Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những ngày cuối

Collapse
X

Những ngày cuối

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những ngày cuối

    Những ngày cuối

    Tác giả: Nguyễn Giả Viên


    Kể từ tháng 3 năm 1975 tình hình chiến sự càng lúc càng sôi động. Tin tức lính rã ngũ và đang di chuyển chiến thuật đưa về. Người tỵ nạn đổ dồn đến Ðà Nẵng. Họ từ Tam Kỳ, Vĩnh Ðiện, Hội An chạy ra, nhưng đông nhất vẫn là từ Huế – Quảng Trị chạy vào và tạm trú ở các trường học. Lính và thường dân mạnh ai nấy chen lấn, giành giựt để lên cho được tàu thủy vào Sài Gòn. Tôi cũng đã tìm đường ra đi, nhưng vợ tôi chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là sinh đứa con thứ hai nên không thể leo lên chiếc tàu Hải Quân neo ở Sơn Trà bằng sợi dây thừng thòng xuống ở cuối có buộc cái bao bố. Chúng tôi đành phải quay về nhà.

    Những chiều hè ở Ðà Nẵng không khí thật oi bức ngột ngạt. Tôi thường thả bộ xuống góc đường Lê Lợi – Phan Ðình Phùng sát nhàtôi không biết làm gì và ở đây tôi gặp Ð. bạn tôi cũng là con trai của nhà sản xuất ngói gạch Nguyễn Hữu Ðoan. Chúng tôi thăm hỏi và trao đổi tin tức chiến sự đang xảy ra xung quanh. Ð thì hình như không có ý định ra đi. Dãy khách sạn đồ sộ, tân kỳ đúng tiêu chuẩn quốc tế như sợi dây vô hình trói chân Ð. lại. Rồi như thấy nước sắp đến chân Ð. kêu tôi và như muốn cho không một hai căn phòng của khách sạn tùy tôi lựa chọn. Ð. cũng muốn đổi chiếc xe Ladalat để lấy chiếc xe Honda của tôi, nhưng tôi chỉ muốn cười và không trả lời. Lòng tốt của Ð. lúc này biểu lộ sự ngây thơ pha lẫn chút trào lộng quá đáng.

    Người dân Huế tỵ nạn tạm trú ở bên kia trường Nữ Trung Học đối diện với nhà tôi. Những ngày gần cuối tháng 3, ngồi trên lầu nhà tôi nhìn qua bên kia trường Nữ tôi thấy có dấu hiệu bất thường. Người tỵ nạn dáo dác chạy ra, chạy vô có vẻ gấp rút. Chưa biết được lý do chính xác, tôi nghe tin sét đánh: Huế mất, đó là ngày 26 tháng 3 năm 1975. Lòng tôi buồn vô hạn. Cái cảm giác mất mát, đau đớn như trước đây nghe tin ba tôi mất. Huế quê tôi như chôn nhau cắt rốn và gia đình tôi hết thảy còn đang ở ngoài đó. Tôi bỗng chốc thấy mình mang tâm trạng của người Miền Bắc di cư năm 1954 mà ranh giới chia cắt bây giờ là đỉnh đèo Hải Vân. Người tỵ nạn tiếp tục chạy vô chạy ra ở hông trường Nữ. Nghe tin đồn ở chợ Hàn có nhiều tiệm đã bị trộm cạy phá để cướp của. Ðường phố lác đác người qua lại. Có tiếng súng nổ xa vắng đâu đó. Một đụn khói bốc lên từ đường Hùng Vương. Người lối xóm khuyên chúng tôi nên đề phòng và khóa cửa cẩn thận. Nghe đồn có nhiều vụ xông vào nhà uy hiếp. Qua đài phát thanh, trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Vùng I kêu gọi quân nhân ở lại tiếp tục chiến đấu và nghiêm trị thẳng tay những kẻ lợi dụng tình thế để cướp bóc. Lời kêu gọi phát ra nhưng không thấy ai đáp ứng. Tình hình càng lúc càng rối ren. Không biết ai đó đã đem vứt súng rất nhiều ở gốc cây dừa ở phía trước nhà tôi có cả quần áo lính, giày trận. Tôi lấy một cây AR 15 mang vô nhà, nhưng chị tôi phản đối, tôi phải mang vất lại chỗ cũ. Chú Ba ở căn nhà kế cạnh, rủ gia đình tôi xuống lánh nạn ở một hãng bia nằm trên đường Ðộc Lập cạnh bờ sông Bạch Ðằng. Ðây là một công ty chuyên sản xuất bia của người Pháp, phía trước cửa có treo lá cờ tam tài thật lớn.

    Chúng tôi năm, sáu gia đình vào phía trong trãi chiếu nằm, ngồi trên nền xi măng. Tôi và chị tôi cứ đi đi, về về để lo thức ăn cho gia đình. Một buổi sáng, khi vừa ra đến đường Thống Nhất tôi nghe tiếng loa phát thanh hướng Cầu Vồng đi xuống và âm thanh càng lúc càng rõ dần. Một đoàn xe nhà binh, dẫn đầu là chiếc xe jeep mui trần. Một vị ..(đại diện tôn giáo) đứng trên xe tay cầm loa đọc lời kêu gọi khuyên các quân nhân nên giao nạp vũ khí, đừng chống cự để tránh đổ máu. Ðứng bên cạnh có hai người bộ đội mang đầy đủ súng ống và trên tay cầm cây cờ “Giải Phóng” thật lớn. Theo sau chiếc xe jeep là mấy chiếc Dodge nhà binh trên chở thanh niên, thanh nữ và cả bộ đội đứng chen lẫn vai mang súng và đeo băng đỏ ở cánh tay. Tôi biết mọi sự đã xong xuôi.

    Niềm hy vọng dù rất mong manh, nay cũng tan tành thành mây khói. Ðà Nẵng đã cũng chịu cùng chung số phận với Quảng Trị và Huế. Tai tôi lùng bùng, đầu óc choáng váng như một bệnh nhân uống thuốc quá liều lượng. Ðó là ngày 29 tháng 3 năm 1975.


    Người Ðà Nẵng lúc này chỉ còn hy vọng vào Sài Gòn, vào Vùng 4 chiến thuật. Ngoài đường bộ đội, công an đang kiểm soát, tiếp thu thành phố. Người Huế tỵ nạn chộn rộn sửa soạn hồi hương. Một số ít ráng ở lại như kỳ vọng vào một thỏa hiệp, một phép lạ xảy ra vào giờ thứ 25. Ðã thấy có nhiều xe Honda chạy trên đường phố. Tôi cũng xách xe chạy dòng dòng lên Ngã Năm, qua đường Trưng Nữ Vương rồi thẳng lên đường Hoàng Diệu, Chợ Mới. Nhà nhà vẫn còn đóng cửa. Chạy đến kho Quân Nhu, nơi đây đông đảo dân chúng đang tụ tập, người chạy vô, chạy ra. Khi trở ra người nào cũng vác trên vai hay chở trên xe một bao gạo. Những người lính Bắc Việt mang súng đứng nhìn chứ không tỏ thái độ ngăn cấm hay nói năng gì. Tôi quẹo qua khu đường rầy để về đường Ông Ích Khiêm. Giấy tờ hồ sơ kế toán của quân đội từ các trại lính gần đó vất bừa bãi trắng cả lối đi. Một vài thanh niên chỉ mặc độc cái quần lính, ở trần và đi chân đất đang lẻ tẻ di chuyển dọc theo đường rầy. Không có tiếng súng nổ nhưng không khí ngột ngạt bao trùm báo hiệu nhiều tai họa sắp xảy đến.

    Từ ngày gia đình chúng tôi không còn tạm trú ở hãng bia ở đường Ðộc Lập. Chúng tôi về lại nhà, nhưng cửa nhà vẫn luôn luôn đóng kín và khóa chặt. Chẳng ai biết phải làm gì trong thời gian này. Chúng tôi lo dự trữ lương thực và bắt đầu cuộc sống tiết kiệm. Chợ búa đóng cửa. Thời gian buồn chán như thế cứ chầm chậm trôi qua. Chợ rồi cũng được nhóm lại nhưng không sầm uất như lúc trước.

    Mấy căn nhà mà chủ nhân đã di tản, đứng ở nhà tôi thấy thấp thoáng bóng dáng công an bộ đội đến tiếp thu. Chị tôi bảo đem tờ khai gia đình qua nộp ở tổ trưởng dân phố. Tôi hỏi ai? Chị tôi trả lời người đàn bà có tiệm sách ở ngã tư Lê Lợi – Thống Nhất cạnh văn phòng Bác Sĩ Nguyễn Quý Thể. Tôi nhớ đến người đàn bà thường hay vui vẻ hỏi thăm, trò chuyện mỗi khi tôi ghé mua tờ báo…

    Niềm hy vọng vào Mỹ, vào chính quyền Sài Gòn càng ngày càng như quả bóng xì hơi. Lãnh thổ của Miền Nam càng ngày càng co rụm lại. Không có dấu hiệu của chiến thắng dành lại mà chỉ có nghe những rút lui mất mát. Ðà Nẵng đã có Ủy Ban Quân Quản thành phố như chính quyền địa phương mới.

    Buổi sáng sớm ngày 27 thángg 4 năm 1975, vợ tôi chuyển bụng phải đưa đến Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Ðà Nẵng. Tôi cùng đi với vợ tôi nhưng đến bệnh viện, người công an gác cổng không cho tôi vào. Câu trả lời: Vợ tôi sanh chứ không phải tôi, nên tôi không có lý do gì vào trong đó.

    Vợ tôi một tay ôm bụng, một tay xách giỏ áo quần, khăn tã, đi vào bệnh viện và tự lo liệu lấy một mình. Cũng may cho chúng tôi, nhà cô y tá đỡ đẻ ở cạnh nhà tôi. Buổi chiều cô ta ghé nhà báo tin vợ tôi vừa sanh một con trai và sức khỏe của hai mẹ con đều tốt. Cô ta cũng cho tôi biết bệnh viện không cho nằm lâu, ba ngày sau tôi phải đến đưa vợ con tôi về. Ðúng ngày tôi lên bệnh viện thật sớm và ngồi chờ ở bên ngoài. Ðến gần trưa vợ tôi mới bồng con ra. Về đến nhà chúng tôi chưa kịp lên phòng, một vài người hàng xóm nghe tin đến thăm. H. đến bên cạnh tôi nói nhỏ: Sài Gòn mất rồi.

    Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào hôm nay. Ðó là ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày đen của lịch sử. Như một con bệnh mà bác sĩ đành bó tay và cho biết sự sống còn chỉ thời gian ngắn nhưng không hiểu sau khi nghe tin Sài Gòn mất tôi vẫn ngạc nhiên, thấy mình mất bình tĩnh. Người tôi lúc này buồn vui lẫn lộn dể cuối cùng tất cả đều tan biến chỉ còn lại một nỗi lo khổng lồ. An ủi vì dù sao cũng có thêm một đứa con, lại là đứa con trai đầu lòng. Nhưng buồn vì tương lai đen tối trước mắt. Ðời sống bên ngoài như có vẻ miễn cưỡng trở lại bình thường. Một buổi tối vừa về đến nhà chị tôi cho biết ở khu phố đã lập xong danh sách của thành phần thanh niên và tôi được xếp vào đoàn thể này. Vì tôi vắng nhà, và tôi cũng có gia đình nên bàtổ trưởng dân phố cho tôi vào danh sách của những người trung niên. Bà ta cũng thông báo cho biết sáng sớm ngày mai tôi phải đến một trường Công Giáo gần chợ Hàn để học tập. Thời gian 2 ngày, sáng đi chiều về vàăn uống tự túc. Sáng sớm hôm sau tôi đến đúng hẹn. Có nhiều người cùng đến. Chúng tôi dò tên trên những danh sách dán ở cửa để tìm phòng, như thí sinh dò số ký danh. Vì đang mùa nghỉ hè và tình hình chiến sự sôi động nên các trường học đã đóng cửa từ lâu. Cuối cùng tôi cũng đã tìm ra phòng họp.

    Chưa tới mười người trong phòng. Người ta chia ra từng nhóm và mỗi nhóm sinh hoạt một phòng. Trường học vẫn còn đóng cửa nên bàn ghế trong lớp được dồn vào một lớp và đầy cả bụi bặm. Chúng tôi kéo ra ba cái bàn và một ít ghế để ngồi quanh với nhau. Ngoài chúng tôi ra còn có sự hiện diện của một tên cán bộ trẻ trạc tuổi tôi, trên dưới ba mươi. Tên cán bộ tự giới thiệu là chính trị viên của nhóm, có nhiệm vụ hướng dẫn buổi học tập hôm nay. Hắn ta cũng nhấn mạnh là sẽ không tham dự vào cuộc thảo luận hay đặt câu hỏi mà chỉ ngồi lắng nghe.

    Nhìn quanh những người trong nhóm ai ai cũng tuổi từ 40 đến 50 duy chỉ mình tôi là trẻ nhất. Trong phần tự giới thiệu của mỗi người tôi được biết chỉ ba bốn người làm nghề tự do như thợ may, buôn bán, chạy xích lô. Số còn lại đa số là quân nhân phục vụ trong các đơn vị chuyên môn như quân cụ, quân nhu, hay tiếp liệu và không có ai là sĩ quan. Buổi hội thảo bắt đầu sau lời gợi ý của tên chính trị viên. Không ai dám mở miệng dù một lời nói vô thưởng vô phạt. Không khí im lặng bao trùm. Người này nhìn mặt người kia chờ đợi người đó nói trước mình. Thời gian nặng nề trôi qua. Anh V. chỉ tay vào tôi như muốn hỏi tôi có ý kiến gì không. Thực tình tôi chẳng có gì để nói. Kinh nghiệm biến cố Tết Mậu Thân ở Huế tất cả mọi hình thức phát biểu đều là giả dối, lừa bịp chưa kể đến chuyện liên lụy vào thân. Nhưng trong hoàn cảnh này ai cũng im lặng cả, không ai mở miệng nói lời nào thì biết đâu họ lại bắt chúng tôi học tập thêm vài ngày nữa. Như để khai thông cái không khí nặng nề này, tôi làm liều gợi ý:

    Trước 30-4-75 chúng ta sống trong chính thể tự do. Bây giờ với chính quyền mới mỗi khi viết tờ đơn hay nhìn vào các văn thư giấy tờ của chính quyền, chúng ta thấy mấy chữ như một câu khẩu hiệu: Ðộc lập – Tự Do – Hạnh Phúc. Chính quyền nào cũng muốn cho người dân được sự tự do. Thế thì Tự do của hai nơi hoàn toàn giống nhau hay có sự gì khác biệt.

    Tên chính trị viên của nhóm nghe tôi nói hắn ta bỗng nhiên đứng dậy, mắt sáng lên miệng cười như người bắt được của:

    - Ðúng rồi, anh này đã nêu ra một vấn đề hay. Chúng ta thử thảo luận để tìm hiểu xem sao.

    Mọi người chờ đợi. Chẳng có ai lên tiếng. Hình như ai cũng e ngại khi đề cập đến vấn đề tế nhị này. Thấy không ai muốn phát biểu và buổi học tập không mang lại một kết quả cụ thể, tên chính trị viên thay vì ngồi dự khán, hắn ta trở thành một thuyết trình viên đã nói thật nhiều. Chúng tôi ngồi nghe nhưng đầu óc thì mong sao thì giờ chóng qua để được trở về nhà. Buổi hội thảo kết thúc vào buổi chiều trong sự mệt mỏi. Tên chính trị viên dặn chúng tôi trở lại vào sáng mai cũng tại trường học này nhưng tập họp ở hội trường lớn.

    Sáng sớm hôm sau tôi lại đến. Rất nhiều người đã có mặt, họ ngồi chật ních cả hội trường. Tôi được biết được biết đây là buổi học tập của lớp đàn ông trung niên cư ngụ ở phường Hải Châu I. Bước vào phòng tôi thấy Ð. đang ngồi ở hàng ghế cuối, sát bức tường. Tôi xuống ngồi với Ð, khi đi ngang qua hàng ghế giữa tôi thấy Kh. một người xuất thân từ học viện quốc gia hành chánh, tham dự khóa 3 đưa tay chào tôi. Như vậy người trong hội trường gồm đủ mọi thành phần. Tôi đang nói chuyện với Ð. thì tên chính trị viên của nhóm ngày hôm qua đến nói nhỏ vào tai tôi. Hắn muốn khi buổi hội thảo bắt đầu, tôi sẽ lên mấy vi âm để nêu lên câu hỏi mà tôi đã gợi ý trong buổi hội thảo trước. Lúc đó hắn sẽ ra dấu cho tôi biết. Buổi hội thảo được thông báo bắt đầu. Mọi người im lặng. Một tên cán bộ có lẽ là người cao cấp nhất trong phòng nêu lý do buổi học tập hôm nay. Hắn ta lên án chế độ cũ và kể công cách mạng. Hắn muốn anh em trong hội trường tỉnh ngộ, ai có thắc mắc cứ mạnh dạn phát biểu để tất cả cùng chia xẻ thảo luận. Hắt ta muốn chứng tỏ sự cởi mở của mình bằng những nụ cười sau mỗi câu nói. Không thấy ai đưa tay phát biểu. Sự im lặng đè nặng. Tên chính trị viên của nhóm từ phía trên đưa tay ra hiệu cho tôi. Lên đứng trước máy vi âm, tôi lặp lại câu gợi ý mà tôi đã nói ngày hôm qua quanh hai chữ tự do. Nói xong tên cán bộ bảo tôi đứng qua một bên. Có nhiều tiếng xầm xì phía dưới. Người đầu tiên lên phát biểu, ông ta tự giới thiệu là người chạy xích lô:

    - Trước 75 tôi phải mướn xe xích lô để chạy kiếm cơm với giá thật đắt. Bây giờ tôi đã làm chủ chiếc xe. Như vậy tôi đã có tự do. Ông ta chỉ nói chỉ có thế rồi ông đi xuống chứ không có nói trường hợp nào ông ta là chủ nhân chiếc xe đó.

    Tiếp tục người thứ hai lên phát biểu, ông ta là một thợ may trốn quân dịch:

    - Hơn muời năm nay tôi phải trốn chui trốn nhủi vì lo sợ ra đường lo sợ bị bắt lính. Bây giờ tôi được đi lại tự do tùy ý.

    Kế đến lời phát biểu của một thanh niên, hắn ta tự giới thiệu là một sinh viên. Bằng một giọng nói hằn học, hắn ta nhấn mạnh từng chữ trơn tru như đã thuộc lòng từ trước:

    - Tự do của Thiệu là tự do đi xuống. Tự do của ‘Cách Mạng’ là tự do đi lên.

    Tên cán bộ cao cấp cười thích chí, quay qua hỏi tôi:

    - Anh có thỏa mãn về câu trả lời đó không?

    Tôi cười lắc đầu mà không trả lời. Tên cán bộ hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn muốn cho tôi nêu ra những điều chưa bằng lòng, hắn ta nói tiếp:

    - Anh cứ nói. Tôi cho anh phát biểu những điều anh chưa bằng lòng hay chưa thấu hiểu triệt để, nhưng anh chỉ được nói trong hội trường này mà thôi, những nơi khác thì không được.

    Tôi đứng trước máy vi âm nêu ý kiến của tôi khi nghe ba người phát biểu:

    – Chú đạp xích lô làm sao có được xe. Chính phủ tịch thu hay công việc làm ăn được dễ dàng?
    – Anh thợ may trốn không đi lính cho chế độ Miền Nam cũ, với chính quyền mới, anh ta bị bắt buộc đi bộ đội anh ta có đi không? Còn anh sinh viên nói sự khác biệt về tự do của hai chế độ là đi lên và đi xuống. Ði xuống tức là đã đi lên rồi mới đi xuống. Làm sao đoan chắc được đi lên rồi ở luôn trên đó mà không đi xuống?

    Có nhiều tiếng cười khi họ nghe tôi cứ nhắc đi nhắc lại hai chữ lên, xuống. Tên cán bộ cao cấp không muốn kéo dài sự thắc mắc nầy, hắn đẩy tôi đứng qua một bên. Hắn nói:

    – Tự do của ‘Cách Mạng’ luôn luôn đi lên chứ không bao giờ đi xuống, anh hiểu chưa?

    Buổi hội thảo còn kéo dài cho đến chiều. Tôi chẳng thu lượm được gì ngoại trừ một điều: tất cả những người ngồi trong hội trường tuy cùng chung một hoàn cảnh nhưng vẫn còn nhiều thành phần bung xung mà dân chúng mỉa mai gọi là thành phần “cách mạng 30″. Những thành phần nầy rất nguy hiểm vì họ luôn luôn là hạng chó săn, nịnh bợ chỉ điểm để lập công. Biến cố Tết Mậu Thân ở Huế đã có rất nhiều người chết cũng do những thành phần này.

    Hai ngày học tập chỉ là bước đầu của một chế độ tù tội, đày đọa đang chờ đợi phía trước. Mấy ngày sau, một buổi trưa tôi có việc phải ghé chợ Cồn. Ðứng loay hoay dắt chiếc Honda dọc theo lề đường, một người đàn bà từ trong chợ Cồn hối hả đi ra, đến bên tôi nói như ra lệnh:

    – Chú xe thồ làm ơn chở tôi lên chợ Mới.

    Tôi ngạc nhiên. Thời thế đổi thay, hình thù, dung nhan tôi đã biến thành một người chạy xe thồ mà tôi không biết. Tôi không buồn mà lại cảm thấy vui vui để thích ứng với hoàn cảnh mới. Hiện tại tôi cũng đang cần một việc làm để qua ngày. Tôi đã bỏ cái nghề dạy học vì không muốn cộng tác với chế độ mới, làm những điều nghịch lý và trái với luơng tâm mình. Một số bạn bè của em tôi mới được tuyển dụng vào giáo chức từ Vĩnh Ðiện, Tam Kỳ, Hội An… ra tu nghiệp ở Ðà Nẵng. Họ ăn cơm ở nhà tôi, và thấy ngày nào cũng học tập mà tội nghiệp. Học đường lối “cách mạng”, chính sách nhà nước. Học lên án “Mỹ Ngụy” và học cách nhồi sọ trẻ con qua những bài luận văn, sử ký như trồng cây nhớ Bác, lấy thân cản pháo, trâu bò cũng diệt Mỹ… và ngay trong những bài tính đố họ cũng phải dùng đến những tên lính Mỹ, lính Ngụy để thay thế cho những vật dụng như thường dùng trước đây.

    Tôi chở người khách lên chợ Mới như yêu cầu và suốt trên đường đi tôi và người khách không nói một lời. Xuống xe người đàn bà đưa cho tôi 2 đồng “giải phóng” tức 1000 đồng tiền của chính phủ VNCH trước đây. Tôi đứng trước chợ Mới độ 10 phút nữa, một bà khác đến hỏi và muốn tôi chở về đường Ðống Ða. Ngày hôm đó tôi thử thời vận và đến gần chiều mới về nhà.

    Sáng ngày hôm sau, tôi ăn mặc và trang bị chiếc xe cho đúng một người chạy xe ôm chính hiệu và tôi xách xe chạy vòng vòng. Buổi trưa tôi chạy ngang đường Bạch Ðằng. Mùa hè nắng gay gắt. Những người xe thồ đang ngồi nói chuyện hay nằm nghĩ trên các ghế cho mướn dọc theo bờ sông. Người nào cùng nhàn nhã thoải mái. Tôi dựng xe ở một gốc cây. Một người hỏi tôi:

    - Chạy xe thồ hả?

    Tôi gật đầu. Ông ta bảo tôi dựng xe thứ tự theo xe của anh em. Thấy chuyện lạ, tôi tò mò nuốn biết, ông ta giải thích:

    – Ở đây lấy khách theo phiên, người nào đến phiên thì chạy, may rũi. Ðứng nhìn một lúc tôi càng ngạc nhiên hơn nữa, tôi thấy một tên bộ đội từ dưới tàu thủy đi lên, người chạy xe thồ đưa chìa khóa xe và tên bộ đội lên xe chạy mất dạng. Hỏi chuyện với người xe thồ tôi được nghe kể những chiếc tàu thủy xuất phát từ cảng Hải Phòng vào bến Bạch Ðằng thường để vận chuyển hàng hóa. Ði theo tàu là những bộ đội và họ thường lợi dụng cơ hội này để buôn bán hàng lậu. Họ mang theo vải vóc, thuốc tây, thuốc hút và ngay cả những hàng quốc cấm như cần sa, ma túy.

    – Một số bộ đội trẻ, độc thân đã rành rẽ đường đi nước bước, tàu cập bến Bạch Ðằng làhọ mướn xe đi. Họ có thật nhiều tiền và trả thù lao thật đẹp. Một người chạy xe thồ một ngày kiếm được 20 đồng nhưng phải chạy ngược chạy xuôi vất vả. Ở đây đưa xe cho bộ đội tự lái lấy trong vài ba tiếng đồng hồ có thể nhận trên 100 đồng bạc. Trường hợp bị xe hư dọc đường hay tai nạn họ chi tiền sửa chữa và bồi thường. Việc này ít khi xảy ra. Những người chạy xe thồ biết rất rõ lịch trình của những chiếc tàu cập bến và họ biết sở thích của từng khách hàng. Tôi viện lý do xe tôi hay chết máy dọc đường để từ chối vào việc làm ăn may rủi này. Trên đường về tôi suy nghĩ vẩn vơ. Ðất nước tôi đã hết chiến tranh không ai phải chết vì bom đạn nhưng đồng bào tôi phải chết trong một cuộc chiến tranh mới trong đó tham nhũng, cửa quyền, băng đảng, ma túy và đĩ điếm sẽ được dùng để đầu độc giới trẻ phá nát đất nước nầy.

    Buổi chiều chạy xe ngang qua góc đường Phan Ðình Phùng tôi gặp Ð. đang đứng trước nhà. Tôi kể cho Ð. nghe chuyện chạy xe thồ trong hai ngày nay. Ð khuyên tôi nên làm việc với ba của Ð. vì ít ra công việc ở đây thường xuyên và là chổ quen biết cả. Ð. cũng gợi ý nếu tôi không tìm một nghề nào nhất định thì chính quyền địa phương sẽ làm khó dễ mình trong việc định cư. Hai ngày sau tôi đi với Ð. Hãng ngói gạch Nguyễn Hữu Ðoan nằm ngay Ngã Ba Huế. Ðây là cơ sở sản xuất ngói gạch nổi tiếng khắp miền Trung. Ð. dẫn tôi đến giới thiệu với bác Ðoan. Bác đã trên 60 tuổi nhưng trông người còn khỏe. Bác không nói được vì bị tắt tiếng. Trong túi quần của bác luôn luôn có mấy cục phấn và trên tay cầm một cặp giấy, cây viết. Nhìn quanh chổ nào cũng có chữ viết bằng phấn của Bác. Những chỗ không viết bằng phấn, bác viết lên giấy. Bác hỏi tôi:

    – Bạn của Ð hả?

    Tôi trả lời:

    – Dạ, bạn hàng xóm.

    Bác cười rồi sai đứa cháu tìm người con trai cả vào để tìm cho tôi một công việc. Tôi nói với anh của Ð việc nào tôi cũng cố gắng học và sẽ làm được. Ông ta đề nghị cho tôi mỗi tuần làm một công việc khác nhau, sau đó tùy tôi lựa chọn.

    Sau hơn một tháng làm việc tôi được điều động phụ giúp công việc các tổ, từ tổ đi chở đất sét ngoài ruộng, đến tổ đúc gạch rồi đem phơi khô trước khi đem tổ nung lò. Công việc nào cũng nặng nhọc nhưng vui. Chúng tôi nam nữ làm chung với nhau. Họ là những người dân quê chất phát phần đông còn độc thân. Trong chiến tranh họ phải xa làng quê để ra thành thị tìm nghề mưu sinh. Họ làm việc ở đây đã lâu nên tay nghề người nào cũng vững. Cuộc sống của họ rất đơn giản và cam chịu. Trong những lúc trò chuyện họ cũng tỏ ra vui vẽ nhưng chừng mực. Hình như trong mỗi con người họ đều có mang theo cả một hình ảnh của xóm làng, người thân nơi họ đã sinh ra.

    Một buổi sáng tôi đến làm việc, bác Ðoan tìm tôi và giao cho tôi một công việc mới. Từ nay tôi sẽ theo xe tải chở ngói gạch cho những gia đình đã đặt mua. Tôi thích công việc này vì hợp với tôi.

    Từ Ðà Nẵng tôi được đi cùng khắp qua các làng quê vô đến Quảng Ngãi – Bồng Sơn. Nhiều địa danh tôi chưa từng nghe, chưa từng đặt chân đến, nay tôi được may mắn đi qua. Từ quốc lộ 1 vào sâu các làng xã tiếp giáp bờ biển hay dãy Trường Sơn đâu đâu cũng thấy gần gủi và đáng yêu như quê tôi. Sau những ngày ngột ngạt về chiến sự ở thành phố, rồi đất nước một sớm một chiều thay ngôi đổi chủ nay tôi được nhìn ngắm lủy tre làng, được ngửi mùi hoa dại, mùi rơm và nghe tiếng cu gáy tên ngọn cây cao. Tôi thấy được sinh lực tiềm tàng trong một vùng nghèo cực xác xơ, nhưng người dân quê ở đây chẳng hề thấy mệt mỏi. Tôi cũng được nhìn thấy sự giàu sang một sớm một chiều của những tên cán bộ, bộ đội trong những căn nhà mới xây lợp ngói đỏ au ngạo nghễ, thách thức bên cạnh những căn nhà tranh, vách đất của người nông dân. Tôi cũng đoán nghĩ ra được trong những căn nhà cũ kỹ vắng tiếng cười nói ấy là những căn nhà của anh em quân nhân, công chức cũ đang chịu đựng sự trả thù và đang sửa soạn cho những chuyến ra đi. Nào ai biết được sự ra đi này bao lâu và có còn hy vọng trở về? Hình ảnh hai cuộc đời tương phản, đối chọi nhau luôn luôn trước mắt tôi. Tôi co cảm giác mâu thuẫn trong những chuyến đi nầy. Ði để được nhìn ngắm quê hương nhưng mỗi lần đi tôi lại phải chứng kiến một căn nhà mới khác của một tên cán bộ, bộ đội nào đó vừa mới xây xong. Nhưng dù sao hình ảnh quê hương, vẫn in đậm trong tâm trí tôi và đeo đẳng trong suốt cuộc đời.

    Một buổi trưa sau khi theo xe chở ngói gạch từ Hoà Vang trở về. Tôi đang sửa soạn xuống phụ giúp với tổ đúc gạch thì cháu nội của bác Ðoan đến tìm tôi. Cậu ta nói có ông Trung tá bộ đội đang ngồi uống trà trong phòng khách muốn nói chuyện văn chương với cậu ta nhưng lối nói của ông Trung tá này có vẻ kỳ quặc nên cậu ta cầu cứu đến tôi. Cậu ta cũng cho biết ông Trung tá này đến ở đây hơn tuần lễ rồi để tiếp thu hãng ngói gạch này. Nghe đâu bác Ðoan đã hiến cả tài sản này để làm ăn quốc doanh. Thực tình trong hoàn cảnh này tôi cũng không hứng thú để nói chuyện văn chương vả tính tôi không mấy ưa những tên cán bộ, bộ đội. Cháu nội của bác Ðoan cứ năn nỉ tôi mãi làm tôi không thể khước từ. Vào đến văn phòng tên trung tá mời tôi ngồi uống nước trà. Hắn hỏi qua về tình trạng gia đình tôi. Sau đó hắn hỏi tôi một câu bất ngờ:

    – Cậu đã đọc truyện Kiều bao giờ chưa?

    Tôi không trả lời có cũng chẳng trả lời không. Tôi chỉ nói:

    – Tôi không sống ở miền Bắc nên không biết rỏ tình trạng Văn học ngoài đó.

    – Ở miền Nam chúng tôi ai cũng biết truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. Có người thuộc một vài câu, một vài đoạn và có người thuộc nguyên cả tác phẩm.

    Tên trung tá nhìn thẳng vào mặt tôi rồi tiếp:

    – Cậu thấy nhân vật Từ Hải như thế nào?

    Tôi trả lời không do dự:

    – Từ Hải chỉ là một tên thảo khấu như Hoàng Sào nhưng là một tên thảo khấu đa tình và đã lụy vì tình.

    – Tên Trung tá nghiêm sắt mặt, nhưng sau đó hắn tự chế và mỉm cười nói tiếp:

    – Cậu nói sai rồi, Từ Hải là một anh hùng nhân dân lao động dám đứng lên chống lại bọn triều đình phong kiến. Từ Hải như là một người Cộng sản.

    – Tôi không nhịn được nửa nên cướp lời ông ta:

    – Lý thuyết Cộng Sản chưa đầy 100 năm nay thôi. Truyện Kiều sáng tác vào triều vua Minh Mạng cách đây hơn 150 năm. Người đời thường mặc áo cho những nhân vật văn chương, lịch sử theo cảm quan và sở thích của mình. Nếu có ai bảo Thúy Kiều, Thúy Vân mặc áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ thì chắc chắn không ai chấp nhận. Trong văn học Việt Nam cũng có nhà thơ Cao bá Quát chỉ là một người bất đắc chí, tâm hồn ông không thích ứng với cuộc đời này. Làm giặc chỉ là hành vi nổi loạn chính mình. “Mặc áo” là thái độ bóp méo sự thật và lịch sử.

    Tôi thấy ngồi lâu thêm không ích lợi gì, tôi viện lý do trở lại làm việc để kiếu từ. Tôi biết không còn bao lâu nữa tên Trung Tá sẽ là thủ trưởng của công ty ngói gạch này. Tôi không muốn mình trở thành công nhân viên nhà nước. Ðó là ngày cuối cùng tôi làm việc cho hãng ngói gạch của bác Nguyễn Hữu Ðoan.

    Về nhà được gần ba tuần lễ, một buổi tối H. ghé nhà chơi và rủ tôi đi củi ở núi Bà Ðen bên Sơn Trà. H là bạn với em trai vợ tôi, trước đây là lính không quân phục vụ ở căn cứ Không Quân tại Ðà Nẵng. H. cho biết thời gian đi về có 3 ngày. Ðem theo gạo, thức ăn đến đó chúng ta tự nấu ăn. Phương tiện di chuyển bằn ghe máy, khởi hành từ bải biển Thanh Bình đến chân núi Bà Ðen, ba ngày sau đó họ sẽ trở lại đón mình về. Sống ở Ðà Nẵng tối chưa bao giờ nghe ai nói chuyện đi củi nên cũng tò mò muốn đi, vả lại lúc này tôi cũng rảnh rỗi. Tôi mang theo những vật dụng cắm lều cùng những vật dụng như cưa, rìu… Gia đình H đi ba người có thêm người mẹ và đứa em trai. Cảnh vật chung quang núi Bà Ðen thật hữu tình như tranh vẽ mà mỗi lần ngồi xe đò đi Huế tôi chỉ thấy xa xa từ đèo Hải Vân. Khung cảnh lại yên tỉnh như không dính dáng gì đến những xô bồ bất an ở bên kia thành phố. Nghe đâu chỗ này ngày trước là căn cứ của lính Mỹ. Một vài dấu tích còn lưu lại đó đây. Ống dẫn nước đường kính bằng cái nón chạy dài từ đỉnh núi đến sát bờ biển, trên ống nước ngay trên bãi cát bằng phẳng có những lỗ khoan làm thành những vòi nước thiên nhiên không bao giờ ngưng nghỉ. Nước lấy từ suối nên trong vắt và lạnh. Ban ngày chúng tôi đi kiếm củi. Công việc thật khó nhọc mà trước đâu chúng tôi chưa bao giờ làm. Ðêm đến chúng tôi nghĩ ngơi và đi bắt cua, sò.

    Ðúng hẹn ngày về, chúng tôi di chuyển củi và đồ đạc xuống sát bờ biển. Trong lúc ngồi chờ đợi, thình lình một chiếc ca nô của bộ đội chạy đến. Ba tên bộ đội nhảy lên bờ mặt đằng đằng sát khí. Họ hỏi ai cho phép chúng tôi đến đây lấy củi. Mẹ của H. không trả lời mà hỏi ngược lại:

    – Bộ ở đây cấm người ta đi củi à? Giấy tờ đâu? Bảng cấm đâu? người ta đi hà rầm chứ đâu phải tụi tui không đâu.

    Mấy tên bộ đội không thèm nghe. Họ chuyền củi và các vật dụng khác lên ca nô. Mẹ của H cố giằng co để dành lại. Em trai H. còn vị thành niên đến phụ với mẹ. Người vất lên kẻ giựt lại rốt cuộc một trong ba tên bộ đội xuống giọng nhượng bộ:

    – Thôi được cho mấy người đem củi về, nhưng chúng tôi phải tịch thu những dụng cụ đi củi để cảnh cáo. Các người nghe rõ chưa?

    Mẹ của H. biết đôi co, cãi vã cũng vô ích, thím bảo chúng tôi cứ để cho họ lấy đi những vật dụng. Mấy tên bộ đội sau khi lấy xong vật dụng nhảy lên ca nô chạy mất dạng. Khoảng nửa giờ sau người chủ ghe đến đón chúng tôi về. Nghe qua câu chuyện ông ta cho biết mấy ông bộ đội Hải Quân đang cần một số vật dụng để phát rừng nhưng không biết tìm đâu ra. Họ nghĩ ra cách tịch thu từ những người đi củi. Người chủ ghe còn cho biết thêm ở bên đồn, dao, rựa, cưa, rìu… họ tịch thu chất đầy cả phòng nhưng vẫn chưa đủ số. Tôi nghĩ đây là hành vi lợi dụng quyền uy để cướp giựt công khai. Rất nhiều người đã là nạn nhân nhưng không biết kêu ai, khiếu nại với ai.

    Về đến nhà tôi vẫn còn tức tối trong lòng thì lại nhận được thông báo ra phường Hải Châu I để học tập. Buổi họp dành cho các chủ hộ đến nghe chính quyền địa phương khuyến khích, mời gọi người dân đi vùng kinh tế mới ở Ðắc Lắc. Họ nêu ra những trường hợp những người nên đi như: không có nghề nghiệp, cư ngụ ở địa phương chưa đủ 10 năm, ở nhà cha mẹ chứ không làm chủ căn nhà… Mọi trường hợp đều đúng vào hoàn cảnh tôi. Họ hứa hẹn về những tài trợ của chính phủ và phát họa về tương lai ở một vùng đất trù phú, cuộc sống ấm no.

    Tôi không thể lung lạc trước những lời đường mật, hoa mỹ nhưng tôi linh tính không còn cơ hội để ở lại Ðà Nẵng.
    Một vài ngày sau đó, tên cán bộ của phường thường tìm đến nhà tôi giải thích và khuyên tôi nên ghi tên tình nguyện. Tôi nhất quyết không đi, nhưng ở lại thì tình trạng quá bấp bênh rồi biết đâu nay mai họ ép buộc, rồi chắc chắn gia đình tôi không thể từ chối.

    Ðang băn khoăn tiến thối lưỡng nan thì B. bạn tôi ghé thăm. Tôi và B ở cùng quê và chúng tôi cùng học một lớp ở Ðại Học Sư Phạm. Ra trường B về dạy ở Quảng Ngãi, xa hơn tôi 60 cây số. B cũng bỏ dạy kể từ tháng 3-75 và về Huế với gia đình sống nghề làm ruộng. Như vị cứu tinh, B đem đến cho tôi quyết định chọn lựa dứt khoát. Thông thường người dân Việt Nam có khuynh hướng Nam tiến, chứ không ai đi ngược trở ra bao giờ. Tôi nghĩ đến nơi chôn nhau cắt rốn, đến mẹ tôi, đến em tôi, đến bà con xóm giềng bè bạn, và tôi quyết định về lại Huế. Câu nói của nhà văn nữ Túy Hồng: “Huế là nơi đi để mà nhớ, chứ không phải chỗ ở để mà thương” văng vẵng bên tai tôi, nhưng trong hoàn cảnh này thì tôi không còn một chọn lựa nào khác hơn

    o O o

    Năm xưa tôi đến Ðà Nẵng chỉ một thân một mình với túi xách trên vai. Giờ đây chia tay Ðà Nẵng để ra đi, tôi bận bịu tay xách nách mang vợ con đùm đề. Bao nhiêu đồ đạc tôi thu quén đem theo ra Huế, giường tủ, bàn ghế cho đến cây đinh cái búa, thứ nào rồi đây cũng cần thiết cho cuộc sống mới.

    Chiếc tàu lửa Ðà Nẵng – Huế khởi hành lúc 8 giờ sáng, tôi ngoáy nhìn căn nhà và thành phố Ðà Nẵng một lần cuối. Lòng tôi buồn vô hạn. Tàu ngang qua Liên Chiểu, Ngã Ba Huế, Nam Ô rồi chun đèo Hải Vân. Qua đến Lăng Cô thì trời bỗng đổ mưa. Cơn mưa đầu mùa hạ chợt đến rồi chợt đi. Cây cối và lòng người cũng sũng ướt như nhau. Tôi bâng khuâng nghĩ về thành phố Ðà Nẵng mà tôi đã đi về và dừng chân ở lại tổng cộng gần 10 năm trời. Bao nhiêu kỷ niệm gắn bó vui buồn. Quá khứ bàng bạc khắp nơi. Tôi đến Ðà Nẵng hết sức tình cờ và rời xa Ðà Nẵng là điều không thể tin được…

    … Cuộc đời đưa đẩy tôi được may mắn dừng chân ở luôn với Ðà Nẵng. Tôi bắt gặp tình yêu đầu đời. Con đường tình rộng mở và tôi như Lưu Nguyễn vào thiên thai lạc bước trở về. Ðà Nẵng với tôi như đêm với ngày, khác hẵn nhau như đen với trắng. Ðêm với những giới nghiêm, thiết quân luật, cấm trại 100%, những hồi còi hụ báo động pháo kích, những ánh lửa hỏa châu sáng rực góc trời, những âm thanh của đủ loại máy bay lên xuống phi trường mỗi phút, mỗi giây làm nhức nhối cả tai. Nhưng Ðà Nẵng về ban ngày thì bình an quá đỗi, như thể chiến tranh không có ở nơi đây mà ở một nơi xa xôi nào khác. Cuộc tình của chúng tôi được chắp cánh và thăng hoa qua khắp các ngã đường của Ðà Nẵng. Thành phố này người lính và người dân sống với nhau như cá với nước. Nói Ðà Nẵng là thành phố quân sự quả không đúng. Ðiều lạ lùng hơn nữa. Ðà Nẵng không phải là thành phố của Thừa Thiên – Huế nhưng đi đâu cũng gặp người Huế. Các gian hàng lớn nhỏ trong các chợ, các hiệu buôn, các quán ăn, công sở, các cơ quan quân đội, trường học… đâu đâu người dân Huế cũng chiếm một phần đáng kể. Ðà Nẵng không có những đền đài lăng tẫm như ở Huế nhưng bù lại thiên nhiên cũng ưu đãi qua các thắng cảnh, giải trí nổi tiếng như: bãi biển Thanh Bình, Mỹ Khê, Nam Ô, như núi Non Nước, Sơn Trà và đèo Hải Vân. Ðà Nẵng như một thiếu nữ trẻ trung, sống động, tóc cắt ngắn và tràn đầy nhựa sống. Chiếc tàu lửa vẫn ì ạch chạy, lâu lâu rúc lên một hồi còi, nghe rên rỉ.

    Sau cơn mưa, nắng lại chan hoà, những giọt mưa còn đọng lại trên từng nhánh cây, ngọn lá phản chiếu ánh sánh lung linh, như những hạt kim cương. Tôi đã bỏ Ðà Nẵng ở lại sau lưng. Không biết chuyến trở về Huế của tôi lần này là sau cùng hay mới chỉ là khởi đầu của một chuyến ra đi dài. Tôi ước mơ một ngày nào đó có được dịp trở về với Ðà Nẵng gặp lại những người thân quen, tìm về những nơi chốn mà tôi đã từng sống và đi qua. Hai đứa con của tôi còn đang ngủ. Chúng còn quá nhỏ để hiểu thế nào là chia ly. Mai này khi lớn lên chúng sẽ không mảy may có ký ức về thành phố này, nhưng có điều chắc chắn khi viết về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, chúng sẽ tự tay viết xuống hai chữ “ÐÀ-NẴNG” và rồi chúng sẽ tìm kiếm và trở về.

    Nguyễn Giả Viên


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X