ thường," Lenz nói, sau một lúc im lặng, "người ta dựng tượng đài cho đủ hạng người -- thế sao ta lại không thỉnh thoảng dựng một cái cho mặt trăng hay một cây hoa?"
      Tôi về sớm. Khi mở cửa hành lang, tôi nghe tiếng nhạc phát ra từ máy hát của chị thư ký Erna Bonig. Một giọng nữ nhẹ nhàng, trong sáng. Rồi tiếng vĩ cầm run run da diết và tiếng ghi-ta êm đềm. Và tiếng hát lại ngọt ngào vút lên như không kềm được niềm vui đang òa vỡ. Tôi lắng nghe lời ca. Thật lạ kỳ, đi trong hành lang tối, giữa cái máy khâu của Frau Bender và hòm xiểng của gia đình Hasse, người ca sĩ hát dịu dàng đến thế.
      Tôi ngắm đầu con lợn rừng treo trên cửa bếp.Tôi nghe chị giúp việc khua bát đĩa lịch kịch bên trong. "Làm sao em có thể sống xa anh?" một tiếng hát đàng sau cánh cửa, chỉ cách vài bước chân, vang lên.
      Tôi nhún vai, bước vào phòng mình.
      Từ phòng kế, tiếng cải cọ phát ra sôi nổi. Vài phút sau, có người gõ cửa và Hasse bước vào.
      "Tôi có làm phiền chú lắm không?" anh hỏi, mệt mỏi.
      "Hoàn toàn không," tôi nói. "Anh uống một chút gì nhé?"
      "Có lẽ không nên. Tôi chỉ cần ngồi đây một chốc."
      Anh thẩn thờ nhìn về phía trước.
      "Như chú thế mà khỏe," anh nói. "Chỉ một thân, một mình --"
      "Ach, đừng nói nhảm," tôi đáp. "Luôn luôn trơ trọi thế này, cũng không ra gì -- anh hãy tin tôi."
      Anh lọt thõm trong chiếc ghế bành. Đôi mắt đờ đẩn dưới ánh sáng tù mù từ ngọn đèn đường hắt vào. Đôi vai hẹp, tròn. . .
      "Tôi đã hình dung cuộc đời khác hẳn," một lúc sau, anh nói.
      "Chúng ta đều như thế," tôi nói.
      Nửa giờ sau, anh trở về phòng mình để làm lành với vợ. Tôi biếu anh vài điếu thuốc và một chai rượu vỏ cam đã vơi nửa, nằm trong tủ của tôi, từ một buổi tiệc nào đó đã lâu -- vị khó chịu, ngòn ngọt, nhưng khá thích hợp với anh. Anh nào biết gì về rượu với trà.
      Khẻ khàng, gần như không một tiếng động, anh bước ra, một chiếc bóng đi vào bóng tối, như đã bị hủy diệt. Tôi đóng cửa phòng sau lưng anh. Một mảnh âm nhạc từ hành lang lênh đênh trôi vào --vĩ cầm và banjos.
      Tôi ngồi cạnh cửa sổ. Bên ngoài, nghĩa trang nằm dưới ánh trăng xanh. Những chùm sáng màu mè phóng từ các bảng quảng cáo điện leo quá ngọn cây và các mộ bia sáng ngời trong bóng tối. Chúng im lặng và không có vẻ đáng sợ. Xe lướt qua, bóp kèn và các luồng đèn quét loang loáng trên những dòng chữ đã phai mờ theo mưa gió.
      Tôi ngồi một lúc lâu và nghĩ về mọi thứ. Một trong những thứ đó là, cách chúng tôi trở về từ chiến trường, như những người thợ mỏ sống sót sau tai nạn, trẻ trung và tan vỡ ảo mộng về tất cả mọi thứ, trừ bản thân. Chúng tôi tiến hành chiến tranh với ý định chống lại sự dối trá, ích kỷ, tham lam và ù lì của trái tim, nguyên nhân của tất cả những gì nằm lại phía sau; chúng tôi trở nên chai đá, không còn tin tưởng vào một ai hay một điều gì, trừ các chiến hữu kề cận hay những thứ như -- bầu trời, cây cối, trái đất, bánh mì, thuốc lá, những thứ chưa bao giờ biết lừa gạt con người -- và rồi được gì? Tất cả đều sụp đổ, đồi trụy và lãng quên. Và với những người chưa bị bỏ quên, chỉ còn lại sự bất lực, tuyệt vọng, thờ ơ và rượu mạnh. Thời của những giấc mơ vĩ đại cho tương lai của nhân loại đã qua. Những tay chuyên thọc gậy bánh xe, những người ích kỷ đã chiến thắng. Thối nát . . . Khốn khổ . . .
      Cậu thế mà khỏe, chỉ một thân một mình. Hasse nói thế. Cũng đúng -- một người cô độc không thể nào bị ruồng bỏ. Nhưng thỉnh thoảng, ban đêm, toàn thể cơ cấu giả tạo bị sụp đổ, cuộc đời trở thành một giai điệu nức nở không nguôi; từ âm thanh muôn thủa rền rỉ một cách vô nghĩa của phong cầm, dâng lên một cơn lốc của những ao ước hoang dại, những thèm muốn, những nỗi buồn thê thảm và những niềm hy vọng, bơ vơ đi tìm đối tượng. Ach, một chút hơi ấm, thứ nhu cầu đáng thương này--có thể nào có đôi tay và một gương mặt cúi chào đâu đấy? Hay nó cũng chỉ là sự giả dối, đầu hàng, và trốn chạy? Như thế thì, có gì không, ngoài nỗi cô đơn?
      Tôi đóng cửa sổ. Không, không có gì. Bởi với bất cứ điều gì hơn thế, chỉ có rất ít đất đứng bên dưới chân ta.
      Nhưng sáng hôm sau tôi dậy sớm và, trước khi đi làm, gỏ cửa đánh thức ông chủ một cửa hàng hoa. Tôi chọn một bó hoa hồng và nhờ ông gởi đi ngay. Tôi có cảm giác khá lạ kỳ khi chậm rãi viết tên người nhận --Patricia Hollmann -- lên tấm thiệp.

      Comment


      • #4
        Chiến hữu - Chương 5

        Erich Maria Remarque

        Chiến hữu

        Chương 5


        Trong bộ y phục tồi tàn nhất, Koster ra sở thuế. Anh cố xin miễn giảm. Chỉ còn Lenz và tôi ở lại xưởng.
        "Gottfried," tôi nói, "bây giờ đến lượt cái Cadillac cũ!"
        Tối qua, rao vặt của chúng tôi đã in trên báo. Như thế, hy vọng hôm nay sẽ có khách -- giả sử, nếu có ai muốn mua. Dù sao, cũng phải chuẩn bị sẳn sàng.
        Trước tiên, chúng tôi đánh bóng lớp sơn. Nó sáng đẹp hẳn ra, như thể phải tốn thêm hàng trăm marks. Rồi chúng tôi thay thứ nhớt có độ đậm đặc nhất. Piston không còn tuyệt hảo nữa, kêu khục khặc. Nhưng nhờ chất lượng của nhớt bù đắp, động cơ nổ rất êm. Và chúng tôi cũng tra đầy đủ nhớt ở hộp số và cầu sau để chúng vận hành trơn tru.
        Rồi chúng tôi lái cô ấy ra ngoài. Có một quãng đường rất xấu ở vùng này. Chúng tôi tăng tốc độ lên năm mươi kí lô mét một giờ. Xe khua lạch cạch. Chúng tôi xả bớt một phần tư đơn vị áp suất ở lốp xe. Xe êm hơn. Chúng tôi xả thêm một phần tư đơn vị nữa. Giờ thì không còn một tiếng động nào.
        Chúng tôi lái về xưởng, bôi mỡ bò vào nắp máy hãy còn cọt kẹt, lót một chút viền cao su, thêm nước nóng vào bộ tản nhiệt cho máy nổ dễ dàng, và phun dưới gầm xe một lớp dầu tẩy bụi để nơi đấy cũng sạch tinh tươm. Rồi Gottfried đưa tay lên trời. "Lạy trời xin gởi khách đến! Người khách giàu sụ, hãy đến đây! Chú rể chờ cô dâu như thế nào, chúng tôi mong đợi người như thế ấy!"
        Cô dâu vẫn cho chúng tôi đợi dài cổ. Vì thế chúng tôi đẩy chiếc xe xì khói của ông chủ tiệm bánh vào ổ sửa và bắt đầu tháo trục trước. Chúng tôi làm việc suốt mấy tiếng đồng hồ không trò chuyện. Rồi tôi nghe Judd ở cây xăng khởi sự huýt sáo "Có cái gì đi tới . . ."
        Tôi đu lên, nhìn qua cửa sổ. Một người đàn ông nhỏ bé đi vòng quanh chiếc Cadillac. Ông ta có vẻ đứng đắn và đáng kính.
        "Gottfried, nhìn kìa," tôi khẻ nói, "cậu nghĩ có phải là cô dâu đấy không?"
        "Chắc thế," Lenz nói, sau khi liếc qua. "Hãy nhìn nét mặt của ông ta. Không có ai ở đấy, thế mà ông ta đã lộ vẻ nghi ngờ. Cố lên. Tở ở đây thủ trại, -- và sẽ ra đó nếu cậu cần. Đừng quên những bí quyết, nhé."
        "Vâng." Tôi bước ra.
        Người đàn ông nhìn tôi với đôi mắt đen, bình thản.
        Tôi tự giới thiệu: "Lohkamp."
        "Blumenthal."
        Đó là bí quyết đầu tiên của Gottfried -- tự giới thiệu. Anh nói, như thế sẽ tạo một không khí thân mật ngay lập tức. Bí quyết thứ nhì là bắt đầu câu chuyện một cách thận trọng, để khách nói trước và chỉ tham dự đúng lúc.
        "Herr Blumenthal, ông đến xem chiếc Cadillac, phải không?" tôi hỏi.
        Blumenthal gật đầu.
        "Xe kia kìa, thưa ông," tôi nói, và chỉ tay.
        "Tôi thấy mà," Blumenthal trả lời.
        Tôi liếc ông ta thật nhanh. Mình phải coi chừng, tôi nghĩ thầm, đây là một ông khách láu cá.
        Chúng tôi băng qua sân. Tôi mở cửa xe và khởi động máy. Rồi tôi giữ im lặng để Blumenthal có đủ thì giờ quan sát. Thế nào ông ta cũng tìm ra một điều gì đấy để chê bai; rồi tôi sẽ bắt chuyện.
        Nhưng Blumenthal không xem xét; ông ta cũng không chê bai. Cũng như tôi, ông không nói gì và chỉ đứng ỳ ra như tượng gỗ. Không biết làm gì hơn, tôi chỉ còn cách đem hết vốn liếng của mình ra dùng.
        Tôi bắt đầu mô tả chiếc Cadillac, chậm rãi và có lớp lang như mẹ nói với con, đồng thời tìm cách khai thác. Nếu ông ta là một người giỏi kỷ thuật, tôi sẽ nói nhiều về động cơ và trục xe; nếu ông ta chẳng biết chi, tôi sẽ nói về tiện nghi và các món trang bị lăng nhăng.
        Thế nhưng ông ấy vẫn kín như bưng. Ông ấy để mặc tôi nói cho đến khi tôi cảm thấy mình rỗng tuếch như một cái bong bóng.
        "Thế ông cần dùng xe để làm gì? Lái trong thành phố hay đi du lịch?" cuối cùng tôi hỏi, hy vọng sẽ tìm ra manh mối.
        "Làm đủ thứ," Blumenthal nói.
        "À há. Và ông sẽ tự lái lấy hay cho tài xế lái?"
        "Tùy chuyện."
        Tùy chuyện. Ông này chẳng khá gì hơn một con vẹt. Rõ ràng, ông ta là một thầy tu dòng Trappists.°
        Để ông ấy linh hoạt hơn, tôi cố thuyết phục ông thử làm một điều gì. Thông thường sau đó, khách sẽ cởi mở hẳn ra. Tôi sợ ông sẽ ngủ gục mất thôi.
        "Một chiếc xe to như thế này nhưng nắp của nó lại nhẹ một cách không ngờ," tôi nói. "Ông thử hạ xuống mà xem. Chỉ cần một tay cũng đủ."
        Nhưng Blumenthal nghĩ là không cần. Ông có thể thấy được điều ấy mà không cần phải thử.
        Tôi đóng cửa xe nghe một cái rầm và lắc mạnh cái tay nắm cửa. "Xe không hư gì cả. Chắc chắn vô cùng. Ông lắc thử nhé."
        Blumenthal không thử. Rõ ràng lắm, cần gì phải thử. Một lão gàn bát sách.
        Tôi đưa ông ấy tới cửa sổ xe. "Cửa quay lên, hạ xuống nhẹ như lông hồng. Vị trí nào cũng giữ chính xác. "
        Ông ta không nhúc nhích.
        "Và kính loại không vỡ," tôi tiếp tục nói, hầu như tuyệt vọng. "Một lợi điểm không lường. Ở đàng kia là chiếc Ford đang sửa . . . ." tôi kể câu chuyện của bà vợ ông chủ hiệu bánh, thêm thắt chút đỉnh, thành thử lại có một đứa trẻ cũng bị thương.
        Nhưng Blumenthal cứ vững như bàn thạch.
        "Tất cả xe hơi đều gắn kính không vỡ," ông ta chặn lại, "như thế có gì đặc biệt đâu."
        "Không phải xe nào cũng có kính không vỡ," tôi bẻ lại, khá chua ngoa, "cùng lắm là kính trước, ở vài loại xe. Nhưng không một xe nào có cửa sổ hai bên to như thế bằng kính không vỡ."
        Tôi bóp kèn và xoay ra mô tả những tiện nghi bên trong -- khoang chứa hành lý, ghế ngồi, các túi bọc, bảng điều khiển; tôi kể lể từng chi tiết; thậm chí còn đưa cho ông ấy cái bật lửa, và lợi dụng thời cơ, mời ông ấy một điếu thuốc, hy vọng có thể lấy lòng -- nhưng ông ấy từ chối.
        "Tôi không hút, cám ơn." ông ta nói, nhìn tôi với vẻ buồn chán đến đổi tôi chợt nghĩ -- có lẽ ông ta không muốn mua bán gì cả, ông ta chỉ lạc đường và muốn mua một thứ hoàn toàn khác --một cái máy đơm khuy hay một cái radio -- và chỉ lẩn quẩn nơi đây trong lúc chưa biết quyết định ra sao.
        "Ta lái thử một vòng nhé, Herr Blumenthal," cuối cùng, quá mệt, tôi đề nghị.
        "Lái thử?" ông ấy nói, như thể tôi vừa nói "ga xe lửa."
        "Vâng ạ, lái thử. Ông cần phải thử, dĩ nhiên, để xem xe chạy như thế nào. Nó cứ như một tấm ván lướt trên mặt đường. Không chừng phải nói là vèo vèo như trên đường rầy. Và máy xe mạnh đến nổi nó lôi cái thân xe nặng như thế, dễ dàng như lôi một cọng lông chim --"
        "Ach, lái thử --." Ông ta làm một cử chỉ dè bỉu. Lái thử không chứng tỏ được gì. Ta chỉ khám phá những trục trặc mãi về sau mà thôi."
        Dĩ nhiên, tên bộ hạ sừng xỏ của quỷ Satan kia, tôi tức tối nghĩ thầm; bộ ngươi nghĩ rằng ta sẽ ngoan ngoãn khai báo cho ngươi hay sao?
        "Nếu thế thì thôi," tôi từ bỏ mọi hy vọng. Ông ta chẳng muốn chiếc xe, rõ ràng thế.
        Nhưng ông ta bỗng quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào mắt tôi, và nhẹ nhàng, cương quyết, mau mắn hỏi: "Xe giá bao nhiêu?"
        "Bẩy ngàn marks," tôi trả lời nhanh như chớp, tỉnh bơ không nháy mắt. Không thể cho ông ta thấy là tôi do dự, dù chỉ trong một giây. Tôi hiểu. Một giây chần chừ có thể làm mất toi cả ngàn bạc. "Bẩy ngàn đồng chẳn," tôi quả quyết, thầm nghĩ, "ông mà trả năm ngàn thì đây bán đứt."
        Nhưng Blumenthal không trả giá. Ông ta chỉ khịt mũi: "Đắt quá!"
        "Dĩ nhiên!" tôi nói, và cho rằng như thế đã xong, về phần mình.
        "Tại sao lại là 'dĩ nhiên;?" Blumenthal hỏi, đột nhiên đầy tính người.
        "Herr Blumenthal," tôi trả lời, "Về chuyện giá cả, ông có bao giờ gặp ai trả lời khác hơn thế không?"
        Một nụ cười hoài nghi trùm lên mặt ông ta. "Đúng. Nhưng quả tình là giá quá cao."
        Tôi không thể tin nỗi tai mình. Đây rồi, cuối cùng, đúng giọng điệu mà tôi mong đợi. Bày tỏ một sự thích thú. Hay đây chỉ là trò giật gân bất ngờ của lão?
        Ngay lúc đó, một chàng trai ăn mặc bảnh bao bước qua cổng. Anh ta lôi từ túi quần ra một tờ báo, kiểm lại số nhà, và bước đến bên tôi, "Ở đây có bán xe Cadillac phải không?"
        Tôi gật đầu và mất hồn nhìn chiếc gậy tre vàng và đôi găng tay da heo.
        "Tôi có thể xem nó không?" anh chàng nói, vô cùng bình thản.
        "Đúng là ở đây," tôi nói; "nhưng ông vui lòng chờ một lát được không, tôi đang bận chút việc. Mời ông vào trong kia ngồi nhé."
        Chàng trai đỏm đáng lắng nghe qua tiếng nổ êm ái của máy xe, lúc đầu có chê bai, nhưng sau đó nét mặt ra vẻ hài lòng, và để tôi dẫn vào văn phòng.
        "Thằng nỡm," tôi gầm vào mặt hắn và vội vàng quay trở lại với Blumenthal.
        °Trappists: một chi nhánh của dòng tu Cistercian, tuân theo luật khổ hạnh thiết lập ở La Trappe năm 1664.
        "Nếu ông lái nó, dù chỉ một lần, ông sẽ có suy nghĩ khác về giá bán," tôi nói. "Ông cứ thử, bao lâu cũng được. Hay một buổi tối nào đó, tôi có thể gọi điện thoại và đến nhà chở ông đi, nếu ông thấy như thế tiện hơn."
        Nhưng cơn phấn khởi phù du đã vụt bay. Một lần nữa, Blumenthal lại đứng ỳ ra như phỗng đá.
        "Đừng bận tâm," ông ta nói, "tôi phải đi ngay. Khi nào muốn thử, tôi vẫn có thể gọi lại cơ mà."
        Tôi nhận ra, tôi không thể làm gì hơn. Không thể thuyết phục lão một chuyện gì.
        "Thôi được," tôi tuyên bố, "nhưng có thể nào ông cho tôi xin số điện thoại, để tôi còn báo cho ông biết, khi có ai đó tỏ ra ưa thích chiếc xe."
        Blumenthal nhìn tôi một cách đầy ý nghĩa. "Từ thích đến mua là một sự cách biệt khá lớn."
        Ông ta lấy ra một hộp xì gà và mời tôi. Ông ta phì phèo -- hiệu Corona-Coronas hẳn hoi, trời ạ! Chắc ông ta có cả núi tiền. Nhưng giờ đây, tôi cũng chẳng màng. Tôi nhận điếu xì gà.
        Ông thân ái bắt tay tôi và bỏ đi. Tôi nhìn theo và nguyền rủa ông, một cách nhẹ nhàng nhưng tới nơi tới chốn. Rồi tôi quay trở lại văn phòng.
        "Sao rồi?" tôi được chào đón bởi chàng trai lịch lãm, Gottfried Lenz. "Cậu đánh giá tớ thế nào? Thấy cậu khổ sở quằn quại ở đấy, tớ nghĩ tớ cần giúp một tay. May làm sao Otto thay y phục ở đây để ra sở thuế. Thấy bộ đồ lớn của cậu ấy đang treo, tớ mặc vào, nhảy qua cửa sổ và trở lại -- một khách hàng nghiêm chỉnh. Tớ diễn xuất cũng khá, hén?"
        "Đại ngốc thì có" tôi trả lời. "Lão ấy láu cá còn hơn hai đứa mình gộp lại. Thấy điếu xì gà này không? Một đồng năm mươi xu một điếu. Cậu làm ông triệu phú co giò chạy mất."
        Gottfried giật điếu xì gà trên tay tôi, đưa lên mũi ngửi và châm lửa. "Tớ cứu cậu thoát khỏi một tay lừa đảo thì có. Triệu phú không hút loại xì gà này. Họ hút thứ giá hai mươi bốn shilling một điếu."
        "Vớ vẫn," tôi trả lời, "những đứa bịp bợm không mang tên Blumenthal. Chúng tự xưng là Bá tước Blumenau này nọ chứ."
        "Lão sẽ trở lại," Lenz nói, lạc quan như thường lệ, thổi phù vào mặt tôi khói điếu xì gà của tôi.
        "Lão không trở lại," tôi quả quyết." Nhưng cậu lấy ở đâu ra cái gậy tre và đôi găng thế nhỉ?"
        "Đồ mượn ấy mà. Trên đường đi, ở tiệm Benn. Tớ quen với một cô bán hàng ở đấy. Không chừng tớ sẽ mua cây gậy. Tớ thích nó."
        Hài lòng với chính mình, anh múa tít cây gậy to.
        "Gottfried," tôi nói. "Thật uổng phí. Cậu biết không -- cậu nên đầu quân vào một gánh ca nhạc tạp kỹ. Đấy mới là nơi thích hợp cho cậu."
        "Có người gọi điện thoại cho cậu," Frida, bà giúp việc mắt lác của Frau Zalewski nói, khi tôi bất ngờ trở về nhà, vào giờ ăn trưa.
        Tôi quay ngoắt lại, "Hồi nào?"
        "Khoảng nửa tiếng trước. Một cô gái."
        "Thế cô ấy nói chi?"
        "Đến tối cô ấy sẽ gọi lại. Nhưng tôi bảo cô ấy rằng chẳng ích gì, cậu không bao giờ có mặt ở nhà buổi tối."
        Tôi trố mắt. "Cái gì? Bác bảo cô ấy như thế à? Herrgott, đã đến lúc cần có người dạy cho bác cách sử dụng điện thoại."
        "Tôi biết cách dùng điện thoại mà," Frida ngạo nghễ. "Và hầu như cậu có ở nhà đêm nào đâu."
        "Chuyện ấy chẳng ăn nhập gì tới bác," tôi rủa. "Lần sau, không chừng bác sẽ bảo cô ấy là vớ của tôi thủng đầy lổ."
        "Tôi sẽ nói, nếu cậu muốn," Frida trả đũa, cặp mắt viêm đỏ nhìn tôi đầy ác ý. Chúng tôi là kẻ thù lâu đời của nhau.
        Tôi chỉ muốn nhấn bà ta vào nồi súp, nhưng cố kiềm chế, mò trong túi lấy ra một đồng mark, ấn vào tay bà ta và hỏi bằng giọng cầu hòa: "Cô ấy có xưng tên không?"
        "Không," Frida đáp.
        "Thế giọng nói của cô ấy ra sao? Có phải hơi trầm và khàn?"
        "Tôi không biết," Frida lãnh đạm nói, như thể tôi chưa bao giờ dúi một đồng mark nào vào tay bà ta.
        "Bác đeo cái nhẫn đẹp quá," tôi nói, "thật ưa nhìn; nào, bây giớ bác cố nhớ xem."
        "Không," Frida trả lời và một vẻ đắc thắng độc địa sáng trên mặt.
        "Vậy bác cút xéo ngay," tôi nói và bỏ đi.
        Đúng sáu giờ tôi lại có mặt ở nhà. Khi mở cửa, tôi nhìn thấy một quảng cảnh lạ thường. Frau Bender, đứng ở hàng lang, các bà các cô trong nhà vây quanh. "Tới đây nào," Frau Bender nói.
        Nguyên nhân của cuộc tụ tập là một em bé chừng sáu tháng, điểm trang đầy nơ, nằm trong nôi. Frau Bender mang bé từ viện mồ côi về. Đó là một đứa trẻ hoàn toàn bình thường, thế nhưng các bà các cô cúi nhìn, xuýt xoa trầm trồ một cách lố bịch như thể đây là đứa bé đầu tiên được tạo ra trên cõi đời này. Họ tắc lưỡi, vờn những ngón tay trước mắt sinh vật nhỏ bé ấy, và dẫu môi âu yếm. Ngay cả Erna Bonig, trong chiếc kimono thêu rồng, cũng tham gia vào cuộc liên hoan tình mẫu tử cao thượng này.
        "Thằng bé trông hấp dẫn làm sao, phải không?" Frau Zaleuski hỏi, cặp mắt ướt rượt.
        "Hai mươi hay ba mươi năm nữa mới có thể nói," tôi trả lời, vừa liếc về phía máy điện thoại. Lạy trời đừng ai gọi vào lúc này, khi họ còn chùm nhum ở đấy.
        Tôi nhìn. Nó là một em bé cũng như những em bé khác. Tôi chẳng thấy nó có gì xuất sắc. Cùng lắm, nó có đôi tay cực kỳ bé bỏng, và thật lạ lùng nếu ta nhớ rằng, ta cũng đã từng có lần nhỏ xíu như thế.
        "Tội nghiệp thằng bé," tôi nói, "nó chẳng biết những gì sẽ chờ đón. Tôi không hiểu, đến thời của nó, sẽ có loại chiến tranh nào."
        "Đừng kinh khủng như thế," Frau Zalewski đáp. "Thế cháu không có xúc cảm nào hay sao?"
        "Có nhiều là đàng khác," tôi giải thích, "nếu không, cháu đã chẳng có những ý nghĩ ấy." Và như thế, tôi lui về phòng mình.
        Mười phút sau chuông điện thoại reo. Tôi nghe tên tôi và ra khỏi phòng. Đúng như tôi nghĩ, cả đám vẫn còn đấy! Chẳng những thế, họ còn không nói nhỏ lại trong khi tôi phải dí ống nghe vào tai và nhận ra tiếng Patricia Holmann, cám ơn tôi về bó hoa. Ngược lại, đứa bé, rõ ràng là người hiểu biết nhất bọn, và đã chán cái trò khỉ ấy, thình lình khóc ầm lên.
        "Xin lỗi," tôi tuyệt vọng nói . "Tôi không nghe được gì cả, ở đây có một em bé đang quấy khóc; tuy không phải là em bé của tôi."
        một tình huống khó xử; mắt tôi phải giận dữ liếc nhìn tổ hợp các bà mẹ, trong lúc môi phải thốt những từ thân thiện vào ống nói; từ đỉnh đầu đến chóp mũi, tôi là hậu thân một cơn bão tố, từ mũi đến cầm, là cảnh trí mùa xuân ươm nắng; thật là một điều huyền nhiệm rằng, mặc dù tất cả những thứ ấy, tôi cũng đã thành công trong việc hẹn gặp lại nàng buổi tối hôm sau.
        "Bác cần phải gắn một buồng điện thoại cách âm," tôi nói với Frau Zalewski.
        Nhưng bác đã sẳn sàng. "Tại sao phải thế?" bác phản ứng ngay. "Bộ cháu có nhiều thứ cần phải che dấu lắm sao?"
        Tôi không nói nữa và biến đi. Không ích lợi gì, cãi nhau với những bản năng làm mẹ đang kích động. Họ có sự ủng hộ của toàn thế thế giới.
        Đêm ấy, lũ chúng tôi sẽ tụ họp ở nhà Gottfried. Tôi ăn tối ở một quán nhỏ rồi ra đi. Trên đường, để ăn mừng, tôi tự thưởng cho mình một chiếc cà vạt mới, mua từ một cửa hàng thời trang. Tôi không ngừng ngạc nhiên vì sự việc đã diễn ra êm đẹp, và tôi tự nhắc nhở rằng, ngày mai tôi phải nghiêm trang như một ông giám đốc nhà vĩnh biệt.
        Tư gia của Gottfried là nơi đáng cho ta thưởng ngoạn. Ở đấy trưng bày những lưu niệm anh ấy mang về từ Nam Mỹ. Các tấm chiếu bằng cói màu sắc tươi vui treo trên vách, nhiều mặt nạ, một cái thủ cấp phơi khô, các lục bình hình dạng cổ quái, các ngọn giáo và, như những tác phẩm thời kháng chiến, một bộ sưu tập chiếm trọn một bức vách: ảnh các thiếu nữ da đỏ và thổ dân Creoles -- da nâu, đáng yêu, những sinh vật uyển chuyển với nét duyên dáng và hững hờ không thể tả.
        Ngoài Lenz và Koster, còn có Braumuller và Grau. Oscar Braumuller, rám nắng, tóc đỏ như đồng, ngồi trên tay ghế sô pha, thích thú ngắm những bức ảnh của Gottfried. Anh ấy là tay đua cho một hảng xe hơi và bạn vong niên của Koster. Anh ấy tham dự cuộc đua thứ sáu, cuộc đua mà Otto đã ghi danh với Karl. Ferdinand Grau, to lớn, béo phì và ngà ngà say, ngồi ở bàn. Khi trông thấy tôi, anh đưa bàn tay hộ pháp ra.
        "Bob," anh nhừa nhựa nói, "cậu định làm gì ở đây với bọn trời đánh này hử? Ở đây không có gì cho cậu. Đi ngay. Cho toàn mạng. Khi còn đủ thì giờ."
        Tôi liếc về phía Lenz. Anh ấy nháy mắt với tôi. "Ferdinand đang xỉn. Từ hai ngày nay, anh ấy uống cho những người quá cố yêu dấu. Anh ấy vừa bán một bức tranh truyền thần và túi rủng rỉnh xu."
        Ferdinand là họa sĩ. Và có lẽ anh ấy đã chết đói từ lâu, nếu như không có sở trường độc đáo. Theo yêu cầu của tang gia hiếu thảo, chỉ dựa trên ảnh chụp của người đã mất, anh vẽ những tấm chân dung sống động tuyệt vời. Anh kiếm sống bằng cách đó -- thực tình mà nói, khá giả. Tranh phong cảnh tuyệt đẹp của anh, không ma nào mua. Việc này làm cho câu chuyện của anh nhuốm màu sắc bi quan.
        "Lần này là một ông chủ quán rượu, Bob ạ," anh nói; "một ông chủ quán rượu có bà cô giàu sụ trong ngành dầu, dấm." Anh rùng mình. "Kinh khiếp quá!"
        "Ferdinand này," Lenz phản đối. "cậu không nên dùng những từ ngữ nặng nề như thế. Cậu sống nhờ lòng hiếu để, một trong những đức tính cao đẹp nhất của con người."
        "Không đúng," Ferdinand tuyên bố, "tôi sống nhờ vào mặc cảm tội lỗi. Hiếu thảo gì đây ? chẳng qua chỉ là lòng ân hận. Người ta muốn bù đấp lại những ước muốn và hành vi xấu xa mà họ đã gây ra cho thân nhân của họ lúc sinh tiền." Anh chậm rãi lấy tay vuốt vầng trán đam mê. "Cứ nghĩ xem, bao nhiêu lần ông chủ quán rượu của tớ đã ao ước bà cô của ông ấý chết phức đi! Để chuộc lỗi, giờ đây ông ấy đặt tớ vẽ tranh cho bà bằng những màu sắc đẹp đẽ nhất và treo lên tường bên trên sô pha. Ông ta thích bà ấy như thế hơn. Lòng hiếu thảo! Nhân loại chỉ nhớ tới những đức tính hiếm hoi của họ khi đã quá trễ. Và người ta sẽ an ủi bằng cách nghĩ rằng họ có thể cư xử tồi tệ còn hơn thế, và coi đó như là điều công chính. Con người muốn người khác có những đức tính -- đức hạnh, nhân từ và độ lượng -- để họ có thể lợi dụng."
        Lenz nhoẽn cười. "Cậu đang tấn công vào nền tảng của xã hội, Ferdinand."
        "Nền tảng của xã hội là lòng ganh tỵ, sợ hãi và thối nát," Grau bẻ lại. "Loài người xấu xa nhưng lại yêu thích điều thiện -- do người khác làm." Anh chìa ly rượu của mình cho Lenz. "Vậy nên, hãy rót cho tớ thêm một ly và đừng nói suốt cả đêm. Để cho người khác được góp lời với."
        Tôi leo qua ghế sô pha đến chỗ Koster đứng. Một ý tưởng đột nhiên nảy sinh trong đầu. "Otto, xin giúp tớ việc này, Tớ muốn sử dụng chiếc Cadillac tối mai."
        Đang mãi mê nhìn ngắm ảnh một vũ công Creole ăn mặc phong phanh, Braumuller ngừng lại.
        "Thế, cậu đã biết quẹo cua?" anh gạn hỏi. "Tớ nghĩ cậu chỉ biết lái một đường thẳng bong, nếu có ai kềm tay lái cho cậu."
        "Đừng lo, Oscar," tôi trả lời, "tụi tớ sẽ cho cậu hít bụi trong cuộc đua thứ sáu."
        Braumuller cười ngoặt ngoẽo gần như tắc thở.
        "Sao, có được không, Otto?" tôi thúc hối.
        "Xe không có bảo hiểm, Bob," Koster nói.
        "Tớ sẽ lái chậm như rùa bò và bóp kèn om trời như xe buýt. Chỉ vài kí lô mét khỏi thành phố."
        "Otto khép mắt lại cho đến lúc chúng chỉ còn là hai vạch nhỏ và anh mĩm cười. "Theo tớ, được đấy Bob."
        "Cậu muốn chiếc xe, tớ đoán, để đi đôi với cái cà vạt mới?" Lenz vừa bước tới, hỏi.
        "Nín đi," tôi nói, xô anh sang một bên.
        Nhưng anh không buông tha.
        "Bé ơi, cho xem nào!" Anh mân mê mảnh lụa. "Đẹp. Thằng bé của chúng ta đĩ trai thế. Tớ nghi hắn sẽ dự hội chiêu thê."
        "Hôm nay cậu chẳng làm gì được tớ đâu, đồ nghệ sĩ thay áo," tôi trả lời.
        "Hội chiêu thê?" Ferdinand Frau ngẩng đầu. "Và tại sao chú ấy không dự hội chiêu thê được nhỉ?" Anh trở nên sống động và quay lại nhìn tôi. "Đi đi, Bob. Cậu có đủ điều kiện. Một tính chất đơn giản cần thiết cho tình yêu. Cậu sở hữu điều ấy. Gìn giữ nó. Đấy là quà tặng của thượng đế. Không bao giờ có lại, một khi đã mất."
        "Tuy thế, đừng lo lắng nhiều, Bob," Lenz cười toe toét. "Chẳng có gì phải hổ thẹn khi ta sinh ra đời ngờ nghệch. Chết khờ dại mới xấu hổ."
        "Gottfried, nín đi!" Chỉ với một cái nhấc tay, Grau đã đẩy anh ấy sang một bên. "Đừng can dự vào, đồ lãng mạn cuối mùa. Chẳng ai thèm thương hại cậu."
        "Ferdinand ạ, nếu cần, cậu cứ nói." Lenz đáp. "Nói ra được, thường sẽ nhẹ lòng hơn."
        "Cậu, một người cáo bệnh trốn việc," Grau tuyên bố. "Chính cậu, là người đáng thương, theo chủ nghĩa thoát ly, xa vời thực tế."
        "Thế thì tất cả chúng ta đều cá mè một lứa," Lenz cười. "Chúng ta chỉ sống bằng ảo tưởng và tín nhiệm."
        "Vâng, đúng thế," Grau nói, nhìn chúng tôi dưới hàng chân mày dầy rậm. "Bằng ảo vọng dựa vào quá khứ, và niềm tin vay mượn ở tương lai." Rồi anh quay lại tôi. "Tính chất mộc mạc," tớ đã nói như thế, Bob. Chỉ có những ai ganh tỵ mới gọi điều ấy là sự khờ dại. Cậu đừng lo bị thua thiệt. Đấy không phải là một khuyết điểm; đấy chính là tài năng."
        Lenz muốn cắt ngang, nhưng Ferdinand vẫn tiếp tục. "Cậu biết tớ muốn nói gì. Một lòng can đảm tròn vẹn, chưa bị xói mòn bởi sự nghi ngờ và khôn ngoan quá mức. Parsifal ngu ngốc. Nếu là một người thông minh sắc sảo, hẳn ông ta chẳng thể dành được Chén Thánh. Chỉ có những người khờ khạo mới thành tựu trong đời; những người khác, nhìn thấy quá nhiều chướng ngại và do dự trước khi bắt đầu. Trong những lúc khó khăn, sự ngây thơ chân chất là món quà vô giá nhất -- là chiếc áo tàng hình, che giấu mối hiểm nguy mà những người khôn ngoan vượt bực thường đâm đầu vào như bị thôi miên."
        Anh tợp một ngụm rượu và nhìn tôi bằng đôi mắt xanh, mênh mang, như một mảng trời trên gương mặt anh. "Đừng bao giờ muốn biết quá nhiều, Bob. Càng ít chừng nào, càng dễ sống chừng ấy. Kiến thức giải phóng chúng ta -- nhưng làm chúng ta đau khổ. Nào, hãy uống với tớ để chúc tụng sự đơn giản, khờ dại và những thứ tùy thuộc vào nó -- tình yêu, niềm tin ở tương lai, ước mơ có hạnh phúc; hãy uống để chúc tụng sự ngu ngơ tuyệt vời, chúc tụng một thiên đàng đã mất..."
        Mụ cứng rắn và thô kệch; trong khi, Grau, mặc dù thân hình đồ sộ, lại nhạy cảm và mong manh. Anh không thể thoát khỏi tay mụ và có lẽ, anh cũng chẳng màng. Anh mới bốn mươi hai tuổi.
        Mặc dù tôi biết anh chỉ say sưa, nhưng tôi vẫn rùng mình rất khẻ. Anh không thường đến đây; anh hay uống trong xưởng vẽ một mình. Như thế lại càng gục nhanh.
        Một nụ cười lướt qua mặt, anh ấn ly rượu vào tay tôi.
        "Uống đi, Bob. Và tự cứu. Hãy nghĩ về những điều tớ vừa nói."
        "Vâng, Ferdinand ạ."
        Lenz mở máy hát. Anh có một chồng đĩa nhạc của người da đen và anh cho máy chạy những bài -- về Mississippi, về mùa thu hoạch bông vải, và về những đêm oi ả trên sông nước nhiệt đới xanh rờn.

        Comment


        • #5
          Chiến hữu Chương 6



          Erich Maria Remarque

          Chiến hữu

          Chương 6

          Patricia Hollman sống trong một chung cư to, màu vàng, cách lòng đường một vệt cỏ hẹp. Trước cửa chính là ngọn đèn đường. Tôi đậu chiếc Cadillac ngay dưới đó. Trong ánh sáng lung linh, nó trông như một chị voi đen, khổng lồ, bóng như sơn mài.
          Tôi đã hoàn thiện bộ cánh của mình. Ngoài cà vạt, còn thêm mũ và găng tay mới. Tôi cũng mặc chiếc áo khoác nâu của Lenz, dệt bằng thứ len Shetland thượng hạng. Trang bị như thế, tôi hy vọng sẽ xóa bỏ vĩnh viễn, nếu chẳng may, bất kỳ ấn tượng say sưa ban đầu.
          Tôi bóp còi. Lập tức, như hỏa tiến lao khỏi bệ phóng, đèn lần lượt chớp sáng ở năm khung cửa sổ, từ thấp lên cao. Thang máy bắt đầu kêu rầm rì. Tôi nhìn nó hạ thấp, như một chiếc giỏ mây sáng trưng từ trời cao thả xuống. Nàng mở cửa và bước nhanh xuống mấy bậc thềm. Nàng vận một chiếc áo lông ngắn và một cái váy bó sát màu nâu.
          "Chào anh!" Nàng đưa tay. "Rất vui có dịp ra ngoài. Tôi ở nhà suốt ngày hôm nay."
          Tôi thích cách nàng bắt tay -- chặt hơn ta tưởng. Tôi ghét những người đưa bàn tay mềm oặt như cá ươn.
          "Thế, tại sao cô không nói trước?" tôi trả lời. "Tôi có thể đón cô từ trưa."
          "Vậy, anh có nhiều thì giờ rỗi rảnh nhỉ?" nàng cười.
          "Không hẳn thế. Nhưng tôi có thể sắp xếp để ra về sớm."
          Nàng hít một hơi dài. "Không khí tuyệt vời -- như hương Xuân."
          "Cô tha hồ hít thở," tôi nói. "Cô có muốn ra khỏi thành phố, đi qua rừng? Cô thấy đấy, tôi có một chiếc xe hơi." Tôi hững hờ chỉ chiếc Cadillac, làm như nó là một xe Ford cũ.
          "Cadillac?" Ngạc nhiên, nàng nhìn tôi. "Xe của anh?"
          "Vâng, tối nay. Những lúc khác, nó thuộc về xưởng. Chúng tôi đang o bế nó, hy vọng sẽ kiếm được một vố để đời."
          Tôi mở cửa xe. "Cô nghĩ sao, nếu chúng ta ghé 'Chùm Nho' và ăn tối ở đấy trước?"
          "Tất nhiên sẽ ăn tối, thế nhưng, sao lại chọn 'Chùm Nho'?"
          Tôi bối rối nhìn nàng. "Chùm Nho" là quán ăn sang trọng duy nhất mà tôi biết.
          "Quán mở cửa," tôi nói. "Đấy là tất cả những gì tôi biết. Và tôi nghĩ chúng ta có bổn phận với chiếc Cadillac."
          Tôi choáng váng. Ý tưởng của tôi về một buổi tối nghiêm túc tan biến vào khoảng không. "Thế thì cô nên đề nghị một nơi nào," tôi nói. "Những chỗ tôi biết đều có phần luộm thuộm. Tôi không nghĩ chúng xứng đáng với cô."
          "Làm sao anh biết?"
          "Tôi có thể thấy --"
          Nàng nhìn tôi thật nhanh: "Chúng ta cứ thử, xem sao."
          "Được thôi," tôi đành buông bỏ toàn bộ kế hoạch của mình. "Vậy, tôi biết một chỗ, nếu cô không dễ khiếp đảm. Chúng ta sẽ đến quán Alfons'."
          "Alfons điều hành một quán bia lộ thiên," tôi nói; "anh ấy là bạn thân của Lenz."
          Nàng cười to. "Vậy, Lenz có bạn khắp nơi."
          Tôi gật đầu. "Anh ấy kết bạn dễ dàng. Cô đã chứng kiến điều ấy, với Binding."
          "Vâng, quả thế." nàng trả lời. "Nhanh như chớp."
          Chúng tôi lái đi.
          Alfons là một người nặng nề to lớn, it lời. Lưỡng quyền cao ... Mắt nhỏ ... Tay áo xắn lên... Bắp thịt như khỉ đột... Nếu không vừa ý một người nào, kể cả thành viên Công Đoàn Thể Thao Tổ Quốc, anh sẽ đích thân quẳng gã ấy ra đường. Với các khách hàng thực sự khó chơi, anh có một cây búa, dấu dưới quầy. Quán tọa lạc ở một địa điểm tiện nghi; cạnh bịnh viện. Giúp Alfons đỡ phí chuyển thương.
          Với bàn tay đầy lông, anh lau cái bàn gỗ thông màu nhạt.
          "Bia?" anh hỏi.
          "Whisky, và một ít thức ăn," tôi nói.
          "Còn quý cô thì sao?" Alfons hỏi.
          "Quý cô cũng gọi whisky," Patricia Hollmann nói.
          "Anh tự xẻ thịt?" tôi hỏi.
          "Tất nhiên."
          "Nhưng có lẽ cô ấy hợp với một món nhẹ nhàng hơn, Alfons."
          "Không hẳn đâu," Alfons phản đối. "Hãy để cô ấy xem miếng sườn."
          Anh gọi người hầu bàn đem ra một phần sườn. "Một chị lợn béo tốt," anh bảo. "tôi chọn hai con hạng nhất."
          "Đúng là món chính hẩu," Patricia Hollmann trả lời chắc nịch, trước sự ngỡ ngàng của tôi, như thể đã lăn lộn trong nghề lâu năm.
          Alfons nháy mắt. "Vậy ta gọi hai phần?"
          Nàng gật đầu.
          "Hay lắm! Tôi sẽ đích thân chọn thịt."
          Anh bỏ vào bếp.
          "Tôi xin lấy lại nỗi ngờ vực về quán ăn này," tôi nói. "Cô đã nhanh chóng làm xiêu lòng Alfons. Anh ấy tự tay chọn thịt -- thông thường, anh ấy chỉ làm như thế với khách rất quen."
          Alfons trở lại. "Tôi cũng thêm vào một đòn xúc xích tươi."
          "Ý không tệ lắm," tôi nói.
          Alfons nhìn chúng tôi một cách độ lượng. Whisky được đem ra. Ba cái ly. Một cho Alfons.
          "Nào, pros't!" anh nói. "Cầu trời cho con cái chúng ta có cha mẹ giàu có."
          Chúng tôi chạm ly. Cô gái không nhấm nháp. Nàng nghiêng ly uống một mạch.
          “Chọn đúng món ngon,” Aflons nói và chậm rãi đi về quày.
          “Cô có thích hương vị của loại whisky này? Tôi hỏi.
          Nàng lắc đầu. “Hơi mạnh một chút. Nhưng tôi không thể để Alfons thất vọng.”
          “Đương nhiên,” nàng nói. “Nhưng dường như anh ấy không có nhược điểm.”
          “Có đấy.” Tôi chỉ tay vào cái bàn đặt cạnh quầy rượu. ”Kia kìa.”
          “Cái gì thế? Máy hát?”
          “Không phải máy hát. Hợp xướng thánh ca. Alfons rất yêu nhạc hợp xướng. Chưa bao giờ thích nhạc khiêu vũ hay nhạc cổ điển – hoàn toàn là hợp xướng mà thôi. Hợp xướng giọng nam, giọng nam và nữ – tất cả các dĩa hát ở đấy đều là thánh ca. Kia -- cô thấy không. Anh ấy đang đi tới."
          “Ăn được không?” Alfons hỏi.
          “Cứ như mẹ nấu ở nhà,” tôi đáp.
          “Cô ấy cũng thích chứ?”
          “Món sườn heo ngon nhất đời tôi,” cô gái dõng dạc nói.
          Alfons gật đầu thỏa mãn. “Bây giờ tôi sẽ chơi dĩa nhạc mới nhất. Sẽ làm các bạn ngạc nhiên.”
          Anh ấy đi tới chỗ máy hát. Tiếng kim sột soạt cào lên mặt dĩa và một ban hợp xướng nam vút cao giọng hát vui tươi bài “Im lặng của Núi Rừng.” Quả là một sự im lặng náo nhiệt.
          Từ đầu, cả quán đều im phăng phắc. Alfons có thể rất nguy hiểm nếu có ai tỏ ra thiếu tôn kính. Anh đứng ở quày, đôi tay lông lá đỡ lấy càm. Nét mặt anh thay đổi theo của âm nhạc. Anh mơ màng – như một con khỉ đột có thể mộng mơ. Hợp xướng thánh ca tạo ra một hiệu quả vượt bực cho anh; anh trở nên dịu dàng và đa cảm như một con bê. Khi anh còn trẻ và nóng tính hơn, vợ anh thường để sẳn ở máy hát một trong những dĩa nhạc yêu chuộng nhất của anh, để nhỡ khi anh hung hăng và xuất hiện với cây búa, chị có thể vặn nhạc lên; rồi anh sẽ hạ búa, lắng nghe và bình tâm. Không cần phải làm như thế nữa: vợ anh đã mất và chân dung của chị treo trên quày rượu. Ferdinand Grau vẽ bức tranh ấy, đấy là lý do Ferdinand luôn luôn có bàn ăn miễn phí ở đây– ngoài ra, Alfons đã lớn tuổi và chín chắn hơn xưa.
          Dĩa nhạc chấm dứt. Alfons tiến đến.
          “Tuyệt diệu,” tôi nói.
          “Nhất là ca sĩ chính giọng nam cao, ” Patricia Hollmann phụ họa.
          “Chính xác,” dường như đã quay về tình trạng cũ, Alfons nói.
          “Thế ra cô cũng biết ít nhiều. Người ca sĩ giọng nam cao ấy, thật đặc biệt, không lẫn được với ai."
          Chúng tôi đứng trên vĩa hè. Những ngọn đèn đường trước quán lay lắt chiếu ánh sáng và bóng tối lên mê cung cành lá của một gốc cây già. Những cành cây vốn đã óng mượt màu xanh lục và trong vùng sáng chập chờn bất định từ bên dưới, dường như cây cao hơn và to ra -- như thể ngọn của nó mất hút trong vũng tối u buồn trên cao -- giống một cánh tay khổng lồ, vươn dài trong ước muốn mãnh liệt nắm bắt bầu trời.
          Patricia Hollmann khẻ rùng mình.
          "Cô lạnh à?" tôi hỏi.
          Nàng bẻ cao cổ áo và dấu đôi bàn tay vào ống tay áo. "Chỉ thoảng qua. Trong quán ăn khá ấm áp."
          "Cô mặc không đủ," tôi nói. "Ban đêm trời vẫn lạnh."
          Nàng lắc đầu. "Tôi không thích mặc những thứ y phục dầy cộp, nặng nề. Sẽ tuyệt khi trời ấm trở lại. Tôi không chịu được lạnh. Nhất là ở thành phố."
          "Trong xe Cadillac sẽ ấm hơn," tôi nói. "Tôi đã cẩn thận mang theo một tấm chăn nhỏ."
          Tôi giúp nàng ngồi vào xe và phủ chăn lên gối nàng. Nàng kéo chăn lên cao. "Tuyệt quá! Giờ tôi ấm lắm rồi. Cái lạnh làm ta khổ sở."
          "Không chỉ cái lạnh." Tôi xoay tay lái. "Bây giờ chúng ta đi chơi nhé?"
          Nàng gật đầu. "Vâng ạ."
          "Đi đâu?"
          "Chạy chầm chậm. Đi đâu không thành vấn đề."
          "Đúng thế."
          Tôi nổ máy xe và chúng tôi lái chậm và loanh quanh không mục đích trong thành phố. Đó là lúc mật độ giao thông dầy đặc nhất trong đêm. Xe chúng tôi nhẹ nhàng lăn bánh, động cơ nổ êm đềm. Chiếc xe cũng có thể là con tàu im ả lướt trên dòng kênh vui vẻ của cuộc đời. Những con đường lần lượt trôi qua -- những cánh cửa màu sắc tươi sáng, những ánh đèn, từng dãy đèn đường, buổi tối nhu nhã dịu dàng sủi bọt hương đời, đêm sáng lung linh trong cơn sốt nhẹ, và trên tất cả, giữa những mái nhà, là bầu trời bao la, xám màu chì mà ánh đèn thành phố hắt lên.
          Cô gái ngồi im lặng cạnh tôi; qua khung cửa xe, ánh sáng và bóng tối thay nhau phơn phớt trên mặt nàng. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn nàng; nàng làm tôi nhớ đến đêm đầu tiên gặp gỡ. Nét mặt nàng giờ đây nghiêm nghị hơn, xa lạ hơn, tuy rất xinh đẹp; đó chính là nét mặt đã khiến tôi xúc động và không thể nào quên. Với tôi, dường như nó mang một bí ẩn nào đó của sự tỉnh lặng tìm thấy trong những sự vật, gần gụi với thiên nhiên -- cây cỏ, trời mây, loài vật-- và đôi khi, ở một người đàn bà.
          Chúng tôi đã lái đến ngoại ô, đường xá thưa vắng hơn. Gió thổi mạnh thêm. Như gió muốn đẩy xua đêm phia trước. Ở một quảng trường, nơi các ngôi nhà nhỏ đang yên giấc trong những khu vườn con, tôi dừng xe.
          Patricia Hollmann làm một cử chỉ như vừa tỉnh giấc.
          "Đáng yêu thế," sau một chốc, nàng nói. "Nếu sở hữu một chiếc xe, tôi sẽ lái chầm chậm khắp nơi như thế mỗi đêm. Có một điều gì đó siêu thực khi ta lướt đi không tiếng động. Ta vừa tỉnh thức vừa mơ màng. Và rồi, tôi có thể hình dung, có người không muốn gặp ai, vào buổi tối -- "
          Tôi lấy trong túi ra gói thuốc lá. "Người ta cần một thứ gì đó vào buổi tối, hử?"
          Nàng gật đầu. "Buổi tối, vâng. Thật kỳ quặc, khi màn đêm buông xuống."
          Tôi xé bao thuốc. "Thuốc lá Mỹ, cô thích chứ?"
          "Vâng, có còn hơn không."
          Tôi quẹt diêm cho nàng. Trong một thoáng, đóm lửa ấm áp, gần gủi của que diêm thắp sáng gương mặt nàng và bàn tay tôi và đột nhiên, tôi có cảm giác điên rồ là chúng tôi thuộc về nhau, đã từ lâu.
          Tôi hạ kính xe cho khói thuốc thoát ra.
          "Cô muốn lái xe không?" tôi hỏi. "Chắc cô sẽ thấy thú vị."
          Nàng quay lại. "Tôi muốn chứ; nhưng tôi không biết lái."
          "Cô thực sự không biết?"
          "Không. Tôi chưa học bao giờ."
          Tôi nhìn thấy cơ hội. "Nhưng Binding hẳn đã dạy cô từ lâu," tôi nói.
          Nàng cười. "Binding yêu xe của anh ấy lắm. Không cho ai đến gần."
          "Ngốc thế," tôi tiếp tục, vui vì có dịp dè bỉu anh Béo. "Còn tôi, tất nhiên sẽ cho cô lái."
          Tôi để tất cả những lời dặn dò của Koster bay theo gió và bước xuống xe, đổi chỗ với nàng. Nàng bức rức. "Nhưng đã nói, thực tình tôi không biết lái."
          "Cô sẽ lái." tôi trả lời. "Chỉ có điều, cô chưa biết cách mà thôi."
          Tôi chỉ nàng cách sang số và dùng bàn đạp. "Rồi đấy," tôi nói, "cô lái đi."
          "Đương nhiên là không." Tôi nhanh tay đẩy cần, vào số.
          "Chao ơi!" Patricia Hollmann kêu. "Nó chạy."
          "Thì xe làm ra để chạy mà. Đừng sợ. Nhấn thêm ga, có tôi trông chừng."
          Nàng tuyệt vọng ôm chặt tay lái và lo lắng dán mắt vào con đường trước mặt. "Chúa ơi, chúng ta chạy nhanh lắm, phải không?"
          Tôi liếc đồng hồ tốc độ. "Cô đang lái hai mươi lăm cây số một giờ. Trên thực tế, chỉ chừng hai mươi. Lái đường trường như thế là 'siêu' lắm đấy."
          "Tôi có cảm giác như tám mươi cây số một giờ."
          "Coi chừng," tôi nói, "cảnh sát kìa."
          "Tôi có nên dừng lại không?"
          "Trễ rồi."
          "Và nếu họ bắt được, chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi không có bằng lái."
          "Thì cả hai đứa ngồi tù."
          "Trời đất ơi!" kinh hoảng, nàng nhấp thắng.
          "Nhấn ga!" tôi nói. "Nhấn mạnh vào. Chúng ta phải vượt qua, nhanh và kiêu hảnh. Táo tợn là cách đối phó tốt nhất."
          Người cảnh sát không mảy may để ý đến chúng tôi. Cô gái thở phào nhẹ nhỏm.
          "Tôi chưa bao giờ biết cảnh sát giao thông có thể giống như rồng phun lửa thế đấy," nàng nói, khi đã bỏ xa anh ta chừng một trăm mét.
          "Họ chỉ giống thế khi chúng ta đến gần họ." Tôi từ từ hãm phanh. "Có con đường nhỏ và vắng đây rồi. Chúng ta sẽ thực tập nghiêm chỉnh. Trước hết, hãy rồ máy chạy rồi ngừng."
          Patricia làm xe tắt máy mấy lần. Nàng mở thêm vài cúc chiếc áo khoác lông thú. "Nóng cả người! Nhưng tôi phải cố tập."
          Nàng ngồi, sốt sắng và chăm chú quan sát những gì tôi làm. Sau đó, kêu khẻ đầy lo lắng, nàng bẻ lái quẹo ở các góc phố và nàng rất e sợ những ánh đèn xe ngược chiều, như thể chúng là quỷ sứ, và hảnh diện sau khi vượt qua. Chẳng bao lâu, trong khoảng không gian nhỏ bé lờ mờ soi bởi ánh điện của bảng đồng hồ xe, cảm giác của tình đồng đội, thứ tình cảm bừng nở khi ta gặp những vấn đề kỹ thuật và thực dụng, đã phát sinh; và một giờ rưỡi sau đó, khi đổi chỗ và tôi lái về, chúng tôi trở nên quen thuộc như đã rút gan ruột, chia sẻ tất cả dĩ vãng cho nhau.
          Tôi dừng xe ở vùng Nikolaistrasse. Chúng tôi đậu ngay dưới tấm quảng cáo phim màu đỏ. Nhựa đường ánh lên, tím tái. Trên vĩa hè là một vũng đen bóng loáng.
          "Thế là," tôi nói. "Bây giờ ta xứng đáng được uống một chút gì đó. Chúng ta nên đi chỗ nào đây?"
          Patricia Hollmann nghĩ ngợi. "Chúng ta hãy trở lại cái quán rượu dễ thương có chiếc thuyền buồm," nàng đề nghị.
          Tôi chợt hoảng. Chàng trai lãng mạn cuối cùng, chắn chắn thế, đang ngồi trong quán ấy. Tôi có thể hình dung ra nét mặt của anh...
          "Ach," tôi gạt đi, "chỗ ấy không phải là nơi xuất sắc nhất. Có những quán hay hơn nhiều."
          "Tôi không biết -- tôi nghĩ, vừa mới đây, quán ấy được lắm mà."
          "Thật sao?" tôi ngạc nhiên hỏi. "Cô cho là vừa mới đây, quán ấy được lắm?"
          "Vâng," nàng cười to, trả lời. "Rất được."
          Quả thế, tôi nghĩ, và thật đáng đời tôi.
          "Nhưng giờ này chắc quán đông người," tôi cố vớt vát.
          "Ta cứ thử ," nàng đáp.
          "Vâng, ta có thể." Tôi cân nhắc những gì nên làm.
          Khi đến nơi, tôi nhanh nhẹn bước khỏi xe. "Tôi vào xem sao. Tôi sẽ trở lại ngay."
          Không một ai quen biết ở đấy, ngoại trừ Valentin. "Thế Gottfried đã đến chưa?" tôi hỏi.
          "Tiếc nhỉ," tôi lấy lại hơi thở. "Phải chi tôi gặp họ thì hay lắm."
          Tôi trở lại xe. "Chúng ta liều một phen," tôi giải thích. "Hôm nay không đến nỗi tệ lắm." Và để phòng hờ, tôi đậu chiếc Cadillac cách một góc đường, trong bóng tối tù mù nhất.
          Nhưng chúng tôi ngồi chưa đầy mười phút đã thấy mái tóc vàng như rơm của Lenz xuất hiện nơi quày. Chán thật, nhưng đành thôi. Chỉ cần một hai tuần nữa cũng tạm đủ cho tôi, thế mà...
          Dường như Gottfried không muốn ở lại. Tôi tưởng chừng mình đã thoát nạn thì nhìn thấy Valentin chỉ trỏ về hướng tôi. Cho đáng kiếp lời gian dối của tôi.
          Lúc Gottfried nhận ra chúng tôi, nét mặt của anh xứng đáng làm mẫu cho các diễn viên yêu nghề học hỏi. Mắt anh lòi ra như hai quả trứng luộc và tôi sợ cho hàm của anh há to quá sẽ rụng rơi. Thật đáng tiếc, lúc ấy không có một nhà sản xuất nào có mặt trong quán "The Bar"; nếu có, tôi chắc chắn ông sẽ mời Lenz đóng phim ngay -- trong một vai, thí dụ, cảnh con rắn biển bất thần hiện ra gầm rống trước chàng thủy thủ đắm tàu.
          Chẳng mấy chốc Gottfried đã lấy lại bình tỉnh. Tôi khẩn khoản nhìn, mong anh biến đi. Anh đáp lại bằng một nụ cười gian ác, chỉnh áo khoác và tiến đến.
          Tôi biết những gì sẽ xảy ra và tấn công anh tức thì.
          "Thế cậu đã gặp Fraulein Bomblatt ở nhà chưa?" tôi hỏi, hóa giải những gì anh có thể nói.
          "Vâng, gặp rồi." anh trả lời không để lộ ra, dù bằng một cái chớp mắt, rằng cho đến phút giây ấy, chưa bao giờ anh nghe nói đến Fraulein Bomblatt. "Cô ấy gởi lời chào thân ái đến cậu và mong là sáng mai, cậu sẽ gọi điện cho cô ấy ngay."
          Đối đáp cừ khôi. Tôi gật đầu. "Tớ sẽ gọi. Tớ hy vọng cô ấy sẽ mua chiếc xe."
          Lenz há mồm định nói tiếp. Tôi đá vào ống chân anh dưới gầm bàn và tặng anh một cái nhìn khiến anh phải ngưng nói và mỉm cười giả lả.
          Chúng tôi uống vài ly. Tôi chỉ uống sidecars
          Gottfried tỉnh táo. "Tớ vừa ghé nhà cậu," anh nói. "Tìm cậu. Sau đó tớ qua khu công viên. Họ có một vòng quay ngựa gỗ mới. Mọi người nghĩ sao, đi đến đấy nhé?" Anh nhìn Patricia Hollmann.
          "Lập tức." nàng hân hoan trả lời.
          "Vậy chúng ta hãy đi ngay." tôi nói.
          Trước nhất là những chiếc phong cầm -- trạm tiền canh của công viên giải trí. Âm thanh ngọt ngào, rền rỉ, buồn nảo nề. Trên lớp nhung phủ đã sờn, đôi khi có một con vẹt hay một chú khỉ con, lạnh cóng trong bộ áo quần vải chéo go màu đỏ ... Rồi đến giọng rao lanh lảnh của chủ nhân các quầy bán chén dĩa, dao cắt kiếng, kẹo Thổ Nhỉ Kỳ, bóng bay và vải may áo lớn ... Ánh sáng lạnh xanh và mùi của những ngọn đèn khí đá ... Thầy bói, chiêm tinh gia, lều bán bánh tiêu đen, trụ xích đu tiên, những trò tạp lục -- và sau cùng, là ngọn tháp quay tít, lấp lánh, đèn đuốc sáng choang như lâu đài, với âm nhạc đinh tai, vui nhộn của những vòng kéo quân ...
          "Nào các bạn ơi, lên tàu," Lenz gào lên, tóc bồng bềnh, nhảy ùa đến trò xe lửa lượn quanh công viên. Đó là nơi ban nhạc sôi động nhất. Cứ giáp một vòng, từ sáu cái hốc mạ vàng lại có sáu chàng nhạc sĩ thổi kèn nhô ra, quay sang hướng đông rồi hướng tây, thổi một tràng tí toe, múa tít nhac cụ rồi rút vào chỗ cũ.
          Chúng tôi ngồi trong một con thiên nga to và quay nhấp nhô. Thế gian lấp lánh và loang loáng vút qua, cuộn lại và ngã ra sau vào một đường hầm tối đen, qua đó chúng tôi bị quăng quật, xô đẩy vào tiếng trống dồn dập, để rồi lập tức được chào đón lần nữa bởi giọng kèn và ánh sáng huy hoàng.
          "Tiến lên!" Gottfried dẫn đường đến một vòng đu bay với phi cơ và phi thuyền. Chúng tôi ngồi vào một khinh khí cầu xì gà và lượn ba vòng.
          Gần hụt hơi, chúng tôi lại trèo xuống. "Và bây giờ, bánh xe của quỷ," Lenz nói.
          Bánh xe của quỷ là một cái dĩa phẳng dẹp, to rộng, hơi dầy ở giửa, quay càng lúc càng nhanh, trên đó ta phải cố đứng vững. Gottfried lên dĩa cùng với hai mươi người khác. Anh loi choi như một thằng điên và được tán thưởng nhiệt liệt. Vào phút cuối, chỉ còn lại anh và một chị bếp, người có bàn tọa to như mông một con ngựa thồ. Nhà chị tinh ranh này, khi trò chơi trở nên khó khăn hơn, đã trụ lại ở tâm điểm trong khi Gottfried quay lặt lè chung quanh chị. Những người kia đã rơi khỏi dĩa. Sau cùng định mệnh cũng tóm được chàng lãng mạn cuối cùng; anh lảo đảo ngã vào tay chị bếp, và họ ôm nhau lăn lông lốc ra bìa. Khi anh gặp lại chúng tôi, chị đang trên tay anh. Anh gọi chị, không vấp víu, Lina. Lina cười ngượng ngập. Anh hỏi chị muốn uống gì với anh. Lina trả lời, nghe nói bia là thức giải khát tốt nhất. Hai người biến mất vào quán bia lộ thiên Bavarian.
          "Còn chúng ta thì sao? Giờ chúng ta đi đâu?" Patricia Hollmann hỏi, mắt long lanh.
          "Mê cung của ma quỷ," tôi nói, chỉ vào một gian hàng rộng.
          Mê cung là con đường đầy bất ngờ. Sau vài bước, mặt đất chao đảo dưới chân, những bàn tay trong bóng tối thò ra chộp lấy tay ta, những hình tượng đeo mặt nạ nhảy xổ từ trong góc, tiếng ma tru quỷ hờn --- chúng tôi cười vang, nhưng có một lần, nàng sửng người lùi lại trước một đầu lâu thần chết dưới ánh đèn xanh lục. Trong một chốc, nàng tựa vào tay tôi, hơi thở phơn phớt lên má tôi, tôi có cảm tưởng như tóc nàng mơn man trên môi tôi -- rồi ngay tức thì, nàng lại cười dòn tan và tôi để nàng rời khỏi tay tôi.
          Tôi để nàng rời khỏi tay tôi -- nhưng có một thứ gì đó trong tôi không thể. Rất lâu sau khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi vẫn còn cảm giác của đôi vai nàng trên tay tôi, mái tóc mềm mại, làn da thơm mùi đào.
          Tôi cố không nhìn nàng. Thình lình nàng trở nên một thứ gì khác biệt.
          Lenz đã chờ sẳn. Anh chỉ còn một mình.
          "Lina đâu rồi?" tôi hỏi.
          "Đang kết thân," anh trả lời, hất đầu về hướng quán bia, "với một ông thợ rèn."
          "Xin chia buồn," tôi nói.
          "Có hề chi," Gottfried trả lời. "Bây giờ chúng ta hãy đến một nơi nghiêm chỉnh cho cánh đàn ông."
          Chúng tôi đến một quầy, nơi đó ta thảy các vòng cao su cứng vào móc và có thể thắng được nhiều thứ.
          "Thế thì," Lenz vừa nói với Patricia Hollmann, vừa đẩy mũ lệch ra sau, "bây giờ chúng tôi sẽ sưu tập những món tư trang về nhà chồng cho cô."
          Anh thẩy trước và thắng một cái đồng hồ báo thức. Tiếp theo, tôi được một con gấu bông. Ông chủ quầy giao hàng và ba hoa chiêu dụ thêm khách mới. "Ông sẽ sớm đổi thái độ cho mà xem," Gottfried cười khảy, và thắng được một cái chảo; tôi, con gấu bông thứ nhì. "Sao mà ác thế," ông chủ quầy nói, đưa những thứ ấy cho chúng tôi.
          Ông ta không biết mình đang ở trong tình huống nào. Lenz là người liệng bom giỏi nhất đại đội; vào mùa đông khi không bận việc, chúng tôi luyện tập hàng tháng không ngừng, thẩy nón của chúng tôi lên đủ các loại móc, cột. Thẩy vòng ở đây chỉ là trò trẻ con, so với chuyện ấy. Không một chút khó khăn, Gottfried lại thắng một lọ cắm hoa thủy tinh, còn tôi, một chục đĩa hát. Ông chủ quán lẳng lặng đùa chúng qua quày và xem xét lại những cái móc của ông.
          Lenz nhắm, thẩy và thắng một bình cà phê, giải nhì. Một đám đông hiếu kỳ tụ tập chung quanh. Tôi thẩy liên tiếp ba vòng vào cùng một móc. Lợi phẩm: tranh bà thánh Magdalene sám hối lộng khung vàng.
          Ông chủ quầy, vẻ mặt như đang ở phòng khám răng, từ chối không cho chúng tôi chơi nữa. Chúng tôi đã định ngưng, nhưng cử tọa kích động. Họ nhất quyết đòi ông ta phải cho chúng tôi tiếp tục. Họ muốn thấy ông ta thua sạch. Khi cuộc huyên náo lên đến cao điểm, Lina bổng dưng xuất hiện với ông thợ rèn. "Khách lúc nào cũng nên thua, hử?" chị bi bô, "không bao giờ nên thắng, hử?" Ông thợ rèn trầm giọng phụ họa.
          "Được rồi," Lenz đề nghị, "mỗi đứa thẩy thêm một lần nữa thôi."
          Tôi thẩy trước. Một bồn rửa mặt với bình nước và vĩ đựng xà phòng. Rồi đến lượt Lenz. Anh lấy năm vòng. Anh thẩy liên tiếp bốn vòng vào cùng một móc. Trước khi thẩy vòng thứ năm, anh dừng lại, như một chàng nghệ sĩ, lấy một điếu thuốc lá. Ba người bật diêm mời. Ông thợ rèn vỗ vai anh. Lina nhằn góc khăn tay của chị, hồi hộp. Rồi Gottfried nhắm và thảy cái vòng cuối cùng, nhẹ nhàng sao cho nó không bật ra mà nằm yên trên bốn cái vòng trước. Nó dính. Tiếng vỗ tay như sấm. Chúng tôi đã đoạt giải nhất -- một cái xe đẩy em bé, nóc hồng và gối bọc ren.
          Ông chủ quầy, nguyền rủa, đẩy xe ra. Chúng tôi chất những món kia vào và bước qua gian hàng bên cạnh. Lina đẩy chiếc xe nôi. Ông thợ rèn nói đùa mãi về nó, khiến tôi nghĩ mình nên lùi lại ra sau cùng với Patricia Hollman.
          Ở quầy kế, ta chỉ cần thảy vòng lên các chai rượu vang. Nếu vòng dính cổ chai nào, ta được chai ấy. Chúng tôi ra đi với sáu chai rượu. Lenz, rất phong nhã, tặng tất cả cho ông thợ rèn.
          Còn một gian hàng tương tự. Nhưng chủ nhân đã linh cảm một điều gì không ổn, tuyên bố đóng cửa ngay khi chúng tôi trờ đến. Ông thợ rèn gây gổ. Ông đã nhìn thấy những chai bia sẳn sàng chờ đợi. Nhưng chúng tôi từ chối. Người chủ quày chỉ có một tay.
          Với đám đông bám theo, chúng tôi ra đến xe Cadillac.
          "Làm sao bây giờ?" Lenz gãi đầu. "Chắc phải cột cái xe đẩy em bé phía sau."
          "Hẳn rồi," tôi nói, "nhưng cậu phải ngồi trong ấy, giữ cho nó khỏi lật."
          Patricia Hollmann phản đối. Nàng sợ Lenz sẽ thực sự làm như thế.
          "Được," Lenz nói, "thế thì chúng ta chia phần. Hai chú gấu bông thuộc về cô. Mấy cái dĩa nhạc cũng thế. Nhưng còn cái chảo thì sao?"
          Cô gái lắc đầu. "Vậy, đem về tiệm sửa xe," Gottfried nói. "Bob, cậu nhận đi. Cậu là sư phụ chuyên trị món trứng luộc. Còn bình cà phê thì sao?"
          Nàng gật đầu về hướng Lina. Chị bếp đỏ mặt. Gottfried trang trọng giao cho chị như đang phát thưởng. Rồi anh lôi ra cái bồn rửa mặt. "Bộ dụng cụ vệ sinh? Phần của anh bạn đây, có ai nói gì không? Anh ấy sẽ cần dùng chúng khi làm việc. Đồng hồ báo thức, cũng rứa. Mấy ông thợ rèn là chúa ngủ mê."
          Tôi đưa Gottfried lọ hoa. Anh chuyển sang Lina. Chị lắp bắp từ chối. Mắt chị dán vào bức Magdalene sám hối. Chị ấy sợ, nếu nhận bình hoa, có thể chị ấy sẽ không được bức tranh.
          "Tôi rất ưa chuộng nghệ thuật," chị bật ra lời.
          "Fraulein," Lenz hỏi, quay một vòng kiểu cách, "cô nghĩ sao?"
          Patricia Hollmann cầm bức tranh, đưa cho chị bếp.
          "Tranh đẹp lắm, Lina." nàng mỉm cười nói.
          "Treo trên đầu giường và chiêm bái mỗi ngày," Lenz nói.
          Lina chụp bức tranh. Chị nấc lên, đầy lòng biết ơn.
          "Và bây giờ, tới phiên ngươi," Lenz vẻ suy tư, nói với cái xe đẩy em bé.
          Chúng tôi leo vào xe Cadillac. "Cứ như lễ Giáng Sinh ấy," Lina nói, sung sướng giữa đống đồ tạp nhạp của mình, chìa bàn tay đỏ giả từ.
          Ông thợ rèn kéo chúng tôi riêng một bên. "Nhìn đây," ông nói. "nếu có khi nào các cậu cần nắn gân một đứa nào -- tớ ngụ ở số mười sáu đường Leibnitzstrasse, sân sau, cầu thang thứ hai bên trái. Nếu đông hơn, tớ sẽ dẫn theo nguyên băng."
          "Đồng ý," chúng tôi trả lời và lái đi.
          Khi chúng tôi quẹo ở một góc công viên, Gottfried chỉ qua cửa sổ. Kìa, chiếc xe đẩy của chúng tôi -- một em bé thứ thiệt nằm trong ấy, và một thiếu phụ xanh xao bên cạnh, vẫn còn háo hức, ngắm nhìn.
          "Được quá nhỉ?" Gottfried nhận xét.
          "Tặng chị ấy mấy con gấu bông một thể!" Patricia Hollmann kêu lên. "Chúng thuộc về nhau."
          "Có lẽ, một con thôi nhé," Lenz nói. "Cô phải giữ lại một."
          "Không, cả hai."
          "Được rồi," Lenz nhảy ra khỏi xe, quẳng hai con gấu bông vào tay thiếu phụ, và, trước khi chị ấy có thể nói nên lời, chạy như ma đuổi.
          "Vậy," anh nói, hơi thở dồn dập, "bây giờ tớ bắt đầu phát gớm cho lòng cao thượng của tớ. Thả tớ xuống quán International. Tớ cần gấp một ly brandy."
          Anh xuống xe và tôi đưa nàng về. Lần này khác hơn trước. Nàng đứng ở khung cửa và ánh sáng của những ngọn đèn lung linh trên nét mặt. Trông nàng thật yêu kiều. Tôi ước mình có thể vào nhà với nàng.
          "Tạm biệt cô," tôi nói, "ngủ ngon nhé."
          "Tạm biệt anh."
          Nàng đưa tay cho tôi rồi bước lên những bậc thang. Tôi nhìn nàng cho đến khi đèn tắt. Rồi tôi lái chiếc Cadillac đi. Tôi cảm thấy tuyệt vời. Không như những đêm khác, khi ta điên mê một cô gái nào đó. Có một điều gì êm đềm ở đấy. Êm đềm, và ước vọng được một lần buông thả.
          Tôi đến International gặp Lenz. Quán hầu như trống không. Ở một góc, Fritzi ngồi với bạn, Alois chàng hầu bàn. Họ đang cãi nhau. Gottfried ngồi trên sô-pha gần quày rượu, với Mimi và Wally. Anh rất được cả hai ưa thích, nhất là Mimi đáng thương.
          Chẳng bao lâu những cô gái bỏ đi. Hẳn để kiếm khách; bây giờ là thời điểm thích hợp nhất. Mimi thở dài, rên rỉ vì chứng giãn tỉnh mạch của chị. Tôi ngồi xuống cạnh Gottfried.
          "Giờ thì cậu tha hồ xỉ vả tớ," tôi nói.
          "Về cái gì cơ chứ, Bob?" anh trả lời trước sự ngơ ngác của tôi. "Những gì cậu làm đều đúng cả."
          Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm, vì anh ấy bình thản. "Tớ cư xử tệ quá, không như trước đây," tôi nói.
          Anh vẫy tay. "Vớ vẫn."
          Tôi gọi rum.
          "Cậu biết đấy," rồi tôi nói, "Tớ không hề biết một tí gì về cô ấy. Tớ cũng không biết mối liên hệ giữa cô ấy với Binding ra sao. Anh ấy có nói gì với cậu không?"
          Anh nhìn tôi. "Cậu lo chuyện ấy ư?"
          "Không."
          "Tớ cũng nghĩ là không. Này, dù sao đi nữa, cái áo khoác vừa với cậu lắm."
          Tôi đỏ bừng hai má.
          "Cậu không cần phải đỏ mặt. Cậu đúng lắm. Ước gì tớ được như cậu."
          Tôi im lặng một lúc.
          "Sao lại thế, Gottfried?" cuối cùng, tôi hỏi.
          Anh nhìn tôi. "Bởi vì tất cả những thứ khác đều là đồ bỏ, Bob ạ. Bởi vì không có cái gì xứng đáng trong thời buổi này. Hãy nhớ lời Ferdinand nói với cậu hôm qua. Chẳng sai nhiều lắm đâu, lão họa sĩ vẽ tranh xác chết ấy ... Ôi chào, dù sao đi nữa, hãy đến cái thùng thiếc bể đàng ấy, đàn vài bản quân hành cũ."
          Tôi chơi bài "Ba đóa Huệ" và "Argonnerwald"! Trong căn phòng quạnh quẽ, chúng nghe rờn rợn yêu ma, khi ta nhớ lại nơi chốn ta đã thường hò hát thủa xưa.

          Comment


          • #6
            Erich Maria Remarque Chiến hữu

            Erich Maria Remarque

            Chiến hữu

            Chương 7


            Hai hôm sau từ văn phòng riêng Koster bước ra nói, "Bob, Blumenthal của cậu vừa gọi. Cậu cần lái chiếc Cadillac đến chỗ ông ấy lúc mười một giờ. Ông ấy muốn thử xe."
            "Vậy chứ tớ đã nói gì?" Lenz từ hốc, dưới gầm chiếc Ford, nói vọng lên. "Tớ đã nói ông ấy sẽ trở lại. Phải luôn luôn tin tưởng vào Gottfried."
            "Cậu nín đi, đây là một trường hợp quan trọng," tôi hét lại. "Otto, tớ có thể giảm giá tối đa là bao nhiêu?"
            "Tối đa hai ngàn. Tuyệt đối không quá hai ngàn hai trăm. Và rồi, nếu không xong, hai ngàn năm trăm. Còn như cậu thấy mình phải thương lượng với một kẻ dở hơi, hai ngàn sáu. Nhưng bảo ông ấy, trong trường hợp này, chúng ta sẽ nguyền rủa ông ấy đời đời kiếp kiếp."
            "Tốt lắm."
            Chúng tôi lau đến khi xe bóng lộn. Tôi ngồi vào xe. Koster đặt tay lên vai tôi. "Bob, nhớ rằng nhiệm vụ của cậu như của một chiến sĩ. Bảo vệ danh dự của xưởng sửa xe, đổ máu nếu cần. Chết đứng, tay vẫn nắm ví tiền của Blumenthal."
            "Đúng thế," tôi nhoẽn cười.
            Lenz lấy trong túi ra một cái mề đai và đưa trước mặt tôi. "Cầm lá bùa, Bob."
            "Được," tôi đỡ lấy.
            "Abracadabra, lạy thần Siva," Gottfried lẩm nhẩm cầu nguyện, "xin thần hãy ban cho người ngốc nghếch đáng thương này sức mạnh và can đảm! Khoan đã -- đây, tốt hơn hết cậu hãy cầm nó theo. Này, nhổ ba lần vào nó."
            "Xong ngay," tôi nói; nhổ xuống chân anh và lái đi, ngang qua Jupp đang hí hửng vẫy ống dẫn xăng.
            Trên đường đi, tôi mua một ít cẩm chướng và cắm rất mỹ thuật trong các lọ thủy tinh của xe -- một quan tâm dành cho Frau Blumenthal.
            Chẳng may Blumenthal lại tiếp tôi ở văn phòng, không ở tư gia. Tôi phải đợi mười lăm phút. Anh Hai ơi, tôi nghĩ, em út biết tỏng mánh khóe ấy rồi; anh Hai chẳng thể làm em út mất kiên nhẫn đâu. Ở phòng đợi, tôi rút đóa cẩm chướng trên ve áo, biếu cô thư ký xinh đẹp và gạn hỏi tình hình. Buôn hàng len, luân chuyển tốt, sáu nhân viên giúp việc, một đối tác đang chờ, công ty Meyer và Son là địch thủ đáng gờm nhất, Meyer con lái xe Essex thể thao đỏ, hai chỗ ngồi -- nghe đến đấy thì Blumenthal gọi tôi vào.
            Vừa nhìn thấy tôi, ông ta đã nã cả đôi súng.
            "Bạn trẻ ơi," ông nói, "tôi không có nhiều thì giờ. Lần trước, giá của cậu thách cao như mơ. Bây giờ, thành thực mà nói, chiếc xe giá bao nhiêu?"
            "Bẩy ngàn marks," tôi đáp.
            Ông quay phắt đi. "Nếu thế, không còn gì để bàn."
            "Chẳng cần đâu," ông ngắt lời. "Lần trước tôi đã xem đầy đủ."
            "Có nhiều thứ để xem," tôi giải thích. "Ông nên xem qua chi tiết. Nước sơn bóng, thượng hạng của Voll và Ruhrbeck, tốn hai trăm năm mươi marks, nhíp xe --mới tinh, giá ca-ta-lô sáu trăm marks --tổng cộng là tám trăm năm mươi marks. Nệm xe, bọc bằng nhung sọc tốt nhất --"
            Ông gạt ngang. Tôi lại nói tiếp. Tôi mời ông xem những phụ tùng sang trọng, mui da đẹp tuyệt, bộ tản nhiệt mạ kền, những cái chống xóc hiện đại, sáu mươi marks một cặp. Như một người mẹ chiến đấu để giành lại đứa con, tôi cố thuyết phục Blumenthal đến gần chiếc Cadillac. Tôi biết, như Antaeus, nếu có thể chạm vào mặt đất, tôi sẽ có sức mạnh mới. Giá cả dường như sẽ bớt phần mắc mỏ, nếu như ta có thể trình ra món hàng cụ thể.
            Nhưng Blumenthal cũng hiểu, sức mạnh của ông nằm sau bàn viết. Ông tháo gọng kỉnh và trả đòn đích đáng. Chúng tôi quầng nhau như hổ với trăn. Blumenthal là trăn. Trước khi tôi có thể lấy lại thế thủ, ông ta đã kỳ kèo giảm được một ngàn năm trăm marks.
            Tôi trở nên bồn chồn, lo sợ. Tôi lần trong túi, nắm chặt miếng bùa may của Gottfried.
            "Herr Blumenthal," tôi nói, cơ hồ mệt lã, "một giờ chiều rồi; ông có muốn ăn trưa." Bằng mọi giá, tôi muốn thoát khỏi văn phòng này, nơi giá cả như tuyết tan.
            "Hai giờ tôi mới ăn trưa," Blumenthal chẳng hề nao núng, giải thích. "Nhưng xem nào, nói cho cậu biết. Không chừng chúng ta có thể lái thử xe." Tôi thở ra nhẹ nhỏm.
            Chúng tôi lái về nhà ông. Trước sự ngạc nhiên của tôi, một khi ngồi vào xe, ông thay đổi thành một người khác. Ông vui vẻ kể cho tôi một chuyện tiếu lâm mà tôi đã biết, về Hoàng đế Franz Josef. Tôi kể cho ông, chuyện người tài xế xe điện; rồi ông kể chuyện người Saxon lạc đường; tôi lập tức kể chuyện những người tình Tô Cách Lan. Chỉ đến khi đã đến trước nhà ông, chúng tôi mới nghiêm trang trở lại. Ông yêu cầu tôi chờ ông vào nhà, để dẫn bà vợ ra.
            "Cô Béo yêu dấu ơi," vỗ tay lên bộ tản nhiệt, tôi nói với chiếc Cadillac, "thể nào cũng có sự tinh ma quỷ quái ẩn náu bên trong những câu chuyện tiếu lâm ấy. Nhưng đừng lo, chúng tôi sẽ tìm cho em một mái nhà. Ông ấy sẽ mua em --khi người Do Thái quay lại, hắn sẽ mua. Khi người Thiên Chúa Giáo quay lại, còn lâu lắm hắn mới mua. Hắn sẽ thử xe năm lần bẩy lượt để khỏi tốn tiềntắc xi, rồi thình lình hắn sẽ nhớ ra, hắn cần mua một giàn bếp mới thay vì mua xe. Không, không, người Do Thái được lắm, họ biết họ muốn gì. Nhưng bạn thân ơi, nếu tôi phải bớt mấy trăm bạc nữa cho lão, dòng dõi trực hệ của Judas Maccabaeus hiếu chiến, tôi xin thề, suốt đời tôi sẽ không bao giờ uống một ly rượu mạnh nào nữa."
            Frau Blumenthal xuất hiện. Tôi nhớ lời khuyên của Lenz và thay đổi từ một chiến sĩ thành một hiệp sĩ. Blumenthal chào đón sự thay đổi ấy bằng một nụ cười đểu cáng. Ông ta là sắt thép. Thay vì buôn hàng len, lẽ ra ông ta nên buôn xe lửa mới phải.
            Tôi dàn xếp để ông ngồi băng sau, và Frau Blumenthal ngồi cạnh tôi.
            "Bà cần tôi lái đi đâu, thưa bà?" tôi mềm mỏng nói.
            "Bất cứ chỗ nào cậu thích," bà nói với nụ cười của một người mẹ.
            Tôi bắt đầu nói. Giao dịch với một khách hàng vô tư hồn hậu là một niềm vui. Tôi hạ thấp giọng, cốt không cho Blumenthal nghe rõ. Như thế tôi sẽ tự nhiên hơn. Nội việc ông ấy ngồi sau lưng tôi, cũng đủ mệt rồi.
            Chúng tôi tấp vào lề. Tôi bước xuống, chăm chú nhìn địch thủ. "Herr Blumenthal, dù sao, ông cũng phải nhìn nhận rằng xe chay êm như bôi mỡ."
            "Làm sao êm như bôi mỡ được, cậu ơi," ông trả lời, thân thiện một cách đáng ngờ. "khi bị sở thuế ăn gần hết? Thuế xe rất cao. Cậu đã nói."
            "Herr Blumenthal," tôi gọi tên ông, cố sửa chữa tình hình. "ông là một doanh gia, cho nên tôi có thể trình bày thẳng. Đấy không phải là thuế, mà là đầu tư. Thử hỏi, trong thời buổi này, công việc kinh doanh cần điều gì hơn hết? Ông biết đấy -- không phải là tiền vốn, như ngày xưa: mà là tín dụng. Và bằng cách nào ta có được tín dụng? Bằng cách tạo ra một bộ mặt tốt đẹp. Cadillac hiện nay đại diện cho giai cấp trung lưu -- vững chãi, khôn ngoan, tiện nghi mà chẳng lỗi thời -- nó là một quảng cáo sống cho bất kỳ loại thương nghiệp nào."
            Blumenthal thích thú, quay sang vợ. "Cậu ấy có đầu óc Do Thái, hử? Này người bạn trẻ," ông vẫn nói một cách thân tình, "quảng cáo tốt nhất cho sự vững mạnh thời nay là một bộ đồ lớn tồi tàn và một vé xe buýt. Nếu hai đứa chúng tôi có được số tiền to như tiền nợ của tất cả xe đang lưu hành, chúng tôi đã ngồi yên, nghĩ ngơi cho khỏe. Tin tôi đi. Bảo đảm."
            "Một chiếc Cadillac như thế này sang hơn nhiều hiệu xe khác, chẳng hạn Essex, phải thế chăng Frau Blumenthal? Con trai nhà Meyer and Son lái một chiếc Essex, nhưng tôi không nghĩ rằng một cái xe trượt tuyết đỏ hoét là một quà tặng---"
            Tôi nghe Blumenthal khịt mũi, và tôi tiếp tục nói nhanh: "Ngoài ra, màu xe hợp với bà lắm, thưa bà -- màu xanh cobalt đi với tóc vàng --"
            Blumenthal cười hăng hắc như một bầy khỉ chí chóe trong chuồng. "Meyer và Son; tinh ranh -- ma mãnh --" ông rên. "Và bây giờ lại đến tán tỉnh --nịnh đầm--"
            Tôi liếc ông. Không thể nào tin được; tôi đã đánh trúng yếu huyệt.
            Ngay lập tức, tôi bồi thêm: "Herr Blumenthal, cứ ngắt lời nếu tôi nói sai. Với một người đàn bà, nịnh đầm không phải là nịnh đầm. Mà là ngợi khen, một điều chẳng may lại quá hiếm hoi trong thời buổi này. Người đàn bà không phải là cái bàn, cái ghế bằng thép; nàng là bông hoa -- nàng chẳng cần thật dụng; nàng ưa thích ánh nắng ấm áp vui tươi của lời khen tặng. Mỗi ngày nói một câu ca tụng nàng còn tốt hơn suốt kiếp buồn bã làm thân nô lệ cho nàng. Tin tôi đi. Tôi cũng bảo đảm. Và dù sao, điều tôi nói không phải là tâng bốc mà là một sự kiện khoa học hẳn hoi. Màu xanh thẩm quả thật hợp với mái tóc vàng."
            "Hống hay tuyệt, sư tử," Blumenthal nói, tươi nét mặt. "Herr Lohkamp, nhìn đây! tôi có thể dễ dàng cò kè bớt thêm một ngàn mark --"
            Tôi lùi lại. Đồ yêu quái tinh ma, tôi nghĩ; tôi bị thấm đòn như dự đoán. Tôi hình dung mình lang thang suốt đời không một giọt rượu, và tôi nhìn Frau Blumenthal bằng đôi mắt nai tơ đoạn trường.
            "Nhưng, ba nó ơi --" bà nói.
            "Mình ạ," ông trả lời. "Anh muốn nói là, anh có thể -- nhưng anh sẽ không. Cách thương thảo của cậu khiến con người thương gia trong tôi rất thú vị. Có lẽ hơi một chút ngông cuồng, nhưng cũng thế, nhắc đến Meyer và Son rất khéo. Thế thân mẫu của cậu là người Do Thái?"
            "Không."
            "Thế cậu đã làm việc trong ngành buôn lẽ?"
            "Vâng."
            "Thấy chưa. Vì thế cậu mới có cung cách ấy. Cậu thuộc chi nhánh nào nhỉ?"
            "Linh hồn," tôi trả lời. "tôi dự định làm thầy giáo."
            "Herr LohKamp," Blumenthal nói. "Đáng nễ! Nếu bị thất nghiệp, cậu đến gặp tôi nhé."
            Ông viết chi phiếu, trao cho tôi. Tôi không thể tin vào mắt mình. Trả trước nữa cơ! một phép mầu!
            "Herr Blumenthal," tôi nói, cảm kích, "xin phép được biếu ông vài cái gạt tàn thủy tinh và một tấm thảm cao su."
            "Tuyệt vời," ông nhận xét. "Ngay cả lão Blumenthal này cũng được tặng quà." Rồi ông mời tôi ngày mai đến ăn tối.
            Frau Blumenthal nở nụ cười bao dung của mẹ hiền. "Sẽ có cá măng nhồi nấm." Bà dịu dàng nói.
            "Món ngon nhỉ," tôi nói. "Và tôi sẽ lái xe đến. Ngày mai, việc đầu tiên của chúng tôi sẽ là chăm chút nó một lần cuối, trước khi giao."
            Tôi bay về xưởng như chim nhạn. Nhưng Lenz và Otto đã ra ngoài ăn trưa. Tôi cần phải điều độ lại vinh quang của mình. Chỉ một mình Jupp ở đấy.
            "Bán được chứ?" thằng bé hỏi.
            "Cháu muốn biết lắm, phải không?" tôi nói. "Một đồng đây, mua đồ về chế máy bay mà chơi."
            "Thế nghĩa là bán được rồi," Jupp cười toe toét.
            "Chú ra ngoài kiếm cái gì ăn," tôi nói; "nhưng nếu cháu láu táu học lại câu gì cho hai người kia trước khi chú về, thì ốm đòn."
            "Herr Lohkamp," thằng bé hứa, tung hứng đồng tiền, "cháu sẽ im như một nấm mồ."
            "Trông cháu như một nấm mồ," tôi nói và nhấn thêm ga.
            Khi tôi về ngang qua cổng, Jupp ra hiệu. "Cái gì thế?" tôi hỏi. "Không giữ được mồm miệng à?"
            "Herr Lohkamp! làm gì có, cháu vẫn im như thóc! " nó cười. "Có điều, lão Ford đang ở trong ấy."
            Tôi đậu chiếc Cadillac ngoài sân và đi vào ga-ra. Ông chủ tiệm bánh cắm cúi xem sổ hàng mẫu. Ông mặc chiếc áo khoác kẻ ô với một vòng băng tang rộng bản. Bên cạnh ông là một sinh vật xinh đẹp, mắt đen lúng liếng, khoác áo choàng viền lông thỏ và đi một đôi giày da bóng trông chẳng vừa chân. Họ tự tiêu khiển với những sắc màu. Cô gái da ngâm thích sơn vec-ni màu chu sa chói mắt; nhưng ông chủ tiệm bánh phản kháng, ông hãy còn trong thời kỳ tang chế. Ông đề nghị một màu xám -vàng nhàn nhạt.
            "Ach, màu này ư," cô gái da sậm bĩu môi; "một chiếc Ford phải sơn thật nổi bật. Nếu không, nó chẳng giống ai."
            Cô gái đưa mắt dọ hỏi, và nhún vai khi ông chủ tiệm bánh phản đối, nhăn mặt và nháy mắt với chúng tôi. Một cô nàng nhỏng nhảnh! Cuối cùng họ đồng ý màu lục xám của cây mộc tê. Cô gái thích mui xe lợp màu tươi cho hợp với nước sơn. Nhưng ông chủ tiệm bánh cương quyết --phải có một chút tang tóc ở đâu đấy. Ông nhất quyết chọn da thuộc màu đen - và như thế ngẫu nhiên lại có lợi hơn, không những ông đã không phải trả tiền cho cái mui xe mới, da lại đắc hơn vải.
            Hai người ra về. Nhưng họ mắc kẹt lại ngoài sân. Vừa nhìn thấy chiếc Cadillac, cô nàng da sậm đã chạy ùa đến. "Ô kìa, Puppi, một chiếc xe tuyệt vời! Đúng thứ xe mà em thích."
            Chẳng mấy chốc, cô nàng đã mở cửa ngồi vào, rạng ngời vì sung sướng. "Ghế êm làm sao! Y như ghế bành trong câu lạc bộ. Khác hẳn với xe Ford!"
            "Về thôi em," Puppi bẳn gắt nói.
            Lenz thúc tôi -- tôi cần hành động ngay, rao bán xe cho lão chủ tiệm bánh. Tôi khinh khỉnh nhìn Gottfried và không nói. Anh ấy thúc mạnh hơn. Tôi thúc lại và quay mặt đi.
            Một cách khổ nhọc, cuối cùng ông chủ tiệm bánh cũng lôi được viên huyền ngọc của ông ra khỏi xe, và, mặt mày sưng sỉa, cố ý làm ra vẻ bực dọc, ra về.
            Chúng tôi quan sát họ. "Một người nhanh nhẩu," tôi nói. "Sửa xe -- vợ mới -- tớ ngã mũ bái phục!"
            "Ối giào" Koster nói, "ông ấy đâu đã nếm đủ vui buồn với cái ngữ ấy."
            Họ chưa khuất khỏi góc đường, Gottfried đã lồng lộn. "Bob, cậu có điên không, để lỡ một cơ hội như thế? Tại sao, đây là một trường hợp điển hình cho ta chớp lấy thời cơ!"
            Nhìn mặt Gottfried lúc ấy mới vui làm sao. Mắt tròn xoe như hai cái dĩa bàn. "Đừng đùa với chuyện thiêng liêng." Anh lắp bắp nói.
            Tôi phớt lờ, quay sang Koster. "Otto, từ giả nàng Cadillac nhỏ nhắn của chúng ta. Cô bé không thuộc về chúng ta nữa. Từ giờ trở đi, cô ấy sẽ cho thương nghiệp quần lót vay vẻ đẹp bóng bẩy huy hoàng. Hy vọng cô ấy có một cuộc đời tốt đẹp. Có lẽ sẽ không oai hùng như khi còn với chúng ta -- nhưng an toàn hơn."
            Tôi lôi tờ chi phiếu ra. Lenz gần như ngã quỵ. "Không! Cái gì thế? Cậu định nói là -- đã trả tiền?" anh thều thào, giọng khản đặc.
            "Đố mấy anh chàng tay mơ, giá bán là bao nhiêu?" tôi hỏi, ve vẩy tờ chi phiếu. "Đoán đi nào."
            "Bốn," Lenz hét to, nhắm mắt.
            "Bốn rưởi," Koster nói.
            "Năm," Jupp đàng cây xăng, gào lên.
            "Năm rưởi," tôi hét to.
            Lenz giật tờ chi phiếu từ tay tôi. "Không đời nào. Coi chừng chi phiếu không tiền bảo chứng."
            "Herr Lenz," tôi tự hào nói, "chi phiếu ấy xịn cũng y như cậu đang mất hồn. Ông bạn Blumenthal của tớ trị giá gấp hai mười lần số tiền ấy. Bạn tớ, các cậu biết, là người sẽ cùng tớ thưởng thức món cá măng nhồi nấm tối mai. Lấy chuyện ấy làm thí dụ. Thiết lập một tình bạn keo sơn, được trả tiền trước, và được mời ăn tối -- đó là nghệ thuật bán hàng. Bây giờ, cho phép cậu nghĩ chân."
            Gottfried cố thu lại bình tỉnh. Anh vớt vát một lần chót. "Quảng cáo của tớ, và lá bùa."
            Tôi trả lại anh tấm mề đai. "Thẻ bài đeo cổ chó của cậu đây. Tớ chẳng hề nhớ."
            "Cậu bán xe giỏi như thánh, Bob." Koster nói. "Cảm ơn Chúa, chúng ta thanh lý được cái xe trợt tuyết ấy. Với số tiền này, chúng ta khấm khá hẳn."
            "Cậu có thể ứng cho tớ năm mươi đồng không?" tôi hỏi.
            "Một trăm. Xứng đáng."
            "Thế, tớ đoán, cậu không muốn ứng trước cái áo choàng xám của tớ ?" Gottfried hỏi, hi hí cặp mắt.
            "Thế, cậu muốn nằm nhà thương không, hở cái tên ba đá, khốn khổ, lẽo mép?" tôi phản công.
            "Này các cậu, tớ tính là hôm nay mình đóng cửa về sớm," Koster đề nghị. "Chúng mình đã kiếm đủ tiền cho một ngày, và không nên thách thức Chúa. Tập đua với Karl, các cậu nghĩ sao?"
            Jupp đã bỏ cây xăng từ lâu. Thằng bé xoa tay hớn hở. "Herr Koster, vậy cháu được toàn quyền, phải không ạ?"
            "Không, Jupp," Otto nói, cười vang."Cháu cũng đi theo."
            Trước tiên, chúng tôi lái đến ngân hàng, ký thác tấm chi phiếu. Lenz cứ bồn chồn mãi đến khi biết chắc mọi việc êm xuôi. Rồi chúng tôi phóng vun vút đi, tàn lửa bay trong ống thải khói.

            Comment


            • #7
              Erich Maria Remarque Chiến hữu

              Erich Maria Remarque

              Chiến hữu

              Chương 8


              Tôi đứng đối mặt bà chủ nhà. "Lại chuyện gì nữa đây?" Frau Zalewski hỏi.
              "Có chuyện gì đâu," tôi đáp. "Cháu chỉ muốn trả tiền nhà mà thôi."
              Còn ba ngày nữa mới đáo hạn, Frau Zalewski suýt nữa ngã ngửa vì kinh ngạc.
              "Chắc có âm mưu gì đây," bà nhận xét.
              Bà chống tay trên bờ hông phốp pháp, sẳn sàng chiến đấu. "À ra thế! Cậu không thích phòng của cậu sao?"
              "Có chứ, nhưng cháu thích mấy cái ghế bành gấm hơn."
              Tôi giải thích rằng, có một cô em họ sắp sửa đến thăm và tôi muốn phòng của mình lịch sự hơn. Bà rung rúc cười đến độ ngực rung rinh từng chập.
              "Em họ?" bà nhắc lại, chế diễu. "Khi nào cô ấy đến?"
              "Chưa biết khi nào," tôi nói, "nhưng, nếu cô ấy đến, dĩ nhiên sẽ đến sớm; để dùng bửa tối. Và, tuy nhiên, Frau Zalewski, tại sao lại không thể có em họ cơ chứ?"
              "Em họ có sao đâu," bà đáp; "nhưng không ai lại mượn ghế bành cho em họ."
              "Có cháu đấy," tôi phản đối. "Cháu coi trọng bà con quyến thuộc lắm."
              "Trông có vẻ thế. Cả đám hẳn là bợm nhậu mà thôi. Cậu có thể khuân ghế bành gấm về phòng. Còn ghế nhung đỏ, tạm thời dời ra phòng khách."
              "Cám ơn bác lắm. Ngày mai cháu sẽ trả lại chỗ cũ. Luôn cả tấm thảm."
              "Thảm?" Bà quay lại. "Có ai nói tiếng nào về thảm?"
              "Cháu chứ ai. Mà bác cũng vừa nói đấy thôi."
              Bà nhìn tôi, bất mãn.
              "Nhưng chúng thuộc về nhau," tôi nói. "Ghế bành đặt trên thảm, bác biết mà."
              "Herr Lohkamp," Frau Zalewski trịnh trọng tuyên bố, "đừng thấy được rồi làm tới. Như ông Zalewski quá cố thướng nói, ở đời cần phải giữ đức trung dung. Có lẽ cậu cũng nên lấy câu ấy làm điều tâm niệm."
              Tôi biết ông Zalewski quá cố, mặc dù tôn chỉ của ông, đã thực sự nhậu nhẹt đến chết. Vợ ông thỉnh thoảng nói cho tôi biết điều ấy. Nhưng bà không lấy thế làm phiền. Bà dùng ông như người khác dùng Kinh Thánh. Ông qua đời càng lâu, bà trích lời ông càng nhiều. Hiện nay, trong bất kỳ trường hợp nào, bà cũng có thể dẫn ra một câu vàng ngọc của ông -- chẳng khác gì Kinh Thánh.
              Tôi bận rộn chuẩn bị phòng ốc. Tôi đã điện thoại cho Patricia Hollmann từ chiều. Nàng bệnh và tôi không gặp nàng gần một tuần nay. Chúng tôi có hẹn lúc tám giờ tối, và tôi đề nghị ăn ở nhà, sau đó sẽ đi xem chiếu bóng.
              Ghế bành gấm và tấm thảm trông rất đẹp; nhưng ánh sáng bệch bạc, nhạt nhẽo. Vì thế tôi gõ cửa phòng của Hasse kế bên, mượn cây đèn bàn.
              Frau Hasse uể oải ngồi bên cửa sổ. Chồng chị chưa về. Mỗi ngày anh tình nguyện làm thêm hai giờ, hy vọng sẽ không bị sa thải. Nhìn chị, ta liên tưởng đến một con chim ốm. Dưới những nét nhão nhề tàn tạ vẫn là gương mặt nhỏ nhắn của một đứa trẻ -- một đứa trẻ chán nản, u sầu.
              Tôi lễ phép hỏi. Chị tươi tỉnh hẳn và đưa cây đèn cho tôi. "Ach
              Tôi biết rõ câu truyện. Về những người có thể hỏi cưới chị, nếu chị đã từ chối Hasse. Tôi biết một truyện tương tự, nhưng dưới góc nhìn của Hasse. Trong ấy có những người con gái lẽ ra anh đã gặp, nếu anh vẫn còn đơn chiếc. Có lẽ đây là câu truyện thường xảy ra nhất trên đời. Và vô vọng nhất.
              Mỗi khi Frau Hasse nhắc đến Erna, chị chỉ dùng nhóm từ "cô gái phòng bên." Chị khinh bỉ Erna vì ganh ghét nàng. Tôi có nhiều cảm tình với nàng. Nàng không phàn nàn chi về cuộc đời và hiểu rằng ta phải cố gắng, cho dù chỉ có những vụn vằn của cái gọi là hạnh phúc. Nàng cũng biết ta phải trả giá đắt cho hạnh phúc. Hạnh phúc là thứ bất định nhất và đắt giá hơn cả.
              Erna quỳ trước thùng dĩa hát và chọn vài cái cho tôi. "Anh có muốn điệu foxtrot không?"
              "Không," tôi đáp. "Tôi không biết khiêu vũ."
              Nàng ngước lên, lạ lẫm. "Anh không biết khiêu vũ ư? Vậy khi đi chơi, anh làm gì?"
              "Tôi khiêu vũ với thực quản. Cũng tốt vậy."
              Nàng lắc đầu. "Nếu ông xã tôi không biết khiêu vũ, tôi cũng bỏ ông ấy mà thôi."
              "Chị nguyên tắc gớm nhỉ," tôi trả lời. "Nhưng chị còn nhiều dĩa khác. Chỉ mấy hôm trước, chị có một dĩa hát dễ thương lắm -- giọng nữ đệm với đàn Hạ Uy Di."
              "A, bản ấy thật tuyệt vời. 'Làm sao em có thể sống xa anh?' -- phải không?"
              "Vâng, đúng rồi. Không hiểu các ông nhạc sĩ suy tư điều gì mà viết hay như thế ? Tôi đoán, họ là những người lãng mạn còn sót lại."
              Nàng cười. "Nhưng tại sao không? Anh biết đấy, một dĩa hát như thế là một loại niên biểu gia đình. Có một dạo, người ta chép thơ vào sổ lưu niệm; đời nay, người ta tặng nhau dĩa nhạc. Nếu tôi muốn nhớ lại một sự kiện, tôi chỉ cần đặt vào máy hát những dĩa nhạc thời ấy, và dĩ vãng lại ùa ạt quay về."
              Tôi nhìn xuống chồng dĩa hát dưới sàn. "Dựa vào đấy, Erna, hẳn chị có cả chồng kỷ niệm."
              Chị đứng dậy, hất mái tóc đỏ ra sau. "Vâng," chị nói, lấy chân đẩy chồng dĩa sang một bên. "Nhưng tôi sẽ sớm có một kỷ niệm đẹp."
              Tôi mở những gói thực phẩm đã mua cho bửa ăn tối và cố gắng bày biện theo khả năng của mình. Tôi không nghĩ bà bếp sẽ giúp đỡ. Tôi không thuận thảo với Frida. Thể nào bà ấy cũng sẽ làm đổ vỡ một thứ gì đó. Nhưng không đến nỗi tệ, chẳng mấy chốc tôi hầu như không thể nhận ra căn phòng của mình, nó lộng lẫy hẳn lên. Nào là ghế bành, đèn để bàn, bàn ăn phủ khăn -- tôi cảm thấy lòng bồi hồi xao xuyến.
              Tôi ra khỏi nhà, vẫn còn hơn một giờ chờ đợi. Ngoài trời, gió thổi từng cơn dài thậm thượt quanh các ngã tư. Đèn đường đã thắp. Bóng tối giữa các căn nhà xanh như biển, và quán International bập bềnh trên đó như con tàu chiến sẳn sàng chuyển hướng. Chỉ một bước tôi đã nhảy lên boong tàu.
              "Ới kìa, Robert," Rosa nói.
              "Chị làm gì ở đây?" tôi hỏi. "Chưa đi vòng nào sao?"
              "Còn sớm lắm."
              Alois nhẹ nhàng bước tới. "Một?" anh hỏi.
              "Ba," tôi nói.
              "Uống dữ thế," Rosa nhận xét.
              "Cần một thứ thật nồng," tôi nói, nghiêng cốc rượu, uống cạn.
              "Em không đàn một bản nào sao?" Rosa hỏi.
              Tôi lắc đầu. "Hôm nay không có hứng. Giông gió quá, Rosa ạ. Cháu vẫn khỏe chứ?"
              Chị cười khoe hết những cái răng vàng. "Ôi --phỉ phui! Ngày mai chị sẽ đi thăm nó. Tuần này việc làm ăn khấm khá; dê già lại cảm thấy mùa xuân. Chị sẽ đem cho cháu một chiếc áo khoác mới. Dạ đỏ."
              "Dạ đỏ! Hợp thời trang lắm," tôi nói.
              Rosa rạng ngời. "Em là một người hào hiệp, Bob."
              "Hy vọng chị nói đúng," tôi nói. "Nào, uống một ly với em nhé. Anisette, phải không?"
              Chị gật đầu. Alois đem rượu đến và chúng tôi chạm ly. "Rosa, nói cho em biết, chị nghĩ gì về tình yêu?" tôi hỏi. "Chị phải có ít nhiều kinh nghiệm."
              Chị phá lên cười sặc sụa.
              "Ui chà, về những thứ ấy, -- " rồi chị nói. "Tình yêu. Ach, Arthur của chị -- mỗi khi nghĩ đến tên vô lại hoang đàng ấy, đầu gối chị lại chảy tan thành nước. Để chị nói Bob nghe điều này, nghiêm chỉnh -- Đời người quá dài cho tình yêu. Dài quá, thế đấy. Arthur của chị đã nói thế, khi bỏ đi. Và đúng vậy. Tình yêu thì tuyệt vời. Nhưng với một người, tình yêu luôn luôn quá chán chường. Còn người kia, chỉ ngồi đấy, và nhìn đăm đăm. Điên dại."
              "Đồng ý," tôi nói "Một mặt khác, nếu không có tình yêu, người ta sẽ chẳng hơn gì một xác chết biết đi."
              "Hãy làm giống chị," Rosa trả lời, "có một đứa con. Như thế em sẽ có một đối tượng để thương yêu và cho tâm hồn được bình yên."
              "Ý không tệ lắm," tôi nói. "Chưa bao giờ xảy đến với em."
              Rosa lắc đầu, mơ mộng. "Dù Arthur của chị đã bao lần đối xử tàn nhẫn -- tuy nhiên nếu ngay lúc này anh ấy bước vào đây, với cái mũ quả dưa hờ hững trên đầu -- ôi chao, chỉ nghĩ đến thế, chị đã rưng rưng muốn khóc."
              "Nào, hãy uống mừng sức khoẻ Arthur," tôi nói.
              Rosa cười to. "Mong cho thằng khốn khiếp mạnh giỏi!"
              Chúng tôi cạn ly. "Au revoir, Rosa. Đắt khách nhé."
              "Au revoir
              Cánh cửa nhà sập mạnh.
              "Chào anh," Patricia Hollman nói, "đang suy tư đấy à?"
              "Không. Còn cô thì sao? Khỏe hơn chưa? Cô bị bệnh gì thế?"
              "Ach, không có bệnh gì đặc biệt. Cảm và sốt nhẹ mà thôi."
              Rõ ràng, trông nàng không có vẻ ốm đau hay tiều tụy. Ngược lại, chưa bao giờ tôi thấy mắt của nàng to và sáng như hôm nay, đôi má ửng hồng và dáng điệu thanh thoát, uyển chuyển như một con thú tơ non.
              "Trông cô tuyệt vời," tôi nói. "Hoàn toàn khỏe mạnh. Chúng ta sẽ tha hồ vui chơi."
              "Được lắm," nàng đáp. "Tuy nhiên, hôm nay thì không. Hôm nay, tôi không thể."
              Tôi bối rối nhìn nàng. "Cô không thể?"
              Nàng lắc đầu. "Vâng, chẳng may."
              Tôi vẫn chưa hiểu. Tôi chỉ nghĩ rằng nàng đã đổi ý, không muốn đến nhà tôi và ăn tối ở đấy.
              "Mấy phút trước tôi vừa điện thoại để nói rằng anh không cần đến. Thế nhưng anh đã đỉ rồi."
              Cuối cùng tôi cũng hiểu. "Cô định nói, thực sự cô không thể đi chơi? Nguyên buổi tối hôm nay?" tôi hỏi.
              "Vâng, hôm nay. Tôi có một cuộc phỏng vấn quan trọng. Chẳng may, người ta chỉ báo trước chừng nửa tiếng mà thôi."
              "Cô không thể đình lại? hoãn đến ngày mai? Chúng ta đã hẹn nhau tối nay!"
              "Không thể được." Nàng mỉm cười. "Công ăn việc làm mà."
              Tôi choáng váng. Tôi đã dự phòng tất cả các tình huống, ngoại trừ chuyện này. Tôi không tin dẫu một lời của nàng. Không giống công việc. Có thể nàng chỉ viện cớ. Chắc chắn rồi, không còn nghi ngờ chi nữa. Có cuộc phỏng vấn quan trọng nào lại tiến hành ban đêm hay không? Ban ngày mới là thời gian thích hợp. Và dù sao, chẳng ai lại báo một tin quan trọng trong vòng nửa tiếng. Đơn giản là nàng muốn hủy bỏ buổi hẹn với tôi, thế thôi.
              Tôi tiu nghỉu như một đứa trẻ. Chỉ đến lúc này tôi mới ý thức được mình đã thiết tha mong chờ ra sao. Tôi khó chịu vì đã bực bội, và tôi không muốn hé lộ cho nàng biết.
              "Tốt lắm," tôi nói, "vậy thì chẳng làm gì cả. Au revoir."
              Nàng nhìn tôi, dọ dẫm. "Không có chi gấp gáp. Đến chín giờ tôi mới cần có mặt ở đấy. Chúng ta có thể đi dạo một lúc. Cả tuần nay tôi không bước chân khỏi nhà."
              "Cũng được," tôi do dự. Bỗng nhiên tôi cảm thấy lòng mình trống vắng, rã rời.
              Chúng tôi đi trên đường phố. Đêm trong vắt và những vì sao lấp lánh giữa các nóc nhà. Ngang qua một bãi cỏ trống, nơi có vài bụi cây ẩn mình trong bóng tối, Patricia Hollman chợt ngừng lại.
              "Tử đinh hương," nàng nói. "Tôi ngửi mùi tử đinh hương! nhưng vô lý, dĩ nhiên, vì đâu đã đến mùa."
              "Tôi không ngửi được mùi gì cả," tôi trả lời.
              "Có mà!" Nàng nghiêng người qua lớp rào sắt.
              "Đấy là Daphne indica, hoa thụy hương, thưa cô," một giọng khàn khàn từ bóng tối vọng ra.
              Một công nhân chăm sóc hoa viên thành phố, với cái mũ vải đính phù hiệu kim loại đang đứng tựa một gốc cây. Ông chếch choáng tiến tới. Cổ một chai thủy tinh sáng lóng lanh thò ra ở miệng túi. "Chúng tôi mới trồng hôm nay," ông vừa nấc cụt vừa giải thích. "Ở đàng kia."
              "Cám ơn ông," Patricia Hollman nói và quay lại nhìn tôi. "Anh chưa ngửi thấy mùi gì sao?"
              "Có chứ, tôi dư sức ngửi được," tôi trả lời rất vô duyên. "Brandy ngon và quý."
              "Ăn nói đáo để nhỉ!" Người đàn ông trong bóng tối ợ rõ to.
              Cô gái cười lớn và hít một hơi dài. "Thật đáng yêu biết mấy, khi ta đã giam mình ở nhà một thời gian quá lâu. Rất tiếc, tôi sắp phải đi. Cái anh Binding này -- lúc nào cũng vội vã và đợi đến phút chót -- tôi nghĩ anh ấy có thể dời cuộc phỏng vấn đến mai."
              "Binding?" tôi hỏi. "Cô có hẹn với Binding?"
              Nàng gật đầu. "Với Binding và một người khác. Chính người ấy mới đáng kể. Việc rất quan trọng. Anh có tưởng tượng được không?"
              "Không," tôi trả lời. "Tôi không thể."
              Nàng cười to và tiếp tục nói. Nhưng tôi không thể lắng nghe nàng nữa. Binding -- tên ấy như một tia chớp đâm xuyên thân thể tôi. Tôi không nhận ra, dù sao nàng cũng quen biết anh ấy rất lâu trước khi quen tôi -- tôi chỉ thấy diễn ra trước mắt, chiếc Buick to lớn của anh, bóng nhoáng và đồ sộ hơn đời thường; bộ quần áo sang trọng và cái ví tiền dầy cộp của anh. Căn phòng cũ, cố ý trưng bày cho có vẻ lịch lãm, đáng thương của tôi! Không hiểu tôi đã nghĩ gì! nào đèn bàn của Hasse, ghế bành của Zalewski! Nàng không phải là người con gái dành cho tôi, dĩ nhiên. Dù sao, tôi là ai chứ? Một anh bộ hành kiết xác có lần vay mượn chiếc Cadillac, một bợm nhậu ngu khờ, chỉ có thế thôi. Hạng người ta gặp nhan nhản ngoài phố. Tôi hình dung ra cảnh người gác cửa ở quán "Chùm Nho" kính cẩn chào Binding, những căn phòng trang nhã, ấm cúng, sáng sủa, khói thuốc mờ mịt như mây, những con người khôn ngoan tài giỏi. Tôi nghe âm nhạc và tiếng cười -- cười chế nhạo tôi. Lui lại, tôi nghĩ, lui nhanh. Một ý tưởng, một hy vọng -- như thế cũng đủ lắm rồi. Sẽ rất vô lý nếu tôi để cho mình vướng mắc vì dựa vào sức mạnh ấy. Không có cách gì khác, ngoại trừ tháo lui.
              "Không chừng chúng ta có thể gặp nhau tối mai," Patricia Hollmann nói.
              "Tối mai tôi không rảnh," tôi trả lời.
              "Vậy hôm sau hay là một ngày nào đó tuần này. Trong mấy ngày sắp tới, tôi không bận gì cả."
              "Khó lắm," tôi nói. "Chiều nay chúng tôi vừa nhận một đơn hàng khẩn cấp, có lẽ mỗi ngày chúng tôi phải ở lại làm việc đến khuya, suốt tuần mới xong."
              Đấy là chuyện bịa, nhưng tôi không thể nào làm khác hơn. Có quá nhiều giận dỗi và tủi hổ trong tôi.
              Chúng tôi băng ngang công trường, đi trên con đường dẫn về nghĩa trang.Tôi trông thấy Rosa, từ phía quán International đi đến. Đôi ủng cao của chị bóng lộn. Tôi có thể ngoặt sang một con đường mới, và nếu vào một dịp khác, có lẽ tôi đã làm vậy; nhưng tôi vẫn đi thẳng về phía chị. Rosa nhìn qua vai tôi như chúng tôi là hai người hoàn toàn xa lạ. Đúng ra phải như thế; không một cô nào trong bọn sẽ chào hỏi, khi một trong hai bên có người đi kèm.
              "Chào Rosa," tôi nói.
              Quá ngạc nhiên, chị nhìn tôi trước, rồi sau đó, nhìn sang Patricia Hollmann; chị hấp tấp gật đầu và cuống quýt bước đi. Chỉ vài bước sau chị là Fritzi, ví xách lủng lẳng, môi đỏ chót và cặp hông đong đưa theo bước chân. Chị lãnh đạm nhìn xuyên qua tôi như thể tôi là một tấm kính trong suốt.
              "Gruss Gott, Fritzi," tôi nói.
              Chị nghiêng đầu như một bà hoàng và không để lộ một chút kinh ngạc nào; nhưng khi đã vượt qua, tôi nghe bước chân gấp rút của chị --chị sẽ bàn tán với Rosa về chuyện này. Tôi vẫn còn thì giờ rẽ vào một con đường nhỏ cắt ngang, tôi biết những cô gái còn lại sẽ tiếp tục đi đến - - đúng vào lượt rước khách đầu tiên của họ. Nhưng trong niềm tức giận, tôi vẫn tiếp tục đi -- tại sao tôi phải tránh né họ? Tôi biết họ còn nhiều hơn người con gái bên cạnh với Binding của cô ấy và chiếc Buick của anh ta. Cô ấy nên nhìn thấy -- tận tường.
              Họ đến kìa rồi, qua khỏi dãy đèn đường --Wally xinh đẹp, xanh xao, thon thả, thanh lịch; Lina với cái chân gỗ; Erna vạm vỡ, Marion non nớt, Margot má đỏ hồng; Kiki, anh chàng đồng tính luyến ái trong cái áo choàng lông sóc; và cuối cùng là Mimi, bà ngoại với chứng giãn tỉnh mạch, xác xơ như cú. Tôi chào từng người, và khi chúng tôi gặp Bu ở quày xúc xích, tôi lắc tay bà nồng nhiệt.
              "Anh quen biết rộng nhỉ?" Một lúc sau, Patricia Hollman nói.
              "Vâng, loại người ấy." tôi huỵt toẹt đáp lại.
              Tôi để ý rằng nàng nhìn tôi. "Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại." Một lúc sau, nàng nói.
              "Vâng," tôi đáp. "Tôi cũng nghĩ thế."
              Chúng tôi dừng lại trước cửa nhà.
              "Chúc cô may mắn," tôi nói, "và có nhiều vui thú."
              Nàng không trả lời. Phải khó khăn lắm tôi mới rời mắt khỏi cái nút bấm chuông để nhìn qua nàng. Và quả tình --tôi không tin được chính mắt mình --nàng đứng đấy, và, thay vì cau có bực bội, vành môi nàng khẻ run giật, đôi mắt long lanh tinh quái; và rồi nàng cười to, chân thành, không giữ kẻ -- chỉ đơn thuần thú vị bởi tôi.
              "Cưng ơi," nàng nói, "Ôi trời, anh còn trẻ con quá đi thôi!"
              Tôi gương mắt nhìn nàng. "Ơ kìa, nếu cô --" tôi nói. "Dù sao --" và thình lình tôi hiểu ra. "Vậy tôi đoán, cô cho rằng tôi ngớ ngẩn lắm, phải không?"
              "Cũng có thể nói như vậy."
              Trông nàng tuyệt vời, ánh đèn nhảy múa lunh linh trên mặt -- trẻ trung, vui tươi và xinh đẹp. Tôi nhanh nhẹn bước tới, kéo nàng lại gần, mặc cho nàng tha hồ suy nghĩ. Mái tóc tơ mềm của nàng phơn phớt trên má tôi, mặt nàng kề bên tôi, hương đào thơm của làn da nàng thoang thoảng; rồi đôi mắt nàng nhích lại gần hơn và thình lình, tôi cảm thấy môi nàng áp vào môi tôi...
              Nàng đã rời đi trước khi tôi nhận thức những gì vừa xảy ra... Như một con lừa khoang, tôi ngây dại đứng nhìn theo nàng. "Lạy thánh Moses!" rồi tôi kêu lên, thành lời.
              Tôi trở về, ngang qua quầy xúc xích của Bu một lần nữa. "Cho cháu một cái bockwurst lớn," tôi tươi cười nói.
              "Có mù tạt không?" Bu, mình quàng tạp dề trắng tinh, hỏi lại.
              "Thật nhiều mù tạc, bu nhé!"
              Tôi ngấu nghiến ăn tại chỗ, và nhờ Alois đem một ly bia từ International. "Con người là một sinh vật kỳ lạ, bu nhỉ?" tôi nói.
              "Bu cũng nghĩ thế," Bu hăng hái trả lời. "Có một cậu, hôm qua tới đây ăn hai cái Wieners với mù tạc rồi không có tiền trả. Đã khuya lắm, lại không có ai chung quanh, bu có thể làm gì đây? Cho nên, cháu biết, bu đành để cậu ấy đi. Thử nghĩ xem, thế mà hôm nay cậu ấy đến, trả tiền mấy cái Wieners đã nợ và khao bu một ly bia nữa chứ."
              "Đấy là một phẩm cách tiền chiến. Mà bu buôn bán ra sao, đắt hàng chứ?"
              "Ế thiu ế chảy! Hôm qua, bu chỉ bán được bẩy cặp Wieners và chín cái Bockwursts. Cháu biết, nếu không có các cô ấy, có lẽ bu đã dẹp chuyện bán buôn từ lâu."
              Các cô ấy, là những cô gái giang hồ ủng hộ bu hết mình. Khi có mối, nếu có thể, họ đưa khách đến quầy ăn một cái bockwurst trước, giúp bu kiếm thêm chút tiền.
              "Chẳng mấy lúc trời sẽ ấm lên," Bu tiếp tục, "nhưng trong cái ướt át rét mướt của mùa đông-- cứ mặc thứ y phục mà ta thích, thế nào cũng bắt được một thứ gì đó."
              "Cho cháu một cái bockwurst nữa," tôi nói; "cháu thấy yêu đời, tham sống lạ. Chuyện nhà bu ra sao rồi?"
              Bu nhìn tôi, qua đôi mắt hẹp, sáng màu hồ thủy. "Lúc nào cũng thế. Hôm kia ông ấy bán cái giường."
              Bu có gia đình. Mười năm trước, chồng bu, khi nhảy tàu, đã trượt chân té và bị cán qua người. Phải cưa cả hai chân. Tai nạn để lại một di chứng trầm trọng. Là người tàn phế, ông cảm thấy tủi nhục đến mức không bao giờ gần gũi vợ nữa. Ngoài ra, khi ở bịnh viện, ông đã mắc chứng nghiền ma túy. Từ đấy đời ông tuột dốc rất nhanh; ông vướng vào vòng đồng tính luyến ái, và chẳng bao lâu, ông -- một người chồng bình thường suốt năm mươi năm, nay chỉ kết bạn với những chàng trai ẻo lả. Để chu cấp cho họ và ma túy, hễ chộp được vật dụng nào của bu là ông lại bán tống bán tháo. Nhưng bu vẫn gắn bó với ông, dù thường hay bị đánh đập. Mỗi đêm bu túc trực ở quầy xúc xích với con trai đến tận bốn giờ sáng. Ban ngày bu giặt giũ và lau chùi. Lúc nào bu cũng khổ sở vì một chứng bệnh ở vùng bụng và bu cân nặng không đầy bốn mươi ký --tuy nhiên, chưa ai thấy bu kém phần thân thiện bao giờ. Bu tin rằng đời mình cũng chưa đến nỗi nào. Thỉnh thoảng, mỗi khi đau khổ, chồng bu lại tìm về và khóc. Đấy là những lúc hạnh phúc nhất của bu.
              "Cháu vẫn làm việc ở cái chỗ ngon lành ấy?" Bu hỏi.
              Tôi gật đầu. "Vâng. Hiện nay cháu kiếm tiền khá lắm."
              "Cố mà giữ lấy."
              "Cháu sẽ gắng, bu ạ."
              "Chị là người con ngoan," tôi nói, vì tôi thấy lòng đầy xúc động, cần làm một vài việc thiện.
              Chị nhăn nhó như khỉ ăn ớt.
              "Nói nghiêm chỉnh nhé," tôi tiếp tục, "ta gây gổ nhau mãi, để làm gì? Cuộc đời ngắn ngủi lắm, Frida, đầy tai nạn và hiểm họa. Thời buổi này, người ta cần đoàn kết. Hãy giảng hòa với nhau, nhé."
              Làm như không thấy bàn tay tôi đưa ra, chị lầm bầm nguyền rủa chuyện chè chén say sưa, và, đóng sầm cửa, biến mất.
              Tôi gõ cửa phòng George Block. Một vệt sáng kéo dài dưới ngạch cửa. Anh đang gạo bài.
              "Ra ăn, George ơi," tôi nói.
              Anh nhìn lên. Gương mặt vốn nhợt nhạt, đỏ bừng. "Tớ không đói."
              Anh nghĩ, đấy là thương hại. Do đó anh không muốn.
              "Cậu ạ, đến mà xem. Nếu không ai ăn, nó sẽ thiu thối. Làm ơn dùm tớ đi mà."
              Đi trên hành lang, tôi để ý thấy cửa phòng Erna Bonig mở hé. Bên trong, có hơi thở rất nhẹ. "À há", tôi nghĩ, và nghe tiếng khóa mở lách tách ở phòng Hasse và cũng y thế, cánh cửa xê dịch vài phân. Toàn thể nhà trọ đang canh chừng, rõ ràng vậy, cô em họ của tôi.
              Trong phòng, đèn trần gay gắt rọi xuống ghế bành gấm của Frau Zalewski. Đèn bàn của Hasse trình bày một cảnh tượng đẹp mắt, quả thơm vàng óng, xúc xich gan tuyệt hảo, cá hồi, rượu sherry...
              Khi tôi và George -- không nói ra lời-- đã yên vị trong phòng, có tiếng gõ cửa. Tôi biết chuyện gì sắp xảy ra.
              "Cậu chuẩn bị nhé," tôi thì thầm với George, và nói lớn, "Mời vào."
              Cửa mở và, Frau Zalewski háo hức bước vào với tất cả nỗi hiếu kỳ. Lần đầu trong đời, tôi được bà thân chinh giao thư tận phòng -- một bản tin thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm. Bà sửa soạn như một bà tiên-- một mệnh phụ chính cống thời vàng son xưa cũ, áo đầm ren với khăn choàng kết tua và kim cài áo với chân dung ông Zalewski quá cố đính tòng teng như mặt dây chuyền. Nụ cười mật ngọt trên mặt bà chợt đông cứng; giật nẩy mình, bà chằm chập nhìn George, đang bẻn lẻn. Tôi khoái chí cười hăng hắc. Bà nhanh chóng lấy lại bình tỉnh.
              "A ha, lỗi hẹn rồi," bà nói, châm chọc.
              "Đúng," tôi đồng ý, vẫn còn bị bộ y phục cầu kỳ của bà lôi cuốn. Thật là may, tôi không mời được nàng.
              Bảo mẫu Zalewski nhìn tôi, chì chiết. "Thế mà cháu còn cười được nữa ư? Bác đã chẳng thường nói, thay vì trái tim như người ta, trong lồng ngực cháu chỉ có chai rượu mạnh."
              "Nói chữ hay đấy," tôi đáp. "Nhưng Frau Zelewski, bác làm ơn dùm cháu chuyện này được không?"
              Bà ngần ngừ. Nhưng rồi lòng hiếu kỳ chiến thắng, và hy vọng biết thêm một thứ gì đó. Tôi mở nút chai sherry.
              Sau đó, khi tất cả đã im lắng, tôi cầm chiếc áo khoác và cái chăn, len lén đi qua hành lang đến chỗ điện thoại. Tôi quỳ trước bàn, nơi đặt điện thoại, trùm áo khoác và chăn lên đầu, nhấc ống nghe và bằng tay trái, túm cái áo khoác cho kín lại bên dưới. Như thế tôi chắc chắn không ai có thể nghe trộm. Nhà trọ Zalewski có những vành tai to tướng, tọc mạch.
              May mắn quá. Patricia Hollmann có ở nhà.
              "Cuộc phỏng vấn bí ẩn của em xong đã lâu chưa?" tôi hỏi.
              "Em về nhà khoảng một giờ rồi."
              "Tiếc quá. Nếu anh biết thế --"
              Nàng cười. "Không, cũng chẳng ích gì. Em đang nằm trên giường và lại lên cơn sốt nhẹ. May mà em về nhà sớm."
              "Sốt? Sao lại sốt, có sao không?"
              "Ach, chuyện chán lắm. Và tối nay anh làm gì thế?"
              "Anh thảo luận tình hình thế giới với bà chủ nhà. Còn em? Việc làm ăn của em có kết quả tốt?"
              "Em hy vọng thế."
              Tổ tò vò của tôi nóng kinh hồn. Nên mỗi khi nàng nói, tôi lại hé tấm chăn, hít nhanh một nhúm không khí mát lạnh bên ngoài và khép chăn lại khi đến lượt tôi, miệng áp sát ống nghe.
              "Bạn bè của em có ai tên Robert không vậy?" tôi hỏi.
              Nàng cười. "Không có ai."
              "Tiếc quá. Anh muốn nghe em gọi tên ấy. Dù sao, em cứ gọi, được không?"
              Nàng lại cười.
              "Để đùa vui," tôi nói. "Em có thể nói, thí dụ như: 'Robert là một gã khờ.'"
              "Robert là một em bé, và lạy trời xin được như thế mãi mãi."
              "Em phát âm hay tuyệt," tôi nói. "Và bây giờ, chúng ta hãy thử với tên Bob. Như: 'Bob là một - -'"
              "Bob là đệ tử của thần lưu linh," nàng chậm rãi nói, êm đềm, xa vắng; "bây giờ em phải ngủ -- em đã uống thuốc ngủ và mi mắt em nặng chĩu rồi."
              "Vâng- - tạm biệt -- em ngủ ngon nhé ---"
              Tôi đặt ống nghe xuống, vứt áo khoác và chăn sang một bên. Rồi tôi đứng dây và thình lình lạnh cứng người. Như một con ma đứng ngay sau lưng tôi, bác kế toán viên đã nghĩ hưu, sống trong căn phòng cạnh nhà bếp. Tôi làu bàu vài câu, bất bình.
              "Xuỵt!" ông chúm môi nói và cười toe toét.
              "Xuỵt!" tôi trả lời, rủa thầm ông đi về địa ngục.
              Ông chìa một ngón tay lên trời. "Tôi sẽ không tiết lộ -- chính trị, hử?"
              "Cái gì? tôi hỏi, kinh ngạc.
              Ông nháy mắt. "Đừng lo. Bản thân tôi là người Cực Hữu. Thảo luận chính trị bí mật, hử?"
              Tôi chợt hiểu. "Rất là chính trị," tôi nói, và cũng nhe răng cười.
              Ông gật đầu và khẽ nói: "Hoàng đế muôn năm."
              "Vạn vạn tuế!" tôi đáp. "Nhưng tôi có chuyện này muốn hỏi; bác có biết ai là người phát minh ra điện thoại hay không?"
              Ngạc nhiên, ông lắc cái trán hói.
              "Tôi cũng không biết," tôi nói, "nhưng người đó chắc chẳn phải là một người tuyệt vời."

              Comment


              • #8
                Erich Maria Remarque Chiến hữu

                Erich Maria Remarque

                Chiến hữu

                Chương 9


                Tất cả đều có mặt -- Grau, Valentin, Lenz, Patricia Hollmann, nhất là Jupp --Jupp trong bộ áo liền quần, kính đua và mũ đua. Vì nhẹ cân nhất, thằng bé được làm phụ xế cho Koster. Lenz nghi ngại nhiều --anh luôn nghĩ rằng đôi tai vễnh to của Jupp sẽ tạo một lực cản lớn, một là xe sẽ giảm đi hai mươi kí lô mét tốc độ, hai là sẽ trở thành máy bay mất thôi.
                "Làm sao cô lại có cái tên rất Anh như thế?" Gottfried hỏi Patricia Hollmann, ngồi cạnh.
                "Mẹ em là người Anh. Pat cũng là tên của mẹ em."
                Tôi trố mắt nhìn anh. Trong khi tôi vẫn còn khổ sở trong vấn đề xưng hô, anh đã có thể giữa thanh thiên bạch nhật gọi nàng như thế mà không đỏ mặt. Và nàng cười, và cũng gọi lại anh bằng tên Gottfried.
                Nhưng như thế chẳng thấm vào đâu so với Ferdinand Grau. Anh hoàn toàn say mê và không rời mắt khỏi nàng. Anh trích những câu thơ êm ái và giải thích rằng nàng cần phải học vẽ. Anh lại còn đặt nàng ngồi trên một cái hộp và bắt đầu phác họa.
                "Nghe này, Ferdinand con kên kên già," tôi nói, giật phắt tập giấy vẽ trên tay anh, "cứ bám vào những người đã chết. Đừng tấn công những người còn sống. Cậu hãy giảng thêm cho tụi tớ về chân bản thể. Còn với cô ấy, tớ khá nhạy cảm đấy."
                "Thế cậu có chịu nhậu với tớ cho đến hết di hài của bà dì ông chủ quán rượu của tớ?"
                "Tớ không chắc nguyên cả di hài, nhưng một chân thì được."
                "Tốt. Vậy thì tớ sẽ làm theo ý cậu, bé ạ."
                Động cơ xe trên vòng đua nổ như súng liên thanh. Mùi dầu nhớt, xăng và dầu thầu dầu khen khét. Một thứ mùi phấn khích, tuyệt vời; âm thanh dồn dập, tuyệt diệu của những cái xe đua.
                Hai bên đường đua, thợ máy ở những điểm bảo trì hò hét loạn xị. Chúng tôi, chỉ có lèo tèo dăm ba món. Một ít dụng cụ sửa xe, bu-gi, mấy cái bánh xe dùng tạm với vỏ lốp mà chúng tôi cạy cục từ một cơ xưởng sản xuất, vài ba loại phụ tùng -- chỉ có thể thôi. Koster không đại diện cho hảng xưởng nào cả. Chúng tôi phải trả trả tiền cho tất cả mọi thứ. Vì lý do ấy, chúng tôi không thể sắm sửa nhiều.
                Otto đi tới, theo sau là Braumuller đã vận sẳn bộ áo đua.
                "Otto," anh nói, "nếu hôm nay bu-gi xe của tớ trục trặc, cậu sẽ bỏ xa. Nhưng chúng sẽ không."
                "Để rồi xem," Koster trả lời.
                Braumuller dư dứ nắm tay trước Karl. "Liệu hồn, coi chừng thằng Nutcracker của ta đấy!"
                Nutcracker là chiếc xe to và mới Braumuller đang lái. Nó rất được mọi người yêu chuộng.
                "Karl sẽ giúp cậu chạy thả ga, Oscar ơi!" Lenz nói với sang.
                Braumuller đã định trả lời bốp chát theo kiểu con nhà lính, nhưng nín ngang khi anh nhìn thấy Patricia Hollmann đang đứng với chúng tôi; anh lấy tay che mắt giả như nhìn qua viễn vọng kính, cười cười với chúng tôi và bỏ đi một nước.
                "Chiến thắng càng vinh quang hơn," Lenz nói, thỏa mãn.
                Bánh xe nghiến rào rạo đường đua. Koster phải chuẩn bị xe. Karl dự thi hạng thể thao.
                "Tụi mình không thể giúp cậu nhiều đâu, Otto," tôi nói, nhìn những thiết bị đang có.
                Anh phẩy tay. "Sẽ không cần thiết. Nếu Karl hỏng máy, nguyên một ga ra sửa xe cũng chẳng ích gì."
                "Chúng ta có nên phất cờ, để cậu biết vị trí của cậu không?"
                Koster lắc đầu. "Khởi hành tập thể mà. Ở đấy, tớ sẽ liệu chừng. Ngoài ra, Jupp biết rõ nó làm gì."
                Jupp hăm hở gật đầu. Người run lên vì kích động, thằng bé ngốn sô cô la không ngừng. Nhưng đấy chỉ tạm thời thôi. Khi khởi động, thằng bé sẽ bình tỉnh lại như một con rùa đấy thôi.
                "Nào, chúng ta bắt đầu, được ăn cả ngã về không nhé!"
                Chúng tôi đẩy Karl ra. "Chớ có đứng sững lúc khởi hành, ranh con ạ," Lenz nói, ve vuốt bộ tản nhiệt. "Đừng làm cho ông già tía của mi phải thất vọng, Karl nhé."
                Karl phóng vù đi. Chúng tôi nhìn theo.
                "Vừa xem đẫy mắt cái món kỳ khôi ấy," thình lình một giọng nói sau lưng chúng tôi cất lên. "Trời ạ, phía sau của nó trông như mông đà điểu!"
                Lenz đứng thẳng người. "Anh nói tới cái xe màu trắng, phải không?" Mặt đỏ bừng, nhưng anh vẫn bình tỉnh.
                "Vâng, đúng thế," người thợ máy cao to ở trạm bảo trì kế bên thản nhiên quay đầu lại, vừa trả lời vừa chuyền một chai bia cho bạn hắn. Lenz lắp bắp trong giận dữ, và chuẩn bị trèo qua bức ngăn thấp. May là anh chưa thóa mạ một câu nào. Tôi nắm anh lại. "Kệ tía cái thằng thối rữa ấy," tôi chửi thề, "chúng ta cần có cậu. Cậu muốn đi nhà thương trước khi trận đua bắt đầu à?" Ù lì giằng co như một con la, anh cố lách khỏi tay tôi. Anh không cho phép ai được lăng nhục Karl.
                "Xem này," tôi nói với Patricia Hollmann, "đây là con dê gàn dở tự cho mình là người lãng mạn cuối cùng. Cô có tin không, có lần anh ấy đã đề một bài thơ tặng chị Hằng?"
                Có ảnh hưởng lập tức. Đấy là vết thương nhức nhối của Gottfried.
                "Chuyện đã lâu lắm rồi, trước chiến tranh," anh tự bào chữa. "Ngoài ra, bé con, không phải là một tội ác nếu ta điên lên trong trận đua xe. Có phải thế không, Pat?"
                "Điên mê không bao giờ là một tội ác."
                Gottfried giơ tay chào. "Một câu nói cao quý."
                Tiếng động cơ xe như sấm, nhận chìm tất cả. Không khí rúng động. Đất và trời rung chuyển. Bầy xe vun vút lao ngang.
                "Đang áp chót," Lenz gầm lên. "Con lợn ỉ lại ngúng nguẫy lúc khởi hành."
                "Không sao," tôi nói. "Khởi động là khuyết điểm của Karl. Nó có thể chậm chạp lúc khởi hành, nhưng không bao giờ ngừng lại." và khi tất cả những xôn xao lắng xuống, loa phóng thanh bắt đầu rầm rì. Chúng tôi không thể tin ở tai mình. Burger, một địch thủ nguy hiểm, chơ vơ đứng lại ở vệt khởi hành.
                Đoàn xe gầm gừ quay lại. Từ xa chúng ríu rít như bầy châu chấu trên vòng đua, lớn dần và kè sát nhau trên làn đối diện, vụt qua khán đài trung ương rồi biến vào khúc quanh lớn. Vẫn sáu chiếc xe, và Koster vẫn áp chóp. Chúng tôi đã sẳn sàng. Tiếng dội và tiếng dội trở lại từ khúc quanh vọng về, giành nhau cường độ lớn nhỏ. Rồi đoàn xe vọt tới. Xe Số Một dẫn đầu khá xa, rồi xe thứ nhì và thứ ba gần với nhau, và Koster. Anh đã qua mặt chiếc xe khác ở khúc quanh và bây giờ chiếm hạng tư.
                Mặt trời ló khỏi mây. Những dãi băng rộng, sáng và xám đổ trên đường đua đột nhiên lốm đốm như da cọp. Bóng mây lướt trên biển người ở khán đài. Bão tố của động cơ xe thấm nhập vào máu như một loại âm nhạc quái dị. Lenz bồn chồn đi tới đi lui, tôi nhai nát điếu thuốc lá, và Patricia Hollmann ngước mặt ngửi không khí như một con ngựa non mỗi sáng. Chỉ có Valentin và Grau ngồi im, măc cho vầng thái dương rọi nắng lên người.
                Một lần nữa nhịp tim mênh mông của máy nổ lại trở về, vút qua khán đài chánh. Chúng tôi chú mục nhìn Koster. Anh lắc đầu. Anh không muốn thay lốp xe. Lần này anh đã tăng tốc độ lên một ít. Anh bám sát bánh xe đen của chiếc Hạng Ba. Và cứ thế, họ phóng vun vút trên đường thẳng không cùng.
                "Mẹ kiếp!" Lenz nghiêng chai, nốc một ngụm.
                "Anh ấy đã tập luyện kỹ," tôi nói với Patricia Hollmann. "Qua mặt ở khúc quanh là sở trường của anh ấy."
                "Rượu đây, Pat có muốn hớp một ít không?" Lenz hỏi.
                Tôi nhìn anh, bất mãn. Anh trố mắt nhìn lại.
                "Em thích uống trong ly hơn," nàng nói. "Em chưa biết cách uống từ chai."
                "Cô thấy chưa," Lenz với tay, lấy một cái ly. "Đấy là chỗ yếu kém của nền giáo dục hiện đại."
                Ở vòng kế, đoàn xe tách rời ra hơn. Braumuller dẫn trước. Bốn chiếc đầu bỏ xa ba trăm mét. Xe Koster phóng song song với chiếc Thứ Ba rồi biến mất đàng sau dãy khán đài. Rồi đoàn xe lại rần rộ quay về. Chúng tôi nhảy dựng lên. Xe Thứ Ba đâu rồi? Sau hai chiếc xe đầu, Otto một mình vụt tới. Đây rồi -- cuối cùng thì Xe Thứ Ba cũng loạng choạng chạy đến: hai bánh sau của nó bị nổ lốp. Lenz mĩm cười ranh mảnh -- nó dừng lại trước trạm bảo trì bên cạnh. Gã thợ máy hộ pháp chửi thề. Một phút sau, nó lại lướt vèo trên đường.
                Vòng kế tiếp, thứ tự không thay đổi. Lenz để đồng hồ bấm giờ sang một bên và tính toán.
                "Karl vẫn còn tiềm năng," anh tuyên bố.
                "Tớ e rằng, các xe kia cũng thế," tôi nói.
                "Đồ vô thần!" Anh lừ mắt, muốn nghiến nát tôi.
                Như một quái vật trong suốt thủy tinh, sự căng thẳng úp chụp trên sân đua và khán đài khi đoàn xe bắt đầu vòng đua cuối.
                "Tất cả hãy sờ vào gỗ," tôi nói, nắm cứng cán búa. Lenz ôm chặt đầu tôi. Tôi đẩy anh ra. "Ach, vậy sao, xin lỗi nhen; dĩ nhiên đầu cậu chỉ chứa rơm thôi," anh giải thích, rồi nắm vào rào chắn.
                Khi máy xe quay số vòng tối đa, tiếng rì rầm biến thành gầm rú, gầm rú biến thành hú rít, hú rít biến thành sấm động, rồi thành tiếng hát the thé ở âm vực cao. Braumuller phóng vút sát bìa đường đua; chiếc thứ nhì theo đuôi. Phà khói mù mịt và bánh sau cày xuống mặt đường, xe thứ nhì lấn vào trong, sâu hơn; người lái rõ ràng muốn qua mặt xe thứ nhất ở khúc quanh.
                "Sai lầm!" Lenz kêu to. Koster đã lao theo họ, máy nổ vù vù, xe của anh bay tít mút rìa đường đua; trong một giây, chúng tôi cứng đờ, -- dường như anh sắp bay bổng lên không, -- và rồi máy xe gầm rú và xe phóng vèo tới trước.
                "Cậu ấy đạp lút ga!" tôi hét to.
                Lenz gật đầu. "Điên."
                "Anh ấy sắp bắt kịp!" nàng nói. "Anh ấy qua mặt được rồi."
                "Cậu ấy sẽ đuổi theo Braumuller. Himmelbergott, beiliger Moses!" Lenz lại kêu to. "Cậu ấy qua mặt cái xe thứ nhì rồi và đang bám Braumuller."
                Trong lốc xoáy của cơn giông, ba chiếc xe lướt ra, lên cao; chúng tôi hò hét như điên, Valentin cũng thế; và giọng nói trầm hùng của Grau cũng tham gia -- Cơn điên của Koster đã chiến thắng, anh đã qua mặt Xe Số Hai, nó hoang phí năng lực và đánh mất tốc độ ở đường cong bên trong tròn gắt hơn; và giờ đây như một con diều hâu, anh đang rình chụp Braumuller -- thình lình hiện nay chỉ còn dẫn trước hai mươi mét và động cơ xe đang sụt sịt.
                "Tới luôn Otto! Tới luôn! Nuốt sống thằng Nutcracker!" chúng tôi la hét và vẫy tay.
                Đoàn xe biến mất ở khúc quanh cuối cùng. Lenz lớn tiếng cầu nguyện tất cả những đấng thần linh Châu Á và Nam Mỹ và phe phẩy tượng bùa của anh. Patricia Hollman tựa vào vai tôi, chăm chú nhìn ra xa, như một bức tượng tạc ở mũi chiến thuyền buồm thời cổ.
                Họ vòng trở lại. Động cơ xe của Braumuller vẫn còn khục khặc; mỗi giây phút như thế lại càng bất lợi cho anh. Tôi nhắm tịt mắt. Lenz đưa lưng ra đường đua -- chúng tôi muốn thử thách số mệnh.
                Một tiêng kêu to khiến chúng tôi quay lại, vừa đúng lúc nhìn thấy Koster cán qua mức đến, cách xe sau hai mét.
                Lenz phát cuồng. Anh vứt các dụng cụ sửa xe xuống đất và trồng chuối trên mấy cái lốp xe.
                "Hồi nãy anh nói gì thế? " khi đứng dậy bình thường, anh hùng hổ hỏi gã thợ máy cao to như Hercules ở trạm kế. "Một cái máy kỳ lạ?"
                "Ach, ông nội, đừng quang quác nữa." gã thợ máy cáu kỉnh trả lời. Và, lần đầu tiên kể từ khi quen biết, tôi thấy chàng lãng mạn cuối cùng không nổi giận khi bị lăng nhục, mà lại ôm bụng cười, co giật múa máy như bị phong xù.
                Chúng tôi chờ Otto. Anh còn bận bịu với ban tổ chức.
                Thình lình từ sau lưng chúng tôi, một giọng khàn đục gọi, "Grottfried,"
                Chúng tôi quay lại. Một con người cao lớn đồ sộ như núi, đứng đấy trong bộ đồ chật ních -- quần kẻ sọc, áo vét xám --và mũ quả dưa đen.
                "Alfons!" Patricia Hollmann reo lên.
                "Chính tôi," anh nói.
                "Chúng ta về nhất, Alfons ạ!" nàng kêu.
                "Có thế chứ. Vậy là tôi đã đến trễ, phải không?"
                "Anh chẳng bao giờ đến trễ, Alfons," Lenz nói.
                "Sự thật, tôi đến cốt để đem một ít thức ăn cho các bạn. Sườn heo chiên ăn lạnh và cốt lết muối. Cắt sẳn."
                "Đưa cho em, mời anh ngồi, anh quý mến," Gottfried kêu to. "Chúng em sẽ ăn ngay tức thì.."
                Anh mở bọc thức ăn. "Trời ơi," Patricia Hollman nói, "đủ cho cả một trung đoàn."
                "Không chắc, chừng nào ăn xong mới biết," Alfons quan sát. "Còn một ít rượu kummel nữa."
                Anh chìa ra hai chai rượu mùi. "Khui sẳn."
                "Thế mới phải, thế mới phải," cô gái nói. Alfons hiền hậu nháy mắt với cô.
                Karl nức nở từ xa chạy đến. Koster và Jupp nhảy ra. Jupp trông như Napoleon thời trẻ, vành tai tươi nhuận hồng hào. Thằng bé ôm một chiếc cúp bạc khổng lồ, thô kệch, xấu xí. "Trong cuộc đua thứ sáu,"Koster cười to và nói, "Chưa bao giờ có một món ngoại hạng nào khác."
                "Chỉ có bình đựng sữa này ư?" Alfons, rất thực tế, hỏi. "Không có tiền thưởng?"
                "Có chứ, " Otto đoan chắc với anh, "có cả tiền mặt."
                "Vậy coi như chúng ta sắp được tiêu xài thoải mái," Grau nói. "Coi như đêm sẽ rất vui."
                "Ở quán ăn của tôi?" Alfons hỏi.
                "Đương nhiên -- nhất định phải là thế," Lenz trả lời.
                "Súp đậu hòa lan, tim gan, giò lợn, tai heo" Alfons kể, và ngay cả Patricia Hollman cũng tỏ vẻ nể nang ra mặt. "Dĩ nhiên, tôi thết đãi." Alfons nói.
                Braumuller lại gần, nguyền rủa vận xui của mình, tay cầm một nắm bu-gi lem luốt dầu nhớt.
                "Bình tĩnh nào, Oscar," Lenz nói. "Giải nhất cuộc đua xe đẩy em bé lần tới chắc chắn sẽ thuộc về cậu."
                "Thế cậu có để tôi rửa hận bằng cognac không?" Braumuller hỏi.
                "Bằng ly đựng bia, nếu cậu muốn," Grau nói.
                "Đừng mong sẽ thắng, Herr Braumuller," Alfons nói. "Tôi chưa bao giờ thấy Koster say bí tỉ."
                "Tôi cũng chưa bao giờ thấy Karl trước mặt tôi," Braumuller mỉa mai, "ngoại trừ hôm nay."
                "Có thua cũng phải giữ tư cách chứ," Grau nói."Đây, mời cậu. Chúng ta cạn ly, ghi nhận sự toàn thắng của cơ khí đối với văn hóa."
                Khi chia tay, chúng tôi định đem về phần thức ăn dư. Vẫn đủ cho vài người. Nhưng chỉ còn bao giấy trống rỗng.
                "Zum Donnerwetter --" Lenz nói. "À há!" Anh chỉ vào Jupp đang cười ngượng ngập, tay hãy còn cầm một mớ thức ăn và bụng phình to như trống. "Lại thêm một kỷ lục."
                Trong bửa ăn tối ở nhà hàng Alfons', Pat được ái mộ đến mức tôi không mấy vui. Một lần nữa, tôi bắt gặp quả tang Grau đang nài xin được vẽ tranh cho nàng. Nàng cười, nói rằng nàng không có nhiều thì giờ để ngồi mẫu; chụp ảnh có lẽ sẽ tiện hơn .
                "Và như thế càng phù hợp với kỷ năng của anh ấy," tôi thân ái nói. "Có lẽ anh ấy sẽ dùng ảnh để họa nên tranh."
                "Bình tỉnh đi nào, Bob," Ferdinand ung dung trả lời, đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, mênh mông của anh đăm đăm nhìn Pat. "Rượu mạnh làm cho cậu bẳn tính -- còn tôi, thì nhân bản hơn. Đấy là sự khác biệt giữa hai thế hệ chúng ta."
                "Anh ấy hơn anh có mười tuổi chứ mấy," tôi xen vào.
                "Như thế hiện giờ đã coi như là một thế hệ," Ferdinand nói tiếp. "Cả một đời cách biệt. Một ngàn năm khác nhau. Các cậu trẻ con biết gì về hiện hữu? Các cậu e sợ cảm giác của chính mình. Các cậu không viết thư -- các cậu gọi điện thoại; các cậu không ước mơ -- các cậu đi dã ngoại cuối tuần; các cậu lý luận trong tình yêu và điên rồ trong chính trị -- một cuộc đua đáng thương."
                Tôi nghe bằng một tai; tai kia, tôi cố lắng nghe những gì Braumuller nói. Đã ngà ngà say, hắn giải thích với Patricia Hollmannn rằng chỉ cần nàng bằng lòng học lái xe với hắn, hắn sẽ chỉ dẫn tất cả mọi mánh khóe.
                Khi có dịp, tôi lập tức kéo hắn sang một bên. "Không tốt cho sức khỏe đâu, Oscar, khi một thể tháo gia quan tâm quá đáng đến phụ nữ."
                "Chẳng ăn thua gì tớ," Braumuller tuyên bố, "tớ có một thể chất tuyệt hảo."
                "Được lắm. Trong trường hợp ấy, tớ nói cho cậu biết một điều, bảo đảm không có lợi cho sức khỏe của cậu -- một cái chai rượu sẽ xáng lên đầu cậu."
                Hắn nhăn nhở cười. "Tra gươm vào vỏ đi, nhóc con. Thế cậu có biết làm cách nào nhận ra một hiệp sĩ ? Chàng luôn luôn phong lưu rất mực, ngay cả khi say sưa. Và cậu nghĩ tớ là ai, thế hả?"
                "Một tên khoe khoang khoác lác," tôi trả lời và bỏ đi, mặt kệ hắn đứng thộn ở đấy.
                Tôi không e ngại một ai trong bọn có ý định làm gì -- không hề có chuyện ấy giữa chúng tôi. Nhưng tôi không chắc lắm với nàng -- nàng có thể nghĩ rằng, một trong những người ấy xứng hợp với nàng hơn. Chúng tôi chưa hiểu về nhau đủ để tôi có thể biết chắc. Dù sao, có ai chắc chắn được điều gì?
                "Chúng ta có nên lẽn đi chỗ khác không?" tôi hỏi nàng.
                Nàng gật đầu.
                Chúng tôi tản bộ trên đường. Không khí dần dần ẩm ướt. Sương mù, xanh lục và bạc, chầm chậm giăng cao trong thành phố. Tôi cầm tay nàng, ủ bên trong túi áo choàng của tôi. Và cứ thế, chúng tôi đi bên nhau rất lâu.
                "Mệt chưa?" tôi hỏi.
                Nàng lắc đầu và mỉm cười.
                Tôi chỉ vào quán cà phê vừa qua. "Em có muốn ghé vào tiệm nào không?"
                "Không. Chưa cần đâu."
                Chúng tôi lại tiếp tục. Và rồi chúng tôi đi đến nghĩa trang. Lá lay xào xạc, không còn nhìn thấy những ngọn cây nữa. Khi sương mù tiếp tục dầy đặc, đèn ở hội chợ bắt đầu bật sáng. Từ những cây đoan, bầy thiêu thân chuyếch choáng bay ra rồi vần vũ lao vào, đập lên những chụp đèn đường ẩm ướt. Sương mù biến đổi tất cả, nâng lên và đưa xa, khách sạn đối diện đã bềnh bồng như một con tàu xuyên đại dương với những căn phòng sáng đèn soi trên mặt gương nhựa đường đen, bóng tối xám của ngôi giáo đường phía sau trở thành một chiếc thuyền ma với những cột buồm cao, mất hút trong ánh đèn đỏ -xám; và những ngôi nhà, giờ đây như một dãy xà lan, dật dờ và bắt đầu chuyển động.
                Chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng. Sương mù làm cho mọi thứ trở thành hư ảo --ngay cả chúng tôi. Tôi nhìn cô gái ---đèn đường lấp lánh trong đôi mắt mở to của nàng. "Nhích lại," tôi nói, "nhích gần anh -- kẽo sương mù cuốn mất em."
                Nàng quay mặt lại tôi. Nàng đang mỉm cười, môi hé mở; hàng răng bóng, đôi mắt to nhìn về tôi; tuy thế tôi cảm thấy nàng không nhìn tôi một mảy may -- như thể nàng đang mỉm cười với, qua khỏi tôi, phía sau tôi, luồng sương xám bạc, như thể nàng đã bị tác động một cách ma mị bởi cơn gió lùa trên đầu những ngọn cây, bởi sương móc rỉ rả lăn trên thân cây; như thể nàng lắng nghe một tiếng gọi mơ hồ, buồn bã ẩn mình sau đám cây, sau thế giới; như thể nàng cần phải đứng lên và bỏ đi lập tức, qua màn sương, vất vưởng nhưng chắc chắn, đi theo nó, theo tiếng gọi bí ẩn, huyền hoặc của trái đất và của cuộc đời.
                Tôi sẽ không bao giờ quên gương mặt ấy -- không bao giờ quên gương mặt nghiêng nghiêng của nàng, trên đó cảm xúc được tỏ bày, lòng âu yếm và thương cảm lặng lẽ dâng đầy, với sự im lặng sáng láng, như thể nở hoa -- sẽ không bao giờ tôi quên đôi môi nàng ghé vào môi tôi, đôi mắt nàng đến gần mắt tôi, chúng ngay sát trước tôi và nhìn tôi, dò hỏi, trang nghiêm, vời vợi, long lanh -- rồi chậm rải khép lại như quy hàng ...
                Chúng tôi ngồi như thế rất lâu. Dần dần gió thổi mạnh hơn và những bóng đen chập chờn trong không gian xám trước mặt. Tôi nghe tiếng chân lao xao và tiếng thì thầm giữa những bước chân. Rồi tiếng Tây Ban Cầm nghèn nghẹn. Tôi ngẩng đầu lên. Những bóng đen tiến gần, hóa ra dáng người, quây thành một vòng tròn. Im như tờ. Rồi tiếng hát thình lình vang lên: "Jesus tìm ngươi --"
                Tôi ngồi thẳng lên và lắng nghe. Cái gì thế? Chúng tôi đang ở đâu? Trên cung trăng? Đấy là một ban hợp ca, trời đất! -- một ban hợp ca giọng nữ hai bè.
                "Kẻ tội đồ, kẻ tội đồ, hãy đứng lên!" âm thanh vang dội khắp nghĩa trang thành nhịp quân hành.
                Tôi chằm chặp nhìn Pat. "Em có biết chuyện gì không?" tôi hỏi.
                "Hãy đến chốn bao dung --" bài hát tiếp tục với nhịp điệu nhanh.
                Thình lình tôi hiểu ra. "Lieber Gott! Đạo Quân Cứu Rỗi!"
                "Chớ để cho tội lỗi tràn lan --" những bóng đen thúc dục, âm thanh dồn dập lên cao.
                Ánh sáng chập chờn trong đôi mắt nâu của Pat. Môi nàng run giật, đôi vai so lên.
                Không thể cưỡng lại, bài hát chuyển sang hùng tráng --
                là phần thưởng của tội lỗi;
                Jesus gọi: -- trước khi quá trễ
                kẻ hoang đàng, đến đây sám hối.
                "Nín đi, trời ơi," thình lình một giọng nói phẫn nộ trong sương mù hét lên.
                Một thoáng im lặng vì bất ngờ. Nhưng Đạo Quân Cứu Rỗi đã quen với những thứ rắc rối. Ban hợp xướng lại bắt đầu hát với một sức mạnh mới.
                "Người sẽ làm gì trong thế giới đơn côi --" ban nhạc đồng lọat ca.
                "Ôm ấp nhau chứ còn gì nữa," tiếng nói giận dữ lại oang oang; "Ngay cả nơi đây cũng không được yên thân sao?"
                "nơi quỷ kế của Satan sẽ quyến rũ ---" một giọng lanh lảnh bất thần đáp lại.
                "Đàng ấy có ngon thì quyến rũ đây xem," từ trong sương mù, ai đó tức thì đáp lại.
                Tôi phá lên cười. Và Pat cũng không nhịn nỗi. Chúng tôi cười rũ rượi vì cuộc song đấu trong nghĩa trang này. Đạo Quân Cứu Rỗi biết rằng băng ghế nơi đây là chỗ an trú cho những cặp tình nhân cần sự tỉnh mịch không tìm đâu ra trong thành phố ồn ào. Do đó họ quyết tâm hạ đòn thuyết giảng. Họ hành quân mỗi Chúa Nhật để cứu vớt những linh hồn. Ngoan đạo, cuồng tín và to họng, những giọng hát không chuyên the thé truyền giảng niềm tin của họ, trong lúc tiếng Tây Ban Cầm bập bùng, wumba-wumba.
                Nghĩa trang trở nên sinh động. Tiếng cười khúc khích và tiếng hét hò vang lên trong sương mù. Dường như mỗi băng ghế đều có người ngồi. Cuộc nổi loạn đơn độc của tình yêu đã nhận được hậu thuẩn vô hình của những người đàn ông cùng một suy nghĩ khắp nơi. Một ban hợp ca đối lập được dựng nên. Trong số đó, hẳn phải có một cựu chiến binh yêu thích nhạc quân hành -- bởi chẳng mấy lúc đã vang lên từ những buồng phổi khỏe mạnh bài ca bất tử: "Tôi đã đến Hamburg và ngắm nhìn thế giới đẹp tươi."
                "Đừng giữ nguyên tấm lòng cứng rắn..," từ ban hợp xướng khổ hạnh, một lần nữa tiếng hát nheo nhéo lại vang lên, vì Đạo Quân Cứu Rỗi với những chiếc mũ to, vành kẹp cong đang cảnh giác cao độ.
                Nhưng cái ác đã thắng. "Em sẽ không cho biết tên, " -- mười mấy cái khí quản cường tráng ngân nga một bài đối nghịch, -- "vì em là cô gái ăn sương..."
                "Anh nghĩ mình nên ra về thì hơn," tôi nói với Pat. "Anh biết bài ấy. Lời dài lắm, và mỗi câu về sau lại càng nhảm nhí hơn câu trước. Đi thôi em"
                Thành phố lại có mặt với âm thanh huyên náo -- tiếng còi xe, tiếng bánh xe lăn trên đường. Nhưng nó vẫn giữ được vẻ duyên dáng. Sương mù biến xe buýt thành những con thú trong thần thoại, xe hơi thành những chú mèo hoang mắt sáng, và cửa sổ trưng bày hàng hóa thành hang động vui mắt của thần đèn Aladdin.
                Chúng tôi xuống phố, vòng quanh nghĩa trang, xuyên qua khu công viên giải trí. Những vòng đu quay vươn lên cao trong trời sương mù như những tháp nhạc xoay tròn, bánh xe của quỷ phun ra sắc tím, sắc vàng và những chuỗi cười, và mê cung óng ả ánh lửa xanh.
                "Mê cung thiêng liêng!" tôi nói.
                "Tại sao?" Pat hỏi.
                "Có một lần chúng ta đã vào đấy."
                Nàng gật đầu.
                "Anh có cảm tưởng đã lâu vô tận."
                "Vậy bây giờ ta nên trở lại hay không?"
                "Không," tôi nói. "đừng đi nữa. Em có muốn uống gì không?"
                Nàng lắc đầu. Trông nàng thật đáng yêu. Sương mù như một thứ nước hoa dịu nhẹ, càng làm nàng thêm xinh đẹp.
                "Em không mệt à?" tôi hỏi.
                "Không, em chưa mệt."
                Chúng tôi đi qua các quán thẩy vòng. Những ngọn đèn khí đá với ánh sáng sáng trắng, lập lòe treo đàng trước. Pat nhìn tôi. "Không," tôi nói, "hôm nay anh không thảy vòng. Không thảy cái nào hết. Cho dù có thắng nguyên hầm rượu mạnh của Alexander Đại Đế."
                Chúng tôi tiếp tục đi, băng qua quảng trường và công viên thành phố. "Hẳn có Daphne Indica đâu đây," Pat nói.
                "Vâng, ta có thể ngửi được hương thơm của nó bay qua sân cỏ. Không còn ngờ nữa. Em có nghĩ vậy không?"
                Nàng nhìn tôi. "Chắc chắn là thế," nàng nói.
                "Có lẽ đang mùa hoa nở. Khắp thành phố, đâu đâu cũng nghe hương của thứ hoa này."
                Tôi nhìn quanh, tìm một băng ghế trống. Nhưng không biết vì Daphne Indica hay vì hôm nay là Chúa Nhật, hay vì chính chúng tôi, tôi không thấy một cái ghế trống nào. Đâu đâu cũng có người. Tôi nhìn đồng hồ tay. Hơn mười hai giờ.
                "Nào," tôi nói, "về nhà anh -- nơi ấy sẽ có một mình chúng ta."
                Nàng không trả lời, nhưng chúng tôi trở về. Ở nghĩa trang, chúng tôi thấy một chuyện bất ngờ. Đạo Quân Cứu Rỗi đã gọi viện binh. Ban hợp ca giờ đây xếp hàng tư: không phải chỉ có các bà, mà còn có hai hàng sư huynh mặc đồng phục hẳn hòi. Tiếng hát không chỉ hai bè và the thé, mà bốn bè, như tiếng phong cầm. Theo điệu luân vũ, "Jerusalem thánh địa vàng" vang dội trầm hùng giữa các mộ bia.
                Bên đối phương im phăng phắc. Họ đã bị càn quét tan tành. "Kiên trì," như ngài hiệu trưởng cũ của tôi thường nói, "kiên trì và cần mẫn còn tốt hơn cả thiên tài và phóng dật."
                Tôi đóng cửa. Suy nghĩ một lúc, tôi lại bật đèn. Hành lang như một cái ống dài hun hút, vàng vọt và xấu xí.
                "Nhắm mắt lại đi em," tôi khẽ nói với Pat. "Đây là cảnh tượng chỉ dành cho những bộ thần kinh vững vàng." Tôi bế nàng trong tay, và bước bình thường, như thể chỉ có một mình tôi, chậm rãi qua những hòm xiểng và bếp ga, về phòng mình.
                "Kinh khủng quá, hở em?" tôi ngượng ngùng nói, nhìn biển nhung mềm trãi dài chào đón. Không còn ghế bành gấm, thảm, và đèn của Hasse.
                "Có gì kinh khủng đâu," Pat nói.
                "Có mà," tôi trả lời, đi đến cửa sổ. "Nhưng ít ra quang cảnh cũng đẹp mắt. Chúng ta kéo ghế bành đến gần cửa sổ nhé."
                Pat đi quanh phòng. "Không tệ lắm đâu. Tuyệt nhất, là phòng rất ấm."
                "Em lạnh ư?"
                "Em thích ấm," nàng nói. "Em không chịu được trời lạnh và mưa."
                "Trời ơi -- thế mà chúng ta ngồi ngoài đường dưới sương mù cả đêm --"
                "Nhưng như thế lại càng quý hơn khi được ngồi đây."
                Nàng vươn vai, và một lần nữa với dáng đi tuyệt đẹp, dạo một vòng quanh phòng. Tôi hổ thẹn, quan sát thật nhanh -- lạy trời, không đến nỗi bừa bãi cho lắm. Tôi nhanh trí đá hậu đôi giày đi trong nhà đã hỏng, vào gậm giường.
                Pat đứng trước tủ quần áo, nhìn lên. Trên nóc tủ có một cái va -li cũ Lenz đã cho tôi. Va-li dán đầy nhãn hiệu màu sắc từ những chuyến du lịch của anh. "Rio de Janeiro," nàng đọc; Manaos -- Santiago, Buenos Aires -Las Palmas --"
                Nàng đẩy cái va -li vào chỗ cũ và đến gần tôi. "Anh đã đi tất cả các nơi ấy?"
                Tôi ấp úng một điều gì đó. Nàng nắm tay tôi.
                "Ôi, anh kể cho em nghe với, về tất cả các thành phố ấy, phải tuyệt vời lắm, được du lịch xa đến thế --"
                Và tôi? Trước mặt tôi là nàng, đẹp, trẻ, mong chờ, một cánh bướm tình cờ lạc vào căn phòng tồi tàn xơ xác của tôi, vào cuộc đời vô nghĩa tầm thường của tôi, với tôi và tuy thế chưa hẳn đã với tôi --chỉ một hơi thở cũng có thể làm nó tỉnh dậy và vỗ cánh bay đi... Cứ đổ lỗi, cứ kết tội tôi, nhưng tôi không thể, tôi không thể nào nói Không, không thể nào nói rằng tôi chưa bào giờ đến đấy; chưa kịp đến ...
                Chúng tôi đứng bên cửa sổ, sương mù ép lại và vỡ thành từng đợt sóng vỗ vào ô kính -- và tôi cảm thấy ẩn nấp đàng sau đó những bí mật, những thứ bị lấp liếm, những thứ đã qua, những ngày kinh hoàng ẩm ướt, những hoang phế điêu tàn, những nhơ nhớp bẩn thỉu, những mảnh vụn của cuộc đời bị hủy hoại, những phức tạp, những lãng phí sức mạnh do hướng dẫn sai lầm trong một cuộc sống vô mục đích; nhưng ở đây, trước mặt tôi trong bóng tối, gần bên tôi đến mức choáng váng, là hơi thở nhẹ nhàng, là sự hiện diện không thể nào hiểu -- một sinh vật ấm áp, trong sáng -- tôi phải giữ lấy, tôi phải chiếm được.
                "Rio -- " tôi nói. "Rio de Janeiro -- một hải cảng như trong truyện thần tiên. Biển lấn cong bẩy chỗ chung quanh vịnh và thủ đô nằm trên cao, trắng và sáng chói..." Tôi bắt đầu nói về những thành phố nóng bức, những cánh đồng vô tận, thủy triều vàng của những trường giang hùng vĩ, những hòn đảo lung linh, những cá sấu, những con đường xâm lấn núi rừng, tiếng gầm của một con báo trong đêm, khi thuyền trên sông trôi êm trong sự thối rữa ngột ngạt, thơm mùi vanilla và phong lan của bóng đêm. Lenz đã kể cho tôi nghe tất cả những chuyện ấy, nhưng giờ đây hầu như chính tôi đã có mặt tại chỗ, thật lạ lùng thay sự pha trộn của ký ức và ước muốn vay mượn một chút quyến rũ cho cuộc đời tầm thường, tăm tối không có gì cả của tôi, để không đánh mất gương mặt đáng yêu khôn tả này, hy vọng đột ngột này, sự nở hoa thần diệu này mà chỉ việc ấy mà thôi, tôi cũng chẳng xứng đáng. Sau này tôi có thể giải thích tất cả, sau này khi tôi có nhiều hơn, khi tất cả mọi thứ đều vững chải hơn -- sau này, chứ không phải bây giờ.
                "Manaos," tôi nói. "Buenos Aires . .." Và mỗi chữ là một cam kết và một ước thề.
                Đêm. Bên ngoài mưa bắt đầu rơi. Những giọt mưa nhẹ nhàng, êm ái. Chúng không vỗ lộp bộp như một tháng trước đây khi chạm vào những cành đoan trơ trụi -- chúng đang lắt lay những chiếc lá non mềm; ép vào mặt lá và tí tách rơi theo lá, một lễ hội huyền bí và âm thầm xuôi chảy đến rể cây, nơi đó chúng sẽ lại được đưa lên cao và biến trở thành lá, một lần nữa đợi chờ mưa đến trong những đêm xuân vừa chớm.
                Không gian yên tỉnh. Tiếng ồn ào của đường phố đã lặng; ngọn đèn đường duy nhất leo lắt soi trên vĩa hè. Những chiếc lá non, chiếu sáng từ bên dưới, hầu như trắng muốt, hầu như trong veo, và ngọn cây là những cánh buồm sáng, long lanh...
                "Lắng nghe tiếng mưa rơi, Pat--"
                "Vâng,"
                Nàng nằm bên tôi. Mái tóc của nàng nổi bật trên nền gối trắng. Gương mặt nàng trông rất xanh xao dưới màu tóc đen thẩm. Một vai của nàng nhô lên, dưới ánh sáng nào đó, óng ả như đồng chạm, và một vệt sáng dài, hẹp rọi trên cánh tay nàng.
                "Nhìn đây --," nàng nói, và đưa hai bàn tay hứng vệt sáng ấy.
                "Anh đoán là đèn đường ngoài kia rọi vào," tôi nói.
                Nàng ngồi lên. Giờ đây, gương mặt nàng cũng được chiếu sáng, ánh sáng rơi trên đôi vai và bộ ngực nàng, vàng, như lửa mồi của những ngọn bấc vuốt sáp, thay đổi, tan chảy, chan hòa với nhau, biến thành sắc cam; những vòng tròn xanh biếc nhảy nhót xuyên qua, và rồi bất ngờ một màu đỏ ấm áp hiện lên phía sau nàng như một vầng hào quang, lướt lên cao và lang thang trên trần.
                "Đó là đèn của bảng quảng cáo thuốc lá bên đường," tôi nói.
                "Thấy chưa, phòng của anh rất đẹp," nàng nói.
                "Nó đẹp nhờ có em," tôi nói. "Nó sẽ không bao giờ trở lại như xưa -- bởi em đã hiện diện nơi đây."
                Nàng quỳ trên giường, một vùng ánh sáng xanh tái tưới đẩm cả người. "Nhưng," nàng nói, "bây giờ em sẽ thường đến đây -- thường xuyên."
                Tôi nằm im ngắm nàng. Tôi nhìn thấy mọi việc như đang xảy ra trong một giấc mơ dịu dàng, trong sáng -- thư giãn, kiên quyết, an bình và rất hạnh phúc.
                "Em như thế đẹp làm sao, Pat. Đẹp hơn trong bất kỳ bộ y phục nào."
                Nàng mỉm cười và cúi xuống. "Hẳn là anh yêu em, Robby. Yêu nhiều lắm. Em rất cần tình yêu. Em không biết em sẽ ra sao, nếu không có tình yêu."
                Nàng nhìn tôi không rời mắt. Mặt nàng kề trên mặt tôi. Phấn khích, thẳng thắn, đầy sức mạnh của đam mê.
                "Anh hãy ôm em," nàng khẽ nói, "Em cần một người giữ em trong tay. Em sợ, nếu không em sẽ ngã."
                "Em không có vẻ gì là sợ hãi," tôi nói.
                "Tuy thế lại có đấy. Em chỉ giả vờ không sợ hãi. Em thường hay sợ hãi."
                "Anh sẽ giữ em, Pat," tôi nói, vẫn còn trong giấc mơ siêu thực nửa mê nửa tỉnh ấy, giấc mơ trong sáng lững lờ ấy. "Anh sẽ giữ em thật chặt, Pat. Em sẽ ngạc nhiên."
                Nàng ấp mặt tôi trong tay nàng. "Thật ư?"
                Tôi gật đầu. Đôi vai nàng sáng lục như màu nước sâu. Với tiếng kêu tức tưởi, nàng quăng mình vào, một ngọn sóng, một ngọn sóng lóng lánh, một ngọn sóng có hơi thở mềm mại, nhẹ nhàng dâng lên và dập tắt tất cả mọi thứ.
                Nàng ngủ ngoan trong tay tôi. Tôi thường tỉnh giấc và ngắm nàng. Tôi nghĩ, đêm sẽ không bao giờ tàn. Chúng tôi đã trôi dạt tới một bến bờ nào đó của thời gian. Tất cả đã xảy ra rất nhanh, tôi không thể lý giải. Tôi biết, như một người đàn ông, tôi có thể là một chiến hữu tốt; thế nhưng tôi không thể tưởng tượng, tại sao một người đàn bà lại có thể yêu tôi. Tôi nghĩ có lẽ chuyện ấy chỉ xảy ra đêm nay, và tôi tin rằng khi thức dậy, tất cả sẽ chấm dứt.
                Đêm đen chuyển thành xám. Tôi vẫn nằm yên. Cánh tay cho Pat gối đầu đã tê dại. Nhưng tôi vẫn để yên. Chỉ đến khi nàng trở mình và tựa vào gối, tôi mới rút tay ra. Tôi rón rén bước xuống giường, đánh răng trong im lặng và cạo râu. Tôi bôi một ít eau de cologne lên tóc và vai. Thật kỳ dị, không một tiếng động trong căn phòng xám, với những ý nghĩ ấy, và những dáng cây đen sẫm bên ngoài.
                Khi quay lại, tôi thấy Pat đã mở mắt nhìn tôi. Tôi dừng chân.
                "Đến đây" nàng nói.
                Tôi đến bên nàng và ngồi xuống cạnh giường.
                "Tất cả vẫn là thực?" tôi hỏi.
                "Tại sao anh hỏi thế?" nàng nói.
                "Anh không biết. Có lẽ, bởi vì buổi sáng."
                Trời sáng hơn.
                "Em cần anh đưa dùm em những thứ của em," nàng nói.
                Tôi nhặt những mảnh lụa mỏng trên sàn. Chúng nhẹ tâng và bé xíu. Tôi ôm chúng trong tay. Ngay cả chuyện này cũng đã khác biệt, tôi nghĩ. Người có thể mặc những thứ này hẳn phải khác biệt. Tôi không bao giờ hiểu nổi, không bao giờ.
                Tôi đưa nàng những thứ ấy. Nàng quàng tay qua cổ tôi và hôn tôi. Tôi ôm nàng thật chặt. "Pat," tôi gọi tên nàng.
                Rồi tôi đưa nàng về. Chúng tôi không nói với nhau nhiều nữa. Chúng tôi đi cạnh nhau trong bình minh ánh bạc. Xe chở sữa lọc cọc trên mặt đường trải đá và nhật báo đang phân phối. Ông lão ngủ gục trước căn nhà. Hàm đánh cầm cập như không bao giờ ngưng. Những người cởi xe đạp tíu tít với các giỏ bánh mì. Mùi bánh mì mới nướng, thơm ấm tỏa trên đường phố. Tít trên cao, một chiếc máy bay lướt qua nền trời xanh.
                "Hôm nay?" bên ngoài cửa, tôi hỏi Pat.
                Nàng mỉm cười.
                "Khoảng bẩy giờ?" tôi hỏi.
                Nàng không có vẻ mệt mỏi. Nàng tươi mát như vừa có một giấc ngủ tròn đầy. Nàng hôn tôi từ giã. Tôi đứng bên ngoài, chờ đến khi đèn của phòng nàng bật sáng.
                Rồi tôi quay về. Trên đường, tôi chợt nghĩ ra nhiều thứ đáng lẽ tôi nên nói với nàng, những lời mỹ miều. Tôi lang thang trên đường, suy nghĩ về tất cả những thứ tôi nên nói và nên làm, nếu như tôi là một người khác. Rồi tôi đi ra chợ. Những chuyến xe ngựa chở đầy rau trái, thịt thà và hoa tươi đã có mặt. Tôi biết với cùng một số tiền, tôi có thể mua được nhiều gấp ba lần hoa ở chợ so với ở tiệm bán hoa. Tôi trút tất cả tiền trong túi, mua tulips. Chúng trông tuyệt vời, tươi thắm với những giọt nước còn đọng trong lòng. Tôi được một bó ôm đầy tay. Bà hàng hoa hứa sẽ giao tận nhà Pat vào khoảng mười một giở. Bà cười tôi trong khi hứa, và thêm một bó to violets.
                "Cô ấy sẽ có những người bạn này trong nửa tháng là ít," bà nói. "Chỉ cần thỉnh thoảng thả một viên aspirin vào nước."
                Tôi trao tiền cho bà. Rồi tôi thong thả đi bộ về nhà.

                Comment


                • #9
                  Erich Maria Remarque Chiến hữu

                  Erich Maria Remarque

                  Chiến hữu

                  Chương 10


                  Xe Ford đã xong, và chúng tôi không có việc mới. Chúng tôi cần phải bận rộn với công việc. Koster và tôi đi dự một cuộc đấu giá, hy vọng mua được một chiếc tắc xi. Tắc xi là thứ rất dễ bán lại sau này.
                  Chỗ đấu giá là một trại chăn ngựa nằm ở phía bắc thành phố. Ngoài xe tắc xi, còn có nhiều thứ khác, một số dựng ngoài sân: vài cái giường, mấy cái bàn ọp ẹp, một lồng chim mạ vàng có chú vẹt biết nói hai tiếng "Chào em yêu!", một cái đồng hồ đế đứng, dăm ba quyển sách, vài ba cái tủ chén, một bộ lễ phục, mấy cái ghế nhà bếp, một số dụng cụ nấu nướng -- những trang bị đáng thương của một cuộc đời tan nát.
                  Chúng tôi đến sớm quá; người phát mãi vẫn chưa có mặt.
                  Trong khi lục soạn, tôi gặp vài quyển sách -- loại sách văn học cổ điển Hy Lạp và La Tinh, thứ rẻ tiền, đã cũ, chằng chịt những ghi chú bên lề. Trên các trang giấy úa vàng, tơi tả, không còn thi ca của Horace, bài hát của Anacreon -- chỉ có tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng của một cuộc đời đã mất. Với chủ nhân những quyển sách này, dù ai đi nữa, chúng là thiên đường trú ẩn của người ấy; người ấy giữ chúng lại cho đến giờ phút cuối -- và một khi phải gởi chúng đến đây, đời của người ấy đã tận tuyệt.
                  Koster nhìn qua vai tôi. "Thật xúc động, nhỉ?'
                  Tôi gật đầu. "Còn những cái này, Otto," tôi nói, chỉ vào những đồ vật khác. "Đem cả ghế nhà bếp và quần áo ra đấu giá, đâu phải là chuyện đùa?"
                  Chúng tôi tiến đến chiếc tắc xi, đậu ở một góc sân. Sơn tróc và bạc màu ở nhiều chỗ, nhưng xe sạch sẽ, kể cả những phần nằm khuất bên dưới tấm chắn bùn. Một người đàn ông tầm thước, chắc nịch với cánh tay to, lỏng thỏng hai bên hông, đang đứng gần; ông ta thẩn thờ nhìn chúng tôi.
                  "Cậu có xem qua máy xe chưa?" tôi hỏi Koster.
                  "Đã xem, hôm qua," anh nói. "Xe tuy cũ một chút nhưng được chăm sóc kỹ."
                  Tôi gật đầu. "Có vẻ như thế," tôi nói. "Xe mới rửa sáng nay, Otto. Chắc chắn người đấu giá chẳng rỗi hơi làm chuyện ấy đâu."
                  Koster lắc đầu, nhìn người đàn ông thấp béo. "Ông chủ xe đấy. Hôm qua, ông ấy có đến đây. Tớ thấy ông ấy lau chùi cái xe."
                  "Tội thật," tôi nói, "ông ấy trông thảm như một con chó bị chẹt xe."
                  Một thanh niên băng qua sân, đi đến chiếc xe. Hắn mặc một cái áo khoác có dây lưng, và trông lọc lỏi.
                  "Chắc là chiếc xe bus đây rồi," hắn nhịp nhịp cây gậy trên nắp máy xe, vừa nói với chúng tôi, vừa nói với người đàn ông. Tôi thấy ông ta chớp mắt. "Chẳng đáng gì hết, chẳng đáng gì hết," gã mặc áo có thắt lưng ngạo nghễ nói. "Nước sơn chẳng đáng xu teng. Xe cũ xì cũ xịt, nên cho vào viện bảo tàng?" Gã cười hơ hớ, tự tán thưởng câu nói khôi hài của mình và nhìn chúng tôi, chờ đợi sự đồng tình. Chúng tôi không cười. Gã quay về phía người chủ xe. "Ông định giá cái xe già cốc đế này bao nhiêu?"
                  Người đàn ông nuốt nước bọt, không nói.
                  "Bán theo giá đồng nát chứ?" hào hứng, gã be be nói tiếp. Gã quay lại chúng tôi: "Quý vị có ý định mua xe này ư?" Hắn nói nhỏ: "Chúng ta hãy công ký với nhau. Mua giá rẻ mạt, rồi bán ra, và chia lời. Tại sao ta phải quăng tiền ra cho họ hưởng. Nhân tiện, tên tôi là Thiess -- Guido Thiess, hảng Augeka."
                  Hắn xoay tít cái gậy tre và nháy mắt đồng lỏa. Không có chi bí mật với loài sâu bọ này, tôi nổi giận nghĩ bụng; bóng người đàn ông im lìm đàng kia làm tôi bức rức.
                  "Anh biết không," tôi nói lớn, "tên anh đáng lẽ không phải là Thiess."
                  "Đáng lẽ không?" gã nói, khoái chí ra mặt. Rõ ràng gã đã quen với những câu tán tụng sự lanh lợi của hắn.
                  "Vâng," tôi nói tiếp. "Thộn, lẽ ra anh phải được gọi bằng cái tên ấy. Guido Thộn."
                  Hắn giật mình. "Đương nhiên," cuối cùng hắn nói, "Hai chọi một, đương nhiên..."
                  "Nếu anh sợ, " tôi nói, "một mình tôi thôi, khi nào cũng được."
                  "Cám ơn," Guido lãnh đạm trả lời, "cám ơn nhiều lắm" -- rồi lẽn đi.
                  Người đàn ông thấp béo với gương mặt lo lắng vẫn đứng yên ở đấy, chăm chú nhìn cái xe như không có điều gì khác quan trọng với ông.
                  "Thôi, ta đừng mua xe này, Otto," tôi nói.
                  "Nếu ta không mua, thì con chó xù của cậu, Guido, sẽ mua," Koster trả lời. "Chúng ta không thể giúp gì cho ông ấy cả."
                  "Đúng thể," tôi nói. "Nhưng có nhiều điều làm ta băn khoăn --"
                  Phát mãi viên đến. Vội vội vàng vàng, rõ ràng ông rất bận. Mỗi ngày ông có hàng chục cuộc đấu giá. Vung tay, ông bắt đầu bán các món lặt vặt đáng thương. Ông có một khiếu khôi hài sắt đá và tính thực tiển của một người phải đối phó hằng ngày với những nỗi thương tâm nhưng vẫn không để chúng ảnh hưởng.
                  Những món vụn vặt không giá trị được rao bán vài mươi xu. Phần lớn chúng được các lái buôn mua. Họ sẽ lười lĩnh dơ một ngón tay khi người phát mãi nhìn về phía họ, hay lẳng lặng lắc đầu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng lại có một đôi mắt theo dõi cái liếc mắt của người phát mãi, đôi mắt mệt mỏi của một người đàn bà, đầy hy vọng và sợ hãi, chăm chăm nhìn ngón tay của một tên lái buôn như thể đấy là ngón tay của Chúa.
                  Có ba người đấu giá chiếc tắc xi -- đầu tiên, Guido, ra giá ba trăm marks, một cái giá rẻ mạt đáng xấu hổ. Người đàn ông thấp béo bước tới một bước. Môi ông mấp máy, nhưng không phát ra lời. Trong khoảng khắc, tưởng như ông sắp sửa tham gia cuộc đấu. Nhưng cánh tay buông xuống. Ông lui lại.
                  Lần kêu giá thứ nhì là bốn trăm marks. Guido nâng lên bốn trăm năm mươi. Im lặng. Phát mãi viên gọi mời. "Không ai trả thêm? Hỏi lần thứ nhất . . . hỏi lần thứ hai . . ." Người đàn ông đứng cạnh xe tắc xi, mắt mở to và đầu cúi gầm, chờ tiếng búa.
                  "Một ngàn," Koster nói. Tôi nhìn anh. "Nó đáng giá gấp ba lần," anh thì thào. "Tớ không thể nào nhìn thấy ông ta bị làm thịt."
                  Guido cuống quít ra dấu. Khi làm ăn, hắn ta quên bẳng đi những lời sĩ nhục. "Một ngàn mốt," hắn be be rống lên, hai mắt cùng nháy chúng tôi. Nếu hắn có một con mắt khác đàng sau, có lẽ hắn cũng đã dùng nó để nháy nhó.
                  "Một ngàn năm trăm," Koster nói.
                  "Một ngàn năm trăm mười," Guido tuyên bố, vã mồ hôi.
                  "Một ngàn tám trăm," Koster nói.
                  Guido sờ lên trán và bỏ cuộc. Phát mãi viên nhãy cởn lên, kích động. Thình lình tôi nghĩ đến Pat. "Một ngàn tám trăm năm mươi," tôi buột miệng nói, không ngờ mình làm thế.
                  Koster quay đầu lại, ngạc nhiên, "Tớ sẽ bù năm mươi đồng," tôi vội vàng nói. "Ít nhiều gì, nó sẽ giúp chúng ta -- nó là một sự đầu tư."
                  Anh gật đầu.
                  Người phát mãi nện búa, bán chiếc xe cho chúng tôi. Koster trả tiền ngay lập tức.
                  "Tôi đã nói gì với các anh?" Guido đến gần chúng tôi, như chưa có chuyện gì đã xảy ra. "Chúng ta có thể mua nó với giá một ngàn marks. Chẳng mấy chốc, chúng ta sẽ gạt và loại được người thứ ba kia ."
                  "Chào em yêu!" một giọng nói the thé, táo bạo vang lên từ sau lưng hắn -- chú vẹt trong cái lồng mạ vàng.
                  "Chào Thộn," tôi góp vào.
                  Guido nhún vai và biến mất.
                  "Rất tiếc . . ." tôi nói.
                  "Không sao đâu," ông trả lời.
                  "Chúng tôi đáng lẽ không làm như thế," tôi nói. "Nhưng ông lại càng có ít tiền hơn."
                  Ông ta gật đầu, hai tay xoắn vào nhau.
                  "Xe tốt lắm, " thình lình ông bật ra, vấp váp. "Đấy là một cái xe tốt, có giá trị, thật thế; cậu không trả giá hớ đâu. Không phải vì cái xe . . . --không phải đâu . . . mà vì . . ."
                  "Tôi biết," tôi nói.
                  "Và chúng tôi chẳng được gì," người đàn bà nói; "người ta lấy tất cả."
                  "Chúng ta sẽ lại có tiền, mẹ nó ơi," người đàn ông nói; "chúng ta sẽ lại có tiền."
                  Người đàn bà không trả lời.
                  "Khi sang số một qua số hai, xe sẽ gầm một chút," người đàn ông nói; "nhưng đấy không phải hư hỏng. Nó đã kêu như thế ngay từ lúc đầu." Ông như đang nói về một đứa bé. "Chúng tôi có chiếc xe này từ ba năm nay, nhưng chưa một lần bị trục trặc. Các cậu biết không, tôi ngã bệnh và một đứa đã hại tôi -- một người bạn,"
                  "Một tên gian ác," người đàn bà nói, mặt ra vẻ hằn học..
                  "Mẹ nó ơi, " người đàn ông kêu lên và nhìn người đàn bà. "Anh sẽ lại sớm có tiền, mẹ nó ơi, phải thế không?"
                  Người đàn bà chẳng trả lời. Người đàn ông nhễ nhại mồ hôi.
                  "Cho tôi xin địa chỉ của ông," Koster nói; "Đôi khi chúng tôi có thể cần một người tài xế, biết đâu đấy."
                  Bằng bàn tay thô to, chất phác, người đàn ông sốt sắng viết xuống. Tôi nhìn Koster, chúng tôi đều biết, cần phải có một phép lạ trước khi chúng tôi có thể giúp đỡ được ai. Và không có phép lạ ở thời đại này. Ông ta sẽ chìm lỉm như hầu hết mọi người.
                  Ông ta nói không ngừng như một người đang lên cơn sốt. Buổi đấu giá đã chấm dứt, chỉ còn chúng tôi ở lại trong sân. Ông chỉ cho chúng tôi cách khởi động xe vào mùa đông. Ông cứ trở đi, trở lại bên chiếc xe. Cuối cùng ông nín thinh. "Đi thôi, Albert," người đàn bà nói.
                  Chúng tôi bắt tay ông, và họ bỏ đi. Chúng tôi đợi đến khi không còn thấy họ nữa mới mở máy xe.
                  Trong khi lái khỏi nơi ấy, chúng tôi thấy một bà lão thấp bé với cái lồng chim trong tay, cố gắng xua đám trẻ con đang bám theo. Koster dừng xe lại.
                  "Bà ơi, muốn cháu đưa đi không?" anh hỏi bà.
                  "Thời buổi này? Bà không có tiền đi lang thang bằng tắc xi đâu!"
                  "Bà không cần có xu nào," Otto nói. "Hôm nay là sinh nhật của cháu và cháu lái xe cho vui mà thôi."
                  Bà giữ chặt lồng chim, nghi ngờ. "Nhưng sau đó sẽ mất một thứ gì?"
                  Anh bảo đảm với bà là không, và cuối cùng bà lên xe.
                  "Bu ơi, bu mua con vẹt làm gì thế?" Tôi hỏi, khi bà sắp xuống xe.
                  "Cho ban đêm," bà nói. "Thức ăn của nó có đắc tiền lắm không, hở cháu?"
                  "Không," tôi nói; "nhưng tại sao cho ban đêm?"
                  "Nó biết nói, cháu thấy mà," bà trả lời, nhìn tôi với đôi mắt già nua, trong sáng. "Giờ thì, lúc nào trong nhà cũng sẽ có tiếng nói huyên thiên."
                  "Ach, thì ra thế," tôi đáp.
                  Buổi chiều, ông chủ tiệm bánh ghé qua xưởng để nhận xe. Trông ông buồn rầu, chua chát. Tôi đang ở một mình trong sân. "Ông thích màu sơn này chứ?" tôi hỏi.
                  "Cũng tàm tạm," ông nhìn chiếc xe và nói, không lấy gì quả quyết.
                  "Ghế bọc trông được lắm."
                  "Chắc vậy..."
                  Ông lẩn quẩn mãi, rõ ràng chưa muốn về. Tôi nghĩ ông sẽ đòi thêm một món gì đó -- chẳng hạn một cái kích xe, gạt tàn thuốc lá hay một thứ tương tự.
                  Nhưng thực tế lại khác hẳn. Ông lê la, xem hết thứ này đến thứ kia; rồi nhìn tôi với đôi mắt vằn đỏ vì thiếu ngủ và nói: "Cứ thử nghĩ -- chỉ mấy tuần trước thôi, bà ấy hãy còn sống, còn ngồi ở đây, hạnh phúc..."
                  Tôi ngạc nhiên vì bỗng dưng ông lại đa cảm như thế và tôi đoán, có lẽ cô gái bé bỏng, quê mùa đi với ông lần trước đã bắt đầu làm ông khó chịu.
                  "Bà ấy là một người vợ đảm," ông nói tiếp; "một viên ngọc quý, tôi có thể nói thế. Bà ấy không bao giờ đòi hỏi một thứ gì. Bà ấy mặc hoài một cái áo choàng cũ suốt mười năm. Bà ấy tự may vá các thứ quần áo linh tinh. Và tự làm việc nhà -- không mướn ai cả."
                  À há, tôi nghĩ, người mới thì không, rõ ràng như thế.
                  Ông tả cho tôi nghe, bà đã tiết kiệm ra sao. Thật phi thường, hồi ức về sự cần kiệm đã ảnh hưởng sâu đậm đến con người nghiện trò chơi ky ấy. Bà không chịu chụp ảnh -- tốn nhiều tiền. Ông chỉ có một tấm, chụp chung cả nhóm trong ngày cưới, và vài ba bức ảnh chụp vội.
                  Một ý tưởng chợt nảy sinh. "Ông cần nhờ người vẽ một bức chân dung cho bà," tôi nói. "Như thế ông sẽ luôn có một thứ gì đó để tưởng nhớ. Ảnh sẽ phai màu. Tôi biết một họa sĩ chuyên môn về việc này."
                  Tôi giải thích cho ông ta công việc của Ferdinand Grau. Ông ta lập tức nghi ngại, và nghĩ rằng sẽ rất đắt tiền. Tôi bảo đảm -- nếu có tôi đi cùng, ông sẽ được giá đặc biệt. Ông ta cố thoái thác, nhưng tôi không để cho ông ta bỏ đi, giải thích rằng nếu ông thực sự thương vợ, số tiền ấy sẽ chẳng là bao. Cuối cùng ông ta đồng ý. Tôi gọi Ferdinand, báo trước cuộc gặp, và cùng lái xe về nhà ông để lấy hình của bà vợ.
                  Từ cửa hàng, cô tóc đen chạy ùa ra, chào đón. Cô nàng lượn quanh chiếc Ford. "Màu đỏ sẽ đẹp hơn, Puppi ạ. Nhưng anh cứ vẫn làm theo ý ngông của mình."
                  "Như thế được rồi," Puppi bực bội nói.
                  Chúng tôi lên phòng khách trên lầu, cô tóc đen lẽo đẽo theo sau. Đôi mắt tinh nhanh của cô nàng đão khắp nơi. Ông chủ tiệm bánh khó chịu lắm. Ông không muốn tìm các tấm ảnh dưới sự dòm ngó của cô nàng. "Để chúng tôi yên thân," cuối cùng, ông nói thẳng.
                  Cô nàng phụng phịu. "Gớm, người gì mà lịch sự thế!"
                  Bộ ngực khiêu khích, rung rinh dưới lớp áo liền quần bó sát, cô ta ngúng nguẩy bỏ đi. Từ một quyển album bọc vải nhung xanh lục, ông chủ tiệm bánh lấy ra mấy tấm ảnh và đưa tôi xem. Trong một tấm, vợ ông là cô dâu mới, ông bên cạnh, ria mép vuốt sáp cong cong -- bà đứng đấy, cười tươi; ở một bức khác, trong đó, gầy gò héo hắt vì làm lụng, với đôi mắt thất thần, bà khép nép ngồi ở mép ghế. Hai bức ảnh nhỏ -- một cuộc đời.
                  Ferdinand Grau vận áo choàng trắng, tiếp đón. Trông anh nghiêm nghị và trịnh trọng. Đấy là một thủ thuật nhà nghề . Anh hiểu, với nhiều người đang tang chế, tôn kính lòng thương tiếc của họ còn quan trọng hơn cả sự thương tiếc.
                  Tường của xưởng họa treo nhiều tranh sơn dầu đóng khung, bên dưới là những tấm ảnh nhỏ, dựa theo đó tranh được vẽ nên, như thế một khách hàng nhìn thoáng qua cũng biết khả năng có thể đạt được, dù với bức ảnh mờ nhạt nhất.
                  Ferdinand đưa ông chủ tiệm bánh một vòng quanh xưởng để chọn kiểu mà ông ta ưa thích nhất. Ông ta hỏi, phải chăng giá tranh không tùy thuộc vào kích thước. Ferdinand giải thích, kích cở không đáng kể bằng cách thức thể hiện. Ngay lúc ấy, ông chủ tiệm bánh chọn kiểu vẽ của bức họa to nhất.
                  "Ông có khiếu thẩm mỹ, " Ferdinand khen. "Đấy là chân dung của công chúa Borghese. Tám trăm marks. Cả khung."
                  Ông chủ tiệm bánh há hốc mồm. "Không khung thì sao?"
                  "Bẩy trăm hai mươi,"
                  Ông chủ tiệm bánh trả giá bốn trăm. Ferdinand lắc cái bờm sư tử của mình.
                  "Với bốn trăm marks, giỏi lắm chỉ có tranh bán diện. Không thể có tranh chính diện, bán thân. Ông biết mà, vẽ tranh chính diện phải tốn công gấp đôi."
                  Ông chủ tiệm bánh nói, nghĩ cho cùng, một bức tranh vẽ gương mặt nhìn nghiêng cũng đủ. Ferdinand lưu ý ông ta là hai bức ảnh của ông đều là ảnh chụp chính diện. "Ngay cả Titian cũng không tài nào vẽ tranh bán diện dựa vào chúng," anh nói. Ông chủ tiệm bánh toát mồ hôi; ông ta tức tối vì đã không nhìn thấy trước chuyện này khi chụp những tấm ảnh ấy. Nhưng ông ta phải nhận là Ferdinand nói đúng -- tranh chính diện có một nửa mặt nhiều hơn tranh bán diện; rõ ràng nó cần được tính giá cao hơn.
                  Ông chủ tiệm bánh lưỡng lự mãi. Từ đầu đến giờ, Ferdinand vẫn kiềm chế; nay đến lúc anh bắt đầu thuyết phục. Giọng nói trầm ấm của anh rền trong xưởng vẽ to rộng. Là một chuyên viên, tôi cũng phải công nhận đấy là một công trình tuyệt vời: chẳng mấy chốc ông chủ tiệm bánh đã mềm lòng -- nhất là khi Ferdinand khơi gợi lên tác dụng choáng ngộp mà một bức tranh hoành tráng có thể gây ra trên những người hàng xóm xấu tính.
                  "Tốt lắm," cuối cùng ông ta nói, "thế nhưng ông có thể bớt cho tôi mười phần trăm, vì tôi trả tiền mặt, được chứ?"
                  "Được," Ferdinand trả lời; "giảm mười phần trăm -- nhưng tôi cần ba trăm marks -- ứng trước để mua màu và vải."
                  Họ cò kè với nhau một lúc, cuối cùng đồng ý và bắt đầu thảo luận các chi tiết. Ông chủ tiệm bánh muốn vẽ thêm một chuỗi hạt trai và một kim cài áo đính kim cương. Trong ảnh không có.
                  "Tất nhiên," Ferdinand giải thích, "cần phải vẽ nữ trang của bà. Tốt nhất ông nên đem chúng đến, lưu ở đây khoảng một giờ, để tôi có thể dựa vào đó mà vẽ cho chính xác."
                  Ông chủ tiệm bánh đỏ mặt. "Hiện giờ tôi không có. Chúng đang...đang ở... Ơ, phải rồi, thân nhân của bà ấy đang giữ."
                  "A, thế ư! Thật ra cũng chẳng hề chi. Kim cài áo của bà có giống như kim cài áo, thí dụ, trong bức tranh đàng kia không?" Ferdinand gợi ý.
                  Ông chủ tiệm bánh gật đầu. "Nhưng không to bằng."
                  "Tốt lắm. Vậy chúng ta sẽ vẽ giống như thế. Và chúng ta không cần chuỗi hạt trai. Hạt trai nào cũng giống hệt nhau."
                  Ông chủ tiệm bánh cảm thấy nhẹ thở. "Vậy khi nào tranh sẽ vẽ xong?"
                  "Trong sáu tuần."
                  Chỉ còn lại Ferdinand và tôi trong xưởng họa.
                  "Anh thực sự cần sáu tuần để hoàn tất?" tôi hỏi.
                  "Ach, cậu nghĩ sao? Có lẽ bốn, năm ngày thì xong. Nhưng tớ không thể nói thế với ông ấy, vì ông ấy sẽ quy ra bao nhiêu tiền tớ kiếm được trong một giờ, và sẽ nghĩ rằng mình bị lừa. Nói sáu tuần, ông ta sẽ hài lòng. Cũng thế, tranh của công chúa Borghese -- đấy là bản chất của con người, Bob thân mến; nếu tớ nói đấy là tranh vẽ một cô thợ may, ông ấy sẽ nghĩ rằng tranh chỉ đáng giá một nửa mà thôi. Đây là lần thứ sáu, các bà quá vãng được tô điểm với nữ trang như trong bức tranh ấy. Những trùng hợp hết sức lạ kỳ, phải không? Tranh của Luise Woff, một họa phẩm tuyệt vời."
                  Tôi nhìn quanh; các bức tranh bị bỏ rơi hay không đủ tiền trả -- những gương mặt bất động, những đôi mắt đã từ lâu mủn nát dưới đáy mồ, trên tường chòng chọc nhìn xuống -- tất cả những người đã từng hít thở và hy vọng...
                  "Thế này mà anh không buồn sao, Ferdinand?"
                  Anh nhún vai. "Khinh đời thì có. Người ta buồn khi nghĩ về cuộc đời -- khinh đời, khi chứng kiến cảnh con người xoay sở."
                  "Vâng, nhưng với một số người, dù sao, còn tồi tệ hơn nữa."
                  "Đúng vậy. Nhưng họ không mượn ta vẽ tranh."
                  Anh đứng lên. "Nghĩ cho cùng, cũng thế mà thôi, phải không Bob, họ có quyền hưởng thụ chút ít, chuyện ấy quan trọng với họ. Nhờ thế họ mới có thể tiếp tục sống và chiến đấu trong những ngày đen tối khi họ bơ vơ. Và khi cô đơn, thực sự cô đơn, không ảo vọng, đấy là con đường dẫn đến điên rồ -- và tự sát."
                  Căn phòng rộng, trơ trọi như hầm mộ dưới ánh sáng lờ mờ hư ảo. Từ phòng bên cạnh, ta có thể nghe tiếng chân người đến rồi đi -- bà quản gia. Bà ấy không hề lộ mặt khi một trong những đứa tôi đến đây. Bà ấy ghét chúng tôi vì nghĩ rằng chúng tôi muốn chia rẻ Grau với bà.
                  Tôi ra về. Âm thanh huyên náo của đường phố tấp nập bên dưới chợt ấm như nước tắm trong bồn.

                  Comment


                  • #10
                    Erich Maria Remarque

                    Chiến hữu

                    Chương 11

                    Tôi đang trên đường đến nhà Pat. Sẽ là lần đầu tôi thăm nàng. Cho đến nay, hoặc nàng đến chỗ của tôi, hay tôi đến trước cửa nhà nàng, rồi hai đứa dẫn nhau đi nơi khác. Lúc nào cũng như là có một mình nàng thăm tôi. Tôi muốn biết thêm về nàng. Tôi muốn biết nàng sống ra sao.
                    Hoa nở đầy trong công viên phía sau bùng binh. Tôi nhảy qua rào, thò tay ngắt một nhánh tử đinh hương trắng.
                    "Cậu ấy ơi, câu đang làm gì vậy?" một giọng nói dõng dạc gióng lên.
                    Tôi ngước mắt nhìn. Một ông, mặt đỏ au như màu rượu chát, ria bạc vuốt sáp mượt, đang nhìn tôi, bất bình. Không phải cảnh sát hay nhân viên chăm sóc vườn hoa. Ta có thể nhận ra ngay, đấy là một sĩ quan cao cấp hồi hưu.
                    "Có gì khó biết đâu hở bác," tôi lễ phép trả lời. "Cháu đang hái vài chùm tử đinh hương."
                    Trong một thoáng, ông tắt nghẹn, không nói ra lời. Rồi ông gầm lên, thịnh nộ, "Vậy cậu không biết đây là công viên thành phố hay sao?"
                    Tôi mỉm cười thân ái. "Bác đừng nói rằng cháu nghĩ đây là quần đảo Canary nhé. Bác biết mà, xứ sở của những con hoàng yến xinh đẹp, ca hát véo von."
                    Ông tím mặt. Tôi sợ ông sẽ đột quỵ mất thôi. "Thằng ranh con, bước ra lập tức!" Ông hét toáng lên, giọng chỉ huy ở trại lính. "Cậu đang trộm cắp tài sản công cộng. Tôi sẽ cho lính bắt cậu."
                    Trong lúc ấy, tôi đã thu vén đủ số tử đinh hương cần thiết. "Nội ơi, đố nội đuổi kịp cháu," tôi thách thức, và nhảy qua hàng rào đối diện, biến mất.
                    Bên ngoài nhà Pat, tôi kiểm soát lại y phục của mình. Rồi, chầm chậm, tôi bước lên cầu thang. Căn nhà mới và hiện đại -- một tương phản rõ rệt với trại lính cũ mèm và lòe lẹt của tôi. Cầu thang trải thảm đỏ -- một thứ không hề có ở nhà Mợ Zalewski. Nói gì tới thang máy.
                    Pat sống ở lầu hai. Cửa gắn một biển thau nhỏ đầy vẻ long trọng: EGBERT VON HAKE, TR. T. Tôi tự động chỉnh lại cà vạt, trước khi bấm chuông.
                    Một cô đội mũ trắng, khoác tạp dề be bé đi ra mở cửa --không thể xếp chung một lứa với Frida, bà cô nhếch nhác mắt lé của chúng tôi. Tôi cảm thấy lúng túng. "Herr Lohkamp?" cô hỏi.
                    Tôi gật đầu. Nhẹ nhàng, cô dẫn tôi đến một đầu cầu thang và mở cửa. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Trung Tá Egbert von Hake đứng sẳn ở đấy, đồng phục chỉnh tề và tra vấn tôi trước tiên, bởi trên tường của tiền sảnh, một dãy chân dung các tướng lãnh, uy chương đầy ngực, nghiêm khắc nhìn xuống tôi, gã bạch đinh. Nhưng kìa Pat đã ra tới, bước chân dài uyển chuyển, và gian phòng đột nhiên trở thành một hòn đảo ấm áp, vui tươi. Tôi đóng cửa và việc trước nhất là thận trọng ôm nàng trong tay. Rồi tôi trao cho nàng bó tử đinh hương ngắt trộm. "Đây," tôi nói, "với sự ân cần của hội đồng thành phố."
                    Nàng cắm những cành hoa vào một chiếc bình gốm màu tươi đặt trên sàn, gần cửa sổ. Trong khi ấy, tôi liếc mắt nhìn quanh và ngạc nhiên. Màu sắc nhã nhặn, ưa nhìn; bàn ghế cũ, nhỏ gọn, đáng yêu; thảm lót sàn xanh lơ nhạt, màn cửa màu phấn tiên ngọt dịu, ghế bành ấm cúng bọc sa tanh đã ngã màu ...
                    "Trời đất, Pat, làm sao em có thể tìm được một căn phòng thế này?" tôi nói. Thông thường người ta trang bị phòng cho thuê với bàn ghế hư hỏng và quà sinh nhật vô dụng."
                    Nàng cẩn thận đẩy cái bình gốm cắm hoa vào sát tường. Tôi ngắm chiếc cổ thuôn, thanh tú, bờ vai thẳng và đôi tay có phần quá gầy guộc của nàng. Khi quỳ, trông nàng như một đứa trẻ, một cô bé cần được nâng niu chăm sóc. Nhưng cử động của nàng là cử động của một con thú duyên dáng, và khi nàng đứng lên, tựa vào tôi, nàng không còn là một em bé nữa, mắt môi nàng lại chứa một nỗi chờ mong hiếu kỳ và một niềm bí ẩn làm tôi ngây ngất điên mê, những thứ tôi tưởng không còn trong thế gian bùn lầy này.
                    Tôi đặt tay lên vai nàng. Thật sung sướng biết bao được chạm vào người nàng như thế. "Chúng là vật dụng của em, Bob ạ," nàng nói. "Trước đây mẹ em làm chủ ngôi nhà. Khi bà mất đi, em cho thuê bớt, chỉ giữ hai phòng cho riêng em."
                    "Vậy căn nhà thuộc về em, phải không? Và Trung Tá Egbert von Hake là người thuê?"
                    Nàng lắc đầu. "Bây giờ thì không. Em không giữ được. Em phải bán tất cả bàn ghế còn lại và cả ngôi nhà nữa. Em hiện đang ở trọ nơi đây. Nhưng anh không thích Trung Tá Egbert thì phải?"
                    "Không đâu. Chỉ có điều là tự nhiên anh không ưa đám cảnh sát và sĩ quan tham mưu. Hậu quả của những ngày đi lính."
                    Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
                    "Thiếu tá đứng gần chót bảng."
                    "Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
                    Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
                    "À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
                    "Vậy anh không biết cụ ấy."
                    "Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
                    "Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
                    Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
                    Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
                    "Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
                    "Vâng, nhìn đây."
                    "Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
                    Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
                    "Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
                    "Em sẽ dùng cà phê với anh."
                    "Nếu không, em sẽ uống trà?"
                    "Vâng."
                    "Chúng ta cùng uống trà vậy."
                    "Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
                    "Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
                    "Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
                    "Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
                    Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
                    "Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
                    "Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
                    Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
                    Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
                    Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
                    "Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
                    Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
                    "Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
                    "Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
                    "Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
                    Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
                    Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
                    "Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
                    Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
                    Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
                    Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
                    "Sao lại thế?"
                    "Em ốm."
                    "Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
                    "Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
                    Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
                    Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
                    "Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
                    "Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
                    "Em nhớ dai thật," tôi nói.
                    "Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
                    "Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
                    "Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
                    "Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
                    "Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
                    "Anh cũng thế."
                    "Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
                    "Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
                    "Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
                    Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
                    "Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
                    Nàng lắc đầu.
                    "Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
                    "Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
                    "Không, can đảm chứ."
                    "Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
                    "Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
                    "Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
                    "Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
                    Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
                    "Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
                    Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
                    "Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
                    "Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
                    "Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
                    "Ngày một tháng Tám."
                    "Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
                    "Vậy anh đã có máy hát?"
                    "Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
                    "Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
                    "Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
                    Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
                    Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
                    "Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
                    "Không," nàng đáp.
                    "Em lại đúng," tôi nói.
                    Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
                    "Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
                    "Ở tiệm đàng góc phố."
                    À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
                    "Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
                    Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
                    Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
                    "Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
                    Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
                    "Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
                    Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
                    "Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
                    Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
                    "Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
                    "Chẳng đáng chi, anh ạ."
                    "Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
                    Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
                    "Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
                    "Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
                    "Không có việc gì?"
                    "Loại nào?"
                    "Thư ký văn phòng, phụ tá --"
                    Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
                    "Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
                    "Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
                    "Cái gì?"
                    "Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
                    "Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
                    "Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
                    "Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
                    "Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
                    Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
                    "Ach, ơ --" tôi nói.
                    "Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
                    "Làm gì có," tôi trả lời.
                    Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
                    Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
                    "Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
                    "Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
                    "Vâng?"
                    "Vâng, trẻ ra."
                    "Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
                    "Pros't, Bob."
                    Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
                    "Bé con," Valentin nói.
                    "Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
                    "Như khi nãy."
                    "Phải rồi."
                    Fred rót đầy ly.
                    "Nào, pros't, Valentin."
                    "Pros't,
                    "Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
                    Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
                    Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
                    "Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
                    Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
                    Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
                    "Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
                    "Vâng," anh nói.
                    Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
                    "Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
                    Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
                    Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
                    "Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
                    Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
                    Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
                    "Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
                    "Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
                    "Nước chanh."
                    "Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
                    "Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
                    Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
                    "Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
                    Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
                    "Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
                    Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
                    Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
                    Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
                    "Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
                    "Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
                    "Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
                    Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
                    Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
                    Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
                    Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
                    Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.


                    Erich Maria Remarque

                    Chiến hữu

                    Chương 12

                    Xưởng của chúng tôi trống hoắc như một vựa lúa trước mùa gặt. Vì vậy chúng tôi quyết định không bán chiếc tắc xi mà giữ nó lại, đưa đón khách một thời gian. Lenz và tôi sẽ thay nhau lái. Koster và Jupp dư sức quán xuyến công việc trong xưởng, đến khi kiếm được một công trình mới.
                    Tôi nhét tiền lẻ đầy túi, cầm theo giấy tờ, và lái lanh quanh tìm một bãi đáp tốt. Có một cảm giác xao xuyến của buổi ban đầu. Bất kỳ thằng ngốc nào cũng có thể chận tôi lại và ra lệnh. Chẳng phải là một cảm giác tuyệt diệu. Trôi tuột một lần nữa. Tôi không hiểu rõ, vì sao lần này tôi cảm thấy cần phải thu lượm được một điều gì khác hơn trước đây. Công việc này có lẽ không bền -- tuy nhiên, được nhìn ngắm chỗ này chỗ kia còn hơn giam mình trong văn phòng, để một tên trưởng phòng u sầu nào đấy hành hạ đến khi ta không chịu nỗi phải ném quyển sổ kế toán vào mặt hắn, rồi bị đuổi.
                    Tôi chọn một nơi chỉ có năm chiếc tắc xi đang đậu. Đối diện với khách sạn Waldecker Hof, tại trung tâm một khu thương mại. Ở đấy, hy vọng sẽ đắt khách.
                    Tôi tắt máy xe, bước ra. Từ trong chiếc xe đầu, một người cao lớn mặc áo choàng da tiến đến. Hắn gầm lên, "Cút ngay,"
                    Tôi bình tỉnh nhìn hắn và nghĩ rằng nếu cần, một cú móc ngược vào càm là tốt nhất. Áo choàng của hắn sẽ vướng víu khiến hắn không dơ tay đỡ kịp.
                    "Mày không có mũ?" hắn nhấn mạnh, nhỗ toẹt mẫu thuốc lá cùn xuống chân tôi. "Mày nên cút ngay. Ở đây đã đủ người. Không cần nữa."
                    Rõ ràng hắn nổi giận vì có thêm người; nhưng tôi có quyền đứng đây nếu tôi thích.
                    "Tôi bằng lòng đãi mấy chầu ra mắt," tôi nói.
                    Theo tôi nghĩ, như thế đã ổn. Thông thường ai mới vào nghề cũng phải chịu vậy.
                    Một cậu tài xế trẻ tuổi xuất hiện. "Được mà, bạn. Mặc kệ hắn, Gustav --"
                    Gustav không thích một điều gì đấy ở tôi. Tôi biết điều ấy là gì. Hắn nhận ra, tôi là một tay mơ tập tễnh vào nghề.
                    "Tao sẽ đếm ba tiếng --" hắn nói. Hắn cao hơn tôi một cái đầu và tin tưởng vào lợi thế ấy.
                    Tôi hiểu, có nói cũng bằng thừa. Một là tôi phải đi khỏi chỗ này, hay là đánh nhau. Rõ ràng như vậy. "Một," Gustav đếm, vừa cởi khuy áo choàng.
                    "Đừng có vô lý," tôi nói, cố gắng một lần nữa. "Anh không cảm thấy hương vị whiskey nóng bỏng ở cuống họng hay sao?"
                    "Hai --" Gustav gầm lên.
                    Tôi thấy rõ, hắn định nện cho tôi một trận đến nơi đến chốn.
                    "Và một là ---" Hắn đẩy mũ của hắn lệch ra sau.
                    "Câm đi, thằng ngốc!" tôi thình lình quát to. Gustav há mồm kinh ngạc, bước tới một bước. Chính xác ngay vị trí tôi muốn. Tôi lập tức tung nhanh -- một cú đấm mạnh như búa bổ, với sức nặng của toàn thân. Koster đã dạy tôi cú đấm ấy. Tôi không giỏi quyền Anh; tôi cho là không cần thiết -- thông thường quả đấm thứ nhất sẽ quyết định tất cả. Đây là một quả đấm hay tuyệt.
                    Gustav gục tại chỗ. "Không sao cả," người tài xế trẻ tuổi nói. "Anh ấy luôn luôn ước muốn như thế." Chúng tôi khênh hắn lên, đặt vào xe tắc xi của hắn. "Anh ấy sẽ tỉnh lại ngay."
                    Tôi cảm thấy có chút ưu tư, vì khi đấm, tôi đã để ngón cái nằm bên ngoài. Khi Gustav tỉnh dậy, hắn có thể tha hồ đập tôi tùy thích. Tôi nói cho người tài xế trẻ nghe và hỏi cậu ta, liệu tôi có nên chuồn mau. "Vô lý," cậu ta nói, "chuyện ấy đã giải quyết. Đến quán rượu và trả tiền ra mắt. Anh không phải là dân lái tắc xi chuyên nghiệp?"
                    "Không."
                    "Em cũng thế. Em là diễn viên."
                    "Và em thành công?"
                    "Người ta phải sống," cậu ấy cười to, "Và đời không hoàn toàn như trong kịch."
                    Nhưng chuyện ấy đã không xảy ra. Gustav đá một cái ghế và hờn dỗi ngồi phịch xuống. Cô hầu bàn đặt một cái ly trước mặt hắn. Bia mang đến. Gustav uống cạn ly. Gọi thêm một chầu nữa.
                    Gustav nghiêng mặt nhìn tôi. Hắn nâng ly. "Pros't," hắn nói với tôi, nhưng với nét mặt ỉu xìu như bùn.
                    "Pros't," tôi đáp và chạm ly.
                    Gustav chìa ra một gói thuốc lá. Hắn mời mà không nhìn tôi. Tôi nhón một điếu và bật lửa cho hắn. Rồi tôi gọi một chầu double kummel. Chúng tôi cùng uống. Gustav lại liếc qua.
                    "Đồ phá hoại," hắn nói, nhưng bằng một giọng thích hợp.
                    "Đồ ngu si," tôi trả lời cùng một kiểu.
                    Hắn quay lại, đối diện với tôi. "Quả đấm thật tuyệt."
                    "Hên thôi," tôi nói, và chỉ cho hắn xem ngón cái của tôi.
                    "Xui thật," hắn nhăn răng cười, đáp lời. "Nhân thể, tớ tên là Gustav."
                    "Còn tớ, Robert."
                    "Tốt. Vậy thì O.K chứ, Robert? Tớ tưởng cậu vừa dứt sửa mẹ."
                    "O.K, Gustav."
                    Từ đấy trở đi, chúng tôi là bạn với nhau.
                    Những chiếc tắc xi chầm chậm lăn bánh tới. Người diễn viên, tên là Tommy, có một mối hời đưa khách ra nhà ga; Gustav chở khách đến một nhà hàng gần nhất, tiền xe ba mươi pfenig. Anh hầu như sẽ nổi cơn tam bành, bởi vì giờ đây, với tiền lời chỉ có mười fpenig, anh phải xuống hạng chót ở cuối hàng. Tôi kiếm được một mối khá đặc biệt -- một bà người Anh muốn tham quan thành phố. Gần một tiếng đồng hồ với bà. Lượt về, tôi còn kiếm thêm vài mối nhỏ. Đến trưa, khi chúng tôi lại tụ tập nơi quán rượu và ăn bánh mì với bơ, tôi cảm thấy mình đã thạo nghề lắm rồi. Có một điều gì đó tương tự tình chiến hữu trong quân đội. Đủ mọi hạng người đáp lời sông núi tại đây. Hơn phân nửa lúc nào cũng thế, số còn lại bằng cách này cách khác cũng bị lôi cuốn vào.
                    Buổi chiều, khá hài lòng với bản thân, tôi lái xe vào sân xưởng sửa xe. Lenz và Koster đang chờ tôi.
                    "Các cậu kiếm được bao nhiêu?"
                    "Bẩy mươi lít dầu lửa," Jupp trả lời.
                    "Chỉ thế thôi?"
                    Lenz tuyệt vọng nhìn lên trời. "Cho một giọt nước mưa! Và một vụ đụng xe sơ sài trên mặt đường trơn trợt ngay trước cửa! Dĩ nhiên không ai bị thương. Chỉ có một mối sửa xe nhẹ nhàng."
                    "Nhìn đây." Tôi khoe ba mươi lăm marks trong bàn tay mình.
                    "Tuyệt vời," Koesler nói. "Lời hai mươi marks đấy. Chúng ta sẽ tiêu nó ngay tức thì. Phải ăn mừng chuyến 'hải trình' đầu tiên."
                    "Chúng ta sẽ có một bình rượu vang ướp woodruff," Lenz nói.
                    "Một bình?" tôi hỏi. "Cậu định nói gì thế?"
                    "Đúng. Pat sẽ đến."
                    "Pat?"
                    "Đừng có há mõm to đến thế," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Tụi tớ đã dàn xếp từ lâu. Tụi tớ sẽ đón cô ấy lúc bẩy giờ. Cô ấy biết tất cả. Nếu cậu không nghĩ ra được những việc đấy, tụi tớ đành phải tự tay làm mà thôi. Dù sao đi nữa, cậu quen với cô ấy qua tụi tớ mà."
                    "Otto," tôi nói, "có bao giờ cậu thấy một điều gì xấc xược hơn không?'
                    Koster cười. "Tay cậu bị gì thế, Bob? Dường như bị vẹo?"
                    "Chắc là sái gân rồi." Tôi kể lại câu chuyện với Gustav. Lenz nhìn tay tôi. "Hẳn thế. Nhưng, mặc dù sự thô lỗ của cậu, như một tín đồ Cơ đốc giáo và một sinh viên trường thuốc hồi hưu, tớ sẽ xoa bóp cho cậu. Vào đây, Ông Đánh Bốc."
                    Chúng tôi vào trong xưởng và Gottfried nắn bóp tay tôi với một chút dầu nóng. "Cậu bảo Pat rằng chúng ta sẽ ăn mừng ngày đầu tiên lái tắc xi?" tôi hỏi anh.
                    "Liệu mà giữ mồm giữ miệng," tôi trả lời. Bởi có lẽ, anh nói đúng. "Cậu nói cho cô ấy biết, phải không?"
                    "Tình yêu," Gottfried bình thản nói, "là một vật đẹp. Nhưng nó làm hỏng tính cách con người."
                    "Đơn côi, mặt khác, khiến người ta kém tế nhị."
                    "Tế nhị là một thỏa thuận ngầm để phớt lờ thất bại của nhau, thay vì lên tiếng. Đấy là một sự thỏa hiệp đáng khinh. Chẳng có một cựu chiến binh Đức nào lại hạ mình làm chuyện ấy, bé ạ."
                    "Vậy giả sử như cậu là tớ, cậu sẽ làm thế nào," tôi nói, "trong trường hợp có ai đấy ngoắc tay đón tắc xi và cậu nhận ra người đó chính là Pat?"
                    Anh mỉm cười. "Tớ sẽ chẳng bắt nàng trả tiền xe đâu, cậu nhỏ ơi."
                    Tôi huých anh một phát làm anh ngã khỏi chiếc ghế ba chân. "Bố khỉ. Cậu biết tớ sẽ làm gì không? Tối nay tớ sẽ đón nàng bằng xe tắc xi."
                    "Xuất sắc." Gottfried dơ một tay lên cao, khuyến khích. "Chỉ cần nhớ, dù cậu làm gì đi nữa, chớ đánh mất tự do. Tự do còn quý hơn cả tình yêu và cậu chỉ hiểu được điều ấy khi đã muộn. Cậu không trọn quyền sử dụng chiếc tắc xi. Tụi này muốn đón Ferdinand Grau và Valentin. Sẽ là một đêm long trọng, nhưng tuyệt vời."
                    Chúng tôi ngồi sau vườn một lữ quán nhỏ ở ven thành phố. Vầng trăng ướt treo thấp trên cánh rừng như một ngọn đuốc đỏ. Những cành hạt dẻ đơm hoa giống một chúc đài óng ánh nhạt, mùi tử đinh hương nồng nàn như thuốc, và trên bàn trước mặt chúng tôi, một chậu thủy tinh to chứa rượu vang ướp hương woodruff, trong bóng tối mờ ảo như một khối ngọc opal long lanh, giữ bên trong tia sáng xanh lam và xà cừ lung linh, ánh sáng cuối cùng của chiều tà. Chưa gì chúng tôi đã châm rượu vào chậu đến bốn lần.
                    Ferdinand ngồi ghế. Pat ngồi bên cạnh. Nàng cài một đóa lan hồng phấn mà anh mang tặng.
                    Ferdinand vớt một con cánh ren từ ly rượu của anh, thận trọng quệt nó lên mặt bàn.
                    "Hãy nhìn nó," anh nói: "con muỗi này. Mạng nhện chỉ là giẻ rách so với nó. Và chúng chỉ sống một ngày, rồi xong." Anh đưa mắt quan sát tất cả mọi người. "Người anh em, có ai biết điều gì huyền bí nhất trong thế gian này?"
                    "Một ly rượu đã cạn," Lenz trả lời.
                    Ferdinand phất tay, phủ nhận Lenz. "Điều bại hoại nhất ở thế gian này đối với loài người, Gottfried, là một tay diễu cợt." Anh quay lại nhìn chúng tôi, "Điều huyền bí nhất trên thế gian, anh em ơi, chính là thời gian. Thời gian. Tượng đài kỷ niệm mà chúng ta sống qua nhưng không thể chiếm hữu." Anh lôi từ trong túi ra một cái đồng hồ và dí sát mắt Lenz. "Nhìn đây, người lãng mạn sống trên mây. Cái vật cơ giới quỷ sứ này, kêu tíc tắc, sẽ tiếp tục kêu tíc tắc, và không có thứ gì có thể làm nó ngưng lại. Ta có thể sống còn sau một cơn tuyết lở hay một trận núi vùi -- nhưng không thể chiến thắng vật này."
                    "Tớ không muốn thế," Lenz tuyên bố. "Tớ muốn mình sống êm ả đến già. Và, dù sao đi nữa, tớ cũng thích sự đổi thay."
                    "Thời gian không chịu đựng con người," Grau nói, phe lờ anh. "Con người cũng chẳng thể chịu đựng thời gian. Do đó, con người phải chế tạo ra giấc mơ cho chính mình. Giấc mơ xưa cũ, vô vọng, bịnh hoạn của loài người, sự vĩnh cữu."
                    Gottfried cười to. "Căn bệnh trầm trọng nhất trong thế gian, Ferdinand, là tư tưởng. Một căn bệnh nan y."
                    "Nếu nó là căn bệnh duy nhất, thì cậu sẽ bất tử," Grau đáp. "Cậu, cái túi gồm có chất hữu cơ, vôi, phốt pho và một ít sắt, tồn tại trong một thoáng của trái đất, Gottfried Lenz!"
                    Gottfried rạng rỡ, hài lòng. Ferdinand lúc lắc cái bờm sư tử của anh. "Đời sống là một chứng bệnh, người anh em ạ, và cái chết bắt đầu từ lúc ta lọt lòng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp tim, là một giây phút chết chóc -- xô đẩy ta đến gần điểm kết thúc."
                    "Và mỗi ngụm rượu nữa cơ," Lenz trả lời. "Pros't, Ferdinand. Đôi khi cái chết lại là một niềm vui sướng đáng ghét. "
                    Grau nâng ly. Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt to rộng của anh, như một cơn bão không âm thanh. "Pros't, Gottfied, con bọ nước nhảy loi choi trên luồng chảy của thời gian. Tớ tự hỏi, không biết cái quyền năng điều khiển chúng ta nghĩ thế nào khi họ tạo dựng ra cậu."
                    "Hẳn là họ đã thỏa thuận với nhau," Gottfried nói. "Trong bất kỳ trường hợp nào, cậu không phải là người được quyền miệt thị những chuyện như thế. Nếu loài người bất tử, thì cậu -- con ký sinh già, sẽ thất nghiệp."
                    Đôi vai của Grau bắt đầu nhô lên. Anh cười to. Rồi anh quay sang Pat. "Em nghĩ sao, bông hoa bé nhỏ trên mặt nước rập rềnh?"
                    Sau đó Pat và tôi tản bộ riêng với nhau trong vườn. Trăng đã cao hơn và cánh đồng bơi lội trong ánh xám bạc. Bóng cây ngã dài và đen sẩm trên đấy như những tấm biển chỉ đường về một miền vô định. Chúng tôi đi đến tận hồ, rồi quay trở về. Trên đường, chúng tôi gặp Gottfried, anh bê một cái ghế trong vườn, đặt giữa những bụi tử đinh hương rậm rạp. Anh ngồi khuất bên trong, chỉ còn thấy mái tóc vàng và điếu thuốc. Bên cạnh, trên mặt đất là một cái cốc thủy tinh với những gì còn lại của bình rượu vang trắng xứ Rhine tháng Năm tẩm hương woodruff.
                    "Có chỗ ngồi kìa, nếu anh muốn!" Pat nói. "Trong bụi tử đinh hương."
                    "Cũng không tệ." Gottfried đứng lên. "Thử xem."
                    Pat ngồi xuống ghế. Gương mặt nàng bừng sáng giữa những đóa hoa thắm tươi.
                    "Tôi mê tử đinh hương lắm," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Nhớ nhà với tôi có nghĩa là nhớ tử đinh hương. Mùa xuân năm hai mươi bốn, từ Rio de Janeiro tôi đã cố trở về thật gấp gáp, chỉ vì tôi nhớ ra, hẳn là tử đinh hương đang mùa hoa nở. Khi tôi về đến nơi, dĩ nhiên là đã muộn." Anh cười. "Lúc nào cũng thế."
                    "Rio de Janeiro." Pat kéo một chùm hoa xuống gần. "Hai anh đều ở đấy cùng một lúc? ""
                    Gottfried khựng lại. Tôi rùng mình, cảm thấy một luồng buốt giá chạy dọc theo cột sống.
                    "Hãy nhìn trăng kìa," tôi vội vàng nói, cùng một lúc dẫm nhẹ lên chân Lenz để ra hiệu.
                    Từ đóm lửa ở đầu điếu thuốc của Lenz, tôi thấy một nụ cười phảng phất và ánh mắt tinh nghịch. Tôi được cứu bồ. "Không, chúng tôi không ở đấy cùng một thời gian. Lúc đấy chỉ có một mình tôi. Nhưng, còn một chút rượu woodruff này, cô nghĩ thế nào?"
                    "Thôi ạ." Pat lắc đầu. "Em không uống được nhiều rượu."
                    Chúng tôi nghe Ferdinand gọi, và quay về. Nhưng tôi đã quyết tâm là một dịp nào đó, tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề Brazil. Goffried nói đúng -- tình yêu làm hư hoại tính cách con người.
                    Ferdinand dềnh dàng đứng ở khung cửa. "Vào đây, các con," anh nói. "Những người như chúng ta không dính dáng gì đến thiên nhiên vào ban đêm. Thiên nhiên muốn được cô độc. Nếu là nông dân hay ngư phủ, đấy lại là một chuyện khác -- nhưng chúng ta, những cư dân thành thị, bản năng đã cùn nhụt, không thể nào." Anh đặt tay lên vai Gottfried. "Đêm là sự phản kháng của thiên nhiên đối lại bệnh hủi của văn minh, Goffried. Không một người chân chánh nào có thể chống cự lâu dài. Hắn sẽ để ý thấy rằng hắn đã bị loại khỏi sự bầu bạn im lặng của cây cỏ, muôn thú, ngàn sao, và cuộc sống vô thức." Anh mỉm nụ cười kỳ quặc của mình; người ta không bao giờ biết đấy là nụ vui hay buồn. "Vào đây, các con. Hãy sưởi ấm đôi tay bằng những hồi ức. Ach, thời kỳ tuyệt vời, khi chúng ta còn là cỏ đuôi ngựa và cá lóc -- năm mươi, sáu mươi ngàn năm trước -- Lạy Chúa, từ đấy đến nay, chúng ta sa ngã đến mực nào."
                    Anh cầm tay Pat. "Nếu chúng ta không có chút ý thức về cái đẹp này -- thì chúng ta đã tiêu đời." Một cách tinh tế, bàn tay hộ pháp của anh đặt tay nàng lên cánh tay anh. "Ngôi sao bạc băng qua vực thẳm hun hút -- cô có vui lòng uống một cốc rượu với người đàn ông vạn cổ này không?
                    Pat gật đầu. "Vâng," nàng nói. "Bất kỳ điều gì anh thích."
                    Khoảng mười một giờ, chúng tôi ra về. Valentin và Ferdinand ngồi tắc xi, Valentin cầm lái. Những người còn lại đi trên Karl. Đêm ấm và Koster lái vào những xóm làng say ngủ bên đường, không một dấu hiệu của sự sống-- ngoại trừ vài ngọn đèn và tiếng sủa của một con chó. Lenz ngồi trước với Otto, ca hát; Pat và tôi phục ở băng sau.
                    Koster lái rất cừ. Anh lượn ở những khúc quanh như chim, dễ dàng như trò chơi con trẻ. Anh không lái thô bạo như một số tay đua. Ta có thể ngủ say ở những góc chữ chi; ta không bao giờ phải chú ý đến tốc độ xe.
                    Chúng tôi lắng nghe tiếng bánh xe xiết trên mặt đường, thay đổi tùy theo loại. Đường tráng nhựa, như tiếng huýt sáo, đường lát đá, như tiếng sấm động. Đèn pha quét về phía trước như những con greyhounds bị kéo dãn, và bất ngờ trong đêm tối, hai hàng bạch dương run rẩy lá, một rặng dương, những cột điện tín trôi lướt, những ngôi nhà thấp lúp xúp và bờ rừng diễn hành đàng xa. Bao la trên đầu chúng tôi, với hàng triệu ngôi sao, dải ngân hà như sương lung linh, dài lướt thướt.
                    Xe chạy nhanh hơn. Tôi choàng mấy tấm áo khoác lên mình Pat. Nàng mỉm cười với tôi.
                    "Em yêu anh, thật không?" tôi hỏi
                    Nàng lắc đầu. "Còn anh?"
                    "Không. May quá, phải không?"
                    "Rất may."
                    "Như thế, sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta, em nhỉ?"
                    "Không," nàng trả lời và tìm tay tôi dưới những lần áo khoác.
                    Đường uốn một vòng cạnh hàng rầy xe lửa. Hàng rây sáng bóng. Đàng xa, một ánh đèn đỏ chập chờn. Karl hí lên và vọt tới. Đó là một con tàu tốc hành với toa ngủ và một toa ăn còn sáng đèn. Chúng tôi tuần tự bắt kịp con tàu. Từ cửa sổ, nhiều người vẫy tay. Chúng tôi không vẫy lại. Chúng tôi vượt qua. Tôi nhìn quanh. Con tàu nhả khói và những tia hoa lửa. Nó rùng rục chạy, đen ngòm trong đêm xanh. Chúng tôi đuổi kịp và qua mặt nó --nhưng chúng tôi lái về thành phố, về xe tắc xi, về xưởng sửa xe, và phòng cho thuê có trang bị bàn ghế; trong khi nó tiếp tục lướt qua những vạt rừng, những cánh đồng và sông ngòi, vào một chuyến viễn du đến những miền đất xa xôi và bát ngát hơn.
                    Đường phố, nhà cửa tiến gần. Karl trở nên dịu dàng, nhưng tiếng gầm của nó vẫn là tiếng của một con thú hoang. Koster không lái về nhà tôi hay nhà Pat, mà ngừng ở nghĩa trang gần đó, rõ ràng anh nghĩ, chúng tôi muốn được bên nhau. Chúng tôi xuống xe. Hai người kia phóng vèo ngay, không ngoái nhìn. Tôi liếc theo họ. Một cảm giác kỳ cục thoáng qua, rằng họ, bạn của tôi, đã bỏ đi và một mình tôi ở lại.
                    Tôi xua đuổi ý nghĩ ấy. "Này em," tôi nói với Pat, đang quan sát tôi như thể nàng có linh tính một chuyện gì.
                    "Anh theo họ đi," nàng nói.
                    "Không," tôi nói.
                    "Anh muốn đi theo họ mà, mặc dù --"
                    "Ach, tại sao lại ---" tôi nói, biết đấy là sự thật. "Thôi mà, em."
                    Chúng tôi đi ngang qua nghĩa trang; chúng tôi vẫn còn một ít cảm giác bồng bềnh, say gió và xe.
                    "Bob," Pat nói, "Em nghĩ, em nên về nhà em."
                    "Sao thế?"
                    "Em không muốn anh phải từ bỏ một thứ gì bởi em."
                    "Em nói gì thế ?" tôi nói, "anh có từ bỏ điều gì đâu?"
                    "Bạn anh --"
                    "Anh không bỏ bạn bè. Ngày mai, việc đầu tiên trong ngày là anh gặp họ."
                    "Nhưng, anh biết em muốn nói gì," nàng nói. "trước đây, anh đi với họ thường xuyên hơn."
                    "Vì lúc ấy chưa có em," tôi trả lời và mở cửa.
                    Nàng lắc đầu. "Cái ấy lại khác."
                    "Dĩ nhiên là khác, tạ ơn Chúa."
                    Tôi bế nàng trên tay, đi qua hành lang về phòng mình.
                    "Anh cần có chiến hữu," nàng nói, kề sát mặt tôi.
                    "Anh cũng cần có em," tôi trả lời.
                    "Nhưng không nhiều lắm."
                    "Rồi chúng ta sẽ thấy."
                    Tôi đẩy cửa phòng và để nàng xuống. Nàng bám vào tôi. "Em chỉ là một chiến hữu tồi, Robby."
                    "Hy vọng là thế," tôi nói. "Tuy nhiên, anh không muốn một người đàn bà là chiến hữu của anh. Anh muốn nàng là người tình."
                    "Em cũng không phải là người tình," nàng thì thào.
                    "Vậy em là ai?"
                    "Chỉ là phân nửa, không trọn vẹn. Một mảnh vụn --"
                    "Như thế lại hay hơn cả," tôi nói. "Sẽ khơi dậy trí tưởng tượng. Người ta mãi mãi yêu những người đàn bà ấy. Những người đàn bà hoàn hảo sớm gây nhàm chán. Những người cao sang, cũng thế. Còn những mảnh vụn đáng yêu, không bao giờ."
                    Bốn giờ sáng. Tôi đưa Pat về nhà nàng và đang trên đường trở lại. Trời đã rạng đông. Thoảng đâu đây mùi hương ngày mới.
                    Tôi đi dọc theo nghĩa trang, qua khỏi quán Café International, về nhà. Cửa quán rượu của tài xế tắc xi cạnh Phòng Thương Mại mở ra và một cô gái xuất hiện. Một cái mũ be bé, một cái áo khoác đỏ, ngắn, cũ mòn, đôi ủng cao, da bóng -- tôi sắp bước qua thì nhận ra cô ấy -- "Lisa!"
                    "Anh đây rồi!" nàng nói.
                    "Em từ đâu đến?" tôi hỏi.
                    Nàng làm một cử chỉ. "Em đã đợi ở đây nãy giờ. Em nghĩ, anh sẽ đi qua. Anh thường trở về nhà vào giờ này, phải không?'
                    "Vâng, đúng thế."
                    "Đi theo em nhé? " nàng hỏi.
                    Tôi ngập ngừng. "Anh không thể."
                    "Anh không cần trả tiền," nàng vội vàng nói.
                    "Không phải vậy đâu," tôi trả lời, không suy nghĩ. "Anh có tiền."
                    "Ach, vậy ra," nàng cay đắng nói, lui lại một bước.
                    Tôi cầm tay nàng. "Không, Lisa."
                    Mảnh mai và xanh xao, nàng đứng trên con đường vắng, xám. Tôi quen với nàng từ nhiều năm trước, khi tôi sống trong nhục cảm và cô đơn, không ai chăm sóc, không tình yêu. Lúc đầu nàng đầy nghi ngại, như các cô gái làng chơi ấy; nhưng rồi, sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều lần, nàng phó thác tâm tư và quý mến tôi đến mức bệnh hoạn. Đây là một liên hệ kỳ lạ -- đôi khi nhiều tuần liên tiếp, tôi không gặp nàng, rồi bất ngờ một hôm, nàng sẽ đứng ở đâu đó, chờ tôi. Dạo ấy, chúng tôi chẳng có ai hay thứ gì -- vì thế, một chút ấm áp và bầu bạn mang nhiều ý nghĩa với chúng tôi hơn là ở những hoàn cảnh khác. Đã lâu, tôi không gặp nàng -- từ khi tôi biết Pat, không một lần gặp lại.
                    "Thời gian vừa qua, em ở đâu, Lisa?"
                    Nàng nhún vai. "Có gì khác chăng? Em chỉ muốn gặp anh. Vậy, em nghĩ, em có thể cút đi, hẳn rồi."
                    "Thế, công việc lúc này ra sao?"
                    "Đừng lo," nàng nói. "Anh không cần bận tâm."
                    Môi nàng rung rung. Trông nàng như người ốm đói lâu ngày.
                    "Anh sẽ đi với em một lúc," tôi nói.
                    Gương mặt nghèo khổ, vô cảm, phong trần của nàng bừng sáng và gần như biến thành trẻ thơ. Trên đường đi, ở nhà tạm trú của tài xế tắc xi, tôi mua vài món ăn cho nàng. Lúc đầu, nàng không muốn và chỉ đồng ý khi tôi giải thích rằng tôi đang đói meo. Nhưng nàng để ý sao cho tôi không bị gạt và mua nhầm hàng kém phẩm chất. Nàng không chịu cho tôi mua nửa cân thịt muối;, nàng nói hơn một phần tư cân đủ rồi, nếu ta lấy thêm vài khoanh xúc xích nhỏ. Nhưng tôi nhất định mua đủ nửa cân thịt muối và hai hộp xúc xích.
                    Nàng sống ở một căn gác mái, phải tự sắm sửa vật dụng. Một cây đèn dầu đặt trên bàn, và cạnh giường là ngọn nến đựng trong lọ thủy tinh. Các tấm ảnh cắt từ nhật báo đính trên tường bằng kim. Trên mặt tủ áo, dăm ba cuốn tiểu thuyết trinh thám nằm chơ vơ bên cạnh một xấp hình khiêu dâm. Khách của nàng, đặc biệt những người có vợ, đôi khi thích xem chúng. Lisa lùa chúng vào ngăn kéo, và lấy ra một tấm khăn bàn đã cũ, nhưng sạch.
                    Tôi mở gói thức ăn. Trong khi ấy, Lisa cởi bỏ y phục. Đầu tiên là cái áo đầm, dù tôi biết rõ, đôi ủng mới là thứ làm nàng đau nhất; nàng phải đi bộ nhiều biết mấy. Nàng đứng đấy, trong đôi ủng da bóng cao tận gối và tấm áo lót đen.
                    "Anh thấy chân em ra sao?" nàng hỏi.
                    "Hạng nhất, như bao giờ."
                    Nàng lấy từ tủ áo ra một chiếc kimono và một đôi hài gấm của thời vàng son đã bạc màu, và mỉm cười, tuồng như biết lỗi. Nàng muốn làm vui lòng tôi. Tôi chợt có một cảm giác nghẹn ngào, trên căn gác chật hẹp này, như thể có người thân vừa mất.
                    Chúng tôi ăn và tôi trò chuyện với nàng, mệt mỏi. Nhưng, vì tất cả những chuyện ấy, nàng nghĩ rằng có một điều gì đổi thay. Đôi mắt nàng hoảng sợ. Giữa chúng tôi chưa bao giờ có điều gì nhiều hơn là số phận đẩy đưa. Nhưng có lẽ chuyện ấy lại càng làm nặng nợ thêm và ràng buộc chúng tôi chặt chẽ hơn những việc khác.
                    "Anh ra về đấy à?" nàng hỏi, khi tôi đứng lên -- như thể nàng lo lắng.
                    "Anh có một cái hẹn."
                    Nàng nhìn tôi. "Muộn thế cơ?"
                    "Việc làm ăn. Rất quan trọng với anh, Lisa. Một người anh cần phải gặp. Tại Astoria, thường thường vào giờ này."
                    Không một người đàn bà nào nhạy cảm cho bằng Lisa trong vấn đề này. Nhưng chẳng có ai khó bị lừa dối như nàng. Gương mặt Lisa rỗng tuếch.
                    "Anh có người đàn bà khác."
                    "Nhưng Lisa -- chúng ta rất hiếm khi gặp nhau -- đã gần một năm nay -- em phải hiểu --"
                    "Không, em không có ý nói thế. Anh đã gặp một người mà anh yêu. Anh thay đổi hẳn. Em có thể cảm thấy điều ấy."
                    "Ach, -- Lisa"
                    "Vâng, vâng. Thú nhận đi."
                    "Anh cũng không hiểu anh lắm, Lisa. Có lẽ --"
                    Nàng đứng một lúc. Rồi gật đầu: "Vâng -- vâng -- dĩ nhiên --Và em ngu quá --thật tình chúng ta chẳng có gì với nhau --" Nàng lướt bàn tay trên trán. "Em không biết tại sao em lại ..."
                    Tấm thân mảnh dẽ đứng trước tôi, khao khát và ẻo lả. Đôi hài gấm -- áo kimono -- những đêm dài quạnh hiu -- kỷ niệm ..."
                    "Au revoir, Lisa ..."
                    "Anh về sao? Anh không ở lại đây thêm chút nữa? Anh về thật ư?"
                    Tôi hiểu nàng muốn nói gì. Nhưng tôi không thể. Đặc biệt vô cùng, nhưng tôi không thể, và tôi cảm nhận tường tận việc ấy. Chưa bao giờ cảm thấy như thế. Tôi không hề có một khái niệm cường điệu nào về lòng chung thủy. Nhưng chỉ giản dị là không thể nào được nữa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi đã tiến xa biết mấy.
                    Nàng đứng ở ngạch cửa. "Anh về đấy ư?" Nàng chạy vào trong. "Đây, em biết anh để tiền lại cho em -- dưới tờ báo. Em không cần tiền. Đấy -- đấy -- vâng, cứ đi thôi --"
                    "Anh phải đi, Lisa."
                    "Anh đừng bao giờ trở lại."
                    "Ô, anh sẽ trở lại, Lisa."
                    "Không, không, anh sẽ không bao giờ trở lại, em biết. Và anh đừng trở lại. Nhưng đi, đi ngay đi --"
                    Nàng khóc. Tôi bước xuống cầu thang và không nhìn lại.
                    Tôi đi thật lâu trên đường phố. Một đêm kỳ lạ. Tôi vẫn tỉnh táo và không thể ngủ. Tôi đi ngang quán International, nhớ về Lisa và những năm đã trôi qua, về những thứ tôi đã quên; nhưng dường như chúng quá xa vời và không thuộc về tôi nữa. Rồi tôi lang thang đến con đường của nhà Pat. Gió thổi mạnh hơn, tất cả cửa sổ ngôi nhà của nàng chìm trong bóng tối, bình minh lần mò bước chân xám qua những khung cửa; và cuối cùng, tôi trở về nhà.
                    Lạy Chúa, tôi nghĩ, tôi tin rằng tôi hạnh phúc.

                    Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
                    "Thiếu tá đứng gần chót bảng."
                    "Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
                    Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
                    "À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
                    "Vậy anh không biết cụ ấy."
                    "Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
                    "Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
                    Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
                    Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
                    "Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
                    "Vâng, nhìn đây."
                    "Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
                    Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
                    "Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
                    "Em sẽ dùng cà phê với anh."
                    "Nếu không, em sẽ uống trà?"
                    "Vâng."
                    "Chúng ta cùng uống trà vậy."
                    "Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
                    "Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
                    "Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
                    "Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
                    Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
                    "Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
                    "Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
                    Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
                    Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
                    Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
                    "Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
                    Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
                    "Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
                    "Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
                    "Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
                    Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
                    Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
                    "Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
                    Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
                    Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
                    Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
                    "Sao lại thế?"
                    "Em ốm."
                    "Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
                    "Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
                    Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
                    Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
                    "Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
                    "Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
                    "Em nhớ dai thật," tôi nói.
                    "Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
                    "Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
                    "Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
                    "Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
                    "Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
                    "Anh cũng thế."
                    "Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
                    "Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
                    "Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
                    Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
                    "Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
                    Nàng lắc đầu.
                    "Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
                    "Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
                    "Không, can đảm chứ."
                    "Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
                    "Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
                    "Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
                    "Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
                    Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
                    "Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
                    Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
                    "Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
                    "Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
                    "Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
                    "Ngày một tháng Tám."
                    "Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
                    "Vậy anh đã có máy hát?"
                    "Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
                    "Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
                    "Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
                    Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
                    Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
                    "Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
                    "Không," nàng đáp.
                    "Em lại đúng," tôi nói.
                    Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
                    "Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
                    "Ở tiệm đàng góc phố."
                    À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
                    "Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
                    Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
                    Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
                    "Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
                    Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
                    "Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
                    Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
                    "Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
                    Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
                    "Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
                    "Chẳng đáng chi, anh ạ."
                    "Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
                    Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
                    "Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
                    "Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
                    "Không có việc gì?"
                    "Loại nào?"
                    "Thư ký văn phòng, phụ tá --"
                    Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
                    "Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
                    "Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
                    "Cái gì?"
                    "Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
                    "Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
                    "Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
                    "Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
                    "Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
                    Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
                    "Ach, ơ --" tôi nói.
                    "Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
                    "Làm gì có," tôi trả lời.
                    Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
                    Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
                    "Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
                    "Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
                    "Vâng?"
                    "Vâng, trẻ ra."
                    "Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
                    "Pros't, Bob."
                    Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
                    "Bé con," Valentin nói.
                    "Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
                    "Như khi nãy."
                    "Phải rồi."
                    Fred rót đầy ly.
                    "Nào, pros't, Valentin."
                    "Pros't,
                    "Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
                    Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
                    Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
                    "Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
                    Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
                    Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
                    "Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
                    "Vâng," anh nói.
                    Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
                    "Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
                    Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
                    Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
                    "Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
                    Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
                    Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
                    "Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
                    "Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
                    "Nước chanh."
                    "Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
                    "Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
                    Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
                    "Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
                    Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
                    "Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
                    Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
                    Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
                    Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
                    "Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
                    "Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
                    "Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
                    Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
                    Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
                    Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
                    Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
                    Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.

                    Comment


                    • #11
                      Erich Maria Remarque

                      Chiến hữu

                      Chương 13

                      Cô gái mà cậu che che dấu dấu," Frau Zalewski nói, "cậu không cần phải lén lút nữa. Cô ấy có thể đường hoàng đến đây. Bác thích cô ấy."
                      "Bác chưa hề gặp nàng," tôi trả lời.
                      "Đừng lo, bác gặp rồi," Frau Zalewski nói, nhấn mạnh. "Bác đã trông thấy và thích cô ấy --thực sự, thích lắm, -- nhưng cô ấy không phải là người dành cho cậu."
                      "Thật à?"
                      "Bác thường tự hỏi, trong mấy cái quán nhậu của cậu, đào đâu ra được cô ấy? Nhưng dĩ nhiên, tên ma cà bông bết nhất --"
                      "Cháu nghĩ là bác lạc đề rồi," tôi cắt ngang.
                      "Cô ấy," bà nói, chống nạnh, "là một cô gái cho một người đàn ông có địa vị vững vàng. Nói ngắn gọn, một người đàn ông giàu có."
                      Đập thẳng mục tiêu, trời, tôi nghĩ. Đúng chóc vào thứ mà tôi còn thiếu.
                      "Bác có thể áp dụng câu ấy cho bất kỳ người đàn bà nào," tôi bực tức nói.
                      Bà lắc những lọn tóc bạc. "Cậu chờ xem. Tương lai sẽ cho thấy."
                      "Ach, tương lai!" Tôi thẩy cặp kim cài tay áo lên bàn. "Thời buổi này ai cần tới tương lai? Tại sao ta phải quan tâm tới tương lai?"
                      Frau Zalewski ra vẻ đau đớn, ngúc ngoắc mái đầu đường bệ.
                      "Thật vô cùng kỳ lạ, cậu và tất cả những người trẻ tuổi. Ghét bỏ quá khứ, khinh miệt hiện tại, không màng đến tương lai. Thế thì làm sao có được một kết thúc tốt đẹp chứ?"
                      "Theo bác, thế nào là một kết thúc tốt đẹp?" tôi hỏi. "Một kết thúc chỉ tốt đẹp nếu những gì xảy ra trước đó tồi tệ. Vì thế một kết thúc xấu lại tốt hơn."
                      "Đấy là những trái khoáy, đồi bại kiểu Do Thái," Frau Zalewski trả lời một cách nghiêm trang, rồi xoay mình quả quyết đi ra. Tay bà đã đặt trên then cửa khi bà bỗng dừng lại, như bị đóng đinh tại chỗ.
                      "Lễ phục buổi tối? bà nấc lên kinh ngạc. "Cậu?"
                      Mắt mở to, bà nghiền ngẫm bộ dạ phục của Otto Koster, treo ở cửa tủ áo. Tôi mượn nó, dự tính sẽ đi xem hát với Pat tối ấy.
                      "Vâng, cháu chứ ai," tôi châm chọc nói. "Frau Zalewski, khả năng liên hợp của bác thật không ai sánh bằng."
                      Bà nhìn tôi. Một cơn bão ý tưởng thổi qua gương mặt mập ú của bà, và chấm dứt với một nụ cười giả tạo.
                      "À há!" bà nói. Và một lần nữa, "À há!" Và rồi ra khỏi phòng, ngoái qua vai nói vọng lại, với niềm thú vị, méo mó vì thú vui vô tận của đàn bà khi họ khám phá được chuyện gì! "Hóa ra là thế!"
                      "Vâng, hóa ra là thế, mụ phù thủy ó đâm," tôi gầm lên, khi biết chắc bà không thể nghe. Rồi tôi quẳng cái hộp với đôi giày da bóng mới tinh của tôi xuống sàn. Một người đàn ông giàu có --- làm như tôi không biết thế.
                      Tôi đến nhà Pat. Nàng ở trong phòng, đã mặc y phục chỉnh tề chờ tôi. Tôi gần như nín thở khi trông thấy nàng. Từ lúc quen nhau cho đến nay, đây là lần đầu nàng mặc áo dạ hội.
                      Áo may bằng gấm bạc, từ bờ vai thẳng thả xuống những nếp mềm mại, duyên dáng. Áo có vẻ chật thế nhưng lại đủ rộng để không cản trở những bước chân đáng yêu của Pat. Thân trước ôm cao đến cổ, nhưng thân sau khoét một góc sâu. Trong tấm áo, Pat giống một ngọn đuốc bạc dưới ánh hoàng hôn xanh thẫm, thay đổi thật nhanh và thật kỳ diệu, tôn quý và xa xôi. Sau lưng nàng, như bóng tối, dâng lên bóng ma của bà Zalewski với ngón tay chỉa ra.
                      "Cũng may lần đầu khi gặp nhau, em đã không mặc chiếc áo này" tôi nói, "bởi vì, anh sẽ không bao giờ dám để cho anh đứng gần em."
                      "Em không tin những gì anh vừa nói, Robby." Nàng mỉm cười. "Anh thích cái áo này chứ?"
                      "Không thể ngờ. Em biến thành một người đàn bà khác hẳn."
                      "Thế thì có gì lạ đâu. Y phục có dụng ý như vậy."
                      "Có lẽ. Nhưng nó làm anh lúng túng. Cần một người đàn ông khác, xứng hợp với em. Một người có thật nhiều tiền."
                      Nàng cười. "Phần lớn những người đàn ông giàu có thì ghê tởm lắm, Robby ạ."
                      "Nhưng tiền của họ, thì không?"
                      "Không," nàng nói, "tiền thì không."
                      "Anh đã nghĩ rằng có."
                      "Thế bây giờ anh không nghĩ vậy?"
                      "Chắc chắn," tôi nói. "Tiền có thể không mang lại hạnh phúc -- nhưng nó rất hữu dụng."
                      "Tiền giúp cho ta độc lập, anh yêu, và còn nhiều nhiều nữa. Nhưng em có thể thay áo khác, nếu anh muốn."
                      "Tuyệt đối không. Áo đẹp tuyệt trần. Từ nay trở đi, anh sẽ xếp những người may áo vào hạng cao hơn các triết gia. Họ đẹm cái đẹp vào cuộc đời, và như thế đáng giá một trăm lần hơn những sự suy tư sâu sắc nhất. Nhưng coi chừng, anh sẽ yêu em mất thôi."
                      Nàng cười. Tôi len lén nhìn lại mình. Koster to lớn hơn tôi, và tôi phải dùng các kim băng giữ cho quần được ngay ngắn. Phải tự khen, vì trông được lắm.
                      Chúng tôi đón tắc xi đến rạp hát. Trên đường, tôi im như thóc, mà không hiểu vì sao. Khi chúng tôi xuống xe và tôi trả tiền, tôi liếc nhìn, vì một niềm thôi thúc, người tài xế. Đôi mắt anh căng thẳng và viền đỏ, râu ria lởm chởm và trông rất mệt mỏi. Anh thản nhiên nhận tiền.
                      "Ngày vui không?" tôi nhẹ nhàng hỏi.
                      Anh nhìn lên, "Tàm tạm --" anh nói, không cởi mở lắm. Anh nghĩ, tôi là một người khách tò mò.
                      Trong một thoáng, tôi có cảm tưởng mình cần ngồi vào ghế tài xế, bên cạnh anh và lái đi -- rồi tôi quay lại. Pat đứng đấy, mảnh khảnh và yêu kiều, một chiếc áo khoác ngắn bạc với tay xòe phủ bên ngoài áo dạ hội, xinh đẹp và đợi chờ. "Nhanh lên nào, Bob, một phút nữa sẽ bắt đầu."
                      Người ta đứng đông nghẹt ở lối vào. Đấy là một Đêm Khai Mạc long trọng, hý viện sáng choang; xe hơi lũ lượt ghé vào; phụ nữ vận áo dạ hội bước xuống, nữ trang lấp lánh; đàn ông trong áo đuôi tôm, gương mặt phì nộn hồng hào, nói cười, vui nhộn, hợm hĩnh, ung dung -- và, gầm rú, len lách với nhau, những chiếc tắc xi với các bác tài mệt lả, cọc cạch lái đi.
                      "Nào, Robby," Pat gọi tôi, rạng ngời và phấn khởi. "Anh bỏ quên cái gỉ hay sao?"
                      Tôi đưa ánh mắt thù nghịch nhìn vào đám đông.
                      "Không," tôi nói, "anh không quên gì cả."
                      Rồi tôi đến quầy và đổi vé. Tôi lấy vé ngồi trong lô, dù phải trả cả gia tài. Thình lình, tôi không muốn Pat ngồi cạnh những người trơ tráo này, đối với họ, tất cả mọi thứ đều là lẽ đương nhiên. Tôi không muốn nàng thuộc về họ. Tôi muốn được một mình bên nàng.
                      Lâu lắm rồi tôi không xem hát. Và nếu Pat không thích, hôm nay tôi đã chẳng đến. Tôi hầu như đánh mất các thói quen của giai cấp trung lưu --kịch nghệ, hòa nhạc, sách vở. Chúng chẳng còn thích hợp trong thời đại này. Chính trị đã cung cấp đủ tuồng tích -- những vụ bắn nhau hàng đêm là kiểu hòa nhạc mới -- và quyển sách khổng lồ của đói nghèo gây ấn tượng hơn bất kỳ thư viện nào.
                      Khán giả đã ngồi chật rạp. Vừa khi chúng tôi tìm ra chỗ thì đèn tắt. Chỉ còn ánh sáng phản chiếu từ dàn đèn ở thềm sân khấu lững lờ trong rạp. Nhạc tấu lên rộn ràng, và tất cả mọi thứ dường như bay bổng và múa lượn.
                      Tôi đẩy ghế của mình sát vào góc lô, nơi đấy tôi không phải nhìn thấy sân khấu hay bộ mặt nhợt nhạt của khán giả. Tôi chỉ nghe âm nhạc và nhìn ngắm gương mặt của Pat thôi.
                      Âm nhạc làm không khí vui tươi, rộn ràng. Như một cơn gió nam, như một đêm ấm, như những cánh buồm lộng gió dưới ngàn sao, hoàn toàn và vô cùng siêu thực, âm nhạc của vở ca kịch Hoffmann's Tales. Nó khiến tất cả mọi thứ trở nên bao la và lộng lẫy sắc màu, dòng suối đen của cuộc đời dường như thổn thức trong đấy; không còn gánh nặng, không còn giới hạn; chỉ còn hiện hữu của vinh quang và giai điệu và tình yêu, khiến người ta không thể ý thức rằng, cùng một lúc với âm nhạc ấy, sự nghèo khó, đày đọa và tuyệt vọng đang ngự trị bên ngoài.
                      Gương mặt Pat đầy bí ẩn, lung linh dưới ánh đèn sân khấu. Nàng hoàn toàn chìm đắm trong thưởng ngoạn; và tôi yêu cách nàng đã không nghiêng mình gần tôi hay nắm lấy tay tôi, vâng, nàng không một lần nhìn tôi, có vẻ không nghĩ gì đến tôi và quên bẵng tôi. Tôi ghét khi người ta pha trộn mọi thứ vào nhau, tôi ghét sự khát khao ngu dại của đôi lứa khi vẻ đẹp và sức mạnh của một tác phẩm nghệ thuật vỡ òa trước mắt; tôi ghét dáng vẻ ngây dại của những cặp tình nhân, những cử chỉ âu yếm sung sướng ngu muội, thứ hạnh phúc ngây ngô thô tục không bao giờ vượt lên khỏi chính nó; tôi ghét tất cả những lý luận về việc trở thành một trong tình yêu; dường như với tôi, chúng ta không thể là hai người cũng như không thể tách rời khỏi người kia đủ nhiều đến mức gặp lại. Chỉ những ai thường xuyên cô độc mới biết niềm vui khi gặp lại nhau. Mọi thứ khác sẽ phá vỡ ma lực của sức căng. Và còn điều gì có thể thâm nhập vòng huyền nhiệm của cô đơn cho bằng trào dâng của cảm xúc, buông thả trước một biến cố sửng sờ, tính chất vĩ đại của các thành phần, giông bão, âm nhạc về đêm? Và tình yêu ...
                      Đèn sáng lóa. Tôi nhắm nghiền mắt trong giây lát. Tôi đã nghĩ gì? Pat quay lại. Tôi trông thấy người ta chen chúc nhau ra cửa. Đây là lần giải lao chính.
                      "Em muốn ra ngoài không?" tôi hỏi.
                      Pat lắc đầu.
                      "Tạ ơn Chúa. Anh ghét cái trò mọi người há hốc mồm nhìn nhau ở ngoài ấy."
                      Tôi đi tìm một ly nước cam cho nàng. Mấy vòng người bao vây bàn ăn. Âm nhạc làm một số người đói lả. Những khoanh xúc xích nóng biến mất, nhanh như một trận dịch phát ban đói khát vừa bùng nổ.
                      Đây là một địa điểm tốt cho U, tôi nghĩ, chen vào giữa đám đông đến quầy và nhanh tay chộp ly nước cam cuối cùng trước một gã có bộ râu quặp. Gã càu nhàu, giận dữ.
                      "Anh đã lấy hai ly rồi còn gì," tôi hòa nhã nói.
                      "Nhưng tôi có cơn khát của ba người," gã đáp.
                      Không có câu trả lời nhưng cũng không nhường nhịn. Cướp giật một thứ gì của người khác là một trong những thói cũ xưa nhất của nhân loại -- và luôn luôn đem đến niềm vui như nhau. Con người làm gì có từ tâm, và sẽ không bao giờ có.
                      Khi tôi cầm ly nước cam về chỗ, một người đang đứng phía sau ghế của Pat. Nàng ngoái đầu lại và nồng nhiệt trò chuyện với hắn. "Đây là Herr Breuer, Robert," nàng nói.
                      Herr Con Bò, tôi nghĩ thế, và nhìn hắn, trong lòng khó chịu. Nàng nói Robert, không nói Robby. Tôi đặt ly nước lên tường lan can và chờ hắn bỏ đi. Hắn vận một bộ dạ phục vô cùng sang đẹp. Nhưng hắn vẫn đứng đấy, nói mãi về việc sản xuất và về khán giả. Pat quay lại tôi. "Lúc nãy, Herr Breuer hỏi chúng ta, sau khi vản hát, có muốn đi "The Cascade" không?"
                      "Nếu em muốn," tôi nói.
                      Herr Brauer giải thích, không chừng ta có thể khiêu vũ ở đấy. Hắn rất lễ độ và tôi thích hắn, thật vậy. Chỉ có điều, hắn có một vẻ tao nhã và hoạt bát đáng ghét mà tôi tin rằng không thể nào không ảnh hưởng đến Pat, và bản thân tôi hãy còn thiếu sót. Thình lình -- tôi không thể tin được tai mình -- tôi nghe hắn nói với Pat, "em thương." Mặc dù có một trăm lý do tốt để hắn nói thế, nhưng tôi chỉ muốn đẩy hắn té nhào xuống ban nhạc ngay tức thì.
                      Chuông reo. Nhạc sĩ chỉnh lại dây đàn. Vĩ cầm dìu dặt vài khúc sáo ngắn.
                      "Đồng ý rồi, vậy ta gặp nhau ở lối ra," Breuer nói và cuối cùng, đi khỏi.
                      "Tên bụi đời ấy là ai vậy?" tôi hỏi.
                      "Anh ấy không phải là dân bụi đời, anh ấy là một người rất tử tế. Một người bạn cũ"
                      "Anh không thích những người bạn cũ chút nào," tôi nói.
                      "Anh yêu," Pat nói, "nghe này --"
                      Tôi nghĩ đến Cascade, cố phỏng đoán số tiền mình có, cái tiệm đắt tiền đáng ghét.
                      Tôi thuận theo với nỗi hiếu kỳ buồn thảm. Chàng Breuer này khiến tôi nhớ lại những lời nói gở của Frau Zalewksi. Anh đã chờ trước cửa.
                      Tôi ngoắc một chiếc tắc xi.
                      "Không cần đâu," Breuer nói. "Xe tôi có đủ chỗ."
                      "Tốt," tôi nói. Sẽ kỳ cục lắm nếu không đi chung xe với anh ta. Nhưng cùng một lúc, tôi cảm thấy bực bội.
                      Pat nhận ra xe của Breuer. Đấy là một chiếc Packard, đậu ở bãi đối diện. Nàng tiến về phía nó.
                      "Nhưng xe sơn màu khác rồi," nàng nói, ngừng lại trước đầu xe.
                      "Vâng, màu xám," Breuer trả lời. "Em không thấy đẹp hơn sao?"
                      "Hơn nhiều chứ."
                      Breuer quay lại tôi. "Còn anh? Anh có thích màu này không?"
                      "Tôi không biết xe trước đây trông như thế nào," tôi nói.
                      "Đen."
                      "Màu đen cũng hay lắm."
                      "Đúng. Nhưng người ta cần phải thay đổi. Mùa thu này tôi sẽ lại sơn một màu khác."
                      Chúng tôi lái đến "The Cascade", một khiêu vũ trường sang trọng với một ban nhạc xuất sắc.
                      "Dường như không còn chỗ nữa," tôi sung sướng nói, khi chúng tôi đến nơi.
                      "Tiếc nhỉ," Pat nói.
                      "Ach, ta sẽ tìm cách," Breuer tuyên bố và trao đổi vài câu với người quản lý. Có lẽ anh là khách rất quen, vì họ khuân ra một cái bàn với vài chiếc ghế; và chỉ mấy phút sau, chúng tôi đã ngồi ở vị trí tốt nhất trong phòng, nơi ấy chúng tôi có thể nhìn thấy toàn thể sàn nhẩy.
                      Ban nhạc đang chơi một bài tango. Pat tựa vào lan can. "Ach, nhưng lâu lắm rồi em không khiêu vũ."
                      "Breuer đứng dậy. "Mời em,"
                      Nàng rạng rỡ nhìn tôi. "Anh sẽ gọi thức uống, trong khi chờ đợi," tôi nói.
                      Bài tango khá dài. Thỉnh thoảng từ xa, Pat lại nhìn tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu đáp lại, nhưng không cảm thấy có gì đặc biệt. Nàng trông kiều diễm và khiêu vũ tuyệt vời. Chẳng may, Breuer cũng khiêu vũ khéo không kém và họ cùng nhau tạo thành một đôi nổi bật. Họ nhảy rất ăn ý như đã thường xuyên kết đôi với nhau từ lâu. Tôi gọi cho mình một ly rum cỡ lớn.
                      Hai người trở về bàn. Breuer đi qua chỗ khác chào hỏi người quen, và trong một lúc, chỉ còn lại Pat và tôi.
                      "Em quen với anh ấy bao lâu rồi?" tôi hỏi.
                      "Lâu lắm. Sao anh hỏi?"
                      "Ach, anh chỉ thắc mắc thôi. Em thường đến đây với anh ấy lắm nhỉ?"
                      Nàng nhìn tôi. "Em không nhớ gì nữa, Robby. "
                      "Người ta phải nhớ những chuyện ấy chứ," tôi ngoan cố nói, mặc dù tôi hiểu ý của nàng.
                      Nàng lắc đầu và mỉm cười. Tôi yêu nàng lắm trong giây phút ấy. Nàng muốn bày tỏ cho tôi biết, nàng đã quên tất cả những chuyện cũ. Nhưng có một điều gì đấy xuyên xoáy hồn tôi, một điều lố bịch, chính tôi còn biết thế, tuy nhiên tôi không thể nào trút bỏ. Tôi đặt cốc rượu xuống bàn. "Em có thể nói cho anh nghe. Không có gì quan trọng đâu."
                      Nàng nhìn tôi một lần nữa. "Bằng như ngược lại, anh nghĩ chúng ta có thể đến đây hay sao?"
                      "Không," tôi nói, hổ thẹn.
                      Ban nhạc lại bắt đầu chơi. Breuer đi đến. "Một bản Blues," anh nói với tôi. "Tuyệt vời. Anh không thích nhảy bản này sao?"
                      "Không," tôi trả lời.
                      "Phí thật"
                      "Anh cần thử một lần, Robby," Pat nói.
                      "Anh sẽ không thử."
                      "Nhưng tại sao lại không?" Breuer hỏi.
                      "Tôi không quan tâm tới chuyện nhảy nhót," tôi trả lời một cách kém thân thiện. "Tôi không bao giờ học. Không bao giờ có thì giờ. Nhưng các bạn cứ khiêu vũ, tôi ở đây tự vui lấy được rồi."
                      Pat do dự.
                      "Nhưng Pat --" tôi nói. "Em thích khiêu vũ mà."
                      "Đúng thế -- nhưng anh có vui hay không?"
                      Họ ra sàn nhảy. Tôi ra dấu cho người bồi bàn và uống cạn ly mình. Rồi tôi uể oải chống tay lên bàn và đếm từng hạt hạnh nhân tẩm muối. Ngồi cạnh tôi, là cái bóng mờ của Frau Zalewski.
                      Breuer dẫn vài người đến. Hai người đàn bà đẹp và một chàng trẻ tuổi hơn, đầu hói nhẵn thín. Sau đấy, có thêm một người thứ tư. Tất cả đều sinh động, hoạt bát và tự tin. Pat quen với cả bọn bốn người.
                      Tôi thấy mình nặng nề, cục mịch như hòn đất. Từ trước đến nay, lúc nào cũng chỉ có một mình tôi với Pat. Đây là lần thứ nhất tôi gặp người quen của nàng. Tôi không biết bắt đầu với họ như thế nào. Họ cử động dễ dàng và thoải mái. Họ đến từ một cuộc đời khác, nơi ấy mọi việc đều diễn tiến trơn tru, nơi ấy người ta không phải nhìn thấy những điều không muốn nhìn thấy; họ đến từ một thế giới khác. Nếu chỉ có một mình tôi nơi đấy, với Lenz hay Koster, tôi đã không khổ sở. Nhưng Pat ở đấy, Pat biết họ, và điều ấy làm cho mọi thứ dường như sai trái, khiến tôi què quặt và bắt buộc tôi phải so sánh.
                      Breuer đề nghị đi nơi khác.
                      "Robby," Pat hỏi khi chúng tôi đi ra, "anh có muốn về nhà không?"
                      "Không," tôi nói. "Tại sao?"
                      "Buồn chán với anh."
                      "Không đâu. Tại sao lại buồn chán cơ chứ? Ngược lại, là đàng khác. Và em đang vui."
                      Nàng nhìn tôi nhưng không nói gì.
                      Tôi bắt đầu uống. Không lai rai như trước, mà nốc liên tục. Chàng hói bắt đầu để ý. Anh ta hỏi tôi uống gì. "Rum," tôi nói. "Grog?" anh ta hỏi. "Không, rum," tôi nói. Anh ta nhấp thử và mắc nghẹn. "Trời thần ơi," anh ta cung kính nói, "phải nhậu nhiều lắm mới quen được." Giờ thì hai người đàn bà cũng chú ý. Pat và Breuer đang khiêu vũ. Pat thường xuyên nhìn tôi. Tôi không nhìn nữa. Tôi biết như thế là bất công, nhưng nó đến một cách đột ngột. Và tôi cũng bực bội vì người khác nhận xét chuyện nhậu nhẹt của tôi. Không như một sinh viên, tôi không cần ai thán phục. Tôi đứng dậy, đi đến quầy rượu. Dường như Pat hoàn toàn xa lạ với tôi. Nàng cứ việc đi vào địa ngục, cùng với đám bạn của nàng. Nàng thuộc về họ. Không, nàng không thuộc về họ. Vâng nàng thuộc về họ.
                      Chàng hói bám theo tôi. Chúng tôi uống vodka với anh bồi rượu. Bồi rượu luôn luôn là nguồn an ủi. Ta có thể nhậu với họ bất cứ nơi nào, và không cần trò chuyện. Anh bồi này cũng được lắm. Chỉ có anh hói là yếu xìu. Anh ta muốn san sẻ tâm sự. Một cô Fifi nào đấy làm nặng trĩu hồn anh. Nhưng chuyện ấy kể mãi rồi cũng cạn. Anh ta nói với tôi, Breuer yêu Pat đã nhiều năm nay. "Thế à?" tôi hỏi. Anh ta cười khẩy. Tôi làm anh ta im mồm bằng một ly Prairie Oyster. Nhưng tôi không thể quên những gì anh ta nói. Tôi bực tức vì mình đã bị ảnh hưởng. Tôi bực tức vì tôi đã quan tâm. Và tôi bực tức vì tôi đã không thụi một quả đấm xuống bàn. Nhưng mơ hồ ở một chốn nào đấy, tôi cảm thấy một ước muốn lạnh lùng, được hủy diệt, không phải hủy diệt người khác, mà chính tôi.
                      Chẳng bao lâu chàng hói đã im lặng và biến mất. Tôi vẫn ngồi đấy. Thình lình, tôi cảm thấy một bầu vú săn chắc áp vào cánh tay mình. Đó là một trong hai người đàn bà mà Breuer giới thiệu. Cô ta ngồi cạnh tôi. Đôi mắt hạnh nhân, xanh lục pha xám, từ tốn mơn trớn tôi. Một cái nhìn không cần thêm lời -- chỉ cần hành động.
                      "Tửu lượng cao như thế, thật tuyệt," một lát sau, cô ta nói. Tôi không nói gì. Cô ta thò tay sang ly rượu của tôi. Bàn tay như một con thằn lằn, lấp lánh nữ trang, khô và gân guốc. Nó di chuyển rất chậm, như đang bò. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi sẽ thanh toán cô gọn lẹ, tôi nghĩ. Cô đánh giá tôi thấp vì cô thấy tôi buồn. Nhưng cô đã nhầm. Tôi không còn yêu phụ nữ nữa -- mà chỉ còn vương vấn tình yêu. Không thể dứt khoát với ái tình, mới là điều làm cho tôi đau đớn.
                      Người đàn bà ấy bắt đầu nói. Giọng cô ta dòn rụm, như thủy tinh. Tôi thấy Pat nhìn. Tôi không để tâm. Nhưng tôi cũng không để tâm đến người đàn bà ngồi cạnh. Tôi có cảm tưởng mình đang rơi tòm xuống một cái hố trơn không đáy. Không liên can gì đến Breuer và bọn người ấy. Ngay cả Pat, cũng vậy. Chính là cái bí mật thê lương, rằng thực tại có thể khơi dậy ước muốn nhưng không bao giờ cho thỏa nguyện; rằng tình yêu bắt đầu với một người nhưng không bao giờ kết thúc ở đấy; và rằng mọi thứ đều có thể có mặt: một con người, tình yêu, hạnh phúc, cuộc đời -- và tuy thế trong một cách thức kinh khủng nào đấy, luôn luôn quá ít, và càng phát triển ít hơn, chúng càng trông như nhiều hơn.
                      Tôi len lén nhìn Pat. Trong chiếc áo dạ hội bạc, trẻ trung và đáng yêu, nàng lướt ngoài kia, như một đóm lửa sáng của cuộc đời; tôi yêu nàng, và nếu tôi gọi "Đến với anh," nàng sẽ đến; không có gì ngăn cách chúng tôi; chúng tôi có thể gần nhau như chỉ có con người mới có thể-- và tuy thế thỉnh thoảng mọi thứ trong một cách thức rối rắm nào đó sẽ giăng mây u ám và sẽ đầy thống khổ. Tôi không thể giải thoát nàng khỏi cái vòng lẩn quẩn của sự vật, không thể kéo nàng ra khỏi tiếp xúc với hiện hữu, nó ngự trị bên trên chúng tôi và bên trong chúng tôi và cưỡng chế chúng tôi theo những lề luật của nó, hơi thở và trôi chuyển, sự hấp dẫn đáng ngờ của thời hiện tại lập tức rớt lùi vào hư vô, ảo ảnh lung linh của đam mê trong đó sở hữu có nghĩa là lạc mất lần nữa. Không bao giờ kiểm tra, không bao giờ. Không bao giờ nới lỏng dây xích loảng xoảng của thời gian; không bao giờ có êm ái từ trong bấn loạn, -- tỉnh lặng từ trong tìm kiếm; dừng lại từ trong rơi ngã. Không cả một cơ may để tôi có thể giải thoát nàng khỏi những thứ đã có từ trước khi tôi quen nàng, từ hàng ngàn ý nghĩ, kỷ niệm, từ tất cả những thứ đã hình thành ra nàng trước khi tôi có mặt, ngay cả những người có mặt ở đây tôi cũng không thể giải thoát nàng khỏi họ...
                      Bên cạnh tôi, người đàn bà vẫn nói với giọng dòn vỡ của mình. Cô ta tìm kiếm một người đồng hành cho đêm nay, một người có cuộc sống hơi khác lạ để kích thích khẩu vị, để quên đi chính bản thân cô ta và sự kiện quá đau đớn, quá hiển nhiên rằng sẽ không có gì tồn tại, không Tôi và không Bạn và ít nhất là không cả Chúng Ta. Phải chăng cô ta ở đáy hố, tìm kiếm cùng một thứ như tôi? Một bạn đồng hành, để quên đi nỗi cô đơn của cuộc đời, một chiến hữu, để chịu đựng tính cách vô nghĩa của sự sống?
                      "Nào," tôi nói, "chúng ta quay lại đi. Thật vô vọng -- những gì cô muốn -- và những gì tôi muốn."
                      Cô ta nhìn tôi một thoáng. Rồi ngửa mặt và cười hăng hắc.
                      Chúng tôi đi thêm vài chỗ khác. Breuer hào hứng, liếng thoắng và đầy ắp hy vọng, Pat trở nên trầm lặng. Nàng không hỏi gì tôi, nàng không trách móc, nàng không cố gắng giải thích một điều gì, nàng chỉ có mặt ở đấy; đôi khi nàng khiêu vũ và như một con tàu duyên dáng, đáng yêu, lặng lờ trôi giữa một bầy con rối và nhân vật biếm họa, thỉnh thoảng lại mỉm cười với tôi.
                      Kiến trúc điên rồ của hộp đêm quét cánh tay xám-vàng của nó trên vách và trên mặt mọi người. Âm nhạc như được trình tấu dưới chân đài thủy tinh chưng bày di thể. Chàng hói đang uống cà phê. Người đàn bà với đôi tay thằn lằn trân trối nhìn trước mặt. Breuer mua hoa hồng của một cô bé trông rất mỏi mệt, chia cho Pat và hai người đàn bà kia.
                      "Chúng ta nên khiêu vũ với nhau một lần chứ?" Pat nói với tôi.
                      "Không," tôi nói, và nghĩ đến những bàn tay đã ôm ấp nàng tối nay; "không" -- và cảm thấy mình khá ngu xuẩn và ti tiện.
                      "Vâng đi mà," nàng nói và mắt nàng tối sầm.
                      "Không," tôi đáp; "không, Pat."
                      Rồi cuối cùng chúng tôi ra về. "Tôi đưa các bạn về nhé," Breuer nói với tôi.
                      "Tốt lắm."
                      Trong xe có một tấm thảm, chúng tôi phủ nó lên chân Pat. Bỗng dưng, nàng trông rất xanh xao và mệt lả. Người đàn bà ở quầy rượu dúi một mẩu giấy vào tay tôi, khi tôi đi ra. Tôi làm như không có gì hết và bước lên xe. Khi xe chạy, tôi nhìn qua cửa sổ. Pat ngồi ở một góc và bất động. Tôi còn chẳng nghe hơi thở của nàng. Breuer lái về nhà nàng. Anh biết địa chỉ của nàng mà không cần hỏi ai. Nàng xuống xe. Breuer hôn tay nàng.
                      "Tạm biệt em," tôi nói, không nhìn nàng.
                      "Tôi có thể thả anh xuống chỗ nào?" Breuer hỏi tôi.
                      "Ngã tư tới," tôi nói.
                      "Tôi sẳn lòng đưa anh về tận nhà," anh trả lời, có phần hấp tấp và lịch thiệp quá mức.
                      Anh ta muốn đề phòng tôi trở lại nhà nàng. Tôi suy nghĩ không biết có nên thụi anh ta một đấm hay không. Nhưng anh ta không đáng để tôi chuốc lấy phiền não.
                      "Thôi được, vậy làm ơn đưa tôi đến 'The Bar Freddy'," tôi nói.
                      "Anh có thể vào cửa nơi ấy, giờ này, hay sao?' anh ta hỏi.
                      "Anh thật tử tế hỏi tôi câu ấy," tôi nói; "nhưng đừng lo -- tôi có thể đến bất kỳ nơi nào."
                      Vừa nói xong, tôi hối tiếc ngay. Chắc chắn anh ta đã cảm thấy quan trọng và thành công suốt đêm. Thật tội, nếu tôi phá hỏng điều ấy. Tôi từ giã anh ta, thân ái còn hơn với Pat.
                      "The Bar" vẫn đông khách. Lenz và Ferdinand Grau đánh xì phé với Bollwies và vài ba người nữa. "Ngồi xuống đây, Bob, " Grottfried nói; "Đang mùa xì phé."
                      "Không," tôi trả lời.
                      "Xem kìa," anh nói, chỉ vào chồng tiền trên bàn. "Không cần tháu cáy. Bài đẹp lắm, toàn là 'thùng'."
                      "Thôi được," tôi nói, "chia cho tớ một tay."
                      Với hai con già, tôi tố và thắng bốn con bồi. "Vậy," tôi nói --"dường như cũng được mùa thấu cáy."
                      "Lúc nào lại chả thế," Ferdinand trả lời, đẩy điếu xì gà sang tôi.
                      Tôi không định ở lâu. Nhưng rồi tôi thấy yên tâm dần. Tôi không vui chi mấy; nhưng ít nhất chỗ này cũng là quê hương thân thiết của tôi. "Làm ơn đem đến nửa chai rum," tôi gọi Fred.
                      "Thử pha thêm chút port xem sao," Lenz nói.
                      "Không," tôi trả lời. "Không phải lúc thử. Tớ muốn say."
                      "Thì uống rượu ngọt vậy. Cậu vừa cãi nhau với ai hả?"
                      "Nói bậy."
                      "Đừng chối, bé yêu. Bé làm sao gạt được bố Lenz của Bé, người thông thạo tất cả những ngõ ngách cúa trái tim. Thú nhận đi, rồi uống cho say."
                      "Một người đàn ông không thể cãi nhau với một người đàn bà. Cùng lắm chỉ chuốc lấy bực dọc mà thôi."
                      "Đã ba giờ sáng, khó phân biệt những việc tế nhị như thế. Tớ thì cãi tưới sượi với tất cả. Khi không cãi nhau nữa, chẳng mấy chốc sẽ chia tay."
                      "Đúng," tôi nói. "Ai đang dẫn đầu thế?"
                      "Cậu," Ferdinand Grau nói. "Bob thân mến, cậu đang mắc bệnh thất vọng vì đời không đẹp như lý tưởng. Đừng cố gắng chống chọi nữa. Cuộc đời tươi đẹp nhưng không hoàn hảo. Mà tớ phải nhìn nhận, dù chán đời, cậu thấu cáy tuyệt lắm. Đôi già, không thể tưởng được."
                      "Có lần tớ thấy người ta đi bẩy ngàn quan cho đôi già," từ quầy rượu, Fred nói vọng lại.
                      "Quan Thụy Sĩ hay quan Pháp?" Lenz hỏi.
                      "Thụy Sĩ."
                      "Cậu may mắn nhỉ," Gottried trả lời. "Nếu quan Pháp, hẳn cậu không dám gián đoạn cuộc chơi, phải không?"
                      Chúng tôi tiếp tục khoảng một giờ nữa. Tôi thắng được khá tiền. Bollwies thua đậm. Tôi uống rượu, nhưng chỉ tổ nhức đầu. Vẫn không có khăn nâu vẫy gọi. Mọi thứ bén nhậy hơn. Dạ dầy tôi nóng rực.
                      "Ngừng chơi, ăn một chút gì nào," Lenz nói. "Fred ơi, dọn cho cậu ấy bánh mì kẹp thịt và vài con cá mòi nhé. Cất tiền đi, Bob."
                      "Một ván nữa thôi,"
                      "Được. Ván cuối cùng. Kiểu Đôi?"
                      "Kiểu Đôi," những người kia nói.
                      Không mong đợi, nhưng tôi được ba lá rất tốt thêm vào con mười già sẳn có. Lá bồi, đầm và ách. Nhờ thế, tôi thắng sảnh tám của Bollwies, hắn tố cao ngất trời. Vừa chửi thề, hắn vừa chung tôi một đống tiền. "Cậu thấy chưa," Lenz nói. "Được mùa "thùng'."
                      Chúng tôi ngồi ở quầy. Bollwies hỏi thăm Karl. Anh ta vẫn chưa quên Koster đã vẻ vang qua mặt xe đua của anh. Anh vẫn muốn mua lại Karl.
                      "Hỏi Otto đấy," Lenz nói; "nhưng tớ nghĩ rằng cậu ấy thà bán một bàn tay cho cậu thì hơn."
                      "Ôi chao, ôi chao," Bollwies nói.
                      "Dĩ nhiên cậu làm sao hiểu được," Lenz trả lời, "cậu, tên lính đánh thuê ở thế kỷ hai mươi."
                      Ferdinand Grau cười lớn. Fred cũng cười. Cuối cùng, tất cả chúng tôi đều cười. Không cười nhạo thế kỷ hai mươi thì có khác nào tự bắn mình. Nhưng ta không thể cười mãi. Đến một lúc nào đó, lại chảy nước mắt.
                      "Cậu biết khiêu vũ không, Gottfried?" tôi hỏi.
                      "Dĩ nhiên. Tớ đã có lần dạy khiêu vũ. Cậu quên cách nhảy rồi sao?"
                      "Quên -- để cho chú chàng quên đi," Ferdinand Grau nói. "Quên lãng là bí quyết để trẻ trung bất tận. Người ta già đi qua kỷ niệm. Chẳng mấy khi quên đi chuyện cũ."
                      "Không phải thế," Lenz nói. "mà chính vì chuyện sai quấy bị lãng quên."
                      "Cậu dạy tớ nhé?" tôi hỏi.
                      "Khiêu vũ? Cần một đêm thôi, Bé ơi. Phiền muộn của cậu chỉ có bấy nhiêu ư?"
                      "Chẳng phiền muộn gì cả," tôi nói. "Nhức đầu."
                      "Đấy là căn bệnh của thời đại, Bob," Ferdinand nói. "Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ta sinh ra đời không đầu."
                      Tôi đến quán Café International. Alois đang hạ màn cửa.
                      "Còn ai trong đó không?" tôi hỏi.
                      "Còn Rosa."
                      "Vậy ba đứa mình làm một chầu nữa."
                      "Được thôi."
                      Rosa ngồi cạnh quầy, đan mấy cái vớ bé xiu cho con gái. Chị khoe kiểu đan với chúng tôi. Chị vừa hoàn tất một cái áo khoác. "Công việc của chị khá không?" tôi hỏi.
                      "Tệ lắm. Chẳng ai có tiền."
                      "Chị muốn mượn tiền không? Đây -- tiền ăn xì phé."
                      "Tiền ăn bài may mắn lắm," Rosa nói, nhổ một tí nước bọt lên đó, rồi cất đi.
                      Alois đem lại ba cốc rượu. Sau đó, khi có Fritzi, lại một cốc nữa.
                      "Đã đến giờ đóng cửa,"anh nói. "Tớ mệt chết đi được."
                      Anh tắt đèn. Chúng tôi ra về. Ở cửa, Rosa nói lời từ biệt. Fritzi bám vào cánh tay Alois. Chị tươi tắn và nhẹ nhàng bên anh. Anh kéo lệt bệt bàn chân phẳng trên vĩa hè. Tôi đứng trông theo. Tôi thấy cách Fritzi âu yếm cúi hôn anh bồi bàn có tấm thân xiêu vẹo, đầy dầu mở. Anh ta lạnh nhạt xô chị ra. Bỗng nhiên, khi tôi quay đi, nhìn con đường vắng và những căn nhà với cửa sổ tối và bầu trời khuya giá rét, một nỗi nhớ thương Pat, cuồng điên, bỗng dưng bằng cách nào đó, ào ạt xâm chiếm hồn tôi, khiến tôi nghĩ mình sắp sửa té khuỵu. Tôi không hiểu gì hết, bản thân tôi, hành vi của tôi, và buổi tối hôm nay, tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì.
                      Tôi dựa lên vách một ngôi nhà và trân trối nhìn khoảng không trước mặt. Tôi không biết vì sao tôi đã cư xử như thế. Một thứ gì đó đã bẻ gãy tôi, khiến tôi trở nên vô lý và bất công, đã quăng quật tôi tứ phía và hủy diệt tất cả những gì tôi dày công xây đắp. Tôi đứng đấy, bất lực, không biết phải làm gì. Tôi không muốn về nhà -- vì có khi ở nhà còn tệ hơn. Cuối cùng tôi nhớ ra, có thể Alfons' vẫn còn mở cửa. Tôi đến đấy và sẽ ở lại đến sáng.
                      Alfons không nói chi hết khi tôi bước vào. Anh đưa tôi một cái ly thấp và tiếp tục đọc báo. Tôi ngồi xuống và tơ mơ ngủ. Ngoài tôi, không còn ai nữa. Tôi nghĩ đến Pat. Luôn luôn là Pat. Tôi nghĩ về cách cư xử của tôi. Thình lình tôi nhớ lại từng chi tiết. Mọi thứ đều chống lại tôi. Chỉ một mình tôi có lỗi. Tôi đã điên. Tôi ngây dại nhìn xuống bàn. Máu cuồn cuộn sôi trong đầu. Tôi cay đắng và nổi giận với chính mình và sự xuẩn ngốc của mình. Chỉ có tôi, một mình tôi, là người đã phá hỏng tất cả.
                      Tiếng thủy tinh bất ngờ vỡ vụn. Với tất cả sức lực, tôi đấm ly rượu của tôi bể thành nhiều mảnh. "Một hình thức giải trí," Alfons nói, đứng lên.
                      Anh gỡ những dầm thủy tinh khỏi tay tôi. "Xin lỗi cậu," tôi nói, "tớ quên phứt mình đang ở đâu."
                      Anh đi lấy bông, băng. "Đi chơi đĩ," anh nói, "sẽ đỡ buồn hơn."
                      "Không sao," tôi nói. "Chuyện đã qua. Chỉ là cơn giận dữ trong chốc lát."
                      "Cậu phải giải trí để xoa dịu cơn giận, đừng nên khuấy động nó," Alfons nói.
                      "Đúng," tôi nói, "nhưng cũng phải biết cách."
                      Anh đặt đĩa hát có bài Miserere của nhạc kịch ll Trovatore vào máy. Trời rạng sáng rất nhanh.
                      Tôi về nhà. Alfons đã rót cho tôi một ly Fernet-Branca to tướng. Những nhát rìu êm dịu bổ vào mi mắt tôi. Mặt đường không còn bằng phẳng. Đôi vai nặng như chì. Đã quá đủ, tôi đã xong.
                      Tôi lò dò bước lên thềm và khuắn tay vào túi tìm chìa khóa. Trong bóng tối lù mù, tôi nghe tiếng thở -- một cái bóng nhợt nhạt, không rõ nét, ngồi thu lu trên những nấc trên cùng. Tôi nhảy ba bước liền .
                      "Pat --" tôi ngỡ ngàng không hiểu, "Pat -- sao em lại ở đây?"
                      Nàng khẻ cục cựa. "Em nghĩ mình đã thiếp ngủ."
                      "Vâng, nhưng làm sao mà em đến đây?"
                      "Em có chìa khóa nhà anh --"
                      "Anh không hỏi về chuyện ấy, anh muốn nói ---" Cơn say biến mất, tôi nhìn thấy lớp thảm xác xơ của bậc thang, giấy hoa dán tường tróc lở và chiếc áo óng ánh bạc cùng đôi giày mủi thon, da bóng. "Anh muốn hỏi, làm sao em ngồi đây suốt --"
                      "Em cũng tự hỏi điều ấy đã lâu."
                      Nàng đứng lên và vươn vai, tự nhiên như thể ngồi ở bậc thềm trước cửa khi trời chưa sáng là một việc bình thường nhất trên đời. Rồi nàng hít ngửi. "Lenz sẽ nói -- cognac, rum, cherry, absinth --"
                      "Có Fernet -- Branca nữa cơ," tôi nhìn nhận, ít ra, từ đầu cũng phải thẳng thắn. "Dù mù mắt, anh cũng thấy em là một cô gái tuyệt vời, và anh là một thằng đại ngốc, Pat ạ."
                      Tôi nhanh nhẹn bế nàng lên, mở cửa và đi qua hành lang. Nàng nằm trong tay tôi, môt con diệc bạc, một con chim rã rời; tôi quay mặt để nàng không ngửi phải hơi thở nồng nặc mùi rượu của tôi, và tôi cảm thấy nàng run rẩy dù đang mỉm cười.
                      Tôi đặt nàng xuống ghế bành, bật đèn và đem một tấm chăn nhỏ đến. "Nếu như anh biết, Pat -- thay vì la cà ở những nơi ấy, anh đã -- Ach, anh đần quá. Ở quán Alfons', anh có gọi điện thoại cho em và huýt sáo bên ngoài, dưới cửa sổ nhà em. Anh tưởng em không muốn, vì em không trả lời --"
                      "Tại sao anh không trở lại, sau khi đưa em về?"
                      "Vâng, lẽ ra anh phải hiểu --"
                      "Lần tới có lẽ khá hơn, nếu anh đưa cho em chìa khóa phòng anh," nàng nói; "như thế, em sẽ không phải ngồi đợi bên ngoài." Nàng mỉm cười, nhưng đôi môi run run, và thình lình tôi chợt nhận ra ý nghĩa của những việc này với nàng, sự trở lại, sự chờ đợi, và giọng nói vui tươi, can đảm.
                      "Pat," vô cùng bối rối, tôi vội vàng nói. "Em đang lạnh cóng. Em cần uống một thứ gì cho ấm người; hồi nãy ở ngoài kia, anh thấy đèn phòng Orlow còn sáng; để anh qua đó, người Nga lúc nào cũng có sẳn trà, anh sẽ trở về ngay lập tức," -- tôi thấy mình cuồng nhiệt lên --" suốt đời, anh sẽ không bao giờ quên, Pat." Từ cửa, tôi nói vọng lại và bước vội trên hành lang.
                      Orlow vẫn còn thức. Anh ngồi trước tượng thờ ở góc phòng, một ngọn đèn thắp sáng phía trước; mắt anh đỏ quạch, và trên bàn, một cái ấm Nga đang bốc hơi nước.
                      "Xin lỗi," tôi nói, "tôi có chuyện cần kíp bất ngờ -- anh có thể cho tôi xin một chút trà nóng không ạ?"
                      Người Nga đã quen với những chuyện bất ngờ. Ông đưa tôi hai ly trà nóng, một ít đường, và sắp mấy cái bánh nhỏ vào dĩa cho tôi.
                      "Tôi rất vui được giúp anh," ông nói. "Tôi thường lâm vào hoàn cảnh tương tự... Anh có muốn thêm -- một ít hạt cà phê-- để nhai không?"
                      "Cám ơn anh," tôi nói, "thật thế ư, tôi xin cám ơn. Tôi thích lắm ạ."
                      "Nếu anh cần chi nữa," vô cùng duyên dáng, ông nói, "tôi còn thức thêm một lúc; tôi sẽ hân hạnh giúp --"
                      Khi quay về, trên hành lang tôi cắn vụn vài hạt cà phê. Chúng đánh bạt ngay mùi rượu mạnh. Pat ngồi bên đèn, đang tô phấn. Tôi ngừng lại ở khung cửa trong giây lát. Tôi cảm động trước hình ảnh nàng ngồi đấy, chăm chú nhìn vào chiếc gương nhỏ và chậm bông phấn lên má.
                      "Em uống chút trà đi," tôi nói. "Trà khá nóng."
                      Nàng cầm ly trà, tôi nhìn nàng uống.
                      "Chỉ có quỷ sứ mới biết chuyện gì đã xảy ra tối nay, Pat ạ."
                      "Ôi, nhưng em biết đấy," nàng trả lời.
                      "Vậy sao? Anh không biết."
                      "Và anh không cần biết, Robby. Nhưng nếu anh hỏi, em sẽ trả lời, là anh đã biết quá nhiều để thực sự thấy hạnh phúc."
                      "Có lẽ," tôi nói. " Nhưng chẳng ích gì, vì càng quen biết em, anh càng trở thành trẻ nít."
                      "Ô, vâng, có ích chứ. Còn hơn là anh càng lúc lại càng dễ cáu giận."
                      "Đấy là một cách đánh giá vấn đề," tôi nói. "Em có cách thức tốt, giúp người khác vượt qua khó khăn. Nhưng dường như tất cả mọi thứ xảy ra dồn dập quá, bất ngờ quá."
                      Nàng đặt ly xuống bàn. Tôi tựa lên giường. Tôi có cảm giác như cuối cùng, mình đã về đến nhà, sau một cuộc hành trình gian khổ.
                      Lũ chim bắt đầu ríu rít. Có tiếng cửa đóng sầm lại. Đấy là Frau Bender, y tá làm ở viện mồ côi. Tôi nhìn đồng hồ tay. Nửa giờ nữa, Frida sẽ có mặt trong bếp; lúc ấy chúng tôi không thể trốn ra khỏi nhà mà không bị bắt gặp. Pat vẫn ngủ say. Hơi thở sâu và đều. Thật bậy nếu phải đánh thức nàng. Nhưng không thể nào làm khác hơn.
                      "Pat --"
                      Nàng lẩm bẩm một điều gì trong mơ. "Pat -- " tôi rủa thầm tất cả các phòng trọ. "Pat, đến giờ rồi. Em phải mặc y phục vào."
                      Nàng mở mắt và mỉm cười, vẫn ấm áp trong giấc ngủ, như một đứa trẻ. Tôi không bao giờ ngừng ngạc nhiên trước sự thức dậy vui vẻ này, và tôi rất thích nàng như thế. Tôi chẳng bao giờ vui tươi khi thức giấc.
                      "Pat -- Frau Zalewski đang đánh răng."
                      "Hôm nay, em ở lại với anh --"
                      "Tại đây?"
                      "Vâng."
                      "Ý kiến tuyệt diệu-- nhưng những thứ của em -- giày và áo của em, là thứ dành cho ban đêm."
                      "Vậy em sẽ ở lại cho đến tối."
                      "Còn nhà em thì sao?"
                      "Chúng ta sẽ gọi điện thoại, báo cho họ biết em đang qua đêm ở một chỗ nào đấy."
                      "Chúng ta sẽ gọi ngay. Em đói chưa?'
                      "Chưa."
                      "Dù sao chăng nữa, anh cũng sẽ chạy ù ra lấy mấy miếng bánh mì. Họ treo trên cửa hành lang. Chắc vừa đúng lúc."
                      Khi tôi trở lại, Pat đứng bên cửa sổ. Nàng chỉ mang mỗi đôi giày bạc. Nắng mai êm đềm phủ lên vai nàng như một chiếc khăn san.
                      "Chúng ta quên chuyện hôm qua, Pat nhé?" tôi nói.
                      Nàng gật đầu mà không quay lại.
                      "Chúng ta chỉ cần không đi chơi với ai nữa. Tình yêu chân thật không có chỗ cho người khác. Như thế chúng ta sẽ không cãi nhau và không lên cơn ghen nữa. Mặc cho gã Breuer và những người ấy đi về địa ngục, phải không em?"
                      "Vâng," nàng nói, "và Markowitz nữa."
                      "Markowitz? Ai thế?"
                      "Người ngồi cạnh anh ở quầy rượu quán 'The Cascade'."
                      "À há," tôi nói, bỗng nhiên vui sướng. "À há, người ấy."
                      Tôi lộn trái túi áo quần. "Em nhìn đây. Dù sao chuyện ấy cũng hữu ích. Anh đánh xì phé, thắng một số tiền lớn. Tối nay chúng ta đi chơi nữa nhé. Nhưng, không đi với ai cả. Chúng ta quên họ đi, em nhé?"
                      Nàng gật đầu.
                      Mặt trời nhô lên trên mái Nhà Thương Mại. Các cửa kính bắt đầu lấp lánh. Tóc Pat đầy ánh sáng và đôi vai nàng óng như vàng.
                      "Em nói mà anh quên mất, gã Breuer ấy, hắn làm nghề ngỗng gì thế? Anh muốn nói, nghề chuyên môn?"
                      "Kiến trúc sư."
                      "Kiến trúc sư," tôi nói, đau như hoạn -- tôi muốn nghe nàng nói hắn chẳng là gì cả --"Ôi, dù sao đi nữa, kiến trúc sư; là cái quỷ gì, hở Pat?"
                      "Vâng, anh yêu."
                      "Không có gì đặc biệt cả, phải không?"
                      "Không có gì đặc biệt," Pat quả quyết nói, quay lại và cười to. "Chẳng là gì cả, tuyệt đối như thế. Chỉ là bùn đất mà thôi. "
                      "Và cái chòi này, không đến nỗi nào chứ, hở Pat? Dĩ nhiên, người khác có nhà cửa đẹp hơn --"
                      "Căn phòng này, tuyệt vời," nàng chặn lời tôi; "đây là một căn phòng hoàn toàn đáng yêu, em thật tình không biết có căn phòng nào khác như thế, anh yêu."
                      "Và anh, Pat, anh có những thiếu sót, dĩ nhiên, và anh chỉ là một tài xế tắc xi, nhưng --"
                      "Anh là một người yêu toàn hảo, -- một người giật bánh mì, một tay bợm nhậu, -- một anh yêu."
                      Nàng vòng tay ôm cổ tôi. "Ach, chàng ngốc! Thật sung sướng khi ta được sống!"
                      "Chỉ khi sống bên em. Thật thế."
                      Bình minh dâng lên, tuyệt vời và tươi sáng. Một làn sương giăng mỏng trên những mộ bia bên dưới và trôi giạt bềnh bồng. Những chóp cây đã đầy ánh sáng. Khói cuộn lên từ ống khói trên mái nhà. Những người phát báo sớm nhất đã bắt đầu rao ơi ới trên đường. Chúng tôi nằm xuống, một giấc ngủ muộn, nửa tỉnh nửa mê, trên biên giới của giấc ngủ, chúng tôi mơ thấy mình tay trong tay -- ngây ngất, hơi thở trong hơi thở. Rồi khoảng chín giờ sáng, ông "Geheimrat Burkkhard" đích thân gọi điện cho Trung Tá Egbert von Hake; và rồi tôi gọi Lenz, nhờ anh lái tắc xi giúp tôi sáng nay.
                      Anh cắt lời tôi. "Để mặc tớ lo, con ạ; chẳng phải khi không mà Gottfried này là chuyên gia thẩm định những biến đổi của trái tim nhân thế. Tớ đã tính sẳn rồi. Chúc thằng bé may mắn có nhiều niềm vui."
                      "Thôi đi ông," tôi sung sướng gạt ngang và giải thích, đứng trong bếp, rằng tôi không được khỏe và muốn nằm nghĩ đến trưa. Tôi phải từ chối ba đợt tấn công của Frau Zalewski, mời tôi trà cúc, aspirin và các bịch nước đá chuồm. Rồi tôi len lén đưa được Pat vào buồng tắm, và rồi chúng tôi được bình an.

                      Erich Maria Remarque

                      Chiến hữu

                      Chương 14

                      Tuần sau, ông chủ tiệm bánh đột ngột xuất hiện trong sân xưởng sửa xe của chúng tôi.
                      "Cậu ra tiếp lão ấy," Lenz nói, ném một cái nhìn độc địa qua cửa sổ, "chắc Casanova - Bánh Ngọt muốn cò kè lấy rẻ một món gì đây."
                      Ông chủ tiệm bánh trông thật nảo nề. "Xe có bị trục trặc gì không?" tôi hỏi.
                      Ông lắc đầu. "Không, không. Chạy ngon lành. Hệt như xe mới."
                      "Tôi lại chẳng biết thế sao," tôi xác định, và chăm chú nhìn ông, tò mò hơn.
                      "Cậu biết không -- " ông nói. "Chuyện là như thế này -- tôi muốn một chiếc xe khác -- to hơn --"
                      Ông đảo mắt nhìn quanh sân. "Ủa, lần trước, tôi thấy một chiếc Cadillac ở đây mà?"
                      Tôi lâp tức hiểu ra vấn đề. Cô tóc đen đã vòi vĩnh, mè nheo ông ta không ít.
                      "Xe Cadillac? Ô, phải rồi," tôi hăng hái nói; "đáng lẽ ông phải thử nó khi có dịp. Giá rất mềm. Chỉ bẩy ngàn marks. Rẻ như quà biếu, ta có thể nói thế --"
                      "Ơ, làm sao lại rẻ như quà biếu được,"
                      "Rẻ như quà biếu," tôi nhấn mạnh, trong đầu thầm nghĩ đến bước tới. "Tôi có thể hỏi dò, nếu ông muốn," tôi nói; "Không chừng người mua chiếc xe ấy đang cần tiền mặt. Những chuyện như vậy, trong thời buổi này, có thể xảy ra rất nhanh. Nửa tháng thôi."
                      Tôi đi vào xưởng và tóm gọn câu chuyện. Lenz nhảy dựng lên. "Tìm đâu cho ra một chiếc Cadillac cũ đây, mấy cậu? Nào, làm việc chăm lên! "
                      "Để tớ tính," tôi nói; "còn cậu, cứ đợi đấy, phen này lão ấy đừng hòng thoát khỏi tay tớ."
                      "Được rồi, giao cho cậu." Gottfried biến mất.
                      Tôi điện thoại cho Blumenthal. Tôi không nuôi nhiều hy vọng, nhưng ít nhất tôi cũng phải thử. Ông đang có mặt tại văn phòng. "Ông có muốn bán lại chiếc Cadillac không?" tôi thẳng thừng hỏi.
                      Blumenthal cười to.
                      "Tôi biết một người muốn mua nó," tôi tiếp tục, "trả tiền mặt."
                      "Tiền mặt," Blumenthal trả lời sau khi suy nghĩ thật nhanh. "Đấy là con chữ có tính thi ca nhất hiện nay --"
                      "Đấy cũng là ý tưởng của tôi," tôi nói, thình lình cảm thấy sung sướng. "Vậy, chúng ta có thể nói chuyện với nhau?"
                      "Ta luôn luôn có thể nói chuyện với nhau," Blumenthal đáp.
                      "Tốt. Khi nào tôi có thể gặp ông?"
                      "Chiều nay sau giờ ăn trưa, tôi không bận. Khoảng hai giờ chiều, ở văn phòng này, được không?"
                      "Đồng ý."
                      Tôi gác máy. "Otto," tôi hý hửng gọi Koster, "tớ không hề mong đợi, thế nhưng tớ tin là chiếc Cadillac của chúng mình sắp sửa trở về."
                      Koster đẩy đống hồ sơ sang bên. "Thật sao? Ông ấy muốn bán nó?"
                      Tôi gật đầu và nhìn qua cửa sổ, Lenz đang hăng say nói với ông chủ tiệm bánh. "Anh ấy đang làm hư bột hư đường," tôi bức rức nói; "anh ấy nói nhiều quá. Lão chủ tiệm bánh là chúa đa nghi; ta chỉ có thể dụ được lão nếu ta không nói gì. Tớ phải lập tức ra đó, và thay thế Gottfried."
                      Koster cười. "Đúng rồi -- nhất chín nhì bù, Bob."
                      Tôi nháy mắt với anh và đi ngay. Nhưng tôi không tin được chính tai mình; thật cách xa một trời một vực với những lời tán tụng hãy còn quá sớm về chiếc Cadillac, Goffried hoàn toàn chú tâm vào việc giải thích cho ông chủ tiệm bánh, cách thức thổ dân Da Đỏ ở Nam Mỹ làm bánh mì ngô.
                      Tôi nhìn anh ra vẻ tán thưởng rồi quay sang ông chủ tiệm bánh; "Xui quá, ông kia không muốn bán ---"
                      "Vậy tớ đã nói với cậu thế nào nhỉ?" Lenz lập tức đáp, như thể chúng tôi đã bàn bạc với nhau từ trước.
                      Tôi nhún vai. "Tiếc thật -- nhưng tôi có thể hiểu --"
                      Ông chủ tiệm bánh đứng ỳ ra, hoang mang. Tôi nhìn Lenz.
                      "Có thể nào, cậu cố gắng gọi lại ông ấy một lần nữa? anh lập tức hỏi tôi.
                      "Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể," tôi trả lời. "Tôi đã dàn xếp gặp ông ấy chiều nay. Vậy, tôi sẽ lên lạc với ông bằng cách nào?" tôi hỏi ông chủ tiệm bánh.
                      "Tôi có công việc quanh đây vào lúc bốn giờ. Tôi có thể ghé qua."
                      "Tốt -- Tôi sẽ có câu trả lời vào lúc ấy. Tôi hy vọng chúng ta sẽ thành công."
                      Ông chủ tiệm bánh gật đầu. Rồi ông ngồi vào chiếc xe Ford và rồ máy lái đi.
                      "Cậu có điên không vậy?" Goffried xổ một tràng, khi ông ta vừa khuất ở góc đường. "Tớ vừa mới bắt đầu tóm được lão, thì cậu đã thả cho lão đi, như thế đấy."
                      "Luận lý học và tâm lý học, Gottfried thân mến," tôi nói, vỗ vai anh. "Cậu chẳng biết tí gì về chúng."
                      Anh phủi tay tôi. "Tâm lý học -- " anh nói một cách khinh miệt. "Đòn tâm lý hay nhất là chụp lấy cơ hội. Và đấy là một cơ hội tốt. Lão sẽ không bao giờ trở lại."
                      "Lão sẽ trở lại lúc bốn giờ --"
                      Gottfried nhìn tôi, thương hại. "Cậu dám cá với tớ?" anh nói.
                      "Dám chớ sao không," tôi trả lời, " nhưng cậu sẽ thua. Tớ hiểu lão rõ hơn cậu. Cậu phải liên tiếp nắn gân lão mới xong. Hơn nữa, tớ không thể bán cho lão một thứ mà chúng ta chưa có."
                      "Ach, du lieber Gott, nếu cậu chỉ hiểu được bấy nhiêu thôi," Gottfried nói, lắc đầu, "cậu sẽ chẳng làm nên trò trống gì, Cưng ạ. Đấy là điều luật thứ nhất trong việc mua bán. Đến đây, tớ sẽ tặng cậu một bài học về các phương cách làm ăn hiện đại."
                      Sau giờ ăn trưa, tôi đến văn phòng của Blumenthal. Trên đường đi, tôi có cảm giác của một chú dê non sắp sửa đến thăm một con sói già. Mặt trời chiếu gay gắt xuống mặt đường nhựa, và với từng bước chân, tôi lại càng không muốn mình bị xiên quay trên que nướng của Blumethal. Tốt nhất là đánh một trận nhanh gọn.
                      "Herr Blumenthal," tôi lập tức nói khi bước qua cửa, trước khi ông bắt đầu mở miệng, "một đề nghị công bằng ngay từ đầu. Ông mua chiếc Cadillac với giá năm ngàn năm trăm marks -- bây giờ tôi trả ông sáu ngàn -- với điều kiện tôi phải là người giao xe. Công việc sẽ xong xuôi tối nay."
                      Blumenthal chễm chệ ngự trên ngai, đàng sau bàn viết, đang xơi táo. Ông ngừng lại, nhìn tôi một giây.
                      "Tốt," ông nói, và tiếp tục nhai.
                      Tôi chờ đến khi ông quăng cái lõi táo vào giỏ rác.
                      "Vậy ông đồng ý?" tôi hỏi.
                      "Khoan đã." Ông lấy một quả táo từ trong ngăn kéo bàn viết. "Cậu ăn không?"
                      "Cảm ơn, chưa đâu."
                      Ông ngoạm một miếng táo. "Hãy ăn thật nhiều táo, Herr Lohkamp. Táo giúp ta sống lâu. Mỗi ngày ăn vài quả, ta không bao giờ phải đi bác sĩ."
                      "Ngay cả khi ta bị gãy tay?"
                      Ông nhoẻn cười, quăng bỏ cái lõi táo thứ nhì, rồi đứng lên.
                      "Vậy ta không nên gãy tay."
                      "Nghe hay lắm," tôi nói và chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Câu chuyện táo tiếc này đáng ngờ lắm.
                      Blumenthal lấy một hộp xì gà từ cái tủ nhỏ và mời tôi. Đấy là xì gà Coronas tôi đã biết. "Chúng cũng kéo dài tuổi thọ sao?" tôi hỏi.
                      "Không, chúng làm ngắn lại. Cân bằng những quả táo." Ông thổi ra một quầng khói mù và nhìn tôi, đầu nghiêng sang một bên như một con chim trầm mặc, nhìn từ dưới lên trên. "Cân bằng, Herr Lohkamp, luôn luôn cân bằng -- đấy là bí quyết của cuộc đời."
                      "Nếu ta có thể."
                      Ông nháy mắt. "Đúng thế; nếu ta có thể, đấy là bí quyết, dĩ nhiên rồi. Chúng ta biết quá nhiều, nhưng chỉ có thể làm quá ít. Bởi vì chúng ta biết quá nhiều. ---" ông cười to. "Xin tha lỗi cho tôi -- sau khi ăn trưa, tôi luôn luôn triết lý vặt."
                      "Đấy cũng là thời điểm tốt nhất," tôi nói. "Bây giờ, về chiếc Cadillac; chúng ta cũng sẽ làm cho cân bằng, phải không?"
                      Ông dơ một tay lên. "Khoan đã."
                      Tôi cúi đầu chịu thua. Blumenthal nhận thấy và cười. "Không phải như cậu nghĩ. Tôi chỉ định khen cậu một câu. Đánh con bài chủ từ đầu, không dấu diếm gì cả. Như thế là đi đúng nước bài với lão Blumenthal này. Cậu biết tôi mong đợi gì không?"
                      "Rằng tôi sẽ bắt đầu ra giá bốn ngàn năm trăm --"
                      "Đúng. Nhưng nếu làm thế, cậu sẽ không đạt được kết quả. Cậu định bán xe với giá bẩy ngàn, phải không?"
                      Tôi nhún vai, không cam kết gì cả. "Sao lại chính xác bảy ngàn?"
                      "Bởi vì đó là cái giá cậu đã thách tôi lần đầu."
                      "Ông có một trí nhớ tuyệt vời," tôi nói.
                      "Về những con số. Chỉ những con số mà thôi. Thật không may. Ta đi đến kết luận này nhé -- cậu có thể lấy chiếc xe với giá đã nêu, sáu ngàn."
                      Ông chìa tay và tôi chụp lấy. "Tạ ơn Chúa," tôi nói, nhẹ nhõm, "cho chúng con một dịp mua may bán đắt chờ đợi đã lâu. Dường như chiếc Cadillac cho chúng tôi may mắn."
                      "Với tôi, cũng thế," Blumenthal nói. "Đừng quên, tôi cũng kiếm lời năm trăm, nhờ nó."
                      "Đúng. Nhưng xin ông cho biết, vì sao ông muốn bán nó sớm vậy? Ông không vừa ý hay sao?"
                      "Chỉ là dị đoan mà thôi," Blumenthal giải thích. "Tôi không bao giờ để lỡ một cơ hội làm ra tiền."
                      "Dị đoan tốt," tôi trả lời.
                      Ông ngúc ngoắc cái đầu hói bóng nhẫy. "Cậu không tin đâu nhỉ -- thật thế. Tôi làm vậy để tránh những điều không tốt xảy ra với tôi -- với những thứ khác. Chê bỏ một vận may hôm nay, có nghĩa là thách đố Thượng Đế. Và không ai trong chúng ta dám làm vậy."
                      Lúc bốn giờ rưởi, Gottfried Lenz, vẻ mặt trịnh trọng, đặt một vỏ chai gin trên bàn, trước mặt tôi. "Cưng ơi, tớ muốn cậu đong đầy cái chai này. Tớ được miễn phí. Cậu còn nhớ chúng ta đánh cuộc thế nào không?"
                      "Nhớ chứ," tôi nói. "Nhưng cậu đến sớm quá."
                      Không một lời, Gottfried dí cái đồng hồ tay của anh sát mắt tôi.
                      "Bốn giờ rưởi," tôi nói. "Giờ thiên văn, rõ rồi. Có điều, ai cũng có thể đi trễ. Tớ tăng tiền cược gấp đôi, hai chống một --"
                      "Đồng ý," Gottfried hý hửng nói. "Nếu thắng, tớ sẽ được chung bốn chai gin. Cái đó gọi là anh hùng đấu tranh cho chính nghĩa đã mất. Danh dự lắm, Cưng ạ, nhưng cưng sai lầm rồi."
                      "Cứ đợi đấy,"
                      Thật tình tôi không còn tự tin như đang làm bộ. Trái lại, tôi tin chắc, ông chủ tiệm bánh sẽ không trở lại. Lẽ ra sáng nay tôi phải tìm hiểu ông ta kỹ càng hơn. Không thể nào tin tưởng ông ta.
                      Khi tiếng còi tan tầm của xưởng chế tạo nệm lò xo bên kia đường inh ỏi hụ, báo năm giờ chiều, Gottfried lẳng lặng đặt thêm ba cái vỏ chai gin trên bàn, trước mặt tôi. Rồi anh tựa vào cửa sổ và chăm chú nhìn tôi. "Tớ khát quá," một lúc sau, anh nói, nhấn mạnh.
                      Ngay lúc ấy, tôi nghe tiếng động cơ rầm rập rất đặc trưng của xe Ford chạy ngoài đường, và sau đó, xe của ông chủ tiệm bánh quẹo vào cổng rào của chúng tôi.
                      "Nếu cậu khát, Gottfried yêu dấu của tớ," tôi chững chạc trả lời, "chỉ cần chạy đi mua hai chai rum mà tớ đã thắng cuộc. Cậu có thể tợp một ngụm miễn phí. Thấy ông chủ hiệu bánh đàng kia chưa? Tâm lý học, con ơi. Bây giờ thì, làm ơn dẹp dùm mấy cái vỏ chai gin này ngay. Sau đó, cậu có thể lái chiếc tắc xi. Cậu còn quá trẻ người non dạ với những công việc tinh tế. Mừng sức khỏe, con ơi."
                      Tôi ra đón và bảo ông chủ tiệm bánh rằng, dường như chiếc Cadillac sẽ thuộc về ông. Khách hàng ra giá bẩy ngàn năm trăm, nhưng nếu trả tiền mặt, ông ấy có thể bớt còn bẩy ngàn.
                      Ông chủ hiệu bánh lơ đãng đến nổi tôi phải ngừng nói. "Tôi cần gọi điện cho ông ấy lúc sáu giờ," cuối cùng tôi nói.
                      "Lúc sáu giờ?" Ông chủ hiệu bánh bừng tỉnh. "Lúc sáu giờ, tôi phải --" Rồi ông ta bỗng quay lại. "Cậu đi với tôi được chứ?"
                      "Đi đâu?" tôi kinh ngạc hỏi.
                      "Đến nhà bạn cậu, ông họa sĩ. Tranh đã xong."
                      "Ach, thì ra thế, đến xưởng họa Ferdinand Grau?"
                      Ông gật đầu. "Đi với tôi, nhé? Rồi chúng ta sẽ thảo luận giá cả."
                      Dường như ông không muốn đi một mình chút nào. Ngược lại, tôi cũng thấy rất thiết yếu, không nên để ông rời khỏi nơi đây một mình một lần nữa. "Được mà," do đó, tôi nói. "Hơi xa đấy -- chúng ta nên đi ngay bây giờ."
                      Ferdinand Grau trông bịnh hoạn. Gương mặt xám xanh, tối và bủng. Anh đón chúng tôi ở cửa xưởng họa. Ông chủ tiệm bánh gần như không nhìn tới anh. Ông ta thiếu tự tin và nóng nảy lạ lùng. "Tranh ở đâu?" ông ta lập tức hỏi.
                      Fedinand chỉ về hướng cửa sổ. Bức tranh đặt trên giá vẽ. Ông chủ tiệm bánh bước vội đến rồi dừng lại trước mặt nó, bất động. Một lúc sau, ông bỏ mũ xuống. Ông đã hối hả tới nỗi quên béng đi cái mũ.
                      Ferdinand và tôi vẫn đứng cạnh cửa. "Anh khỏe không, Ferdinand?"
                      Anh khoác tay, làm một cử chỉ mơ hồ.
                      "Có chuyện gì không tốt chăng?"
                      "Chuyện gì không tốt đâu?"
                      "Khí sắc của anh tệ lắm --"
                      "Hỏi gì nữa không?"
                      "Không," tôi nói, "hết rồi."
                      Anh đặt bàn tay hộ pháp lên vai tôi và cười với nét mặt của một con chó St. Bernard's già.
                      Chúng tôi đợi một lát. Rồi chúng tôi lại gần. Tôi ngạc nhiên khi nhìn vào tranh. Chân dung được thể hiện rất sinh động, dựa theo tấm ảnh ngày cưới và tấm thứ nhì, đã mờ cũ, một thiếu phụ còn trẻ nhìn thẳng về phía trước với đôi mắt nghiêm nghị đượm nét hoang mang.
                      "Vâng," ông chủ tiệm bánh đáp, không quay lại. "Đúng là bà ấy."
                      Ông ta nói với bản thân nhiều hơn với chúng tôi, và tôi có cảm tưởng, ông cũng chẳng ý thức được mình đang nói.
                      "Ông có cần thêm ánh sáng?" Ferdinand hỏi.
                      Ông chủ tiệm bánh không trả lời.
                      Ferdinand tiến tới, chỉnh lại vị trí của giá vẽ. Rồi anh lùi bước, gật đầu ra hiệu cho tôi đi qua một căn phòng nhỏ, cạnh xưởng vẽ.
                      "Tôi thật không ngờ," anh nói, ngạc nhiên. "Bức tranh đã đánh động cõi lòng của cái máy giảm giá cằn cỗi ấy! Ông ta khóc nức nở --"
                      "Ai cũng có lúc để cảm xúc trào dâng," tôi trả lời. "Có điều, với ông ấy, đã quá muộn."
                      "Quá muộn," Ferdinand nói; "luôn luôn quá muộn màng. Việc đời cứ như thế, Bob ạ."
                      Anh khoan thai đếm bước. "Hãy để ông ấy được yên tĩnh," anh nói. "Cậu nghĩ sao, trong khi chờ đợi, ta làm một ván cờ nhé?"
                      "Anh có tâm hồn tươi vui lắm, Ferdinand," tôi nói.
                      Anh ngừng chân. "Tại sao không? Không gây hại mà cũng không làm lợi gì cho ông ấy. Nếu cứ khăng khăng nghĩ về những chuyện buồn ấy, sẽ không ai có thể cười được nữa, Bob ạ."
                      "Anh nói đúng," tôi đáp. "Vậy mình chơi trò gì nhanh một chút."
                      Chúng tôi bày bàn cờ ra và bắt đầu. Ferdinand thắng một cách dễ dàng. Anh chiếu bí tôi với con tháp và con giám mục, không cần con nữ hoàng.
                      "Tôi thật không hiểu anh làm cách nào," tôi nói. "Trông anh như người thiếu ngủ đã mấy đêm. Thế mà anh chơi dũng mãnh như quân cướp biển."
                      "Những khi buồn, tớ luôn luôn chơi rất khá," Ferdinand trả lời.
                      "Tại sao anh buồn?"
                      "Ach, tớ không biết. Bởi vì màn đêm buông xuống. Tất cả những người tốt đều sầu buồn khi chiều đến. Chẳng vì lý do đặc biệt nào. Chung chung như thế thôi."
                      "Nhưng chỉ khi nào họ cô độc," tôi nói.
                      "Dĩ nhiên. Giờ của chập chùng bóng tối. Giờ của cô đơn quạnh quẽ. Giờ khi nhâm nhi cognac ngon nhất."
                      Anh lấy ra chai rượu và hai cái ly. "Chúng ta có nên trở vào gặp ông chủ tiệm bánh không?" tôi hỏi.
                      "Một phút nữa." Anh rót rượu vào cốc. "Pros't, Bob. Vì tất cả chúng ta rồi sẽ chết."
                      "Pros't, Ferdinand. Vì chúng ta vẫn còn đây."
                      "Ấy mà," anh nói, "đôi khi người ta lại không muốn thế. Hãy cạn một ly mừng điều đó."
                      "Chí lý."
                      Chúng tôi trở vào xưởng vẽ. Căn phòng tối hơn khi nãy. Ông chủ tiệm bánh với đôi vai so, vẫn còn đứng trước bức tranh. Trông ông ta lạc loài đáng thương trong căn phòng rộng, trống lốc và tôi chợt nhận ra, ông ta càng như nhỏ thó hơn.
                      "Tôi đóng gói bức tranh lại cho ông nhé?" Ferdinand hỏi.
                      Ông ta giật mình. "Không."
                      "Vậy ngày mai, tôi sẽ cho người mang đến?"
                      "Tôi có thể gởi nó lại đây, được không?" ông chủ tiệm bánh rụt rè hỏi.
                      "Nhưng tại sao?" Ferdinand ngạc nhiên, và đến gần hơn. "Ông không thích nó hay sao?"
                      "Có, tôi thích chứ -- nhưng tôi cần để nó lại đây."
                      "Tôi không hiểu."
                      Ông chủ tiệm bánh nhìn tôi, cầu cứu. Tôi hiểu -- ông ta sợ phải treo bức tranh trong nhà trước sự hiện diện của con chằng cái tóc đen. Có lẽ, ông ta cũng có một nỗi sợ hãi nào đấy với người đã khuất, sợ phải mang bà về nhà."
                      "Nhưng Ferdinand," tôi nói, "tranh có thể treo tại đây, được không, nếu trả tiền xong?"
                      "Thế thì, dĩ nhiên được thôi."
                      Ông chủ tiệm bánh, yên lòng, lấy từ túi ra một quyển chi phiếu. Hai người đi tới bàn.
                      "Còn thiếu bốn trăm marks?" ông chủ tiệm bánh hỏi.
                      "Bốn trăm hai mươi," Ferdinand nói, "đã chiết giảm. Ông cần biên nhận không?"
                      "Có chứ," ông chủ tiệm bánh nói, "cho ban kế toán."
                      Trong im lặng, họ viết chi phiếu và biên nhận. Tôi vẫn đứng cạnh cửa sổ và nhìn quanh. Trong ánh nắng chiều, các bức chân dung bị bỏ rơi sáng lờ mờ trong những khung vàng. Chúng trông như bộ sưu tập ma quái của thế giới khác và những cái nhìn chăm chăm của chúng hướng về bức tranh bên cửa sổ, bức tranh sắp được kết nạp, bức tranh mà trên đó, buổi chiều đang rót những giọt nắng sau cùng. Không khí kỳ quặc -- hai cái bóng lom khom ở bàn, bóng tối và rất nhiều chân dung câm nín.
                      Ông chủ tiệm bánh trở lại cửa sổ. Đôi mắt vằn đỏ của ông như hai viên bi ve, miệng của ông há ra nửa vời, môi dưới trễ xuống để lộ những chiếc răng ố vàng -- cách ông ta đứng đấy, vừa khôi hài, vừa buồn thảm. Ở tầng lầu ngay bên trên xưởng vẽ, một người nào đó bắt đầu gõ những phím dương cầm một bài luyện ngón, mà chuỗi âm thanh lập đi lập lại cùng một điệu. Mỏng manh và than thở. Ferdinand Grau vẫn đứng cạnh bàn. Anh đốt một điếu xì -gà. Ngọn lửa hiu hắt soi gương mặt của anh. Căn phòng tối lờ mờ dường như to rộng lên một cách ghê rợn và xanh rất thẳm, so với đóm lửa đỏ.
                      "Ông vẫn có thể sửa lại một thứ gì đó, phải không?" ông chủ tiệm bánh hỏi.
                      "Sửa gì cơ?"
                      Ferdinand tiến đến. Ông chủ tiệm bánh trỏ vào món nữ trang.
                      "Ông có thể xóa nó, được chứ?"
                      Đấy là cái kim vàng cài áo to đùng mà khi đặt hàng, ông ta đã kỳ kèo cho bằng được.
                      "Được chứ," Ferdinand nói, "thật tình mà nói, nó làm thô gương mặt. Tranh sẽ đẹp hơn nếu xóa nó đi."
                      "Tôi cũng nghĩ vậy." Ông ta ba hoa một chập nữa. "Tôi phải trả thêm bao nhiêu?"
                      Ferdinand và tôi nhìn nhau. "Không tốn xu nào cả," Ferdinand nói, quảng đại; "ngược lại, lẽ ra còn phải bù tiền cho ông. Ông thấy không, vẽ ít hơn mà."
                      Ông chủ hiệu bánh ngửng đầu lên, ngạc nhiên. Trong một thoáng, dường như ông có ý định bàn sâu về chuyện ấy. Nhưng rồi ông dứt khoát: "Ach, không, đừng bận tâm -- nói cho cùng, dù sao ông đã vẽ rồi."
                      "Điều ấy cũng đúng --"
                      Chúng tôi ra về. Trên cầu thang bên ngoài, nhìn phiến lưng còng trước mặt, tôi cảm thấy ân hận về ông chủ tiệm bánh, về việc lương tâm của ông đã đánh bại ước muốn thủ lợi với cái kim cài áo. Tôi không muốn dẫn ông ta đi mua xe Cadillac trong tâm trạng hiện tại của ông. Nhưng rồi tôi nhớ rằng, nỗi thương tiếc, đáng tuyên dương biết bao, dành cho người vợ quá cố ấy, ít nhiều gì chỉ khởi dậy bởi cô gái tóc đen ở nhà là một con ngựa bà quá quắt, và thế là tôi lại hăng hái ngay.
                      "Chúng ta có thể ghé tiệm bánh để bàn bạc," bên ngoài, ông ta nói.
                      Tôi gật đầu. Rất tiện lợi cho tôi. Ông chủ tiệm bánh cứ ngỡ, trong bốn bức vách của ông, ông ta sẽ mạnh mẽ hơn -- nhưng tôi có sự ủng hộ của cô nàng tóc đen.
                      Cô ta đợi sẳn ở cửa. "Chân thành chúc mừng bà," tôi nói, trước khi ông chủ tiệm bánh kịp mở miệng.
                      "Mừng gì cơ?" cô ta lập tức hỏi, ánh mắt long lanh.
                      "Xe Cadillac của bà," không nao núng, tôi trả lời.
                      "Anh yêu!" cô ta nhảy cẫng lên, ôm chặt cổ ông ta.
                      "Nhưng chuyện chưa đâu vào đâu cả," ông cố gỡ tay cô và giải thích. Nhưng cô ta vẫn đeo dính và nghịch ngợm quay ông ta vòng vòng, không để ông ta thốt một lời. Tôi lần lượt thấy sau bờ vai của ông, gương mặt ranh mãnh, con mắt nháy nhó của cô ta và sau bờ vai cô ta, cái đầu như con mọt gạo của ông ta, trách móc, phản kháng vô vọng.
                      Cuối cùng ông ta cũng rứt ra được. "Chúng ta chưa đạt đến một thỏa thuận nào," ông thở hào hển.
                      "Có mà," tôi hăng hái nói, "tôi bảo đảm sẽ làm hết sức để giảm năm trăm marks cuối cùng. Ông không phải trả thêm một xu nào ngoài bảy ngàn marks cho chiếc Cadillac. Ông đồng ý chứ?"
                      "Dĩ nhiên," cô tóc đen nhanh nhảu nói. "Giá ấy, thật quá hời, anh yêu."
                      "Nín ngay!" Ông chủ tiệm bánh dơ tay khỏi đầu.
                      "Anh có điên không vậy?" cô ta tấn công. "Lúc đầu, anh nói anh sẽ mua xe, giờ thì anh đứng ỳ ra đấy, nói rằng anh sẽ không mua."
                      "Không sao, ông ấy sẽ mua." Tôi can gián. "Chúng tôi đã bàn thảo với nhau."
                      "Vậy thì, anh yêu -- tại sao, anh lại -- " Cô nàng õng ẹo dựa sát người ông ta. Ông ta cố gắng nhích ra nhưng cô nàng đã ép đôi vú căng phồng lên cánh tay ông. Ông ta nhăn mặt tuyệt vọng, nhưng sức kháng cự đã yếu hẳn.
                      "Chiếc xe Ford -- "ông ta nói.
                      "Sẽ chi trả từng phần, dĩ nhiên."
                      "Bốn ngàn marks?"
                      "Ông đã tốn đến ngần ấy sao?" tôi thân ái hỏi.
                      "Xe Ford phải bán với giá bốn ngàn marks, trả từng phần," ông quả quyết. Cuối cùng, ông ta cũng tìm được cách trả đòn sau khi bất ngờ bị tấn công lúc đầu. "Xe tốt y như xe mới."
                      "Xe mới?" tôi nói. "Sau khi được đại tu như thế?"
                      "Sáng nay, chính cậu cũng nhận là xe tốt như mới mà."
                      "Sáng nay, đấy lại là chuyện khác. Mới hay không -- tùy theo, ta là người bán hay người mua. Với giá bốn ngàn marks, xe Ford của ông phải có cảng bằng vàng."
                      "Bốn ngàn marks, không chịu thì thôi," ông chủ tiệm bánh bướng bỉnh nói. Ông ta đã hồi phục bản tính cũ và rõ ràng, muốn sửa chữa những tình cảm ủy mị mới đây.
                      "Vậy, au revoir," tôi trả lời, và quay sang cô tóc đen. "Tôi rất tiếc, bà ạ -- nhưng tôi không thể mua bán thiệt thòi như thế. Chúng tôi không lãi đồng nào với chiếc Cadillac, vì thế, tôi không thể mua vào chiếc Ford cũ với cái giá trên trời. Tạm biệt."
                      Cô ta giữ tôi lại. Đôi mắt tóe lửa, cô ta tấn công ông chủ tiệm bánh khiến ông ta chẳng biết nên tiến hay lùi. "Anh đã nói hàng trăm lần là chiếc Ford không đáng giá gì hết," cuối cùng, cô ta rít lên, nước mắt đoanh tròng.
                      "Hai ngàn marks," tôi nói. "Hai ngàn marks, mặc dù giá ấy chết người."
                      Ông chủ hiệu bánh im lìm.
                      "Nào nào, nói gì đi chứ. Anh đứng đây làm gì mà không chịu mở miệng? cô nàng tóc đen tát yêu ông ta.
                      "Xin ông bà thứ lỗi," tôi nói. "Tôi phải đi lấy chiếc Cadillac. Khi tôi trở lại, có lẽ ông bà đã thảo luận xong."
                      Tôi có cảm tưởng nếu tôi biến đi thì tốt hơn. Tóc đen sẽ tiếp tục công việc dùm tôi.
                      Một giờ sau tôi lại có mặt ở đấy. Tôi thấy ngay, cuộc cải vã đã được giải quyết bằng cái phương pháp giản dị nhất. Y phục của ông ta hơi nhàu và một cái lông ngỗng trong chăn còn vướng trên áo khoác -- còn cô tóc đen, trái lại, mắt ngời sáng, vú rung rinh; và cô ta mỉm cười, mãn nguyện và xảo quyệt. Cô ta đã thay y phục, và mặc một chiếc áo đầm lụa mỏng, dán sát người. Khi không bị chú ý, cô ta gật đầu với tôi, và nháy mắt ra hiệu là mọi việc đều ổn thỏa.
                      Chúng tôi lái thử. Tóc đen ngồi gọn gàng, thoải mái trên cái ghế rộng và liếng thoắng nói không ngừng. Tôi ước gì mình có thể quẳng cô ả qua cửa sổ, thế nhưng tôi vẫn cần sự có mặt của cô ta. Ông chủ tiệm bánh ủ rũ ngồi cạnh tôi. Ông ta thương tiếc trước cho số tiền sẽ chia tay -- có lẽ, đó là sự thương tiếc chân thành nhất.
                      Chúng tôi dừng xe trước nhà ông chủ tiệm bánh, rồi đi vào. Ông ta bước qua phòng khác để lấy tiền. Trông ông ta già sụm, và tôi nhận ra, tóc của ông đã phải nhuộm.
                      Tóc đen lướt tay ve vuốt cái áo đầm của ả. "Chúng ta làm chuyện ấy cừ thật, phải không?"
                      "Vâng," tôi ngần ngừ nói.
                      "Anh nợ em một trăm marks cho việc ấy."
                      "Ach, vậy thì sao?" tôi nói.
                      "Lão già keo kiệt ấy," cô ta thì thào thân mật, tiến gần tôi, "giàu có lắm. Nhưng cứ thử moi một đồng của lão! Lại còn không chịu làm di chúc nữa cơ. Và dĩ nhiên, sau khi lão đi đời nhà ma, con cái của lão sẽ hưởng trọn gia tài, còn em sẽ bơ vơ nơi đâu? Ngoài ra, chẳng vui sướng gì, lúc nào lão cũng mắng mỏ em --"
                      Cô ta lại gần hơn nữa và hây hẩy cặp vú. "Vậy, ngày mai, em sẽ qua đấy lấy một trăm marks. Khi nào anh có mặt? Hoặc đi ngang đây?" Cô ta khúc khích cười. "Chiều mai, em ở nhà một mình."
                      "Tôi sẽ gởi tiền cho bà." tôi nói.
                      Cô ta lại rinh rích cười. "Anh đích thân mang đến, nhé. Hay là anh sợ?"
                      Rõ ràng, cô ta nghĩ rằng tôi ngây thơ, và phải nói huỵch toẹt cho tôi hiểu.
                      "Không sợ," tôi nói, "nhưng tôi bận. Ngày mai, tôi phải đi bác sĩ. Bịnh giang mai lâu rồi -- làm đời mất vui."
                      Nhanh như cắt, cô ta lùi lại, suýt ngã lên chiếc ghế bành bọc nhung. Ngay khi ấy, ông chủ tiệm bánh đi vào. Ông ta nhìn cô ta một cách ngờ vực. Rồi ông ta đếm thành tiếng cọc tiền chất trên bàn. Chậm và lưỡng lự. Cái bóng của ông lung linh theo nhịp đếm trên nền thảm hồng. Khi tôi viết biên lai, tôi bàng hoàng nhận ra, chuyện này đã xảy ra một lần hôm nay -- chỉ có điều, Ferdinand Grau đóng vai tôi. Mặc dù việc này chẳng quan trọng gì, nhưng với tôi, quái dị quá.
                      Tôi vui vì lại được ra ngoài. Không khí mềm và ấm như mùa hè. Chiếc Cadillac đậu bên lề, hóm hỉnh nháy mắt với tôi.
                      "Ôi, cám ơn cưng," tôi nói, gõ gõ lên bộ tản nhiệt. "Mau về thăm anh nhé."

                      Comment


                      • #12
                        Erich Maria Remarque

                        Chiến hữu

                        Chương 15
                        Buổi sáng trong veo và lấp lánh trên những đồng cỏ. Pat và tôi ngồi ở bìa một khoảnh rừng thưa, ăn điểm tâm. Tôi nghĩ phép hai tuần và đang trên đường du lịch với Pat. Chúng tôi đi ra biển.
                        Một chiếc Citroen nhỏ, cũ đậu ở ven đường. Chúng tôi mua trả góp nhờ chiếc Ford, và Koster cho tôi mượn đi chơi. Nó như một con lừa nhẫn nại, thồ đầy hòm xiểng trên lưng.
                        "Hy vọng nó không hư bất tử dọc đường," tôi nói.
                        "Không đâu," Pat trả lời.
                        "Sao em biết?"
                        "Tất nhiên. Đây là cuộc du ngoạn của chúng ta, Robby."
                        "Có lẽ," tôi đáp. "Nhưng anh biết cái trục sau của nó. Nhìn thảm lắm. Nhất là phải chở nặng như thế."
                        "Nó là anh em của Karl. Nó sẽ chịu đựng được."
                        "Người anh em mắc bệnh còi xương trầm trọng."
                        "Đừng chê bai nó, Robby. Nó là chiếc xe đáng yêu nhất đối với em, lúc này."
                        "Em qua đây," tôi nói.
                        "Để làm chi?"
                        "Khó nói."
                        Trên đồng cỏ, chúng tôi nằm song song bên nhau thêm một lúc. Gió từ cánh rừng thổi ra, ấm áp và dịu dàng. Gió thơm hương nhựa thông và hoa dại.
                        "Robby," một lát sau Pat hỏi, "những bông hoa đàng kia, bên dòng suối, tên gì hở anh?"
                        "Cỏ Chân Ngỗng," tôi trả lời, không cần nhìn lên.
                        "Nhưng anh yêu! Không phải Cỏ Chân Ngỗng, hoa Cỏ Chân Ngỗng nhỏ hơn nhiều; ngoài ra, chúng chỉ nở vào mùa xuân."
                        "Đúng," tôi nói. "Rau Tề."
                        Nàng lắc đầu. "Em biết Rau Tề. Hoa này trông khác hẳn."
                        "Vậy là Độc Cần."
                        "Nhưng Robby! Hoa Độc Cần không đỏ, mà trắng."
                        "Vậy anh không biết. Từ nào đến giờ, nếu bị hỏi, anh cứ nói đại ba cái tên ấy là xong. Các cô thường tin vào một trong ba cái tên ấy."
                        Nàng cười to. "Tội thì thôi. Nếu biết thế, em đã bằng lòng với tên Cỏ Chân Ngỗng."
                        "Độc Cần," tôi nói. "Anh thành công nhất với tên Độc Cần."
                        Nàng ngồi dậy. "Phấn khởi nhỉ. Vậy anh thường được hỏi lắm sao?"
                        "Không thường lắm. Và trong những trường hợp hoàn toàn khác."
                        Nàng chống tay trên mặt đất. "Thật xấu hổ khi người ta chạy loanh quanh khắp nơi trên trái đất, thế nhưng lại không biết gì về nó. Ngay cả mấy cái tên vặt."
                        "Em đừng buồn," tôi nói, "có một nỗi xấu hổ lớn hơn, đó là người ta lại còn không biết người ta loanh quanh chạy khắp trái đất để làm gì. Và biết thêm nhiều hay ít hơn một vài cái tên thì có quan trọng gì đâu."
                        "Anh cứ nói vậy. Nhưng em tin anh chỉ nói như thế bởi lười nhác."
                        Tôi trở mình. "Dĩ nhiên. Nhưng ta cũng không chiêm nghiệm đủ về sự lười nhác. Lười nhác là nền tảng của tất cả hạnh phúc và kết thúc của mọi triết lý. Đến đây em, nằm xuống. Người ta nằm quá ít. Người ta lúc nào cũng đứng, hoặc ngồi. Như vậy thể xác không được dễ chịu. Chỉ khi người ta nằm xuống, họ mới hoàn toàn hòa thuận với bản thân."
                        Một chiếc xe hơi rầm rù chạy ngang rồi biến mất.
                        "Có xe khác đến nữa," Pat trả lời.
                        "Vâng, anh có nghe. Một chiếc Renault. Phải đầu xe trông giống mỏ heo không?"
                        "Vâng."
                        "Vậy đúng là Renault. Nhưng hãy lắng nghe, một chiếc xe chính hiệu sắp chạy đến. Một chiếc Lancia. Anh dám cá, nó sẽ đuổi theo hai cái xe kia như một con sói đuổi theo đôi cừu. Chỉ cần lắng nghe tiếng máy nổ. Như tiếng đàn ống nhà thờ."
                        Chiếc xe lao vút qua. "Em đoán, anh biết nhiều hơn ba hiệu xe ?" Pat hỏi.
                        "Dĩ nhiên. Và biết đúng, còn muốn gì hơn?"
                        Nàng cười to. "Như vậy buồn lắm, hay không buồn?"
                        "Không buồn gì hết. Thuận lẽ tự nhiên. Anh chuộng một chiếc xe đẹp hơn là hai mươi cánh đồng hoa."
                        "Đứa con ngỗ nghịch của thế kỷ hai mươi! Em đoán, anh không phải là người đa cảm."
                        "Ô, anh đa cảm chứ, em vừa nghe đấy: với xe hơi."
                        Từ tàng cây linh san, một con chim cu cất tiếng. Pat bắt đầu đếm.
                        "Tại sao em làm thế?"
                        "Anh không biết ư? Nó gáy bao nhiêu tiếng thì ta sẽ sống thêm bấy nhiêu năm."
                        "Ach, vậy à, đúng rồi. Nhưng có một con khác đang gáy nữa kìa. Khi nó gáy, hãy lắc tiền. Tiền sẽ sinh sôi nảy nở."
                        Tôi móc mấy đồng lẽ trong túi ra và bụm tay lại, lắc thật mạnh.
                        "Đúng là anh," Pat cười nói. "Em muốn cuộc sống, còn anh muốn tiền."
                        "Để có thể sống," tôi trả lời. "Một người duy tâm chân chính phải phấn đấu để có tiền. Tiền bạc cho ta tự do về mặt tinh thần. Và tự do là cuộc sống."
                        "Mười bốn," Pat đếm. "Trước đây, em nghe anh nói khác."
                        "Đấy là thời kỳ đen tối của anh. Ta không nên chê bai tiền bạc. Chính tiền là thứ làm cho nhiều người đàn bà say tình. Mặt khác, tình làm cho nhiều người đàn ông tham lam. Do đó, tiền sẽ thúc đẩy lý tưởng --tình yêu chống lại vật chất."
                        "Hôm nay là ngày tốt của anh," Pat nói. "Ba mươi lăm."
                        "Đàn ông," tôi tiếp tục nói, "trở thành tham lam vì dục vọng của người đàn bà. Nếu không có đàn bà, sẽ không có tiền, và đàn ông sẽ là một sắc tộc anh hùng. Dưới chiến hào, không có đàn bà -- nơi ấy, cũng thế, người đàn ông có nhiều tiền đến đâu cũng không kể. Nơi ấy, anh ta chỉ được coi như một người đàn ông mà thôi. Và không nói tới chiến hào đâu nhé; anh chỉ mô tả tình yêu dưới ánh sáng thực của nó. Nó khơi dậy bản năng xấu xa của con người -- thôi thúc được sở hữu, địa vị, lợi nhuận, an nhàn. Không phải vô cớ mà những nhà độc tài muốn thuộc cấp của họ có gia đình -- vì như thế, những người ấy sẽ ít nguy hiểm hơn. Cũng không phải tự dưng mà các linh mục Thiên Chúa Giáo sống độc thân -- nếu có vợ, họ sẽ không bao giờ là những nhà truyền giáo can trường."
                        "Hôm nay thật là một ngày tuyệt vời của anh," Pat nói một cách biết ơn. "Năm mươi hai."
                        Tôi cất tiền vào túi và châm thuốc.
                        "Em sắp ngừng đếm`hay chưa?" Tôi hỏi. "Nếu không coi chừng, em sẽ đếm hơn bẩy mươi cho xem."
                        "Một trăm mới được, Robby. Một trăm là con số đẹp. Em muốn sống lâu ngần ấy."
                        "Bái phục em! Em can đảm thật. Nhưng em sẽ làm gì với tất cả những năm ấy?"
                        Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân. "Em có những suy nghĩ khác với anh về chuyện ấy."
                        "Hẳn vậy, Nhưng bẩy mươi năm đầu là những năm gian khổ. Sau đó, chắc phải dễ dàng hơn."
                        "Một trăm!" Pat tuyên bố, và chúng tôi lại lên đường.
                        Biển đến với chúng tôi như một cánh buồm bạc mênh mông. Trước khi nhìn thấy biển rất lâu, chúng tôi đã ngửi được vị mặn trong gió; chân trời tươi sáng hơn và xa vời hơn; và đột nhiên, trước mắt chúng tôi, biển trải dài, cuồn cuộn, huy hoàng và vô tận.
                        Con đường uốn một khúc cong gần biển. Rồi đến một cánh rừng và đàng sau rừng là một ngôi làng. Chúng tôi hỏi thăm căn nhà nơi chúng tôi dự định ở trọ. Căn nhà ấy nằm bên ngoài làng một khoảng khá xa. Koster cho chúng tôi biết địa điểm này. Anh đã ở đây cả năm trời, sau chiến tranh.
                        Đó là một căn nhà nhỏ, biệt lập. Tôi lượn hai vòng, rồi đậu chiếc Citroen cạnh nhà và bóp kèn. Từ rèm cửa sổ, một gương mặt trèn trẹt nhô ra, há hốc mồm nhìn chúng tôi trong giây lát rồi biến đi. "Hy vọng đó không phải là Fraulein Muller," tôi nói.
                        "Diện mạo của bà ấy ra sao, cũng không ăn nhằm chi," Pat trả lời.
                        Cửa mở. May quá, người ấy không phải là Fraulein Muller mà là một bà giúp việc. Fraulein Muller, chủ nhân của căn nhà, xuất hiện một phút sau. Bà là một cô gái lỡ thời, chải chuốt, với mái tóc hoa râm. Bà mặc một chiếc áo đen che kín cổ và kim cài áo là một chiếc thánh giá vàng.
                        "Mang vớ vào đi, Pat, cẩn thận vẫn hơn," tôi thì thào với Pat, sau khi thấy cái kim cài áo, và bước xuống xe.
                        "Herr Koster có nói với bà về chúng tôi, phải không ạ?" tôi nói.
                        "Vâng, chú ấy có đánh điện báo cho tôi rằng cô cậu sắp đến," bà cẩn thận quan sát tôi. "Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
                        "Ach, khỏe lắm -- trong thời buổi này."
                        Bà gật đầu và lại chú tâm tra hỏi. "Cậu quen với Koster bao lâu rồi?"
                        Đã đến giờ thẩm cung, tôi nghĩ, và nói số năm tôi đã quen biết anh. Bà ra vẻ hài lòng. Pat xuất hiện. Nàng đã mang vớ. Ánh mắt của Fraulein Muller dịu lại. Dường như Pat dễ chiếm được cảm tình của người khác, hơn là tôi.
                        "Vậy bà đã để dành phòng cho chúng tôi?" tôi hỏi.
                        "Nếu Herr Koster gởi điện tín đặt phòng cho cậu," Fraulein Muller nhìn tôi đầy khiển trách và nói, "thì cô cậu sẽ có căn phòng đep nhất," bà nói với Pat.
                        Pat mỉm cười. Fraulein Muller cũng mỉm cười. "Tôi dẫn cô đi xem nhé," bà nói.
                        Hai người đi trên một lối hẹp băng qua một khu vườn nhỏ. Tôi đủng đỉnh theo sau và cảm thấy thừa thãi, bởi Fraulein Muller chỉ nói chuyện với Pat mà thôi.
                        Căn phòng mà bà cho chúng tôi xem nằm ở tầng trệt, có cửa riêng mở ra vườn hoa. Tôi thích nó lắm. Phòng khá rộng, sáng sủa và ấm cúng. Nằm một bên, gần như trong một cái hốc nhỏ, là hai chiếc giường đơn.
                        "Thế nào?" Fraulein Muller hỏi.
                        "Đẹp lắm," Pat nói.
                        "Thực ra, phải nói là tuyệt vời," tôi nói, cố lấy lòng bà. "Còn phòng kia ở đâu ạ?"
                        Fraulein Muller chậm rãi quay lại. "Phòng kia? Phòng nào cơ? Cậu muốn một phòng khác à? Cậu không thích phòng này sao?"
                        "Phòng tuyệt đẹp," tôi nói, "nhưng --"
                        "Nhưng?" Fraulein Muller nói, hơi gắt. "Chẳng may, tôi không còn phòng nào đẹp hơn nữa."
                        Tôi sắp sửa giải thích rằng chúng tôi cần hai phòng đơn, thì bà đã nói: "Nhưng vợ cậu đã nói, phòng này được lắm mà."
                        Vợ cậu -- tôi có cảm giác như té lùi hai bước. Nhưng tôi vẫn còn nguyên ở vị trí cũ. Tôi len lén nhìn Pat, nàng đang tựa mình vào cửa sổ, cố nén cười khi nhìn tôi. "Nhà tôi, hẳn thế --" tôi dán mắt vào cái thánh giá vàng trên cổ áo Fraulein Muller. Tôi không dám liều lĩnh giải thích. Bà ấy sẽ rú lên và té xỉu. "Chỉ có điều, chúng tôi quen ngủ hai phòng," tôi nói."Mỗi người một phòng, ý của tôi là thế."
                        Fraulein Muller lắc đầu phản đối. "Hai phòng ngủ, khi đã cưới nhau -- hẳn là phong trào hiện nay."
                        "Không phải thế," tôi nói trước khi bà bắt đầu nghi ngờ. "Chả là nhà tôi rất khó ngủ. Chẳng may, tôi lại ngáy khá to."
                        "Ach, phải rồi, cậu ngáy," Fraulein Muller nói, như thể đã đoán biết từ lâu.
                        Tôi đang lo, không hiểu bà sẽ cho tôi một phòng trên lầu hay không, nhưng rõ ràng, hôn nhân rất mực thiêng liêng với bà. Bà mở cửa sang một phòng nhỏ bên cạnh, trong ấy không bày biện món gì, ngoại trừ một cái giường.
                        "Hay tuyệt," tôi nói, "thế thì tuyệt hảo. Nhưng liệu tôi có làm phiền ai không?" tôi muốn biết, nếu chỉ có một mình chúng tôi ở tầng trệt này.
                        "Cậu sẽ không làm phiền ai," Fraulein Muller nói, vẻ oai vệ biến mất. "Ngoại trừ cô cậu ra, không có một mống nào. Tất cả mọi phòng đều trống khách." Bà đứng lặng một chốc, rồi lấy lại uy nghi cũ. "Cô cậu muốn ăn tại đây hay ở ngoài phòng ăn?"
                        "Tại đây," tôi nói.
                        Bà gật đầu và đi ra.
                        "Úi, bà Lohkamp ơi," tôi nói với Pat. "Thế cũng xong. Nhưng anh không bao ngờ được, cái ngữ ấy lại mộ đạo đến thế. Dường như bà ta không thích anh thì phải. Cũng lạ, bởi anh thường được mấy bà già quý mến."
                        "Không phải bà già, Robby. Một cô gái già dễ thương."
                        "Dễ thương?" tôi nhún vai. "Bà ấy không biết thẹn -- cao cả, kiêu kỳ đến thế, mà lại chẳng có con ma nào ở trọ!"
                        "Bà ấy có kiêu kỳ đâu."
                        "Không có với em."
                        Pat cười to. "Em thích bà ấy. Nhưng bây giờ, ta nên khuân hành lý vào và lấy quần áo tắm ra chứ?
                        Tôi bơi chừng một tiếng rồi lên phơi nắng trên bờ. Pat vẫn tắm dưới biển. Cái nón trắng của nàng nhấp nhô trên những ngọn sóng xanh. Vài con hải âu lượn tròn trên không. Phía chân trời, một chiếc tàu chậm chạp đi tới, một làn hơi nước kéo theo sau.
                        Mặt trời cháy bỏng. Nó làm chảy mềm từng chống đối, khiến chúng trở thành buông thả, hời hợt và ngầy ngật. Tôi nhắm mắt, xoãi chân tay. Cát nóng lèo xèo. Tiếng sóng vỗ bờ xào xạc bên tai, khiến tôi nhớ lại một điều gì đó, một ngày đã xa, tôi cũng nằm như thế ...
                        Đó là mùa hè, 1917. Đại đội của chúng tôi lúc ấy đóng tại Flanders và thình lình chúng tôi được mấy ngày phép ở Ostend -- Meyer, Holthoff, Bryer, Lutgens, tôi và vài người khác. Hầu hết mọi người chưa từng thấy biển, và những ngày hiếm hoi ấy -- một khoảng lặng không ngờ giữa hai đầu nỗi chết -- đã được tận hiến cho mặt trời, cát và biển. Chúng tôi ở lỳ suốt ngày trên bãi, phơi trần dưới nắng -- để có cảm giác nhẹ nhõm, không quân nhu, không súng trường, không áo trận, và hầu như đạt đến bình an. Chúng tôi đuổi bắt nhau trên cát và nhảy ùm xuống nước; chúng tôi ý thức về tay chân, về hơi thở, về những cử động, với tất cả sức sống mãnh liệt đang có -- bởi trong những giờ phút ấy, chúng tôi quên tất cả, và chúng tôi muốn quên. Nhưng buổi tối, khi hoàng hôn xuống, khi mặt trời đã lặn và bóng xám từ chân trời lan ra khắp mặt nước xanh xao, tuần tự pha trộn ở đấy cùng với tiếng gầm của sóng một tiếng động khác, lớn dần và cuối cùng nhấn chìm nó -- một âm thanh ầm ì, đáng sợ: trận mưa bom ngoài Tiền Tuyến. Rồi đột ngột, sự im lặng tím tái cắt ngang câu chuyện, người ta ngước lên trời nghe ngóng, và từ gương mặt tươi vui của các cậu học trò, mệt mỏi vì chơi đùa, bỗng lộ ra bộ mặt cứng rắn của người lính, sững sờ trong phút chốc, một nỗi buồn ẩn tàng những điều không bao giờ thổ lộ --lòng can đảm, nỗi cay đắng và tham lam của cuộc đời, ý chí tuân hành nhiệm vụ, niềm tuyệt vọng, lòng hy vọng và nỗi buồn bí ẩn của những người đã sớm được chỉ định cho cái chết. Rồi, vài ngày sau, cuộc Tổng Tấn Công bắt đầu, và đến mùng ba tháng Bảy, đại đội chỉ còn lại ba mươi hai người, và Meyer, Holthoff và Lutgens đã chết...
                        "Robby!" Pat gọi.
                        Tôi mở mắt. Trong một thoáng, tôi phải định thần xem mình ở đâu. Lúc nào cũng vậy, khi kỷ niệm của chiến tranh ùa về, hồn ta cứ lâng lâng nơi nao. Với những kỷ niệm khác, thì lại không như thế.
                        Tôi ngồi dậy, Pat từ dưới nước đi lên. Nàng gần như lọt trong luồng nắng từ mặt trời rọi xuống nước, huy hoàng phủ trên bờ vai, và nàng ngập sâu trong ánh sáng đến nỗi có vẻ đen sậm so với nó. Theo từng bước chân, nàng nhô cao dần cho đến khi mặt trời buổi chiều khuất sau đầu nàng như một vòng hào quang.
                        Tôi nhảy cẫng lên, thật siêu thực, thật rõ ràng đến đổi bức tranh trước mắt tôi như đến từ một thế giới khác --nền trời bao la, xanh ngát, bọt trắng viền ngọn sóng, và thân hình yêu kiều mảnh khảnh của nàng bên trên đó -- như chỉ có một mình tôi ở trái đất và từ dưới biển bước lên người đàn bà đầu tiên. Trong một chốc, tôi cảm thấy sức mạnh lộng lẫy im lìm của cái đẹp, và tôi biết nó mạnh hơn tất cả quá khứ nhuộm máu, nó phải mạnh hơn, nếu không thế giới sẽ sụp đổ, đắm chìm và hủy diệt trong mớ bòng bong của chính nó. Hơn thế, tôi còn có cảm tưởng rằng, chỉ đơn giản là, tôi ở đó, và Pat ở đó, rằng tôi đang sống, rằng tôi đã thoát khỏi chốn kinh hoàng, rằng tôi có đầy đủ mắt mủi tay chân và tư tưởng và nhiệt huyết, và rằng tất cả những thứ ấy quả thật là một phép mầu ngoài tầm hiểu biết của con người.
                        "Robby!" Pat lại gọi và vẫy tay.
                        Tôi nhặt manh áo choàng của nàng và bước nhanh đến. "Em ngâm nước quá lâu," tôi nói.
                        "Em vẫn thấy ấm," nàng nói, thở dốc.
                        Tôi hôn bờ vai ướt. "Em cần phải điều độ ngay từ đầu."
                        Nàng lắc đầu và rạng rỡ nhìn tôi. "Em đã sống điều độ quá đủ."
                        "Em nghĩ vậy?"
                        "Dĩ nhiên. Quá đủ. Em định em sẽ không giữ điều độ nữa, thử thay đổi xem sao."
                        Nàng cười và áp một bên má ướt lên mặt tôi. "Chúng ta sẽ không thèm sống chừng mực nữa, Robby. Không nghĩ ngợi về một điều gì, tuyệt đối không, chỉ bản thân chúng ta và mặt trời, mùa lễ và biển cả."
                        "Em nói đúng," tôi nói, và cầm cái khăn tắm. "Nhưng trước hết anh phải lau cho em. Thế nhưng, em đi đâu mà da đã nâu hồng?"
                        Nàng kéo áo choàng lên. "Đó là những năm sống điều độ, khi em phải phơi nắng ở ban -công mỗi ngày một giờ. Và lên giường mỗi tối đúng tám giờ. Tám giờ tối nay, em sẽ tắm nữa."
                        "Để xem," tôi nói. "Con người luôn có những dự tính lớn lao. Khi thực hành lại không bằng. Cái duyên của họ nằm ở đó."
                        Không tắm biển buổi tối. Chúng tôi đi bộ vào làng và lái chiếc Citroen trong ánh chiều tà -- đột nhiên Pat thấy mệt và muốn về. Tôi đã để ý thấy chuyện đó thường xảy ra cho nàng -- sức sống rạng ngời nhanh chóng kiệt quệ. Nàng yếu ớt và dễ mệt - tuy nhiên khi nhìn nàng, ta không hề có cảm tưởng ấy. Nàng luôn luôn tận dụng từng sớ nhỏ nguồn sinh lực của mình và với vẻ thanh xuân, trông như không thể nào kiệt sức; rồi thình lình đến một lúc, gương mặt của nàng trở nên xanh xao và đôi mắt trũng sâu với quầng đen -- thế là xong. Nàng không mệt mỏi từ từ, mà trong một giây.
                        "Chúng mình lái về nhà đi, Robby," nàng yêu cầu, và giọng nói u buồn của nàng trầm hơn bình thường.
                        "Về nhà? Về Fraulein Muller với cái thánh giá vàng trên ngực? Ai mà biết cái bà già quỷ quái ấy đang âm mưu gì?"
                        "Nhà, Robby," Pat nói và mệt mỏi ngã vào vai tôi. "Đó là nhà của chúng ta."
                        Tôi lái bằng một tay, còn tay kia choàng qua vai nàng. Và cứ thế chúng tôi lái chầm chậm trong hoàng hôn xanh, mù sương, và cuối cùng khi nhìn thấy những cửa sổ sáng đèn của ngôi nhà nhỏ, thu mình trong khoảng trống của thung lũng như một con thú buồn, quả tình có một điều gì đó giống như ta quay trở về tổ ấm.
                        Fraulein Muller chờ sẳn. Bà đã thay y phục và thay vì chiếc áo đen bằng len, bà mặc một chiếc áo lụa đen, cắt cùng một kiểu thanh giáo. Và thay cho cái thánh giá vàng là một huy hiệu gồm ba thứ: trái tim, mỏ neo và thánh giá -- biểu tượng tôn giáo của niềm tin, hy vọng, và tình yêu.
                        Rõ ràng bà tỏ ra thân thiện hơn chiều nay và bà hỏi rằng món trứng, thịt nguội và cá hun khói mà bà chuẩn bị cho bửa ăn tối có đúng ý chúng tôi không.
                        "Chắc là có," tôi nói.
                        "Cậu không thích sao? Cá bơn vừa hun khói." Bà nhìn tôi, khá lo ngại.
                        "Dĩ nhiên," tôi nói, lạnh nhạt.
                        "Cá bơn vừa hun khói nghe ngon lắm," Pat nói, nhìn tôi trách móc. "Một bửa ăn tối tuyệt hảo, đúng như ý muốn của người ta sau ngày đầu tiên ở biển, Fraulein Muller ạ. Và nếu như có thêm trà nóng nữa thì ---"
                        "Vâng, hẳn rồi. Trà ngon nóng. Hân hạnh. Tôi sẽ cho người mang ra ngay, " Fraulein Muller, bớt lo âu, vội vàng đi ra, tà áo lụa sột soạt.
                        "Anh không thích ăn cá sao?" Pat hỏi.
                        "Anh mà không thích? Lại là cá bơn nữa chứ! Anh đã mơ tưởng tới chúng nhiều ngày qua."
                        "Vậy tại sao anh lại hành động như vậy? Có phần quá đáng!"
                        "Anh phải trả thù cách bà ấy đón tiếp chúng ta lúc chiều, phải không?"
                        "Choáng thật!" Pat cười. "Anh không bao giờ tha thứ cho ai sao? Em đã quên chuyện ấy từ lâu."
                        "Anh chưa quên," tôi nói. "Anh không quên dễ dàng như thế."
                        "Vậy anh cần phải quên," Pat đáp.
                        Bà giúp việc mang khay thức ăn đến. Những con cá bơn da vàng như hoàng ngọc và thơm mùi biển và khói. Lại có cả tôm tươi.
                        "Anh bắt đầu quên rồi đó," tôi hăm hở nói. "Anh nhận thấy, ngoài ra, anh lại còn đói bụng khủng khiếp."
                        "Em cũng thế. Tuy nhiên trước tiên, cho em xin, mau lên, trà nóng. Lạ lắm, nhưng em đang lạnh cóng người. Mà bên ngoài trời vẫn ấm."
                        Tôi nhìn nàng. Nàng xanh xao, dù mỉm cười. "Anh không nói một tiếng nào hết, về chuyện em tắm quá lâu," tôi nói, và hỏi bà giúp việc: "Chị có rum không?"
                        "Cái gì?"
                        "Rum. Một thứ thức uống đóng chai."
                        "Rum?"
                        "Vâng."
                        "Hả?"
                        Bà ấy há hốc mồm nhìn, gương mặt phì phị, tròn vành vạnh như trăng.
                        "Hả?" bà ấy hỏi, một lần nữa.
                        "Tốt," tôi trả lời. "Thôi đừng để ý. Chào chị. Xin Chúa ban phước lành cho chị."
                        Bà ấy biến mất. "Thật may, Pat, chúng ta có một người bạn biết lo xa," tôi nói. "Sáng nay khi khởi hành, Lenz đã thẩy vào xe một cái gói khá nặng. Hãy xem coi trong ấy có gì."
                        Tôi ra xe lấy gói quà. Đó là một thùng nhỏ đựng bốn chai rum, một chai cognac và một chai port. Tôi dơ chúng lên cao. "Rum hiệu St. James nữa cơ! Các cậu ấy thật xứng đáng với lòng tin của ta."
                        Tôi khui các chai rượu và rót khá nhiều vào tách trà của nàng. Tay nàng run rẩy. "Em lạnh đến mức đó à?" tôi hỏi.
                        "Tạm thời thôi. Đã khá hơn lúc nãy. Rum ngon lắm. Nhưng em sẽ lên giường sớm."
                        "Ngay bây giờ, Pat ạ," tôi nói. "Mình có thể đẩy cái bàn vào và ăn tại đó."
                        Nàng bằng lòng. Tôi đem đến cho nàng một cái mền khác, lấy từ giường của tôi. Và tôi đẩy cái bàn vào đúng vị trí. "Có lẽ em cần một ly Grog, Pat? Như thế vẫn tốt hơn. Anh có thể pha một ly rất nhanh."
                        Nàng lắc đầu. "Em thấy khỏe lại rồi."
                        Tôi liếc nàng. Quả thực nàng trông khỏe hẳn. Mắt long lanh trở lại, môi đỏ au và làn da tươi sáng.
                        "Không thể ngờ kết quả nhanh thế," tôi nói. "Nhờ rum, chắc vậy."
                        Nàng mỉm cười. "Nhờ cái giường nữa, Robby. Trên giường, em hồi phục nhanh. Giường là chỗ an trú của em."
                        "Tuyệt vời. Anh sẽ phát điên nếu anh phải lên giường sớm. Một mình, ý của anh là vậy."
                        Nàng cười. "Với phụ nữ, lại khác."
                        "Đừng nói là với một phụ nữ. Em không phải là một người đàn bà."
                        "Vậy em là ai?"
                        "Anh không biết. Nhưng không phải là một người đàn bà, Nếu em là một người đàn bà chuẩn mực, anh sẽ không thể yêu em."
                        Nàng nhìn tôi. "Dù sao đi nữa, anh có thể yêu không?"
                        "Ơ," tôi nói, "đó là một câu hỏi rất hay trong giờ ăn tối. Em còn câu hỏi nào tương tự nữa không?"
                        "Có lẽ có. Nhưng câu này thì sao?"
                        Tôi rót cho mình một ly rum. "Pros't, Pat. Có lẽ em đúng. Có lẽ không một ai trong chúng ta có thể yêu. Không như ngày xưa, anh muốn nói thế. Nhưng không phải vì vậy mà tệ hơn. Chỉ là khác biệt. Chúng ta không còn thấy như thế nữa."
                        Có tiếng gõ cửa. Fraulein Muller đi vào. Bà cầm một cái bình thủy tinh bé như ngón tay chỉ có một giọt chất lỏng sóng sánh dưới đáy. "Tôi đem rum đến cho cô cậu."
                        "Cám ơn," tôi nói, vô cùng xúc động và ngắm cái đê thủy tinh. "Thật quý hóa, nhưng chúng tôi đã tự lo liệu."
                        "Trời ơi!" Bà mất hồn, trố mắt nhìn bốn chai rượu trên bàn. "Cô cậu uống hết ngần ấy sao?"
                        "Để chửa bệnh thôi," tôi nhẹ nhàng nói và tránh nhìn vào mắt Pat. "Uống theo toa bác sĩ. Gan của tôi khô quá, Fraulein Muller ạ. Nhưng cho tôi hân hạnh được mời bà nhé?"
                        Tôi khui chai port. "Mừng sức khỏe của bà! Xin chúc nhà trọ được đông khách."
                        "Rất cảm ơn." Bà thở dài, khẻ cúi chào và nhấp từng chút rượu, nhỏ nhẹ như một con chim. "Ngày lễ vui nhé!" Rồi bà mỉm cười nhìn tôi, ra vẻ hiểu biết. "Rượu mạnh. Và ngon lắm."
                        Ly rượu trong tay tôi suýt nữa rơi tuột trước chuyển biến này. Gò má Fraulein Muller ửng hồng, mắt long lanh và bà bắt đầu chỉ dạy những chuyện mà chúng tôi chẳng mấy quan tâm. Với bà, Pat có lòng nhẫn nại của một thiên thần. Cuối cùng, Fraulein quay lại tôi.
                        "Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
                        Tôi gật đầu.
                        "Thuở đó, cậu ấy rất lặng lẽ," bà nói. "Có khi suốt ngày chẳng nói một tiếng nào. Bây giờ cậu ấy vẫn như thế?"
                        "Thỉnh thoảng anh ấy có trò chuyện."
                        "Cậu ấy sống ở đây gần một năm. Một mình --"
                        "Vâng," tôi nói. "Lúc đó người ta có khuynh hướng nói ít hơn."
                        Bà long trọng gật đầu, rồi nhìn qua Pat. "Chắc cô mệt lắm."
                        "Hơi mệt ạ," Pat nói.
                        "Mệt vô cùng," tôi xen vào.
                        "Vậy, tất nhiên tôi sẽ lui ra," bà giật mình đáp. "Tạm biệt cô cậu, ngủ ngon nhé."
                        Bà ngập ngừng bước đi.
                        "Anh nghĩ bà ấy còn muốn ngồi lại," tôi nói. "Lạ nhỉ, đột nhiên thay đổi, tại sao?"
                        "Tội nghiệp bà ấy," Pat trả lời. "Đêm đêm cô đơn trong phòng, em chắc vậy, lo âu."
                        "Ach, thế đấy
                        "Vâng," nàng vuốt tóc tôi. "Hé cửa dùm em, Robby."
                        Tôi ra mở cửa. Ngoài kia, trời trong hơn và một mảng trăng rơi trên lối đi, len vào phòng. Như thể vườn hoa đã chờ sẳn đến khi cửa mở -- hương đêm của những loài hoa lập tức ùa vào, mùi quế trúc, mộc tê và hồng hoa thơm ngát.
                        "Nhìn kìa em," tôi nói, trỏ tay.
                        Dưới ánh trăng ta có thể thấy trọn vẹn lối đi trong vườn. Những thân hoa gục đầu hai bên lề, lá ánh màu bạc cũ, và những bông hoa tươi thắm lúc ban ngày nay ngã sang màu phấn tiên, óng ánh, ma quái và nhàn nhạt. Đêm và trăng đã đánh cắp sức mạnh của sắc màu của chúng -- nhưng bù lại, hương nồng hơn, ngọt hơn.
                        Tôi nhìn qua Pat. Tóc huyền xõa trên nền gối trắng, Pat mềm mại, thanh nhã và mong manh. Nàng không có nhiều sức mạnh -- nhưng nàng cũng có sự bí ẩn của một thứ gì dễ tàn phai, bí ẩn của những bông hoa trong hoàng hôn và dưới ánh trăng lung linh.
                        Nàng nhỏm người lên. "Em mệt vô cùng, Robby. Tệ quá anh nhỉ?"
                        Tôi ngồi trên giường, cạnh nàng. "Không đâu. Em sẽ ngủ yên."
                        "Nhưng anh đâu đã muốn đi ngủ?"
                        "Anh sẽ đi dạo ở bãi biển trước vậy."
                        Nàng gật đầu và ngã mình xuống. Tôi ngồi đó một lúc.
                        "Anh cứ để cửa mở suốt đêm nhé," nàng nói, đã say ngủ. "Như thế giống như ngủ trong vườn."
                        Hơi thở của nàng sâu dần và tôi nhẹ nhàng đứng lên và đi ra vườn. Tôi đứng bên hàng rào gỗ và hút một điếu thuốc. Ở đó, tôi có thể nhìn vào phòng. Áo tắm của Pat móc trên ghế, áo đầm và mấy thứ đồ lót vứt trên đấy, và dưới đất phía trước ghế là đôi giày của nàng. Một chiếc lật nghiêng. Tôi có cảm giác như đang ở nhà khi nhìn quang cảnh ấy, và nghĩ rằng, it nhất bây giờ cũng có ai đó ở đó và sẽ ở đó, rằng tôi chỉ cần bước vài bước là có thể gặp nàng và được ở bên nàng, hôm-nay, ngày-mai, và có lẽ cả một đời --
                        Có lẽ, tôi nghĩ, có lẽ -- lúc nào cũng hai chữ đó, người ta không thể tránh được. Chúng ta thiếu sự chắc chắn, mọi người và mọi thứ đều thiếu sự chắc chắn.
                        Tôi ra bãi biển, đến với đại dương và gió, đến với âm thanh ầm ì với tiếng dội như tiếng bom từ xa vọng lại.


                        Erich Maria Remarque

                        Chiến hữu

                        Chương 16

                        Tôi ngồi ở bãi biển, ngắm mặt trời lặn. Pat không ra. Cả ngày hôm nay, nàng không khỏe lắm.
                        Trời tối dần, tôi đứng dậy đi về. Vừa khi ấy, qua rừng cây, tôi nhìn thấy bà giúp việc đang lúp xúp chạy tới. Bà huơ tay ra dấu và la hét một điều gì đó. Tôi không hiểu; tiếng gió và biển quá lớn. Tôi vẫy tay cho bà ấy đứng lại; tôi sẽ chạy tới chỉ trong một phút. Nhưng bà ấy tiếp tục, tay chụm quanh miệng.
                        "Vợ ông ..." tôi nghe. "Nhanh lên ..."
                        Tôi phóng tới. "Chuyện gì thế?"
                        Tôi cuống cuồng chạy thục mạng trên con đường cát xuyên qua cánh rừng thưa dẫn về nhà trọ. Cổng rào gỗ bị kẹt; tôi nhảy qua và ào vào phòng. Pat nằm đó, ngực đẫm máu, tay nắm chặt, máu trào ra từ miệng. Fraulein Muller đứng cạnh, với khăn lông và một chậu nước.
                        "Cái gì thế?" tôi la lên, đẩy bà sang một bên.
                        Bà nói một câu gì đó. "Đem bông băng lại!" tôi khóc. "Vết thương ở chỗ nào?"
                        Bà nhìn tôi, môi run rẩy. "Không có vết thương ..."
                        Tôi cứng người. "Thổ huyết," bà nói.
                        Tôi có cảm giác bị búa bổ. "Thổ huyết?" Tôi đứng lên, giật thau nước khỏi tay bà. "Đem nước đá tới, mau lên, nước đá."
                        Tôi nhúng khăn vào chậu nước, và trải trên ngực Pat.
                        "Nhà không có nước đá," Fraulein Muller nói.
                        Tôi quay ngoắt lại. Bà thụt lùi. "Nước đá, khổ quá bà ơi! Chạy ra quán rượu gần nhất. Và gọi điện cho bác sĩ ngay lập tức."
                        "Nhưng chúng tôi không có điện thoại ..."
                        "Quỷ thần ơi! Chỗ nào gần đây có điện thoại?
                        "Nhà Massmann."
                        "Đi ngay. Nhanh lên! Gọi điện cho bác sĩ gần nhất. Bác sĩ tên gì? Nhà ở đâu?"
                        Trước khi bà kịp trả lời, tôi đẩy bà. "Mau lên, mau lên, cố chạy thật mau. Bao xa vậy?"
                        "Ba phút," bà nói và lật đật đi ra.
                        "Đem nước đá về nhé," tôi gọi vói theo.
                        Bà gật đầu và chạy đi.
                        Tôi lấy thêm nước và một lần nữa nhúng khăn vào. Tôi không dám động tới Pat. Tôi không biết nàng nằm như thế là đúng cách hay không; tôi tuyệt vọng vì tôi không biết điều tôi cần biết -- nên lót gối dưới đầu nàng, hay để nàng nằm thẳng.
                        Nàng nấc nghẹn, rồi trỗi dậy và phun ra một bụm máu. Hơi thở eo éo như tiếng khóc, đôi mắt hoảng loạn, nàng nuốt và nghẹn và ho, và máu lại phún ra. Tôi ôm chặt nàng, một tay luồn dưới vai. Tôi cảm nhận phiến lưng rung giật, vật vã-- thời gian như kéo dài vô tận. Rồi nàng lả ra, mềm nhũn.
                        Fraulein Muller bước vào. Bà nhìn tôi, và trông như một bóng ma.
                        "Chúng ta phải làm sao bây giờ?" tôi gào lên.
                        "Bác sĩ sẽ đến ngay," bà thì thầm."Nước đá ... đặt lên ngực cô ấy -- và trong miệng, nếu cậu có thể ..."
                        "Dựng cô ấy dậy hay để cô ấy nằm? Chúa ơi, bà làm ơn nói nhanh hơn một chút được không?"
                        "Y như thế, để cô ấy nằm -- bác sĩ tới liền bây giờ."
                        Tôi chườm đá vụn lên ngực Pat, và bớt lo âu, vì rồi ra tôi cũng làm được một điều gì. Tôi đập cho đá vỡ, bọc trong gạc thưa và đặt chúng lên, nhưng lúc nào tôi cũng chỉ nhìn thấy hình ảnh của đôi môi yêu dấu, đôi môi thống khổ, đôi môi, đôi môi ứa máu ...
                        Kìa, tiếng nổ bành bạch của một chiếc mô tô. Tôi nhảy lên. Bác sĩ.
                        "Tôi có thể giúp gì không?" tôi hỏi. Bác sĩ lắc đầu và mở túi cứu thương. Tôi đứng bên giường cạnh ông, tay nắm cứng cọc giường. Ông nhìn lên. Tôi lùi lại, mắt vẫn dán chặt vào ông. Ông khám lồng ngực Pat. Pat rên khẻ.
                        "Có nguy hiểm không bác sĩ ?" tôi hỏi.
                        "Vợ cậu điều trị ở đâu vậy?" ông trả lời.
                        "Cái gì? Điều trị?" tôi lắp bắp.
                        "Ai là bác sĩ của cô ấy?" ông ta nóng nẩy hỏi.
                        "Tôi không biết ..." tôi trả lời. "Không, tôi không biết gì cả ... tôi không tin là ..."
                        Ông nhìn tôi. "Nhưng cậu phải biết."
                        "Nhưng tôi không biết. Cô ấy không bao giờ nói cho tôi biết gì cả."
                        Ông cúi xuống, hỏi Pat. Nàng cố trả lời. Nhưng một lần nữa, cơn ho đỏ thắm lại bật ra. Bác sĩ nâng nàng lên. Nàng hớp từng ngụm không khí và thở khò khè, mệt nhọc.
                        "Jaffé," nàng hổn hển nói, ồng ộc.
                        "Felix Jaffé? Giáo sư Felix Jaffé?" bác sĩ hỏi. Đôi mắt nàng xác nhận. Ông quay lại tôi. "Cậu gọi điện thoại cho giáo sư được không? Có thể mời giáo sư đến không?"
                        "Vâng, vâng," tôi trả lời. "Tôi sẽ gọi ngay. Rồi tôi sẽ đi đón ... Jaffé?"
                        "Felix Jaffé," bác sĩ nói. "Hỏi nhân viên tổng đài số điện thoại của ông ấy."
                        "Liệu cô ấy có qua khỏi không, bác sĩ ?" tôi tiếp tục hỏi.
                        "Cần phải ngừng thổ huyết," bác sĩ nói.
                        Tôi tìm thấy bà giúp việc và khởi chạy trên đường làng. Bà chỉ tôi căn nhà có điện thoại. Tôi hộc tốc chạy đến, gõ cửa. Một nhóm người đang quây quần uống cà phê và bia. Tôi liếc nhìn họ và không thể hiểu vì sao người ta lại có thể uống bia trong khi Pat đang xuất huyết. Tôi xin tổng đài gọi khẩn và đứng chờ bên điện thoại. Trong khi lắng nghe tiếng u u của bóng tối, tôi nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ, sống động qua phần kính lắp trên cánh cửa đi vào một căn phòng khác. Một cái đầu hói nhấp nhô tới lui, vàng vọt dưới ánh đèn, một cái kim cài áo trên lớp gấm đen của một cái áo đăng ten thít chặt, một cái càm đôi với cặp kính kẹp mủi và búi tóc cao ngất ngưởng -- một bàn tay già nua xương xẩu gân thô gõ nhịp trên bàn ... tôi không muốn nhìn, nhưng chẳng đặng đừng; nó cứ xoáy vào mắt tôi như một nguồn ánh sáng chói lòa.
                        Cuối cùng tôi cũng được trả lời. Tôi xin gặp giáo sư. "Rất tiếc," bà y tá nói. "Giáo sư Jaffé đã ra ngoài."
                        Tim tôi ngừng đập, rồi nện thình thịch như búa tạ. "Giáo sư đang ở đâu? Tôi cần phải nói chuyện với giáo sư ngay bây giờ."
                        "Tôi không biết. Giáo sư có thể đang ở bệnh viện."
                        "Xin sơ làm ơn gọi đến bệnh viện. Tôi sẽ đợi. Sơ có điện thoại khác, hẳn thế?"
                        "Xin chờ một chút." Tiếng gầm rú lại bắt đầu, bóng tối không đáy, bên trên là một sợi kim loại mỏng đong đưa. Tôi giật nảy mình. Trong lồng chim phủ khăn bên cạnh tôi, một con hoàng yến ríu rít. Lại có tiếng của bà sơ. "Giáo sư Jaffé vừa rời bệnh viện."
                        "Đi đâu?"
                        "Tôi không thể nói, thưa ông."
                        Thua. Tôi dựa lưng vào vách.
                        "A-lô!" bà sơ hỏi. "Ông vẫn còn đó?"
                        "Vâng. Xin hãy nghe -- sơ không biết khi nào giáo sư trở lại?"
                        "Không thể biết."
                        "Giáo sư không dặn dò gì sao? Hẳn giáo sư phải nói cho ai biết chứ! Nhỡ có chuyện gì xảy ra, ta mới có thể tiếp xúc với giáo sư, phải không?"
                        "Có bác sĩ trực ở bệnh viện."
                        "Sơ có thể nào ... không, như thế cũng chẳng ích gì, bác sĩ ấy cũng chẳng biết gì ... Thôi được, sơ ạ," tôi nói, rã rời như chết. "Nếu giáo sư Jaffé trở lại, xin giáo sư vui lòng gọi liền cho tôi, khẩn cấp." Tôi đọc cho sơ y tá số điện thoại. "Tối khẩn, xin sơ làm ơn nói dùm. Một vấn đề sống chết."
                        "Ông có thể tin tưởng nơi tôi, thưa ông. " Bà lập lại số điện thoại rồi cúp máy.
                        Tôi đứng đó, một mình. Những cái đầu đung đưa, mảng trán hói, cái kim cài áo, căn phòng kia, tất cả nhẳn thín như cao su, xa diệu vợi. Tôi nhìn quanh. Tôi không thể làm gì thêm, ở đây. Chỉ còn nói với họ, xin nhắn tôi nếu có ai gọi. Nhưng tôi không đành lòng rời khỏi điện thoại. Như thể buông bỏ dây cứu hộ. Bỗng nhiên tôi hiểu ra. Tôi cầm ống nghe và xin số của Koster. Chắc anh ấy đang có mặt ở đó. Không thể nào khác hơn.
                        Và rồi, trong cơn náo nhiệt đêm nay, giọng nói trầm lặng của Koster vang lên. Và tôi lập tức bình tỉnh, và tôi kể tất cả cho anh nghe. Tôi biết anh ghi chép lại.
                        "Được rồi," anh nói. "Tớ sẽ đi tìm ông ấy ngay. Tớ sẽ gọi lại. Đừng lo, tớ sẽ tìm được ông ấy."
                        Đã xong? Trái đất ngừng quay. Lời nguyền đã giải. Tôi chạy về.
                        "Sao?" ông bác sĩ hỏi, "cậu tìm được ngài giáo sư chứ?"
                        "Không," tôi nói, "nhưng tôi nói chuyện với Koster."
                        "Koster? Chưa bao giờ nghe đến tên này. Ông ấy nói gì? Cách chữa trị của ông ấy ra sao?"
                        "Chữa trị? Anh ấy có chữa chạy gì đâu. Anh ấy đi tìm một người."
                        "Tìm ai?"
                        "Jaffé."
                        "Lạy Chúa tôi -- vậy Koster là ai?"
                        "Ach so -- xin lỗi! Koster là bạn tôi. Anh ấy đi tìm giáo sư Jaffé. Tôi không gặp được Jaffé."
                        "Thật đáng tiếc!" ông bác sĩ nói, và quay lại Pat.
                        "Anh ấy sẽ tìm được ông ta," tôi nói. "Nếu ông ta chưa chết, anh ấy sẽ tìm được."
                        Ông bác sĩ nhìn tôi như thể tôi điên lắm, rồi nhún vai.
                        Ánh đèn bao phủ căn phòng. Tôi hỏi tôi có thể làm được gì không. Bác sĩ lắc đầu. Tôi chăm chú nhìn ra cửa sổ. Pat lại mắc nghẹn. Tôi đóng cửa sổ và đứng ở ngạch cửa. Tôi canh chừng con đường.
                        Bất thình lình tôi nghe tiếng la. "Có điện thoại!"
                        Tôi quay ngoắt lại. "Điện thoại! Tôi có nên đi không?"
                        Bác sĩ nhảy lên. "Không, để tôi đi. Tôi nói chuyện với ông ấy dễ hơn. Cậu ở đây. Đừng làm gì nhé. Tôi sẽ sớm trở lại."
                        Tôi ngồi trên giường, cạnh Pat. "Pat," tôi âu yếm nói, "có bọn anh. Bọn anh sẽ chăm sóc em! Không để em bị hại. Không để cho thứ gì xâm phạm đến em. Giáo sư đang nói chuyện. Ông ấy sẽ chỉ dẫn chúng ta. Ngày mai ông ấy sẽ tới đây. Bọn anh đã lo liệu xong. Ông ấy sẽ giúp em. Em sẽ lành bệnh. Sao em không bao giờ nói cho anh biết là em mắc bệnh? Một chút xíu máu không ăn thua gì, Pat. Bọn anh sẽ đền lại. Koster đã tìm được giáo sư, Pat. Chúng ta sẽ ổn thôi."
                        Bác sĩ trở lại. "Không phải giáo sư."
                        Tôi đứng lên.
                        "Một người bạn của cậu -- Lenz."
                        "Koster chưa tìm được ông ấy?"
                        "Tìm được rồi. Jaffé đã dặn cậu ấy những việc cần làm. Lenz, bạn của cậu, chuyển lời lại cho tôi. Rõ ràng và chính xác lắm. Thế bạn cậu là bác sĩ à?"
                        "Không ạ. Anh ấy muốn thành bác sĩ. Còn Koster thì sao?"
                        Bác sĩ nhìn tôi. "Lenz nhờ tôi nói với cậu, Koster đã lên đường mấy phút trước. Với ngài giáo sư. Hai giờ nữa, ông ấy sẽ tới."
                        Tôi dựa vào thành giường. "Otto," tôi nói.
                        "Vâng," bác sĩ đáp, "đó là điều sai lầm của cậu ấy. Tôi biết đường xá ở đây. Nhanh lắm cũng phải hơn ba giờ. Tuy thế ..."
                        "Nếu anh ấy nói hai giờ, thì bác sĩ có thể tin được, anh ấy sẽ có mặt ở đây trong hai giờ."
                        "Không thể nào. Đường ngoằn ngoèo, và hơn nữa, trời đã tối."
                        "Bác sĩ sẽ thấy," tôi nói.
                        "Dù sao chăng nữa ... nếu ông ấy đến được ... thì tốt lắm ..."
                        Cuối cùng tôi không chịu nỗi. Tôi đi ra ngoài đồng trống. Trời đã có sương mù. Sóng biển vỗ ì ầm đàng xa. Sương móc rơi từ cành lá. Tôi nhìn quanh. Tôi không còn cô độc nữa. Về hướng nam, xa tít ngoài chân trời, đâu đó có một động cơ đang gầm rú. Xa vút ngoài màn sương, sự giúp đỡ đang bon bon trên những nẽo đường nhợt nhạt, đèn pha quét hai luồng sáng về phía trước, lốp xe xiết như tiếng huýt sáo và hai tay ai cứng như gọng kìm nắm chặt bánh lái, đôi mắt ai soi thủng màn đêm, sắc lạnh, hẳn nhiên rồi -- đôi mắt của một chiến hữu của tôi ...
                        Về sau Jaffé kể lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra.
                        Sau khi nói chuyện qua điện thoại với tôi, Koster gọi ngay Lenz để anh ấy chuẩn bị trước. Rồi anh và Lenz hộc tốc lái Karl đến bệnh viện của Jaffé. Y tá trực tin rằng ông ấy đã đi ăn tối. Bà cho Koster tên của vài tiệm ăn mà ông ấy thường lui tới. Koster lập tức lái đi. Anh không đếm xỉa gì đến tín hiệu lưu thông -- anh phe lờ đám cảnh sát dang tay múa chân. Anh luồn lách trong dòng xe cộ như một con ngựa sổng chuồng. Đến quán thứ tư, anh tìm được giáo sư. Jaffé nhớ ngay ra Pat. Ông bỏ dở bửa ăn và đi với anh. Họ về nhà ông lấy những vật dụng cần thiết. Và đó là chặng đường duy nhất mà Koster lái nhanh nhưng không lạng lách. Anh không muốn giáo sư hốt hoảng lúc ban đầu. Trên đường, Jaffe hỏi Koster chỗ Pat đang ở. Koster nói tên một nơi, cách đó khoảng bốn mươi kí lô mét. Anh muốn giáo sư chịu lên xe trước đã. Sau đó chuyện gì cần xảy ra, sẽ xảy ra. Trong lúc sắp xếp hành lý, Jaffe chỉ dẫn cách sơ cứu để Lenz nhắn lại chúng tôi. Rồi ông ngồi vào xe với Otto.
                        "Có nguy kịch không?" Koster hỏi.
                        "Nguy lắm," Jaffé nói.
                        Từ lúc ấy trở đi, Koster biến thành một con quỷ trắng biết bay. Anh cho xe nhảy chồm lên và phóng vút đi. Anh lái xe táo tợn, leo hai bánh trên lề, chạy vào đường một chiều, tìm con đường ngắn nhất để ra khỏi thành phố.
                        "Cậu có điên không vậy?" giáo sư rú lên khi Koster luồn ngay dưới cái cảng cao của một chiếc xe buýt, chựng lại một giây, rồi tiếp tục rồ máy hết ga.
                        "Lái chậm lại," giáo sư rên, "có ích gì nếu ta gặp tai nạn?"
                        "Ta sẽ không gặp tai nạn."
                        "Chúng ta sẽ có tai nạn, trong hai phút, nếu cậu cứ lái theo kiểu này."
                        Koster lạng sang trái, qua mặt một chiếc xe điện. "Không!" Giờ anh lái trên một con đường dài. Anh nhìn giáo sư. "Tôi biết tôi phải đưa giáo sư tới nơi an toàn. Giáo sư hãy tin tưởng vào tôi."
                        "Nhưng chạy đua như thế để làm gì? Cậu chỉ đến sớm vài phút thôi."
                        "Không," Koster nói, né một chiếc xe tải chở đầy đá; "chúng ta còn phải đi hai trăm bốn mươi kí lô mét nữa."
                        "Cái gì, cậu nói sao?"
                        "Đúng vậy ..." Xe chui tọt qua một khoảng trống giữa xe giao thư và xe buýt ... "Tôi không dám nói trước với giáo sư chuyện đó."
                        "Không." Koster đã ra tới ngoại ô. Gió thổi bạt tiếng của anh. "Tôi đã hỏi dò -- xe lửa khởi hành rất trễ." Anh lại nhìn Jaffé.
                        Có lẽ giáo sư nhận ra một điều gì đó trên mặt anh. "Cô ấy là người của cậu hả?" ông hét.
                        Koster lắc đầu. Anh không trả lời thêm câu hỏi nào nữa. Anh bỏ lại những khu vườn nhỏ và lái vào miền quê trống trải. Xe chạy với vận tốc tối đa. Giáo sư co ro nép sau tấm kính chắn gió hẹp. Koster nhường cái mũ da của mình cho ông.
                        Còi rú không ngừng. Rừng cây dội lại âm thanh nức nở của nó. Koster chỉ chậm lại khi băng qua những thôn làng khi cần. Đàng sau tiếng vọng như sấm của động cơ nổ, những dãy nhà tiếp nối vào nhau như bóng của một dây phơi quần áo, và xe phóng vút qua chúng, móc vội chúng vào trong vũng ánh sáng chói lòa và với tia đèn pha của nó, rồi biến mất vào màn đêm xa kia.
                        Lốp xe bắt đầu gầm, rít, rên, huýt; máy xe vẫn cống hiến sức lực của nó. Koster cúi rạp người, dồn hết tâm trí vào những thứ ở phía trước, toàn thân của anh là một cái tai vĩ đại, một cái lọc lược tiếng sấm và những tiếng sột soạt rất khẻ, bởi lẽ mỗi tiếng gừ gừ hay nổ đánh độp hay kéo lê thê, có nghĩa là xâm lốp bị thủng và sự chết.
                        Mặt đường trở nên trơn ướt. Trên một đoạn đầy đất sét, xe trượt đảo. Koster bắt buộc phải bớt tốc độ. Sau đó, để bù lại, anh chạy nhanh hơn ở những khúc ngoặt. Anh không lái bằng lý trí nữa, mà bằng trực giác. Đèn pha soi hai mảng ở khúc quanh; nhưng khi ta lái đến nơi thì khúc cong tối đen như mực. Koster phải phụ thêm đèn rọi, nhưng chùm tia quá nhỏ.
                        Giáo sư im thin thít.
                        Bất thình lình không khí lóng lánh trong ánh đèn pha; ánh sáng như nhuộm -- một màu bạc tái, một lớp voan đục. Đó là lần duy nhất, Jaffé nghe Koster chửi thề. Một phút sau, họ đã ở trong vùng sương mù dày đặc.
                        Koster hạ tầm đèn. Họ bơi trong một khối bông nõn, bóng tối lặng lẽ lùi ra sau, những con ma trong biển sữa; không còn đường lộ nữa, chỉ là đoán chừng và may mắn, bóng tối lù lù nhô ra rồi nhỏ dần theo tiếng nổ của máy xe.
                        Mười phút sau, khi đã ra khỏi chỗ ấy, gương mặt Koster hốc hác hẳn. Rồi một lần nữa, anh lại xả hết tốc độ, rạp người, lạnh lùng và tự chủ ...
                        Trong phòng, không khí nỏng rin rít và nặng như chì.
                        "Máu đã ngừng chảy chưa, thưa bác sĩ?" tôi hỏi.
                        "Chưa," bác sĩ đáp.
                        Pat nhìn tôi. Tôi mỉm cười. Nụ cười trở thành cái nhăn mặt đau thương. "Nửa giờ nữa," tôi nói.
                        Bác sĩ nhìn đồng hồ tay. "Một giờ rưỡi, hoặc hai giờ. Trời đang mưa."
                        Mưa nhỏ giọt tí tách trên các phiến lá của cành cây, bụi kiểng trong vườn. Tôi gương mắt cố nhìn qua màn đêm. Bao lâu rồi, từ khi chúng tôi, Pat và tôi, thức giấc giữa đêm, ra vườn, ngồi giữa các bụi hoa và dây leo và Pat khẻ hát một khúc ru em? Bao lâu rồi, từ khi ánh nguyệt bạch soi trên lối đi và Pat, như một con thú uyển chuyển, len lách theo, giữa những lùm cây?
                        Dễ có đến lần thứ một trăm tôi đi ra cửa. Tôi biết làm như thế là vô ích; nhưng nó thâu ngắn đợi chờ. Trời mù sương. Tôi chửi thề; tôi biết điều ấy có nghĩa gì với Koster. Một con chim hót ngoài kia, trong bóng tối.
                        "Nín đi," tôi gầm. Trong đầu tôi, một ý nghĩ nhoáng lên, loài chim mang điềm gỡ! "Mình nghĩ nhãm," tôi nói to. Một con bọ cánh cứng rè rè đâu đây -- nhưng nó không đến gần -- nó không đến gần. Tiếng kêu của nó đều đều; lúc ngừng -- lúc trở lại -- và trở lại lần nữa. Tôi bỗng run rẩy. Không phải bọ cánh cứng; đó là tiếng động của một chiếc xe đang chạy ở xa, quẹo ở các khúc ngoặt với tốc độ rất nhanh. Tôi đứng im như tượng -- tôi nín thở và há mồm ra để nghe cho rõ. Một lần nữa ... một lần nữa ... ánh đèn, tiếng u u the thé, như tiếng vo ve của một con ong bắp cày giận dữ ... Và bây giờ, rõ hơn, tôi có thể phát hiện tiếng máy ép -- và rồi đường chân trời, kéo dãn đến điểm tới hạn, bỗng vỡ thành một vô cực mềm mại, chôn vùi dưới nó sức mạnh và sợ hãi và kinh hoàng ...
                        Tôi chạy vào. Bám lên cửa cho vững, "Họ sắp tới!" tôi kêu. "Bác sĩ, Pat, họ sắp tới! Tôi có thể nghe tiếng xe của họ!"
                        Suốt đêm, bác sĩ đối xử với tôi như một người dở điên dở khùng. Nhưng ông cũng đi ra, nghe ngóng. "Có thể là xe của người khác," sau cùng, ông nói.
                        "Không, tôi quen với tiếng máy xe."
                        Ông nhìn tôi, bực dọc. Rõ ràng, ông nghĩ ông cũng là một người ái mộ xe hơi. Với Pat, ông kiên nhẫn và tận tụy như một người mẹ; nhưng mỗi lần tôi nhắc đến xe cộ, ông lại gườm gườm nhìn tôi qua cặp kính và chứng tỏ là ông thông thạo hơn. "Không thể được," ông nói cụt lủn và quay vào nhà.
                        Tôi vẫn ở ngoài sân. Tôi rung lên vì kích động. "Karl! Karl!" tôi gọi. Tiếng ồm ồm, tiếng nỉ non liên tiếp xen nhau -- chiếc xe hẳn đã vào trong làng, chạy với vận tốc cực nhanh giữa những ngôi nhà. Tiếng rên rĩ yếu dần; nó ở đàng sau cánh rừng -- và bây giờ nó lại kêu lớn lên, dồn dập, chiến thắng -- một ngọn đèn pha qua sương mù: cặp đèn trước đầu xe; một tiếng động như sấm nổ ... Không thể nào tin được, bác sĩ ra đứng cạnh tôi. Thình lình ánh đèn chói đến nỗi lóa mắt chúng tôi và với tiếng thắng ren rét, xe ngừng lại trước cổng vườn.
                        Tôi chạy ào ra. Giáo sư bước xuống xe lập tức. Ông không để ý đến tôi, mà đi thẳng tới bác sĩ. Koster theo sau.
                        "Cô ấy ra sao rồi?" anh hỏi.
                        "Vẫn còn thổ huyết."
                        "Cô ấy sẽ ổn thôi," anh nói. "Cậu đừng lo nữa."
                        Tôi không nói gì, chỉ nhìn anh ...
                        "Cậu có thuốc lá không?" anh hỏi.
                        Tôi đưa anh một điếu. "Thật tốt, cậu đã tới đây, Otto."
                        Anh rít mấy hơi dài. "Tớ cũng hy vọng là thế."
                        "Chắc cậu lái nhanh lắm?"
                        "Cũng không tệ. Chỉ có một khúc sương mù."
                        Chúng tôi ngồi cạnh nhau, trên ghế trong vườn và chờ.
                        "Cậu có nghĩ rằng cô ấy sẽ qua khỏi không?"
                        "Dĩ nhiên cô ấy sẽ sống sót. Thổ huyết không nguy hiểm đâu."
                        "Cô ấy chẳng hề nói một lời về chuyện ấy với tớ."
                        Koster gật đầu.
                        "Cô ấy phải sống, Otto," tôi nói.
                        Anh không nhìn lên. "Chúng ta hút thêm một điếu nữa," anh nói, "Tớ quên đem thuốc của tớ."
                        "Cô ấy phải sống," tôi nói, "nếu không, tất cả chỉ là rác rưởi."
                        Giáo sư đi ra. Tôi đứng dậy. "Tôi thề sẽ không bao giờ ngồi xe của cậu lái nữa," ông nói với Koster.
                        "Xin giáo sư tha lỗi," anh nói, "nhưng cô ấy là vợ của bạn tôi."
                        "Vậy thì?" Jaffé nói, nhìn tôi.
                        "Cô ấy khỏe chưa, thưa giáo sư ?" tôi hỏi.
                        Ông lạnh lùng nhìn tôi. Tôi lẫn tránh mắt ông.
                        "Thế cậu nghĩ, tôi có thể đứng đây nếu cô ấy chưa khỏe hay sao?"
                        Tôi cắn môi. Tôi nắm chặt hai bàn tay. Lệ dâng đầy mắt tôi.
                        "Xin giáo sư thứ lỗi," tôi nói, "nhưng giáo sư xong việc quá nhanh."
                        "Không bao giờ đủ nhanh cho loại việc đó," Jaffé nói, mỉm cười.
                        "Tớ không thể không lo lắng, Otto," tôi nói.
                        Anh nắm hai vai tôi, xoay người tôi lại, và đẩy nhẹ tôi về phía cửa. "Giáo sư cho phép chứ?"
                        "Tôi ổn rồi," tôi nói. "Tôi có thể vào trong đó, được không?"
                        "Được lắm, nhưng đừng trò chuyện," Jaffé trả lời. "Và thăm nhanh thôi. Cô ấy cần sự yên tịnh."
                        Tôi chỉ thấy ánh sáng lờ mờ bơi lội trong làn nước. Tôi chớp mắt. Ánh sáng chập chờn, lung linh. Tôi không dám lau khô dòng lệ, tôi sợ Pat nghĩ rằng tôi khóc bởi tình hình xấu tệ. Tôi chỉ liều lĩnh mang một nụ cười vào phòng. Rồi tôi trở ra ngay.
                        "Đưa giáo sư tới đây là đúng, phải không?" Koster hỏi vị giáo sư.
                        "Phải," Jaffé nói.
                        "Tôi có thể đưa giáo sư trở về, sáng sớm mai."
                        "Tôi nghĩ, tôi chưa nên về," Jaffé nói.
                        "Ở lượt về, dĩ nhiên tôi sẽ lái đàng hoàng hơn."
                        "Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại một ngày để phòng hờ bất trắc. Tôi có thể ngủ trên giường của cậu, được chứ?" ông hỏi. Tôi gật đầu.
                        "Tốt. Vậy tôi sẽ ngủ ở đây. Các cậu có thể tìm chỗ trú qua đêm trong làng không?"
                        "Dạ được. Giáo sư cần bàn chải đánh răng và áo ngủ không?"
                        "Không cần. Tôi có đủ. Tôi luôn luôn chuẩn bị cho những trường hợp khẩn cấp -- tuy chẳng phải chuyện đua xe."
                        "Tôi xin lỗi," Koster nói. "Giáo sư có bực mình lắm không?"
                        "Không," Jaffé nói.
                        "Và tôi rất tiếci đã không nói hết mọi thứ cho giáo sư rõ."
                        Jaffé cười lớn. "Cậu đánh giá giới y sĩ quá tệ. Ôi giào, thôi các cậu đi nghĩ đi. Tôi ở lại đây."
                        Tôi quơ đại vài món vật dụng cần dùng cho Koster và tôi. Chúng tôi đi bộ vào trong làng.
                        "Cậu mệt không?" tôi hỏi.
                        "Không," anh nói. "Chúng ta ngồi chơi đâu đây một lát đã."
                        Sau một giờ, tôi bắt đầu băn khoăn. "Nếu ông ấy ở lại, có nghĩa là còn nguy kịch, Otto," tôi nói. "Bằng không ông ấy ..."
                        "Tớ nghĩ đó chỉ là dự phòng," Koster trả lời. "Ông ấy rất quý mến Pat. Ông ấy bảo với tớ như thế, khi đi với tớ. Ông ấy cũng là bác sĩ săn sóc cho mẹ Pat."
                        "Có phải bà ấy ... "
                        "Tớ không biết," Koster trả lời, thật nhanh. "Cũng có thể do một căn bệnh khác hẳn. Cậu chưa buồn ngủ à?"
                        "Cậu đi đi, Otto. Tớ muốn, một lần nữa thôi .... Cậu biết mà, nhìn từ xa ..."
                        "Được. Tớ sẽ cùng đi với cậu."
                        "Nghe này, Otto. Đừng bận tâm -- tớ thích ngủ ngoài trời --khi thời tiết ấm áp. Tớ đã làm như thế mấy lần rồi, mới đây."
                        "Trời ướt mưa."
                        "Chẳng sao cả. Tớ sẽ dựng mui xe lên và ngồi trong đó một lúc."
                        "Tốt lắm. Tớ cũng thích ngủ ngoài trời như thế."
                        Tôi thấy mình không tài nào trốn được anh ấy. Chúng tôi lấy vài tấm chăn, nệm và quay trở lại Karl. Chúng tôi tháo then cài tấm đậy và đẩy ghế ra sau. Ta có thể nằm thoải mái ở đó.
                        "Còn dễ chịu hơn những đêm ở Tiền Tuyến," Koster nói.
                        Cửa sổ ngôi nhà sáng ngời qua màn sương. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bóng của Jaffe di chuyển qua lại. Chúng tôi chia nhau một gói thuốc. Cuối cùng, đèn cũng tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn đêm nhỏ.
                        "Tạ ơn Chúa," tôi nói.
                        Mưa rỉ rả rơi trên nóc xe. Một cơn gió nhẹ thoảng qua. Trời trở lạnh. "Nếu muốn, cậu có thể lấy cái mền của tớ, Otto," tôi nói.
                        "Không -- cậu nghĩ sao chứ? Tớ đủ ấm mà."
                        "Jaffé, một người có tinh thần thượng võ, hén?"
                        "Vâng. Lại còn khôn ngoan. Tớ tin như vậy."
                        Tôi ngồi dậy, lưng cứng đơ như que củi sau một đêm chập chờn không ngủ. Ngoài kia, trời xám và lạnh. Koster đã dậy từ lúc nào.
                        "Cậu không ngủ sao, Otto?"
                        "Có chứ."
                        Tôi trèo khỏi xe và len lén theo con đường nhỏ trong vườn đến gần cửa sổ. Ngọn đèn đêm vẫn thắp sáng. Tôi thấy Pat nằm trên giường, nhắm mắt. Trong một giây, tôi lo rằng nàng đã chết. Rồi tôi thấy cánh tay mặt của nàng nhúc nhích. Nàng xanh mướt như tàu lá. Nhưng máu đã thôi chảy. Rồi tay nàng lại động đậy. Cùng một lúc, Jaffé, trong giường của tôi, mở mắt. Tôi lùi lại. Tôi cảm thấy an lòng; ông ấy biết rõ việc làm của mình.
                        "Tớ nghĩ chúng ta nên rút lui, Otto," tôi nói với Koster; "đừng để cho ông ấy biết là chúng ta theo dõi."
                        "Trong nhà ổn cả?" Otto hỏi.
                        "Dựa vào những gì tớ trông thấy, ổn cả. Giáo sư ngủ say đúng mức. Trong trận oanh kích vẫn ngon giấc; nhưng nếu có một con chuột gậm nhấm ba-lô, sẽ choàng tỉnh lập tức."
                        "Cậu tắm biển không?" Koster nói. "Không khí trong lành." Anh vươn vai.
                        "Cậu tắm đi," tôi nói.
                        "Tắm đi mà," anh kèo nài.
                        Bầu trời xám rẽ ra, lộ những vệt cam - đỏ long lanh. Dọc theo chân trời, bức màn mây vén lên, ngoài xa kia là màu xanh da táo trong sáng.
                        Chúng tôi nhảy tòm xuống nước và bơi. Biển xám và đỏ.
                        Rồi chúng tôi trở vào. Fraulein Muller đã thức. Bà đang hái rau mùi tây trong vườn. Bà bắt đầu khi tôi trò chuyện. Một cách vụng về, tôi cố lựa lời xin lỗi, hôm qua tôi đã văng tục quá nhiều.
                        Bà rấm rức khóc. "Tội nghiệp. Cô ấy đẹp quá, và trẻ quá."
                        "Cô ấy sẽ sống tới một trăm tuổi," tôi nói, phật ý vì bà khóc lóc như thể Pat sắp chết tới nơi. Pat nào có sắp chết. Buổi sáng lạnh, sức sống mà biển nhanh chóng quất vào tôi, nói với tôi như thế. Pat không thể chết. Nàng chỉ chết nếu tôi đánh mất trái tim. Koster có mặt ở đây -- tôi có mặt tại đây: là chiến hữu của Pat ... chúng tôi sẽ chết trước nàng. Chừng nào chúng tôi còn sống, nàng sẽ qua khỏi. Trong quá khứ, đã như thế. Nếu Koster còn sống, tôi sẽ sống. Và do đó, nếu chúng tôi còn sống, Pat không thể nào chết.
                        "Con người phải tuân theo số mạng," bà già nói, và gương mặt nâu, nhăn nhúm như quả táo khô nhìn tôi, trách móc. Rõ ràng, bà muốn trả lời câu chửi thề của tôi.
                        "Tuân theo?" tôi nói. "Tại sao lại phải tuân theo? Chẳng ích gì. Ta phải trả giá đắt cho mọi thứ trong đời, hai lần, ba lần. Vậy cớ sao ta phải tuân theo?"
                        "Vâng, tuân theo -- là điều tốt nhất."
                        Tuân theo! còn lâu tôi mới tuân theo, tôi thầm nghĩ. Có nhiều thứ hỗ trợ cho ta. Tranh đấu, tranh đấu, là điều duy nhất trong cuộc chiến này, nơi mà, dù sao chăng nữa, cuối cùng ta cũng sẽ đến. Tranh đấu cho những gì bé bỏng mà ta yêu quý. Khi nào được bẩy mươi tuổi, họa may ta có thể tính tới việc đầu hàng.
                        Koster trò chuyện với bà. Chẳng mấy chốc, bà đã mỉm cười và hỏi anh muốn ăn trưa món gì.
                        "Cậu thấy chưa," Otto nói. "Đó là phần thưởng của tuổi già. Nước mắt và nụ cười -- mau thay đổi nhau. Không tiếc hận. Một điều đáng cho ta học hỏi," anh trầm ngâm nói.
                        Chúng tôi đi vòng quanh nhà. "Cô ấy ngủ thêm phút nào hay phút đó," tôi nói. Chúng tôi trở lại vườn. Fraulein Muller đã dọn điểm tâm. Chúng tôi uống cà phê đen nóng. Mặt trời dâng cao, và không khí ấm áp. Những phiến lá ướt lấp lánh trong nắng. Từ biển vọng lại tiếng kêu của bầy hải âu.
                        Fraulein Muller đặt một bó hoa hồng lên bàn. "Chúng ta sẽ tặng cho cô ấy," bà nói. Hoa hồng thơm mùi thơ ấu và những bức vách trong vườn.
                        "Cậu biết không, Otto," tôi nói, "tớ có cảm tưởng như chính tớ đã mắc bệnh ... Tớ không còn là mình nữa. Lẽ ra tớ phải bình tĩnh hơn. Điềm đạm hơn. Một người càng bình tĩnh càng được việc."
                        "Người ta không thể lúc nào cũng giữ được bình tĩnh, Bob. Tớ cũng bị một vài lần như thế. Càng lớn tuổi người ta càng sợ hãi. Như một tay cờ bạc, luôn luôn sẽ thua những canh bài mới."
                        "Tôi có thể vào chưa?"
                        "Chưa. Bà giúp việc còn ở trong ấy. Lau rửa và những chuyện lặt vặt khác."
                        Tôi rót cà phê cho giáo sư. Dưới nắng, ông hấp háy đôi mắt và quay sang Koster. "Thực ra, tôi phải cám ơn cậu mới đúng. Nhờ cậu, ít ra tôi cũng được một ngày sống ở thôn quê."
                        "Nhưng giáo sư có thể về quê thường xuyên mà," Koster nói. "Xa thành phố một đêm, sáng hôm sau quay về."
                        "Có thể, có thể," Jaffé đáp. "Thế cậu chưa nhận ra rằng chúng ta đang sống trong thời đại tự - ngược đãi? Có nhiều thứ người ta có thể làm, thế nhưng lại không -- và vì sao, chỉ có trời mới biết. Hiện thời, công việc đã trở nên quan trọng một cách khiếp đảm, tôi đoán, có lẽ vì có quá nhiều người thất nghiệp, đến mức công việc tiêu diệt hết mọi thứ. Địa điểm này đáng yêu làm sao! Thế mà đã nhiều năm tôi chưa trở lại. Tôi có hai chiếc xe, một căn nhà mười phòng và rất nhiều tiền để phung phí ... và tôi đã làm gì với số tiền ấy? Nó có nghĩa lý gì so với buổi sáng mùa hè thôn dã này? Công việc, công việc, công việc... một nỗi ám ảnh kinh hoàng -- và luôn luôn với ảo tưởng rằng cuối cùng tình huống sẽ thay đổi. Và chẳng bao giờ có thay đổi. Kỳ cục quá, phải không, có người lại sống một cuộc đời như thế?"
                        "Bác sĩ y khoa, theo tôi, là một trong số rất ít những người biết sống để làm gì," tôi nói. "Lấy thí dụ, một thư ký ngân hàng, thì sao?"
                        "Anh bạn thân mến," Jaffé trả lời, "là một sai lầm nếu ta cho rằng tất cả mọi người đều có sở thích giống nhau."
                        "Vâng," Koster nói. "Nhưng chẳng mấy khi người ta lại có một nghề nghiệp như ý."
                        "Thật vậy," Jaffé đáp. "Rất khó." Ông gật đầu với tôi. "Bây giờ, cậu vào được rồi. Nhưng nương nhẹ một chút, -- đừng chạm tới cô ấy và đừng để cô ấy nói nhiều nhé ... "
                        Nàng nằm giữa mấy cái gối, yếu ớt, như bị thương. Gương mặt trắng bệch; quầng mắt trũng sâu, thâm và làn môi tái nhợt. Chỉ có cặp mắt to và sáng. Rất to và rực sáng ...
                        Tôi cầm tay nàng. Lạnh và dịu oặt.
                        "Pat thương," tôi vụng về nói và suýt nữa đã ngồi xuống cạnh nàng khi tôi bất chợt nhìn thấy bên cửa sổ, gương mặt bì bì của bà giúp việc đang lom lom nhìn vào.
                        "Chị đi chỗ khác, được không?" tôi nói, bực tức.
                        "Tôi phải đóng màn cửa," bà nói.
                        "Được rồi, vậy kéo màn xong rồi đi đi."
                        Bà kéo hai cánh màn vàng khép lại. Tuy thế bà vẫn chưa chịu bỏ đi. Bà chậm chạp dùng kẹp, ghim chúng khít vào nhau.
                        "Này chị," tôi nói, "đây không phải là kịch trường. Làm ơn biến đi."
                        Bà quay lại, cao ngạo. "Chừng nào kẹp xong tôi mới đi --- mà lúc đó, chưa chắc nữa."
                        "Em có nhờ bà ấy kéo màn không?" tôi hỏi Pat.
                        Nàng gật đầu.
                        "Ánh sáng làm đau mắt em không?" tôi hỏi.
                        Nàng lắc đầu. "Tốt nhất, hôm nay anh đừng nhìn em rõ quá ..."
                        "Pat," tôi hoảng hốt, "em không được nói! Nhưng nếu đó là điều em muốn ..."
                        Tôi mở cửa ra ngoài, bà giúp việc rồi cũng biến mất. Tôi trở vào. Tôi không còn bực bội nữa. Tôi lại hài lòng với bà giúp việc; chính vì bà, tôi đã trải qua những giây phút đầu tiên an lành. Bởi nhìn Pat nằm ở đó như thế, quả thật chẳng dễ dàng.
                        Tôi ngồi cạnh giường. "Em sẽ sớm bình phục, Pat ạ."
                        Nàng mấp mấy đôi môi. "Ngày mai, anh có nghĩ như thế không?"
                        "Có lẽ ngày mai chưa được đâu, phải thêm vài ngày nữa. Rồi em sẽ ngồi dậy và chúng mình sẽ lái về nhà. Đáng lẽ chúng mình đừng nên tới đây, không khí quá khắc nghiệt với em --"
                        "Vâng," nàng thì thào. "Nhưng em không có bệnh, Robby. Chỉ là một tai nạn thôi --"
                        Tôi nhìn nàng. Có thực là nàng không biết, vừa rồi, nàng đã đỗ bệnh? Hay nàng không muốn biết? Tròng mắt của nàng đưa qua đưa lại không ngừng. "Anh không cần phải e sợ --" nàng khẻ nói.
                        Thoạt tiên tôi không hiểu nàng muốn nói gì và tại sao lại đặc biệt quan trọng là tôi không cần phải lo sợ. Tôi chỉ nhận thấy rằng nàng đang bức rức khó chịu, ánh mắt chứa đựng một vẻ phiền muộn, cấp bách lạ lùng. Rồi một ý nghĩ thình lình nảy ra. Tôi hiểu nàng đang nghĩ gì; nàng tưởng rằng tôi gớm sợ nàng vì nàng đang có bệnh.
                        "Trời ơi, Pat," tôi nói, "có phải đó là lý do, có lẽ thế, khiến em không bao giờ nói cho anh biết điều gì?"
                        Nàng không trả lời, nhưng tôi thấy đúng như tôi nghĩ.
                        "Thật bậy bạ," tôi nói; "thế em cho anh là hạng người gì, hở?"
                        Tôi cúi xuống. "Em nằm im một chút; không được cử động." Tôi hôn nàng. Môi nàng khô và nóng.
                        Khi đứng lên, tôi thấy nàng khóc. Lặng lẽ không thành tiếng, với đôi mắt vẫn mở to, và gương mặt bất động. Chỉ nước mắt trào ra, ướt đẫm.
                        "Trời ơi, Pat ---"
                        "Em sung sướng lắm," nàng nói.
                        Tôi đứng đó, nhìn nàng. Chỉ một chữ thôi, nhưng tôi chưa bao giờ nghe ai nói lên chữ ấy theo cách đó. Tôi đã biết phụ nữ, nhưng họ chỉ là những mối tình thoảng qua, những cuộc phiêu lưu, đôi khi là một giờ vui vẻ, một đêm cô đơn, chạy trốn bản thân, chạy trốn tuyệt vọng, chạy trốn trống vắng. Và tôi chẳng mong muốn một điều gì khác hơn, bởi tôi đã học được rằng, ta không thể tin tưởng vào bất cứ điều gì ngoại trừ bản thân, và chiến hữu, có lẽ. Giờ đây bỗng nhiên tôi hiểu ra, với một người, tôi có thể là một thứ gì đó, đơn giản chỉ vì tôi có mặt ở đấy, và người ấy hạnh phúc vì sự hiện diện của tôi. Diễn tả như thế nghe đơn sơ mộc mạc; nhưng nếu nghĩ kỹ, ta sẽ thấy đó là một cái gì mênh mông, bao la vô cùng tận. Cái đó có thể bẻ gẩy và biến đổi một người. Cái đó là tình yêu và tuy thế, lại còn là một điều khác hơn-- một điều dựa vào đó, người ta có thể sống. Một người không thể sống chỉ vì tình yêu. Nhưng sống cho một người khác, có lẽ ...
                        Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng không thể. Thật khó tìm lời diễn đạt khi chúng ta thật sự có một điều để nói. Cho dù chúng ta có biết những từ ngữ thích hợp, chúng ta cũng e thẹn không thốt nên lời. Tất cả chữ nghĩa này thuộc về các thế kỷ khác, đã qua. Thời đại của chúng ta không có ngôn từ để mô tả cảm xúc của nó. Chúng ta chỉ có thể nói năng cụt ngủn, thô thiển -- mọi cách khác đều như giả tạo.
                        "Pat," tôi nói, "cô bé can đảm thương mến --"
                        Ngay lúc đó Jaffé bước vào. Ông lập tức hiểu hết sự tình. "Hạnh kiểm tốt dữ a," ông gầm gừ. "Tôi đoán mò vậy mà."
                        Tôi sắp sửa viện vài lý do để bào chữa, nhưng ông đã đuổi tôi khỏi phòng mà không cần phải làm ầm ỷ gì hơn.

                        Comment


                        • #13
                          Erich Maria Remarque

                          Chiến hữu

                          Chương 17

                          Hai tuần sau, Pat đã hồi phục đến mức chúng tôi có thể lên đường. Chúng tôi đóng gói hành lý, sẳn sàng chờ Gottfried Lenz. Anh sẽ lái xe về. Còn Pat và tôi, đi bằng xe lửa.
                          Hôm ấy là một ngày ấm, trắng đục màu sữa. Mây như những cuộn bông nõn bất động trên bầu trời, không khí nóng rung rinh trên những đụn cát và biển nhác lười nằm dưới lớp hơi mù óng ánh.
                          Gottfried đến, sau bửa ăn trưa. Tôi thấy từ xa, mái tóc của anh vàng óng trên bờ dậu. Cho đến lúc anh rẽ vào con đường dẫn đến biệt thự của Fraulein Muller, tôi mới nhận ra rằng không phải chỉ có một mình anh -- đàng sau anh là hình mẫu thu nhỏ của một tay đua, với cái nón kẻ ô lùm xùm đội ngược, cặp kính chắn bụi to đùng, bộ áo liền quần trắng và đôi tai ngoại khổ, bóng và đỏ rực như hồng ngọc.
                          "Nón của tôi, nhưng lại là Jupp!" tôi nói, sững sờ.
                          "Chính là cháu, Herr Lohkamp!" Jupp đáp, cười toe toét.
                          "Và trang phục đua xe! Để làm gì?"
                          "Cậu chưa bao giờ thấy ai ăn mặc như thế sao?" Lenz vui vẻ nói, bắt tay tôi. "Thằng bé đang học lái xe đua. Tớ đã dạy nó tám hôm rồi. Bửa nay nó nài nỉ xin theo. Đây là cơ hội tốt để tập lái đường xa."
                          "Cháu sẽ phá kỷ lục, Herr Lohkamp," Judd hớn hở nói.
                          "Và cách nó sẽ phá kỷ lục!" Gottfried cười nhạo. "Tớ chưa bao giờ thấy ai cuồng như nó. Ngay bài học đầu tiên, nó đã cố qua mặt một chiếc Mercedes-Compressor bằng cái taxi cà khổ của chúng ta. Thằng quỷ sứ!"
                          Jupp sung sướng đến toát mồ hôi và nhìn Lenz, ngưỡng mộ.
                          "Cháu cứ tưởng mình có thể ăn đứt thằng cha cà chớn ấy, Herr Lenz. Cháu định sẽ qua mặt nó ở khúc quanh, như là Herr Koster."
                          Tôi không nhịn được cười. "Cháu khởi sự như vậy là khá rồi, Jupp."
                          Gottfried nhìn học trò của mình, hãnh diện như một ông bố. "Trước hết, chộp mớ hành lý kia và đem ra nhà ga."
                          "Cháu tự lái?" Jupp gần như nổ tung lên vì kích động. "Cháu được lái ra nhà ga, Herr Lenz?"
                          Gottfried gật đầu và Jupp chạy ù vào nhà.
                          Chúng tôi chất hành lý lên mui. Rồi chúng tôi đưa Pat vào xe và lái ra nhà ga. Chúng tôi đến nơi, sớm mười lăm phút. Sân ga vắng ngắt, chỉ có vài lon sửa bò nằm lăn lóc.
                          "Cháu nên khởi hành ngay thì hơn," tôi nói. "Nếu không, chẳng biết khi nào mới về đến nhà."
                          Jupp ngồi trước tay lái, nhìn tôi, phật ý ra mặt.
                          "Cháu không thích những câu nói như thế, hả?" Lenz hỏi nó.
                          Jupp ngồi thẳng lên. "Cháu đã tính đâu vào đấy cả rồi, Herr Lohkamp," thằng bé nói, trách móc. "Bọn cháu dư sức có mặt ở xưởng sửa xe trước tám giờ."
                          "Được lắm," Lenz vỗ vai thằng bé. "Cá với chú Lohkamp đi. Một chai nước suối."
                          "Không chơi nước suối," Jupp trả lời, "nhưng cháu sẳn sàng cá một gói thuốc lá."
                          Thằng bé nhìn tôi đầy thách thức.
                          "Thế cháu đã biết rằng đường đi rất xấu, phải không?" tôi hỏi.
                          "Đã ước lượng rồi, Herr Lohkamp."
                          "Những khúc quanh gắt, cháu cũng có nghĩ đến rồi chứ?"
                          "Khúc quanh gắt chẳng có nghĩa gì với cháu. Cháu chẳng dễ bị mất tinh thần."
                          "Tốt lắm, Jupp," tôi nói. "Vậy chú bằng lòng đánh cá. Nhưng Herr Lenz không được lái dùm đâu."
                          Lenz đặt tay lên tim. "Hứa danh dự."
                          "Giỏi lắm, giỏi lắm. Nhưng, trên tay cháu có cái gì thế?"
                          "Đồng hồ bấm giờ của cháu. Cháu sẽ canh giờ. Chỉ là muốn biết cái xe trượt tuyết này có khả năng ra sao."
                          Lenz nhăn răng cười. "Vâng, cậu ơi. Jupp đã võ trang đầy mình. Tớ dám nói là từng ống xy- lanh của chiếc Citroen thân thương đang run rẩy đợi chờ."
                          Jupp phe lờ đi lời nói châm chọc. Nó bồn chồn nắm, rứt vành mũ. "Vậy chúng ta khởi hành chứ, Herr Lenz? Mình có đánh cá mà."
                          "Dĩ nhiên, cái máy nén bé con. Au revoir, Pat. Gặp lại cậu sau nhé, Bob." Gottfried nhảy phóc vào xe. "Nào, Jupp, cháu hãy cho tiểu thư xem, một hiệp sĩ và quản trị gia thế giới trong tương lai khởi hành như thế nào."
                          Jupp kéo cặp kính chắn bụi xuống mắt, vẫy tay như dân kỳ cựu, và gài số một, từ lề khéo léo lao vút ra đường.
                          Trong một lúc, Pat và tôi ngồi ở hàng ghế đầu ở nhà ga. Ánh nắng chói chang, trắng xóa trên bức tường gỗ ngăn sân ga. Có mùi nhựa cây và muối. Pat ngã đầu ra sau và nhắm mắt. Nàng ngồi im phăng phắc, mặt nghiêng về phía mặt trời.
                          "Em mệt đấy à?" tôi hỏi.
                          Nàng lắc đầu. "Không, Robby."
                          "Tàu đến rồi," tôi nói.
                          Đầu máy xình xịch chạy đến, đen, nhỏ và bơ vơ giữa trời đất hoang vu, run rẩy. Chúng tôi lên tàu. Tàu vắng, gần như không có ai. Tàu hì hục khởi chạy. Khói từ đầu máy bốc lên, đen, cuồn cuộn trong không khí. Phong cảnh chầm chậm lùi ra sau -- thôn làng với những ngôi nhà lợp lá nâu, những cánh đồng cỏ tha thẩn bò và ngựa, cánh rừng, và rồi, an bình và ngủ ngoan trong cái hốc trống phía sau những đụn cát, căn nhà của Fraulein Muller.
                          "Fraulein Muller kia kìa," Pat nói.
                          "Vâng, đúng thế."
                          Bà đứng trước cửa nhà, vẫy tay từ biệt. Pat rút khăn tay ra, để gió thổi phất phơ bên cửa sổ.
                          "Bà ấy không thấy đâu," tôi nói, "nó nhỏ và mỏng quá. Đây, lấy khăn của anh."
                          Nàng cầm khăn của tôi và vẫy vẫy. Fraulein Mulleer vẫy lại, cuồng nhiệt.
                          Con tàu dần dần chạy đến vùng quê bát ngát. Nhà cửa biến mất và những đồi cát bỏ lại phía sau. Bên ngoài dãy rừng đen, biển thỉnh thoảng lại hiện ra nhìn -- cái liếc mắt canh thức mỏi mòn. Rồi đến màu lục vàng óng, êm ả của cánh đồng và những tai bắp rập rờn uốn theo làn gió nhẹ tận chân trời.
                          Pat đưa trả tôi chiếc khăn tay, rồi thu mình trong góc. Tôi đóng cửa sổ. Đã qua rồi, tôi nghĩ, cám ơn Chúa, đã qua rồi. Chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ bất hạnh.
                          Khi chúng tôi về đến thành phố, đã gần sáu giờ. Tôi đón tắc xi và chất hành lý lên xe. Rồi chúng tôi về nhà Pat.
                          "Anh có lên không?" nàng hỏi.
                          "Dĩ nhiên."
                          Tôi đưa nàng lên, rồi trở xuống lấy hành lý cùng với người tài xế. Khi tôi quay lại, Pat vẫn còn ở tiền sảnh. Nàng đang trò chuyện với Trung Tá Hake và vợ.
                          Chúng tôi bước vào phòng nàng. Bên ngoài, chiều xuống nhưng trời vẫn sáng. Trên bàn là một lọ thủy tinh với hoa hồng đỏ nhạt. Pat đến bên cửa sổ, nhìn ra. Rồi nàng quay lại, "Chúng mình đã vắng nhà bao lâu rồi, Robby?"
                          "Đúng mười tám ngày."
                          "Mười tám ngày. Dường như lâu hơn thế."
                          "Anh cũng nghĩ vậy. Nhưng khi vừa xong, lúc nào ta cũng cảm thấy như thế."
                          Nàng lắc đầu. "Em không có ý đó."
                          Nàng mở cửa, bước ra bao lơn. Một cái ghế xếp dài trắng, thứ đặt trong vườn, dựa vào vách. Nàng kéo nó ra, im lặng nhìn.
                          Khi trở vào phòng, nét mặt của nàng đã thay đổi và đôi mắt buồn hiu hắt.
                          "Ngắm hoa hồng đi em," tôi nói. "Của Koster tặng. Thiệp của anh ấy để kế bên."
                          Nàng cầm tấm thiệp lên, rồi lại bỏ xuống. Nàng nhìn hoa hồng, nhưng tôi có thể nói, nàng không chú ý tới chúng một mảy may. Tâm trí của nàng vẫn còn vương vấn tới cái ghế dài trắng. Nàng tưởng mình đã thoát khỏi, và giờ đây, một lần nữa, có lẽ nó sẽ lại là một phần của đời nàng.
                          Tôi để yên, không nói thêm câu nào. Cố gắng làm cho nàng nghĩ đến chuyện khác cũng chẳng ích gì. Nàng sẽ phải đối diện với nó, và tốt nhất hãy để cho việc ấy xảy ra lúc này, khi tôi còn ở đây. Người ta có thể trì hoản bằng lời nói; nhưng chẳng sớm thì muộn, nó sẽ trở lại, và có lẽ còn tai hại hơn.
                          Nàng đứng cạnh bàn, hơi cúi mặt, tay đặt trên bàn. Rồi nàng ngẫng lên, nhìn tôi. Tôi không nói gì. Nàng chậm rãi bước quanh bàn, rồi đặt hai tay lên vai tôi.
                          "Em thương," tôi nói.
                          Nàng tựa vào tôi. Tôi ôm chặt nàng. "Bây giờ chúng ta sẽ giải quyết vấn đề, hở em?"
                          Nàng gật đầu. Rồi nàng vuốt mái tóc ra sau. "Chỉ là trong giây phút mà thôi, Robby."
                          "Anh biết."
                          Có tiếng gỏ cửa. Cô hầu gái đẩy xe trà vào. "Tốt lắm," Pat nói.
                          "Em uống trà nhé?" tôi hỏi.
                          "Không, cà phê. Ngon và thật đậm."
                          Tôi ở lại nửa giờ. Rồi nàng thấm mệt; tôi nhận ra điều ấy trong mắt nàng.
                          "Em cần ngủ một giấc ngắn," tôi nói.
                          "Còn anh?'
                          "Anh sẽ về và cũng đánh một giấc. Trong hai giờ, anh sẽ tới, đưa em đi ăn."
                          "Anh mệt sao?" nàng hỏi, nghi ngờ.
                          "Vâng, một tị thôi. Trên tàu nóng quá. Và sau đó, anh còn phải đến xưởng sửa xe."
                          Nàng không hỏi câu nào nữa. Nàng mệt nhoài và suy sụp. Tôi đưa nàng lên giường, đắp chân thật chu đáo. Nàng thiếp đi tức thì. Tôi đặt bình hoa hồng gần bên và tấm thiệp của Koster cạnh đó, để khi tỉnh dậy, nàng có một cái gì để mà nghĩ đến. Rồi tôi ra về.
                          Trên đường đi, tôi ngừng lại ở buồng điện thoại công cộng. Tôi quyết định gọi giáo sư Jaffé. Gọi từ nhà sẽ khó khăn, vì toàn thể nhà trọ sẽ lắng nghe.
                          Tôi nhắc máy, xin số của bệnh viện. Một lúc sau, Jaffé đến ở đầu dây bên kia.
                          "Lohkamp đây," tôi hắng giọng, nói. "Hôm nay chúng tôi đã về đến nhà. Được hơn một giờ."
                          "Cậu đi bằng xe hơi?" Jaffé hỏi.
                          "Không, bằng xe lửa."
                          "Thế à, tình hình ra sao?"
                          "Cũng ổn," tôi nói.
                          "Không được," tôi nói. "Tôi không muốn cô ấy biết tôi đã liên lạc với giáo sư. Ngày mai, chắc chắn cô ấy sẽ gọi. Có lẽ, lúc đó giáo sư nói với cô ấy thì tốt hơn."
                          "Được rồi, tôi sẽ nói."
                          Một cách máy móc, tôi xê dịch quyển niên giám điện thoại dầy cộp, bẩn thỉu. Nó nằm trên một bục gỗ nhỏ. Các số điện thoại ghị bằng bút chì, chằng chịt trên vách.
                          "Vậy tôi có thể gặp giáo sư chiều mai?" tôi hỏi.
                          Jaffé không trả lời.
                          "Tôi muốn biết bệnh tình của cô ấy," tôi nói.
                          "Chiều mai, không thể được." Jaffé đáp. "Tôi cần phải quan sát cô ấy ít nhất một tuần. Khi ấy tôi sẽ nói cho cậu biết."
                          "Cám ơn giáo sư." Tôi chăm chú nhìn cái bục gỗ trước mặt. Một người nào đó đã vẽ lăng nhăng một bức hình trên ấy. Hình một cô gái béo tròn với cái nón rơm to tướng. Bên dưới có chua dòng chữ, Ella là con dê. "Trong thời gian này, cô ấy có cần làm gì đặc biệt không ạ?" tôi hỏi.
                          "Ngày mai tôi mới biết. Nhưng tôi tưởng, cô ấy được người ở nhà trọ cô ấy chăm chút cẩn thận mà."
                          "Tôi không rõ. Tôi nghe nói họ định đi xa một tuần. Lúc đó, ngoài người tớ gái ra, chỉ còn có một mình cô ấy."
                          "Vậy sao? Thôi được, ngày mai tôi sẽ bàn với cô ấy."
                          Tôi lại đẩy quyển niên giám điện thoại che đi bức vẽ trên bục gỗ. "Giáo sư có nghĩ rằng cô ấy -- sẽ bị xuất huyết, giống như lần trước?"
                          Jaffé ngần ngừ một thoáng. "Dĩ nhiên, chuyện ấy có thể xảy ra," ông nói, "tuy nhiên, khả năng không cao lắm. Tôi chỉ có thể nói cho cậu biết, sau khi khám kỹ. Tôi sẽ gọi điện cho cậu sau."
                          "Cám ơn, giáo sư."
                          Tôi gác ống nghe. Bên ngoài buồng điện thoại, tôi đứng tần ngần một lúc trên phố. Đường xá bụi bậm và ngột ngạt. Rồi tôi trở về nhà.
                          Tôi gặp Frau Zalewski ở cửa. Từ phòng Frau Bender, bà phóng ra, nhanh như một viên đạn đại bác. Khi nhìn thấy tôi, bà dừng lại.
                          "Sao thế? Về rồi đấy à?"
                          "Như bác thấy. Thời gian vừa qua có chuyện gì lạ không ạ?"
                          "Không có chuyện nào dính dáng tới cậu. Cũng không có thư từ. Nhưng Frau Bender đã dọn ra."
                          "Thật ư? Tại sao?"
                          Frau Zalewski chống hai tay lên hông. "Tại vì thế giới đầy dẫy những tên lưu manh. Chị ấy đã dọn đến viện tế bần Cơ đốc. Với con mèo và hai mươi sáu marks."
                          Bà giải thích rằng nhà nuôi trẻ mồ côi, nơi Frau Bender là y tá cho lũ trẻ, đã bất thần đóng cửa. Giám đốc phạm những sai lầm trong việc đầu tư chứng khoán. Frau Bender bị sa thải và bị quỵt mất hai tháng lương còn thiếu.
                          "Bà ấy kiếm được việc làm mới chưa?" tôi hỏi mà không suy nghĩ.
                          Frau Zalewski chỉ nhìn tôi.
                          "Không, không, dĩ nhiên là chưa," tôi nói.
                          "Tôi có bảo chị ấy rằng, chị cứ ở đây nếu muốn. Tiền nhà để thư thả rồi trả cũng được. Thế nhưng chị ấy không chịu."
                          "Người nghèo thường chân thật," tôi nói. "Vậy ai sẽ dọn vào phòng của bà ấy?"
                          "Gia đình Hasse. Rẻ hơn căn phòng mà họ đang ở lâu nay."
                          "Còn phòng của gia đình Hasse thì sao?"
                          Bà nhún vai. "Đành phải chờ xem. Bác không hy vọng là sẽ có khách thuê."
                          "Chừng nào phòng ấy trống?"
                          "Ngày mai. Gia đình Hasse đang dọn."
                          "Tiền thuê phòng, bác nói thật đi, bao nhiêu?" tôi hỏi. Một ý tưởng vừa bất thần nảy ra trong đầu tôi.
                          "Bẩy mươi marks."
                          "Đắt quá," tôi nói, tỉnh ngủ hẳn.
                          "Bác nói đúng. Nhưng nếu không uống cà phê sáng thứ sáu -- năm mươi marks, không hơn một xu, được không?"
                          "Cậu định thuê phòng ấy?" Frau Zalewski hỏi.
                          "Có lẽ."
                          Tôi đi về căn phòng tồi tàn của mình và nghĩ mãi tới cánh cửa thông qua phòng của gia đình Hasse. Không, đó không phải là một ý nghĩ hạnh phúc.
                          Nhưng sau một lúc, tôi lại đổi ý và gõ cửa.
                          Frau Hasse có ở nhà. Trong gian phòng đã trống gần nửa, bà ngồi trước gương, đội mũ, và tô phấn.
                          Tôi chào bà, vừa nhìn quanh. Phòng rộng hơn tôi nghĩ. Một số bàn ghế đã được dọn đi khiến ta có thể nhận ra điều đó. Thảm trải sàn đơn giản, sáng sủa và tương đối còn mới, cửa ra vào và cửa sổ vừa được sơn phết, ban công khá rộng và đẹp.
                          "Chắc cháu đã biết ông ấy đối xử với bác ra sao rồi," Frau Hasse nói."Bác phải dọn qua phòng của mụ ấy. Có nhục không chứ?"
                          "Nhục?" tôi hỏi.
                          "Vâng, nhục nhã," bà xổ một tràng. "Cháu biết là bác không ưa con mụ ấy, thế mà Hasse bắt bác phải dọn qua phòng của mụ ấy, không ban công, và có độc một cửa sổ. Chỉ vì tiền phòng rẻ hơn một chút! Thử nghĩ xem, mụ ấy, đang ở viện tế bần Cơ Đốc, sẽ đắc ý biết bao."
                          "Cháu không cho là bà ấy đang đắc ý."
                          "Dĩ nhiên, mụ ấy, y tá dởm của trẻ con, đang hí hửng! Cháu phải biết, người lù đù vác cái lu mà chạy! Lại còn ở sát vách với cái con ngựa Erna Bonig! Và mùi mèo hôi thối!"
                          Tôi ngượng ngập nhìn lên. "Nhưng mèo là những con vật rất xinh đẹp và sạch sẽ," tôi nói. "Ngoài ra, cháu vừa mới vào xem phòng ấy. Có hôi mèo đâu nào."
                          "Thế à?" Frau Hasse tức giận trả lời tôi, lấy tay sửa lại mũ. "Dĩ nhiên, chuyện đó còn tùy vào thính giác của từng người. Nhưng bác sẽ không mó tay vào. Ông ấy cứ việc còng lưng khuân đồ đạc qua bên ấy. Bác đi đây. Bác muốn nói là, ít nhất, ra khỏi cuộc đời khổ như chó này."
                          Bà đứng lên. Gương mặt với làn da sần sùi rung lên vì giận dữ đến đỗi bụi phấn rơi lả tả như mưa phùn. Tôi thấy bà đã tô đôi môi đỏ chót như máu, và ăn vận như sẳn sàng để giết. Bà thơm lừng như một xưởng nước hoa, khi lướt khỏi phòng.
                          Tôi ngơ ngẫn nhìn. Rồi tôi xem xét căn phòng một lần nữa. Tôi thử đoán bàn ghế của Pat sẽ sắp xếp ra sao. Nhưng tôi đành chịu. Pat ở đây, luôn luôn ở đây, bên tôi ... tôi không thể hình dung được. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ có ý kiến ấy, nếu như nàng vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên ... Tôi mở cửa và bước ra ban công. Nhưng rồi tôi lắc đầu và quay trở lại phòng mình.
                          Nàng vẫn còn ngủ khi tôi bước vào. Tôi rón rén ngồi xuống cái ghế bành bên cạnh giường, nhưng nàng mở mắt ngay tức thì.
                          "Xin lỗi đã đánh thức em," tôi nói.
                          "Anh ở đây từ nãy giờ?" nàng hỏi.
                          "Không. Anh mới trở lại."
                          Nàng vươn tay và ấp má vào tay tôi. "Tốt. Em không thích người ta nhìn em ngủ."
                          "Anh hiểu. Anh cũng không thích như vậy. Anh không muốn nhìn em ngủ. Anh chỉ không muốn đánh thức em. Em có muốn chợp mắt thêm một chút nữa?"
                          "Không, em ngủ đủ rồi. Em dậy liền bây giờ."
                          Tôi đi qua phòng bên cạnh, trong khi nàng thay áo. Bên ngoài trời tối dần. Ở cửa sổ phòng đối diện, một cái máy hát đang ong ỏng phát bài Hành khúc Hohenfriedberg. Một gã đầu hói, mang cặp dây đeo quần, lúi húi bên máy hát. Rồi hắn đi tới đi lui, tập thể dục kiểu Thụy Điển theo điệu nhạc. Cái đầu trọc láng bóng nổi trên nền tối lờ mờ như một vầng trăng bực tức. Tôi nhìn hắn, vô cảm giác. Tôi cảm thấy chán nản và u sầu.
                          Pat bước vào. Trông nàng xinh đẹp, tươi tắn, không một chút mệt mỏi.
                          "Em đẹp lộng lẫy," tôi ngạc nhiên nói.
                          "Em cũng thấy khỏe, Robby. Như thể em đã có nguyên một đêm an giấc. Em hồi phục rất nhanh."
                          "Vâng, trời ạ. Nhanh đến nỗi người ta theo không kịp."
                          Nàng dựa vào vai tôi và ngước lên. "Nhanh lắm sao, Robby?"
                          "Không. Chỉ là anh quá chậm. Anh thường hơi chậm chạp, Pat ạ."
                          Nàng mỉm cười. "Chậm thì chắc. Và chắc thì tốt."
                          "Chắc như nút bần trên nước."
                          Nàng lắc đầu. "Anh vững chắc nhiều hơn anh tưởng. Trên thực tế, anh hoàn toàn khác với những gì anh nghĩ. Hiếm khi nào em gặp một người có nhiều nhận định sai lầm về bản thân như anh."
                          Tôi bỏ tay khỏi vai nàng.
                          "Vâng, anh yêu," nàng nói, gật đầu. "Quả tình là thế. Còn bây giờ, mình đi kiếm món gì ăn nhé."
                          "Chúng ta nên đi đâu?" tôi hỏi.
                          "Quán của Alfons. Em phải ghé lại. Em có cảm giác như mình đã đi vắng từ muôn kiếp."
                          "Tốt," tôi nói. "Nhưng em có đói bụng không? Em không thể đến quán Alfons nếu em không đói. Anh ấy sẽ tống cổ em ra khỏi quán."
                          Nàng cười to. "Nhưng em đang đói khủng khiếp."
                          Vào quán của Alfons, chúng tôi được đón tiếp hậu hĩnh. Anh chào chúng tôi rồi biến mất ngay và sau đó trở lại, ngột ngạt trong chiếc áo cổ cồn cứng nhắc và cái cà vạt đốm xanh lục. Vị tất anh đã ăn vận như thế với Hoàng đế nước Phổ. Anh lại có vẻ ngượng ngập vì sự suy thoái chưa từng thấy này.
                          "Alfons, có món nào ngon không ạ?" Pat hỏi, tựa khủy tay trên mặt bàn.
                          Alfons cười khì, chúm môi lại và nheo mắt. "Cô may mắn đấy. Hôm nay có món cua hấp."
                          Anh lùi một bước để quan sát hiệu quả. Hiệu quả hạng nhất.
                          "Dọn kèm với rượu vang mới cất Moselle," anh khẻ nói, vui thích, lùi thêm một bước nữa.
                          Một tràng pháo tay tán thưởng -- đặc biệt từ cửa, nơi mà cùng với mái tóc vàng hoang dại và cái chóp mủi rám nắng, xuất hiện gương mặt tươi cười của chàng trai lãng mạn cuối cùng.
                          "Gottfried!" Alfons reo lên. "Cậu? Chính cậu đấy ư? Trời ơi, ngày vui quá! Đến đây cho tớ ôm một cái!"
                          "Em sắp chứng kiến một cảnh tượng," tôi nói với Pat.
                          Hai người lao vào vòng tay nhau. Alfons vỗ thùm thụp lên lưng Lenz như có một lò rèn kéo bễ ở cạnh quán. "Hans," anh kêu người hầu bàn, "đem chai Napoleon ra."
                          Anh lôi Gottfried tới quầy. Anh bồi mang đến một chai lớn, vỏ còn đóng bụi. Alfons rót rượu ra hai ly.
                          "Pros't, Gottfried, con lợn quay già dịch."
                          "Pros't, Alfons, lão cai tù tốt bụng."
                          Hai người ực một hớp, cạn ly.
                          "Hạng nhất," Gottfried khen. "Loại cognac dành cho thánh mẫu."
                          "Đáng tiếc chúng ta đã nuốt trộng như thế," Alfons nói. "Nhưng làm sao có thể uống chậm khi ta quá sung sướng. Làm thêm một ly nữa, nào."
                          Anh rót thêm và nâng cốc. "Nè cậu, tên cà chua vô tín ngưỡng."
                          Lenz cười to. "Alfons thân quý của tớ."
                          Mắt Alfons ươn ướt. "Một lần nữa, Gottfried," anh nói, cảm động.
                          "Tới luôn bác tài." Lenz chìa ly của anh ra. "Tớ chỉ nói Không với cognac, khi nào tớ lăn kềnh không ngóc đầu lên nỗi mà thôi."
                          "Nói như thế mới là sành điệu." Alfons rót thêm ly thứ ba.
                          Lenz đi đến bàn, còn thở gấp. Anh lấy đồng hồ ra. "Về đến ga ra với chiếc Citroen lúc tám giờ kém mười. Cậu nghĩ sao?"
                          "Đạt kỷ lục," Pat trả lời. "Hoan hô Jupp! Em sẽ đích thân trao cho chú ấy một hộp thuốc lá."
                          "Còn cậu, có phần cua làm thêm cho cậu," Alfons, bám sát Gottfried, nói. Anh đưa mỗi người một thứ gì giống như khăn trải bàn. "Các cậu cởi áo lớn ra, cột khăn vào. Tiểu thư bằng lòng cho chúng tôi làm như vậy không?"
                          "Em cũng thấy cần phải làm như thế," Pat nói.
                          Alfons gật đầu, hài lòng. "Cô là một phụ nữ hợp tình hợp lý, tôi biết. Ta phải thưởng thức món cua thoải mái. Không sợ vấy bẩn quần áo." Ông tươi cười. "Dĩ nhiên, cô sẽ có một thứ còn hay hơn thế nữa."
                          Người hầu bàn, Hans, đem ra một cái tạp dề của đầu bếp, trắng tinh như tuyết. Alfons tháo ra, giúp nàng choàng vào. "Hợp với cô lắm," anh khen.
                          "Thế mới đúng," nàng trả lời, cười to.
                          "Tôi vui vì cô thích nó," Alfons thân ái nói."Làm ấm áp cõi lòng."
                          "Alfons!" Goffried thắt tấm khăn quanh cổ, để các góc khăn chìa ra. "Tớ phải nói, hiện thời chỗ này trông không khác gì một tiệm cắt tóc."
                          "Chúng ta sẽ thay đổi ngay. Nhưng, một ít nghệ thuật trước đã."
                          Alfons đến cạnh máy quay dĩa, và lập tức bài Pilgrims' Chorus của Tannhauser vang lên. Chúng tôi im lặng lắng nghe.
                          Bài ca chưa dứt hẳn thì cửa nhà bếp đã mở và người bồi bàn, Hans, bước ra với một cái chậu to như cái thau tắm em bé. Chậu đựng đầy cua hấp, nghi ngút khói. Vừa ho, anh ta vừa đặt chậu cua lên bàn.
                          "Lấy dùm tôi một cái khăn ăn nữa, nhé," Alfons nói.
                          "Bạn cũng ăn với chúng tôi hay sao?" Lenz kêu lên. "Hân hạnh quá."
                          "Nếu tiểu thư không phản đối?"
                          "Trái lại là khác, Alfons."
                          Pat nhích ghế qua và anh ngồi xuống bên cạnh.
                          "Cô cứ tự nhiên," anh nói, như xin lỗi. "Thực ra tôi có thể bóc vỏ cua sẳn dùm cô. Phụ nữ phải bóc vỏ cua thì hơi cực đấy."
                          Anh thò tay vào chậu, nhanh nhẹn bóc vỏ và bẻ cua ra cho nàng. Bàn tay thô to của anh lại khéo léo và lịch lãm đến nỗi nàng chẳng phải làm gì, ngoại trừ thưởng thức những miếng thịt cua xiên sẳn trên cái nĩa anh đưa ra.
                          "Ngon không?" anh hỏi.
                          "Ngon tuyệt." Nàng nâng ly rượu. "Chúc sức khỏe anh, Alfons."
                          Alfons vui vẻ chạm cốc với nàng rồi chầm chậm uống. Tôi nhìn nàng. Tôi ước phải chi đó là một thức uống khác, không chứa rượu.
                          Nàng cảm thấy cái nhìn của tôi. "Salut, Bob," nàng nói.
                          Nàng đẹp, rạng ngời hạnh phúc.
                          "Salut, Pat," tôi nói, và uống cạn ly.
                          "Nơi đây đáng yêu quá, phải không?" Nàng hỏi, nhìn tôi một lần nữa.
                          "Quá đáng yêu." Tôi rót rượu thêm cho mình. "Pros't, Pat!"
                          Mặt nàng thoáng ửng hồng. "Pros't, Bob; Pros't, Gottfried!"
                          Chúng tôi uống. "Rượu ngon," Lenz nói.
                          "Graacher Abtsberg mùa năm trước," Alfons giải thích. "Mình hài lòng là cậu nhận ra."
                          Anh kéo con cua thứ nhì từ trong chậu, đưa cho Pat cái càng cua đã lột.
                          Nàng từ chối. "Anh phải ăn đi chứ, Alfons. Không thôi, anh chẳng còn gì để ăn đâu."
                          "Anh sẽ ăn sau. Anh bóc vỏ cua nhanh hơn họ nhiều."
                          "Tốt lắm." Nàng nhận cái càng cua. Alfons hân hoan ra mặt và bóc thêm nữa. Anh như một con cú già bự xự, chăm chút mớm thức ăn cho một con chim trắng bé bỏng mới ra ràng.
                          Để kết thúc, chúng tôi uống thêm một lượt Napoleon và từ biệt Alfons. Pat rất hạnh phúc.
                          "Tuyệt vời," nàng nói. "Cám ơn anh Alfons. Thật tuyệt vời." Nàng chìa tay ra cho Alfons.
                          Alfons lẩm bẩm gì đó và hôn tay nàng. Mắt của Lenz như sắp rớt ra, vì kinh ngạc. "Sớm quay lại đây nhé," Alfons nói. "Cả cậu nữa, Gottfried."
                          Chiếc Citroen nhỏ bé, lạc loài đậu bên ngoài, dưới ngọn đèn đường.
                          "Ô," Pat kêu lên, đứng chựng lại. Một thoáng co giật lướt qua trên mặt nàng.
                          "Sau thành tích biểu diễn của nó hôm nay, tôi đã đặt cho nó cái tên cúng cơm là Hercules," Gottfried vừa nói, vừa mở cửa xe. "Tôi có thể đưa cô về không?"
                          "Không ạ," Pat nói.
                          "Tôi cũng nghĩ thế. Vậy chúng ta đi đâu?"
                          "Ta đi quán 'The Bar' không, vậy Bob?" Nàng quay sang tôi.
                          "Tất nhiên," tôi nói; "tất nhiên chúng ta sẽ đi quán 'The Bar'."
                          Chúng tôi lái thật chậm trên đường phố. Trời ấm và trong. Người người ngồi trước quán cà phê. Âm nhạc êm đềm vẳng ra. Pat ngồi cạnh tôi. Bỗng dưng, tôi không thể tin rằng nàng đang ốm; người của tôi nóng lên vì cố gắng, nhưng trong một thoáng, tôi vẫn không thể nào tin.
                          Trong quán "The Bar" chúng tôi gặp Ferdinand và Valentin. Ferdinand trông khỏe mạnh. Anh đứng lên, đón Pat.
                          "Diana," anh nói, "từ rừng thẳm về --" Nàng mỉm cười. Anh quàng tay lên vai nàng. "Nữ thần săn bắn với cây cung bạc, làn da sạm nắng và can trường -- cô uống gì đây?'
                          "Gottfried gỡ tay anh ta. "Thương nhân thường không khéo cư xử," anh nói. "Tiểu thư đây đã có hai công tử theo hộ tống; bộ anh không nhìn thấy hay sao, hở con bò rừng?"
                          "Người lãng mạn chỉ là cái đuôi bám theo -- không phải là hộ tống viên," không một chút nao núng, Ferdinand nói.
                          Lenz cười tươi và quay sang Pat. "Tôi sẽ pha cho cô một món rất đặc sắc. Cocktail Kolibri. Đặc sản của Ba Tây."
                          Anh đến quầy rượu, pha lắc nhiều thứ, rồi mang về.
                          "Cô thấy thế nào?" anh hỏi.
                          "Hơi loãng, nhưng đậm tính chất Ba Tây," Pat trả lời.
                          Gottfried cười to. "Nó cũng mạnh nữa. Pha với rum và vodka."
                          Chỉ cần liếc sơ qua tôi cũng thừa biết, không có rum mà cũng chẳng vodka -- nó là nước ép trái cây, chanh, cà chua, và có lẽ một giọt Angostura. Một thứ cocktail không rượu. Nhưng Pat, cám ơn trời, không phân biệt được.
                          Nàng uống ba ly Kolibris lớn, và tôi để ý thấy nàng rất vui vì không bị đối xử như người bệnh. Một giờ sau, chúng tôi ra về, chỉ còn Valentin ở lại. Lenz đã dàn xếp tất cả. Anh mời Ferdinand ngồi vào chiếc Citroen và lái đi. Như thế, Pat và tôi không có vẻ gì là bỏ về sớm. Thật chu đáo, tuy thế, trong một thoáng, tôi có cảm giác khổ sở của một con cún.
                          Pat khoác tay tôi. Với những bước yểu điệu, duyên dáng, nàng đi bên cạnh; tôi cảm nhận được hơi ấm của cánh tay nàng, tôi thấy ánh đèn đường mờ ảo soi trên gương mặt linh động của nàng -- Không, tôi không thể tin rằng nàng đang ốm; tôi có thể tin ở điều ấy giữa ban ngày, còn khi đêm về, khi cuộc sống dịu dàng hơn, ấm áp hơn, và đầy hứa hẹn, thì không.
                          "Chúng mình ghé qua nhà anh một chút, nhé?" tôi hỏi.
                          Nàng gật đầu.
                          Hàng lang của nhà trọ sáng đèn. "Chết rồi," tôi nói. "Không biết có chuyện gì xảy ra vậy? Em chờ anh một chút, được không?"
                          Tôi mở cửa và ngó vào. Hành lang dài nằm trơ trẻn dưới đèn, như một đường hẻm nhỏ hẹp ở ngoại ô. Cửa phòng của Frau Bender mở toang, và bên trong cũng sáng. Như một con kiến đen nhỏ xíu, Hasse đang lần mò trong hành lang, một cây đèn chân dài có chụp lụa hồng đè trên vai. Ông từ từ quay lại.
                          "Chào bác," tôi nói. "Khuya rồi còn gì?"
                          Ông ngước bộ mặt xanh xao với chùm ria mép đậm và quặp xuống. "Bác mới ra khỏi sở làm cách đây một tiếng. Và bác chỉ có thì giờ dọn nhà vào buổi tối."
                          "Bác gái không có ở nhà sao?"
                          Ông lắc đầu. "Bà ấy đi với cô bạn nào rồi. Cảm ơn Chúa, cuối cùng bà ấy cũng có bạn -- bà ấy dành rất nhiều thời gian cho cô bạn đó." Ông mỉm cười, hồn nhiên và mãn nguyện, và tập tễnh bước đi. Tôi đưa Pat vào.
                          "Anh nghĩ mình không nên thắp đèn, hở em?" tôi hỏi, khi chúng tôi đã vào trong phòng.
                          "Vâng, anh yêu. Chỉ bật lên một giây, rồi anh có thể tắt đi."
                          "Em thật tham lam," tôi nói, và cái ghế bành đỏ hiện ra huy hoàng trong giây lát dưới ánh điện chói chang, rồi cũng nhanh như thế, biến đi.
                          Các cửa sổ mở ra và không khí ban đêm từ rặng cây đối diện lùa vào, tươi mát như đến từ một cánh rừng.
                          "Tuyệt vời," Pat nói và cuộn mình trong góc của băng ghế cửa số.
                          "Em thực sự thích chỗ này sao?"
                          "Vâng, Robby. Như thể ta đang ở trong một công viên lớn, vào mùa hè. Tuyệt vời."
                          "Anh không biết em có nhìn ngó căn phòng kế bên, khi đi ngang qua?" tôi hỏi.
                          "Không, tại sao thế?"
                          "Phần bên trái của cái bao lơn to đẹp này cũng thuộc về phòng ấy. Nó tương đối biệt lập, và không có vật gì đối diện. Nếu em ở phòng đó, em không cần áo tắm khi phơi nắng."
                          "Vâng, nếu em được ngụ ở đó --"
                          "Có thể lắm," tôi lơ đãng nói. "Em thấy mà, mấy hôm nữa, căn phòng ấy sẽ bỏ trống."
                          Nàng nhìn tôi, mỉm cười. "Anh nghĩ, như thế sẽ thích hợp với chúng ta sao? Luôn luôn ở gần nhau?"
                          "Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng sống bên nhau," tôi trả lời. "Ban ngày anh sẽ không có mặt ở đấy, này nhé. Và cũng không thường xuyên, vào ban đêm. Một mặt khác, nếu chúng ta có thể sống ở đây với nhau, chúng ta sẽ không cần phải đi ra tiệm ăn, ngồi ở đó, rồi luôn luôn vội vã chia tay, như thăm viếng."
                          Nàng cựa mình trong góc. "Có vẽ như anh đã suy nghĩ cặn kẽ về chuyện này, anh yêu?"
                          "Đúng vậy," tôi nói. "Cụ thể là cả đêm hôm qua."
                          Nàng nhổm dậy. "Anh thực lòng nghĩ như thế, một cách nghiêm chỉnh, Bobby?"
                          "Trời ạ, đúng thế," tôi nói. "Em không bao giờ nhận thấy như vậy hay sao?"
                          Nàng im lặng trong giây lát. "Robby, nói cho em biết," giọng nàng sâu lắng hơn bao giờ hết, "thế nhưng vì sao bây giờ anh mới nói?"
                          "Anh vừa nói tới," tôi trả lời, hăng hái còn hơn ý tôi muốn, bởi thình lình tôi cảm thấy cái quyết định sắp đến có liên quan đến nhiều thứ hơn chỉ là căn phòng, "anh nhắc đến, bởi vì trong mấy tuần qua, anh thấy tuyệt vời làm sao khi chúng ta hoàn toàn bên nhau. Anh không thể chịu đựng được nữa sự chia tay thường xuyên. Anh muốn có em nhiều hơn. Anh muốn luôn luôn có em bên anh; anh không còn ham thích chi nữa trò chơi ú tim phức tạp của tình yêu; anh chỉ muốn một mình em và một mình em, anh không bao giờ có đủ em, và anh không muốn từ bỏ một giây phút nào bên em."
                          Tôi nghe hơi thở của nàng. Nàng ngồi trong góc bên cửa sổ, tay đặt hững hờ quanh đầu gối, và không nói gì. Ánh đèn đỏ của tấm biển quảng cáo từ từ nhô cao, quá ngọn cây đối diện và ấm áp chiếu trên đôi giày màu sáng của nàng. Rồi nó lang thang trên chiếc áo đầm và trên đôi tay nàng. "Em cứ cười anh, nếu em muốn," tôi nói.
                          "Tại sao lại cười?"
                          "Ơ, bởi vì, lúc nào anh cũng nói, anh muốn. Nói cho cùng, em cũng phải muốn, như anh."
                          Nàng nhìn lên. "Anh có biết không, Robby, anh đã thay đổi?"
                          "Không."
                          "Vâng, có mà. Anh vừa thú nhận. Anh muốn. Anh không hỏi hay yêu cầu nữa. Anh chỉ muốn mà thôi."
                          "Như thế có khác biệt gì lớn đâu. Em vẫn có thể nói Không, cũng y như thế, dù anh có muốn nhiều cách mấy."
                          Bất ngờ, nàng nghiêng người tới trước, lại gần tôi. "Nhưng tại sao em lại nói Không, hở Bobby?" giọng của nàng ấm áp, nhu mì. "Dĩ nhiên, em cũng muốn."
                          Kinh ngạc, tôi choàng tay quanh nàng. Những sợi tóc của nàng phơn phớt trên mặt tôi. "Thật thế ư, Pat?"
                          "Vâng, anh yêu, thật đấy."
                          "Bậy thiệt," tôi nói. "Vậy mà anh cứ ngỡ là phải khó khăn lắm."
                          "Anh hầu như tin chắc như vậy mà," tôi nói, ngạc nhiên.
                          Nàng quàng tay qua cổ tôi. "Đôi khi lại tốt, nếu ta không phải nghĩ ngợi gì. Không phải một mình làm tất cả mọi thứ. Có thể học hỏi. Ach, anh yêu, thật ra cũng khá dễ dàng -- ta chỉ cần không làm cho nó trở thành khó khăn."
                          Tôi phải nghiến răng để không trả lời. Không ai khác, chính nàng lại là người nói với tôi điều đó.
                          "Đúng," tôi đành nói, "đúng đó, Pat." Không đúng thật chút nào.
                          Chúng tôi đứng bên cửa sổ một lúc. "Chúng ta sẽ mang về đây tất cả vật dụng của em," tôi nói. "Em không phải thiếu thốn một thứ gì. Chúng ta có thể tìm mua một cái xe đẫy. Frida sẽ học cách dọn trà."
                          "Nhưng em có đã có một cái rồi, anh yêu. Xe của em mà."
                          "Như thế lại càng tốt. Ngày mai, anh sẽ huấn luyện Frida."
                          "Nàng ngã đầu lên vai tôi. Tôi cảm thấy nàng mệt mỏi.
                          "Bây giờ anh đưa em về nhé?" tôi hỏi.
                          "Chút nữa đi. Em cần nằm nghĩ một lát."
                          `Nàng nằm im trên giường, không chuyện trò, như đã ngủ. Nhưng mắt nàng vẫn mở và thỉnh thoảng lại lấp lánh trong ánh đèn của tấm biễn quảng cáo, dâng cao trên vách và di chuyển trên tấm khăn trải giường như ánh sáng vui tươi phương bắc. Bên ngoài, mọi thứ đều yên tĩnh. Từ phòng bên cạnh, thỉnh thoảng ta lại nghe tiếng Hasse lu bu giữa đống hoang tàn của những niềm hy vọng, của mối hôn nhân, và có lẽ của chính cuộc đời anh.
                          "Em cần phải ở lại," tôi nói.
                          Nàng ngồi dậy. "Đêm nay không được, anh yêu."
                          "Anh mong em ở lại."
                          "Ngày mai."
                          Nàng đứng dậy và nhẹ nhàng di chuyển trong căn phòng tăm tối. Tôi nhớ lần đầu tiên nàng đã ở lại với tôi, và cũng đã đi quanh phòng, không một tiếng động, mặc y phục vào trong chút nắng đầu ngày.Tôi không biết cái đó là gì, nhưng có một điều nào đó, vô cùng cảm động, thực thế, gần như gây choáng váng; như một cử chỉ thuộc về một thời kỳ đã rất xa, đã chôn vùi; như sự tuân phục thầm lặng một mệnh lệnh, như một lý do không ai còn nhớ.
                          Nàng từ bóng tối bước ra, trở lại với tôi và ấp ủ mặt tôi trong đôi tay của nàng. "Bên anh thật tuyệt diệu làm sao, anh yêu. Tuyệt diệu, có anh ở đây."
                          Tôi không trả lời. Tôi không thể trả lời.
                          Tôi đưa nàng về nhà, đoạn quay lại "The Bar." Koster có mặt tại đó.
                          "Ngồi xuống," anh nói. "Thế nào rồi?"
                          "Chẳng có gì đặc biệt, Otto."
                          "Cậu muốn uống gì không?"
                          "Nếu uống, tớ phải uống thật nhiều. Tớ không muốn làm vậy. Nhưng tớ có thể làm vài chuyện khác. Gottfried đang lái tắc xi?
                          "Không."
                          "Tốt. Vậy tớ sẽ chạy tắc xi vài ba tiếng."
                          "Tớ đi ra đó với cậu," Koster nói.
                          Tôi nhận xe tắc xi và chia tay Otto. Rồi tôi lái ra bến. Trước tôi, đã có hai chiếc chờ sẳn. Sau tôi là Gustav và Tommy, chàng kịch sĩ. Rồi hai xe trước tôi rời bến, và chỉ một lát sau, tôi cũng có khách -- một thiếu nữ, muốn đi tới Vineta.
                          Vineta là một khiêu vũ trường rất được ưa chuộng, với điện thoại để bàn, hệ thống giao thư bằng ống khí nén, và những thứ tân kỳ tương tự của tỉnh lẻ. Nó nằm tách biệt, trên một con đường nhỏ.
                          Chúng tôi dừng xe. Cô gái lục mãi túi xách rồi đưa tôi một tờ giấy năm mươi marks. Tôi nhún vai. "Xin lỗi, tôi không có tiền thối."
                          Người gác cửa đi tới. "Bao nhiêu?" cô gái hỏi tôi.
                          "Một đồng bẩy mươi."
                          Cô gái quay sang người gác cửa. "Anh giúp được không? Đi với tôi tới quầy thu tiền, tôi sẽ đưa tiền lẻ để anh trả dùm."
                          Hắn đẩy cửa, theo cô ta vào quầy thu tiền. Rồi hắn trở ra. "Đây nè --"
                          Tôi đếm. "Một đồng năm mươi xu, thế thì --"
                          "Đừng có nói nhảm, chẳng nhẽ chú mày là tay mơ sao? Hai mươi xu nộp cho gác cửa, nếu còn muốn trở lại đây. Thôi cút đi."
                          Có những nơi ta phải trả hoa hồng cho người gác cửa, nhưng đó là khi họ đem khách đến cho ta, chứ không phải khi ta đem khách đến cho họ.
                          "Tôi không hẳn là người mới đâu," tôi nói. "Đưa tôi một đồng bẩy mươi xu."
                          "Đưa cái khỉ khô," hắn gầm lên. "Chú mày phải tuân lệnh ông, nhóc tì; đây là giang sơn của ông."
                          Hai mươi xu với tôi không đáng gì cả. Tôi chỉ không muốn để hắn chơi bẩn. "Đừng gáy nữa, đưa tôi phần tiền còn thiếu," tôi nói.
                          Tên gác cửa vung tay lên đánh bất ngờ, khiến tôi không thể chống đỡ, hoặc ngồi trong xe, né tránh. Đầu tôi đập mạnh vào tay lái. Choáng váng, tôi có gượng dậy. Hắn sừng sững đứng trước mặt tôi: "Muốn ăn một đấm nữa không, cái thằng cứng đơ?"
                          Trong một giây, tôi tính toán khả năng ăn thua. Chẳng có mấy. Gã mạnh hơn tôi nhiều. Hy vọng duy nhất của tôi là tấn công thình lình. Nhưng ngồi trong xe, tôi không thể đấm, vì không có thế. Đợi đến khi tôi mò ra khỏi xe, thì hắn dư sức đập tôi mấy trận nhừ tử. Tôi nhìn hắn. Hơi thở sặc mùi bia của hắn phả vào mặt tôi: "Nói thêm một tiếng, con vợ của chú mày sẽ thành gái góa."
                          Tôi nhìn hắn. Tôi không cử động. Tôi chăm chăm nhìn cái bản mặt mạnh khỏe ấy. Tôi muốn nuốt trửng hắn bằng cái nhìn của mình. Tôi biết chính xác chỗ tôi sẽ đấm; tôi lạnh băng vì điên tiết. Nhưng tôi không cựa quậy. Tôi nhìn gương mặt ấy, quá gần, quá rõ, như nhìn bằng một cái kính lúp, quá to, từng cọng râu lồ lộ, làn da đỏ ké thô nhám, lỗ chân lông toang toác ...
                          Một chiếc mũ sắt của cảnh sát lóe sáng. "Có chuyện gì không đó? "
                          Tên gác cửa khúm núm. "Không có gì hết, Herr Constable."
                          Người cảnh sát ngó tôi. "Có gì đâu," tôi nói.
                          Ông đưa mắt nhìn tên gác cửa rồi nhìn tôi. "Anh chảy máu?"
                          "Tôi vấp té."
                          Tên gác cửa lùi lại một bước. Một nụ cười toe toét hiện lên trong ánh mắt của hắn. Hắn nghĩ rằng tôi không dám tố cáo.
                          "Vậy ư. Thôi đi đi," người cảnh sát nói.
                          Tôi nhấn ga, lái về bến.
                          "Trời ơi, ông anh đẹp trai thế," Gustav nói.
                          "Chỉ có cái mũi ăn trầu," tôi trả lời, và kể lại câu chuyện.
                          "Đi tới quán rượu," Gustav nói. "Dù gì tớ cũng từng là trung sĩ tản thương. Đánh một người đang ngồi, hèn quá."
                          Ở quán rượu, anh dẫn tôi vào bếp, lấy một ít nước đá và săn sóc tôi suốt nửa giờ. "Sẽ không bầm nhiều đâu," anh giải thích.
                          Cuối cùng anh ngừng lại. "Còn cái đầu của cậu thì sao? Ổn chứ? Vậy ta sẽ không để phí thời gian."
                          Tommy bước vào. "Có phải thằng cha gác cửa to con ở quán Vineta không? Hắn nổi tiếng với những quả đấm hung hãn. Nhưng rủi thay, tớ chưa thử qua lần nào."
                          "Ừ, cũng sắp được thử rồi đó." Gustav nói.
                          "Đúng, nhưng phải để chính tớ ra tay," tôi trả lời.
                          Gustav nhìn tôi, không đồng ý. "Cậu sẽ không kịp bước xuống xe --"
                          "Tớ đã nghĩ ra một kế hay. Nhưng nếu tớ thất bại, các cậu vẫn có thể nhào vô đánh tiếp."
                          "Được."
                          Tôi đội nón của Gustav và chúng tôi lái xe của anh, để tên gác cửa không nghi ngờ. Hắn cũng chẳng nhìn thấy gì đâu, đường xá nơi ấy tối mò.
                          Chúng tôi lái đến nơi. Chẳng có ma nào lai vãng. Gustav nhảy xuống xe, cầm một tờ hai mươi marks.
                          "Chết cha. Không có tiền lẻ. Anh gác cửa, đổi dùm tôi nhé? Một đồng bảy mươi xu, phải không? Trả dùm tôi."
                          Anh làm như đi về hướng quầy thu ngân. Người gác cửa tiến tới, vừa ho vừa đưa tôi một đồng năm mươi xu. Tôi vẫn chìa tay ra. "Cút đi," hắn gầm gừ.
                          "Đưa thêm cho đủ, đồ con heo bẩn thỉu!" tôi hét to.
                          Hắn sững người trong một giây, như hóa đá.
                          "Cha nội," rồi hắn nói, nhỏ nhẹ, liếm môi, "cha nội sẽ hối hận về chuyện này cả tháng cho coi."
                          Hắn vung tay lên. Quả đấm có lẽ đã làm tôi bất tỉnh. Nhưng tôi có chuẩn bị; tôi xoay mình tránh, và nắm tay của hắn tống vào phần thép bén của cái tay quay xe mà tôi cầm dấu trong tay trái. Hắn rú lên, nhảy lùi lại, rẫy tay. Hắn rên xiết đau đớn như tiếng rít của một cái máy hơi nước, và hắn đứng đó, hớ hênh.
                          Tôi vọt khỏi xe. "Nhận ra ai chưa?" tôi nhổ phẹt một bãi và thụi vào bụng gã. Gã té nhào.
                          "Một!" Gustav đứng ở cửa, bắt đầu đếm.
                          Đến tiếng thứ năm, gã loạng choạng đứng lên, đôi mắt lạc thần. Cũng như lần trước, tôi thấy thật rõ trước mặt tôi, gương mặt của gã -- cái bản mặt khỏe mạnh, to bự, đần độn và tầm thường; cái con người cục mịch có một sức khỏe tuyệt vời; cái con lợn ỉ có hai lá phổi không bao giờ đau ốm; và thình lình, tôi thấy một bức màng mỏng đỏ thắm phủ chụp lên não bộ và đôi mắt của tôi, tôi nhảy tới và đấm lấy đấm để vào cái bản mặt ấy; tôi trút lên đó tất cả những gì đã hành hạ tôi trong mấy tháng vừa qua, tôi đấm mãi cho đến khi bị kéo ra.
                          "Trời đất, cậu giết hắn mất!" Gustav gào lên.
                          Tôi nhìn lại. Tên gác cửa, máu me bê bết, đứng dựa vách. Rồi hắn té sụm xuống, và như một con côn trùng khổng lồ trong bộ đồng phục bóng lộn, bò chầm chậm về phía cửa.
                          "Hắn sẽ không còn sức đấm đá nữa," Gustav nói. "Chúng ta phải chuồn ngay, trước khi có người tới. Gần như là tội tấn công, và tội gây thương tích trí mạng."
                          Chúng tôi quăng mớ tiền xuống vĩa hè, lên xe và lái đi.
                          "Tớ bị chảy máu hả?" Tôi hỏi, "hay là máu của thằng cha gác cửa?"
                          "Cậu lại bị đấm vào mũi," Gustav giải thích. "Thằng chả móc trái một cú đẹp lắm."
                          "Tớ có hay biết gì đâu."
                          Gustav cười to.
                          "Cậu biết không," tôi nói, "tớ cảm thấy khỏe hơn nhiều."

                          Erich Maria Remarque

                          Chiến hữu

                          Chương 18

                          Tắc xi của chúng tôi đậu trước cửa "The Bar." Tôi đi vào, tìm Gottfried, lấy chìa khóa xe và giấy tờ để thay thế anh. Gottfried bước ra ngoài với tôi.
                          "Làm ăn khá không?" Tôi hỏi.
                          "Tàm tạm," anh trả lời. "Hoặc có quá nhiều tắc xi, hay quá ít khách. Còn cậu thì sao?'
                          "Tệ lắm. Chầu chực cả đêm vẫn không kiếm quá hai mươi marks."
                          "Chán nhỉ." Gottfried nhướng cặp chân mày. "Vậy hôm nay, có lẽ cậu cũng không gấp gáp gì lắm?"
                          "Không, tại sao?"
                          "Đi với tớ một chút nhé."
                          "Được." Chúng tôi lên xe. "Đi đâu?" tôi hỏi.
                          "Nhà thờ."
                          "Cái gì?" tôi hỏi. "Tớ không nghe nhầm chứ? tớ nghe 'nhà thờ.'"
                          "Không nhầm đâu, con trai. Chính là nhà thờ."
                          Tôi nhìn anh, kinh ngạc.
                          "Nhìn cái gì; lo lái đi," Gottfried nói.
                          "Tốt lắm." Chúng tôi khởi hành.
                          Nhà thờ nằm ở một khoảng đất trống thuộc khu vực xưa của thành phố, nhà các giáo sĩ bao quanh. Tôi ngừng ở cửa trước.
                          "Cứ lái tiếp," Gottfried nói; "vòng qua bên phải."
                          Anh bảo tôi lái đến cửa sau nhà thờ, và anh bước xuống xe.
                          "Chúc cậu vui," tôi nói. "Cậu sắp sửa xưng tội đấy à?"
                          "Đi theo tớ," anh trả lời.
                          Tôi cười lớn. "Không. Sáng nay tớ đọc kinh rồi. Với tớ, như thế đã đủ cho một ngày."
                          "Đừng nói nhảm, em cưng. Đi nào. Để tỏ lòng rộng rãi, tớ chỉ cho cậu cái này."
                          Hiếu kỳ, tôi đi theo. Qua khỏi cửa, chúng tôi lập tức lọt vào những hành lang tu viện. Chúng họp thành một khối to vuông, với các vòm cung dựa trên những cột hoa cương xám; và bao quanh một khu vườn. Giữa vườn, vươn cao một thập giá to, với tượng chúa Giê Su, đã bạc màu sương gió. Trên bốn vách có những phù điêu khắc chìm, mô tả Các Chặng Đàng Thánh Giá. Trước mỗi phù điêu có một băng ghế cũ để cầu nguyện. Trong vườn, hoa lá um tùm, mọc tràn lan.
                          Gottfried trỏ vào mấy bụi rất to hoa hồng trắng và đỏ. "Tớ muốn chỉ cho cậu cái ấy. Cậu nhận ra không?"
                          Ngạc nhiên, tôi dừng chân. "Dĩ nhiên," tôi nói. "Vậy đây là chỗ cậu lượm mót hoa, thằng ăn trộm nhà thờ."
                          Tuần trước, khi Pat dọn vào nhà trọ của Frau Zelewski, Gottfried đã gửi tặng nàng, Jupp mang tới, một bó hồng khổng lồ. Nhiều đến nỗi Jupp phải xuống lầu hai lượt, mỗi bận trở lên, hai tay ôm đầy hoa. Tôi suy nghĩ nát óc, vẫn không hiểu Gottfried tìm chúng ở đâu; tôi biết quy tắc của anh, không bao giờ mua hoa. Tôi chưa hề thấy hoa hồng trong công viên thành phố.
                          "Đây là một ý tưởng hết sức độc đáo," tôi nói, biết ơn. "Phải một đấng nam nhi mới có thể nghĩ ra."
                          Gottfried rạng rỡ. "Vườn này là một mỏ vàng riêng tư." Anh vui vẻ đặt tay lên vai tôi. "Vì lẽ đó, tớ nhận cậu làm người đồng sở hữu. Tớ nghĩ rằng ngay bây giờ, cậu đã có dịp dùng đến."
                          "Sao lại ngay bây giờ?" tôi hỏi.
                          "Bời vì công viên hầu như trơ trụi. Và công viên là chỗ cậu vẫn hái trộm lâu nay, phải không?"
                          Tôi gật đầu.
                          "Ngoài ra," Gottfried nói tiếp, "cậu đang tiến vào giai đoạn mà sự khác biệt giữa một anh trọc phú với một hiệp sĩ bắt đầu biểu hiện. Càng quen biết người yêu, anh nhà giàu càng lơ là. Còn hiệp sĩ vẫn chăm chút cho nàng như cũ." Anh giang tay ra. "Với tất cả những thứ này, cậu có thể trở thành một hiệp sĩ hào hoa khiến ai cũng trầm trồ."
                          Tôi cười to. "Nghe hay lắm, Gottfried," tôi nói. "Nhưng nếu ta bị bắt quả tang thì sao? Coi bộ nơi này không dễ trốn, và các tín đồ sẽ nghĩ đó là một việc làm xấu xa, ô nhiễm chốn thiêng liêng."
                          "Bé yêu ơi," Lenz trả lời, "cậu có thấy người nào ở đây không? Từ chiến tranh đến nay, người ta toàn đi họp chính trị, không đi nhà thờ nữa."
                          Điều này đúng. "Nhưng còn cha xứ thì sao? Tôi hỏi.
                          "Hoa hoét chẳng có nghĩa gì với các linh mục, bởi nếu có, vườn đã được chăm sóc cẩn thận rồi. Và Đấng Toàn Năng sẽ vui, nếu ta dùng nó mang lại hạnh phúc cho người khác. Ngài không như ta tưởng. Ngài là một người lính già."
                          "Vâng, cậu nói chí phải." Tôi trầm ngâm trước những bụi hoa khổng lồ. "Đủ dùng cho vài tuần nữa, Gottfried."
                          "Còn lâu hơn thế. Cậu may mắn lắm. Đây là một giống hồng lâu tàn, và nở hoa trong một thời gian dài. Cậu sẽ có hoa đến tận tháng Chín. Lúc ấy lại có thúy cúc và hoàng cúc nữa. Đến đây, tớ chỉ cho."
                          Chúng tôi đi khắp vườn. Hoa hồng thơm điếc mũi. Bầy ong như một áng mây vi vu, từ hoa này vờn sang hoa khác.
                          "Nhìn chúng kìa," tôi nói và đứng im. "Chúng từ đâu bay đến chỗ này, giữa thành phố? Không thấy tổ ong nào quanh đây. Trừ phi các linh mục giữ những tổ ong dưới mái nhà."
                          "Không, bạn ơi," Lenz trả lời. "Chúng từ một traị nuôi ong nào đó bay thẳng tới. Có điều, chúng biết rõ đường đi của chúng." Anh nháy mắt. "Còn chúng ta, thì không?"
                          Tôi nhún vai. "Có lẽ chúng ta cũng biết chứ. Nhưng dù sao, một phần thôi. Chúng ta cố hết sức. Còn cậu thì không?"
                          "Không. Cũng không muốn biết làm gì. Mục tiêu khiến cho cuộc đời trở thành tư sản."
                          Tôi nhìn lên tháp nhà thờ. Lục như lụa trên nền trời xanh, ngọn tháp cổ kính muôn đời và tĩnh lặng, với lũ chim nhạn chao quanh.
                          "Ở đây yên tịnh quá," tôi nói.
                          Lenz gật đầu. "Vâng, con ơi, nơi đây người ta nhận thức rằng, chỉ khi thiếu thốn thời gian, người ta mới không thể là con người tốt?"
                          "Thời gian và im lặng. "Tôi trả lời. "Cả sự im lặng."
                          Anh cười to. "Đã quá muộn," người đại úy năm xưa nói, ứa nước mắt, cay đắng. Đã đến lúc chúng tôi không chịu được sự yên lặng nữa . . . Nên chúng tôi đi ra. Trở về chốn ồn ào.
                          Tôi thả Gottfried xuống và lái về bến. Trên đường, tôi lái ngang nghĩa trang. Tôi biết Pat đang nằm trên chiếc ghế dài trắng của nàng ngoài ban công, và tôi bóp kèn mấy lần. Nhưng chẳng có ai thò mặt ra, và tôi lái đi luôn. Bù lại, tôi có thấy, xa hơn một quãng, Frau Hasse trong chiếc khăn choàng lụa, lướt trên hè phố, rồi biến mất ở khúc quanh. Tôi bám theo, định hỏi bà có muốn tôi chở đi đâu hay không. Nhưng ở lằn ranh đi bộ, tôi thấy bà chui vào một chiếc xe hơi đã chờ sẳn ở góc đường. Đó là một chiếc Mercedes xập xệ, đời 1923, máy nổ khành khạch. Một thằng cha mũi dài ngoằng như mỏ vịt, vận một bộ đồ lớn kẻ ô lòe loẹt ngồi sau tay lái. Tôi trông theo một lúc rất lâu. Đó là kết cục của một người đàn bà đơn độc ở nhà, trong một thời gian quá lâu. Lòng nặng nề, tôi lái về bến, sắp hàng đón khách.
                          Mặt trời chói chang trên nóc nhà. Xe chúng tôi chầm chậm nhích tới. Tôi ngồi bần thần trong xe và cố dỗ giấc ngủ. Nhưng tôi không thể xóa đi hình ảnh của Frau Hasse. Tình huống có khác biệt, nhưng nói cho cùng, Pat cũng ở nhà một mình cả ngày.
                          Tôi bước ra và đi đến xe của Gustav. "Đây nè, cậu uống đi," anh nói, đưa tôi một cái bình thủy nhỏ. "Lạnh ác. Phát minh của tớ. Cà phê đá. Giữ lạnh được mấy tiếng đồng hồ khi trời nóng. Vâng, Gustav này hữu dụng lắm."
                          Tôi rót một ly, uống sạch. "Nếu anh hữu dụng như thế," tôi nói, "làm ơn mách cho tôi, một người đàn ông phải làm gì để một người đàn bà rất lẻ loi được vui?"
                          "Chỉ có thế thôi sao?" Guvstav nhìn tôi, cao ngạo. "Ông bạn Robert, -- tưởng gì, một đứa bé hay một con chó con là xong. Hỏi tớ một câu gì khó hơn."
                          Tôi mời anh một điếu thuốc. "Này, cậu có biết gì về chúng không? Chó tạp chắc không đắt tiền lắm, phải không?"
                          Gustav lắc đầu, phật ý. "Robert! Cậu không biết là cậu có một kho tàng trong tớ. Ông nhạc tương lai của tớ là thơ ký phụ tá của Hiệp hội Dobermann Terrier. Dĩ nhiên, cậu có thể được một con cún nhỏ; rặc giống nữa là khác. Bọn tớ đang có một bầy: bốn đôi, bà ngoại của chúng là vô địch Hertha von Toggenburg."
                          Gustav là một người may mắn. Bố vợ sắp cưới của anh, không những là một tay chuyên gây giống Dobermann, lại còn điều hành và là chủ nhân quán rượu Neuerklaus; và vợ chưa cưới của anh có một tiệm giặt ủi. Gustav khá hãnh diện. Anh ăn uống ở quán của "cha vợ" và nàng giặt giũ cho anh. Anh không vội cưới xin. Vì lúc ấy, đến lượt anh là người phải lo toan.
                          Tôi giải thích với Gustav, Dobermann không phải là ý tưởng tốt nhất. Nó to lớn quá đối với tôi và không luôn luôn dễ dạy.
                          Gustav suy nghĩ một lát. Từng là lính chiến, anh đã quen với cách ứng phó trong những tình huống bất ngờ.
                          "Cứ đi theo tớ," anh nói. "Chúng ta sẽ tính toán. Tôi biết ít nhiều. Chỉ cần cậu đừng xen vào."
                          "Vâng."
                          Anh dẫn tôi đến một cửa hàng nhỏ. Cửa kính phía trước có vài chậu cá đầy rong. Vài con bọ đáng thương lỗm nhỗm trong thùng giấy. Hai bên tường treo nhiều lồng chim, những con sẻ ức đỏ, sẻ cánh vàng và bạch yến lao xao, ríu rít không ngừng.
                          Một người đàn ông thấp bé, chân vòng kiềng, áo gi lê nâu thêu ra đón. Đôi mắt kèm nhèm, làn da bủng và cái mũi như một quả cầu lửa -- ông ta đích thị là một đệ tử Lưu Linh.
                          "Anton, " Gustav nói, "Asta thế nào rồi?"
                          "Đoạt giải nhì và bằng danh dự tại Cologne," Anton trả lời.
                          "Bậy quá," Gustav nói. "Sao không được giải nhất?"
                          "Udo Blankenfels được hạng nhất," Anton gầm lên. "Nhưng tôi không phàn nàn đâu."
                          Ở cuối tiệm có tiếng chó con rên rĩ và kêu ủng oẳng. Gustav đi tới đó. Anh trở lại, xách cổ hai con terriers nhỏ, tay trái một con lông đen và trắng, tay phải một con nâu đỏ. Cánh tay với con chó nâu đỏ giật rất khẻ. Tôi nhìn nó: vâng.
                          Đó là một sinh vật bé bỏng, lý lắc, và đáng yêu. Chân thẳng, thân hình vuông vắn, đầu hình thuỗn, thông minh, dạn dĩ. Gustav thả chúng xuống.
                          "Thằng chó thấy ghét này," anh nói và chỉ vào con nâu đỏ. "Anh tìm nó ở đâu vậy?"
                          Anton nói, một bà dọn xuống Nam Mỹ để lại. Gustav cười ngặt ngoẽo. Tự ái, Anton đưa ra một gia phả đi ngược đến tận thời kỳ đại hồng thủy. Gustav khoác tay từ chối và tỏ ý thích con trắng đen. Anton đòi một trăm marks cho con nâu đỏ. Gustav trả giá năm marks. Anh không thích ông tổ của nó. Đuôi của nó trông kỳ kỳ sao ấy. Và đôi tai của nó cũng thế, có một điều gì không ổn. Vậy mà, con trắng đen thì lại -- tuyệt hảo.
                          Tôi đứng trong góc, lắng nghe. Thình lình một vật gì đó khều khều cái mũ của tôi. Ngạc nhiên, tôi quay lại. Một con khỉ nhỏ chênh vênh trên cao, hơi co rúm, da vàng và gương mặt u buồn. Nó có cặp mắt đen, tròn và đôi môi phiền muộn của một bà lão. Chung quanh bụng nó, một cái thắt lưng da nối với một sợi xích sắt. Bàn tay nhỏ, đen và giống tay người một cách đáng sợ.
                          Tôi đứng yên, tại chỗ cũ. Trên cái băng của nó, con khỉ từ từ nhích lại. Trong lúc đó, nó vẫn không ngừng quan sát tôi, không phải một cái nhìn nghi ngại, mà mệt mỏi không cùng. Cuối cùng, nó thận trọng đưa tay. Tôi chìa một ngón tay cho nó. Nó rút lại, nhưng rồi nắm lấy. Thật kỳ dị, cảm giác tiếp xúc với một bàn tay lạnh và nhỏ như tay trẻ con -- cách nó bíu chặt ngón tay tôi. Như thể có một người khờ khạo đáng thương nào đó, bị giam hãm trong cơ thể méo mó ấy, đang cố gắng tự giải thoát. Ta không thể nhìn vào đôi mắt buồn não ruột ấy.
                          Gustav khịt mũi, thoát khỏi cánh rừng phả hệ rối rắm. "Đồng ý, Anton; tôi sẽ bù cho anh một con cún Dobermann, dòng dõi Hertha. Cuộc đổi chác tốt nhất đời anh." Rồi anh quay sang tôi. "Cậu muốn đem con chó về bây giờ không?'
                          "Con chó giá bao nhiêu?"
                          "Không tốn xu nào cả. Đổi con Dobermann mà tớ đã tặng cậu. Vâng, cậu cứ để mặc Gustav lo liệu. Nghề của chàng."
                          Chúng tôi thỏa thuận là sau khi tan ca, tôi sẽ trở lại nhận con chó.
                          "Cậu có biết cậu được gì không?" Gustav hỏi, khi chúng tôi đã ra ngoài. "Một giống chó hiếm quý: Irish terrier. Primissima. Không một tỳ vết. Và gia phả của nó nữa, trời ạ, cậu không nên xem, vì nếu không, mỗi lần nói chuyện với ông mãnh, cậu sẽ phải cúi chào."
                          "Gustav," tôi nói, "cậu đã giúp tôi tận tình. Nào, chúng ta hãy đi nhậu một bữa cognac ngon nhất."
                          "Hôm nay không được," Gustav nói. "Hôm nay tớ phải giữ cho tay không run. Tớ sẽ chơi môn ky ở câu lạc bộ của tớ tối nay. Hứa với tớ là sẽ có lúc cậu ghé qua. Đầy đủ các bậc tai to mặt lớn, có cả ông giám đốc bưu điện."
                          "Tớ sẽ đến," tôi nói. "Cho dù không có ông ấy."
                          Gần sáu giờ chiều, tôi lái về ga-ra. Koster đang chờ tôi. "Hồi chiều, Jaffé có điện thoại cho cậu. Cậu gọi lại ông ấy nhé."
                          Trong một giây, tôi nín thở.
                          "Giáo sư có nói gì không, Otto?"
                          "Không, không nói gì đặc biệt. Chỉ nói rằng ông ấy sẽ có mặt ở phòng khám đến năm giờ. Sau đó, sẽ là bệnh viện Dorothee. Vậy, cậu nên gọi đến đó."
                          "Vâng."
                          Tôi vào văn phòng. Không khí nóng và rít, nhưng tôi lạnh và cái ống nghe run rẩy trong tay tôi. "Vô lý," tôi nói và tỳ tay lên bàn cho vững.
                          Một lúc lâu sau, Jaffé mới đến nghe.
                          "Cậu có rảnh không?" ông hỏi.
                          "Có ạ."
                          "Vậy, đến đây ngay. Tôi còn ở đây trong một giờ."
                          Tôi muốn hỏi, có chuyện gì xảy ra cho Pat hay không. Nhưng tôi không thể. "Tốt, tôi sẽ có mặt tại đó trong mười phút." Tôi đặt ống nghe xuống, rồi lập tức gọi về nhà. Chị giúp việc trả lời. Tôi hỏi Pat. "Tôi không biết cô ấy có ở nhà không," Frida nói, chẳng lễ độ tí nào. "Tôi phải đi tìm cô ấy."
                          Tôi chờ. Đầu tôi đặc cứng và nóng hổi. Thời gian như vô tận. Rồi tôi nghe tiếng răng rắc của đường dây và giọng nói của Pat. "Robby?"
                          Tôi nhắm mắt trong một giây. "Em khỏe không, Pat?"
                          "Dạ khỏe. Em ngồi ngoài ban công đọc sách từ nãy đến giờ. Sách hay lắm."
                          "Thế à, sách hay lắm hở em," tôi nói. "Được. Anh chỉ muốn báo cho em biết, tối nay anh sẽ về trễ. Em đọc xong chưa?"
                          "Chưa, em đang đọc nửa chừng. Phải mấy tiếng nữa mới xong."
                          "Anh sẽ về trước khi ấy. Vậy em cố đọc nhanh hơn nhé."
                          Tôi ngồi nán lại một lúc. Rồi đứng lên. "Otto," tôi nói, "cho tớ mượn thằng Karl một chút, được chứ?"
                          "Dĩ nhiên. Tớ có thể đưa cậu đi, nếu muốn. Tớ không bận gì cả."
                          "Không dám làm phiền cậu. Chẳng có chuyện gì. Tớ vừa gọi về nhà."
                          "Đèn đẹp quá," tôi thầm nghĩ khi Karl phóng ra đường, "ánh sáng buổi chiều trên những mái nhà! Đời phong phú biết bao!"
                          Tôi phải đợi Jaffé mấy phút. Cô y tá dẫn tôi vào một căn phòng nhỏ, có nhiều tạp chí cũ để rải rác khắp nơi. Vài chậu dây leo đặt trên bệ cửa sổ. Luôn luôn cùng một thứ tạp chí bọc trong giấy nâu, luôn luôn cùng một thứ dây leo buồn tẻ; ta chỉ gặp chúng trong phòng mạch bác sĩ hay bệnh viện.
                          Jaffé đi vào. Ông khoác một bộ áo liền quần trắng như tuyết, hãy còn nguyên nếp gấp. Nhưng khi ông ngồi đối diện với tôi, tôi trông thấy một vết máu đỏ tươi ở mặt trong cánh tay áo bên phải. Trong đời, tôi đã thấy cơ man là máu -- thế nhưng giọt máu nhỏ xíu này bỗng khiến tôi phát ốm, còn hơn tất cả những bông băng đẫm máu. Tâm trạng lạc quan của tôi lịm tắt.
                          "Tôi có hứa sẽ cho cậu biết bệnh tình của Fraulein Hollmann," Jaffé nói.
                          Tôi gật đầu, nhìn tấm trải bàn. Nó có những mẫu sáng, mềm mại. Tôi chăm chú nhìn những hình lục giác giao kết với nhau, và tôi có cảm giác điên rồ rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, nếu tôi đừng chớp mắt trước khi Jaffe nói tiếp.
                          "Hai năm trước, cô ấy phải điều trị ở một dưỡng đường trong sáu tháng, cậu có biết không?"
                          "Không," tôi nói và tiếp tục nhìn tấm trải bàn.
                          "Sau đó, bệnh ngừng lại. Tôi vừa khám rất kỹ. Cô ấy phải trở lại dưỡng đường mùa đông năm nay. Không thể ở thành phố."
                          Tôi vẫn chăm chú nhìn những hình lục giác. Chúng trôi bềnh bồng vào nhau, và bắt đầu nhảy múa.
                          "Khi nào cô ấy phải đi?" Tôi hỏi.
                          "Mùa thu. Trễ nhất là cuối tháng Mười."
                          "Vậy, cơn thổ huyết không phải tạm thời?"
                          "Không."
                          Tôi ngước mắt lên.
                          "Có lẽ, tôi không cần nói với cậu," Jaffe tiếp tục nói, "rằng rất khó tiên liệu diễn tiến của căn bệnh này. Một năm về trước, bệnh đã ngừng, vết thương đã lành, và ai cũng nghĩ nó sẽ giữ yên. Thế nhưng mới đây, nó lại bộc phát, và vì thế, nó cũng có thể lành lại một cách bất ngờ. Tôi không nói suông -- thực tế, tôi đã gặp nhiều trường hợp ngoạn mục như vậy."
                          "Và cũng có những trường hợp trở nặng?"
                          Ông bắt đầu đi vào chi tiết. Cả hai lá phổi đều nhiễm trùng, lá bên mặt nhẹ hơn bên trái. Rồi ông ngừng nói, bấm chuông gọi y tá. "Làm ơn đem hồ sơ bệnh lý vào."
                          Cô y tá mang hồ sơ đến. Jaffé lấy ra hai tấm hình lớn. Ông rút chúng khỏi phong bì và đưa cao, hướng về cửa sổ. "Như thế, cậu sẽ nhìn rõ hơn. Đây là hai tấm phim quang tuyến."
                          Tôi nhìn thấy một cột xương sống trên nền phim trong mờ xam xám, xương đòn gánh, xương cổ, ổ xương vai trái và bẹ sườn. Nhưng tôi nhìn thấy nhiều hơn nữa -- tôi nhìn thấy một bộ xương người. Tối tăm, ma quái, nó trỗi dậy từ những cái bóng mờ ảo, nhợt nhạt của tấm phim. Tôi thấy bộ xương của Pat. Xương khô của Pat.
                          Jaffé lần cái kẹp dò theo đường nét và màu sắc trên phim và giải nghĩa. Ông không biết là tôi đã thôi nhìn. Tính tỉ mỉ, cẩn thận của một nhà khoa học khiến ông chỉ tập trung vào công việc. Cuối cùng, ông quay sang tôi. "Cậu hiểu chứ?"
                          "Vâng," tôi nói.
                          "Vậy, có vấn đề gì không?" ông hỏi.
                          "Không có gì," tôi trả lời. "Chỉ là tôi không thể theo dõi quá lâu."
                          "Thế à," Ông đeo kính lên. Rồi cất phim vào phong bì, ông nhìn tôi, dò hỏi. "Cậu không đóng góp ý kiến nào sao?"
                          "Không ạ," tôi nói. "Nhưng con tạo thật trớ trêu. Có hàng triệu triệu con người khỏe mạnh. Tại sao cô ấy lại mắc bệnh?"
                          Jaffé im lặng một lúc.
                          "Không ai có câu trả lời," ông nói.
                          "Vâng," tôi đáp, và bỗng dưng, tôi thấy lòng cay đắng và tê dại vì giận dữ: "không ai có thể trả lời. Dĩ nhiên. Không ai có câu trả lời về sự đau khổ và cái chết. Không, khốn nạn quá; ngoài ra, ta lại chẳng có thể làm được gì."
                          Jaffé nhìn tôi rất lâu.
                          "Xin lỗi giáo sư," tôi nói. "Nhưng tôi thấy mình bất lực. Khốn nạn bởi lẽ đó."
                          Ông vẫn nhìn tôi. "Cậu có dư chút thì giờ?"
                          "Có," tôi nói. "Có đủ."
                          Ông đứng lên. "Tôi sắp làm một vòng thăm bệnh buổi tối. Tôi muốn cậu đi theo. Y tá sẽ đưa cậu một bộ quần áo trắng. Bệnh nhân sẽ nghĩ cậu là phụ tá của tôi."
                          Tôi không hiểu ý định của ông, nhưng tôi cầm bộ quần áo cô y tá đưa cho.
                          Chúng tôi đi theo một hành lang dài. Qua những khung cửa sổ rộng, màu hồng óng ả của buổi tối lọt vào -- một thứ ánh sáng dai dẳng, gần như siêu thực, kín đáo, êm đềm. Một vài cửa sổ còn mở, và hương hoa chanh nhè nhẹ thoảng đưa.
                          Jaffé mở cửa. Một mùi hôi thối xộc vào mũi chúng tôi. Một thiếu phụ với mái tóc tuyệt đẹp, màu vàng cũ, trong đó ánh sáng phản chiếu sáng ngời, đang yếu ớt đưa tay lên. Vầng trán cao quý và hẹp lại ở thái dương, nhưng dưới đôi mắt, một lớp bông băng che đến tận miệng. Jaffé cẩn thận tháo ra. Người đàn bà không có mũi -- thay vào đó, một vết thương đỏ hỏn, nhày ướt, đóng mài, với hai lổ thủng ở giữa. Jaffé quấn băng lại.
                          "Tốt," ông nói, giọng thân thiện và quay đi.
                          Ông đóng cửa. Tôi đứng im một chốc và nhìn vào ánh sáng dịu êm của buổi chiều.
                          "Đi nào," Jaffé nói và dẫn đường, vào phòng bên cạnh.
                          Một tràng ho sùng sục, òng ọc nóng sốt trong cơn mê sảng chào đón chúng tôi. Đó là một người đàn ông mặt xám như chì, trên đó nổi bật những đốm đỏ son. Miệng há to, mắt lồi, và đôi tay quờ quạng tứ tung trên tấm khăn phủ giường. Coi như anh không còn ý thức. Biểu đồ nhiệt độ ghi mãi con số một trăm lẻ bốn. Một cô y tá ngồi bên giường, đọc sách. Cô bỏ sách xuống và đứng dậy khi Jaffé đi vào. Ông liếc mắt qua biểu đồ và lắc đầu. "Sưng phổi và tràn dịch màn phổi cùng một lúc. Đã cật lực như một con trâu mộng chống lại căn bệnh trong hai tuần. Bịnh tái phát. Trước đó hầu như đã lành. Đi làm quá sớm. Một vợ, bốn con. Vô vọng." Ông nghe phổi và đếm mạch. Cô y tá phụ một tay. Khi ấy, sách của cô rơi xuống đất. Tôi nhặt lên, nhận ra đó là một quyển sách dạy nấu ăn. Người bệnh vẫn tiếp tục cào sướt với bàn tay dài lêu khêu như nhện trên tấm phủ giường. Đó là tiếng động duy nhất trong phòng. "Y tá, cô trực ở đây đêm nay," Jaffé ra lệnh.
                          Chúng tôi đi ra. Ánh hồng của hoàng hôn biến đổi thành nhiều sắc màu. Nó lấp đầy hành lang như một vầng mây. "Ánh sáng khốn nạn," tôi nói.
                          "Tại sao?" Jaffé hỏi.
                          "Chúng không phù hợp. Cái này và cái kia."
                          "Ô, có chứ," Jaffé nói, "chúng phù hợp với nhau."
                          Trong phòng kế bên, một người đàn bà nằm, thở một cách khó nhọc. Bà được đưa vào đây lúc chiều vì ngộ độc thuốc ngủ. Hôm qua, chồng của bà bị tai nạn và được chở về nhà cho bà, cột sống gãy, ông la hét thảm thiết, và vẫn tỉnh táo. Ông chết ở nhà, đêm qua.
                          "Liệu bà ấy có qua khỏi không?" tôi hỏi.
                          "Có thể lắm."
                          "Để làm gì?"
                          "Tôi đã gặp năm trường hợp tương tự trong vài năm gần đây," Jaffé nói. "Chỉ có một người tìm cách tự tử lần thứ nhì. Bằng hơi ga. Bà ấy chết. Số còn lại, có hai người về sau tái hôn."
                          Ở phòng kế là một người đàn ông bại liệt đã mười hai năm. Ông ta có nước da vàng như sáp, bộ râu đen thưa thớt, và một cặp mắt to, bất động.
                          "Ông khỏe chứ?" Jaffé hỏi.
                          Người đàn ông làm một cử chỉ mơ hồ. Rồi ông ta chỉ ra cửa sổ -- "Hãy nhìn trời. Sắp có mưa, tôi cảm thấy thế." Ông cười to. "Ta luôn luôn ngủ ngon hơn khi trời mưa." Trước mặt ông, trên tấm chăn là một bàn cờ bọc da, với những con cờ có thể cắm vào mà không tuột ngã. Một chồng tạp chí và vài cuốn sách đặt bên cạnh.
                          Chúng tôi đi tiếp. Tôi gặp một cô gái trẻ với cặp mắt kinh hoàng và đôi môi tím ngắt, tinh thần suy sụp vì sinh khó -- một đứa trẻ tàn tật với đôi chân què quặt, mềm nhũn và có bướu nước trong não -- một người đàn ông không dạ dầy -- một bà già tóc bạc, như chim cú, khóc than vì bị người thân bỏ rơi; bà sống dai quá chẳng chịu chết cho họ nhờ -- một người đàn ông mù, tin rằng ông ta sẽ nhìn lại được -- một đứa trẻ bị nhiễm giang mai, cha nó ngồi canh bên giường -- một người đàn bà vừa được giải phẩu sáng nay, cắt bỏ cái vú thứ nhì -- một bà khác dị dạng vì thấp khớp -- bà thứ ba bị cắt bỏ hai buồng trứng -- một công nhân với đôi thận hư nát -- hết phòng này qua phòng kia đều có chung một mẫu số: rên xiết, đau đớn, bất động, tàn phế; một đường dài vô tận của sự bất hạnh, sợ hãi, đầu hàng, đau đớn, tuyệt vọng, hy vọng, khó khăn; và mỗi lần, khi cửa khép lại, bỗng ở hành lang lại có thứ ánh sáng hồng nhạt, siêu nhiên của chiều tà; lúc nào cũng thế, tiếp theo sự khủng khiếp của những căn phòng nhỏ là vầng mây huy hoàng, vàng óng pha xám, êm đềm mà ta không thể nào biết đó là một điều mĩa mai khủng khiếp hay là một niềm an ủi thiêng liêng.
                          Jaffé ngừng lại trước cửa phòng mỗ. Ánh sáng chói chang xuyên qua những ô kính trên cửa. Hai người y tá đẫy xe tới. Một người đàn bà nằm trên đó. Tôi bắt gặp cái nhìn của bà. Bà không thấy tôi; bà nhìn vào một nơi vô định. Tuy thế tôi phải chớp mắt trước cái nhìn ấy, chan chứa can đảm, tự chủ và bình thản.
                          Jaffé đột nhiên lộ vẻ mệt mỏi. "Tôi không biết đúng không," ông nói, "nhưng tôi nghĩ, không thể dùng lời để an ủi cậu. Cậu sẽ chẳng tin tôi. Bây giờ cậu đã nhìn thấy, hầu hết những người ấy đều bệnh nặng hơn Pat Hollmann; một vài người không còn gì hết, ngoại trừ hy vọng. Tuy nhiên, đa số sẽ vượt qua khó khăn, và tốt đẹp hơn. Đó là những gì tôi muốn cho cậu thấy."
                          Tôi gật đầu. "Giáo sư đúng lắm," tôi nói.
                          "Chín năm trước vợ tôi qua đời. Cô ấy mới có hai mươi lăm. Chưa hề bị bệnh. Cúm." Ông im lặng một lát. "Cậu có biết tại sao tôi nói ra chuyện ấy?"
                          Tôi gật đầu lần nữa.
                          "Ta không thể biết trước tương lai. Người bệnh trầm kha có khi lại sống dai hơn người khỏe mạnh. Cuộc đời là một hiện tượng lạ kỳ." Trên mặt ông bây giờ lộ ra khá nhiều vết nhăn. Một người y tá đi đến, nói thầm vào tai ông. Ông đứng thẳng lên, gật đầu về phía phòng mỗ. "Tôi phải vào mỗ. Đừng để Pat biết cậu lo lắng. Đó là điều chính yếu. Cậu có làm được không?"
                          "Có ạ," tôi nói.
                          Ông bắt tay tôi và cùng với người y tá nhanh chóng đi qua cửa kính, vào căn phòng có ngọn đèn trắng như vôi.
                          Tôi chầm chậm bước xuống lầu. Càng xuống thấp, càng tối dần, và ở lầu một, đèn điện đã bật lên. Rồi tôi ra ngoài đường. Tôi nhìn thấy hoàng hôn hồng nhạt lóa lên một lần nữa ở chân trời như dưới một tiếng thở dài. Rồi lập tức nó lụi tàn và biến thành màu xám.
                          Tôi ngồi trong xe một lúc lâu, nhìn về phía xa xôi. Rồi tôi lấy lại bình tĩnh và lái về ga-ra. Koster đã chờ sẳn trước cổng.
                          "Cậu đã biết cả rồi?" tôi hỏi.
                          "Vâng, anh trả lời. "Nhưng Jaffé muốn đích thân nói với cậu."
                          Tôi gật đầu.
                          Koster nhìn tôi.
                          "Otto," tôi nói, "tớ không còn là một đứa bé và tớ biết là chưa thực sự mất mát gì. Nhưng có lẽ tối nay tớ sẽ khó tự chủ nếu chỉ có một mình tớ với Pat. Ngày mai thì không sao. Tớ sẽ không còn xúc động mạnh. Vậy đêm nay, bọn mình đi chơi chung với nhau, được không?"
                          "Sao lại không, Bob. Tớ đã tính trước và sắp xếp với Gottfried."
                          "Vậy cho tớ mượn lại Karl. Tớ lái về nhà, đón Pat và, trong một giờ, đón cậu."
                          "Vâng."
                          Tôi lái đi. Đến Nicholaistrasse, tôi chợt nhớ mình đã quên bẵng con chó. Tôi trở đầu xe, quay lại rước nó.
                          Tiệm không còn thắp đèn nhưng cửa vẫn mở. Anton ngồi trên chiếc giường cắm trại ở cuối phòng. Tay ông cầm một cái chai. "Gustav, hắn gạt tôi," ông nói, hơi men nồng như một lò nấu rượu.
                          Con terrier chạy ra, ngửi ngửi và liếm tay tôi. Mắt của nó xanh lục, phản chiếu ánh đèn đường. Anton đứng lên. Ông lảo đảo đi tới và thình lình bật khóc.
                          "Cún ơi, bây giờ con cũng bỏ đi. Mọi thứ đều bỏ đi --Thilda chết -- Minna không còn -- nói cho tôi biết, cậu ơi, những người như chúng ta sống để làm gì?"
                          Giọt nước cuối cùng! Bóng điện nhỏ xíu, tẻ nhạt mà ông vừa bật lên, mùi hư hoại của nước trong bồn nuôi cá, âm thanh sột soạt của bầy rùa và chim, và người đàn ông thấp bé béo phệ trong gian hàng này . . .
                          "Đám côn trùng, dĩ nhiên chúng thừa biết -- còn, cậu ơi, nói cho tôi nghe, những người như chúng ta có gì để sống, tôi muốn biết? Chúng ta, những con chó lai khốn nạn, có gì để sống, thưa cậu?" Con khỉ ré lên như tiếng khóc và lăng xăng như người điên trên băng ghế. Bóng của nó trên tường cũng chập chờn nhảy múa theo. "Koko," người đàn ông thấp bé, uống rượu một mình trong đêm tối, khóc thút thít, "con duy nhất của ta, đến đây!" Ông đưa chai rượu cho nó. Con khỉ với lấy.
                          "Ông giết nó mất, nếu ông đưa cái đó cho nó uống."
                          "Thì đã sao, thưa cậu? ông lắp bắp nói. "Thêm vài năm trong xích xiềng hay không -- cũng vậy -- cũng vậy thôi -- thưa cậu."
                          Tôi bế con chó đang nép vào tôi, ấm áp, và đi ra. Với những bước chân dài duyên dáng, nó lon ton chạy bên cạnh tôi, ra xe hơi.
                          Tôi lái về nhà, dẫn con chó với dây xích, và cẩn thận lên lầu. Trong hành lang, tôi đứng lại soi gương. Nét mặt của tôi có vẻ bình thường. Tôi gõ cửa phòng của Pat, hé cửa và thả con chó vào.
                          Tôi vẫn đứng bên ngoài, nắm cứng dây xích và chờ đợi. Nhưng không ngờ, thay vì giọng nói của Pat, tôi lại nghe giọng nam trầm của Frau Zalewski. "Ối trời, cái gì thế này!"
                          Lấy lại hơi thở, tôi len lén nhìn. Tôi đã e sợ giây phút ban đầu chỉ một mình tôi với Pat. Bây giờ mọi chuyện dễ dàng hơn; Frau Zalewski là một cái vách chắn không thấm nước mà tôi có thể dựa vào.
                          Bà chễm chệ ngồi ở bàn. Một ly cà phê bên cạnh, một cỗ bài tây trải ra theo một thứ tự huyền bí trước mặt. Pat, mắt sáng long lanh, nằm cuộn tròn kế bên, hóng chuyện tương lai.
                          "Chào mọi người," tôi nói, thình lình rất hài lòng.
                          "Hắn đến kìa," Frau Zalewski long trọng tuyên bố, "theo con đường tắt vào buổi chiều, bên một quý ông da sậm ở chỗ cao nhất trong nhà."
                          "Trời ơi!" Pat kêu. "Một con Irish terrier!"
                          "Phục em thật," tôi nói. "Một giờ trước đây, anh không biết nó là giống chó gì."
                          Nàng cúi xuống, và con chó nhảy phóc vào lòng nàng. "Vậy nó tên gì, hở Robby?"
                          "Anh không biết. Có lẽ Cognac hay Whiskey hay một cái tên tương tự, đặt theo ông chủ cũ."
                          "Nó thuộc về chúng ta?"
                          "Như một sinh vật có thể thuộc về một sinh vật khác, vâng."
                          Nàng vui quá, gần như nghẹt thở. "Vậy chúng ta đặt tên nó là Billy, Robby nhé. Khi còn bé, mẹ em cũng có một con chó. Mẹ em thường kể lại. Nó cũng có tên là Billy."
                          "Vậy là anh may mắn," tôi nói.
                          "Nó đã được huấn luyện cách ăn ở trong nhà chưa?" Frau Zalewski hỏi.
                          "Nó có dòng dõi quý phái như một quận công," tôi trả lời, "mà tất cả quận công đều được huấn luyện."
                          "Nếu chúng còn nhỏ quá thì không đâu. Nó bao lớn rồi?"
                          "Tám tháng. Tương đương với mười sáu tuổi người."
                          "Trông nó không có vẻ gì đã được huấn luyện," Frau Zaleski nói.
                          "Nó chỉ cần tắm cho sạch, mà thôi."
                          Pat đứng dậy, vòng tay qua vai Frau Zalewski. Tôi nhìn nàng, bối rối. "Cháu luôn luôn muốn có một con chó," nàng nói. "Bác cho phép chúng cháu được giữ nó ở đây, bác nhé? Chắc bác không phiền đâu nhỉ?"
                          Lần đầu tiên từ khi quen biết, tôi thấy Frau Zalewski đờ ra, không thể đối đáp. "Ơ, trong trường hợp này -- bác nghĩ," bà trả lời. "Dĩ nhiên, bài đã cho thấy. Có một ngạc nhiên với người đàn ông trong nhà."
                          "Thế bài có báo là chúng ta sẽ đi ăn tối không?"
                          Pat cười to. "Chưa đến lúc đó, Robby. Chúng em mới bói đến anh mà thôi."
                          Frau Zalewski đứng lên, gom bài lại. "Cô có thể tin, hay có thể không tin, hay có thể tin một cách nhầm lẫn như Zalewski nhà tôi. Với ông ấy, con chín bích luôn luôn là điềm xấu cảnh báo chuyện nước nôi. Ông ấy hiểu là phải thận trọng với nước. Thế nhưng, chính ra lại là các thứ rượu schnapps và Pilsner."
                          "Pat," tôi gọi nàng, sau khi bà ấy đi ra, và tôi ôm nàng. "Thật tuyệt vời khi anh về nhà và được nhìn thấy em. Lúc nào cũng là một nỗi ngạc nhiên không ngừng cho anh. Mỗi khi leo những nấc thang cuối và mở cửa, tim anh vẫn đập loạn, vì anh sợ đó không phải là sự thật."
                          Nàng nhìn tôi, mỉm cười. Gần như không bao giờ nàng trả lời khi tôi nói những câu như thế. Tôi không thể tưởng tượng, và tôi cũng sẽ đau khổ nếu nàng nói một câu tương tự -- dường như với tôi, một người đàn bà không nên nói với một người đàn ông rằng nàng yêu hắn. Đôi mắt của Pat chỉ sáng ngời và chứa chan hạnh phúc, vậy mà, lại chuyện chở biết bao chữ nghĩa.
                          "Có thực chúng ta sẽ đi chơi không, Robby?" nàng hỏi, mặt sát bên tôi.
                          "Tất cả chúng ta," tôi đáp."Có Koster và Lenz nữa. Karl đậu ngay trước cửa."
                          "Còn Billy?"
                          "Dĩ nhiên, Billy cũng được đi theo. Thức ăn tối nay chưa đụng tới, chúng ta sẽ làm gì bây giờ? Hay là em đã ăn?"
                          "Không, em chưa ăn. Em chờ anh mà."
                          "Nhưng em không nên chờ anh. Không bao giờ. Đợi chờ khủng khiếp lắm."
                          Nàng lắc đầu. "Anh không hiểu, Robby. Chỉ khủng khiếp khi ta không có gì để đợi chờ."
                          Nàng bật ngọn đèn bên trên tấm gương. "Nhưng em cần thay y phục bây giờ, nếu không chẳng biết khi nào mới xong. Anh có thay áo không?"
                          "Chút nữa," tôi nói. "Anh sẽ thay rất nhanh. Cho anh ngồi đây một lát."
                          Tôi gọi con chó lại và ngồi trên ghế bành cạnh cửa sổ. Tôi thích ngồi im, ngắm Pat khi nàng thay áo. Chưa bao giờ tôi biết đến sự bí ẩn, lạ lùng vô tận của một người đàn bà cho bằng lúc tôi ngắm nhìn thứ ánh sáng lượn lờ này trước gương soi, sự trầm ngâm thưởng thức, say sưa miệt mài nơi bản thân, trôi tuột trở về cái khôn ngoan sắc sảo trong vô thức về phái tính. Tôi không thể hình dung một người đàn bà nói cười khi thay áo -- và nếu cô ấy làm thế, cô ấy sẽ đánh mất đi tính cách bí ẩn và quyến rũ không thể giải thích của một điều gì mơ hồ lãng đãng. Tôi yêu nét duyên dáng và những cử động mềm mại của Pat trước gương; thật tuyệt vời khi ta ngắm cách nàng đưa tay lên mái tóc; hay cách nàng khéo léo và thận trọng cầm cây bút chì kẻ mắt lên gần trán. Khi ấy nàng có một vẻ gì đó của một con nai và của một con báo mảnh dẻ, và cũng có một chút gì đó của một thiếu nữ Amazon sắp ra trận. Nàng quên tất cả mọi chuyện chung quanh, nét mặt của nàng nghiêm trang,chăm chú, nàng nhẹ nhàng và cẩn thận đưa nó đến gần bóng của nó trong gương, và, khi nàng nghiêng mình tới, dường như không còn là bóng của nàng phản chiếu trong gương nữa, mà là hai người đàn bà đang ngắm nhau với ánh mắt già dặn, từng trải, -- táo bạo và thẩm định giá trị của nhau trong hoàng hôn của hiện thực và thế kỷ.
                          Hơi thở tươi mát của buổi tối lùa qua cửa sổ. Tôi im lìm ngồi đó, tôi không quên điều gì của buổi chiều hôm ấy; tôi hiểu hết -- nhưng khi tôi nhìn sang Pat, tôi cảm thấy một nỗi buồn rười rượi, chìm đắm trong tôi như một hòn đá, bắt đầu bao phủ bởi một hy vọng mãnh liệt; thay đổi và bằng một cách lạ lùng nào đó, trộn lẫn với hy vọng; cái này biến thành cái kia; sự tiếc thương, niềm hy vọng, cơn gió, buổi tối, và cô gái xinh đẹp giữa tấm gương sáng và ánh đèn; vâng, trong một khoảnh khắc, tôi đã có một trực giác lạ lùng rằng, chỉ có điều này, trong ý nghĩa thực tế và sâu đậm của nó, là cuộc sống; và có lẽ cả hạnh phúc -- tình yêu với một hỗn hợp của nỗi buồn, lòng tôn kính và kiến thức giữ kín.

                          Comment



                          Hội Quán Phi Dũng ©
                          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                          website hit counter

                          Working...
                          X