Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG

Collapse
X

Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 23
    Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng
    Tình Hoài Hương
    ***



    Quê hương trái đất nửa vòng.
    Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về
    ”.
    Trên không trung có vầng trăng sáng toả vằng vặc như chiếc dĩa bạc soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hành đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vô xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”, thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ chiếu đi chiếu lại những cuộc biểu tình gay gắt cũ sôi sục đêm ngày: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù, mù… mịt trời đất, hầu hết diễn ra ở miền Nam Việt Nam.
    Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hành, không biết làm gì hơn là tối ngày Hành soạn va ly ra coi những gói quà to tướng sẽ đem về tặng thân nhân ở quê nhà. Hành dùng chất vitriol rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hành lại bồi hồi thở vắn than dài, thẩn thờ đóng lại mấy cái va ly. Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam lâu lắm rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình "ta cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về VN, các bạn đã đến chia tay anh, họ xúm lại chọc quê:
    - Thôi, yên trí đi, mầy cứ ở lại Mỹ an giấc nghìn thu hen.
    - Nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
    - Còn sống, thì mầy chộp cổ ngay một con Mẽo, con Xì… là "xong bén đời giai”.
    - Tầm bậy! Sao xúi hắn an giấc ngàn thu?
    - Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn Xuân cả.
    - Vậy thì đừng biểu nó: An giấc ngàn Đông nghen?
    - Hãy an giấc ngàn hạ xuống, để tàn đời trai cho rùi.
    - Xuân, Hạ, hay với Thu?
    - Ư hừ!
    - Mầy théc méc mần chi hỉ! Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao tôm gốp thùng bẹc két rủng rỉnh "xung xướng” đem tiền Mỹ đi dzìa Việt Nam nè.
    Những buổi tối, Hành nằm thao thức hằng giờ đăm đăm xem thời sự trên tivi, nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Hành nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”. Hành mòn mỏi chờ đợi chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam mau chóng chấm dứt, giảm bớt cường độ giao tranh. Hoặc là: đụng độ dữ dội giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc tạm lắng xuống, thì bằng mọi giá anh phải xin đi về Việt Nam. Mấy bạn Mỹ thường trêu:
    - Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? khi chiến tranh đang xảy ra liên miên?
    Đại bàng có bay xa bao nhiêu cũng phải dừng cánh, đàn ông có đi xa bao lâu cũng phải có ngày trở về nhà. Ở Việt Nam có thể có người muốn đi du lịch ra ngoại quốc, còn anh trải qua nhiều tháng năm sống "lây lất" ở nước ngoài rồi, nay anh nôn nao mòn mỏi ngóng trông mau chóng "tung cánh chim tìm về tổ ấm”, hạnh phúc thay khi có ngày mình được trở về quê mẹ thân yêu. Hành quyết chí gởi thư đến căn cứ Không-quân đòi họ cho phép anh trở về quê hương. Vì ít nhiều gì, Hành vẫn mang canh cánh bên lòng mối tình hoài hương. Vã lại, toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của mình ở Việt Nam mà. Cũng có thể là Hành còn nghĩ đến chút tình với Trân Thư.
    Ngày ngày... chẳng biết làm gì ngoài việc giết thì giờ nhàn rỗi quá chán ngán, Hành cùng những anh quân nhân thương binh Không-quân Mỹ xúm lại coi thời sự trên ti vi, lúc nầy đài Mỹ chiếu đi chiếu lại chuyện lạ bốn phương "hot" nhất: ông Jean Bedel Bokassa đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ông qua Việt Nam hồi thập niên 1950, Jean Bedel Bokassa (thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi Châu) sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách xa thủ đô M’Baiki (Phi Châu Xích Đạo - Equatorial Africa). Năm 1950, Trung-sĩ-nhất Bokassa là quân tình nguyện của Lục-quân Pháp, thuộc binh chủng lính Lê Dương (Légion étrangère), khi ấy Trung Phi vẫn là thuộc địa của Pháp. Năm 1953, ông Trung-sĩ-nhất Bokassa 32 tuổi, đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Thời gian sang Việt Nam tham chiến, chàng Lê-dương Bokassa tây đen tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành), nơi Cầu Gành có một máy nước công cộng. Ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn Huệ nghèo gánh nước mướn ở Tân Thuận Đông. Họ thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh ta đóng quân gần cầu Tân Thuận. Khi Huệ có bầu, thì Bokassa buộc phải rời khỏi Việt Nam quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm thăng trầm trôi qua, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức Tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cộng-Hoà Trung-Phi. Tháng 1 năm 1966, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự lên làm tổng thống. Hoàng đế Jean Bedel Bokassa sực nhớ đến người tình cũ và con gái, ông bèn gởi một văn thư nhờ bộ Ngoai Giao Pháp, chuyển đến Bộ Ngoại Giao miền Nam Việt Nam Cộng Hoà: xin họ giúp ông tìm con gái ruột tên Nguyễn thị Martine. Bộ Ngoại Giao ráo riết tìm kiếm, nhưng không thể tìm ra Martine.
    Họ bèn đem một cô gái lai da đen 19 tuổi tên Baxi (con bà Nguyễn Thị Thân ở Xóm Gà, Gia Định) giả làm con gái Tổng-thống Bokassa. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, cô gái nầy làm thủ tục xuất ngoại. Tổng-thống vui mừng tổ chức buổi tiếp nhận con rất long trọng. Phần bà Huệ sanh con gái có làn da ngăm đen, và hơi ngà ngà, thì bà vui buồn lẫn lộn. Thời gian mấy năm đầu, thỉnh thoảng Bokassa và bà Huệ có liên lạc trao đổi tin tức, sau đó do hoàn cảnh mỗi người, nhất là không gian và thời gian xa cách biền biệt góc biển chân trời, dần dần họ vắng bặt tin tức. Lớn lên, Martine là một cô gái nghèo khổ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chịu khó giúp mẹ làm việc vất vả khuân vác tại nhà máy Xi-măng Hà Tiên.
    Nào ngờ, khi biết tin ấy, cậu ruột của cô gái Nguyễn Thị Martine đã đến toà soạn nhật báo Trắng Đen trình bày tự sự, kèm y chứng thư đầy đủ chính xác giấy tờ hộ tịch. Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả? Tin nầy đến tai vua Cộng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gởi văn thư khác, xin Tổng-thống Thiệu cho “cả hai cô công chúa” đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Phái đoàn đại diện cao cấp Cộng hòa Trung Phi lại sang Việt Nam & còn có: ông bà chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, một tùy viên sứ quán Pháp đại diện Bộ Ngoại giao Pháp, và thông dịch viên. Họ đi Trung Phi.
    Tổng thống nhận ra người tình cũ, và con gái “công chúa Martine”, nên càng vui mừng khôn xiết, ông ra lệnh tiếp đãi phái đoàn Việt Nam như thượng khách. Ông không ngần ngại nhận "cô Baxi giả công chúa" kia làm con gái nuôi. Bà Huệ trở về Việt Nam. Khi đó bà Huệ đã có chồng vẫn được lãnh trợ cấp mỗi tháng 200,000$ tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn do Tổng thống Bokassa cấp dưỡng. Thời điểm đó số tiền nầy rất lớn. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Hai nàng lọ lem sau những năm tháng trong đêm tối hãi hùng đói khổ ở quê nhà, hôm nay đã tót lên đỉnh cao sang, phú quý trong ngôi vị công chúa. Thật là đời lên hương ngát, “xung xướng” tê người. Chuyện duy nhất có thật, bàng hoàng thiệt.
    ***
    Từ sự cương quyết của Hành, và do Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, & Hạm-đội thứ Bảy can thiệp, lúc đó họ mới cho Hành biết: sẽ đưa anh trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng, vì cứ bay “nhảy cóc” từ chỗ nầy đến nơi khác, như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang anh ra phi trường khi Hành còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh & hai thùng carton to bự sư đựng quà dành riêng cho cô bồ, hai thùng nữa dành cho gia đình, xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định cách uống thuốc. Một mình Hành là “thượng khách chễm chệ” trên chiếc phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có: Phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không lo về việc ẩm thực. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dùng của Hành. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. & Lữ Phi Hành. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
    Bay đến Colorado, nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, Hành nằm tại bệnh viện hai tuần. Hành ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày thanh bình và trời quang mây tạnh, Hành được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi dàn dựng quay phim, họ đưa anh "oai dũng" hí hửng leo lên... ti vi nữa. Tình cờ mà tức cười thật. Họ bảo:
    - Anh cứ “giả đò, làm bộ làm tịch” như mình chính xác là thương phế binh gốc người Hoa sống ở Mỹ nhe. Anh cầm phone vui vẻ gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh, nhe.
    Thiệt tình! Xạo hết chỗ nói. Nằm tại San Francisco hai tuần, thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hành đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô nằm trong bệnh viện đợi thêm hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán và ớn bệnh viện lên tới cần cổ! Chỉ mong chờ bớt chiến sự ở miền Nam Việt Nam, thì anh mới được trở về, sẽ tính sau. Ngày đêm mòn mỏi chờ đợi... rồi đợi chờ, trông ngóng đợi chờ hoài mãi. Hành cảm thấy quá căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, hết sức oãi và lâu quá chừng chừng!
    Thế rồi buổi sáng Thứ Bảy khoảng đầu tháng Tư, năm Mậu Thân 1968, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh chạy chầm chậm trên phi đạo, họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 hai xe chạy rề rề theo. Hai anh lính phi công Mỹ, (ở bên xe cứu thương), liền nhanh nhẹn nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Chạy bộ rất nhanh, họ bưng cái cáng thương trống không ở trên phi cơ xuống, họ chạy qua bên chiếc C-130 để "trao trả" cái cáng nầy cho Việt Nam. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ lanh lẹ khiêng sẵn cáng “áp tải thương binh Lữ Phi Hành” tụt nhanh xuống đất. Họ giao cáng thương cho người đứng dưới đất ở Việt Nam nhận. Lúc ấy, từ trên cửa phi cơ họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hành qua xe cứu thương ở Việt Nam, khi phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề.
    Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ. Vì lúc nầy tất cả xe cứu thương, phi cơ, ai ai cũng đinh ninh mình đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo, (mà lúc còn ở ngoại quốc mỗi ngày Hành nhìn trên ti vi các nơi, đều chiếu những đoạn thời sự nóng bỏng ở Tết Mậu Thân). Thế nên phi hành đoàn đã gồnh mình tới miền chiến tranh đang ì ầm, phải cẩn thận cảnh giác tối đa, họ dám liều mình mà bay trên không phận miền Nam, thì đã làm một nghĩa cử cao đẹp, rất can đảm phi thường và anh hùng rồi. Hành hết lòng cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn thì cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway. Họ đưa Hành qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
    - Are you crazy?
    - Coming back to Việt Nam?
    Phi Hành hoảng hốt la lên:
    - Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
    Họ vội quay đầu xe, đem Hành bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May quá! nếu mà ông Mỹ kia không lên tiếng nói ra, chắc là anh sẽ “bị” quay trở về Mỹ mất rồi! Vô bệnh viện Cộng Hoà gặp bác sĩ Thành khám anh rất kỹ. Ông định cho Hành xuống nằm ở bệnh xá Không-quân, nhưng Hành năn nỉ bác sĩ:
    - Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà lắm. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
    - ... OK.
    Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hành về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hành mặc bộ quần áo ở bệnh viện vui vẻ háo hức hân hoan chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người đi lui đi tới tấp nập, cảnh vật nhộn nhịp huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hành bảo hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, mấy thùng quà bước vô nhà trước Hành. Ba của anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ông đứng lên, dáo dác nhìn hai anh binh sĩ lạ, rồi ông nghiêng mình nhìn kỹ. Một lát sau ông liền chạy đến, ôm chầm lấy con trai lấp ló sau lưng mấy người lính, ông kêu lên rất to:
    - Trời ơi! Thằng Hành đã về rồi nè. Má sắp nhỏ ơi...
    Ba khóc. Hành khóc... má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ con, hôn chùn chụt và khóc rống lên hu hu hu.... Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ mà khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì anh không hề báo trước về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Hành muốn dành cho gia đình mình một sự ngạc nhiên thú vị mừng vui tuyệt vời. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ, kinh hoảng mà đầy nước mắt hân hoan vui mừng trào lên bờ mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó. Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay quay trở về quê hương, hoá ra Hành vẫn thấy nhỏ ha.
    Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho “em Trân Thư iêu rấu” biết tin "ngày trở về (của anh thương binh)... anh bước lê trên quãng đưởng đê, đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe...". Hành nóng lòng nóng ruột nôn nao đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ. Hành đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Trân Thư chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít một mảy may gì! Nét ưu tư, lỡ làng dường như hằn rõ lên gương mặt Thư đã héo hon rồi. Thế là, Hành và cô ta lúng túng, e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói những câu chuyện hết sức vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, gượng ép, ngượng ngùng và xa lạ, chả ra môn ra khoai. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay sượng sùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của anh. Sau khi Thư cho Hành biết: cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan Thanh Giản, cô ta vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ.
    Cuộc gặp gỡ nầy chưa đầy mươi phút. Hành hẹn Thư hôm sau sẽ lên đón cô ta đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự... nhẹ gật đầu. Bây giờ mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, anh kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thư trả lời anh rất chính xác, nên anh chuẩn bị tinh thần từ cái nhìn xa lạ, hững hờ dè dặt đầu tiên, chỉ sau hơn hai năm xa cách biền biệt, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! dĩ nhiên có nhiều thay đổi khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thật, không chung thuỷ, thì tình ấy như một món hàng, chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài, tình cảm dễ dàng thay đổi trong chớp nhoáng, bạc bẽo theo.
    Hành đã biết ngay từ dạo ở Mỹ, nhưng anh còn "bán tín bán nghi", khi Thư nghe hung tin anh báo bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ, hoặc gởi điện tín tấp nập hỏi thăm người yêu rối rít. Đằng nầy... lúc Hành vừa qua Mỹ trước khi anh bị tai nạn, mỗi tuần Thư viết cho anh ít nhất vài ba bốn lá thư dài. Nhưng sau khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mươi bốn tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu cô ta mới "nhỏ giọt" có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ anh luôn suy nghĩ: chẳng lẽ Thư bây giờ sinh tệ như: “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”! Thì cũng phải... Hành bây chừ chẳng khác nào: "Làm trai cho đáng sức trai. Khom lưng chống gối gánh hai “hạt vừng”. Khổ nỗi người ta làm trai còn chống gối vì hai "hạt vừng", còn tôi đây chỉ còn "một hột" cũng chả xong...
    Buổi sáng, Hành lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thư, anh chỉ đậu xe ở xa xa. Vì Thư nói:
    - Không muốn cho người nhà biết chuyện hẹn hò nầy.
    Lúc bấy giờ chân phải của anh đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột, nhưng còn chống nạn đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, anh không đi nạng, nếu ai không nhìn kỹ, thì ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng. Vì, tay phải của Hành vẫn còn bó bột đặt ở độ cong 90/o. Nên chiếc nạng bình thường được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, mà làm điểm tựa, cho anh đi vững vàng chắc chắn hơn nhờ có thêm cái nạng.
    Thư lấm lét nhìn anh, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên Hành cũng cảm thấy xốn xang lúng túng ngượng ngùng không kém. May là Hành lo xa, đã mặc bộ đồ bay màu xám đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo, mà cô ta còn tỏ thái độ lấm lét ngượng ngùng ái ngại rụt rè như thế. Nếu chẳng may anh chỉ là tên lính quèn, nghèo xơ nghèo xát; thì ắt hẳn... (hồi xưa & bây giờ) Thư chả bao giờ ngó nửa con mắt, hay tự động làm quen Hành trước, giống như hồi Hành ở Đà Lạt đâu nhỉ!
    Hai người đến tiệm ăn Sing Sing ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thư bước vào tiệm, thì hầu như tất cả thực khách thân ái và đầy cảm tình dồn mắt nhìn về phía "tụi tôi". Một thiếu úy phi công lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, đậu trước nhà hàng rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích ái mộ về sự phô trương, lác mắt vì thời thế tạo anh hùng thế thời phải thế. Chắc ai ai cũng nghĩ anh bị tai nạn xe cộ. Vì, nếu là phi công thì... ít khi có ai què quặt, hoặc lành lặn trở về nhà sau một phi vụ không chiến. Hôm qua, lần đầu tiên mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó Hành nhớ mang máng hình như câu nầy:... "Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá" - (hay là... “ngập ngừng ngượng ngùng cay đắng... phải không em Thư ui!).
    Hành đăm chiêu mà mỉm cười, vụng về vướng vít tí chút khi tay ôm cái nạng gỗ cho nó dựa vô góc tường, rồi lết đít ngồi xuống ghế, kéo rề rề theo cái chân què muốn lặt lià lặt lọi. Thư thản nhiên gần như dửng dưng nhìn, cô tự động ngồi xuống đối diện với anh, đầu cô ta luôn cúi gầm xuống mặt bàn, lâu lâu cô ta liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, gian gian mà lúc nầy Hành không thể hiểu nỗi. Thư chẳng thèm nhìn thẳng vào mặt anh, không hề hỏi thăm thương tích của “anh yêu” ra sao rồi? Hoặc giả nếu cô ta có "vờ như" ân cần vui vẻ, nói câu an ủi vỗ về nào (khác hẳn như hồi xưa cô ưa liếng thoắng). Thì anh sẽ tin ngay, không bao giờ nghĩ xấu về những "hành vi lố bịch" lúc bấy giờ của "cô em Bắc Kỳ nhớn nhớn"... dành cho anh đây chẳng qua là một "tai nạn nghề nghiệp". Hành ngao ngán lẫn thất vọng, kín đáo thở dài, anh cũng chả cần hỏi thăm ở quê nhà Thư "thay lông đổi cánh" tới đâu!?
    Cứ thế, cả hai người cúi gầm đầu im lặng ăn ăn, húp húp và uống uống... mệt nghỉ. Hành nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc. Ăn qua loa cho xong, anh lặng lẽ đứng dậy khập khễnh từng bước đi tính tiền. Hai người lụp chụp lật đật đi ra khỏi tiệm. Ngồi trong xe, sự riêng tư bây chừ lại có vẻ lố bịch vô duyên nên cả hai người càng khó chịu hơn. Chả bù cho ngày xưa trước khi Hành đi Mỹ, thì một tay anh cầm lái, còn một tay Hành vòng qua kẹp cổ nàng bóp bóp, nắn nắn chỗ nầy chỗ nọ... Còn Thư thì tay bận rộn ôm ôm, rờ mó cổ, bấu víu tai tóc và rờ bụng nắn ngực của anh, dù nhột ơi là nhột nhưng Hành rất khoái. Thỉnh thoảng cô chồm qua hôn anh chùn chụt, miệng nói tía lia: "em yêu anh, em nhớ anh nhiều".
    Nhưng... gặp nhau lần nầy thiệt quá tệ và xa lạ, bẽ bàng đến độ xót xa, dường như Hành và Thư chưa hề có một thời gian thân mật đậm đà yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao ta?! Bi giờ coi Thư có thái độ quá dị hợm, xa lắc xa lơ, bẽ bàng, trơ trẽn đến độ thê thảm. Trước khi thả Thư xuống lề đường gần nhà cô ta, vì Thư muốn vậy. Hành cố gặn hỏi:
    - Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
    Hoàn toàn im lặng, không có câu trả lời, không một cái lắc đầu hay gật đầu. Càng tệ hại hơn không có cái liếc nhìn, mà cô ta chỉ cúi gầm xuống đất.
    - Cho anh xin số phone nha.
    Lắc đầu quầy quậy. Im lặng. Không cho. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây Phi Hành và Trân Thư: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau tê tái và tủi hờn thê thảm hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
    Sông sâu có thể bắc cầu.
    Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
    Sông sâu còn có kẻ dò.
    Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.
    (*)
    Ngay lúc đó, Hành quẹo xe lái một mạch vào bệnh xá Không-quân. Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của anh. Sau khi khám xong, ông Thiếu-tá bác sĩ cho biết:
    - Mọi việc đều ổn. Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
    - Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
    - Anh đến đây bằng cái gì?
    - Em tự lái xe hơi đến.
    Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
    - Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vô đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
    Thiếu-tá bác sĩ quá chu đáo ân cần chăm sóc bệnh nhân, Hành đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế Trung-sĩ vừa đưa anh ra khỏi cổng Phi Long, Hành liền bảo chú dừng lại, anh cho chú ta ít tiền, và nói:
    - Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng vậy, chú cứ đậu xe chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gởi xe nơi người bạn. Đơn vị anh ấy làm ở phòng an ninh phi trường. Rồi chú chỉ chở tôi vô bệnh xá thôi hen. OK?
    Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hành còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
    * * *
    Dẫu sao thì trong lòng Hành cũng ấm ức bứt rứt bực tức không vui, ba bốn tuần nay anh ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thư. Có mấy lần Hành lái xe đến đậu thẳng ở bên sát mé cổng. Khi bấm chuông, thì Hành thấy Thư hăng hái vui vẻ bước ra thềm. Rồi... chợt Thư ngước nhìn thấy Hành, nên cô ta vội vã thụt lùi, vụt lui nhanh vô phía phòng khách. Chờ một lúc khá lâu, Hành bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh ú ớ:
    - Cô Thư... đi vắng rồi.
    Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa... vẫn cứ thế! Dĩ nhiên Hành thất vọng và thật buồn. Nhưng thôi, anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi, thì nếu mình cố giằng co níu kéo, lại càng vô ích mà thêm mang nhục. Dù rằng anh rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thư và Hành: nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa, không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu hai người có tình cờ hay hữu ý gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu, dị hợm nói xấu nhau chả ra gì. Thật là anh đã rất lầm khi yêu Trân Thư. Một mối tình không xứng đáng với lòng tin yêu nồng nhiệt thân thiết của mình.
    Một ngày kia, Thư phone đến thì biết Hành đi vắng nhà, Cô ta khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà bánh... nhiều thật nhiều mà anh đã gởi tặng Thư từ lúc còn ở Mỹ. Ba má anh nói Thư ráng ở lại chút, chờ Hành về, hai người ngồi lại nói chuyện phải trái sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
    - Không. Cháu bận.
    Người ơi gặp gỡ làm chi
    Để rồi hai đứa chia ly hai đường. (
    *)
    Sau cú quay giò lái chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”, Hành sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường, thất vọng và hụt hẫng biết bao! Hành trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới, Thư nhờ bạn thân là Hiền gọi phone tới nhà gặp anh, lấy cớ “bắn tin”:
    - Thư lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, vì bà dì của Thư mắc nợ ông chồng của Thư.
    Bỗng dưng anh sảng khoái cười xoà kha kha kha. Úi trời đất qủi thần thiên địa ơi! Gạt đứa con nít có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “nàng Kiều lâm nạn thời nay”! Nợ của bà dì, thì mắc mớ chi mà cháu gái họ xa xôi (nếu dùng củ cà nông bắn đi, chưa chắc đã trúng tới họ với hàng) mà cháu hờ… ấy phải nai lưng ong nuột nà ra, để gánh vác, đỡ đần cho bà dì có một đàn con cháu lít chít (chứ không phải do nợ của cha mẹ mình, hoặc cô ta... mắc phải ông chồng cao cấp, danh giá giàu sang, nên trừ cấn cho dứt điểm "món nợ hồi môn" ấy!? đành “hy sanh” cuộc đời son trẻ, tương lai rạng rỡ, hạnh phúc tình yêu)?! Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế, mà không biết ngượng mồm loa mép dãi? hả trời!!!
    Ngày Thư làm đám cưới, là đúng vào ngày đầu năm dương lịch, ngày ấy không xa ngày Hành đến bên cổng nhà nhìn Trân Thư núp lén sau rèm không muốn gặp mình bao lâu, Hành đã lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn sớm hơn một giờ. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể trờ tới. Hành để ý quan sát tỉ mỹ thật kỹ: Rõ ràng Trân Thư không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, bâng khuâng thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân phận mình khi phải “ hy sanh bán mình” chuộc nợ cho "bà dì khả ố" nào cả. Ngược lại Thư đang hân hoan, hí hửng, khoan khoái, ung dung vui vẻ lí lắc rìu rịt cặp tay chồng. Nói đúng ra, cô ta chẳng hề có chút nào "bị" gượng ép, bị bắt buộc lấy chồng; để trả nợ đậy cho bà dì. Trái lại, coi cô ta rất lả lơi, hí hửng tình tứ nép sát vô ngực chồng, hai anh chị một già một trẻ dung dăng dung dẽ tiến vô vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Không hiểu ở trong nhà thờ Trân Thư có thở than cùng Chúa:
    Người đâu gặp gỡ làm chi.
    Để cho khổ thế còn gì tuổi xuân?
    Chúa ơi! Con khổ vô ngần.
    Chúa mà không giúp là thân con tàn.
    Con đang thiếu nợ trăm ngàn.
    Nhìn đồ “chồng” sắm hai hàng lệ rơi.
    Con quỳ lạy Chúa trên trời.
    Giúp cho con trốn được người con yêu.
    (*)
    Hành ngồi trong xe hơi, lặng câm thừ người ra suy nghĩ miên man, buồn bã mất mươi phút. Khi nhìn thấy sự thật rõ mồn một và hiểu ra… anh vui vui chút ít, nên kết thúc xong một chuyện tình mà Hành cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”. Dẫu sao thì... khi xưa, đã rất nhiều lần anh giăng rộng vòng tay ra ôm ấp, ghì siết Trân Thư đắm đuối si dại tình tự. Hành cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời luyến ái dài, khá dài khoảng trên một năm rưỡi cùng nhau yêu cuồng... cũng đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuống quít, hay hờn ghen nho nhỏ về chuyện xa xưa. Hành đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng, vô duyên tệ lậu của đời mình. Ha Ha Ha!!! Anh mạnh dạn lái xe đi về nhà, cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế, chẳng lẽ anh “rên”:
    Người đi một nửa hồn tôi mất...
    Một nửa hồn kia... đứng chưởi thề!
    (*)
    Mãi về sau nầy khi an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị ông chồng già khú đế nhưng giàu sang đầy danh vọng xong. Năm 2005, bà ta gọi phone về nhà anh, tò te ỏn ẻn nỉ non tha thiết nói:
    - Lúc em xa anh, mà đi lấy chồng đó; không ai hiểu được em đâu.
    - Thì vâng! Anh hiểu! Hô hô hô!!!
    *

    (*) sưu tầm đó đây
    ***
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
    Trân trọng
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-08-2019, 10:57 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #32
      Có Anh, có Tui... Chớ còn Ai Vô Đây!


      Huấn Luyện Phi Hành
      Phần Thứ Ba
      Chương 24

      Có Anh, có Tui... Chớ còn Ai Vô Đây!
      Tình Hoài Hương
      ***


      Phi Hành vô cùng mệt mỏi vì cứ "nằm lì" ở bệnh viện Cộng Hoà suốt tháng nầy qua tháng khác, cho đến khi vài khóa sinh đàn em qua Mỹ hoàn tất việc học hành xong & trở về Việt Nam thỉnh thoảng đến thăm, họ kể cho Hành nghe biết bao chuyện vui ở quân trường Mẹ cũ. Ở đó, đã có Anh, có Tui... chớ còn Ai vô đây. Bỗng dưng... khiến Hành như bừng tỉnh cơn mê, gợi nhớ biết bao điều về thuở vàng son vang bóng. Nhớ ơi là nhớ! Đêm đêm anh nằm bắt chân chữ ngũ (một chân tàn tật và vắt cánh tay què lên trán) anh không biết làm gì hơn, là thường loay hoay nhớ, rồi thả trí óc mơ mộng, bâng khuâng suy nghĩ, muộn phiền hồi tưởng về thời gian học ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang; & khi anh qua bên Mỹ học bay, là tuyệt vời vui vẻ lắm:
      Sau nầy, Hành được anh em đã thụ huấn ở quân trường cho biết: họ bổ túc thêm những sự kiện cần thiết khác, mà đôi khi Hành vô tình đã quên, như: Về việc tuyển mộ thanh niên vào Không Quân chia ra nhiều giai đoạn: Giai đoạn trước năm 1969 (Việt Nam hoá chiến tranh) ứng viên phi hành phải hội đủ điều kiện:
      - Ít nhất học lực Tú Tài I.
      - Từ mười tám tuổi (18) trở lên không cần sự ưng thuận của người giám hộ.
      - Đầy đủ sức khoẻ: cao trên 1m68, nặng 50 kí lô, "pignet" tương đối, tai, mũi, họng, răng, tất cả đều phải tốt. Nhất là đôi mắt phải 20/20. Ứng viên được bác sĩ khám vô cùng kỹ lưỡng.
      Khi tuyển vào Không-Quân, có thể nói là gắt gao, bạn sẽ phải ký giấy cam kết phục vụ trong quân đội, hưởng quy chế hiện dịch, mình không thể giải ngũ trước hai mươi lăm năm (25t). Ngoại trừ vi phạm quân kỷ, hay bị bệnh tật đau ốm triền miên. Khoá sinh sẽ thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Tại đây, tên của khoá được đặt tùy theo năm (thí dụ: nhập ngũ tháng 1/1963, thì tên của khoá học ấy sẽ gọi là: Khoá 63 A, những khoá sau đó lấy tên kế tiếp: 63 B - 63 C ... Khoá của bạn Hành có số ứng viên khá đông, nhưng chỉ tuyển được bảy mươi (70) người. Sau đó có một anh ghi trong khai sanh có tên Tây là: Robert Trương Công Thành, nên anh bị loại vào giờ phút chót, chỉ vì cái tên Tây, tên Pháp… (hỡi Robert là anh Rô Bẹc ơi!).
      * Trường hợp điển hình của anh Trần Lương thuộc dân Rochefort, mà mãi đến sau nầy anh mới được điều chỉnh vô ở khóa 65. Có thể anh Lương hồi đó ham vui, thèm của lạ, (hi hi hi…) nên anh bị mấy bà đầm xinh xinh đẹp đẹp bu bám theo “dzụ khị” mời anh đi Tây học nghề, tiện thể anh có dịp tha hồ “chiêm ngắm” dung nhan những kiều nữ mặt hoa da phấn mắt xanh, tóc vàng. Anh là dân Ốc-xe, đi với một đám dân Rốt-sơ-pho, đầu năm 1955 anh Lương “đậu” với chức Binh Nhi.̀ Lần lượt, bạn bè anh xin đi học bay, học làm bác sĩ, kỹ sư, thuyền trưởng, họ làm quan gần hết. Riêng anh Lương bị cầm chân… vì nhu cầu công vụ, mãi đến đầu năm 1965 anh Lương muộn màng được ưu ái “thưởng” cho chính mình theo học bay khoá 65B.
      Ra Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, anh Lương nếm sơ qua đủ “mấy món ăn chơi” của tiến trình đội mũ có giây bạc. Tóm lược sơ qua cuộc đời binh nghiệp hai mươi năm- ba tháng- hai mươi ba ngày của anh Lương thì thế nầy: Anh không có bằng cấp, không chứng chỉ quân sự, hay chuyên nghiệp nào từ bậc thấp nhứt đến cao nhứt trong Không Quân. Vì: do bà xã bả tài lanh gởi mấy thứ giấy “thông hành hợp lệ” đó qua thế giới bên kia cho Diêm Vương nghiên cứu, thưởng thức tài năng cuả người dân ở miệt trên trần đời hết rồi. Chắc mai nầy qua bển, anh Lương sẽ có đầy đủ hồ sơ quân vụ ngon lành. Ha?
      Nói về việc bay bổng thì Hành được anh Lương thú vị kể cho nghe:
      - Lương không có hân hạnh được Không Quân cho đi học bay, vì anh bị cận thị. Nhưng trước khi đi Không Quân, thuở thanh bình Lương cũng đã từng leo… lai rai trên mấy chiếc Piper Cub rùi. Dạo đó dù sao anh Lương cũng lớn tuổi hơn anh em cùng khóa với bạn & tôi, nên chắc là anh không bị "dần" nhiều đâu nhỉ! Cái “Lễ Độ” là... "dạy một xíu" cho đàn em, chứ không phải là lễ độ với người lớn tuổi, hay thâm niên quân vụ hơn mình đâu! Cũng tựa như trong phái võ ấy mà, kẻ nào vô học sau, thì phải gọi người trẻ nhập môn sớm nhứt trước mình là: “đại sư huynh” vậy mà! Nếu anh bị "quần" nhiều, là do anh hổng... hên đó! Vì tôi (Thiệu...) nhớ anh Phước (Nùng là cận vệ của xếp) cũng ra đấy học điều chỉnh, mà ảnh đâu có bị ai phạt vạ gì ha! Anh ấy còn lái xe jeep chạy ven vòng đai... bắn chó nữa đó. Dù sao thì thời đó vui quá, anh Lương nhỉ. Ở đâu cũng có quý niên trưởng đàn anh, có bạn hữu, có anh, có tui… chớ còn ai vô đây”!
      ***
      … Vừa xuống máy bay, mới bước vào ngưỡng cửa Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, ai ai cũng náo nức xôn xao, vui vẻ háo hức chờ đợi. Theo truyền thống của Trung-Tâm Huấn-luyện Không Quân Nha Trang, ngày vào quân trường là ngày quan trọng nhứt đối với sinh viên sĩ quan Không Quân. Gọi là "buổi chào mừng quân trường". Sau đó họ gỡ Alpha của anh ra, và huấn nhục mình lại theo truyền thống của binh chủng Không Quân. Tại quân trường Không-Quân Nha Trang, các sinh viên sĩ quan được huấn nhục theo truyền thống Không Quân, rất cá biệt. Hoàn toàn khác với quân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hay quân trường Võ Khoa Thủ Đức.
      Trung-tâm của bộ chỉ huy sinh viên sĩ quan Không-Quân Nha Trang gồm có cấp Đại Đội, Trung Đội... để dìu dắt sinh viên sĩ quan đàn em. Đối với sinh viên sĩ quan đàn anh sẵn sàng "đón rước" khoá đàn em (ngoại trừ khoá đàn anh, mà trên đàn em một khoá, thì không được can dự).
      Bỏ xuống bên lề những quân trang, ta được cán bộ tập hợp lại điểm danh xong, là bắt đầu chạy bộ về sân cờ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân (vì không có vũ đình trường như ở các quân trường khác), bạn bắt đầu chạy vòng quanh doanh trại. Dĩ nhiên các sinh viên sĩ quan chạy theo cán bộ hết lời doạ nạt, hò hét… Họ phải "rền vang hò hét” muốn bể cả Trung Tâm Huấn Luyện, là những "hung thần hét ra lửa" bất đắc dĩ mà. Cho đến khi nào đa số khoá sinh nằm gục, rơi rớt lả tả dọc đường, anh em nào còn chút sức khoẻ, thì dìu những anh em ngã gục kia về chỗ nghỉ ngơi giây lát. Và bạn lại tiếp tục bị hành hạ như thế, không kể ngày hay đêm.
      Bắt đầu ngày hôm sau: Sáng. Trưa. Chiều. Tối, bạn đều phải “tập” hít đất, nhảy xổm... đến khi mọi người đều mệt lã, thì cán bộ cho tạm nghỉ mươi phút. Mục đích cuả Trung Tâm Huấn Luyện là muốn tân sinh viên sĩ quan có một cơ thể tráng kiện, một tinh thần vững chắc, sẵn sàng nhận lãnh mọi trách nhiệm do thượng cấp giao phó (dù quá vô lý). Trong lúc huấn luyện, tất nhiên có nhiều hình phạt, lời nói của cán bộ nghe rất chói tai, bất công... buộc tân khoá sinh thi hành không điều kiện. TTHL có mục đích rèn luyện con người khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần & những hình phạt sẽ hoàn toàn không làm thương tổn đến sinh viên sĩ quan. Phải nói là… ngược lại.
      Điều quan trọng nữa là trước khi học bay, hồ sơ an ninh của mình chính xác rõ ràng minh bạch, và tuỳ theo tài khoá, các sinh viên sĩ quan được gởi đi học ở Mỹ: Về các loại máy bay cánh quạt, hay trực thăng, (hoặc theo học những lớp phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang). Sau khi qua giai đoạn căn bản quân sự, các sinh viên sĩ quan được học Anh-ngữ, chờ đợi du học, hay học bay Cessna tại Nha Trang. Hoặc giả suốt đời làm sinh viên sĩ quan "Đại Cồ Niên Trưởng" tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân.
      Trong hai tháng huấn nhục, khoá sinh không được vào câu lạc bộ rong chơi trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Ngoại trừ những ngày cuối tuần, hay ngày lễ, khóa sinh mới được tiếp thân nhân ở trạm tiếp liên gần cổng quân trường.
      - Ngày gắn Alpha là ngày rất quan trọng, tân sinh viên sĩ quan mặc đại lễ, quỳ gối dưới nền xi măng (không được phép kê bất cứ vật gì dưới gối à nha, nếu tự ý làm thì coi chừng a lê hấp... ra rìa), để sinh viên sĩ quan cán bộ đàn anh đến gắn Alpha trước sự hiện diện của Chỉ Huy Trưởng, toàn thể Bộ Chỉ Huy, các sĩ quan cán bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Từ đó tân sinh viên sĩ quan mới được phép xuất trại cuối tuần, họ vui vẻ ung dung đi ra phố, giống như các sinh viên sĩ quan đàn anh vậy. Dĩ nhiên, trước đó bạn được huấn thị những điều không được phép làm, như: đi xe đạp, xe gắn máy, xích lô. Quân phục chỉnh tề. Đi đứng dõng dạc. Không được vào những quán ăn bên lề đường. Tới những khu phố "cấm". Nhất là nắm tay người đẹp... dung dăng ở nơi công cộng. (PH)
      ***
      Ngoại trừ những khoá đặc biệt vì đông quá, thiếu huấn luyện viên dạy về môn “Căn Bản Quân Sự”. Nên họ đã gởi quý anh đó đi học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, ngày 10/9/1967, để học giai đoạn I. Ấy là khoá đầu tiên của Không Quân gởi qua trường Bộ Binh Thủ Đức. Học xong giai đoạn 1, bên trường Bộ Binh Thủ Đức không cho họ quay trở lại trường Không Quân. Buộc lòng họ phải "trốn" về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân). Anh Phúc trở về TTHL KQ Nha Trang 21/1/1968, gọi là khoá 68 A. Cuối năm 1968 và giữa năm 1969, vì nhu cầu “bành trướng” Không Quân mong muốn ngành Không Quân được phát huy hơn, nên có việc tuyển chọn sĩ quan, hay sinh viên sĩ quan Không Quân từ các quân trường Thủ Đức, Đồng Đế hay Quang Trung. Nhiều Hạ-sĩ-quan Không Quân sau khi nhập ngũ, họ đã cố gắng học thêm, nên khi có bằng Tú Tài I, họ được tuyển vào sinh viên sĩ quan phi hành, hoặc không phi hành (nếu là “Không Phi Hành” thì điều kiện sức khoẻ dễ dàng hơn tí). Ngoại trừ những Hạ Sĩ Quan lão thành đi Không Quân từ thời xa xưa (trước năm 1956) thì có thể được theo học khoá Sĩ Quan đặc biệt, không phi hành (theo cấp số, nghề nghiệp như Navigator, không lưu...)
      Quân số mỗi khoá tuỳ thuộc vào con số ứng viên, có đầy đủ sức khoẻ. Trung Tâm Giám Định Y khoa Không Quân lúc nào cũng bận rộn kinh khủng. Vì họ phải lo thêm cho các sĩ quan Không Quân phi hành cần khám định kỳ hàng năm nữa. Sáu tháng học đầu tiên, khoá của anh Phúc bị ăn hiếp mọi mặt... Về sau, may sao có Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tuyền (chức vụ thời bấy giờ) làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khoá Sinh, ông đã mạnh dạn thay đổi cục diện. Thiếu Tá Tuyền làm "cách mạng", là để sinh viên sĩ quan có quyền tự trị, tự điều hành và tránh những vụ (rất hiếm hoi, chỉ có ít người tham nhũng, ăn chận), họ quá hành hạ sinh viên sĩ quan (như từ lúc trước thời 1965). Vì vậy các khoá sinh viên sĩ quan Không Quân vào học sau nầy, có một cuộc sống trong quân trường tạm gọi "ung dung thoải mái” hơn qúy đàn anh lão thành của họ. (TVP)
      * * *
      Trở lại chuyện huấn luyện sinh viên sĩ quan: một hình phạt trong thời kỳ huấn nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, mà anh Lôi Thiên “thích nhất” là:
      - “Xoãi Cánh trên bãi cát. Đếm sao trên trời”.
      - Có bị phạt gì đâu! một niên trưởng thấy mình bị mấy cán bộ quần như con gà chết. Thế là ông kéo mình ra chỗ khác... xa xa... cho nằm xoãi hai tay hai chân trên cát, nhìn trời mà đếm sao. Sao trên trời đếm đếm bao giờ cho hết, có ai kiểm soát nào. Nên anh Lợi không thích sao được!!! Niên trưởng này thuộc khoá 68B chế ra cái màn phạt này. Mấy ông Niên Trưởng khoá 65 quá may mắn, những năm sau nầy họ phạt anh Liêm ít nhất cũng 100 cái (nhẩy xổm, hít đất...), còn nhiều trò mới lạ, có những tên rất kêu như:
      - “Quan Công ngồi ghế đẩu”.
      - “Phượng Hoàng rũ cánh”...
      - “Móc giò lên tủ”.
      - “Móc giò lên đà ngang trần nhà, miệng ngậm một lúc mười điếu thuốc đang cháy... (vì trong thời gian huấn nhục, không ai dám lén lút hút thuốc lá). Mấy ổng cán bộ nói:
      - Không Quân là dân sang hào hoa phong nhã lả lướt nên không xài bạc lẻ (mặc dù trong túi họ không có một đồng xu. Ừ phải. Thời buổi nầy ai thèm xài đồng xu như ở thời Khang Hy chớ. Thành thử tối thiểu phải là 100). Ai làm được thì làm, nếu không làm nỗi, thì mình cứ nằm chình ình ra đó, mấy ổng phải chuyển qua hình phạt khác. Nghĩ lại mà ớn, nhưng để lưu luyến nhiều kỷ niệm vui vui ở quân trường... Nhắc lại chuyện xưa, anh Liêm cũng chỉ để nhớ những "kỷ niệm" khó quên thôi. Đâu cũng vậy, trong một tập thể cũng có "vài con sâu làm rầu nồi canh", dù họ hơi đi quá trớn, muốn nổi danh là "hung thần" tự biên, tự diễn… thế thôi. Ngày nay bạn & tôi gặp lại nhau, không ai hận thù, không hờn oán, đôi khi nhắc lại chuyện cũ, cười với nhau, coi như những kỷ niệm xa xưa. Thì đó, có tui chớ còn ai vô đây nà! (Liêm, & Lôi Thiên).
      * Nghĩ đi, nghĩ lại chuyện đã xảy ra hơn bao nhiêu năm qua, nhiều lúc tôi thấy có một cái gì ngồ ngộ... tự ta tủm tỉm cười. Bạn LD chắc cũng có những giây phút ấy? Nếu ai không vào quân ngũ, thì không bao giờ có những cảm giác ấy! Vì vậy anh tkdf đã có bài thơ “Tự Trách”:
      Tưởng như mọi chuyện ở ngoài đời.
      Bước chân vào lính, mới hỡi ơi!
      Ớt cay, mật ngọt, ông cứ nuốt.
      Nhai vào, mới biết nóng bờ môi.
      Tôi bảo ông nuốt, sao ông nhai.
      Cãi lời cán bộ, phạt gấp hai.
      Thế chờ, xuống đất, chân móc tủ.
      Ngu quá, bảo nuốt, sao lại nhai?

      * Anh Lôi Thiên nằm xoãi cánh đếm sao trên trời, sao trời thì đếm làm răng hết sao… Còn tui thì bị cán bộ bắt đứng đếm:
      - Một ông lặt cỏ, hai ông lặt cỏ, ba ông lặt cỏ...
      * Đếm cho đúng 100 ông mà không trật, thì cán bộ cho vào hàng. “LD tui” cứ phải đứng đếm đi đếm lại hoài, mà cứ trật tới trật lui... Tới bây giờ mỗi lần nhớ tới, bạn ấy và tôi đếm đi đếm lại… mà chưa bao giờ đếm được tới 100 ông…
      * LD đứng một chỗ đếm 100 ông lặt cỏ, vẫn còn đỡ khổ, đàn em Luckyluke bị đứng theo kiễu con nhà võ: “Phượng Hoàng sa bãi c...”; là đứng hai tay giăng ra như cánh chim, một chân co lên, mà đếm: “Một ông lặt cỏ, hai ông cỏ lặt, ba ông...” Đếm tới khoảng 20, thì chân em run, mắt “em” hoa... Nếu đếm sai, hoặc lỡ nói lái chữ “cỏ lặt”, thì bị "thưởng" thêm 50 nhảy công lực. Riêng anh Lôi Thiên phè cánh nhạn đếm sao trời, thì quá đã: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông...” Chưa kể buổi trưa nắng, “em” bị chống tay thế chân chờ trên đường nhựa, ta bị phỏng cả hai tay (sau này rút kinh nghiệm, “em” thủ hai miếng gỗ, để tránh bị phỏng tay là hết đường viết lách, cầm đũa ăn, uống, v.v...).
      Nguy hiểm nhất là nhìn mặt trời. Đúng là quái chiêu, như NT Nghịch Nhĩ đã viết, hư mắt như chơi! Còn ai bị cạo đầu, thì bị chơi ngay một đường ranh ở chính giữa đầu ta, như xa lộ không đèn, Ôi! “Tóc chẻ hai sầu chia đôi ngã”. Cứ mỗi lần nhắc tới vụ “huấn nhục”, là “em” vừa tức vừa buồn cười!!! Nhưng có lẽ nhờ vậy mà qúy anh Không quân đã học hỏi được nhiều điều hay, và nhẫn nhục đấy. Phải thế không; Thưa quý anh khả kính ơi!
      ***
      Riêng về anh Phúc sau ngày mất nước 30/4:
      Trở về chuyện của anh Phúc lúc nhỏ: lúc ấy tôi mới lên năm tuổi, tôi đã chứng kiến tám mươi ba (83) dân phu đào kinh dẫn thuỷ nhập điền, bị tàn sát bằng mã tấu. Họ nằm chết la liệt, ngổn ngang cạnh Quốc Lộ 4, gần nhà ông nội của tôi. Trước đó tôi thường nghe nội, ba tôi kể lại:
      - Những hành động dã man của Vẹm, thì không thể nào tả hết. Trong số đó có người anh của nội bị bắt, đem đi chôn sống nơi nào. Sau 30/4 bọn ác ôn lại tái diễn thảm kịch kinh hoàng. Họ giết hại ông nội, còn tịch thu tài sản, đồ đạc, mấy ngàn giạ lúa ba tôi vừa mua vài tháng trước. Chẳng những vậy, má tôi bị truy tố, vu khống má hoạt động cho CIA, vì trong nhà có những tấm "mui xe GMC", ba tôi mua, để che lúa khi trời mưa. Tất cả ruộng vườn đều bị tịch thu, nhà cửa bị bọn chúng chiếm đóng. Bà nội chín mươi (90) tuổi, cùng cả nhà phải đi xuống ở nhà sau. Cũng may, nhờ bên ngoại giúp cho bữa đói bửa no, nên đại gia đình chúng tôi cố gắng sống lăn lóc qua ngày.
      - Ba tôi ngày xưa làm nghề gỗ, thường đi Túc Trưng mua gỗ đem về cưa ra bán, đến khi bà Nhu dành độc quyền khai thác, ba tôi đổi sang hành nghề bán lúa gạo nuôi đàn con tám đứa. Cho đến giờ phút nầy, tôi không hối hận về những việc làm ngày xưa, mà cho là mình làm đúng, tiếc rằng "mãnh hỗ nan địch quần hồ". Tôi có nên xoá bỏ hận thù không? Sao? bao nhiêu gia đình tan nát vì lũ người không ra người? ngợm không ra ngợm kia, mà xóa bỏ ranh giới giẹp tan hận thù, coi đành sao ta? Gia đình vợ con tôi xa nhau đúng 14 năm 3 tháng và 10 ngày, tôi qua Mỹ đây năm 75, sống lây lất từng ngày, lấy hạnh phúc gia đình của bạn bè làm niềm vui, cho đến năm 1989 vợ và con bé gái mới sang Mỹ. Sau đó chúng tôi có thêm thằng nhóc, nay ngoài hai mươi tuổi. May mắn cho tôi… nếu tôi ở lại, chắc chắn bị giết bởi những tên CS/30. Bọn nó rình ngày rình đêm ở cư xá Thanh Đa (nhà tôi) cũng như ở quê tôi, chờ tôi trở về.
      Sự thật tôi không muốn đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau ngày “mất nước”, khi chúng tôi đi theo gia đình đứa em vợ định ra cổng Phi Long, nhưng bị Quân-cảnh chận lại, năn nỉ thì nó bắn liên tục ba tràng M16, buộc lòng tôi phải leo xuống xe, không nói một lời từ biệt ai. Đến trưa tôi được lịnh di tản về Cần Thơ, mãi lo gọi điện thoại về Sài Gòn xem vợ con về tới nhà chưa. Nhưng tất cả tổng đài đều không ai trả lời. Thất vọng quá, tôi vừa bước ra cửa phòng Quân Báo của Tr/tá Bích, Tr/tá Huynh PĐ Phó 518 di chuyển (taxi) ngang qua. Thấy tôi, ông ngừng xe lại bảo tôi leo lên chiếc AD5 phía sau, để trở về Tân Sơn Nhứt. Tôi là người sau cùng và thứ hai mươi ba trên chiếc AD5 chật hẹp. Vì lên sau cùng, nên chịu khó cong người và ép mình ở phía sau đuôi, giữa hai sợi dây cáp điều khiển phi cơ.
      Khi đến Utapao, tôi tìm mọi cách trở về Việt Nam, thế nhưng cả Thái Lan và Mỹ đều không cho. Tôi đành phải qua Guam. Tại đây tôi chần chờ chưa chịu sang Mỹ, cho đến khi đám người đòi về Việt Nam trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín làm loạn, đốt phá doanh trại, treo hình già Hồ và cờ CS, tôi tự nghĩ: tôi có thể trở về để chịu khổ với gia đình và vợ con tôi. OK. Nhưng tuyệt đối tôi không thể cúi đầu, nịnh bợ chạy theo VC, nên tôi đi Mỹ ngày 4/6/75.
      Thật ra vợ con tôi có dịp rời VN ngày 25/4/75, nhưng hôm đó ông Thiệu "mượn" chiếc phi cơ ấy đi Đài Loan, rồi ngày 27/4/75 vợ tôi đổi ý, không muốn đi, thà ở lại sống chết bên nhau, vất vả lắm tôi mới thuyết phục vợ. Tôi đinh ninh vợ con có tên trong danh sách chuyến bay đã ấn định, chúng tôi không chen lấn, từ từ sắp hàng. Khi tới phiên thì chỉ còn một chỗ cho vợ tôi mà thôi. Ông Đại/Tá NvR, Chánh Văn Phòng Tướng Tư Lịnh Không Quân không cho đứa con gái vừa tròn 7 tháng lên máy bay, ông viện dẫn đứa nhỏ đó dù ngồi trên lòng mẹ, cũng tính một chỗ ngồi? Vì chỗ quen biết với vợ chồng tôi, ông “hứa "lèo" sáng mai có chuyến khác sẽ dành ưu tiên cho vợ con tôi.
      Ôi!!! Ngày mai… không bao giờ đến; vì đây là chuyến cuối cùng. Đúng là "cái số bốc cứt". Sau nầy, nhiều người cho tôi biết "chỗ ngồi của vợ con tôi trên máy bay ấy, thì "bị ai đó" đem bán cho đám Ba Tàu Chợ Lớn?! Vô cùng trớ trêu, khuya ngày 29/4/75 VC ào ạt pháo vô phi trường TSN, một trong những người liều chết cất cánh bay lại là tôi!, để bảo vệ hàng ngàn người trong TSN (có “hắn ta” trong đó). Chỉ có một điều về KQ thì phi cơ Skyraider thường bay hợp đoàn ít nhất từ hai chiếc trở lên, mỗi chiếc đều mang bom đạn tối đa từ 6 đến 10 trái bom. Trong lịch sử KQ chưa có ai cất cánh một mình, ngoại trừ tôi (vì phi trường bị pháo, bất đắc dĩ tôi phải cất cánh một mình).
      "Ông ta" khác một trời một vực với các bạn của tôi hằng thân quý, nhất là khác hẳn anh cố Tr/Tá Phạm Văn Thặng, người đàn anh khả kính của tôi, anh từng sống chết với đồng đội tình như anh em, có thể nói còn hơn vậy nữa. Đời tôi gắn liền với anh ấy, dù khi anh còn sống hay đã chết. Mỗi năm vào ngày giỗ của anh, lòng tôi bâng khuâng muộn phiền, đứng ngồi không yên, buồn man mác như đã mất đi những gì quý báu, vì tôi thương anh lắm! Tôi luôn nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm ngày nào... Ở những nơi đó, đã có anh. Có tui… chớ còn ai vô đây!
      * * *
      Tình Hoài Hương

      Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-08-2019, 10:58 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #33
        Tai Nạn Trực Thăng Rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt...



        Huấn Luyện Phi Hành

        Phần Thứ Ba
        Chương 25
        Tai Nạn Trực Thăng Rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt...
        Tình Hoài Hương
        ***



        Những ngấn nước to tròn long lanh mòng mọng rung rinh đậu trên cánh hoa anh đào mỏng manh, đang e lệ đung đưa trong gió rì rào. Bầy thiên nga (xe đạp nước làm thành con vịt trời bằng gỗ buộc chặt ở cọc cắm) thong thả lắc lư, quay lui quay tới trên hồ Xuân Hương loang loáng ánh bạc. Nhà hàng Thủy Tạ trắng toát in bóng xuống mặt hồ phẳng như phiên gương trong suốt như pha lê. Trời thanh thoáng tươi mát lạ thường giao hòa với gợn sương ẻo lả, uốn éo vật vờ bay lên trên không trung. Bên kia hồ bình minh đã lấp ló ở đọt thông ba lá, vài cánh bằng lướt gió tung mây vút bay qua thành phố thơ mộng, trông ngoạn mục vô cùng...
        Hồng Hạnh ghé vô nhà hàng Thủy Tạ ăn sáng trước khi đi thăm anh chị Thuyền. Nhà hàng hữu tình ẩn hiện trong làn sương đục mờ mờ dật dờ là là trên mặt hồ như ngái ngủ, mùi cà phê tỏa ra thơm phưng phức. Hạnh thích nơi nầy, không vì chủ nhân tươi cười xinh lịch, vui vẻ đon đả chào mời khách, mà cũng là nơi đây phong cảnh có xí lãng mạn, trữ tình nổi tiếng vào hàng thứ nhì, thứ ba ở thành phố, qua cách họ pha cà phê ngon, vừa ý khách, với nhạc chọn lọc dịu êm, dìu dặt nhè nhẹ vẳng lên, không ồn ào chói tai khiến mình khó chịu.
        Sau khi cô tiếp viên đặt trên bàn tách cà phê sữa nóng, dĩa bánh “sừng trâu” (le Croissant), Paté Chaud trước mặt, thì Hạnh mở tờ báo ra đọc. Những bàn trống ở trong phòng đã có lác đác năm ba cặp ngồi bên nhau rôm rả chuyện trò về thơ, văn, chuyện tiếu lâm vui nhộn, kèm những tiếng cười sảng khoái vô tư lự qua câu thơ vui, khiến Hạnh tủm tỉm cười, chú ý lắng nghe:
        Nhớ người xưa ngày cũ,
        Dưới lằn đạn đi anh uy vũ can trường.
        Cánh bằng bay anh lướt gió muôn phương.
        Em đứng đợi tường vi bên cửa sổ.
        Thân chiến binh một đời vẫn nhớ.
        Tấm lòng trai muôn thuở sắc son.
        Mây hoàng hôn trải mưa nắng nước non.
        Hình ảnh đó khắc ghi từng kỷ niệm.
        Tiếng đàn ai chiều nay dạo phím.
        Cho em nhớ về màu áo lính ngày xưa.
        Thương sao... nói mấy cho vừa.
        (1)
        Ồ! thật thú vị, dân Đà Lạt hầu như say trong hồn núi phách lá rừng thông rì rào reo vi vu thơ mộng, Đà Lạt diễm ảo nét đào nguyên thấp thoáng mờ ảo trong sương, trong gió mơ màng thi vị qua tiếng chim líu lo hót trên cây, nên đa số ai ai cũng có thể "nhã nhạc buông thơ" hết cả sao cà? Có một anh ngồi bên trái góc bàn, vui vẻ ngâm nga trích đoạn thơ của thi-sĩ Không-quân Trần Ngọc Nguyên Vũ:
        Đời phiêu-bạt mang-mang hồn Thục-Đế
        Tiếng Đỗ-Quyên mãi vọng chốn quê nhà
        Như nhắc nhở trong ta còn món nợ
        Đừng để rồi năm tháng sẽ phôi-pha.
        Những món suốt đời không trả hết
        Nợ ba-sinh nợ những mối chân-tình
        Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy-thác
        Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu-linh.
        Lời nhắc nhở năm canh dài khắc-khoải
        Con tim ta mang nặng mối u-hoài
        Trong cuộc sống đã bao lần tự hỏi
        Gánh được gì cho đất nước trên vai.

        Hạnh ngồi một mình nơi góc nhà hàng khuất bóng, cũng cảm thấy ngại ngùng e ấp, nên đã lấy tờ báo giơ lên cao khỏi tầm mắt, để những bạn trẻ kia không nhìn thấy Hạnh “tò mò lom lom ngó trộm” họ… tình cờ Hạnh làm khán thính giả nghe bao cảm khúc tuyệt vời, lòng cảm thấy hân hoan, vui thích, khi nghe một anh Trung-úy Biệt Động Quân dí dỏm kể chuyện tiếu lâm về "Hứa Chữ và Tào Tháo":
        - Một hôm Hứa Chữ đi qua doanh trại, thấy Tháo ngồi buồn bực cạnh ba vò rượu. Chữ bèn hỏi:
        - Có việc gì mà chủ tướng buồn vậy, lại trượt lô à?
        Tháo tu ực một hơi hết vò rượu, rồi nói:
        - Ta vừa phát hiện tin động trời: thằng Tào Thực con ta là Gay…
        Hứa Chữ gần xỉu, hét lên:
        - Hết hồn chim én!
        Tháo vác vò thứ hai uống một hơi, rồi nói tiếp:
        - Ta còn phát hiện thêm tin kinh dị nữa: thằng Tào Chương, cũng là Gay nốt!
        Hứa Chữ:
        - i don’t believe in my “tai...”
        Tháo vác vò thứ ba lên tu nốt, lại nói:
        - Tin nữa là: thằng Tào Phi, cũng là Gay luôn...
        Hứa Chữ không bình tĩnh nỗi, gào lên:
        - Trời ơi, thế nhà Tào đại nhân... không có ai thích đàn bà cả sao?
        Tháo chậm rãi trả lời:
        - Có chứ, Vợ ta... (2)
        Ha ha ha... Họ cười ngất. Hạnh phải cúi xuống che miệng khúc khích cười. Một anh phi công nhấp tách cà phê xong, hóm hỉnh:
        - Đàn ông thú vị nhất là: Đàn ông muốn hư hỏng, phải có tiền. Đàn bà muốn có tiền, phải hư hỏng. Đàn bà thích nhiều thứ ở một người đàn ông. Đàn ông thích một thứ ở nhiều người đàn bà. Đàn ông lúc nào cũng muốn, nhưng không phải lúc nào cũng có thể. Đàn bà lúc nào cũng có thể, nhưng không phải lúc nào cũng muốn. (2)
        Họ chọc ghẹo nhau qua những vần thơ vui vui. Người con trai phong trần xoa xoa đôi bàn tay, ứng khẩu:
        Ui! Chuyện tình yêu làm sao ai biết?
        Mời nhau uống cà phê vui rồi xĩu!?
        Ai nhũ ngày đó anh đi Phan Thiết
        Em Đà Lạt! Làm sao mình “tìm hiểu”?
        (1)
        Một cô gái mặc áo dài hồng, bên ngoài khoác manto đen:
        Nay mời đến nhà em. Tuy chân chất.
        Nghèo lắm! Không có gì ta sợ mất.
        Anh thấy: Từ trong nhà ra ngỏ ngoài.
        Ở cuối xóm lên tít đầu ghềnh coi...
        (1)
        Một anh mặc quần áo Nhảy Dù ngồi ở bàn khác với hai bạn mặc thường phục, (có lẽ không phải anh ta đi chung với nhóm phi công kia) vui góp vần thơ tiếp theo liền:
        Nhà sạch sẽ, thanh tao và tươm tất.
        Cà phê Chồn e đắng. Em pha mật.
        Anh cho thêm thỏi đường kèm “ông Thọ”
        Sữa ông ấy là sữa thật! không lừa
        Âu rất vui khi nghĩ đến sữa nầy.
        Uống vào rồi... mình thấy đời hương ngát.
        Dù đi Lính đôi ba lần anh bị phạt.
        Em phương xa hic hic yêu thương ngay...
        (1)
        Những chuyện tiếu lâm bộc phát và câu thơ bông đùa đối đáp của họ không hại ai, nghe cũng vui tai. Tuổi trẻ hồng lên đức mến và ngọt ngào hương vị mùa Xuân, thật đáng yêu làm sao! Hạnh tủm tỉm cười, đứng lên đủng đỉnh ra khỏi nhà hàng, nhìn lên bầu trời trong xanh và dõi theo những cánh chim vi vút trong không gian vừa đủ lạnh, cô cảm thấy mình có niềm vui lâng lâng. Hạnh chạy xe honda đi thăm gia đình anh chị Thuyền và cháu Châu Ngọc Bích, Châu Ngọc Diệp ở Nha Địa Dư, chị đang chuẩn bị khóa cửa để chuẩn bị đi đâu đó. Thế là chuyến đi thăm nầy chưa đúng lúc rồi! Mấy anh chị em trở vô nhà nói năm ba câu chuyện cần, rồi Hạnh hẹn anh chị ngày mai đến nhà em ăn lẫu dê, (do cô em út đãi bốn gia đình anh chị khác ở gần trong thành phố nữa).
        Không muốn anh chị mất thì giờ, Hạnh lên xe Honda chạy trước họ. Lúc lái xe ngang qua cầu đúc nhỏ, gần khu bệnh viện của ông bác sĩ ngoại quốc Soigné nổi tiếng xưa nay, đối diện khu bệnh viện có một cái am miếu âm u sơn son thiếp vàng, hương trầm khói tỏa nghi ngút, lúc nào đi ngang đây, Hạnh cũng nghe tiếng kinh mỏ êm êm đều đều tụng niệm. Đi qua khỏi cầu đúc một đoạn ngắn, nơi có chòm thông xanh và mấy hàng ghế đá nhìn qua đồi Cù, Hạnh thấy gần sát khu nhà hàng Thuỷ Tạ một chiếc trực thăng đậu ở dưới bãi cỏ quay chong chóng vù vù. Sau đó, có bốn anh phi công mặc quần áo cam & quần áo xám lúi húi chạy xuống những bậc cấp. Họ leo lên chiếc trực thăng, có anh còn ngoái cổ, hoặc cúi xuống thò nửa thân hình lắc lư ra khỏi lòng phi cơ, họ lưu luyến ưu ái vẫy vẫy tay chào bạn, sau đó họ đóng cửa phi cơ. Trực thăng nổ máy ầm ầm, chong chóng quay tít mù, sức gió từ cánh quạt xô những hàng hoa anh đào, hoa mimosa, hàng cây xá lỵ ngả nghiêng gần như sắp nằm rạp xuống đất.
        Chiếc máy bay nhẹ nhàng nhấc bổng thân tàu lên khỏi mặt đất, anh phi công tài hoa lái trực thăng cho bay lượn vòng rộng ra xa xa, rồi vút một cái, phi cơ đứng sững một chỗ trên không trung, tiếng máy nổ tạch... tạch... tạch... phi cơ từ từ nghiêng mình vút lên cao, lượn bay tỏa ra thành mấy vòng tròn, khi thì bay thu hẹp lại (bay quanh trên nóc nhà hàng Thủy Tạ). Phi cơ ung dung, uyển chuyển lả lướt, bay bướm trồi lên, hụp xuống, nghiêng cánh bên nầy, chao cánh bên kia, giống như chiếc lá vàng uốn lượn trong không gian ngan ngát Thu vàng. Hạnh trầm trồ khen ngợi, thật lả lướt đẹp mắt người nhìn!
        Lúc đó Hạnh đã chạy xe Honda tới ngang qua khu thao trường đối diện với Thủy Tạ. Bên lan can và phía trong những khung cửa kính, những anh và các cô gái xinh xinh đẹp đẹp lố nhố đứng ngồi, cười nói rôm rả huyên thuyên, những bàn tay “ái nữ” cầm khăn hồng, khăn tím, khăn trắng, giơ lên vẫy chào lia lịa. Bỗng, một tiếng nổ long trời lở đất gầm rú, to kinh khủng. Mọi người sững sờ, bàng hoàng tột đỉnh, chẳng biết chuyện động trời gì đã xảy ra ở đâu!? Hạnh hoảng hốt, giật nẩy mình, toàn thân lạnh toát, mất hồn mất vía, run rẩy như cầy sấy, hai đầu gối va vô nhau lộp cộp. Do bị bất ngờ, không hiểu sao xe honda leo lên lề đường hồi nào, mà cô không hề hay biết? Hạnh té chúi nhủi xuống mặt đường nhựa, xe honda gầm rú, bánh xe vẫn quay tít mù. Giống như có ai bồng cô ngồi phịch xuống lề đường. Toàn thân Hồng Hạnh ê ẩm, nhức nhối, đau rần, đùi và cánh tay bị tươm máu trầy trụa thương tích, ở bờ ngực nghèn nghẹt nhoi nhói đau. Mặt tái xanh Hạnh run bần bật, nhưng hai mắt cô vẫn dán chặt vô chiếc trực thăng.
        Bất ngờ, bàng hoàng, sợ hãi đến tột độ, khi cô vô tình trực tiếp thấy nguyên nhân của dữ kiện, nhìn rõ sự kiện đã xảy ra trước mắt mình, dù chỉ trong tích tắc thoáng chốc chớp nhoáng quá nhanh thật sự hãi hùng. Chiếc máy bay bị lâm nạn chao đảo, nghiêng bên nầy, nghiêng bên kia, chòng chành uốn lên uốn xuống, y như chiếc lá vàng bay từ trên ngọn cây cao tà tà rơi xuống lúc trời vừa lặng gió. Trực thăng từ từ chúi đầu xuống bồng bềnh, chơi vơi. Mặt hồ bỗng trồi lên lõm xuống, tung toé nước, lan nhiều vòng sóng tròn xoáy tít, sóng cuồn cuộn (giống như sóng biển tấp vô bãi cát) sóng chồm vô tận bờ cỏ, mặt nước dậy sóng bắn vọt lên cao.
        Trong khoan máy bay Hạnh thấy rõ mấy phi công lố nhố, loay hoay, cuống quýt cố tìm lối thoát thân. Một người gục vào ô cửa dòng máu từ thái dương chảy ra nhoè nhoẹt khung kính. Mấy bàn tay kia chới với đưa lên hoảng hốt, tuyệt vọng đấm đấm đấm vô cánh cửa kính. Cuối cùng chỉ còn mấy lóng tay yếu ớt rụng rời nhè nhẹ cào cào cào... và mất hút.
        Do phi cơ bay vòng tròn quá gần nóc nhà, chẳng ngờ đuôi máy bay quệt vô chém trúng cột thu lôi (bằng gạch xây thẳng lên cao). Hình như chiếc trực thăng không đành cam chịu số phận đột ngột phũ phàng đau xót bị vùi thây trong lòng hồ buốt giá, nó lại nhô lên hụp xuống chòng chềnh thêm vài lần bồng bềnh, chao đảo, nghiêng ngả trên mặt hồ như chiếc thuyền con cỡi trên biển bạc đầu. Mặt hồ Xuân Hương lại dậy sóng, nước bung lên trời như những ngọn pháo bông khổng lồ vọt lên cao ngất, thành vòi rồng ly ty từng đợt nước trắng xoá tóe tỏa ra, nước rơi mạnh xuống mặt hồ. Sau đó phi cơ dần dà chìm xuống, chìm xuống, lún dần, lún dần xuống lòng hồ mất hút, trên hồ vẫn lăn tăn bọt bong bóng nước đục ngầu đó đây kêu bụp bụp.
        Bây giờ, tuy chỉ trải qua tích tắc một khoảnh khắc thời gian rất ngắn chưa tàn một phần ba điếu thuốc, chiếc trực thăng méo mó cong queo coi hết sức vô duyên, trơ trẽn đã cắm đầu xuống đáy hồ, chỉ còn chút đuôi máy bay chổng ngược lên khỏi mặt nước đen thui. Hạnh thấy cây cột thuỷ lôi cụt lủn, trơ trẽn lạ, vô duyên tệ, làm xấu xí dị hợm, mất thẩm mỹ, thiệt khó chịu người nhìn. Cửa nẽo tường vách của khu nhà hàng bể toang hoang, Hạnh cảm thấy ghét cay ghét đắng cái nhà hàng mang tên Thuỷ Tạ độc đáo, duyên dáng và "lừng danh" xưa, nay coi như “ô-danh” mất rồi. Toàn bộ cuốn phim diễn ra chính xác, cùng với nỗi hãi hùng kinh dị tột đỉnh, là nguyên vẹn không bao giờ phai mờ trong tâm trí cô.
        Điện ở trong nhà hàng và cột thu lôi liên tục xì xì xẹt xẹt, nổ lốp bốp, nổ hoài… Mùi khét và khói tỏa ra, hôi ơi là hôi. Trong nhà hàng người ta rú ré to thật to, họ nhốn nháo bò lê bò la, chạy lui chạy tới rầm rầm, la hét, khóc than, kêu gọi nhau ơi ới, nghe man rợ lắm. Thì ra một góc vách tường ở phía ngoài Thủy Tạ bị sập, vài ba người bị thương, một người té xuống hồ.
        Bây giờ cô mới sực nhớ xe honda của mình nằm chình ình bên lề bị bể cái bửng còn nổ máy xịch xịch, Hạnh dợm đứng lên thì biết mình bị trặc chân, thương tích không nhẹ mà cũng chẳng nặng qua những vết xây xát khắp hai tay. Cô uể oải đựng xe đứng lên, tắt máy, rồi từ từ leo lên ngồi trên yên xe Honda. Hình như cô bị một cú xốc hay sao, mà cảm thấy bải hoải chân tay run rẩy, rụng rời, không thể nhấc tay chân lên nỗi, hầu đạp nổ máy xe honda để chạy về nhà? Hạnh vẫn ngồi ù lì, thừ người ra ngố ngáo, ngu ngơ dòm ngó lung tung, run run, bồi hồi, lồng ngực như có tảng đá đè lên, nghẹt thở, mệt kỳ lạ. Hạnh rất buồn khi thấy cảnh đau thương vô hạn (của người xa lạ) mà vô tình mình đã tận mắt chứng kiến, đồng thời cô cũng vui mừng khi mình may mắn đã ra khỏi nhà hàng, (trước lúc xảy ra tai nạn khủng khiếp). Nếu cô không gấp đi thăm anh chị của mình, thì liệu rằng Hạnh còn có thể còn sống mà làm chứng nhân một sự kiện nầy không nhỉ?
        Lâu lắm…, Hạnh rã rời đứng lên mới biết máu tươm ra ở đầu gối sưng to như đầu gối con voi, mắc cá chân sưng vù. Cũng do băn khoăn, thắc mắc, hiếu kỳ, bâng khuâng vô cớ, nên cô bỏ buổi đi dạy học về chiều. Không hiểu những người bị lâm nạn kia có phải là những anh chàng vui tính mà hồi sáng tình cờ Hạnh đã nghe họ kể chuyện tiếu lâm, đọc thơ, vui vẻ ngâm nga ca hát đó không nhỉ!? Tiếc thương thay! Hạnh thẫn thờ nhìn sững mặt hồ, lòng buồn vời vợi, đau xót lạ lùng, ngẩn ngơ tiếc nuối một cái gì đó vừa mất ngoài tầm tay của mình, mà cô biết chắc đấy không phải là của mình, nhưng vẫn cứ tiếc thương! Hạnh “đa cảm” giống như họ là những người thân yêu trong gia tộc!
        Hồng Hạnh im lặng nghe thiên hạ chỉ chỏ ồn ào xôn xao bàn tán. Hầu hết người hiếu kỳ từ chỗ nầy chỗ nọ trong thành phố Đà Lạt đã tập trung đông đảo quanh khu vực hồ Xuân Hương (càng lúc người ta càng bu lại quanh khu nầy đông đen), có thể nói là họ nôn nao, băn khoăn kỳ lạ! Dù bây giờ chỉ còn chút xíu cái đuôi phi cơ lấp ló khỏi mặt nước, họ cũng như Hạnh không thể làm gì hơn là trơ mắt ra nhìn. Nghe họ đoán già đoán non, nói sai, phét lác tán hưu tán vượn, mà cô chẳng cần lưu tâm hoặc đính chính. Hạnh nhìn vô trong nhà hàng Thủy Tạ coi người ta lo chạy lên chạy xuống cầu thang, ra vào, kêu réo nhau inh ỏi lo tắt hết điện hoặc làm gì đó. Hạnh ngẩn ngơ nhìn chằm chằm chút đuôi trực thăng, mà ngao ngán lắc đầu xuýt xoa tiếc rẻ thở dài hoài.
        Việc cứu cấp những anh phi công coi như trớt quớt, hỏng tiệt mất rồi. Từ khi xảy ra biến cố đột ngột đến giờ cũng khá lâu, nửa giờ sau mới có xe cảnh-sát hụ còi báo động, bên Quân-cảnh phối hợp tăng cường giữ trật tự, họ ráo riết giăng kẽm gai rào từ ngoài đường vô cầu gỗ tới Thủy Tạ. Thời gian chậm chạp nặng nề trôi qua, chiếc phi cơ rơi xuống hồ khoảng 10:30’ sáng, dân chúng bu quanh khu hồ bên Thủy Tạ nhiều lắm, thế mà ba giờ chiều mới có bốn người dân địa phương biết bơi lội thiện nguyện thay quần áo ngắn, họ leo lên trên nóc nhà Thủy Tạ, họ bước ra cầu thang nhảy tủm xuống hồ, bơi quanh quanh đuôi máy bay, lặn xuống trồi lên vài ba lần. Rồi họ bò vô bãi cỏ, ngồi nhìn ra mặt hồ phẳng lặng. Vài người trong nhóm bơi lội đó nói to:
        - Nước rất lạnh. Lạnh như ở xứ tuyết.
        - Đáy hồ sâu lắm.
        - Không thể ở dưới đó lâu hơn.
        - Máy bay đóng kín cửa.
        Dân tụ tập tại khu vực nầy càng lúc càng đông đen hơn cho đến khi tối mịt, hoàn toàn không thấy gì, thì họ cùng Hạnh mệt lử, bần thần, ngơ ngẩn như người mất trí, ngố ngáo, hụt hẩng, cô uể oải, khấp kha khấp khểnh dẫn xe honda xuống lề đường nổ máy, không thể hiếu kỳ thêm, cô rã rời mệt mỏi chạy xe chầm chậm về nhà, bụng đói cồn cào, cổ họng khát khô lông lốc.
        ***
        Ba giờ chiều ngày hôm sau, khi nắng tươi vẫn chan hoà trên vạn vật. Hạnh chở hai chú con trai nhỏ xíu đi ra bờ hồ, để coi người ta vớt xác). Mấy mẹ con ngồi chết trân trên xe honda, nơi thảm cỏ xanh rờn sát hàng kẽm gai chằng chịt giăng nhiều vòng. Một chiếc xe GMC từ hướng phi trường Cam Ly chở thợ lặn ở Nha Trang lên Đà Lạt. Họ chụp hình đuôi máy bay, chụp hình địa thế và khu vực máy bay rơi, chụp khu Thủy Tạ, vân vân... Ba anh thợ lặn thay quần áo người nhái, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cần thiết nghề nghiệp cấp cứu ngồi vô ca nô. Anh lái ca nô chở thợ lặn ra giữa lòng hồ, ca nô chạy rất chậm quanh quanh chiếc phi cơ. Họ chỉ chỏ, bàn tính, rồi mấy tay thợ lặn nhảy tủm xuống nước làm việc lâu lắm.
        Bốn giờ chiều, thợ lặn trồi lên đưa cái xác thứ nhứt lên bờ. Họ đặt người chết nằm dưới cỏ, loay hoay mở áo quần anh pilot ra, họ cầm sổ ghi chép cẩn thận, làm gì đó, thật lâu, chụp hình... (vì dân chúng ngồi tuốt ngoài hàng rào rất xa, không ai trông thấy rõ). Hai anh lính quân y đem cáng thương đến, họ nâng cái xác lên đặt anh ta nằm ngay ngắn trên băng ca, rồi khiêng anh ta từ trong lối Thủy Tạ đi ra ngoài xe hồng thập tự (đậu ở trước mặt thao trường, nơi Hạnh bị té xe hôm qua) giữa hàng hàng lớp lớp người chào tống biệt đông đúc, người ta đứng chật như nêm ở suốt hai bên vệ đường tò mò chen lấn nhìn xem.
        Anh pilot dáng cao ráo, đeo đồng hồ Omega, hai bàn tay thõng xuống, đung đưa, lắc lư, bên trong là áo thun trắng, ở ngoài anh pilot mặc bộ đồ bay xám, chật căng cứng, coi anh mập ú (vì chương phình). Mặt mày anh sáng sủa, mũi cao, miệng rộng và hai bàn tay anh sưng húp, bầm tím, tím thẫm một cách ghê rợn. Đôi mắt anh ta trợn trừng, tóc dính bệt vô trán. Mũ bay úp trên ngực anh nhúc nhích, lắc lư, nước trên thân thể anh pilot vẫn chảy theo từng nhịp đi của hai người khiêng cáng. Mọi người hiếu kỳ đi xem giạt ra hai bên lề nhìn anh pilot nằm bất động, họ tò mò chạy theo mấy anh lính khiêng cáng. Trên xe hồng thập tự có hai anh lính chờ sẵn ở chiếc xe quân-y đang nổ máy. Họ đỡ cáng, xúm nhau đẫy cáng thương vô xe lanh lẹ gọn gàng, đóng xe sập cửa lại vút chạy đi về hướng Cam Ly.
        Hai anh lính lại đem chiếc băng ca đi ra hồ. Non nửa giờ sau, cuộc vớt xác vẫn tái diễn như lần đầu. Mọi người dự kiến đều chán nãn lắc đầu, ngao ngán tiếc thầm cho kiếp trai trí thức, hào hoa và phong trần. Chỉ vì... vài phút đa tình, lả lướt, bay bướm, nay bốn chàng trai lãng tử đã trở thành người thiên cổ! Do sơ ý lo bông đùa, phi công đã bay lui bay tới mấy vòng lả lơi, vẫy tay từ biệt với mấy người đẹp, người yêu ngồi ngoài balcon ở nhà hàng. Họ quên tiệt... quên mất là nhà hàng Thủy Tạ có cây cột thu lôi đá cao lênh khênh chọc trời kia. Thật là những bàn tay vẫy chào oan uổng vĩnh biệt! Đáng giá nghìn năm thương đau, ân hận dày vò người thân suốt cả cuộc đời "Khuýp Danh" mất rồi. Đau đớn thay!
        Giếng mắt khô lệ đã tuôn tràn.
        Tự đáy sầu trỗi tiếng than van.
        Ta vẫn khóc bên hồ hiu quạnh.
        Thụy như mưa tiếng sấm nổ vang.
        Mặt đối gương lên tiếng gọi mời.
        Phiến lá lưa thưa chân dung người.
        Bạc đầu xanh mắt buồn phớt lạnh.
        Vó ngựa chùng đại mạc chiều mưa.
        Đường trăng Tố Nữ khăn sô thưa.
        Khuýp danh hờn giăng mắc tơ mưa.
        Trời hoang lạnh vòng tang gió cuốn.
        Là chút tình riêng ta tiễn đưa!
        Ta muốn cười lớn giọng dưới mưa.
        Ôi! tình sao bỗng chín giọt sầu.
        Dòng sông rẽ nhánh chia hai nửa.
        Ly biệt đẵm lệ nhỏ thơ buồn...
        (1)
        Trên đây là chuyện hoàn toàn có thật 100% một chiếc trực thăng đã bị rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt, vô cùng “vô duyên òm, lãng nhách lạ”. Rồi, Tháng 9 năm 1973 - sau tai nạn rợn người kia, có thêm một chiếc trực thăng thứ hai rớt xuống gần công viên khu chợ Đà Lạt, gần cây xăng Shell, nơi bến bãi xe đò rước khách đi các Tỉnh miền Tây, miền Trung khác. Sau lưng bến xe và cây xăng nầy là ba dãy khu nhà Ấp Ánh Sáng, nhìn qua cầu ông Đạo và góc hồ Xuân Hương.
        Thật vô cùng may mắn! Đó là nơi tập trung đông đúc dân chúng tấp nập đi các nơi, đi phố, đi chợ. Nhưng khi chiếc phi cơ trực thăng thứ hai nầy do người Mỹ lái bị rớt xuống, chỉ bị thương nặng mấy người đi bộ. Kể cũng lạ! Hôm sau lúc đi chợ, Hạnh thấy chiếc trực thăng nằm chúi sát bên góc đường lên phố Hoà Bình, trực thăng dựa mũi lên mấy bờ tường đá. Những cây anh đào gãy cành, bật gốc còn nguyên, chưa ai kịp thu dọn. Ngoài ra không thấy gì, trong trực thăng sạch sẽ, đẹp mắt, trống trơn.
        *
        Tình Hoài Hương

        (1) Thơ tình Hoài Hương
        (2) Sưu tầm lượm lặt.

        Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
        Trân trọng
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-08-2019, 11:00 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #34
          Chất Độc AGENT ORGANGE (Diethymethyl-Dioxine)

          Huấn Luyện Phi Hành
          Phần Ba
          Chương 26


          Chất Độc AGENT ORGANGE (Diethymethyl-Dioxine).
          Tình Hoài Hương
          ***



          Hoàng Năm Tony vui lắm, nhẹ hẳn người khi anh đã ly dị với Phùng, anh tự do thì-thầm nói chuyện phone với người yêu xưa suốt. Vì đúng như lời Ayana nói: nhờ thủ tục “đầu tiên” nên anh mới “có tiền mua tiên cũng được”! anh ưa viết thư, (hoặc phone) tâm tình những chuyện trên trời dưới quận:
          Em yêu,
          Dù đôi ta đang ở nơi hai phương trời xa xôi và cách biệt vô vàn, nhưng anh hoàn toàn tin tưởng ở em. Vì anh biết chắc rằng: Không có việc gì trên cõi đời nầy, mà chúng mình không làm được, miễn là hai người có quyết tâm. Anh khuyên em hãy bình tĩnh vững tin. Mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày (năm nhuận có ba trăm sáu mươi sáu ngày. Cũng như có tháng chỉ có hai mươi tám, ba mươi ngày, ba mươi mốt ngày. Mỗi ngày có hai mươi bốn giờ, mỗi giờ có sáu mươi phút, mỗi phút có sáu mươi giây). Năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào… đều có mặt anh ở bên cạnh em suốt 49 năm qua. Chúng mình đã song hành đến tận bây giờ, thì còn ngại ngần gì nữa. Phải không em? Chúng mình sẽ dìu nhau đi đến chân trời góc bể, sẽ đi hết cuộc đời vắn vỏi còn lại. Nghe em! Anh vẫn tâm nguyện là sẽ chờ đợi em, ở bên cạnh em mãi. Bây giờ anh sẽ kể nhiều chuyện hữu ích cho em nghe, trước là mở rộng kiến thức, sau là giải trí nghen em.
          Hôm xưa anh và em đi thăm, ủy lạo một số đồng bào ở trong làng “Hoà Bình Từ Dũ bị số phận bạc đãi”, em đã hỏi về việc: Chất độc màu da cam “Agent Organge” là gì, tại sao? Bây giờ, nghiên cứu ra, anh trả lời em nè:
          * Vụ thứ nhứt.- Agent Organge có từ hồi Bộ-chỉ-huy quân-sự Mỹ ở Việt Nam. Gọi là Operation Ranchhand. Họ đã dùng loại phi cơ trực thăng UH-1-B. C-123. C-130 - để rải đều nó xuống miền Nam Việt Nam một số hoá chất “Diệt Cỏ”, mang tên là "Agent Organge". Tên hoá chất khoa học nầy là Dioxine rất độc. Có một thời đã gây nhiễm độc cho những con tôm ở ngoài khơi Việt Nam. Con tôm ở dưới nước còn bị ảnh hưởng, thì nói gì đến con người, hay cây cỏ. Ha em!
          * Sự việc chất độc kia được phát hiện, là nhờ cậu con trai Đô-đốc Trung-tướng Hải-quân, Tư Lệnh Lực-lượng Hỗn-hợp ở Thái Bình Dương. Đó là ông Fleet Admiral Zumwalt, nguyên là người chỉ huy thực hiện chương trình Ranchhand. Con trai ông nầy bị nhiễm độc, và chết sau đó vài năm. Còn di chứng để lại là một đứa cháu nội dị tật bẩm sinh của ông. Sau khi ông giải ngũ rời quân đội, chính ông là người đứng ra khởi kiện chính phủ và quân đội Hoa Kỳ (toà án Brooklyn New York). Toà án tuyên bố ông Fleet Admiral Zumwalt thắng kiện. Họ bồi thường cho ông Fleet Admiral Zumwalt gần mười hai tỷ USD, cho toàn bộ Cựu Chiến Binh Mỹ (thì phải)!
          Bên Mỹ họ không hề hay biết vụ nầy, cho đến năm 1995 mới lòi ra! Từ đó có những phong trào rầm rộ vác đơn đi kiện, đòi bồi thường. Dow Jones Chemical phải bỏ tiền ra “trám miệng” dư luận. Chính hãng nầy có lần phải bồi thường cho Ấn Độ, vì đã để rò rỉ chất độc Cobalt, làm cho một số thường dân bị chết, bị thương tật. Họ đã cắn răng bỏ ra vài trăm triệu USD, làm dịu dư luận thế giới là gì!
          -* Ở Việt Nam và Campuchia (còn gọi là Khu R - ở Khu Mỏ Vẹt) từ thập niên 1960 – đã có chất độc Diocine, loại hoá chất rất độc. Mục đích chính là họ rải thuốc Agent Organge làm khai quang bụi rậm, rừng rậm, diệt sạch cỏ. Chất độc A.O nầy trông có vẻ hiền lành lắm! Nhưng thật ra nó ngấm ngầm tấn công vào hệ thống gene của những ai đã từng sống, từng sinh hoạt trong những vùng bị rải thuốc. Không ngờ nó làm biến dạng gene con người quá dễ sợ, dị dạng ghê gớm. Vì thế mà sinh ra quái thai. Nhưng thuở ấy người ta chưa thấu rõ nguyên do, họ cứ đổ vấy đổ vá, đổ lỗi cho “chuyện ái ân” là những kẻ ưa “phong tình bậy bạ lăng nhăng vung vít” thêm ở bên ngoài, mà biến dạng gene ra "quái thai" cái cớ sự nông nỗi ấy. Thật ra ít có ai biết. Loại thuốc Agent Organge nầy không bị phân tán. Nó tồn tại rất lâu dài. Tức là nó vẫn sống sau khi cây cối, rừng rú đã chết hết, đất trở thành hoang mạc, cằn cỗi, trơ trơ khô khan như nham thạch. Ấy thế mà thuốc vẫn tồn tại ngấm sâu vô lòng đất, hoà tan trong nước, tấn công vô bất cứ nơi nào: từ các ông già, bà lão, trai, gái, già trẻ lớn bé… nó không tha ai. Thế nên vụ việc nầy rất ảnh hưởng đến sông ngòi, lan tràn theo gió bay đi muôn phương. Dù càng đi xa, thì chất độc càng yếu dần, chứ chưa chắc thuốc đã hết công hiệu! Nói chung, sau khi các nhà khoa học nghiên cứu kỹ càng, thì họ kết luận A.O là một yếu tố khoa học rất độc hại, vô cùng nguy hiểm. Kinh khủng chưa em?
          Biết bao nhiêu đứa trẻ tại Mỹ sinh ra không có tay chân, hoặc bị bệnh liệt não, bệnh to đầu, hay bại liệt từ thuở sơ sinh. Tại Việt Nam số người bị chất độc A.O nhiều gấp ngàn lần so với bên Mỹ. Vì, theo bản đồ quân sự Mỹ, thì có đến 35% trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam đã bị rải hoặc phun thuốc diệt cỏ. Tóm lại chất thuốc diệt cỏ nầy có tên là Diethymethyl-Dioxine rất độc hại. Từ đó, ngay cả những người đã lập gia đình ở các khu vực chung quanh vùng đó, đã sinh ra toàn quái thai (như thập niên 1960, phụ nữ dùng thuốc ngừa thai mang tên Thalidomide không thể ghi trong lịch sử Y-học hiện đại!). Không có bút mực nào tả hết sự dã man kinh hoàng dị tật khủng khiếp từ chất Diethymethyl-Dioxine!
          * Vụ thứ Hai.- Một ông tỷ phú quốc tịch Mỹ thường đi chiếc máy bay nhỏ du lịch nhiều nơi trên thế giới. Nơi nào... ông ta cũng để lại vài “dấu tích kỷ niệm luyến ái ngọt ngào” là một đứa con rơi. Khi ông ta gần chết, thì có nhiều phụ nữ đã đệ đơn xin toà án công nhận: cho người con ruột (của họ) thừa kế gia tài của người cha tỷ phú. Quả thực “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”! Thuở ấy có một bà xồn xồn ở Ninh Thuận (Việt Nam) hổng biết tòn ten làm sao mà bà ta “vớ” được “ông Trùm tỷ phú”!? Bà ta nhờ một ông Việt Nam làm đơn, xin thừa kế tài sản cho con trai. Ai ngờ, có ông XX quen biết bà, ông XX lại là một tay lưu manh ngoại hạng. Ông XX nhờ một luật sư Mỹ lo phụ trách chuyện nầy. Qua các thủ tục trắc nghiệm cần thiết, hầu tòa, v.v… họ đã thắng kiện.
          Theo lệnh toà án, nhà bank Mỹ đã chuyển vô bank ông kia một số tiền ban đầu là một triệu tám trăm ngàn đồng USD. Sau khi thanh toán, chia chác với nhau, họ ung dung cầm đưa cho bà ta tám mươi ngàn đồng USD. Bắt bà nầy ký tên và thêm một câu thòng: “Tôi đã nhận đủ tiền, không kiện cáo thưa gởi gì!” Bà nầy vốn nhà quê ít học, chữ i chữ tờ chữ cu chữ cò Việt Nam còn chưa thông, bà ta chả phân biệt rành rõi. Huống hồ chi đến chữ Anh với chữ “U…raway”. Nên bà ta “xung xướng”, run run cầm cây bút cứ hí hoáy ký bừa cái rẹt. Ồ! Có những tám mươi ngàn đồng dollars ở Việt Nam, bà ta sướng tê người rồi! Từ nay bà ta phè cánh nhạn! Bà ta “giàu được trung được hiếu; khó mất thảo mất ngay”. Cần chi nữa! Bấy giờ người ta mới phát hiện ra “hắn” còn làm ăn gian lận nhiều vụ khác. Thế là báo chí “moi móc ra” Ôi! Đồng tiền làm mờ mắt và táng tận lương tri con người, em nhỉ!
          Vụ thứ ba.- Năm 1966, có một cô bé bị cháy phỏng hết cả người, mà ông nhiếp ảnh gia Nick Út, là phóng viên của AFP đi công tác tại Đà Nẵng, đã chụp hình (ông hiện giờ định cư tại Úc). Ông được giải thưởng Pulitzer về nhiếp ảnh. Cô bé đó đã được đưa qua Canada chữa trị lành lặn. Cô lớn lên, nay làm “đại sứ thiện chí” của Unicef. Bị napalm cháy cũng ghê gớm lắm. Nhưng so với chất độc màu da cam, là chuyện nhỏ! Vì, nếu bị cháy, thì có thể còn lọc cắt lớp da cũ. Nuôi lớp da khác thay thế. Phải không nhỉ?! Tôi tin có Thiên Chúa, (hoặc Phật Mẫu phù hộ), cho nên cô ấy gặp cơ may tốt lành. Đối với tôi, lòng tin đã có và sẽ có trong mỗi tôn giáo cũng tốt, khi mình đã lựa chọn. Nhưng có lần anh đã nói: - Cứ nhắm mắt mà sống chết vì đạo. Thì xin lỗi, anh chưa đến cái mức đó đâu. Có những điều anh chưa hiểu nỗi sự “mầu nhiệm”, thì cũng cắn răng chấp nhận theo ông bà cha mẹ, vì họ đã vô đạo từ thời trước, tuân theo sử sách viết thì họ cho là “giáo điều” rồi! Vã lại khi còn tấm bé anh không tự chọn. Thật ra, anh nhận thấy đạo nào cũng toàn vẹn, là tấm bình phong gìn giữ con người với con người – khuyên mọi người tốt lành trong lãnh vực hướng thiện, ôn nhu, chí tình, bác ái, vị tha, ăn hiền ở lành, tránh dữ, làm việc thiện. Nhất là không phạm tội. Còn chuyện khác chỉ là phần “hồn” của niềm tin mà thôi.
          Em đã thẳng thắng trả lời:
          - Hèn gì... coi anh có vẻ lơ tơ mơ. Em nghĩ: Con người sinh ra trong thiên nhiên, tất phải trọn vẹn. Nếu con người có hư hỏng, một phần là do ở xã hội”. Nhưng, xã hội cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng của gia đình đó, thời đó và xã hội đó, anh à.
          - Ừa... Chỉ có má anh là “cuồng tín” nhất. Ba anh thì không đến nỗi nào. Riêng anh nhắc nhở các con nên giữ đạo. Vì, đạo nào cũng mong muốn con người hướng thiện. “Nhân vi sơ, tính bản thiện” mà! Cần có đạo đức tốt nên tuân phục. Ngoài ra, anh không buộc các con phải siêng năng, sốt sắng đi lễ đọc kinh cầu nguyện luôn miệng. Anh nghĩ đôi khi anh thật tức đó em. Chỉ cần mình sai phạm một lỗi lầm nào đó, ví dụ như khi ai uống rượu say lỡ "ngộ sát" giết người, vì lạc tay lái cán chết người chẳng hạng, thì muôn đời ở tù, là “Lục Quân Việt Nam”, khi chết ta bị sa xuống chín tầng ngục đời đời kiếp kiếp. Chả có cơ hội thống hối ăn năn, chẳng có hình phạt tù chung thân khổ sai, như khi còn ở trên thế trần đã đành. Chết rồi cũng bị “Trời tru đất diệt”. Ức thiệt.
          Trầm ngâm giây lát, anh bảo:
          - Anh không tin đấng tối cao lại nghiêm trọng “ác”, như trong giáo luật do tiền nhân định ra đâu. Phô trương đạo đức ra bề ngoài đọc kinh ra rã, mà bên trong lòng rỗng tuếch, thì có ra gì. Anh nghĩ đấng quyền năng ấy rất bao dung, bác ái, rộng lượng, khoan hoà và khoan đãi, ngài yêu thương, luôn vị tha khoan hồng dung thứ cho kẻ có tội. Đại khái, anh còn nhớ Chúa đã nói: “Nếu có ai tát con bên má nầy, thì con hãy đưa má kia cho người ấy tát” mà em. Hoặc là "con tha tội cho người khác không chỉ bảy lần, mà phải tha trên bảy mươi bảy lần" nữa, em à. Vậy ta im lặng nhẹ thở dài, nghe em:
          - Bây giờ đám con ta lo bương chải kiếm sống đủ mệt muốn tắt thở. Còn thì giờ đâu suốt ngày đêm sáng tối lo đọc kinh. Mình phải đối diện và phải trả lời về hành vi của mình trước mặt Chúa thôi. Nội cái “đời” không mình đã mất hết giờ chạy bộ muốn bá thở, mệt hụt hơi. Em không thấy bi giờ ta ra đường, hầu hết mọi người phải mang mặt nạ, bịt kín mặt mũi, để chống “ám khí” bụi bặm bốc lên ở lưng trời ngút ngàn, không bao giờ tan nhạt đi sao. Anh làm gì có xe hơi, hoả tiễn để phóng cho kịp “trào lưu văn hoá tiến bộ cuả loài người chớ”. Hả em. Hu hu...
          Vụ thứ tư.- Nhân nói đến xe hơi, xe cúp, em nghe có một anh đại học tốt nghiệp về ngành computer. Anh ta rất giỏi đã “móc nối” với một nhóm khác tiêu thụ trên ba ngàn năm trăm cái bằng lái xe giả. Họ làm tinh vi đến nỗi sau nhiều năm nghiên cứu, so sánh với tài liệu gốc, sở Giao-thông Vận-tải mới phát hiện ra đó là bằng giả. Ớn quá không hỉ!?
          - Đúng quá rồi còn gì. Nên, từ nay trở đi cảnh sát sẽ gác 24/24 các “cửa nẽo” nơi đi ra đi vô thành phố, đẫy mạnh việc kiểm soát giấy tờ xe, bằng lái xe, kính chiếu hậu, nón bảo hiểm. Ui chà! Thế là người bán tha hồ chặt đẹp nha, nón bảo hiểm tăng vùn vụt như diều gặp gió. Họ làm mạnh như vậy, may ra dân mình đi vào nề nếp giao thông tốt. Em về Việt Nam, em chẳng dám đi bộ, càng không dám chạy xe cúp, chớ nói là lái xe. Thậm chí em thấy nhiều người (chắc là ở Tỉnh xa đến) họ thấy một hàng xe chạy dài dài trên đường một chiều. Vậy mà họ cứ cố len vô để chạy ngược chiều. Mới quái lạ thiệt à nhe.
          * - Khó khăn về việc nón bảo hiểm là: em ngồi chờ mà đội cái “nồi cơm điện” lên đầu, giữa trời nắng chang chang, nóng hầm hập là nhức đầu ngộp thở chết mất. Có nhiều bất tiện lắm: Ví dụ thứ nhứt: cả gia đình đi ăn tiệm chung chẳng hạn, nhà nào cũng có ít nhất năm bảy cái mũ bảo hiểm. Khi đến nơi thì làm sao? treo tòn ten nón nơi xe, sẽ mất toi liền đó em. Vì thế mỗi người phải tự xách kè kè theo bên hông.
          *Bất tiện hai là: Rủi ai làm nghề “chạy xe ôm”, họ phải sắm ít nhất hai cái mũ bảo hiểm, một mũ cho người lái xe ôm, một mũ cho một khách hàng đội nữa.
          *Ba là: nếu người dân trong vùng (khu phố, quận huyện, thành phố) bắt buộc đội nón bảo hiểm, họ chỉ chạy xe ra vô gần gần khu chợ chồm hổm, cũng phải xách nón theo, nhứt là luôn luôn lo lắng đề phòng bị mất cắp mũ.
          *Bốn là: ví dụ cô dâu sáng sớm chạy xe cúp đi làm tóc, uốn tóc, trang điểm để lên xe hoa, buộc lòng cô ta phải để đầu trần.
          *Năm là: ngàn học sinh, sinh viên đến trường có cả ngàn cái mũ bảo hiểm. Nếu để mũ ngoài xe là không bảo đảm, mang mũ vô lớp thì kềnh càng, không có chỗ cất, không có chỗ ngồi học? thật bất tiện. Bao giờ tất cả người ta chạy xe gắn máy trên “xa lộ an toàn” có đầy đủ mũ bảo hiểm. Hy vọng Việt Nam "ngàn năm mây bay" ít ai bị tai nạn, họ sẽ giống hệt như bên BangKok, Singapore rất nghiêm trang chỉnh tề chấp hành luật giao thông, là điều rất mừng.
          *
          Tình Hoài Hương

          ***
          Ghi thêm:
          Bổ túc về “chất độc màu da cam” từ trích dẫn nguyên văn dưới của ông Trương Vinh
          :
          Cảnh phun thuốc trên đám rừng già 3 C-123 cât cánh từ phi trường Nakhon Phanom, Thailan bay thẳng một mạch tới Đèo Ban Raving, từ đĩnh đèo nầy lấy hướng nam bay thẳng một lèo xuống tận 3 biên giới Việt Miên Lèo, trước hết qua Tchepone, ngang con sông Xêsamou Sêkông qua Mường-May, Mường Sao, Saravane, Bản Phya-Ya, tới Bản Tà Xẽng, Saravane dông cao nguyên Boloven, Bãn Đông, đến phu lưu song và các chi nhánh sông Mêkông, tỉnh Mường Nồng trở về Thailan đáp xuống lại phi trường Nakhon-Phanom
          - Ánh đèn pin liên-tục qua lại trong bóng đêm, thỉnh-thoảng dừng lại một tụ điểm như xoi-mói tìm kiếm những gì khác lạ nơi cặp càng bằng nhôm, với vô số vòi-phun, chi-chít nằm xen kẻ, trải dài gần 15 thước mỗi bên, cho đến tận đầu cánh. Tôi đang kiểm soát tiền phi cho một phi-vụ khai hoang, mà mục tiêu là khu rừng già nằm bao phủ trên tuyến đường sắt Trãng-Bom, Long-Khánh.
          - Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
          Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn động lại trong thùng, dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
          - Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình than của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh.
          Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
          Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng”có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá Trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc đọc giã nghe hơi chõi lỗ tai?
          Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mõng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lỏng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới
          Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tỉnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy; Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nữa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
          Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi” Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương
          Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt; Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc…sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nử” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi… (Vinh Truong).
          *
          Tình Hoài Hương
          Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
          Trân trọng
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-08-2019, 11:02 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #35
            "Cánh quạt của chiếc F-5 bị nạn , quay tít , đẫ chém chết một em bé chăn bò " . tác giả viết bài that hay , chỉ tiếc là chiếc F-5 không có cánh quạt .

            Comment


            • #36
              V/v em bé chăn bò ...

              Nguyên văn bởi thuyguyen530 View Post
              "Cánh quạt của chiếc F-5 bị nạn , quay tít , đẫ chém chết một em bé chăn bò " . tác giả viết bài that hay , chỉ tiếc là chiếc F-5 không có cánh quạt .

              Cùng anh thuynguyen530 thân,

              Anh và gia đình có khoẻ không ạ?
              Thưa anh, lẽ ra tôi không dự tính RE: ít hàng chữ đưa lên diễn đàn HQPD, (trong những lần trước, trước nữa…) vì tôi rất e ngại điều không vui sẽ làm phiền lòng độc giả không ít.
              (Tiện đây, tôi xin độc giả HQPD vui lòng bao dung và lượng thứ, nếu tôi có điều sơ sót linh tinh nhé. Hoài Hương chân thành cảm ơn quý vị).

              Có thể PM, có lẽ là điều hãnh diện. Nhưng ngặt nỗi là anh không có open mục PM, (Private Messages) để tôi có thể nhã nhặn, tế nhị, kín đáo, cùng nhau xây dựng về câu văn đoạn viêt hơn. Ngỏ hầu tôi dễ dàng thưa chuyện cùng anh. Rất tiếc!
              Hôm nay, do bài viết “Vĩnh Biệt Chiếc F5…” - khá dài, nên tôi chỉ xin ghi lại ít trích đoạn ngắn v/v “em bé chăn bò”… mà anh thuynguyen530 đã đưa lên diễn đàn 05-23-2018 08:23 AM
              Cảm phiền nhờ anh thuynguyen530 bỏ chút thì giờ quý báu đọc lại đoạn văn ghi sau:


              Hồi sáng, không hiểu sao có người nói tiếu lâm, chẳng biết họ đùa hay nói thiệt:
              - Có lẽ cánh quạt của chiếc F 5 quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, một con bò, và làm bị thương mấy con bò gặm cỏ trên đồi Cù.
              Liền có một thanh niên đốp ngay:
              - Con bò chết là phải. Đúng là… ngu như bò.
              - Tại sao?
              - A37 và phản lực F5 - thì không có cánh quạt.
              - Vậy, F5 nó giống tàu bay giấy à?
              - Đừng "hỏi xỏ" như vậy! Nghe nè: Phản lực bay được là nhờ có động cơ phản lực nó đẩy máy bay, nên bay lên được.
              - Vậy mà tui tưởng đã gọi là máy bay, thì phải có "chong chóng" chớ.
              - Ừ, thì cũng có loại máy bay như trực thăng, thì có cánh quạt trên lưng. Các loại khu trục AD6, quan sát L19... thì có cánh quạt trước mũi. Các loại khu trục AD6, quan sát L19, vận tải C47, v.v... đều xài động cơ nổ. Động cơ nổ là nó dùng xy lanh (như xe hơi là động cơ nổ). Trực thăng UH1 cũng dùng động cơ phản lực, nhưng nó có cánh quạt trên lưng nữa, vì vậy có thể gọi nó là bán phản lực; nghiã là ½ phản lực.
              - Ngộ quá hén! thiệt là tui... tui có "chong chóng mặt...” vì - do "tàu bay" mà con bò bị chết!
              - Ừ... Thì con bò chết vì... ngu như bò!

              Mình cũng hiểu thanh niên kia ngụ ý chưởi khéo người nọ là "ngu như bò" mà cũng bày đặt "lên lớp đôi co". Nhưng thôi, hơi đâu nghe chuyện người dưng kia không biết mà cũng chẳng rành. Theo thiển ý của Hạnh thì có lẽ do những vật nào đó trong bộ phận của phi cơ rơi trúng, hoặc do tiếng nổ kinh hoàng gây ra "mà chết".
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-03-2019, 05:48 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #37
                ]Vĩnh Biệt Chiếc F 5 tại hồ Xuân Hương Đà Lạt

                Huấn Luyện Phi Hành
                Phần Ba
                Chương 27
                Chuyện CHAT: Bù Khú

                Chuyện CHAT: Bù Khú
                Tình Hoài Hương
                ***



                Date: Mon, 1 - 26 - 2006 -00:05:34 -0700 (PDT)
                From: "Tony Dautry Hoàng Năm"
                Add to Address Book Add Mobile Alert
                Subject: Thư mang số # 5.946 *Chuyện MAIL & “CHAT” bù khú.
                To: "Wit Mi Mi" < ti1@yahoo.com >
                *

                Tony.– Hello… Ah! Chào em yêu thương, (từ bi giờ anh phải gọi em là con mèo Mun xinh xinh): Thời gian trôi qua dài quá dài... thăm thẳm sau 45 năm vợ chồng tan hợp rồi hợp tan, mail nầy anh em mình kể chuyện bù khú linh tinh cho vui cửa vui nhà, em nhen:
                Hôm đầu tháng Giêng, anh bị con “vòi vọi” to như con bọ xít, thân đen bóng, cánh cứng, có vòi như cây kim cong cong, nhọn hoắt. Nó có bốn chân, và hai cái râu, từ dưới gầm giường nó bò lên nệm lúc nào không biết. Thừa lúc anh ngủ say, nó chích anh mấy phát. Ui! cái trán sưng chù vù, cứng ngắt và ngứa ngáy, nhức nhối kỳ lạ. Gần cả tháng rồi, vẫn đau nhức, trán vẫn u, sưng tấy lên và ngứa lắm. Vậy mà em còn chọc quê anh là “mọc sừng” ha. Giận thì thôi.
                Ayana.- Ui! Em cứ tưởng là do anh đi hoang. Nó muốn cảnh cáo anh í mà. Xin lỗi nha.
                Tony.- Hôm nay, anh tức quá, đi thay tấm drap mới, giặt mền, gối, rồi anh lật hết những thanh giường ra. Lau nhà sạch sẽ xong, anh lấy thuốc xịt hết vào mấy cái khe. Thì thấy hai con “vòi vọi” đen đen lăn ra chết. Chứ nó chạy nhanh kinh khủng, không thế nào đập trúng. Anh bỏ nó trong bao nylon. Chiều nay sẽ đem nó xuống bác sĩ chữa trị da liễu, cho ổng xem. Vì bác sĩ cho rằng nó là con A Sừng! Cách đây vài tháng anh cũng bị nó chích như thế, nay vẫn còn u lên một cục cứng ngắt. Thie65t là kinh hồn em à.
                Ayana.- Anh cẩn thận nhen. Ở một tỉnh thành gần khu núi đồi, hồ ao, đầm lầy bên Úc (nơi chị Tú ở). Có một chỗ dành để người dân cắm trại. Nhiều mái lều dựng lên, ăn ở vui vẻ. Bỗng họ nghe tiếng hét to kinh khủng, tại một cái lều hơi gần gần bờ hồ, có con cá sấu to lớn bò đến ngoạm chân người đàn ông, lôi đi xềnh xệch. Cả khu cắm trại hốt hoảng nhốn nháo, họ ùa ra bãi xem chuyện gì. Thì một người đàn bà cùng gia đình cắm lều gần, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng đó trước tiên. Hai bàn tay không, bà ta can đảm nhảy xuống hồ, bà cỡi lên mình con cá sấu. Hai tay bà ôm ghì lấy lưng và nách con vật, hai chân bà quắp chặt vào bụng nó. Con cá sấu giật mình, nó hãi hùng nhả chân người đàn ông ra. Nó quay ngược mỏ lên, táp táp vào người đàn bà hoài mà không được.
                Thế là nó vát bà ta chạy tuốt xuống hồ nước. Mọi người bất ngờ sững sốt, nhốn nháo, sợ hãi kêu la inh ỏi. Một người đàn ông ở lều khác, bình tĩnh xách súng chạy đến gần. Tay thiện xạ do dự một phút, rồi đưa súng lên nhắm và bóp cò. Đùng!... Đùng! Con cá sấu giẫy giụa vài cái, rồi nằm ngay đơ nửa trên nửa dưới hồ nước. Người đàn bà can đảm phi thường cỡi con vât ấy không bị lạc đạn. Mệt đứt hơi, bà ta nằm vật ra bên con vật nhuộm máu đỏ. Người ta vội vã gọi trực thăng đến, cấp cứu hai nạn nhân. Một người bị cụt chân, một bà bị gãy tay. Chỉ vì “cái mỏ” con cá sấu.
                Tony.- Còn một chuyện có thật nữa: Hai chị em cô bé nhà kia đi tắm sông ở Nam Phi. Cô chị độ mười tuổi, thấy em nó bị con cá sấu ngoạm, con cá sấu cố sức lôi đứa em xuống sông, để ăn thịt. Cô chị quýnh quá không biết làm sao, cô ấy không biết sợ hãi liền chạy đến bên con cá sấu, cô gái lấy ngón tay trỏ chọt rất mạnh, chọt lủng mắt con cá sấu. Con cá sấu bị bất ngờ, và đau lắm. Nên nó nhả cô em ra. Nó lo chuồn xuống nước, lặn mất tiêu. Cô em bị thương nặng. Họ cấp cứu hai chị em vô bệnh viện.
                Ayana.- Đó, anh thấy chưa? Mà anh còn đòi cuối tuần nầy, đi ăn thịt cá sấu với anh Vượng, anh Nuôi hỉ! Em sợ nên em “ghê tởm” cá sấu. Vì thấy nó dữ dằn, da lởm chởm sù sì gớm ghiết, móng chân móng tay nhọn hoắt. Cái mỏ và hàm răng ôi thôi kinh dị. Nhất là buổi tối hôm đó, ngày chúng mình đi vào trại nuôi cá sấu xem. Trong bóng tối, mình lấy đèn pin rọi xuống ao, hồ, thì trông thấy những đôi mắt của nó, như là ánh sao lấp lánh. Vì hai con mắt nó sáng rực, đỏ au, từng con từng con nhìn sững vào ánh đèn. Thịt nó trắng, mềm và thơm ngon. Lại có hương vị đặc trưng thơm hơn thịt vịt, thịt gà nữa. Em làm thịt cá sấu sạch, xào với sả, ớt, mè, tỏi, hành, ngũ vị hương, ít dầu hào, cuốn ăn với bánh tráng nướng. Thật ngon hết sẩy.
                Tony.- Rượu cá sấu nầy là môn thuốc, người ta nói để trị bệnh suyễn hữu hiệu lắm em ơi! Uống vào nghe "đã" đến óc. Tuyệt cú mèo. Rồi anh hỏi đố em: Có biết con cá chình không? Mất mấy trăm ngàn đồng Việt Nam, anh mới mua được một con cá chình chỉ nặng vào khoảng 800 gr. Ở Việt Nam bây giờ con gì cũng được đưa lên bàn ăn, để thiên hạ xài, có tiền là “chiêm ngưỡng” hết: Chồn. Cheo. Rùa. Mễn. Nai. Rắn. Ba ba. Vân vân… Ôi thôi đủ thứ hầm bà làng hết. Đến nỗi bi giờ hầu như những loài qúy hiếm e có nguy cơ diệt chủng. Đã có lệnh cấm săn bắn, cung cấp thịt rừng.
                Ayna.- Anh lại nhem thèm em nếm tí rượu cá sấu nữa hả? Ghê quá đi. Cho tiền thuê, bạc mướn, có lẽ em hổng dám ăn thịt cá sấu.
                Tony. - Em có thấy ớn lạnh không? Người đàn bà cỡi lưng cá sấu. Cô bé chọt mắt cá sấu. Rất phi thường. Can đảm lắm. Nhưng... Chưa đáng kính phục bằng một đàn bà Việt Nam dám cỡi lên mình con rắn, bóp nát trái tim con rắn nữa. Nhất là bà ta làm con rắn cúi đầu khuất phục. Thật đáng ngợi khen. Anh đố em biết bà ấy là ai nào?
                Ayana.- Bói bài hay cầu cơ cũng chịu thua. Đừng nói tới. Em hổng biết.
                Tony.- Ấy! ... Là em đó.
                Ayana.- Ui chà chà. Thương thiệt!
                Tony.- Anh lại đố em 4 chữ MEN nè:
                1.- MEN TAL ANXIETY : Hoảng loạn tâm thần.
                2.- MEN TAL BREAKDOWN : Suy sụp thần kinh.
                3.- MEN STRUAL CRAMPS : Co thắt khi có kinh.
                4.- MEN OPAUSE : Hiện tượng tắt kinh.
                Ayana.- Ô! anh đố em, mà anh giải thích hết rồi. Lại còn hỏi ư.
                Tony.- Em có để ý là tất cả nguyên nhân các sự kiện ở trên, đều do chữ MEN mà ra không! Đó, đàn ông các anh là thiên đường. Mà đàn ông cũng là địa ngục khi có "em".
                Ayana.- Ồ! Cái nầy họ “chơi chữ” quá hay. Vì trong bốn triệu chứng của người đàn bà, đều bắt đầu từ chữ “MEN” mà ra! Dễ ghét mà rất dễ thương. Anh hỉ!
                Tony.- Phải. Loài chuột có thể giao phối hơn 20 lần/ngày. (Còn hơn con dê nữa ha)! - Con gián có thể sống trong suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Vì vậy anh rất gớm con gián. Voi là loài động vật có vú duy nhất không thể nhảy cao. - Muốn luộc con ếch hoặc con rắn, trước tiên ta bỏ nó vô nồi nước lạnh, đậy kín nắp, mở gas thật nhỏ, chờ bao giờ nồi nước từ từ nóng và sôi. Chớ nếu bỏ nó khi nước đang sôi, thì nó sẽ quậy lung tung và nhảy phóc ra khỏi nồi. À, anh nhớ có chuyện nầy nữa… Ôi vui ơi là vui. Đúng rồi! Sau đêm em bị ma đè (chứ hổng phải người đè à nha), thì cả anh và em đều hoảng loạng, đến nỗi rắc rối… bồi hồi, quên trước quên sau, quên đầu quên... quên… luôn cái phao câu! (con gà con vịt, thì ít khi ai gọi là đuôi gà, đuôi vịt. Mà họ “thít” gọi là phao câu mập ú nù. Phải hông nà?
                Ayana.- Đúng quá đi thưa “bác xĩ mu rùa hóc môn”.
                Tony.- Ha ha! Ui xà, dzậy mà còn phong cho anh làm tới chức “bác sĩ mu rùa hóc môn” nữa chứ. Ôi trời ới! Nếu vô tình, có ai lọt chân vô trong mạng internet riêng của chúng mình, thì chắc họ sẽ cười bể bụng, vì mấy cái chuyện tiếu lâm của hai ông bà già gân 60-70U lẩm cà lẩm cẩm nầy ha.
                Ayana - Vậy chứ công dụng của cái rốn là gì nè chàng?
                Tony.- Để cuống rốn gắn liền tí nhau với người mẹ, như sự nương tựa vào sự sống của con từ mẹ mà có. Nhưng khi sinh ra đời, cuống rốn của em bé được cắt đi, thì từ đó sự sống, hay gọi nôm na là hơi thở của em bé tách rời mẹ, độc lập. Đáng lẽ ra khi cái rốn lành, phải thành một vết sẹo bằng phẳng. Chứ tại sao cái rốn lại teo tóp nhăn nhúm, trở thành sâu hoắm thế hở cô nương của anh?
                Ayana.- Xin chịu thua.
                Tony.- Còn nữa, cặp vú của người đàn bà có công dụng để nuôi con. OK! Thế thì, người đàn ông không thể cho con bú mớm gì. Sao vẫn có vú hỉ?
                Ayana.- Công dụng nầy, chỉ có Trời mới biết.
                Tony.- Rồi, khi người đàn ông đi “quờ quạng ăn phở bậy bạ”, hắn gặp một “gái già bia ôm” nên bị lây rận, (do người đàn ông khác “di dân rận” cho bà ta), con rận thân dẹp lép, bò lết tới trên mình tên đàn ông thứ tư, thứ năm gì đó. Chỉ cần hai thân thể áp vào nhau chừng vài phút thôi, là lãnh đủ! Có hơi ấm cơ thể, thế là lũ rận nhanh nhẹn bò sang người mới, định cư liền. Tên đàn ông trăng hoa đó lại mang rận về tặng lại cho vợ. "Nhục và nhột" thì thôi.
                Ayana.- Úi quơi Trời đất thiên địa ui! Vậy ra anh đã từng mang rận đi, mang rận về ư! Xin bái biệt và tống khứ anh.
                Tony.- Không. Đừng nóng thế em.
                Ayana.- Dieu seul le sait...
                Tony.- Nè em: ngày anh còn học chung với Trung trong đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi điện tử. Hôm xưa, chả biết làm sao Trung có được mấy con rận, nó mang rận vô lớp. Ta có thể soi rọi con rận ra to chừng 15.000 lần của thực tế. Rận có cả thảy ba đôi tay chân (6) lông lá xồm xoàm! Phía trước rận có hai càng nhọn hoắt, dùng để đào hang. Con rận màu trắng ngà, khác với con chí màu đen. Con rận đẻ trứng bám chặt trên những sợi lông, giống như con chí đẻ trứng trên những sợi tóc của người ta. Lấy trứng rận ra để trên bàn: giết, nó cũng kêu “cái cốc”, y như trứng chí vậy. Rận không sống ở ngoài da, mà nó đào hang. Nghĩa là nó dùng càng đào lỗ, chui vào lỗ chân lông mà nằm ở chỗ kín, dơ bẫn. Nó không giống con chí sống lúc nhúc, luôn bò rần rần, loi choi hút máu ở trên đầu (do người ít tắm gội). Khi nào đói, rận mới bò ra châm vòi vào thịt, hút máu tươi để sống. Mình ngứa điên cuồng là đó. Rận giống như con rệp tiết ra chất hôi, chuyên sống ở khe vách, giường, phản. Rận, rệp, chí, đều sinh sôi nẫy nở rất mau. Em có biết: kinh khủng vô cùng là con gián có thể sống suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Anh quên nói mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn.
                Ayana.- Phải làm sao mà diệt chúng nó chứ anh.
                Tony.- Biện pháp duy nhất là ta phải hy sinh cạo bộ lông, cạo tóc. Không còn chỗ cho chí rận bu bám. Mỗi ngày ta nên tắm gội sạch sẽ, lấy DDT (thuốc diệt côn trùng) xoa đều lên bề mặt da. Làm như vậy cả tuần, thì chí rận mới “dứt điểm”, sẽ chết hết. OK! Đó là phần giải thích của anh là “bác sĩ mu rùa hóc môn”. Em thỏa mãn chưa?
                Ayana.- Cảm ơn chàng. Nhà có quá nhiều kiến. Tại sao Trời sinh con kiến để làm gì? Tả và nói con kiến có công dụng gì. Cho em nghe nhe.
                Tony.– Cô Nương! Coi chừng mùa nóng thường có nhiều kiến nhen. Bọn kiến tinh ranh, khôn đáo để đó em. Trời lạnh lẽo hay sắp chuyển mưa, là chúng biết trước lo dời trứng lên cao, phòng trú trên trần nhà. Trời nóng nó lại chuyển chỗ xuống đất. Vì thế, kiến không tha mình chỗ nào cả. Đâu đâu nó cũng bò tới “thám thính” được. Ngay cả tủ quần áo, khi không còn mùi long não (naphtalin), nó cũng chui vô. Nhất là nhà em có thịt, cá, chất béo, mỡ, mật ong, thức ăn, thực phẩm khô, là có kiến. Vì thế, anh phải cẩn thận với thức ăn. Mệt lắm. Em đọc đi: Ants hate cucumbers. Keep the skin of cucumbers near the place or ant hole. (Trị kiến: Kiến ghét dưa leo. Bỏ võ dưa leo gần chỗ có kiến hay ổ kiến).
                Ayana.- Em hỏi chàng, vậy chứ con kiến có cái đuôi, như những con vật khác không anh?
                Tony.– Ha ha ha!!! Công nương ơi! Đúng nguyên tắc thì con kiến có đuôi đó em à. Hổng phải nó có đuôi rõ ràng như đuôi chó, đuôi mèo, hay “đuôi phao câu gà, vịt”. Em có tin không? Kiến có đuôi, nhưng kiến có hai cái đuôi, chứ không phải một cái đuôi đâu em. Đuôi mọc ngược phía trên đầu. Mà ta nôm na gọi là hai cọng râu. Theo khoa học thì con kiến bài tiết trên các cành cây. Chúng liên lạc truyền tin với nhau bằng hai “cọng đuôi râu” nầy. Nếu loại kiến “cùng chung một nòi giống”, thì nó sẽ có chung một tần số âm thanh như nhau. Nếu khác giống nòi, nó tự động phát ra những tần số âm thanh khác. Lập tức nó dùng càng to cắt đứt đầu đối thủ. Nói chung, loài vật đều có đuôi cả, tùy theo dài, ngắn, to, nhỏ, cụt đuôi nữa.
                Ayana.- Ồ thì ra... cọng râu con kiến cũng “hoá thân” là cái đuôi tinh xảo tuyệt vời đó anh nhỉ! Mấy loài khác, thì em thấy cái đuôi rõ rệt. Còn con ruồi, con kiến, khi xem trong discovery em "nỏ thấy”. Con kiến có thể nâng một vật nặng gấp 50 lần trọng lượng của nó, nó luôn ngã về phía phải khi bị ngộ độc. Kiến không biết ngủ. Anh à, mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn. Vậy, em tò mò về cái đuôi con rắn, thì có ở từ khúc nào nè anh?
                Tony.- Cái đuôi của con rắn, theo anh biết thì tính từ khúc cuối cùng của các đốt xương sống. Nghĩa là từ 1/5 đoạn cuối cùng của con rắn. Đặc biệt ở Thái Lan anh và em đã chứng kiến người Thái biểu diễn màn xiệc rắn. Họ cho người đi du lịch “nhâm nhi” chút rượu thuốc ngâm rắn. Họ cho chúng mình rờ vô chỗ bộ phận sinh dục con rắn đực, nó chia ra làm đôi. Ổng ta nói ai mà rờ được chỗ đó đó, thì lucky lắm.
                Ayana.- Em nhớ ra rồi. Hồi ấy thật thú vị, vui quá anh à.
                Tony.- Còn tính về con người "tiền kiếp"... thì cũng có “cái đuôi” ngắn tủn ngắn tỉn như cục thịt thừa đó chứ em. Họ ưa chà đít xuống đá, để mài đuôi cho rụng đi. Nay mất gốc rồi, vì mọi sự yêu thương truyền cảm cũng từ “cái đuôi” mà phát xuất ra. Phải chăng đó là giây liên lạc mật thiết của con người không ha?
                Ayana.- Anh nầy vớ va vớ vẩn. Bộ cứ “Nhân Chủng Học” là anh tin vào thuyết Darwin, thì loài người xuất thân từ loài đười ươi sao! Họ có cái đuôi rất ngắn. Nhưng sau vài triệu năm, thì cái đuôi của loài người rụng đi?? (Ah! Em lại tưởng tượng giống như con nòng nọc, con thằng lằng rụng mất đuôi!?). Rồi do cái thế đi đứng của loài người mình ung dung, hoàn hảo hơn, nên họ đứng lên, bắt đầu đi bằng hai chân. Chứ ngày xưa như trái đất, thì họ đi bằng bốn chân há?
                Tony.- Vậy ra, em là “cái đuôi” của anh rồi. Anh phải “bảo-trì” thật tốt, cái đuôi yêu dấu của anh nha. Từ nay anh sẽ chính thức phong chức cho em là: “Người công nương quản-đuôi yêu dấu của anh”. Còn anh sẽ là NO của em: Nô nức. Nô đùa. Nô giỡn. Nô bộc. Nô tỳ. Nô lệ. Nô gia. Nô nhân. Nô dịch... No. No. No. Yes. Yes. Yes... của em suốt đời. Chịu chưa Mi Mi công nương nữ hoàng của anh?
                Ayana.- Dạ vâng! Nhưng, anh cho em xin anh cái đuôi ở khúc giữa kia.
                Tony.- Ui Trời! Sao em khôn thế. Nếu em là cái đuôi của anh. Tất nhiên em là hiện thân tình yêu trọn vẹn duy nhất từ đầu chí cuối của anh rồi. Em đã trở thành cái đuôi, mà em còn đòi yêu sách chọn khúc đầu, khúc giữa, khúc nầy, khúc nọ nữa. Thôi xin em hãy bằng lòng làm cái đuôi lý tưởng của con rắn nha! Em biết anh tuổi “Tân Tỵ” mà! Thì rắn đi đâu cũng phải “tha” cái đuôi kéo lết đi theo. Đi đâu rắn cũng “có đầu có đuôi” kéo lê thê lòng thòng cho em bu bám theo cùng. Hà gì em phải lo lắng, chọn khúc giữa cho ấm áp an toàn và chắc ăn hỉ!
                Ayana.– OK Salem!
                Tony. - Yes. Amen!
                - Ha ha ha... Khuya quá rồi, chúng mình ngừng chat hỉ! Chúc em ngủ ngon và nhiều mộng đẹp. Anh hôn em.
                - Em cũng vậy. Good night anh yêu.
                ***
                Tình Hoài Hương


                Mời độc giả xem tiếp chương sau
                Trân trọng
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-21-2019, 10:26 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • #38
                  CHAT Bù Khú

                  Huấn Luyện Phi Hành
                  Phần Thứ Ba
                  Chương 28
                  Truyền Nhân Nam-Khoa-Y
                  (Niệu-đạo-học Urologist)
                  Tình Hoài Hương
                  ***



                  Trước ngày Hoàng Phương Nam (tự Hoàng Năm, Tony) và Hồng Hạnh chính thức trao lời “vĩnh biệt cố nhân”, thì hai người đã vui vẻ chuẩn bị chu đáo cho một ngày đi xa… họ ăn mặc chỉnh tề, đeo kính mát, mang theo hai mũ bảo hiểm. Các bạn đã tụ họp đông đủ ở góc trái trường đại học Văn Khoa, rồi cùng bạn đi thăm Tân. Năm đổ xăng đầy bình, anh chở cô từ Sài Gòn đi lên Nghiã Trang Đô Thành.
                  Cơn triều cường chảy hoài đến khúc quanh cầu Bình triệu, Thủ Đức... vẫn ngập tới nửa bánh xe, mặc dù cơn mưa chiều hôm trước không to lắm, nhưng nước ao tù bây giờ còn tụ đọng. Ồ, đó là nơi nhà ga cũ, nơi xưa kia mỗi lần đi qua đây, Năm và Hạnh ưa bị ngập lụt nước mưa, phải bỏ cả giày dép ra, hai người lội bì bõm dưới nước đen ngòm bùn sình hôi tanh, ngỏ hầu đẫy chiếc dream chết máy, khó khăn nhọc nhằn vô cùng, hì hục mãi không đẫy nỗi chiếc xe nặng như tảng đá. Hai người nâng đầu xe lên cao cho nước chảy ra. Sau đó, hai người gò lưng đẫy xe tới một đoạn hơn cao, có ít nước đọng hơn, Năm đạp xe hoài mãi, thì chiếc cúp từ từ nổ máy. Năm chen lấn đoàn xe đông như kiến đang bì bõm rì mò trong sình lầy, mặc dù nước đọng dâng cao, khách qua đường không ai nhường ai, họ chạy xe mau, khiến nước bùn văng bắn tung toé lên đầy ngực, đầy đầu cô.

                  Chỗ gần gần Gò Dưa luôn bị ngập lụt. Năm chạy xe đến cầu Gò Dưa mới có đoạn đường tốt. Chạy xe mãi đến gần ngã tư xa lộ Thủ Đức, anh rẽ vô lối đi tắt, đi lung tung vòng vèo đến nghĩa trang Đô Thành thăm bạn thân nhất đời đã về cõi vĩnh hằng. Gởi xe xong, khi mặt trời đứng trên đỉnh đầu, nắng và nóng kinh khủng, Hạnh mua một bó hoa, một bó nhang, hộp quẹt, nến. Hai người đủng đỉnh tới ngôi mộ Tân. Kịp lúc ấy nhóm bạn thân cũng vừa đến. Gia đình bạn chọn nơi nầy thật đẹp, chu vi nghĩa trang rộng khoảng 10 hecta thuộc khu đất gò cao ráo, phóng khoáng. Nơi mà hồi xưa Trung-tướng Mai Hữu Xuân đã mua, rồi nhờ ba của Năm đứng ra chăm chút cai quản.

                  Tân nằm trong nghĩa trang nầy (nghĩa trang uy linh tương tự như Arlington ở Washington DC), ấy là một vinh dự to lớn, vì Tân nổi tiếng là một bác sĩ khá giỏi. Trước ngôi mộ anh xây đá cẩm thạch đen khá cao, rất đẹp, bia mộ ghi đầy đủ tiểu sử. Hình Tân chụp vào độ tuổi trung niên coi phong độ, trẻ trung, vui tươi, hiền hoà. Sau lưng bia mộ lớn là tấm bảng đen bóng, trên đó khắc ghi bài thơ tiếng Anh, đại ý:
                  I burst into tears at my birth.
                  Whereas one laughed for congratulations!
                  Now I am brought at an early grave.
                  One mourns over me crying.
                  Only me that I smile quietly.
                  “Lúc tôi mới sinh ra đời.
                  Tôi khóc thét lên.
                  Mọi người đều vui cười hoan hỉ.
                  Nay tôi đã nằm xuống.
                  Mọi người tiếc thương và than khóc.
                  Chỉ riêng tôi lặng lẽ mỉm cười”.
                  (Chuyển ngữ câu tiếng Anh trên, cô không nhớ chính xác nguyên bản lời thơ ghi từ vết khắc trên bia mộ Tân, cô nhờ tác giả bài viết truyện dài nầy tạm viết thay). Hạnh cúi đầu lặng lẽ thì thầm gởi anh Tân lời tống biệt cuối cùng:
                  - Thôi anh Tân ơi! Nếu em có khóc thương tiếc nuối anh. Thì... bây giờ em đành chấp nhận sự thật của tạo hoá ngàn năm an bài: Sinh. Lão. Bệnh. Tử. Sống. Gặp gỡ. Vĩnh biệt, chia tay. Có tựu rồi tan. Có sống rồi chết. Ai ai cũng phải bước qua “cái Ải buồn phiền đau đớn kinh hoàng” nầy! Hạnh thật buồn, và rất qúy trọng anh Tân. Anh biết không? Nhớ ngày đầu tiên cách đây bốn bảy năm, hồi xa xưa rất xa em quen anh … đó là ngày em và anh Hoàng Phương Nam tạm biệt nhau ở trên bến xe Đà Lạt, gần tiệm cà phê Domino. Dù chỉ gặp và trò chuyện cùng anh Tân không đầy mười lăm phút, nhưng em thấy anh vui tính, hiền lành, hóm hỉnh, có duyên, và dễ thương. Có một điều bây giờ em vô cùng nuối tiếc về anh. Vì, sao anh lặng lẽ ra đi quá sớm, trong khi chương trình làm việc của anh còn đầy ắp bề bộn thế nầy? Thật quá uổng. Anh đã làm một chuyện rất tốt đẹp mãi lưu truyền đến ngày nay. Mặc dù anh chết đi, nhưng anh đã để lại một kho tàng vô giá cho y học (nói chung, và cho cánh đàn ông nói riêng). Em nhìn đúng khía cạnh thuần tuý về nghề nghiệp chuyên môn của anh, em không nghĩ là anh Tân “khích dục hay gia tăng độ dâm đãng” như một số người khác đâu. Anh hãy lắng nghe em, anh Năm, Sơn, Hương, Trung và Lan… đã từng thảo luận về việc nầy nè:
                  * Đây là một khía cạnh không kém quan trọng của xã hội. Rất ít ai dám mạnh dạn đề cập đến. Ai cũng sợ nó. Vì nó tế nhị, nhạy cảm (nếu không muốn nói là hơi trắng trợn). Vã lại, nếu đàn ông mà không “làm tròn bổn phận truyền giống thiêng liêng cao cả tuyệt vời” trong điạ vị cuả người chồng đối với vợ. Người nam nhút nhát thú nhận “mình bị bất lực”; thì còn gì là “đàn ông tính”! Ở đây chúng ta hoàn toàn không đề cập đến vấn đề “trai gái lố lăng, lẵng lơ đĩ thoả” nhen.
                  * Khoa Y học NIỆU nầy chính thức công nhận chỉ chừng 20 hoặc 30 năm nay. Gọi đó là: Nam Khoa Andrology - được phơi bày rõ ràng ra dưới lăng kính Y Học nghiêm túc, đứng đắn, đàng hoàng, cần thiết rất khoa học - (chứ không phải dưới lăng kính kích dục, cường dục, hay... dâm đãng, điếm đàng cuả thói trăng hoa đĩ thoả vui chơi). Trước kia, chỉ có khoa trị liệu về các bệnh liên quan về Niệu. Còn chuyện kín đáo riêng tư “tế nhị phòng the” giữa tình yêu đắm say vợ chồng, thì ai ai cũng sợ bị lộ ra. Họ sợ nói ra chuyện ái ân thì... người khác sẽ chê mình… “phóng đãng dâm tặc”.
                  Năm có một phần suy nghĩ trong vấn đề nầy:
                  - Nhất là một số các bà vợ cho rằng: do chồng mình ưa bay bướm, đàng điếm, ăn chơi, sa đoạ, mà ra nông nổi, thì “bị liệt”. Chứ gì!?
                  Nhóm bạn nam nữ ngẩn ngơ nghe Sơn phản đối kịch liệt:
                  - Tầm bậy nữa rồi. Khoa nầy hiện nay đã chứng minh được sự cần thiết của môn y học. Do dân số trên thế giới đa số trên 65% đã rơi vô tuổi khá cao, nếu chưa muốn nói là già. Còn lại 35% là tuổi trẻ. Do đó những vị cao tuổi của NAM và NỮ, đều cần thiết là dùng Andrology. Nếu, họ muốn có cuộc sống gia đình hạnh phúc lứa đôi trường tồn.
                  - Em nghĩ anh Tân chọn ngành Y nam khoa nầy, chỉ vì xu hướng cá nhân. Vì chính anh Tân đèo bồng một lúc ba bốn bà. Nè: hai bà vợ lớn, bé. Cộng thêm hai bà bồ hờ kia nữa, là gì!?
                  - Không đúng đâu. Trước kia, Tân chỉ là một bác sĩ đa khoa giỏi. Vấn đề bạn Tân theo môn Nam Khoa, không phải tự ên do Tân hứng khởi đề xướng ra, (nhất là ở Việt Nam có phong tục tập quán cổ kính khác biệt hẳn Tây Phương). Mà là do một vị giảng sư đại học Y khoa: Lichsteinberger - là tên của vị linh mục khả kính trong dòng Tên, ông ấy là một bác sĩ rất tài ba, xuất chúng trên nhiều lãnh vực y khoa. Sự trở về ngành chuyên môn là do Tân tình cờ mà thôi: Lúc ấy có một bác-sĩ giảng-sư dòng Tên, khi cùng làm việc trong bệnh viện ở Việt Nam, ông ta đã khuyên Tân:
                  - Anh nên chọn về ngành Y-Nam-khoa. Vì cánh đàn ông các anh rất thiệt thòi. Anh có điều kiện, nên lưu ý về khoa đặc biệt nầy. Tôi hy vọng anh sẽ phát huy y-học Nam-Khoa tốt, để giúp nam giới trong vấn đề tình yêu vợ chồng.
                  Thế là sau khi về Pháp, vị linh mục đó gởi cho Tân những tư liệu, tài liệu, sách vở chuyên môn, để Tân nghiên cứu, nghiền ngẫm, học hỏi thêm. Ông bác sĩ dòng Tên ấy nghiên cứu kỹ về những cặp vợ chồng, về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội. Do thực tế là ông ta hoàn toàn không có điều kiện để phát huy hay thực hành. Vì vậy, ông ta truyền đạt vấn đề nầy cho môn sinh giỏi nhất. Tấn làm “truyền nhân” nghiên cứu kỹ càng. Thành thật mà nói: Không biết bao giờ ngành Y học Việt Nam mới có được một bác sĩ khác được kết nạp vô E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới). Vậy thì, em không nên nghĩ đó là chuyện “kích dục dâm ô”.
                  Lan góp ý:
                  - Em chưa đồng quan điểm với các anh... về việc nầy tí nào cả.
                  Trung nhìn vợ:
                  - Tại sao em cứ nhìn “nó” với bản năng tầm thường bé nhỏ của một người đàn bà ru rú thu mình trong trôn ốc? Như con ốc len rụt rè nhút nhát thò ra thụt vô? Mà em không chịu vươn mình lên đỉnh cao của y học, nghệ thuật, và sự thật!? Anh hỏi em: Tại sao nữ giới đã có phụ-khoa, có sãn-khoa? Trong khi đó người đàn ông không nhiều thì ít, cũng bị “trục trặc” yếu xìu về vấn đề ấy, thì họ lại không được phép đi khám Nam-khoa? Theo như thống kê gần nhất, đàn ông từ 40 -> 60; 70; 80 tuổi - đa số bị trục trặc đến 65%, 85%. Mà chả có môn y-học nào để chuyên trị! Hở? Không công bằng.
                  - Có phải anh gián tiếp khuyên em: Hãy cứ nhìn vấn đề Nam-khoa một cách khoa học, chính chắn, lành mạnh. Em sẽ thấy nó bổ ích cho nhân loại. Chứ không phải để cánh đàn ông lợi dụng điều đó mà đi “ăn chơi” trác táng nơi ổ tú bà chắc?
                  - Ứ ừ, nó phục vụ cho sự hoà hợp gia đình giữa vợ chồng. Em cứ nghĩ anh như vậy, thật oan ơi ông địa! Đó là quan niệm chung của một số ít phụ nữ có chút mặc cảm về chồng mình bay bướm.
                  - À ra thế! Vì lúc đề cập đến chuyện nầy, có không ít đàn bà Việt Nam “kín cổng cao tường rất khó nói”. Biết thắc mắc cùng ai? Ngày nay Tân đã dày công nghiên cứu y học, mạnh dạn phổ biến trong Nam-khoa chuyên về Niệu-đạo-học Urologist nè!
                  - Đúng rồi Hạnh ạ! Ta hãy cùng nhau nhìn vô lăng kính Y-Học mà tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm lại em nhé! Anh công bằng, lấy công tâm ra để cùng nhau chia sẻ, tâm tình, tìm hiểu. Nói về vấn đề tế nhị, anh không có ý tranh chấp chuyện nầy với em. Hoặc bất cứ với ai gì cả. Nhá.
                  - Dạ vâng! Thưa ông tướng!
                  Năm hóm hỉnh nhìn người yêu:
                  - Ông... Tướng gì nào?
                  - Tướng công E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới) đó!
                  - Vậy, em sẽ là nữ “trợ tá đắc lực của Urologist”. Nhen.
                  - Ha ha! Hổng dám đâu. Thưa Tướng công E.D.A.C.T. Nay họ đã già lắm, cuộc tình giữa hai người: thật ra chỉ là an ủi, sẻ chia trên phone khi vắng xa nhau, thân thiết, nồng nhiệt, vui vẻ, nâng vực nhau những lúc gặp muộn phiền, thất vọng nào đó. Chúng ta nói chuyện đôi khi ba xàm ba láp, mà ân cần san sẻ, có chút xí vui vui và hữu ích. Cho đến một ngày nào đó… có một trong hai người vĩnh viễn nằm xuống, đành đoạn rứt áo ra đi... Thế thôi.
                  ***
                  Nói rất thật tình thì Hạnh không hề ưa thích gì bà Hoà (là bà vợ bé của bác sĩ Tân). Vì cô cho rằng: Bà Hoà giựt chồng người! cô nghĩ cánh đàn ông các anh ưa bênh vực nhau. Nhất là Sơn, Năm, Trung, họ với Tân thân thiết từ hồi còn bé tí, họ coi nhau như ruột thịt. Kể cả con nhỏ Sáu (cháu ruột cuả bà Thủy) đã ngồi nói chuyện về mấy anh ấy và bà Thuý thế nầy:
                  - Cháu kêu bà Thu bằng dì, cháu mới thấy thấm thía nỗi đau của dượng Tân. Chỉ vì dì Thu và dượng thuở còn non trẻ: đã bồng bột vội vàng làm đám cưới. Khi họ chưa thật sự thấu hiểu nhau, khi làm vợ chồng rồi, họ mới lộ ra cả trăm điều trái ngược, mà không ai có thể ngờ! Nhất là sau nầy khi dượng Tân đã thành danh trên đường đời. Dượng càng không thể chấp nhận có một người vợ kém cõi thấp sút từ mọi mặt. Lỗi ở dì Thu không biết ngọt ngào chia sẻ với chồng, dì càng không đảm đang vui vẻ tháo vát. Theo cháu nhận xét thì: dì Thu vốn là cô gái nông thôn hơi nhà quê, ít học. Vì thế lối ăn nói cuả dì thiếu suy nghĩ, xử trí kém cỏi, không tế nhị, vô duyên, lại có chút trẻ con, lười biếng và vô trách nhiệm. Ở nhà dì ưỡn ẹo rông rống ngồi chơi xơi nước, dì không làm gì cả. Nhàn cư vi bất thiện mà! Có tật xấu là khi dì Thu tức giận, thì chuyên môn đi ngồi lê đôi mách nói xấu người nầy, nhún vai chê trách người kia. Dì Thu chẳng chịu đi chợ búa cơm nước gì, chồng đi làm về luôn đói meo. Thế là dượng bỏ nhà “đi ăn…” mệt nghỉ. Trước tiên là “tốn tiền”, sau đó lây lan qua “tốn tình”! Dì nói:
                  - Tội gì chợ búa cơm nước chi cho mệt. Ổng làm tới chức bác sĩ, bác sĩ thiệt à nghen, có nhiều tiền ổng cho gái ăn cũng vậy. Tui cứ kêu người ta bưng cơm tháng, tội gì tui chui vô bếp cho khổ! Ổng đi… coi kià:
                  Đi đâu? Nay mới về nhà???
                  Có thấy xó góc chổi chà dựng bên
                  Tôi hỏi: [“chỉ một mình ên
                  Sao mà thì thọt góc thềm làm thinh? (*)
                  Hạnh ngậm ngùi nghe cô cháu gái cuả bà Thu kể tiếp:
                  - Cộng thêm tính ghen là số một, dì Thu làm mất danh dự chồng không kể xiết. Đúng ra, dượng rất mất mặt với bạn bè khi mang vợ ra ngoài xã hội giao tế. Dì Thu luôn đốp chát những câu thiệt vô duyên, như gáo nước tạt vô mặt bạn. Sau nầy, dượng gặp bà Hoà thì khác hẳn. Bà Hoà là y tá, Tân yêu bà Hoà thông minh, tế nhị, khôn ngoan, đảm đang, vui vẻ. Có thể nói Tân rất hãnh diện vì đã gặp và yêu bà Hoà (làm vợ lẽ). Vì thế, thời gian sau dì Thu cứ buồn xo “ngồi trong bóng tối”.
                  Cô liếc nhìn anh Sơn (bác sĩ gia đình) Sơn dò hỏi. Anh gật đầu:
                  - Ừa, Sáu nói nghe thật lạ lùng! Vậy mà thật đó. Bà Thu có ba đứa con với Tân, nay con cái khôn lớn, thành đạt cả. Các con Tân rất yêu mẹ. Tân đã tạo cho bà Thu có cái nhà tươm tất, có cửa tiệm để mẹ con sinh sống. Đặc biệt là Tân chưa hề ly dị với bà Thu. Trên pháp lý mọi tài sản đều là của Tân (Tân chưa làm di chúc để lại). Theo anh nghĩ có lẽ Tân không ngờ... Nên, em đừng nghĩ rằng bà Hoà “cướp” hết nha: Chồng, và hai tài khoản: Một bank tiền Việt Nam. Một bank tiền USD. Bà Hoà chỉ giữ mấy quyển sổ ghi bệnh nhân của Tân thôi. Bà Thu vợ chính thức mới là người thừa kế tài sản (khi Tân nằm xuống xuôi tay, ba đứa con cuả bà Thu rất tốt, đã xúm lại thuyết phục mẹ chúng, nên làm giấy ủy quyền (vợ lẽ cuả cha); là cho bà Hoà có tiền nuôi hai đứa em nhỏ cùng cha khác mẹ. Bà Thu rất thân với bà vợ cũ của Năm. Hai bà có những tính giống nhau, nên mỗi lần gặp mặt, là họ xúm lại chưởi Năm và Tân ác liệt. Thật oan uổng và tội nghiệp lắm em! Hãy lấy công tâm mà xét xử công bằng đi.
                  - Thì anh cũng kinh khủng không vừa gì! Chắc anh muốn nói: Tình yêu chân thật phát xuất từ hai trái tim đồng điệu, thông cảm. Thì sự cần thiết ấy không có tội, có lỗi. Phải không nà?
                  - Thôi em! Moi móc làm gì. Chuyện buồn mà! Anh không muốn tranh luận với em điều nầy. Có thể em nghĩ anh không công bằng, thiên lệch; khi anh chỉ đến thăm mẹ con bà Hoà, mà hầu như ít đến thăm mẹ con bà Thu (vợ chính thức). Nếu em biết sự thật, em sẽ thấy anh có lý. Tân cũng “đào hoa” ra phết đó em à. Ai có ngờ con người coi có vẽ chậm chạp, lù đù, hiền lành, ít nói. Thế mà có khối bà, khối cô mê Tân tít thò lò! Kỳ xưa, anh ta bị “hai bà: vợ lớn, vợ bé” đuổi Tân ra khỏi nhà, chỉ vì anh ta có thêm “bà Ba” nữa mới chết! Tân phải đi lang thang ngoài phố, ăn cơm quán, ngủ hotel suốt một năm. Ấy là vì hồi đó Tân lại cặp một con bồ xinh xắn luôn xà nẹo bên Tân. “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo. Ba vợ ra chuồng heo mà... nằm”. Hồi đó Tân định thuê nhà để “bà thứ ba” đó về ở chung nữa, mới ghê.
                  - Trời! Thì hồi đó chính Sơn thuê nhà cho Tân ở đó mà. Cả đến bây giờ, khi Tân chết rồi, lại có cô bác sĩ trẻ măng mê Tân hết sức. Lúc sắp sữa liệm Tân, cô ta chạy ra ngoài ôm mặt khóc nức nở! Cô bác sĩ nầy trẻ lắm, chỉ hơn con của Tân ba tuổi là cao. Tôi có biết cô ta. Theo tôi nghĩ có lẽ do cô ấy quý trọng tài năng của Tân, thì đúng hơn. Nghe chị nói, tôi mới té ngữa ra. Ai dè cái bề ngoài Tân đạo mạo, nghiêm trang. Mà ẩn chứa trong lòng những “sống động tình cảm cuồn cuộn sôi sục cồn cào” chứ. Có điều làm sao mà anh ta “dàn xếp” tuyệt hữu khi chia tay với bà nầy, hẹn hò chung sống với bà kia yên ổn ha. Dù họ:
                  BA BÀ đấu khẩu bên thềm
                  Nạt nhau đừng có vác mền giữa đêm
                  Lưng dài cao cẵng lại thèm
                  Suốt đêm anh lỡ say mèm “Phở, Bia”
                  Cơm không thể nuốt "ôm bia mộ” buồn!!! (hê hê hê!!!)
                  Lỡ "khiêng về" BA vợ khùng!!!
                  Bởi vì: Bà (1) nói lung tung,
                  Bà (2) trợn mắt. Bà (3) lủng củng trong mùng
                  (*)
                  Lâm cười cười:
                  - Có lần đám bạn gặp nhau, Tân mời chúng tôi đi ăn cơm rồi giành trả tiền. Tân moi trong ngăn bóp tờ một trăm xếp nhỏ xíu, nhét kỹ một góc kín.
                  - “ÔNG ở góc phố cuối vườn. Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao”! Nhưng bây giờ chết đi, Tân chả mang theo được đồng nào. Thậm chí mấy nút áo, nút quần, cũng bị lặt ra để lại trên trần thế. Theo tục lệ Việt Nam, họ nói phải cắt hết mọi thứ để lại, không có đem theo sắt đá nút neo gì hết. Xác mới nhẹ nhàng, dễ siêu thoát. Tuy vậy Tân chết đi, còn để lại mối ưu phiền cho hai bà vợ, cùng bầy con hai dòng máu một cha khác mẹ, quả thật là rất buồn! Thiệt!
                  Xét cho cùng, Hạnh vẫn thấy thương bà vợ lớn hơn. Bà lớn tất nhiên không khôn khéo, thất học, không biết cư xử, không biết cách giữ chồng, (như lời cô Sáu và Sơn nói). Nên bị người khác giựt chồng là phải! Vì bà lớn quá yêu chồng, sợ mất chồng, nên “kè kè giám sát” từng hành vi, cử chỉ chồng. Khiến anh ta nổi giận vì sự ràng buộc khắt khe quá mất tự do, mà... xa! Còn bà nhỏ lanh lẹ, khôn ranh hơn là ngoan, có học, tinh tế là có chủ đích cả! (như lời anh ca tụng). Bà Hoà rất biết Tân có vợ con “đình huỳnh”. Nhưng bà ta ngầm ngầm ma lanh câu móc chiều chuộng chồng người. Vỗ về an ủi chồng người! đương nhiên nhào vô giựt chồng người... Anh cho là... là phải nốt!?
                  - Thôi, dù sao cũng là chuyện nói cho vui, chứ chả còn gì! Giữa hai bên chỉ là khoảng trống mênh mông. Thấy tội cho mấy đứa nhỏ con cuả hai người đàn bà: chúng cũng là anh chị em ruột cùng cha khác mẹ, mà hai bên chưa bao giờ quen biết nhau, từ xưa đến bây giờ, và mãi mãi... Họ đứng trên hai “chiến tuyến” khác hẳn nhau.
                  *
                  Tình Hoài Hương

                  (*) Thơ Vui Tình Hoài Hương
                  Kính mời độc giả xem tiếp chương sau.
                  Trân trọng
                  *
                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-17-2020, 06:55 PM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • #39
                    Tìm Về Hương Xưa


                    Huấn Luyện Phi Hành
                    Phần Thứ Ba
                    Chương 29

                    Date: Mon, 15 Jun 1998 00:15:34 -0700 (PDT)
                    From: "Tony Dautry khanhson21Saigon"
                    Add to Address Book Add Mobile Alert
                    Subject: Thư mang số # 4001 * Anh trao em: lời tuyên xưng tình yêu.
                    To: "wit" < tio1@yahoo.com >
                    *
                    Tìm Về Hương Xưa
                    Tình Hoài Hương
                    ***



                    Em "Mun" yêu ơi! khi anh đọc những câu chuyện tiếu lâm sưu tầm, lượm lặt trên báo chí, không thể nhớ hết rất vui… Ồ! những chuyện ấy dường như giống y chang câu chuyện đau khổ của “thằng tôi” thế nầy: *Sáu tuần đầu: - Anh yêu em, hy vọng em sẽ thích sợi dây chuyền anh tặng. Trông em như thiên thần trong bộ đồ này. Mình sẽ đi nghỉ vài ngày ở nơi nào đó em thích. Chúng mình cần một phòng là đủ. Không nghe em nói, anh nhớ lắm. Ở cạnh em là anh vui rồi. Giọng em cứ líu ríu như chim hót ấy, anh nghe cả đời không chán. Em có đói không, em thích ăn gì, anh chạy xe đi mua về cho. Món ăn có vị hơi lạ, nhưng là sản phẩm của chính tay em làm nên, thật tuyệt vời. Mỗi ngày một lần, suốt đời em nhé.

                    * Sáu năm sau: - Lương đây, muốn mua gì tự đi mà mua. Suốt ngày quần với áo. Cần có bốn phòng mới được. Du lịch làm gì, ở nhà có chết ai. Im lặng một lúc không được à, sao cứ quàng quạc như vịt suốt ngày thế nhỉ, không biết mệt à? Em đi một mình được rồi. Ăn gì mà ăn lắm thế, người ngợm béo ú lên kia kìa. Nấu ăn thế này ai nuốt nỗi hả trời, vợ với chả con. Để yên cho tôi ngủ, khều khều cái gì. (Quang Tri).
                    Thì... thằng đàn ông trong anh bắt đầu có ý muốn trở lại cuộc sống thảnh thơi thuở xa xôi lúc còn độc thân, ngỏ hầu có sự thoải mái vùng vẫy tung tăng tự do từ thuở còn là sinh viên đầy nhiệt huyết và thanh nhàn. Ngày ấy sao mà vui vẻ, an hoà, hồn nhiên đến thế! Anh vẫn xót xa nhớ về những ngày tháng: Xuân, Hạ, Thu, Đông lúc “yêu hương xưa của tôi” đậm sâu, vì mối tình của “chàng PH với nàng HH ấy” trong sáng, hồn nhiên, an lành, ngọt ngào xiết đỗi.

                    Anh nhớ những con thác cao chảy xối xả xuống lòng thung, những cội thông xù xì thân vút cao, cây đan cây cành đan cành sừng sững đứng thẳng tắp reo vi vu vui tươi trong gió rì rào. Anh nhớ những buổi chiều mùa Thu trời vẫn vũ mây xám ảm đạm, có áng mây vàng phơn phớt tim tím lãng đãng bay bay dưới chân núi. Rồi mây lã mình nằm im trên đỉnh Lâm Viên, từng bè mây bồng bềnh lờ lững trôi trôi… chờ đợi ánh sao hôm về vần vũ ôm lưng đồi. Gió hiu hiu và mây lãng đãng rủ nhau về qùy gối trên mặt hồ im sóng. Có ngày trời Đông vần vũ mây xám, từng cuộn mây nặng trĩu tà tà bay lướt thướt quấn quít ngang đầu người, cơn mưa phùn lăn tăn li ti, nhỏ lí tí như bụi phấn nhẹ tênh bồng bềnh nhấp nhô uốn lượn trong không trung, mưa âm thầm đậu từng lớp mỏng tanh trên mái tóc lữ hành.

                    Anh nhớ tháng nầy qua năm khác tiếp tiếp, núi đồi Đà Lạt hùng vĩ điệp trùng cao ngất, ngút ngàn, mướt xanh. Thấp thoáng nhiều mái nhà mờ mờ ẩn hiện trong hơi sương bàng bạc, nhạt nhòa, những con đường mòn đất nâu vàng uốn quanh co sau lùm cây bướm bạc mong manh, và bụi sim tím ẻo lả đong đưa. Thành phố núi cây đan cây điệp trùng vòng vòng quanh quanh co co, nhấp nhô uốn lên uốn xuống chập chùng như lượn sóng. Anh tưởng tượng ra “chàng cùng nàng” đang thì-thầm bên nhau. Và, này em yêu! Chính những giờ phút u hoài, trầm lặng, một mình anh lặng lẽ trầm ngâm trước ly cà phê đen như cuộc đời mình, thì anh mới cảm thấy quá chua chát, ân hận xót xa biết bao em ơi! Khi anh muộn phiền cô đơn, lạc loài, ray rứt đau buồn, anh chỉ biết mơ về em, nghĩ về em, rất nhớ em, nhớ mối tình đầu tiên trong sáng, nên thơ và romantic khó quên trong đời anh vô vàn.

                    Em ôi! Thật thế, anh nhớ và vẫn yêu em biết bao! nhớ mùi hương xưa đằm thắm xiết đỗi trìu mến. Tự trong đáy lòng anh, tự nơi sâu lắng nhất của tâm tư, tiềm thức anh trỗi dậy tiếng nói thì-thầm, hân hoan vui thích, rồi than van áo não dày vò trong tuyệt vọng. Con tim anh đau xót, muốn vỡ tan ra trăm ngàn mãnh, dù biết chúng mình trót trao niềm đau chia ly: là đã thật sự vĩnh biệt nhau nghìn trùng mất rồi! Thế mà từ ngày ấy đến nay anh đâu có ngờ… anh vẫn lặng lẽ đi tìm kiếm em, tìm dấu chân buồn tênh trên lối cũ nẽo xưa. Anh bồi hồi cười một mình, khi đôi mắt anh vô tình có giọt nước mọng ướt rung rinh trên mi, (có phải anh đa tình lãng mạn quá không em?), như giọt mưa lãng vãng làm chao đảo lưng trời xám xa xôi ngày ấy: Vào một ngày nào đó thuở trước, anh và em đã dạo bước dưới mưa, hai đứa bị ướt hết áo quần. Mưa rơi lộp độp êm êm trên chiếc dù xanh lục khi anh và em cùng che chung, dưới mưa mình âu yếm trao nhau mấy nụ hôn say đắm nồng nàn, hân hoan. Sau đó vui cười chọc ghẹo nhau. Anh đã nói:
                    - Đó là do chúng mình gọi mưa đến để xin những giọt nước long lanh, tạo thành những nốt nhạc ru tình về ngủ quên trên bờ vai đôi ta mà em.
                    - Do trời ưu ái ban tặng giọt ân tình cho mình há anh. "Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách" của cụ Đàm Thận Huy. "Sắc bất ba đào dị nịch nhân". "Mưa không có khóa mà có thể giữ khách". "Sắc đẹp chẳng có sóng nhưng dễ làm người ta chết đuối" do ông Nguyễn Giản Thanh (đỗ tiến sĩ cuối đời Lê) làm câu đối với cụ Huy, hay quá anh nhỉ. Nhưng mà em thấy anh ca... không giống ông Giảng Thanh, mà anh ca cải lương với em, có phần phụ hoạ từng cơn mưa phùn đó.

                    Em! Có còn nhớ về ngày ấy không hở?! Nay thì, anh mang chiếc dù đen to thô cứng, nặng trĩu ưu phiền trên vai, và trên tấm lưng mình còng xuống những cố gắng vĩ đại. Một mình anh đi trên con đường Sài Gòn ngập đầy nước mưa (trộn lẫn sình và nhiều rác rưới) ào ào trút xuống thành những vũng bùn chảy ven kinh Nhiêu Lộc, làm ướt sũng đôi chân mình do dự ngập ngừng mỏi mệt. Anh đi trong hiện tại, mong tìm kiếm một hình ảnh cũ quen thuộc trên lối mòn xưa. Dù anh biết là không thể nào! Em ơi! anh khóc thầm, tiếng nấc khô không một giọt lệ, không nức nở. Cảm thấy đau khi anh tự lừa dối mình, anh muốn ru lòng tịnh yên. Hầu như trọn đời, ngàn năm anh luôn đi tìm hạnh phúc mới ở đâu đó. Rất có thể xa xăm đến cuối một đời người… nhưng có lẽ anh sẽ không bao giờ gặp?!
                    ***
                    1994 - sau bao năm dài đằng đẵng chia xa cách biệt em, nay anh “mạnh dạn” gò lưng trên ghế, tay đặt trên bàn phím để hồi hộp gõ cho em E-mail nầy: Dù thời gian lặng lẽ trôi đi, cùng bao nhiêu biến đổi thăng trầm uốn khúc trong cuộc sống chất chồng, bao năm buồn vui đau đớn không có cách gì tả xiết. Thế mà vượt cả đại dương mênh mông, cả một quãng đời lê thê quá dài! cả một cuộc đổi thay kinh hoàng về muôn mặt! cả sự chia xa nghìn trùng! Ấy thế mà... cuối cùng anh và em còn gặp lại nhau. Thú vị xiết bao. Ôi! Tuyệt vời làm sao! Bao nhiêu thăng trầm ngày xưa như cơn bão thổi qua đời, nếu chúng ta có nhắc lại đôi điều về quá khứ tiềm ẩn trong trà qua vị chát, chút ngọt và thanh nơi cuống cổ pha xí đắng, thì đó là kỷ niệm buồn vui xếp lớp lăn tăn, cũng là dĩ vãng dịu êm, để chúng mình chờ đợi ngày mai tươi sáng huy hoàng, tốt đẹp hơn.

                    Bấy giờ đã có anh, có em, có tương lai, cuộc đời của chúng mình trong happy ending! Phải không em? Ngộ quá, anh nghĩ mãi không ra: khi anh ở Mỹ thì em ở Việt Nam, từ lúc anh trở về quê hương, em lại leo lên phi cơ dông đi Mỹ. Cũng giống như anh không còn mang tên cũ, mà kể từ khi trở về Việt Nam, anh làm rắn “lột xác” đã có tên từ lúc cũ mèm Hoàng Nam Tony từ hồi bé tí xiú. Và em bay qua Mỹ lúc vô quốc tịch lại “thay da đổi thịt” thành Jacqueline Ayana đó thôi. Huề nhen.

                    Em ơi! Bây giờ xin nói về chuyện riêng cuả gia đình anh chút xíu nhen em: Mới có mươi năm lạnh lùng trôi qua, mà cuộc sống gia đình nầy cuốn phăng đi tất cả, xô mỗi người về mỗi ngả tách bạch, chia lìa. Có chăng, chỉ mờ nhoà hình ảnh thu nhặt được bức biếm hoạ khổng lồ lặng lẽ lướt qua dòng đời. Mà, bốn bàn tay run run cuả “hai đứa nầy” không thể vun xới hạnh phúc, không thể níu kéo dĩ vãng về bên khung cửa gia đình mình ấm áp hơn. Một lần kia sau khi đi làm về, vô tình anh gặp bọn Bảo, Điều, Trương Anh, “Bích đen” ở Đà Lạt hồi xưa… Thế là anh cùng chúng nó rủ rê nhau vô động hút. Dạo trước, trước khi lấy vợ, anh chỉ đi nếm thử món nầy, hút chút chút cho vui, không ghiền. Nhưng sau nầy, khi đã có vợ, có con, do đau buồn vì cá tính vợ chồng khá trái ngược nhau; anh lại gặp bạn cũ “quá tốt, tốt phát ghiền" trì kéo rủ rê, nên anh không thể kềm chế bản năng tình cảm ủy mị yếu hèn và nhu nhược (!?). Anh muốn lẫn trốn hiện tại, không thích bị khống chế hay ràng buộc bởi mệnh lệnh của bà vợ, nên buông thả đời mình, anh đi hút thuốc phiện giải khuây mỗi ngày, riết rồi đâm ra ghiền nặng. Than ôi!

                    Anh nhớ thời kỳ anh còn du học bên Mỹ. Vui sao là quá vui em à. Bây giờ sau khi anh có vợ con, thì còn gì nữa? Mất hết tất cả rồi! Tháng ngày lặng lẽ trôi qua, anh gượng sống trong sự đau khổ tột cùng từ gia đình nhỏ nầy. Anh ước mong sao giông tố chóng qua, vợ chồng anh cố gắng vươn lên, sẽ có dịp tìm hiểu, chí tình chia sẻ và thông cảm, thấu hiểu nhau hơn. Nhưng không có được mấy ngày vui? Hay gia đình nầy sẽ như chiếc thuyền nan lỏng lẽo, bồng bềnh lênh đênh trôi trên cơn cuồng sóng đầy vũ bão, mà vỡ tan lúc nào chẳng biết!? Định mệnh đã chơi xỏ anh một vố khá đau, không biết bao giờ “nó” mới buông tha anh trong cái khuôn đúc nhiều đau khổ, sóng gió và thử thách? Không gì đau hơn khi bà vợ muốn ngự trị chiếm hữu chồng trọn vẹn: từ vật chất, thể xác đến tâm hồn của anh, vì:
                    Tình vợ mà có muôn đời.
                    Phải nhường vợ chức "đương thời quan gia".
                    Muốn vợ trẻ mãi không già.
                    Lưng ta chắc phải như là "parabol".
                    Tính chất vợ thì phải tuân.
                    Kẻ làm lính phải luôn luôn thật thà.
                    Nấu cơm, đi chợ, quét nhà...
                    “Quan” gọi thì dạ, bẩm bà có ngay.
                    . (Biendong07)
                    Bà vợ "làm bá chủ" không cho ông chồng nhúc nhích cục cựa mảy may à. Vợ ép chồng vô con đường cùng, không lối thoát, bà ta muốn khống chế anh trên mọi lãnh vực. Bà không dành cho chồng một khoảng trống tự do thoải mái nào. Vợ không thấu hiểu cho chồng là anh rất cần có chút riêng tư trên nhiều phương diện (mà bà vợ ấy không nên xen lấn vào). Thế nhưng đôi khi anh nghĩ: bởi vợ có những hành động như thế, là cũng có phần đúng trong cung cách của một người vợ yêu chồng thật. Tuy nhiên, vợ anh không khôn ngoan mềm mỏng tế nhị, khiến lòng mình có những phản kháng đi ngược lại lời yêu cầu của bà. Thế là từ đó vợ chồng sống trong một bi trường kịch, hai người không thấu hiểu nhau, chẳng thể thông cảm, hiểu ý và chia sẻ lẫn nhau.

                    Thật đau khổ kinh khủng cho cuộc sống chung nầy! Mặc dù, có thể là cả hai người đều cố gắng dùng hết nỗ lực, hầu đưa gia đình mình ngoi lên từ bậc thang hạnh phúc dù đơn sơ, tầm thường nhất, cố gắng hàn gắn vài nụ cười thân thiện, trìu mến, ân cần, để bay tới một tuyệt đỉnh yêu thương chân thật, trang trọng hơn. Khốn thay! dự tính ấy không bao giờ trở thành sự thật, khi hai người ra toà xé giấy hôn thú, như quăng bỏ đời mình vô sọt rác, dù ba đưá con gái gào lên trong vô vọng. Người đàn bà có yêu chồng, mới ghen. OK! Có nhiều cách ghen:
                    1- Ghen -khôn ngoan tế nhị kín đáo- để bảo vệ hạnh phúc và không làm mất danh dự gia đình. Rất nên.
                    2- Rất yêu chồng, nên em dịu dàng âu yếm và nũng nịu. Không muốn chồng "ngựa cũ quen đường xưa". Tốt lắm.
                    3- Ghen đằm thắm ân cần khuyên bảo chồng, để đem lại vinh danh cho chồng.
                    4- Ghen - để rồi đem đến cho chồng sự nhục nhã ê chề, chưởi bới mầy tao, con nầy thằng kia xối xã, mất mặt chồng giưã đám đông. Không nên.
                    Ghen- vì chồng "quá quắt" lắm, khiến vợ bị tổn thương tình cảm - người vợ không tôn trọng người chồng. Ghen: vì chồng có làm sao, vợ mới ghen dữ dội- "không có lửa làm sao có khói"! Nếu chồng chung thủy không trăng sao bay bướm, thì vợ biết ghen với ai đây!? Anh nghĩ em là người khôn ngoan đằm thắm, thông minh tinh túy dịu dàng trong tình nghiã vợ chồng, hẳn là em sẽ chọn cách ghen từ số 1, số 2 và 3. Phải không nào!? Em hoàn toàn ngược lại với bà vợ cũ cuả anh, bà chỉ chuyên chọn cách số 4.

                    Thật ra bà ta chỉ làm màu làm mè việc ghen tuông cho có lệ mà thôi, vì vừa ly đị ngày hôm trước, thì hôm sau bà ta đã kéo ông bồ nhí trẻ hơn bà 13 tuổi về ở trong nhà (bà ta đã kiếm cớ dọn đi khoảng 8 tháng trước). Anh và ba đứa con gái cứ tưởng tên con trai kia về ở đó, là để cua con bé Hai, vì tên bồ nhí kia chỉ hơn con đầu lòng cuả bà ta mấy tuổi. Nào ngờ... sau đó một già một trẻ "sản xuất" một thằng cu đỏ hoe, thì cả nhà anh mới té ngữa ra!
                    ***
                    2005 - Khi em đọc lá thư nầy, ấy là lúc em cùng chiếc phi cơ 747 vỗ cánh bay về vùng “thiên đàng cũ”, bỏ lại sau lưng em khung trời thân thiết vô vàn nhung nhớ! Bây giờ em trôi bồng bềnh trên mây, trong khung trời tự do, đôi mắt em đã đẫm lệ, hàng nước mắt chia ly lăn dài trên má. Em yêu! Khóc không quan trọng,
                    vì điều cần thiết là: em biết lau sạch nước mắt, để tìm một giải pháp thích ứng phù hợp để tự vươn lên. Đừng buồn thương mà chi. Em cứ ra đi ươm mộng, vun đắp cho tương lai đôi ta, cho những gì mình xây dựng mơ ước & rồi em hãy quang rạng trở về. Và, anh sẽ chờ đợi, như anh đã từng chờ em dưới những cơn mưa phùn mùa Đông ngày xưa trên xứ hoa đào. Anh sẽ chờ, chờ em mãi đến lúc bạc đầu răng long. Cho dù hẹn nhau đến kiếp sau, anh vẫn chờ. Cứ tin anh đi em.

                    Anh tự an ủi: Thiên đường tình yêu ở trần gian không thể vĩnh cửu, thời gian vừa qua chỉ là những giờ phút vay mượn, là sự an ủi đền bù sau bao năm ly biệt. Nhưng thôi em ơi! Anh mãn nguyện lắm rồi. Cứ như một phép lạ đã xảy ra trong đời anh. Em đến! mang sự sống mới nơi anh, mang lại một khung cảnh tuyệt vời, cùng những giây phút say đắm vun đắp cho tương lai, cho những gì mình xây dựng mơ ước, mặn-mà, cuống quít, nồng nàn, hụt hơi. Anh nghĩ giá mà anh có đột ngột từ giã cuộc sống trong vòng tay em êm ái, anh chẳng ân hận. Ngược lại, có thể đó là diễm phúc nhất đời mình.

                    Anh đang là là chơi vơi trong nghẹn ngào luyến lưu, tiếc nhớ vô bờ, ngậm ngùi dâng sóng. Anh tiếc quá! Giá mà thời gian đọng lại, ngưng hẳn. Tất cả trở thành vĩnh cửu, để câu chuyện tình 45 năm qua của chúng mình mãi mãi đi vào lịch sử. Em nhỉ! Em có biết không? Lúc em rời Việt Nam, anh ngồi rũ rượi, thừ người ra trên sofa trong phòng khách. Thể xác anh rã rời vì nhớ, trí óc anh điên loạn vì xót xa, đau đớn. Vì, mới đây anh có em trong vòng tay yêu thương, còn cảm thấy mùi của hương xưa thơm thơm thoang thoảng quanh đây. Anh nghe hơi thở nồng say ngọt ngào từ em còn vương vấn những môi hôn nồng nàn ngọt lịm, trìu mến. Chúng mình đã nghe bài tình ca lên ngôi. Để rồi -giờ đây– như chợt tỉnh cơn mê - chỉ còn một mình anh: Đau buốt. Đơn côi. Trầm buồn. Vắng lặng!

                    Những ngày gần đây đã làm dậy sóng cuộc đời anh vốn lặng yên như mặt nước hồ Thu. Đâu rồi những lúc anh bâng khuâng lo lắng mòn mỏi ngóng chờ em ở bến xe mới ở Đà Lạt? Sợ lạc nhau, chắc hẳn anh sẽ run rẩy chết cóng vì giá lạnh mất. Đâu rồi lúc chúng mình vui đùa bên sóng biển Nha Trang mênh mông? Mặt biển xanh thẳm vắng lạnh chỉ có hai người chung một trái tim yêu đắm say quá chừng! Đâu rồi lúc chúng mình chậm bước sánh vai dìu nhau đi trên phố vắng về khuya ở hồ Tịnh Tâm tại Huế? Đâu rồi vài lần anh chưa kịp đến điểm hẹn tại Hà Tiên, khiến em phụng phịu, dỗi hờn ngóng trông, giận anh, bờ mi em có hai ngấn lệ mọng nước rưng rưng, rung rinh. Bây giờ mà em vẫn giống như ngày xưa thuở em mới tròn mười sáu tuổi? Em ơi! Ký ức sẽ đậm sâu hơn theo dòng chảy của thời gian, tuổi thanh xuân chúng mình có bí mật sâu lắng, trữ tình, ngọt ngào, sẽ òa vỡ; vì những hạt lệ nung nấu niềm nhớ nhung yêu thương sâu thẳm, hoặc cuống quýt hân hoan mừng vui trong chúng ta… thì sẽ không còn bí mật nữa. Phải không em yêu.

                    Tình yêu là dòng suối mát miên man lặng lờ chảy từ trên cao xuống, thì chúng ta giống con cá thảnh thơi uốn lượn dưới dòng suối. Nếu một mai dòng nước từ trên cao không chảy xuống lòng suối nữa, thì lòng suối nứt nẻ khô cạn; lúc đó con cá sẽ chết. Chúng ta cũng thế thôi. Em có biết không, trên chuyến xe lửa tốc hành từ Quảng Trị trở về Sài Gòn, em bình thản mỉm cười tựa đầu lên vai anh, lim dim mơ màng dường như ngủ gục. Anh bỗng chợt buồn kinh khủng! một nỗi buồn vô cớ, buồn kỳ lạ! Anh nghĩ: “Biết đến bao giờ giấc mơ sẽ trở lại”?
                    Nhưng anh tin ở em. Tin định mệnh sẽ đưa hai đường cong cong trở về tụ điểm ban đầu từ năm 1960 – 1975 - 1995 - 2005 – 2015 – 2025 em lại quay về với anh! Chừng đó, chúng mình sẽ một tay ôm tấm lưng còng, một tay run run vòng qua cổ, chúng ta dắt dìu nhau đủng đỉnh thong dong đi trên đường cũ đầy lá me bay, dù mình chống gậy lom khom bước, vẫn ung dung, lửng thửng, chu du đây đó trên vùng đất nước Việt Nam thân yêu, & khắp thế giới nữa nha em.

                    Chúng ta sẽ đưa nhau về đoạn cuối cuộc đời, nơi cùng đích cuộc sống yêu thương –có anh– có em– có nhau - vĩnh viễn còn nhau mãi trong happy ending. Em ơi! Anh là người thực tế, không hy vọng hão huyền. Nhưng tại sao anh tin chắc như đinh đóng cột & linh cảm sẽ có ngày anh lom khom chống gậy, run rẫy mà mừng rỡ, nôn nóng ra phi trường Tân Sơn Nhứt đón chào mùi hoài hương xưa của Hoàng Nam Tony cho tròn với lời hứa hẹn của hơn 49 năm về trước. Hẳn em nhớ lần đầu tiên yêu nhau, khi chúng mình đi thăm mộ cô Thảo, (người đã chết vì tình yêu) bên cạnh Hồ Than Thở không em? Anh chỉ cho em thấy tấm bia mộ ấy đã ghi hai câu thơ:
                    Dù cho non sông thay đổi mãi...
                    Ngàn năm em vẫn sống trong anh…

                    Chính thế! Hình ảnh em ngự trị trong tim anh suốt bao năm nay, sẽ vĩnh viễn không bao giờ tàn phai. Trong cơn đau buồn của những cơn khủng hoảng trầm trọng ngày xưa– Ngày nay- Ngày mai; Trong biến đổi thăng trầm cuộc sống sau 30-4 –Và, do niềm tin bất diệt cuộc tái ngộ bất ngờ, không định kỳ -Anh chỉ vẫn có em –còn em mãi mãi– Ngoài em ra, anh không hề yêu ai, không ai hết. Vì, em chính là tình yêu. Em là tình đầu cũng là tình cuối của anh. Xin em tin tưởng anh, hãy nhìn thẳng vào mắt anh, đừng để thoáng nghi ngờ làm hoen ố góc trang tình sử quá đẹp của chúng mình. Nhé em. Vì như em đã biết một điều rất quan trọng ấy rồi. Em không nhớ sao?

                    Hồi xưa anh từng nói với em: anh đã nói với người con gái, tha thiết hơn là bạn thân quý từ thuở em chưa là vị hôn thê, em chưa là vợ của anh. Thế nhưng em vô cùng cần thiết - quan trọng hơn thế gấp ngàn lần trong đời anh. Bởi vì "em chính là tình yêu vĩnh cửu cuả anh". Vì, anh yêu em nhiều lắm! Bây giờ và mãi mãi không bao giờ thay đổi. Hiến chương tình yêu nầy cao quý trân trọng vô vàn. Em thương yêu ơi! Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai, do:
                    - Thứ nhứt: Em chính là người yêu trọn vẹn duy nhất.
                    - Thứ nhì: Em ví như người chị, người mẹ đầy bao dung, rộng lượng thật khoan thứ. Không có ai rộng lượng, bao dung, kiên nhẫn, chịu đựng, tha thứ, hiểu anh trọn vẹn- như em cả.
                    - Thứ ba: Em là người bạn chung chí hướng, người vợ tuyệt vời say đắm tin yêu chồng, chăm sóc gia đình thương mến các con, là người yêu quý đời đời kiếp kiếp cuả anh.
                    - Thứ Tư: Anh chỉ có thể lìa xa em, mất em, khi anh đã nhắm mắt xuôi tay trên đời.
                    - Thứ năm: Bởi vì, em ơi! em chính là tình yêu duy nhứt cuả anh. Chỉ có em mới xứng đáng trong yêu thương tuyệt vời vĩnh viễn nầy. Anh nhắc lại: Ngoài em ra, anh không hề yêu bất cứ ai. Biết không em, em không chỉ là người yêu dấu nhất đời cuả anh. Mà, em chính là tình yêu đầu tiên và cuối cùng cuả anh.

                    Em thấu hiểu anh nhiều mà, hương xưa yêu dấu của anh ơi! Em đem lại hạnh phúc tưởng chừng đã chết hẳn trong anh. Em gợi lại sự sống trong anh về mọi phương diện: Em mang sinh khí cho đời anh từ tâm hồn đến thể chất. Vậy thì, từ đây anh đã có mục tiêu để sống. Sống để chờ. Chờ đợi và hy vọng có một ngày mình toại nguyện. Anh sẽ cùng em tay trong tay, trong tình thương chan chứa của các con. Nhất là trong tình yêu tuyệt vời mạnh mẽ của chúng mình giúp sức cho hai chúng ta có đủ kiên nhẫn, có sức chịu đựng giông tố, hầu vượt qua mọi thử thách ngang trái, trong thời gian không gian xa xăm muôn trùng. Cả hai ta sẽ quay về bến, bến vĩnh cửu an toàn cuối đời nghe em!

                    Nếu chúng mình có duyên số với nhau thì định mệnh an bài cho sum họp rồi. Vì thế, anh hy vọng và sống trong tình yêu, anh chờ đợi sẽ có ngày định mệnh nối kết anh và em quấn lại dây tơ hồng. Dù muộn màng cỡ nào vẫn có nhau trước khi nhắm mắt lìa đời. Thật ra, anh ít khi dám bàn bạc hay nghĩ đến điều gì xa xôi. Anh bị căng thẳng giữa hai vấn đề nan giải: Chính vì quá yêu em, nên đôi khi anh phân vân lắm. Tình yêu đưa anh + em vào cái thế rất khó xử. Bên nghiã bên tình và đạo lý con người!
                    Càng đi sâu vô chi tiết, anh thấy còn trách nhiệm: một bên là tình yêu cá nhân, một bên là tình yêu gia đình. Anh không muốn vì anh, mà em đánh đổi tất cả tự do hạnh phúc xa hoa đầy ắp đang có. Em về đây sống kiếp tơ tằm thiếu thốn, nghèo khó. Em đừng buồn khi anh phân tích vấn đề nầy tế nhị, để em thấu hiểu anh hơn. Ấy vậy mà anh vẫn ước ao sẽ có một ngày, ngày nào đó em trở về vĩnh viễn bên anh. Anh đã có tuổi rồi, chứ còn son trẻ gì đâu em!
                    ***
                    - 2007- Để anh nói thật cho em rõ về quá khứ sau ngày anh ly dị Phùng nhé: Gần đây, lúc 4 giờ sáng anh hay đi tập thể dục lòng vòng khắp khu Sài Gòn, Phú Nhuận, Gia Định. Vì anh đi bên ngoài thoải mái hơn. Chứ đi vòng vòng trong công viên chán quá! Vã lại, có một hôm, anh thấy bà Nguyệt đi vòng vòng dáo dác nhìn quanh tìm anh. Nên anh vội vàng “hồ, biến”, để khỏi gặp mặt bà ta. Chán lắm rồi. Em à, từ lâu anh không hề hay biết gì đến bà ta cả. Nhưng lâu lâu bả vẫn “canh me” anh.
                    Có một lần: anh, bà Kim, anh Vượng, anh Bốn, anh Nuôi, cùng ngồi uống cà phê đấu láo với nhau bên công viên. Thì bà Nguyệt đột ngột xuất hiện giận dữ và ghen tuông với Kim đang thắm thiết ráo riết cặp bồ với anh. Nó đã tới bên đá bàn đá ghế, sừng sỏ hung hăng với anh. Nên bà bị Kim (ả Kim là ca-va hồi trước, có bốn đời chồng hờ, bi giờ bả tự do cặp bồ “fairplay" khơi khơi), Kim là tay không vừa, bả hung dữ bốp chát, la chưởi mắng nhiếc rất đau:
                    - Cô không phải là vợ anh Tony Năm. Hai người không còn bồ bịch nữa, ảnh cặp với tui là thường. Nè, đàn ông thiếu giống gì, mà cô phải chạy theo khóc lóc với một người đã ruồng bỏ cô. Há? Cô nên nhớ tui không giống cô, vui tui ở buồn tui biến. Đời mà! Vậy đó, nên anh xin em hãy tin tưởng anh: Anh không đi ngược lại với quyết định của mình. Lâu rồi, nó không thấy anh, nên đi rảo tìm anh ấy mà! Anh không muốn cho bả gặp, thì có Trời mới biết anh đi đâu, làm gì. Do vậy anh chuyển hướng đi tập, để khỏi mất công phiền toái. Em nhỉ! Ngoại trừ vài lần anh đi chợ Tân Định, Nguyệt thấy anh liền cua rất ngặt cúp xe trước mặt anh, bả chận đầu anh như muốn “thân yêu làm quen lại”. Nguyệt cười toe toét, nhưng chưa kịp ngỏ lời gì, thì anh đã cho bả biết là anh “dứt khoát” hẳn với bả rồi.

                    Không phải là anh sợ em buồn, mà “giấu diếm” em. Chẳng qua chuyện tình hờ nầy chả là “cái quái” gì! V/v Nguyệt, Kim, hoặc con ba xàm ba láp nào… thì chả có gì ầm ĩ cả! Anh thừa sức đối phó lại những “thủ đoạn của chúng nó”. Thứ nhì là anh chán cái “xã hội” thu hẹp bên công viên kinh khủng! Anh đã từng nhấn mạnh: Chỉ có niềm “Tin Yêu” mới dung dưỡng mối tình thắm thiết của chúng mình, dù xa xôi cách trở muôn trùng, sẽ có ngày càng bền lâu. Em chớ để dư luận hay tin đồn, gây nghi kỵ - vô tình giết chết chúng mình thật đó em!
                    Như em biết, từ lâu rồi anh không gặp và chả cần quan tâm tới họ nữa. Không ai trên cõi đời nầy ngu xuẫn đến độ: đi liếm lại bãi nước đờm bọt rơi xuống đất, mà mình vừa nhổ ra khỏi miệng. Anh không phải là thằng điên cuồng, mê muội, tiếc rẻ gì! Mấy bà đó không xứng đáng để mình nhắc đến. Anh từng nói với em đừng quan tâm về chuyện đã qua. Quá khứ không tốt đẹp, thì gợi nhớ làm gì hả em. Nhất là quá khứ đó gợi lên sự đau buồn kinh khủng cho nhau. Em đừng vội tin mà tự làm khổ thân và buông xuôi cuộc tình vốn đã có quá nhiều sóng gió, lao đao từ bao năm qua. Em nhé!

                    Thật ra, anh ít khi dám bàn bạc hay nghĩ đến điều gì xa xôi. Anh bị căng thẳng giữa hai vấn đề nan giải: Hãy nhìn vào sự thật hầu biết cách cư xử với nhau cho đúng đắn. Anh tin qua cơn “chấn động tinh thần” nầy, em sẽ bình tĩnh trở lại, chuyện đã qua rồi, xin em hãy để cho nó qua đi, và sẽ yêu anh hơn. Nhất là em nên thận trọng với những tin “hoả tốc”, kiểu giết người không gươm không dao nhe. Nếu em thấu hiểu được anh, thì anh sẽ rất vui mừng. Một lần thứ mười một (?!) Anh xin lỗi em đã vì anh, mà em buồn đau kinh khủng! Hãy rộng lượng bao dung và tha thứ nhe.

                    Anh hiểu chứ, em rất ghét nếu không muốn nói là căm thù chuyện anh lăng nhăng. Anh không nỡ làm em đau khổ thêm. Chúng ta nên sống với niềm tin yêu mãnh liệt và trong sáng. Cương quyết kết thúc câu chuyện tình mình đã nửa thế kỷ, thì không dễ dàng gì bị hoàn cảnh xé cho tan nát nữa đâu em! Em chịu không? Vậy thì, em đã hiểu lòng anh rồi nhe. Em cứ tin đi, anh không thể phụ lòng tin yêu của em đâu. Em ơi! Hãy bao dung vị tha thứ lỗi cho nhau. Nếu ta cứ ngồi đó trách móc, thì cả đời vẫn không hết chuyện. Khoảng xa cách muôn trùng nửa vòng cầu nầy, đã nhiều lần gây đớn đau & hiểu lầm. Mình nhất quyết với nhau đừng cố chấp, rộng lượng, em thứ tha anh thêm một chút em nhe. Chuyện em đề cập đến “hai ba tên đàn bà kia”, anh xin thề anh không hề nghĩ ngợi gì nữa. Em nhớ lời anh thường nói với em không: Mệt mỏi. Rắc rối và buồn phiền. Khổ lắm.

                    Kỳ xưa rất xa xôi 1962, do có những mâu thuẫn nho nhỏ, vô tình dần dần đẩy chúng ta đến bờ vực thẳm chia lìa vĩnh biệt. Những việc lỗi lầm đã qua, xin đừng nhắc lại làm gì! Hãy để sau lưng quá khứ đầy sóng gió và cay đắng đi. Em đừng đeo nó vô người và trở thành gánh nặng trĩu mình phải mang theo suốt đời. Bây giờ mấy bà kia chỉ là khoảng trống, sau những lần ấp ủ tình trần xác thịt! Là cái bình phông che đậy sự thiếu vắng em. Vì, lần anh và em giận dữ chia tay cuối cùng vào năm 2000 anh nghĩ mình mất hết tất cả rồi! Anh nghĩ em đã thay đổi, không còn “người xưa bến cũ”. Trong lúc anh bồng bềnh như con thuyền trên sóng cô đơn, thì họ đến chỉ giúp anh “giải sầu”, anh chả thèm lưu tâm đến họ.

                    Anh giải thích cặn kẽ về hiện tại của chúng ta cho các con rõ. Em đã chọn tương lai cho hai đứa mình rồi, em không do dự băn khoăn. Cuộc sống thực tế mỗi ngày nhất là vấn đề tình cảm giữa chúng ta nếu các con tỏ ra bất kính đối với cha mẹ, chẳng thà mình chết đi sướng hơn. Duy có điều rất đổi vui mừng chính các con của anh thật lòng yêu thương em. Hầu như yêu thương gần gũi em hơn mẹ chúng nữa. Hẳn em rõ hơn ai hết, các con gái yêu thương em nhiều.

                    Không phải bây giờ em giàu sang, thì các con mới yêu thương em đâu, mà hồi xưa khi các con còn bé tí, khi mẹ chúng bỏ cha con anh mà ra đi ở riêng, chúng đã yêu thương em mỗi khi em ghé tạt về thăm gia đình anh. Điều ấy khiến anh càng vui mừng hãnh diện về em. Chỉ có em mới xứng đáng để anh và các con yêu thương em nhiều. Chính em là người rất quan trọng, cần thiết trong ngôi vị làm mẹ của các con trong gia đình anh lắm, (khi mẹ chúng đã có chồng mới và có con riêng). Em hiểu mà. Kỳ lạ thay! Điều nầy khiến anh rất vui mừng.

                    Còn chuyện em nghe các con nói về bà Nga, bà Trân Thư, Nguyêt. Kim, hay bà lu xu bu ba xàm ba láp nào đến bên anh, thì họ chẳng là cái đinh gì! Chả lẽ các con có quyền lực gây ảnh hưởng đối với anh sao? mà mấy bà kia kể lể khóc lóc với bọn trẻ? Nếu có, anh sữa sai. Em không thông đồng với các con, rồi rình rập anh đi đâu, làm gì nhé. Vì, chính anh mới là người quyết định đời mình. Nhe em. Anh muốn em chấm dứt tình trạng nghi ngờ. Mỗi lần nghi ngờ là làm chết dần chết mòn tình yêu, làm sự xa cách giữa anh và em càng rộng lớn.
                    Tại sao anh có thể tin em hầu như tuyệt đối. Ngược lại ở bên Mỹ em cứ phập phồng thấp thỏm lo âu, ngờ vực anh hoài? Anh sẽ rất buồn đó em. Anh muốn em phải có niềm tin yêu, có sức mạnh vươn lên đỉnh hạnh phúc. Mấy đứa con cũng lo sợ, thắc mắc là anh sẽ quay trở về với "mấy cái bà khủng khiếp”, (như lời bé Tư nói với bé Hai hồi sáng), và khuyên răn anh đủ điều. Có lẽ do em “tâm sự” với các con. Em nghĩ rằng anh dễ bị dụ khị lắm ha!? “Bò không ăn cỏ, bò ngu. Trai không cua gái, trai ngu hơn bò” sao ta!? Hê hê hê!

                    Vậy là anh bị shocking cả đêm anh không ngủ được. Sáng nay anh bỏ đi tập thể dục, mặc dù đã ngậm hai viên sterpsil anh vẫn khan tiếng. Anhnói với em công viên kia giống chuồng thú hổn tạp, là hiện thân phù phiếm nhất trên cõi đời. Người nầy đâm thọc người kia, thẳng thừng mắng nhiết, chà đạp đập đỗ nhau. Tiếc thay, họ là những ông vua, những bà hoàng hậu, thái hậu, những quý công nương thơm ngát. Chả ai chịu nhận mình làm phó thường dân nam-bộ! bên trong họ ẩn chứa toàn hung thần quỷ dữ! Họ bóp méo sự thật làm người khác đau đầu, rồi tụm năm tụm bảy ngồi đó nói xấu, chà đạp nhau và cười khẩy.
                    Anh Ba, anh Vương, anh Nuôi nói lại cho anh nghe nhiều điều “dựng đứng” về anh. Em không nhìn vẽ bên ngoài, mà đánh giá con người ấy nha, họ thâm hiểm lắm em. Làm sao em biết được bên trong lòng ai tốt, ai xấu, ai thương ai ghét mình. Không biết họ nghĩ gì! Em nên tin những gì đáng tin, nghe những gì cần nghe. Ở đời mà! Có thể họ qúy mình, nếu lỡ mình đụng chạm đến quyền lợi của họ, ngoài mặt họ tươi cười, nhưng bên trong họ sẵn sàng hạ mình, trả thù bất cứ lúc nào có dịp.

                    Thôi kệ! Ai muốn nói gì thì nói. Đó là thủ đoạn có dụng ý chia rẽ anh và em “trâu buộc ghét trâu ăn”. Miễn sao em hiểu anh, mới thành vấn đề. Vì thế em nên rút kinh nghiệm từ nay hãy thận trọng. Câu chuyện nay tạm gác qua một bên. Em đừng tự mình đi “bới lông tìm vết” hay “vạch lá tìm sâu” về dĩ vãng mà anh đã chán ngấy lên tận cổ! Hãy nhìn vào sự thật, hầu biết cách cư xử với nhau cho đúng đắn. Anh tin qua cơn “chấn động tinh thần” nầy, em sẽ bình tĩnh trở lại, chuyện đã qua rồi. Xin em hãy để cho nó qua đi, và sẽ yêu anh hơn. Nhe. Nhứt là em nên thận trọng với những tin “hoả tốc” từ Việt Nam bay qua Mỹ kiểu giết người không gươm không dao nhe. Nếu em thấu hiểu được anh, anh sẽ rất vui mừng. Một lần thứ hai mươi (?!) Anh xin lỗi em đã vì anh, mà em buồn đau kinh khủng!
                    Hãy rộng lượng bao dung tha thứ nhen.

                    Em yêu, chúng mình biết nhau từ thuở nào, đã yêu nhau tha thiết bao năm rồi, em hãy suy nghĩ chính chắn với tình yêu gần như file://bat tử rồi. Vì, em đã có anh bên cạnh, có các con là đồng minh, đồng thời là hậu phương vững chắc vun trồng tình yêu bền chặt từ 49 năm qua. Hiện tại và tương lai, em vẫn là kẻ chiến thắng toàn vẹn trên mọi lãnh vực, vì anh yêu em nhiều. Em phải cương quyết hơn, tự tin thì còn sợ quái gì!? Hãy tin tưởng, mạnh dạn để sống với cuộc tình đã có quá nhiều hương thơm mật ngọt nồng say ấm áp và thắm thiết, chông gai, truân chuyên, lẫn cay đắng bẽ bàng!

                    Chúng mình đã đi gần hết đoạn đường khá dài. Nay sao em lại do dự, ngập ngừng, chùn bước thẫn thờ đến thế hở? Em đừng thèm quan tâm - và nhất là - em đừng thèm nghĩ ngợi gì đến mấy đàn bà cũ rích lăng nhăng lèm bèm kia, (mà có một thời anh “lỡ quờ quạng” nữa). Nhe em! Cơn buồn râm ran khắc khoải nhóm bừng lên trong lòng anh nỗi dày vò héo hon và tủi thân, dù thổn thức anh chẳng thể khóc to, nhưng nước mắt rung rinh viền mọng bờ mi cứ lăng dài xuống má. Nhìn mây trôi gió hú, lòng anh ngoái vọng nỗi hắt hiu đợi chờ "người ta" với mối tình vừa ươm mộng lai láng trong tim, khiến anh đi lui đi tới đứng không yên ngồi chưa ấm chỗ, đã lật đật nôn nao háo hức bước ra cửa dáo dác nhìn quanh. Sau đó, anh bần thần ngồi xuống bàn viết lá thư mang số 4.354:
                    ***
                    2009 - Hôm nay, anh xin gởi em một đoá hoa hồng thắm sắc tin yêu, để chứng tỏ sự kiên định tình cảm từ anh. Mong em đừng để những điều phiền toái gợn sóng trong lòng, làm bâng khuâng sầu héo nữa. Hãy tin yêu nhau mà sống nghe em! Đừng làm hoen ố tình yêu mình bằng những chuyện không đáng, làm cho vết rạn trở lại vì chuyện vu vơ. Chúng mình quyết chiến thắng định mệnh, đương đầu với những chuyện âu lo khác quan trọng hơn. Hơi đâu em nghĩ chuyện ba xàm ba láp cho mệt, hỉ. Giờ nầy, sao mình dễ dàng để cái chuyện “ruồi bu kiến đậu” phá bĩnh mình như vậy!? trong khi thật ra mình vui lắm! Vì có em, anh đã thay đổi, “lột xác” (hay là như em nói: Anh tuổi con rắn, thì “rắn lột da” nè). Hê hê hê...

                    Em hãy nhớ: Đó là một quá khứ đáng nguyền rủa, là những thử thách gay go nhất của đôi ta. Chúng ta giữ cho nhau không vì xiềng xích hôn nhân, mà giữ nhau bằng sợi dây tình yêu cho dù mong manh. Nhưng chúng mình ràng buộc với nhau mật thiết trường cửu khắng khít cả đời người: Đó là sợi tơ hồng ươm tình yêu bất diệt! Anh đã từng nói với em: “Trước em, anh chưa hề yêu ai; và sau em anh chẳng còn yêu ai. Em chính là người anh yêu đầu tiên và là người anh yêu cuối cùng. Em chính là tình yêu”, thì những điều anh nói ra, là do từ trái tim anh. Em ơi! Vì không có ai trên cõi đời nầy có thể làm cho anh xa rời em được nữa đâu! chỉ có em! Vâng chỉ có em chính là người quyết định kết thúc cuối cùng câu chuyện tình yêu 49 năm nầy. Anh nhắc lại: Chính ANH mới là người - để EM hoàn toàn quyết định vận mạng tình yêu đó em.

                    Em biết dứt khoát lập trường của anh: - Anh nhắc lai chỉ có em: là người yêu đầu tiên và là người cuối cùng duy nhất trong đời anh. Ngoài em ra, anh không thể yêu bất cứ ai. Em nhớ nhe: Duy Nhất – Không còn con đường lựa chọn nào khác. Không có ai trên cõi đời nầy – có thể chia lìa anh và em- (trừ phi CHÍNH EM mà thôi. OK?!). Hãy giữ vững niềm tin yêu và hy vọng, để có đủ sức chờ đợi chiến thắng cuối cùng nhe em. Tạm thời, chúng mình phải xa nhau – là chỉ còn bức màn rất mỏng ngăn chia chúng ta. Tuổi thanh xuân qua rồi! Bây giờ điều thiết thực nhất giữa anh và em là sự hiện diện tinh thần vô cùng quan trọng. Chuyện thể xác chỉ là hàng thứ yếu. Hay nói đúng ra cũng hữu ích để nâng vực tình yêu lên cao. Hãy tin tưởng nhau: “Yêu nhau không phải là chỉ để nhìn nhau, mà cùng nhau nhìn về một hướng”, như Exupery đã nói nghe em.

                    Vậy xin em hãy để quá khứ ấy vùi chôn dưới lớp bụi thời gian, xin đừng khơi dậy làm gì, chỉ thêm đau lòng nhau. Anh chợt hiểu: Ngoài em ra – Từ trong cuộc đời và cả trong thâm tâm, anh không thể thiếu vắng em. Không ai xứng đáng với tình yêu nồng nhiệt của anh cả. Mọi chuyện bây giờ XONG rồi. Mình là của nhau từ thuở nào rồi! Em ạ. Chắc chắn điều nầy: Chỉ có em mới xứng đáng có quyền ngự trị trong trái tim anh. Thể xác phiêu lãng nầy là cái bến tạm, cho dù anh có ở hay sống với người nào, thực tế con tim anh vẫn quay về nguồn bến xưa. Trong chiều sâu hun hút của tâm tư anh vẫn hướng về em, với tất cả tình yêu ban đầu. Vì, làm sao có thể quên em được hở? Không có gì có thể chia cách tình yêu của anh & em đâu. Vậy, bài thơ "Mối Tình Duyên" dưới đây em viết cho anh, hay cho ai vậy hở? (Em mà viết cho ai, thì... thì em "chít mí anh" - Liệu hồn nha):
                    Ngày nao dưới nắng vàng chói lói
                    Bầu trời xanh lấm chấm mấy lọn hồng mây
                    Em nhìn mây tưởng tượng yến oanh bay
                    Bao cánh én vờn quanh ngọn cỏ
                    Anh đã đến nụ cười rạng rỡ
                    Tay trong tay bước dưới hàng dừa
                    Mặc ai nhìn… ánh mắt trao đưa
                    Ở ống tất dài* lòng vui hơn Tết
                    Mình đến với nhau nụ cười không mệt
                    Hứa ngàn đời cùng kết tóc mối tình duyên
                    Anh chinh khách em thuyền quyên
                    Trăm năm một thuở mình nguyền sống chung
                    Yêu thương luyến nhớ ta cùng…
                    (*)
                    Em à, cho anh xuống nhà thay tấm drap giường, xịt thuốc diệt “con sâu vòi vọi”. Sợ nó làm tổ ở đâu đó trong những thanh giường. Nó đã chích anh mấy phát, đau nhức và sưng u lên nhiều cục cứng ngắt, đau nhức cả tháng vẫn chưa tan. Kinh khủng quá. Sau đó, anh sẽ xem bóng đá nữa. À quên: Anh xin tổng kết tài chánh trong “tổ kiến của chúng mình”: - Từ tháng 7 - 1993 đến cuối 2009, em gởi về anh tổng cộng 48.500.oo USd *Trong đó, do những lần đau ốm, hay anh đi mỗ mũi, bệnh viện. Đi các tours, hotels, (ngày Tết, ngày lễ Noel, hay 30-4, em hay nói anh đi Đà Lạt nè, Cần Thơ, Mỹ Tho, Vũng Tàu v.v... Khi thì anh đi với mấy bạn Không-quân ở Mỹ về, hoặc đi cùng bạn già U-70 ở Việt Nam). *Đồng thời anh đóng tiền sữa nhà, *Đóng tiền khu xóm, *Đi làm lại toàn bộ hai hàm răng giả. *Dịch vụ lo hoá giá nhà, mong sau nầy có sổ hồng, thì dễ bán nhà. *Tiền sữa xe, tu bổ xe của anh và bé Tư. Tiền sinh nhật các con, cháu nè. *Tiền quà bánh cưới hỏi đám tiệc v.v... khoảng tiền linh tinh cho bà con anh em, bạn hữu, hay là cứu trợ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, à anh mua nhiều vé số cặp nữa, v.v...

                    *Anh bàn với em về chuyện tiền bạc em đã gởi, chúng mình không nên nói cho các con biết rõ đâu em. Không phải việc gì cũng nói hết đâu em à. Vì... Đôi khi anh phụ đập vào các khoảng chợ búa linh tinh bất thường khác. Anh cần có những khoảng tiền riêng là vậy. Vật giá ngày càng leo thang tăng lên vùn vụt, anh chi dùng vào trong “tổ kiến của chúng mình” một mớ. Bây giờ vơi kha khá. Em bảo lúc nào "trong tổ kiến" có đủ năm bảy trăm ngàn đô, "làm vốn cho tuổi già"- thì em không làm việc ở bển nữa, mà thu tóm mọi thứ nhà cửa, quay về với anh. Thương em vô cùng đã vì gia đình mình mà chịu khó, chịu khổ lăn lộn kiếm sống. Càng nghĩ, anh càng thấy thương em.

                    Nhớ năm 2003 khi em trở về Việt Nam, có lần em đã đưa cho anh một cái vòng cẩm thạch, bảo: “để minh chứng tình yêu, anh đeo chiếc vòng ngọc vô tay cho em. Từ nay trở đi, sẽ không có ai và không có gì tháo gỡ ra được”. Nhất là, em có mái tóc rất dài tới chấm mông, tha thướt óng ả dễ thương đến thế, khi tuyên xưng tình yêu, em đưa kéo cho anh cắt ngắn mái tóc mà anh rất thích. Từ chối mãi không được, anh run run cầm cái kéo trong tay cắt mái tóc em ngắn lên tới cần cổ. Anh tiếc mái tóc ấy làm sao! Lòng anh vẫn nguyện mỗi khi mở tủ ra, anh luôn giữ trọn tình chung thủy nhớ thương em. Mái tóc nầy anh vẫn cất giữ lại trong chiếc hộp xinh xinh bỏ trong tủ như báu vật, minh chứng cho tình yêu nồng nàn của hai ta. Vì, nhìn thấy tóc em là: “già người, già tóc, già râu. Bộ phận chiến đấu còn lâu mới già”.
                    Hi hi hi… "Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn, cho nên được gọi là khôn hơn người. Tái dê chấm với tương gừng, ăn xong rồi lại phừng phừng như dê", thì… nếu chúng mình “có duyên số với nhau” thì định mệnh an bài cho sum họp rồi. Vì thế, anh hy vọng và sống trong tình yêu, anh chờ đợi sẽ có ngày định mệnh nối kết anh và em trở lại dây tơ hồng. Dù muộn màng cỡ nào, vẫn có nhau trước khi nhắm mắt lìa đời.

                    Mỗi chiều sau khi đi ăn tối ở ngoài tiệm, (anh chỉ tự nấu ăn buổi trưa thôi). Còn buổi tối anh đi ra ăn ở ngoài tiệm. Em cho anh đi đây đó thong dong chút, chứ em nhốt anh cả ngày trong bốn bức tường ngột ngạt, chắc là anh héo hon chết sớm em ơi! Sau khi đi ăn tối về nhà lúc 19g, anh sẽ check thư em, anh xem bóng đá trước khi đi ngủ nhe. Anh dừng thư. Hẹn em mỗi ngày sáng và chiều anh viết hai lá thư ngắn báo tin trên E-mail. Muốn viết rất nhiều, nhưng càng nghĩ anh càng ức nghẹn. Chúc em an mạnh, vui vẻ. Thư bất tận ngôn. Chỉ vì “em hoài hương xưa là tất cả của riêng anh. Anh nhắc lại: Em chính là tình yêu”. Hẹn thư sau sẽ nói nhiều. Anh rất nhớ em, hôn em và chào em nhé.
                    Hoàng Nam Tony,
                    *
                    Tình Hoài Hương
                    (*) Thơ Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 03:28 PM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • #40
                      Vĩnh Biệt Chiếc F 5 tại hồ Xuân Hương Đà Lạt

                      Huấn Luyện Phi Hành
                      Phần Thứ Ba
                      Chương 30

                      Vĩnh Biệt Chiếc F 5 tại hồ Xuân Hương Đà Lạt
                      Một câu chuyện có thật đã xảy ra năm 1974
                      Tình Hoài Hương
                      *



                      Từng cuộn mây trắng bồng bềnh trôi trôi, mây như đoàn thuyền con nhấp nhô trên sóng nước đang quỳ gối in bóng xuống mặt hồ Xuân Hương phớt xanh. Sương phơi phới rải rác đó đây nhã từng cụm dày là đà bay bay, như cô thiếu nữ xuân-thì khoát tấm áo lụa mỏng manh. Đôi khi mây chuyển thành màu ngà, trở qua màu hồng thắm pha trộn chút ngai ngái ươm vàng, rồi ánh bạc lấp lánh từng dãi dài. Đứng trên lầu nhìn ra hồ, Hạnh ngẩn ngơ ngó từng cụm mây bay, giống như bà tiên xõa tóc huyễn hoặc đứng trên đồi tuyết vào cuối tháng hai năm 1974.

                      Bỗng nhiên có một tiếng nổ gầm rú to kinh khủng ngân rền như những nhịp sấm, làm rúng động, quằn quại cả bầu trời trong xanh và cao mênh mông. Giây lát sau kèm theo một tiếng nổ long trời lở đất vang đinh tai nhức óc. Hạnh tưởng chừng như núi Lâm Viên đã sụp, hay vũ trụ tận diệt. Đúng lúc kinh hoàng ấy có những tiếng xì xì, xẹt xẹt vút vút bay trên đồi Cù (đối diện nhà cô), kèm theo tiếng nổ phụ khác to to rền rền không kém tiếng nổ ban đầu. Mấy cửa kính, cửa sổ, đồ đạc bằng thủy tinh trong nhà tự động nhảy xuống đất, bể loảng xoảng. Gió lùa vô mấy khung cửa bể, khiến mùng màn trong nhà lồng lộng bay phất phới.

                      Hạnh giật nẩy mình, hai tay đang bưng thau nước (để tắm cho bé Hoàng) đã rơi xuống đất, nước văng tung toé lênh láng trên nền gạch, văng ướt hết quần áo cô. Chú bé hai tháng tuổi ngủ vùi đã khóc thét lên. Hạnh vội chạy đến ôm chầm con trai. Mọi người trong thành phố trong khu Hạnh ở đều nhốn nháo, thất thanh, hốt hoảng, họ la hét tướng lên gọi nhau không dứt, họ hỏi thăm đã có chuyện gì xảy ra vậy, họ ơi ới kêu rống rõ to, giống như con heo, con bò, con dê trong ba toa bị chọc huyết. Chỉ non mươi lăm phút sau, Hạnh nghe nhiều tiếng còi xe cứu thương hú inh ỏi, vang dội mấy góc phố. Phút chốc người nhà đi chợ về báo tin:
                      - Có một chiếc máy bay rớt ở ngoài hồ Xuân Hương. Mọi nẽo đường bị chận lại hết.
                      Thôi chết rồi, bây giờ là lúc tan trường, các con phải đi bộ về ngang qua cầu Ông Đạo. Làm sao đây hở Trời? Vô cùng lo lắng, ruột gan nóng như lửa đốt, Hạnh quá sợ hãi, run lập cập, cô vội vàng trao con út cho mẹ chồng, nhờ me trông coi. Thay bộ đồ ướt, mặc thêm hai áo lạnh, Hạnh run rẩy lần từng bước thấp bước cao, khi chạy, khi đi, miệng không ngớt lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Từ nhà Hạnh đi bộ đến bờ hồ, tới nhà hàng Thanh Thủy chỉ mất năm phút. Vừa vòng ra đầu ngỏ đường Cộng Hoà và Võ Tánh, gần khu toà tổng Giám-mục, thì Hạnh đã thấy hàng hàng lớp lớp người đông nghìn nghịt chạy lui chạy tới lố nhố. Kẽ la người hét ồn ào hơn vỡ chợ, đường ven hồ bị niêm phong bởi nhiều vòng kẽm gai.

                      Quân-cảnh, Cảnh-sát Dã-chiến, Biệt-đội phòng vệ thị trấn tay bồng súng, miệng luôn thổi còi báo động. Họ giải tán mọi người tò mò muốn đến gần ven hồ Xuân Hương, để nhìn cho tỏ tường. Hình như các biện pháp an ninh đề phòng, đều không thể ngăn chặn được làn sóng người hiếu kỳ mỗi lúc một kéo dồn về khu vực bị tai nạn hết sức đông. Tất cả xe đạp, xe gắn máy, xe lam, xe ngựa, xe hơi, đều bị cấm vô khu vực cầu ông Đạo, người đi coi cứ đứng ù lì ra, không thể nhúc nhích cục cựa. Mặc kệ! Ai muốn la khàn cổ, cứ la. Ai muốn chưở̉i cứ chưở̉i. Người ta vẫn ùn ùn xô đẩy nhau đi xem càng lúc càng đông nghịt, dường như điếc không sợ súng, cứ chen lấn xô đẩy nhau mà coi… "cho đã".

                      Hạnh run như cầy sấy, lo sợ tột đỉnh vẫn hiếu kỳ cố chen vai thích cánh với những người đi bộ san sát nhau. Bên kia dốc đường Lê Đại Hành đã bị xe cảnh sát chận ngang, họ không cho dân vô thành phố, và khu chợ hoặc đi lên phố. Nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi. Hạnh khiếp đảm, kinh hoàng, rụng rời bãi hoãi thân thể, cô đứng chôn chân xuống đất nhìn mặt hồ Xuân Hương tù hãm. Nước mắt cứ trào ra, mặc dù không chủ định khóc.

                      Hạnh đứng thừ người nhìn xuống hồ Xuân Hương. Úi trời đất qủi thần ơi! Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng đã phơi bày ra trước mắt: Mặt hồ thường ngày trong xanh dường bao, ta có thể soi rõ bóng mình dưới làn nước xanh biếc im sóng, vậy mà nay hồ trở thành một đầm lầy, bầy nhầy đất bùn sền sệt, sủi bọt lăn tăn to, nhỏ, đủ kiểu, vô số bong bóng cứ đứng yên một chỗ “sụt sịt” không bể tan. Dầu nhớt, xăng máy bay lênh láng, khói đen là đà vần vũ trên mặt hồ, mặt nước bầy nhầy từng miếng thịt vụn, thịt mỡ, từng khúc ruột trắng lòng thòng, thịt tươi dính rong rêu, bùn đất, từng cánh tay, lóng chân, giày, dép, mũ, nón, đủ thứ, vân vân… loạn xà ngầu tròng trành lờ đờ trôi đi, trôi lại trên mặt hồ sùi sụt sủi tăm.

                      Ngay chính giữa hồ, nửa cánh bay của chiếc phi cơ F 5 lâm nạn chĩa thẳng lên trời, thân phi cơ nhấp nhô khỏi mặt nước đen ngòm, đuôi phi cơ chổng kềnh nhô cao lên khỏi mặt hồ, phi cơ đã cắm phập xuống đáy hồ, không hiểu sao phần đầu phi cơ lại bức thân mà bay vụt lên phía sân Cù, cắm phập xuống đất? Hạnh không thể nào hiểu nỗi tại sao? Đó là nguyên nhân mà cô đã nghe có tiếng nổ phụ lần thứ nhì (liền sau khi nghe tiếng nổ to kinh khủng đầu tiên). Ngẫm nghĩ thì người dân ở trong phố hết sức may mắn! nếu nguyên cả chiếc phi cơ, hoặc chỉ một cái đầu của phi cơ thôi, mà vô phúc rơi đúng vô khu vực phố Hoà Bình, hay rơi vào khu chợ mới, thì coi như người dân sẽ chết vô số kể! Xin cám ơn Thượng Đế vô ngần.

                      Xe cứu thương lo cấp cứu thương nhân vẫn hú còi inh ỏi, xe tới tấp chạy lên bệnh viện Đà Lạt. Trong chớp nhoáng Ty Thông Tin Đà Lạt làm loa phóng thanh dã chiến móc tạm trên mấy cột điện, tiếp tay với Cảnh-sát, Biệt-đội phòng-vệ Tỉnh/Thị-xã giữ gìn an ninh trật tự, họ luôn kêu gọi đồng bào hãy tản mác ra, ai về nhà nấy, hay có ai đã chứng kiến từ đầu các sự kiện xảy ra, hoặc muốn tìm thân nhân; lạc người thân, hãy đến ở sân bến xe đi các Tỉnh gần đầu hồi mấy dãy nhà ấp Ánh Sáng (có hai cái bàn làm trạm cứu nguy đặt tạm ở cây xăng Shell,) ngỏ hầu khai báo hoặc tường trình các sự kiện.

                      Trên trời, bây giờ có chiếc bà già L-19, luôn bay lượn vòng vòng. Một chiếc trực thăng đã hạ cánh xuống đồi Cù, khu vực nầy hoàn toàn bị cô lập. Mấy phi công Mỹ lúi húi tháo cục bạch kim. Hồi sáng, không hiểu sao có người nói tiếu lâm, chẳng biết họ đùa hay nói thiệt:
                      - Có lẽ cánh quạt của chiếc F 5 quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, một con bò, và làm bị thương mấy con bò gặm cỏ trên đồi Cù.
                      Liền có một thanh niên đốp ngay:
                      - Con bò chết là phải. Đúng là… ngu như bò.
                      - Tại sao?
                      - A37 và phản lực F5 - thì không có cánh quạt.
                      - Vậy, F5 nó giống tàu bay giấy à?
                      - Đừng "hỏi xỏ" như vậy! Nghe nè: Phản lực bay được, là nhờ có động cơ phản lực nó đẩy máy bay, nên bay lên được.
                      - Vậy mà tui tưởng đã gọi là máy bay, thì phải có "chong chóng" chớ.
                      - Ừ, thì cũng có loại máy bay như trực thăng, thì có cánh quạt trên lưng. Các loại khu trục AD6, quan sát L19... thì có cánh quạt trước mũi. Các loại khu trục AD6, quan sát L19, vận tải C47, v.v... đều xài động cơ nổ. Động cơ nổ là nó dùng xy lanh (như xe hơi là động cơ nổ). Trực thăng UH1 cũng dùng động cơ phản lực, nhưng nó có cánh quạt trên lưng nữa, vì vậy có thể gọi nó là bán phản lực; nghiã là ½ phản lực.
                      - Ngộ quá hén! thiệt là tui... có "chong chóng mặt...” vì - do "tàu bay" mà con bò bị chết!
                      - Ừ... Thì con bò chết vì... ngu như bò!
                      Mình cũng hiểu thanh niên kia ngụ ý chưởi khéo người nọ là "ngu như bò" mà cũng bày đặt "lên lớp đôi co". Nhưng thôi, hơi đâu nghe chuyện người dưng kia, không biết mà cũng chẳng rành. Theo thiển ý của Hạnh thì có lẽ do những vật nào đó trong bộ phận của phi cơ rơi trúng, hoặc do tiếng nổ kinh hoàng gây ra tức ngực đứng tim "mà chết". May quá, hôm nay là ngày thường, nên không có những cặp tình nhân ngồi rù rì hú hí dưới gốc thông trên sân Cù. Cám ơn Trời!
                      Ba dãy nhà bên ấp Ánh Sáng có nhiều mái tôn bị lột sạch mái, bay đi tứ tung tá lả. Căn nhà nào còn thì mái tôn cũng cháy đen, bị cuốn cong lại. Ôi thật hãi hùng. Nặng nề nhất là dãy nhà thứ ba ở gần ven suối, đa số gia đình khu ấy còn làm nhà bằng gỗ, lợp mái tôn thiết, là bị cuốn sạch, sụp đổ hư hại nặng nề khá nhiều. Vì dãy nhà thứ ba nầy nằm ngay dưới sức ép, sức nóng của đường bay đã sà xuống thấp lúc phi cơ lướt vút qua trên mái. Có những mái nhà, vách ván, giống như miếng bánh tráng bị nướng cong phồng rộp lổm chổm, cháy đen. Những hàng cột cháy trụi, nhà bị sập, hay còn lại bức tường vách chông chênh. Trông thật ngao ngán. Chắc chắn là sẽ không ít người bị thảm nạn.

                      Hạnh, xem phi cơ rớt đã đời xong, cô mới sực nhớ tới chú con trai đầu lòng là bé Dzũng học giáo lý ở bên nhà thờ chính toà (cư dân địa phương thường gọi nhà thờ “con gà”). Hạnh cố chen lấn, len lỏi, lùi ra xa, vất vã lắm cô mới tìm lối thoát ra khỏi vòng người ngoài cùng. Thế là Hạnh đâm đầu chạy một mạch về phía đường Cộng Hoà, Phan Bội Châu, phố Hòa Bình vắng như chùa bà Đanh. Hạnh chạy ngược trên đường Thành Thái đến rạp ciné Ngọc Lan.
                      Cô không nhớ là mình có tiền trong túi để nhảy lên xe lam, hay ngồi xe taxi đi đón con cho lẹ. Hạnh cứ cắm đầu, cắm cổ chạy một mạch xuống đường Cường Để, chạy lên dốc Bà Triệu, chạy trên đại lộ Yersin tới sân banh cuả Cảnh Sát, là tới nhà thờ. Hai chân bắt đầu run, cô ngồi phịch xuống trên lề cổng đá của nhà thờ, thở hổn hển. Khi bớt mệt, Hạnh vô trong nhà thờ vắng lặng chưa thấy các em học sinh, Hạnh lo lắng dáo dác nhìn quanh, thì cha phụ trách lớp giáo lý từ mái vòm hội quán đi ra báo tin lành:

                      - Bình yên cả. Lẽ ra, tôi cho các cháu về đúng giờ. Nhưng không hiểu sao hôm nay tôi cho học sinh về chậm mất một giờ, nên chúng thoát nạn. Những cháu nào cư ngụ ở ngoài phố, thì đi tắt về lối Lục Lộ, để qua cầu Bá Hộ Chúc, mà lên phố.
                      Hạnh cám ơn cha. Vô cùng tạ ơn Chúa! Lòng khấp khởi vui mừng, ngẩn ngơ. Cha phụ trách đã bỏ đi lúc nào không rõ. Hạnh vội chạy về nhà, lúc nầy cô mệt kinh khủng! Khắc khoải lo sợ mà chạy bộ cả buổi, do vừa sanh con mới non tháng, nên hai chân run rẩy, dường như cô choáng váng muốn nghẹt thở, hụt hơi, tim đập thình thịch, mệt sắp lả đi, buộc lòng cô phải đi từng bước ngắn, có khi Hạnh ngồi bừa lên lề đường, thở hổn hển nghỉ mệt thật lâu. Hạnh cố gắng lê từng bước rã rời về tới nhà. Đồng thời, lúc đó ở ngoài sân Thiện chân thấp chân cao vô nhà, anh thở hổn hển hỏi dồn dập:
                      - Em ơi! Các con về nhà chưa?
                      Hạnh quá mệt không thể thốt nên lời,cô chỉ nhìn anh gật gật đầu.
                      Dzũng, con trai lớn (thay cho mẹ) nhanh nhẹn đáp lời ba:
                      - Dạ! Các con về nhà hết cả rồi. Ba yên tâm.
                      Đông đủ cả nhà mừng rỡ vô cùng. Không ngờ các con biết tìm lối về, khôn ngoan đến thế! Vậy mà, Hạnh quá run sợ lo lắng cho các con sẽ có bề gì... Hay bị kẹp cứng giữa làn sóng người đông đúc. Các con dưới chín tuổi, nếu không bị kẹp cứng trong đám đông người hơn kiến, thì con sẽ bị nghẹt thở, bị người to lớn dềnh dàng xô đẩy, dẫm đạp lên đầu lên cổ, tất bẹp dúm ra! chết là cái chắc. Tạ ơn Chúa! Hạnh thấy bé Dzũng ngồi trên giường toe toét cười, con kể lại chuyện đi về nhà cho bà nội, và mấy đứa em nó nghe:
                      - Học và tập dợt xong. Đáng lẽ là cháu về rồi. Nhưng cha phụ trách gọi các cháu ở lại, cho tụi cháu ăn bánh và uống nước ngọt. May quá! Nếu cha không kêu tụi cháu ở lại, thì đúng lúc đó là cháu đã đi về tới ngang cầu ông Đạo rồi.
                      Hạnh mừng rỡ đến ứa nước mắt, dịu dàng hỏi con trai:
                      - Sao con về nhà an toàn được vậy?
                      - Dạ, tụi con đứng ngoài sân nhà thờ, thì thấy có ngọn lửa đỏ rực toả xịt từ trên trời bay ra, rồi khói mù mịt kéo dài từ hướng Cam Ly chạy tới hướng bờ hồ, cả tiếng động gầm rú, quái lạ từ trên trời nghe rất điếc tai. Cha biểu tụi con lủi chạy vô núp dưới căn hầm nhà thờ, nằm xuống nền nhà ngay. Nhưng tụi con chỉ kịp chạy vô tới ngang cửa căn hầm, là nghe mấy tiếng nổ to lắm. Nhà thờ rung rinh quá sá, cửa kính bể hết ráo. Tụi con nằm im một hồi lâu không nghe gì nữa, thì cha cho tụi con đi về nhà gấp. Con đi xuống khu Lục Lộ về phiá cầu Bá-hộ Chúc, vì bị cấm không cho đi qua cầu ông Đạo. Con khóc rống lên vì sợ quá.
                      Bé Tuấn cũng góp chuyện:
                      - Con ngồi viết bài trong lớp (trường Đoàn Thị Điểm). Nghe ầm ầm, tiếng động điếc tai, nổ to lắm. Trong lớp con rớt cái la phông và bảng đen, cửa kính bể hết. Bụi đất, gạch cát bay rào rào trên đầu tụi con. Thầy Tu nói tụi con chui vô gầm bàn, nằm úp mặt xuống đất, hai tay lấy cặp bưng đầu, tụi con nằm như vậy lâu lắm. Thầy đi đâu đó, rồi trở vô lớp, thầy nói “bị rớt máy bay ở bờ hồ”. Cả lớp chạy ra đứng trên sân rạp ciné Ngọc Lan coi. Đông lắm.
                      ***
                      Xế chiều có tin ban đầu cho hay: Những người bị lâm nạn ở trên dọc hai bên bờ hồ, trên cầu Ông Đạo là do bị sức gió của phi cơ F 5 thần tốc ào ào cuốn mạnh, hút họ và quăng họ xuống hồ mất tiêu, ba cặp trai gái ngồi tâm tình bên gốc cây bách tùng. Sáu người bán dạo: Cà rem, kẹo kéo, bánh bò, khô mực, hột vịt lộn, vé số Kiến-thiết Quốc-gia. Bốn người ngồi câu cá rải rác ven mé hồ, gần nhà hàng Thanh Thủy, hoặc mé góc cầu Ông Đạo. Những người đi tản bộ, người ngồi xe lam, đi honda, xe đạp trên cầu Ông Đạo, những ai đi chung quanh khu vực hồ. Vài nguồn tin không hiểu có chính xác chăng, thế nầy:

                      * Tin thứ nhứt: Anh phi công lái phi cơ F 5 từ Sài Gòn lên vùng Cao Nguyên làm nhiệm vụ xong, phi cơ bị trục trặc kỹ thuật, không thể quay về Sài Gòn, chẳng may phi cơ lao rất mau từ hướng phi trường Cam Ly, vụt đâm đầu xuống hồ Xuân Hương?!
                      * Tin thứ nhì: Một sĩ quan pilot Việt Nam tên Toàn, có hôn thê ở ngay ấp Ánh Sáng, độ tháng nữa là họ làm đám cưới. Anh ta đi làm nhiệm vụ trên vùng cao nguyên xong, anh bay lượn mấy vòng tại “khu nhà em” dợt le… Chẳng may anh bay thấp, đà lướt quá trớn, nên phi cơ đâm đầu xuống đất?
                      Cô Minh có nhà ở dãy nhà thứ nhứt của ấp Ánh Sáng đã kể:
                      - Lúc đó, tôi phơi quần áo trước sân nhà, bỗng nghe những tiếng động vô cùng điếc tai, ào ào, gầm rú, gió cuồn cuộn bốc rác rưới bay thốc lên cao. Rồi một sức nóng kinh khủng, nóng tột độ từ trên trời phủ chụp xuống đầu rất mau. Kèm theo những khối lửa đỏ lòm, khói đen nghịt dài dài thành một đường từ hướng Cam Ly chạy về. Theo đà lướt rất sát của phi cơ, tôi bị xô chúi nhủi, nằm sấp, đập mặt xuống nền xi măng. Tôi cứ tưởng trời long đất lở. Tôi bị tức ngực, điếc tai, chảy máu đầu, đau đầu ghê lắm.

                      Bên kia lối Thuỷ Tạ có một chiếc trực thăng vừa đáp xuống bãi cỏ. Họ thả mấy người nhái ra, đồng thời xe GMC kéo mấy chiếc thuyền con tới. Cuộc tập trung mò kiếm chớp nhoáng bắt đầu. Hầu như tất cả người dân dự-kiến đều ngồi bất động xếp lớp chung quanh vòng bờ hồ đen nghịt. Mặt mày ai nấy đều tỏ lộ nét lo sợ buồn bã mà hiếu kỳ. Mấy “ngư ông” bắt đầu lên thuyền bằng mái chèo gỗ đi thật nhẹ, chậm chạp. Hạnh nghĩ họ không dùng thuyền máy, vì sợ máy nổ sẽ khua động sóng to, không vớt được những miếng thịt rữa nát ra chăng? Bốn anh thợ lặn đồ nghề đeo đựng đầy người nhảy ùm xuống hồ nước lạnh giá và hôi thối đất bùn. “Ngư thuyền” cầm cái vợt lưới to rộng vành có cây cán sắt khá dài. Một người khoan thai khua nhẹ mái chèo, một người khác cầm cây vợt lưới tìm vớt những miếng thịt vụn, những thứ vật lạ lềnh bềnh trôi, vân vân...

                      Đứng trên bờ, người ta có thể nhìn thấy bèo, lục bình bồng bềnh trên mặt nước ao tù, năm bảy miếng thịt vụn dính mỡ có từng chùm cỏ trôi đi trôi về, trôi vòng vòng loanh quanh gần trong mé bờ. Lập tức, người đứng sát ven bờ hồ la hét chỉ chỏ cho người trên ghe xem, họ đồng loạt bụm hai tay vô miệng, làm loa kêu to, ngoắt, vẫy tay lia lịa, cho bác “ngư thuyền” thấy, mà bơi đến “vớt cái xác vụn” tẻo teo kia lên. Họ “lượm được” thứ gì của “cố nhân”, họ liền bỏ vô bọc ni lông đựng trong mấy chiếc thau nhôm to. Họ từ từ chèo ghe vô mé bờ hồ, (phía gần nhà hàng Thanh Thủy).
                      Trong khi đó, những thân nhân của người lâm nạn, nằm vật vã trên các gốc bách tùng, các bãi cỏ, họ gào khóc thảm thiết vô cùng. Họ chẳng cần biết những cái bọc ni lông đó là thịt bầy nhầy của bà con thân nhân của họ, hoặc là của ai!? Cứ thế, họ ôm những bọc ny lông kia, mà vật vã gào khóc dữ dội rất buồn thảm.
                      Ngay tức khắc, xe thông tin bắt loa phóng thanh chạy cùng khắp đọc thông báo: ông Tỉnh Thị Trưởng Đà Lạt ra lệnh cấm:
                      - Cư dân không được dùng nước máy ở khu vực hồ Xuân Hương. Nhà máy nầy đóng cửa. Nhà máy nước Suối Vàng, hồ Than Thở, sẽ cung cấp nước cho toàn dân thành phố Đà Lạt.
                      Hạnh cúi đầu thầm thỉ:
                      - Thưa ông Tỉnh Thị Trưởng ơi! Thấy cảnh tang thương, rùng rợn kinh khủng kia, người dân Đà Lạt hiền lành đã sợ mất hồn mất vía, kinh thiên động địa, hồn xiêu phách tán rồi. Họ không lăn đùng ra dãy đành đạch mà chết bất đắc kỳ tử, là may thì thôi. Có mô dám ăn uống cái thứ nước bùn sền sệt, hôi tanh pha lẫn thịt thà, máu huyết không thể chịu nỗi chớ!
                      * * *
                      Tai nạn thương tâm đó đã xảy ra hơn một tuần rồi. Ấy thế mà mặt hồ luôn luôn sôi bọt bong bóng. Bọt bong bóng cứ hết bể bụp cái nầy, lại nổi lên đợt bong bóng khác, sủi bóng sì sụt hoài. Lúc nầy người hiếu kỳ đến xem thưa thớt dần dần. Họ chỉ tập trung vào mỗi buổi chiều nhàn hạ, khi mặt trời chưa gác núi. Riêng Hạnh dạy học mỗi ngày đều dẫn hai con trai đi ngang qua bờ hồ để tới trường. Chung quanh khu vực nầy bắt đầu có mùi hôi tanh thoảng lại rất khó chịu. Mẹ con cô luôn chứng kiến những cảnh thật đau lòng, thương tâm vô cùng, không thể nào cầm lòng mà âm thầm rơi lệ. Hạnh thấy những thân nhân (của người bị nạn) cùng nhau tụ họp lại ở ngay góc bờ hồ, phía bên đầu cầu Ông Đạo khu vô chợ Mới (mấy cây Tùng, gần quán Hạnh Tâm). Mở đàn cúng cầu siêu suốt tuần, họ đặt những hàng quách dài, mỗi quách độ bốn tấc để ở thảm cỏ sát ven đường, từ những quách nho nhỏ, họ đắp tạm nhiều bậc cấp bằng đất có trải tấm vải trắng dài thật dài (làm thành con đường từ ven bờ nước mà nối liền với những cái quách.
                      “Con đường vải lê thê tơ lụa khăn sô trắng” nầy tạo thành chiếc cầu giao cảm linh thiêng, ngỏ hầu chiêu hồn, kêu gọi những vong linh vô trong quách an nghỉ). Thầy cúng đến lập bàn thờ cúng vái suốt mười ngày đêm, khói hương nhang trầm nghi ngút. Thân nhân khóc than não nuột, tiếng khóc than rên siết không lúc nào ngưng bay lên trời cao. Thảm thiết lắm. Mủi lòng đau đớn vô cùng!

                      Sau mười ngày tụng niệm, một buổi sáng tinh sương khi đi ngang qua mé hồ, Hạnh chứng kiến họ cuốn tròn tấm vải ở dưới nước lên ven bờ hồ, để đó, thầy tu cúng xong, hai chú tiểu nghiêm trang tiếp tục cuốn từng tấm vải chậm rãi dần dần cuốn tới cái quách. Cuốn tấm vải của cái quách nào xong, thì họ bỏ hẳn tấm khăn vải trắng ấy vô trong quách đó, chỉnh tề, ngay ngắn. Mỗi lần cuốn cổ quách nào, thì có hai thầy cúng đứng hai bên tụng kinh. Thân nhân bò lết dưới đất vật vã, khóc rống lên. Thảm thiết vô cùng. Sau hết, thầy cúng cho người đóng kín cổ quách lại. Chở đi. Mặc dù người ta đi xem cuộc chiêu hồn đông vô số kể, nhưng mọi người im lặng cúi đầu quệt nước mắt xót thương. Đó là chút tình “tứ hải giai huynh đệ. Máu chảy ruột mềm. Thương người như thể thương thân. Bầu ơi! Thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”! Là vậy.

                      Mặt hồ Xuân Hương suốt mấy tháng qua vẫn sủi tăm, bồng bềnh những bèo bọt bong bóng nhớp nhúa. Bùn đất tráng lên mặt nước đen ngòm rờn rợn luôn thoảng mùi hôi thối, tanh rình, thúi kỳ lạ. Dầu, mỡ, xăng nhớt, cứ đọng lại từng khóm, ánh lên long lanh từng vệt loang dưới mặt trời đỏ chói trong lòng hồ. Không có cách gì tẩy uế hết. Thật ngao ngán quá chừng. Dù mỗi ngày, chuyên viên tháo gỡ phi cơ lặn xuống hồ tìm kiếm... đôi khi họ tha xương cốt thịt thúi lên từng ít một. Không ngày nào đi ngang qua khu vực cầu ông Đạo, Hạnh không khỏi bùi ngùi cảm động, xót xa… dù không muốn, cô vẫn vô tình nhỏ lệ, khóc sưng đỏ hai con mắt mà xót thương người dưng.

                      Cuối cùng trước mùa mưa, ông giám đốc nhà máy thủy điện phải mở những ngăn cửa đập ở dưới chân cầu ông Đạo, xổ hết nước trong hồ Xuân Hương cho nước chảy qua cầu Bá hộ Chúc. Con suối nhỏ uốn lượn chảy men đường phố Cường Để, rồi chảy tới thác Cam Ly, lẫn khuất trong rừng sâu. Hồ Xuân Hương đã lồ lộ ra chiếc phi cơ méo mó nhăn nhúm như trái táo khô, cụt lủn, mất đầu mất cánh, chỉ còn giơ ra khung sườn, mấy bánh xe trông vô cùng dị hợm khó coi! vô duyên xấu xí hết chỗ nói. Lòng hồ Xuân Hương trơ trẽn hắc ám phơi ra giữa lộ thiên, giơ đầy sự bẩn thỉu lên trời. Đáy hồ lổm chổm đụn rác rưởi ô tạp. Cỏ lác, cỏ năn, quyện chặt với xe đạp, vỏ xe hơi, xe honda. Rải rác xác xương súc vật. Tôm búng mình nhảy tưng tưng trên bùn sền sệt, ếch, nhái, cóc, lươn, cá lóc, cá trê, cá lớn cá bé phóng mình giãy giụa, đập đuôi bành bạch lủi thật mau trong sình lầy đặc quánh.

                      Dạo trước, ai ai cũng chỉ thấy bề mặt của hồ Xuân Hương duyên dáng, thơ mộng, tuyệt diễm, quyến rũ, tràn lan thi vị thơ mộng là thế. Nhưng không ai trông thấy bề sâu của lòng hồ. Nay, hồ Xuân Hương đã khác hẳn cách nhìn... và Hạnh nữa, cô thường tư lự ngước mắt lên không trung: để ươm mộng vàng, dõi mắt qua vạn sơn lâm tìm bóng chim bằng rong nghìn núi, hoặc toả rung ngàn nốt nhạc... mà mơ về dáng anh phi công nào… ở phương trời xa xôi lắm (!!!)

                      * * *
                      Tình HOÀI HƯƠNG
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 03:37 PM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • #41
                        Mưu Sự Tại Nhân…

                        Huấn Luyện Phi Hành
                        Phần thứ Ba
                        Chương 31
                        Mưu Sự Tại Nhân…
                        Tình Hoài Hương
                        ***



                        Trời đã về đầu đêm, tiếng côn trùng đơn điệu rả rích, những tia lửa trong lò nung than bập bùng, từ thân cây có tiếng nổ tí tách, tia lửa giống lọn pháo bông lóe lên, xòe ra và tắt ngúm. Tiếng xào xạc rì rào lúc gió lao xao thoảng qua đám cỏ tranh, cộng với tiếng cú nấc cục, tiếng chim lạc đàn kêu trong rừng rậm, nghe càng bi thảm từ không gian u tịch im lắng của vùng hoang dã, đìu hiu cô độc ở chốn nầy, khiến Hạnh cảm thấy sơ hãi, lạnh run lan mau tới xương sống. Cô cúi đầu nhìn xuống hai bàn chân bết bùn đen và nứt nẻ, mà chạnh lòng rơi những giọt nước mắt. Ngồi lì một chỗ thẩn thờ suy nghĩ, Hạnh lo lắng bồn chồn không yên.

                        Đang lúc buồn phiền bối rối băn khoăn, thì bất thình lình một con dơi đi ăn đêm vút bay xuống bắt muỗi, nó tộn vô lông mày cô, đã sưng u một cục, đau điếng. Cô giật bắn cả người suýt tí nữa lòi con ngươi, có thể mù mắt mất toi! Thiệt may mắn hết sức. Cô cùng các cháu lo đóng nắp cửa lò than, vội vã đi rửa ráy tay chân, sau đó leo lên cầu thang dây.
                        Nhà sàn khá cao được lót bằng nhiều cây mây đã thuộc láng bóng, bốn vách tréc đất trộn rơm và phân trâu, mái nhà lợp tranh, phía trước nhà sàn có một cửa lớn, hai cửa sổ nhỏ xíu. Còn ba phiá khác kín mít. Muốn vào nhà ta phải leo lên cầu thang dây, khi mọi người vô hết trong nhà, thì cầu thang dây kéo lên, cuốn lại để trên sàn; đó là cách đề phòng các loài thú dữ về đêm chúng ưa lang thang dưới đất tìm mồi.
                        Hạnh nằm lên trên sàn, về mùa hè thì thật êm và mát lạnh lưng; nhưng về mùa Đông lại khá lạnh, vì gió lùa dưới sàn nhà, nhứt là cô vẫn sợ sợ có người đứng dưới sàn nhà thọc cây dao lên lưng mình. Thật ghê gớm! Do nghĩ vậy mà suốt nhiều đêm cô phập phồng lo lắng, trăn qua trở lại chập chờn trên sàn kêu cót két không dám ngủ, dù khuya đã cạn từ lúc nào.
                        Khi tiếng gà rừng gáy te te nghe cụt lủn và vô duyên, để báo hiệu bình minh sắp ló dạng. Giây lát sau nó gáy thêm lần nữam rồi thoáng chốc nó vụt bay lên cành cây cao mau hơn tên bắn, thân hình nó nhỏ nhắn lông lá bình thường. Nó không được “oai vệ và cao sang” như gà mình nuôi trong chuồng, nhưng nó rất lanh lẹ. Tại tư gia, con gà trống là loại gia cầm “quý phái” từ cung cách đủng đỉnh, cho đến lông lá màu sắc tươi đẹp, nó được xếp vào hạng cao sang ưu tú, vì sự bệ vệ đường hoàng, khi nó muốn “ve vãn cua gò nường mái dầu” thì con gà trống điệu nghệ “hiên ngang oai vệ” nhảy lên cành cao, đập đôi cánh phành phạch nhịp nhàng, nó ngóng cao cổ sang sãng gáy một tràng dài ò ó o ò…. xong, gà trống liền nhảy xuống đất, tới gần “nường mái” nó nghiêng mình xoè cánh thân ái kè kè chạy vài vòng quanh “nường”, rồi nó bới móc ụ rơm, gục gặc mổ cạch cạch xuống đất, nó kêu “tụt tụt tụt…” mà gạ gẫm để chiếm ngự “nường”.

                        Cú rúc trên bụi cây nghe rợn người. Bé Dzũng chạy vô căn nhà tranh vách đất thấp lẻ tè lấy cái ná, trong túi quần bé đựng bọc đá, nó kêu sột soạt rột rạc theo mỗi cử động, cậu bé chạy ra phía gần gốc me, nhắm chỗ con cú kêu mà bắn ná lên. Người ta nói nếu con mễn, hoặc con cú, con quạ kêu gần đâu đó, thì trong xóm sẽ có chuyện chẳng lành, có chuyện không vui. Vì vậy dân quê vùng nầy ưa lấy đá ném, bắn ná lên chỗ nó đậu, mong đuổi đi. Sau đó bé Dzũng theo anh họ là Châu kiên nhẫn vác cuốc đi làm vườn, rau lang là loại dễ trồng và ít chăm sóc hơn những loại rau khác ở đồng khô cỏ cháy tại khu Rừng Lá, nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, dù Châu cẩn thận chăm sóc, cực nhọc trăm bề, nhưng các loại rau cần nước, rau dền, rau tần ô… èo uột không thể mọc lên tươi tốt dưới ánh mặt trời luôn thiêu đốt, thì làm sao có đọt rau lang tươi non, chớ nói gì đến có củ để ăn, và dư thừa mà xắt lát phơi khô độn với sắn, bắp… thay cơm.

                        Ở vùng nầy ưa xảy ra cái nạn có một số người không chăm chỉ chuyên cần lo trồng trọt làm ăn, mà chuyên môn chờ người khác ra công vất vả nhọc nhằn làm việc, khi gần thu hoạch hoa màu, thì đêm khuya họ lẽn đi rình mò ăn trộm của người khác! Lớp thì heo rừng ăn lá khoai hoặc dùng răng nanh và mũi để moi đất lấy củ khoai, củ sắn! Lớp bị voi rừng về phá hoại vườn mía, vườn bắp, vười khoai sắn...Khỉ cũng về bẻ bắp non, đào khoai sắn tinh vi lắm. Người ta nói: “Nuôi ong tay aó, nuôi khỉ đốt nhà” quả không sai, bọn khỉ trong bià rừng thuộc giống vật tinh khôn chẳng khác gì loài chó săn. Nó lanh lẹ chạy nhảy leo trèo tung hoành phá phách hơn các dã thú khác, chẳng những ban đêm nó “xuất đầu lộ diện” mà ngay cả ban ngày, chúng vẫn “tự do thao túng” phá hoại hoa màu nhà cửa vườn tượt cư dân, không chút kiên dè. Nào khỉ hái dừa, hái trái, nhổ rau, bẻ chuối, đào củ, vân vân… Phá phách chán, chúng leo lên mái nhà tranh thấp lè tè, xếp thành hàng dọc ngồi bắt chí bắt rận cho nhau.
                        Sáng sớm mọi người lớn lo đi làm việc, chỉ còn ông bô bà lão "già ọp ẹp" và trẻ em ốm yếu ở nhà, bầy khỉ biết họ chẳng “làm nên trò trống gì”, nên chúng tha hồ quậy tưng trời! Chiều tối có người đi làm về, thì chúng chin chít kêu gọi nhau nối đuôi lũi mau vô bià rừng. Cư dân ở đây khá phiền não vì thất thoát ngũ cốc từ nhiều phương diện. Thiệt vô cùng mệt mỏi và khổ hết biết về đủ thứ chuyện tai ách dồn dập uà về.

                        Tháng trước trong nhà Châu bán được mấy bao than, và ba thước củi, cũng may mắn anh em Châu đi rừng đã bẫy bắt cặp nhím, đập được con rắn hổ lửa, họ đem về nhà cẩn thận làm sạch bộ lòng và bỏ đầu con rắn, thịt rắn nấu cháo, thịt nhím xào lăn. Xương bọn chúng ngâm chung vô vò đất đã nung, Châu đặt choé đất rất to gần bên hông nhà sàn, sau đó cháu cho những vị thuốc bắc vô, đổ đầy rượu đế, rồi khằng kín chóe rượu, bên hông cổ choé rượu có bốn cái miệng nhỏ xíu, cắm bốn cây trúc màu vàng uốn cong cong chỉa ra bốn hướng. Khi nào rượu đã lên men, mấy cháu trai sẽ kê miệng vô đầu cây trúc chúm môi mà hút một hơi dài, cây cần trúc kêu o o o… loại rượu nầy thơm ngon thiệt “đã điếu” và phừng phưng say ngầm, có khi bụng đói thì say bí tỉ.

                        Nhân nói về vụ rắn, một hôm bốn anh em trai: Châu, Trân, Vân, Sơn đi làm rừng về, người vác cuốc kẻ cầm rựa, lưng đứa khác đeo ba lô, họ vừa đi vừa nói về rừng Lá mưa bão, khiến cây cối bị tróc rễ lật gốc nhiều nơi. Bỗng Trân thấy một con rắn thật to đang bò ngang trước mặt, nó tính lũi vô vạt tranh bên mé cồn. Do bất chợt và quá bất ngờ không kịp trở tay, thay vì Trân trở đầu cuốc để đập trên lưng nó, thì vô tình Trân “cuốc” ở đằng khúc cuối đuôi con rắn. Nó lũi nhanh vô bụi rậm. Đem khúc đuôi ngắn vô nhà, trong lòng họ cảm thấy tiếc, vì không có bữa ăn với chút thịt. Chị Sáu nói:
                        - Con ơi! Đánh rắn thì phải đập nát đầu cho nó chết. Vậy là có chuyện không may rồi.

                        Dì cháu Hạnh liếc nhìn nhau mỉm cười, có lẽ họ cho đó là chuyện dị đoan vớ vẩn, không ai tin lời chị. Tuy vậy chẳng nói ra, nhưng trong lòng mấy dì cháu cũng có chút e dè. Thế rồi
                        hơn một tuần sau, (lần nầy có thêm em út là Nhân mười bốn tuổi, vị chi là năm anh em trai) đi rừng về, họ vừa tắm suối xong, lên bờ người mang ba lô, người thay áo kẻ mặc quần, thì Sơn thấy trên cành cây sung có con rắn cụt đuôi đang thòng thân hình nó xuống gần tới đầu cuả Trân. Hốt hoảng Sơn la to:
                        - Anh Trân chạy mau, con rắn ở trên đầu anh.
                        Nghe em la, Trân vội quơ cái áo kaki rất mạnh lên không trung, cúi đầu chạy ra khỏi cây sung. Vân cầm cây tầm dông quất túi bụi vô cành cây sung, khiến con rắn rớt xuống đất lũi rất mau vô bụi cây bình bát. Họ chạy tới bụi bình bát tìm hoài, nhưng chẳng thấy tăm hơi con rắn nơi đâu! Ai nấy đều tiếc hùi hụi, lại không được ăn tí thịt. Lần nầy có cả năm anh em, mà không làm nên trò trống gì với con rắn. Tức thật! rồi chẳng thèm áy náy làm gì, cho mệt! Cư dân đi rừng khi gặp thỏ, nai, mễn, thời buổi nầy làm gì có súng, thì họ dùng bẩy, là chuyện thường. Về đêm người làm cây gỗ, làm than thỉnh thoảng gặp đàn voi, hoặc cọp, (cọp hiếm khi đi theo bầy), dù đa số họ bạo gan bạo phổi tuy rất sợ hãi, nhưng nếu không đi làm rừng, thì lấy gì sinh sống.
                        Do vậy họ “đa mưu túc kế”. Loài vật có bốn chân hung dữ nhưng chúng biết kiên dè cái uy cuả người (dù chỉ có hai chân), nhưng họ có bộ óc thông minh sáng tạo trí tuệ phi thường, vì vậy thú hoang biết sợ không dám tấn công, không hại người nếu mình không gây nguy hiểm đến chúng. Cọp ngủ ngày, đêm tối rình mồi, nó sợ lửa, thế nên nếu phải ở trong rừng canh lò than, họ đốt đống lửa to hù nó sợ mà tránh. Gặp voi dân nghẻo đánh phèn la, đập thùng rỗng hò hét, chúng sẽ lãng ra xa.

                        Lần thứ ba, Châu và Vân đi trước, tiếp theo Trân đi giữa qua cổng chính để vô sân nhà, đi sau lưng Trân là Sơn. Thình lình con rắn cụt đuôi vắt mình trên sà ngang của cánh cổng phóng xuống đớp một phát vô cánh tay Trân. Nghe tiếng Trân hét to, Châu và Vân quay lại, thì thấy con rắn hổ rớt xuống đất, nhưng nó vẫn nằm gần chỗ Trân đứng, cổ nó ngóng cao với cái lưỡi chẽ đôi thụt ra thụt vô đưa qua đưa lại, đột nhiên nó phóng tới dưới bắp chân Trân mổ thêm một phát nữa, nó chỉ nhắm tới Trân mà mổ, hình như để trả thù. Trân rên la quay quắt ít phút, rồi rệu xuống nằm vật dưới đất như trái mít rụng.

                        Trên vai Châu vác cái cuốc, lưng mang gùi đựng mấy mụt măng, Châu quăng gùi ra xa, lanh lẹ trở cán cuốc đập túi bụi lên lưng con rắn, khiến nó không thể bò đi, thân nó cuộn vài vòng, rồi dẫy nẩy lên uốn éo, coi kinh dị ghê. Sợ nó còn khả năng mổ thêm người khác, nên đứa em út là Nhân cầm cây tầm dông dích con vật lên coi, thì thấy cái đầu nó lúc lắc, dường như muốn làm gì đó, hoặc tìm chỗ thoát thân, Nhân nhớ lời mẹ dặn dò, liền hét:
                        - Anh Vân đánh nát bét cái đầu cho nó chết, mau đi.
                        Mọi sự bây giờ rất lộn xộn, bấn loạn, Vân cầm cái xà gạt đập túi bụi lên đầu con vật. Sơn lo xốc Trân đứng dậy để anh hai Châu cõng em kế chạy đi vô nhà. Trân quằn quại đau đớn, mặt mày tái nhợt, mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán. Trước 75 Châu đã từng đi lính Biệt Kích 81, làm việc với Mỹ, nên đứa anh Hai nầy rành rẽ chuyện cấp cứu và tự cứu mình. Châu nhanh như chớp vừa chạy vừa bảo các em:
                        - Nhân đi cắt sợi dây võng dài treo sau hè, để cột chặt hai chỗ mà Trân vừa bị rắn cắn, nếu để chậm thì nọc độc chạy lên tim, là chết liền. Mau lên.

                        Châu đặt em trai kế nằm lên tấm phảng, lanh tay lột áo Trân coi vết rắn cắn nơi nào, thì thấy trên cánh tay phải của Trân sưng to, cứng ngắt, bầm tím thành một vòng tròn lan rộng quanh bốn dấu răng sâu hoắm, dù mỗi lỗ răng con rắn cắn chỉ nhỏ bằng nửa hạt tiêu. Ôi! Một con vật nhỏ bé mà dễ dàng lấy mạng người mau đến thế sao!? Khủng khiếp quá. Châu lật đật cột thiệt chặt sợi dây dù lên cánh tay em, đồng thời đưa khúc dây dù còn lại cho Vân để cột lên ống chân Trân. Vội vã nặn máu trên cánh tay em, súc miệng bằng ngụm rượu đế, Châu kê miệng vô hút máu bầm, rồi nhổ xuống đất, cháu làm như vậy nhiều lần. Sau đó Châu lấy dầu cù là con hổ chà xát quanh cánh tay, Vân cũng làm những động tác giống anh Hai. Có lẽ do cột chặt sợi dây dù, máu không thể lưu thông, nên chỗ bị thương ở cánh tay và bàn chân của Trân đều tím bầm, sưng u lên rõ to. Về phần Vân sai em:
                        - Sơn đi bơm bánh xe ba gác nghe. Xong, em lấy gối và cái mền lính trải lên xe cho anh Trân nằm. Lấy thêm bộ quần áo của anh Trân đem theo nữa. Mau đi.

                        Làm sơ cứu xong, Châu mặc lại chiếc áo nhà binh cũ mèm cho em, lúc nầy anh mới để ý thân thể Trân giống bộ xương cách trí, Châu mủi lòng thấy mặt mày em trai xanh như tàu lá chuối, em nhắm mắt nhăn nhó, lâu lâu uốn éo oằn người kêu “úi cha ơi”, thảng hoặc em vật vã thân thể rên rỉ co giật, run rẩy từng cơn nóng rồi lạnh, liên miên. Châu lo sợ toát mồ hôi, lẽ nào nọc độc chạy mau đến thế à! Hay là do cơ thể của em thiếu nhiều chất dinh dưỡng, quá ốm đói, nên em không có sức đề kháng nỗi từng cơn đau đớn. Trước 75 Trân đi lính làm việc trong Tiểu Đoàn 2 Công Binh Kiến Tạo, Trân có sức khỏe dồi dào, học thức khá, am tường hết những kiến thức chuyên môn không chút sai sót, vấn đề làm việc trong văn phòng, hay ra ngoài công lộ nếu có khổ cực nặng nhọc gì, chỉ là chuyện nhỏ!

                        Châu năm nay đã ngoài ba mươi kế đến là Trân. Sau tú tài II Vân đi lính Biệt Kích Dù đã hai năm chưa lần nào bị thương. Ba anh em lớn tồn ngồng mà chưa có ai lập gia đình, ngày trước họ đều phơi phới xuân xanh, trẻ trung yêu đời, tràn đầy sức sống vui tươi lành mạnh. Thời đó gia đình hạnh phúc vui vẻ biết bao. Mỗi năm anh em hẹn nhau về phép, trước là thăm mẹ và hai em nhỏ, sau nữa là sum họp gia đình nhân ngày giỗ ba đã hy sinh vì tổ quốc tại Căn cứ 4, năm 1972.

                        Châu ngậm ngùi đau xót không thể có giọt nước mắt khóc cảnh ngộ đắng cay bi thảm khốn đốn sau ngày “đổi đời” trắng tay & đắng cả hồn nầy. Ba người đó chẳng dại gì đi trình diện "cải tạo", ngu sao tự đút đầu vô rọ, chẳng thà "đâm đầu vô rừng" mà còn ngáp ngáp chút "không khí thông thoáng tự do" núi rừng. Thuở xưa mấy anh em đi “toàn lính thứ dữ”, phong độ oai hùng, chẳng ai bị thương tật gì. Nay sống “ẩn cư” nơi chó ăn đá gà ăn muối lại sinh ra “bá bệnh”. Gia đình nghèo mẹ goá con côi trai trẻ như vậy, lo làm lụng quá vất vả nhọc nhằn từ “của rừng rưng rưng nước mắt” vẫn không có đủ ăn, là sao vậy!? Hay vì gia đình thuộc “ngoài diện và tuyến”, không hề có ưu tiên! sức trai trẻ không có bo bo ăn, chớ nói gì cơm độn! Độn thổ thì có! Chẳng nếm chút cá thịt đã đành, lại không có rau tươi, họ bị mụt ghẻ lở loét máu mủ cùng khắp thân thể, ui chao xót gan xót ruột từ nghiã bóng đến nghiã đen.

                        Nhiều ngày nhịn đói đi rừng muỗi đốt, ve vắt hút máu, xuống suối tắm thì điả bu đầy thân hút máu. Tắm suối bị sốt rét ngả nước, nước ở rừng thiêng nước độc từ những con vật chết lâu đời không ai chôn, dòi bọ rúc riả, chim chóc tha vi khuẩn gieo rắc khắp nơi. Từ lá trên rừng rụng xuống thúi hoắc, quyện với xác thú hoang, khi mưa nước trên rừng chảy tràn lan vô con suối, tuy nước trong vắt nhìn thấy sỏi cát dưới đáy, nhưng chứa nhiều mầm bệnh, đầy vi khuẩn… sinh ra đủ thứ bệnh hiểm nghèo, nhứt là bệnh sốt rét ngả nước, bệnh lao, bệnh phổi, thương hàn, kiết lỵ, vân vân… Cho dù có làm mấy cái lu vại cát lọc lấy nước trong “tinh khiết” nấu ăn, nấu nước sôi uống, cũng chả “xi nhê” gì!
                        Không ăn uống không tắm giặt trong suối nguồn thiên nhiên vô tận trời ban cho, thì con người tại vùng nầy sẽ chết khô chết khát, không có nước xài. Đào giếng là chuyện xa xỉ do rừng rậm toàn núi đá sâu hun hút đào hoài không thấy đất, chẳng có nước. Máy nước là chuyện chỉ có trong mơ! Hồi xưa, trước 75 thì có từng đoàn xe GMC đông đúc ào ào chạy đi “tải nước” ngọt trong vùng lân cận chạy về Free dài dài cho cư dân ở những căn cứ I, II, III v.v… xài xã láng, nay “mất nước” thì… còn khuya mới có “nước chùa”.

                        Ngẩn ngơ ngậm ngùi giây lát đứng bất động như trời trồng, Châu sựt nhớ lanh lẹ sai em:
                        - Còn Nhân vô bếp bới chút cơm, mắm ruốc kho quẹt, chén đũa, cái ly, bình nước uống cho Trân nghe. Anh sẽ ở lại với Trân. Mình đẩy xe thồ đưa Trân chạy lên trạm xá Mỹ Hưng ngay. Mấy đứa cỡi xe đạp theo, lát nữa chở nhau về nhà. Nếu mẹ đi vườn về, mấy đứa không nói gì hết về chuyện Trân bị rắn cắn nghe. Đừng để mẹ già thêm lo lắng, không ích gì, mà mình bấn loạn rối ren thêm. Nhớ chưa!

                        Từ những băn khoăn trắc trở coi bình dị kia, sức lực trai trẻ hồi xưa phong độ cường tráng bao nhiêu, nay ai nấy nhìn không ra người ngợm không phải ngợm, thấy năm thằng cháu trai mà ngậm ngùi thương xót ưá hai hàng nước mắt, Hạnh nhìn cảnh các cháu đẩy xe ba gác đi khuất, trong lòng vô cùng sợ hãi, cô run rẩy đứng xớ rớ muốn xĩu muốn rệu theo bầy cháu. Ôi cực khổ trăm bề!

                        Chị Sáu đội thúng bắp đã bẻ trong vườn về nhà, dù bắp còn non, nhưng phải bẻ bắp gần ngoài bià rừng, cho chắc ăn, còn hơn chờ bắp già, nếu bắp không mất vô tay bọn trộm cắp, cũng vô bụng lũ khỉ lũ voi. Khi vừa bước qua khỏi cánh cửa cổng, chị thấy con rắn hổ nằm chèo queo trên đất, cái đầu nó nát bét. Chị sung sướng cười vang, thầm thì với em gái:
                        - Mấy thằng con dù đã lớn tồng ngồng, vẫn biết nghe lời mẹ đập nát đầu rắn ha. Chắc mấy đứa đi tắm rồi. Chị em mình vô nấu nồi cháo bắp độn củ khoai, lát sắn khô với xí gạo, cho mấy đứa vất vả nhọc nhằn có chút thịt tẩm bổ ăn.

                        Hạnh băn khoăn thấp thỏm muốn nói toẹt cho chị biết cháu Trân đang lâm nguy hết sức, nhưng nhớ lời Châu dặn dò, nên cô chần chừ, bồn chồn lo lắng không yên. Mãi đến tối, thấy thiếu Trân trong bữa ăn, chị Sáu thắc mắc hỏi, liền nghe con trai trưởng trả lời:
                        - À, con cho em đi Long Khánh, hoặc đi Chợ Lớn mua lưỡi cưa. Mẹ để dành cháo, mai mốt em về, nó sẽ ăn, mẹ.
                        Nhờ sự lanh lẹ tháo vát dũng cảm cuả anh em trong gia đình, và được cấp cứu kịp thời, bốn ngày sau Trân xuất trạm y tế về nhà nghỉ dưỡng vì quá yếu kém, Trân kịp ăn món cháo thịt rắn do mẹ nấu tuyệt vời. Năm anh em trai, Hạnh và bé Dzũng thỉnh thoảng liếc nhìn nhau, tróc lưỡi suýt xoa khen món cháo rắn ngon ơi là ngon! Họ cười hả hê nói chuyện tiếu lâm về việc “tuổi Tỵ, tuổi Dậu” là không hạp, vì: “cõng rắn cắn gà nhà”, hai tuổi nầy không bao giờ được dòm thấy nhau, nên “thằng Tỵ” phải chết trong tay “thằng Dậu” mà thôi. Ha ha ha… vui vẻ hết biết.
                        ***
                        Xong công việc làm vườn, Vân dẫn thằng em họ đi một vòng coi mấy cái bẫy, xem có con thú nào lọt vô tròng không. Hôm nay bẫy được con thỏ đực, Vân xách hai tai thỏ lên, nó dài thòng hiền lành yên ắng không cựa quậy. Bé Dzũng nhìn con vật, cảm thấy thương:
                        - Tội nghiệp quá. Mình thả cho nó trốn đi. Anh.
                        - Làm sao được, Trời sinh muôn thú để giúp chúng ta ăn đỡ lòng, mà sống còn, em à.
                        Lúc trở về Vân leo lên hái mấy trái vả. Vân dùng cây tre dài, một đầu sào chẻ ra làm sáu, thành cái lồng hái trái trên cành cao, lát nữa về nhà chị rửa và xắt mỏng, trái vả khi cắt ra làm đôi, nó có hình dáng giống trái tim, vị của nó chát, hơi nhẩn nhẩn đắng pha chút ngọt lăn tăn trên đầu lưỡi. Bữa cơm gia đình sơ sài chỉ có nhúm rau thập tàng, ngày nào kha khá thì có mấy khô cá nục nướng, ít rau tía tô rau thơm kẹp với trái vả chắm mắm ruốc dằm ớt tỏi vắt chanh, đường, ăn với xíu cơm độn nhiều sắn khô, cũng là may mắn rồi.

                        Khi mặt trời chưa mọc, thì Châu, Trân, Vân, Sơn, Nhân đùm những mo cơm vắt độn, con cá khô nướng và bình nước trà nóng để đi vô rừng sâu rất xa, có khi họ đi làm một hai tuần mới về nhà, là chuyện thường. Sau bữa cơm đạm bạc, trước khi đi rừng, Châu dùng mấy lon guigoz (loại lon guigoz nầy bây giờ rất quý hiếm, bền; vì đa dụng: có thể dùng nó đựng thức ăn, nước uống, hoặc treo nó ở cành cây nấu mọi thứ trên bếp), đựng “cơm” độn trong lon, (gọi là cơm độn cho nó oai ở thời buổi XHCN) một cá khô và chút nước rau thập tàng bòn nhặt đó đây trong rừng đã luộc với muối hột. Họ vất vả nhọc nhằn vô cùng khi tìm cây, đốn cây, cưa thành từng khúc xong, bửa ra từng thanh to, phơi khô, sau đó dùng xe đạp thồ về gần nhà, đắp lò củi đốt thành than, đem đi các nơi bán. Nói nghe dễ dàng khi thành phẩm tới tay người tiêu thụ, thật ra có nhiều giai đoạn khó khăn, nhọc nhằn, khổ cực gian truân trăm bề từ của rừng rưng rưng nước mắt. Họ trộn cây lá mục đốt lửa thành tro làm phân bón cây. Những món thành phẩm nầy, dân đi rừng luôn luôn cắt đặt người thức khuya cẩn thận canh chừng, vi nếu sơ hở một chút, là họ thường bị mất cắp cây củi, phân tro, hoặc bị trộm nguyên cả lò than.

                        Hồng Hạnh cùng con cháu đi vô rừng, người kiếm củi, người săn bẫy thú rừng, người cưa cây gỗ… cô tìm rau tàu bay, rau hồng tiên, lá ớt rừng, lá sân lá lốt, vân vân… Hạnh lấy khăn trùm kín đầu tóc, đội chiếc nón lá cũ, cẩn thận nhét hai cục bông gòn vô hai lỗ tai, đề phòng con ve, vắt. Cô lấy mấy sợi dây thun cột túm hai ống quần, đề phòng đỉa, vắt, ve, bò cạp bò vô chân, v.v... mang đôi ủng cũ của chị Sáu, cô lội mau qua suối, nhìn xuống dòng nước lờ đờ trôi, Hạnh thấy hai chân mình mát lạnh và trắng hơn. Hạnh vừa bước lên bờ đi len lõi trong những lùm cây được đoạn ngắn, cô cảm thấy ngứa ngáy nơi bắp chân, cô vén quần lên cao, thì phát hiện ra mấy con vắt đen sì đeo dính sát trên ống chân. Không hiểu làm cách nào mà chúng nó chui vô được! Lạnh toát người vì sợ mất hồn mất vía, cô không dám lấy tay bắt nó,
                        Hạnh bèn lấy khăn nhỏ đặt lên mình con vắt “lôi” nó ra. Chẳng những nó không rời ra khỏi bắp chân cô, mà thân hình nó càng dài và trơn tuột. Chợt nhớ bọc vôi ăn trầu gói trong lá chuối, cô ngồi phịch xuống dưới đất, vội vàng mở gói vôi ra, bẻ cành cây ngắn, Hạnh quệt vôi mà trét lên con vắt. Lập tức hai con vắt hút máu người đã mập ú liền nhả miệng ra khỏi ống quyển, nó búng ra một đoạn, có con còn ngó ngoáy, nhảy đành đạch trước khi nằm ngay đơ. Từ khi hai con vắt rời ra khỏi chân cô, máu vẫn chảy trên bắp chân ngứa rần. Gớm kinh khủng.

                        Các cháu vất vả khó nhọc thồ bốn bao than trên hai chiếc xe đạp cũ từ trong rừng sâu ra ngoài đường cái, để Hạnh chờ xe khách đem than đi Sài Gòn bán mới có giá; nếu trót lọt về gần đô thị thì giá than càng cao; từ Rừng Lá đi Sài Gòn, xe hơi ngừng lại rất nhiều ụ chốt trạm gác để công an kiểm soát giấy tờ tuỳ thân, hàng hoá. Muốn trơn lọt thì khách hàng cũng như tài xế phải lo lót “tiền đường”, mới mong trơn tuột lọt qua ải. Mặc dù qua nhiều chốt siêu cao đóng thuế nặng, khi đem tiền về cho gia đình, thì chẳng còn bao nhiêu. Nói chung, người lao động trong rừng rú khổ cực trăm bề, họ cầm đồng tiền khiêm nhường tí xíu chưa nóng tay, lo nợ cũ chưa trả hết đã đèo “gối đầu” thêm nợ mới, cứ thế chất chồng lên cao. Phần tiền ít ỏi còn lại, họ chi tiêu đủ mọi thứ củ: khoai, sắn, cá khô, mắm muối là thứ cần thiết nhứt, để dành dụm ăn khoảng mươi ngày. Tóm lại nợ vẫn hoàn nợ, mà thân thể cứ bào mòn theo thời gian.

                        Hôm nay Hạnh đem “hàng” đi bán, vì mang vác than củi nặng không xong, đi rừng thì sợ điả sợ ve, vắt… nên cô chỉ được mỗi việc tương đối nhẹ nhàng “đi bán mua” xí! Ngồi sau cuối đuôi xe, Hạnh giật thót người và điếc con ráy, khi tên lơ đu cánh tay trên cửa xe, dùng tay kia đập rầm rầm vô thùng xe vừa la vừa hét: “Dzô… Dzô…”. Tên lơ xe nhảy phóc xuống đường lúc xe chưa kịp lết bánh, nó lanh lẹ bưng những bao hàng: than, tiêu, điều… của khách chất đống bên lề đường, nó thảy lên xe, quăng bừa bãi chật cứng trong lòng xe, bất kể đụng chân cẵng khách đang ngồi, Hạnh sợ hãi mệt mỏi co hai chân lên băng ghế dài. Lơ xe bảo bà con cứ ngồi lên những cái bao bố đó. Lúc xe ngừng ở trạm Long Thành, cô thấy một người đàn bà luống tuổi, ăn mặc bẩn thỉu rách rưới, đứng giữa trời khua tay múa hát rồi vật vã liên miên cười khóc, bà ta không còn tỉnh táo.
                        Thật quá thương tâm. Sự khốn đốn cùng khổ đã vùi dập bao người tiến thối lưỡng nan ở lại, để bươn bả bòn mót rau trái hiếm hoi trong rừng, cũng chẳng có, vì cây quả không thể sống sót do sự bới móc săn lùng của con người và giống vật tinh khôn. Mà mọi người trong khu xóm tồi tàn có muốn ra đi khỏi nơi đây kiếm sống, cũng không thể được, chớ nói gì đến có cơ hội, có tiền tài có cơ may mà tìm đường vượt biển. Ở thời buổi chao đảo đói kém khủng khiếp nầy, họ còn tỉnh tảo như Hạnh nếu chưa điên cũng sẽ khùng mà thôi!

                        Lúc bán than xong, cô leo lên xe bus tới nhà bạn Kim Chung ở đường Hai Bà Trưng, để hỏi thăm tin tức, mà kẻ sống nơi khỉ ho cò gáy như mình cần biết. Vừa tụt xuống xe Hạnh gặp Hoàng Năm, thật là “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” , không có cái mừng rỡ sung sướng hạnh phúc nào sánh bằng! Ôi! Hai người kéo nhau vô tiệm kem gần nhà Kim Chung nói nói nói… thao thao bất tuyệt từ chuyện sau khi chia tay nhau đến bây giờ. Nói gì nhiều thế không biết, từ lúc mười một giờ sáng đến tận ba giờ chiều không mệt! Sau đó, Năm đập tay xuống bàn cái rầm:
                        - Ui trời đất ơi! Gặp em tình cờ anh mừng quá, quên cả đói. Bây giờ mình qua bên Trần Quang Khải ăn cơm vĩa hè nhen. Anh đói lắm rồi.
                        Đi bộ qua bên Trần quang Khải, họ kêu cơm phần có cá nướng, thịt heo kho trứng vịt, một tô canh chua, ly nước trà đá. Hai người rỉ rả ăn vừa chuyện trò. Bỗng Hạnh nhìn Năm đăm đăm rồi kề tai nói nhỏ:
                        - Anh từng học lái tàu bay rồi, mình làm một chuyến “không tặc” nhe. Anh thấy sao?
                        Hầu như Năm giật bắn người, không tin ở tai mình khi em dám bạo gan bạo phổi nói vậy!
                        - Ui trời!
                        - Làm gì mà nhác hơn cáy vậy anh?
                        - Em tưởng chuyện kinh khủng đó là trò chơi à! Em thiệt tình điếc không sợ súng mà?
                        - Dẫu sao em bây giờ quá sức khổ cực, cay đắng trăm bề. Em đã rớt xuống tận đáy xã hội rồi, thì còn gì để sợ nữa chứ.
                        - Đành thế. Nhưng mạng sống cao quý lắm, em phải trân trọng. Kế đến là… nếu mình làm chuyện ấy, chẳng khác nào tự ý đi tử hình.
                        - Nếu anh không muốn, thì thôi. Em tìm người khác.
                        Sau khoảng mươi lăm phút im lặng ăn uống, Hoàng Năm thì thào:
                        - Em nè, bộ anh ngu hay sao mà không muốn thoát ra khỏi chốn nầy. Nhưng muốn làm gì, cũng phải đắn đo cân nhắc lựa chọn, tìm biện pháp thích nghi ứng dụng lúc thuận tiện. Nói chuyện nầy ở đây không tốt. Mình đi chỗ khác vắng vẻ hơn, khỏi có ai dòm ngó.
                        - Ta đi đến nhà bạn Kim Chung, cô ấy làm trong Hàng Không Việt Nam đó.
                        - Ô! Còn gì bằng.
                        Thay vì đi bộ, họ vẫy xe xích lô đi cho mau, họ đến nhà Kim Chung lúc vợ chồng bạn & hai con nhỏ ăn cơm tối. Kim Chung mời hai người ra ngồi tạm ngoài phòng khách chờ giây lát. Sau khi Hà (chồng cô) ăn cơm xong, anh ta (kiến trúc sư) cần đi vô sở làm việc dang dỡ. Cô giới thiệu Hoàng Năm với bạn xong, liền nói về mục đích việc thăm bạn hôm nay. Nghe xong Kim Chung mừng rỡ tỏ ý ưng thuận ngay. Thật ra vì không có vàng nhiều, nên bạn muốn chồng đi vượt biên trước. Bây giờ nghe bạn đề nghị, cô mừng vui khôn tả xiết.
                        Hạnh hỏi Năm:
                        - Vậy anh có muốn hợp tác với em không?
                        - Muốn lắm. Nhưng… có nhiều vấn đề cần yểm trợ về việc anh nghiên cứu, chẳng hạn như: biết lịch trình chuyến bay từ Sài Gòn đi Cà Mau, phải có bản đồ, lịch bay, la bàn, sách tham khảo liên quan đến máy bay, có bản vẻ trong lòng phi cơ, vân vân…
                        Kim Chung vội vã nói:
                        - Việc nầy… em sẽ cung cấp tài liệu, cách điều hành họ khác ngày xưa ra sao, tin tức cập nhật. Danh sách phi hành đoàn, hành khách, giúp ưu tiên mua vé máy bay. Tóm lại em không có tiền đóng góp vô nhóm, nhưng sẽ cung cấp những gì anh Năm cần, hoặc việc gì liên quan đến chuyến bay chẳng hạn.
                        - Tôi cám ơn chị. Còn em, anh cần bốn năm nhân lực vạm vỡ, kín đáo, gan dạ, tháo vát; để giúp khi anh lái phi cơ, nếu lỡ bị họ phát hiện, bị hành hung, thì mấy người đó sẽ lanh lẹ “xử đẹp” họ. Trước tiên anh huấn luyện họ, chỉ cho họ biết cụ thể vị trí mỗi người khi hành động. Cần một súng lục, bốn dao găm. Đồng thời cần tiền chi tiêu xoay xở những việc từ lúc khởi sự, di chuyển, đến khi mua vé máy bay cho nhóm mình. Chúng ta phải bỏ tiền ra “bao” bốn lực sĩ từ A đến Z, cùng nhau đóng góp công của. Nói vắn tắt như vậy, nhưng chúng mình phải họp nhau nhiều lần bàn tính chi tiết cặn kẽ hơn.
                        - Vậy được rồi. Anh lo về việc lái tàu bay, điều hành, chỉ đạo, lập ra kế hoạch, tổ chức chu đáo và cụ thể, mình sẽ bàn tính kỹ ở tuần sau. Còn em lo kêu người có khả năng đóng góp tài chánh, “sáu nhân lực phi thường”. Bây giờ em đi về. Hẹn anh tuần tới ở nhà Chung. Kỳ họp thứ ba sẽ chuyển đi nhà người khác bên quận Tư, và quận Nhứt.

                        Mọi người hân hoan chia tay nhau. Hạnh tót lên chuyến xe hàng quen thuộc của bà Tám Te từ miền Tây đi Phan Thiết. Ngồi co ro ở băng ghế cuối cùng rất chật hẹp, hôi hám mùi phân gà phân heo, những tiếng gáy ò ó o, tiếng cục tát kèm với tiếng ụt ịt kêu la của “mấy mụ heo cái” nghe rân trời, nhưng lần nầy Hạnh không cảm thấy đinh tai nhức óc như mọi khi, vì trong lòng cô “bận” tưng bừng trổi lên bản tình ca muôn điệu, ru hồn cô reo vui bay bổng lên chín tầng mơ mộng! Về tới Căn Cứ 2 cô vội nháy nhó mấy cháu đi ra suối, Hạnh nói lại hết mọi dự tính. Tất nhiên các cháu trai vô cùng mừng, tưởng như họ bị ngộp thở dưới đáy sông, được vị tiên giáng thế lấy cây vợt thần chìa ra vớt họ ngoi lên bờ.

                        Kể từ hôm đó các cháu lo chăm chỉ cố gắng đi làm nhiều ngày giờ hơn, đã khổ lại khốn đốn hơn, cực càng cực hơn, nhưng họ không sờn lòng nãn chí; ngỏ hầu nuôi hy vọng ngày mai chân trời mới sẽ nở hoa! Ngoài tiền chi tiêu trong gia đình, họ còn lo dành dụm chắt chiu từng đồng, để mua bộ quần áo, vì sợ người ta nghi ngờ lối phục sức khiêm tốn bần hàn, nhưng sao có tiền mua vé máy bay đi đâu, làm gì mà dao rựa sáng loáng sắt bén vậy!? Bộ tính đi Cà Mau làm nghề “mổ heo”!? Hẳn là người chân chất thật thà như các cháu sẽ ú ớ, thì lộ tẩy ngay. Đúng là “dân rừng núi” cùi cụi mà lo xa đa nghi như Tào Tháo.

                        Hạnh và Châu vài tuần đi Sài Gòn một lần gặp các bạn, qua những lần hội họp kín đáo, nghe Hoàng Năm trình bày rõ ràng từng chi tiếc, lập kế hoạch, cắt đặt phân công cho ai làm việc gì trên phi cơ, v.v… thì cô mời được gia đình Phương, Phương rõ trong nhóm rất cần tiền, tuy không thể giúp công, vì chồng già đông con mọn quá nhỏ, nhưng cô đồng ý đóng năm cây vàng, đồng ý bao trọn gói “làm việc ấy”.
                        - Ngọc Hường ở ngả sáu Phù Đổng Thiên Vương gồm bà và ba đứa con xin đi theo – không có tiền, không có vàng- nhưng bà bảo đảm mọi người đến họp trên lầu 5 rất an toàn, bao ăn ở trước khi “lên tàu” di chuyển… Ngọc Hường hứa chắc chắn cho nhóm mua được cây súng lục. Hạnh nễ chị nầy, vì có bà mẹ giàu và em trai bà ở trong tù “cải tạo” đối đãi với gia đình Hạnh rất tốt. Tóm tắt mọi người không ai có tiền, tất cả chỉ nhờ vào “ơn mưa móc” của Phương mà hy vọng “dựng lên cơ đồ”.
                        - Gia đình Hạnh + Châu= 12ng. (+ 4 bạn võ sĩ "hành động" của Châu= 16ng). - Gia đình Hoàng Năm = 5 ngưởi. - Gia đình Kim Chung= 4ng. - Gia đình Phương 12ng. Tổng cộng: 37 người lớn, nhỏ.
                        Phân công: Ngọc Hường nói với mọi người trong nhóm:
                        - Em trai tôi là An đồng ý mua giúp cây súng 800 đồng (thời giá lúc đó hơn hai cây vàng).
                        Mọi người vui mừng, bước đầu đã thấy “thuận buồm xuôi gió”. Hạnh tin tưởng “bà chị vu vơ” không hề đắn đo, đã xiả ra sáu trăm tại chỗ, cô hẹn khi nào giao súng sẽ chi thêm hai trăm cuối. Sáu ngày sau Hạnh đến đúng hẹn, bà Hường đưa cây súng thiệt –nhưng không có đạn giao ra cho cô- Hạnh chưng hửng mở to mắt cự nự:
                        - Chị làm ăn cái kiểu gì thất tín ác ôn vậy hả? Có súng không có đạn, làm sao bắn?
                        - Em đem súng đi trước, đừng để ở đây, vì người giao hàng biết nhà, coi chừng bể ổ.
                        - Nhưng khi nào mới có đạn?
                        - Em cứ đưa hết tiền còn lại cho chị, họ nói tiền trao đạn phải có!
                        - Mấy ngày có đạn?
                        - Chậm lắm là mười ngày. Bảo đảm.
                        - Khi nào có đạn, thì em mới giao hết tiền.

                        Tức giận vô cùng, nhưng đã leo lỡ lên lưng cọp, đành nuốt giận, cô dắt cây súng lục nặng trịch lận nó trong lưng quần tây đặt trước bụng. Cái bà Ngọc Hường thiệt khốn nạn, coi mạng sống người khác như cỏ rơm không bằng, bà đưa cho mình củ súng tơ hơ tốc hốc, chẳng hề có bao bị, không có sợi dây cột “con cò” (máng vô cổ, sẽ không tuột không rớt). Bà ta muốn “tống khứ” của nợ, xô mình mau mau đi khỏi tầm mắt, bà chỉ biết có tiền. Trong vụ “áp phe” nầy chắc chắn bà ta cuỗm tay trên ít nhứt là năm sáu trăm bạc, cũng có thể bà ta nuốt trọn tiền. Hạnh nghi khẩu súng nầy của chồng bà (là Trung-tá...) chớ phải chơi. Hạnh suy đoán như vậy là do cô muốn tận tay “tiền trao cháo múc” với cậu em An nào đó. Thì bà ta liền dẫy nẫy lên, cương quyết không muốn Hạnh gặp mặt tên ấy, (chỉ qua trung gian cuả bà).

                        Nhưng muốn “làm nên đại sự” cô cóc cần chuyện vụn vặt ăn chặn kia làm gì. Mặc xác bà có tính gian trá láo lường, đến nỗi khi chồng bị tù "cải tạo", mấy mẹ con bà ăn không ngồi rồi chạy “áp phe” tính hoang phí tiêu xài đã quen không chừa thủ đoạn nào, ôi thôi mọi mánh lới bà ta không thể tả hết, nên bà dạy con chẳng có đứa nào ra hồn. Hạnh gò lưng trên chiếc xe mi ni đạp chầm chậm, nếu chạy xe mau, sợ cây súng rớt xuống đường. Cô đạp xe trên đại lộ Lê Văn Duyệt, băng qua bùng binh chợ Bến Thành, đi dạo tới khu nhà hàng Mỹ Cảnh một chút, liếc lui nhìn tới ngó quanh, Hạnh sợ bà Ngọc Hường cho người theo dõi mình, rồi “tống tiền” thêm đợt nữa, thì có nước mình nhảy xuống sông Sài Gòn “tự dận” cho rùi. Sau đó cô qua cầu Khánh Hội vô khu Trịnh Minh Thế. Chằng hiểu sao lúc nầy cô không hề sợ hãi chút nào, can đảm lận trong bụng cây súng chết người như vậy?! Có lẽ do sự sống đớn hèn cùng khổ hiện tại đã khiến cho mình quá chán ngán, đắng cay vô cùng, nên cô đâm ra gan lì chai đá không sợ chết là gì.
                        Bấm chuông cho bạn mở cổng sắt ra, Hạnh thì thào:
                        - Có súng rồi.
                        Phương đang bưng tô canh chua trên tay, đã rơi tung toé xuống nền gạch, mặt bạn xanh léc hai tay run rẩy; đủ biết cô ta sợ hãi đến cỡ nào:
                        - Ui trời! Giữa ban ngày, mà bồ lận súng đi khơi khơi ngoài đường thế, không sợ à.
                        - Ừ. Nhưng có thứ khác còn đáng lo sợ hơn.
                        - Vào nhà nhanh lên.
                        Vừa dựng chiếc xe đạp bên mé vách tường, lọt chân trong chân ngoài chưa kịp cất chiếc nón lá ra khỏi đầu, Phương liền kéo tay Hạnh vô phòng, rù rì to nhỏ:
                        - Bồ bị theo dõi sao?
                        - Không.
                        - Cái gì?
                        - Súng chưa có đạn.
                        - Giời ạ! Không có đạn, vẫn bị tù mục xương vì súng đấy.
                        - Vẫn biết vậy. Nhưng cùi rồi, hổng sợ lở.
                        Hồng Hạnh kể lại chuyện bà Ngọc Hường cho bạn nghe. Phương bất bình:
                        - Bà ta là tay chẳng vừa. Tôi cũng nghĩ như bồ.
                        Phương lấy túi vải đen bọc cây súng, dùng sợi len quấn túi vải lại, bên ngoài cô quấn thêm vài lớp bao ni lông. Hai người rón rén leo lên gác xép, Phương mở tấm ván nhỏ trần nhà ra, cô cầm cây súng đưa cho bạn, do không ngờ súng nặng, suýt tí nữa thì nó rơi xuống sàn nhà, Phương hốt hoảng đưa tay kia chụp lại:
                        - Ối giời! nó nặng thế cơ à? Tôi quá phục bồ.
                        - Hừ! Bộ bồ tưởng súng cao su chắc. Súng thật đó.
                        - Nói khẽ chứ. Bên dưới xóm người ta nghe đấy.
                        - Ừ nhỉ.
                        Phương nhô mình ra mé cửa sổ, đảo mắt nhìn quanh phiá dưới đất một vòng. Yên trí không có ai dòm ngó lên ô cửa, Phương nhéc cây súng dưới mái ngói cẩn thận, rồi đậy tấm ván lại kỹ càng. Hai cô kẻ trước người sau tụt xuống gác xép:
                        - Bồ ở lại ăn cơm nhá.
                        - Không, mình phải về cho kịp chuyến xe, kẽo trời tối và mưa.
                        - Trước khi ấn định ngày chính thức GO (hai tuần), bổn phận Hạnh phải leo lên máy bay, đi từ phi trường Tân Sơn Nhứt xuống Cà Mau-, để dò đường- cô mang theo ở xách tay vài bộ quần áo, ít thức ăn, một cục cân bằng sắt nặng một kilogram, được gói trong một kí lô nếp, bên ngoài bọc nhiều lớp giấy báo bọc ni lông phủ lên. Cô hỏi Hoàng Năm:
                        - Em đem theo cục sắt đó, để làm gì vậy?
                        - À, để “sắt” trong người, hoặc trong hành lý, thứ nhứt cục sắt bọc trong nếp, hầu như ít khi bị máy dò phát giác ra. Thứ nhì mình coi nhân viên an ninh có kiểm soát khi hành khách lên xuống tàu hay không, nếu phát hiện cục sắt nầy, họ nghĩ em đi buôn. Biết rõ như vậy, mà đề phòng khi mình mang súng lên máy bay.Thế là Hạnh mua vé đi hai chiều lên tàu bay xuống Cà Mau ở lại hotel vài ngày "lêu lổng", rồi lên phi cơ trở về Sài Gòn. Cô kín đáo lặng lẽ quan sát từ cách kiểm soát vé, kiểm soát hành lý, khi vô trong khoang máy bay cô ngồi ở hàng ghế đầu, gần cửa vô phòng lái, nhẫm tính xem độ xa nơi mấy hàng ghế đầu, đến cánh cửa phòng lái, thì cách xa khoảng bao nhiêu bước chân cuả mình, (hoặc nhắm chừng xa mấy mét). Cô ghi nhận giờ bay từ Sài Gòn đi mấy giờ, quan sát trên dưới. Vân vân… Nói chung phải ghi nhận từng chi tiết, để lúc trở về cô trình báo lại cho Hoàng Năm rõ từng chi tiết, để anh hoạch định phương cách tấn công, dự trù nhiên liệu xăng nhớt đủ từ Sài Gòn bay đi xin tỵ nạn ở nơi khác.
                        Đối đế lắm thì dùng cách thứ hai: mọi người đi xe đò xuống Cà Mau ở vài ngày, rồi từ Cà Mau bay đi… ngoại quốc, thì tiết kiệm nhiên liệu hơn từ Sài Gòn bay thẳng đi Thái. Nhưng di chuyển bầu đoàn thê tử đùm đề ngồi trên xe đò, nhiêu khê rắc rối không ít, nhứt là mình đi xe đò thì công an nghi ngờ người Sài Gòn xuống vùng biển lạ cái lạ nước, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” chờ vượt biên. Thế nên chọn giải pháp “du lịch trên phi… tầng cao vút” là chắc cú.

                        Nhiệm vụ của Hạnh trong "chuyến bay dò la..." đi kể như hoàn tất tốt đẹp. Lúc về, cô mua nhiều trái cây, chim quay, thịt heo quay, thịt vịt, hột vịt lộn, mua ê hề mọi thứ bánh trái đem lên phi cơ, họ không kiểm soát gắt gao như công an cán bộ làm việc dưới đất, nhân viên dưới đất ở trong phi trường, hoặc trên phi cơ đều ơ hờ lỏng lẻo, có quá nhiều khe hở, họ chẳng đóng cửa ngăn phòng lái với hành khách, cho dân mang cuốc xẽng liềm hái lên phi cơ vắng người, khách chân vắt trên ghế bên cạnh ngủ ngáy khò khò, chả ai thèm lưu tâm. Cô đem quà bánh về chia cho nhóm bạn và gia đình chị Sáu ăn no nê. Thức ăn miền Tây thứ gì cũng tươi ngon và quá rẻ.

                        Sau đó, Năm vẻ dự đồ theo ý Hồng Hạnh mô tả, anh phân công tập dợt cho Châu, Trân, Vân và bốn người bạn cuả Châu, mỗi người đàn ông ngồi phiá bên ngoài (lối đường đi lên đi xuống ở mấy hàng ghế đầu, ngoài), đàn bà trẻ nhỏ ngồi sau, phiá cửa sổ). Châu bọc khẩu súng lục ngồi ngay hàng ghế đầu, gần cánh cửa buồng lái. Bốn võ sĩ đạo chia hai cánh ngồi bên Châu và Hoàng Năm, hai anh nữa ngồi trên hàng ghế thứ nhứt, thứ hai. Nếu cửa phòng lái hôm đó đóng, trước tiên một anh xông tới chỗ người gác phone, không cho họ bắt máy liên lạc các tần số. Người khác dùng dao uy hiếp tiếp viên bắt họ mở cửa phòng lái, lúc đó Châu cầm súng, hai võ sĩ nhảy vô uy hiếp phi công chính, để Hoàng Năm cướp cần lái. Trân, Vân, Sơn ngồi ở hai bên phải, trái (của hàng ghế thứ ba) dùng băng keo dán miệng mấy tiếp viên, trói họ, mời họ ngồi xuống ghế, cũng như trấn an hành khách. Dự tính như thế, họ ráo riết tập dợt nhuần nhuyễn suốt ba ngày. Công nhận bốn ông võ sĩ Karate và Nhu Đạo đều to con, phốp pháp lực lưỡng, ít nói lầm lì, ăn uống như hung thần, thấy phát khiếp.

                        - Anh chị em trong nhóm tự mua vé máy bay đi Cà Mau vào ngày 05 tháng Năm năm 1978, chuyến bay lúc 7:45’ sáng. Có một số người ở xa không đi mua vé đúng lịch bay được, (như gia đình Châu và bốn người bạn độc thân làm "cảm tử", không muốn đưa cha mẹ anh em theo) thỉ Kim Chung nhận tiền mua vé giúp họ. –Phần gia đình Kim Chung, Ngọc Hường và Hoàng Năm tự đi mua vé. (do Hạnh làm thủ quỷ, dĩ nhiên đã đưa tiền cho mọi người. Tiền bạc chi tiêu, mua súng, linh tinh… đều công bố rành mạch, nay tồn quỷ tám trăm chín mươi bốn đồng).
                        Lúc “dòm vô túi tiền của nhóm”, Kim Chung thấy… thì nói:
                        - "Mình cần tiền để cho đứa em gái ở lại trông coi nhà, lỡ gia đình đi không được, còn có đường quay về”,
                        Kim Chung nĩ Hạnh cho cô ta "mượn" một cây vàng, cô hứa sau nầy ra nước ngoài sẽ trả lại cho nhóm. Cũng như Hoàng Năm đã "nhờ" Hạnh đưa một cây vàng, để Năm giao cho vợ ở nhà chợ búa cơm nước lo cho con, sắm sữa áo quần… để anh yên trí lo cho mọi người vui vẻ lên đường. Sau khi trừ tất cả chi phí, trong nhóm chỉ còn chín mươi bốn đồng. Nhưng cô nghĩ: vàng và tiền đưa tới hai bà Ngọc Hương, Kim Chung (sau nầy Kim Chung bỏ tên cúng cơm cũ, khi làm ở Air Việt Nam đổi tên Thu Thuỷ), Ngọc Hường, và Hoàng Phương Nam, hoặc Hoàng Năm (tự Tony), có lẽ tới tết Congo cũng chả lấy lại xu nào. Họ mê tiền hơn cần tình cần nghiã, họ trái ngược với Hạnh chỉ cần lưu giữ nghĩa tín trung và trung thành gắn bó trong tình cảm. Okay! Thây kệ! Đời là thế.
                        ***
                        Mọi người không ai ngủ ngáy gì nỗi, vì bồn chồn khắc khoải, lo âu trăm bề băn khoăn ray rứt tột cùng. Ngày mốt đi rồi mà hôm nay hỏi Ngọc Hường về vụ đạn, thì chị ta ú ớ, ngẩn tò te cúi cúi liếc liếc, coi như “tên ấy” xù! Bỉ ổi hết sức. Ai ai cũng tức nghẹn đắng cổ họng muốn ói máu. Chán ngấy không thể nhổ bãi nước miếng vô mặt chị ta. Bốn anh võ sĩ bàn:
                        - Nếu không có đạn, đem súng đi làm gì vô ích, càng bất lợi. Thôi thì liệu mài dao găm dao nhíp kín đáo nhéc vô túi xách cạp quần cho gọn. Còn tụi tui sẽ ra sức “thượng cẵng tay hạ cẵng chân” mà dùng thế võ… thế thời phải thế. Cứ y như những buổi luyện tập trước mà hành động, ắt sẽ thành công tốt đẹp. Cứ vững tin đi. Không lo âu làm gì cho mệt.

                        Một điều hết sức bất hạnh vô cùng bức bối không thể khóc, chẳng thể cười ra nước mắt nữa: khi tạm ổn mọi lo toan chằn chéo dồn nén, cùng bao cay đắng mỏi mệt hãi hùng ùn ùn chất chồng tạm thời lắng xuống, đùng một cái nhà nước ra thông cáo toàn cõi đất nước Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam nội bất xuất ngoại bất nhập – mọi người mọi nhà phải đi đổi tiền lần thứ hai vào ngày 03 tháng 5 năm 1978.

                        Ôi Trời! Quả là sét đánh ngang tai. Một cú búa tạ long trời lở đất đã giáng xuống đầu cuả nhóm 37 người (nói riêng), và bàn dân thiên hạ (nói chung). Mọi thứ trên đời nầy cơ hồ sụp đổ xuống đáy vực, họ hy vọng ngày mai tràn đầy tươi sáng bao nhiêu, thì bây giờ chỉ đem lại sự thất vọng não nề, chán nãn tuyệt vọng tột cùng bấy nhiêu. Không có đau đớn nào bằng sự sụp đổ toàn diện trong mưu sự tại nhân, mà thành sự tại thiên nầy. Ngày mai vui tươi hạnh phúc không bao giờ đến với 37 người kia ở vùng đất mới. Vì những ngày tiếp sau đó chẳng có tàu bè "bay bổng du hí du dương" gì hết ráo.
                        Tất cả tàu bè phi cơ "phi... pháo" gì đều nằm ụ một đống "bế quan toả cảng" mất rồi. Đấy là sự thật và chuyện buồn rất nghiệt ngã đau đớn khôn lường, nhóm họ ôm nhau khóc hu hu hu…
                        *
                        Tình Hoài Hương


                        Mời độc giả xem tiếp chương sau
                        Trân trọng
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 04:38 PM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • #42
                          Nghẽn Đắng Lòng Thiệu & Nị



                          Huấn Luyện Phi Hành
                          Phần Thứ Ba
                          Chương 32
                          Nghẽn Đắng Lòng Thiệu & Nị
                          Tình Hoài Hương


                          Hương vị yêu thương như cây thông luôn tươi tốt xanh mướt ngày ngày lớn dần lên, choàng vô lòng Thương Nị nhiều say đắm, ước mong, hy vọng ngọt ngào bao năm tháng niềm tin yêu vừa khởi sắc bừng lên trong cuộc sống. Nị chợt thấy những xôn xao đê mê rộn ràng như thời trẻ dại xa lắc xa lơ nào đó, tưởng đã vụt xa bay trong niềm luyến lưu hoài mong đau buốt, hoặc ray rứt, muộn phiền, bùi ngùi và tiếc ngẩn… Nào dè "cơn say" dường như bừng sống lại từng ngày từng tháng luyến nhớ anh yêu! Khi “người ấy” thốt lên câu:
                          Bây giờ mận mới hỏi đào
                          Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
                          Nị cười rất xinh:
                          Mận hỏi thì đào xin thưa
                          Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
                          ! (1)
                          Rồi “chàng” đã vui vẻ ướm lời:
                          Thân trai cũng mười hai bến nước,
                          Nặng nỗi lo vô phước gặp 'chằng'.
                          Thế nhưng, chuyện chẳng khó khăn,
                          Miễn là khéo nịnh, khéo ăn, khéo 'mần'
                          , ". (2)

                          Thế rồi anh Thiệu gõ e-mail thế nầy: Hình em chụp mấy tấm rõ ràng nhưng nhìn nghiêng, nên anh không nhận ra em được, khi tình cờ gặp em đâu. Nếu không hẹn trước là chịu, anh dám ôm hôn ẩu kẻ khác lắm à nghe. Em liệu đấy, hổng trách anh được à. Em đẹp và có nét quá đi, bởi vậy mới là hoa hậu chứ. Hình đầu tiên em nói chụp năm vừa qua, sao trẻ quá vậy? Anh nói em 40t không ai tin. Còn hình cười thì cỡ vừa ngoài 40, thấy khá đẹp và trẻ hơn tuổi đó nghe. Bây giờ chúng mình gặp nhau muộn màng, đã có tuổi rồi, anh không kỳ vọng gì nơi em như xưa đâu. Dĩ nhiên đầu có bạc, da nhăn nheo, chẳng có sao phải không, ai đòi hỏi em phải săn đầy như vài ba chục năm về trước được ha.

                          Anh biết chớ, ai cũng vậy, em còn được vậy là #1 đó! Anh cần cái tình nồng nàn và chân thật của em hơn nhé, coi anh như #bis là ok nghe. Mong sao mình còn có nhau với hạnh phúc đến hết đời, là mãn nguyện! Thương em quá đi, cưng lắm nghe. Nếu kẹt gì không mail, đừng phiền trách nhau nha. Anh dặn trước vậy! Không nghe là đánh đòn, hổng thèm yêu đó! Anh rất thương và yêu em lắm nghe. Anh nghĩ đến em hoài, nhưng ở xa xôi đành phải chịu thôi em ạ! Lâu lâu có chuyện gì cần nói và chat, mình hẹn nhau.

                          Anh còn nhiều chuyện làm lắm em ơi. Như ngày nay anh không nằm nghỉ được 1/2 giờ nữa đó. Em yêu! Hồi trưa vừa chat với em xong là anh lại bận. Số là như vầy, anh có mấy bạn cùng khoá ở Minnesota đi thăm vợ của một bạn khác bị cancer, họ kêu anh tới ăn cơm chiều, vui chơi với mấy anh chị nầy cũng lu bu hết ngày. Bây giờ lo thêm cái vụ sân cỏ nữa, anh định diệt cỏ trước xem sao cái đã. Dù lót đá hay cỏ giả gì, cũng phải diệt nó. Vì trước kia anh cứ nghĩ nó là một loại cỏ, nên không diệt từ đầu, bây giờ mới mệt cầm canh. Ngày mai sau khi đi bộ xong, anh đi ra Walmart gần nhà, để tìm thuốc diệt cỏ, và mua dụng cụ đào cỏ xem sao. Bye em, anh hôn em & đi ngủ nghe.
                          Th
                          *
                          Ngờ đâu… khi Thiệu chat, nói chuyện phone với Nị qua những câu thơ, ca dao và những lời ấy, anh “gieo quẻ” đầu năm hỏi “thăm em”, thì… Thương Nị quyết định mang tình yêu chân thật và say đắm đến “thăm anh”; ấy là một buổi sáng mùa Xuân đầu năm 2008, Nị tới phi trường lấy boarding pass trên chuyến bay 2398 từ vùng WPB, lúc 11:20 am’ ngày 14 tháng Giêng, để đi tới phi trường HB intl vào lúc 01;15 pm’. Anh nào có biết khi Nị ngồi tại seat 14A ở trong phi cơ, tâm trí cô ngổn ngang trăm mối tơ vò ra sao!? Nị hình dung lúc gặp anh, là cô cảm thấy nôn nao, vui vẻ, xao xuyến, bồn chồn, hồi hộp, băn khoăn kỳ lạ. Thế rồi phi cơ hạ cánh.

                          Dù nôn nao đợi mong buổi kỳ phùng, nhưng Nị cố ý kéo dài thời gian hội ngộ, cô đi vòng vo đây đó khá lâu, rồi từ xa xa Nị đã thấy Thiệu đứng đơn lẽ tại cổng ra baggage claim như đã hẹn. Anh mặc chiếc áo da đen, áo sơ mi màu xanh, quần đậm màu, mang đôi giày sport. Còn Nị mang giày cao 9 phân (vì anh cao 1m83, nên Nị phải mệt mỏi "dện" đôi giày cao gót, cũng đành chịu mỏi). Có lẽ do Nị “hóa trang” mặc quần bó áo lạnh rộng, đội mũ vành to sụp xuống gần lông mày, đeo kính mát đậm thành “cao bồi vườn", coi "ngầu” một xí, nên anh không nhận ra em chăng? Nị là người cuối cùng nghiêm trang từ từ kéo carry on đến gần anh, Thiệu xê dịch về phía em, hơi mỉm cười anh ngập ngừng hỏi:
                          - Xin lỗi, có phải cô là…
                          Thiệu chưa nói dứt câu, thì Nị không thể cưỡng lại lòng mình: reo vui mừng rỡ toét miệng cười tươi sà vô lòng anh. Họ ôm chầm lấy nhau, anh cúi xuống hôn phớt nhẹ vào má Nị, rồi vui vẻ kéo carry on đi, còn tay kia quàng qua vai Nị, anh dừng lại tìm môi Nị. Không chịu ngoãnh đi, Nị thẹn thùng xô nhẹ anh ra. bảo:
                          - Coi chừng có người nhìn thấy. Kỳ quá anh à!
                          Thật ra thì trong bụng em bảo dạ:
                          "Con ếch ngồi dựa gốc bưng.
                          Nó kêu cái "quệt", biểu ưng cho rồi
                          ". (1)
                          Cười cười bấm alarm bỏ carry on vô cốp xe, Thiệu vô băng ghế giữa, Nị ngồi bên cạnh:
                          - Bây giờ ngồi trong xe, “cửa đóng then cài” kín đáo rồi, em không mắc cỡ nữa ha!
                          Nị gối đầu lên ngực anh, họ đắm đuối tìm môi nhau. Vài lần sau thì Nị không còn e lệ rụt rè bẽn lẽn… Khi về tới điểm hẹn, hai người vô nhà hàng Kim Sơn ăn trưa, rồi anh dẫn Nị đi mua thức ăn, để ăn tạm mấy buổi sáng cho đỡ ngán, Còn những buổi ăn trưa, tối, dự tính sẽ ăn buffet, vì nơi đây không có nhà hàng Việt Nam. Thiệu nhìn Nị tươi cười:
                          - Em biết lúc nầy anh ăn tráng miệng bằng gì không? Ăn xoài đấy! xoài Thanh Ca màu vàng, họ bán một thùng 14 trái lớn, cỡ 13 dollars, mua về để cho vàng, da hơi dùn nhăn một xí, thì ăn rất ngọt em à. Còn hôm qua anh có mua bắp sống $1/6 trái, đem về ăn rất ngọt, bắp Mỹ mà! Em biết cách làm không?
                          - Dạ không anh à.
                          - Không phải luộc đâu nghe, kiểu luộc xưa rồi. Anh chỉ em cách nầy: Em lột sạch vỏ, rồi em lấy giấy paper towel (giấy dày lau tay trên bàn ăn đó) nhúng nước cho ướt, xong bóp giấy cho ráo, rồi quấn kín trái bắp lại, bỏ vô Microwave nhấn nút 4 phút, là nó dư sức chín, em đem ra ăn rất ngọt. Anh ăn kiểu đó không hà! Hy vọng em biết.
                          - Dạ, bây giờ anh nói, em mới biết cách nầy. Ở Florida có bán xoài, bắp tươi mới hái đem về, chợ Mỹ, Việt gì cũng có, nhưng không rẻ như ở đây anh à.

                          Thiệu cất mọi thứ vô xe xong xuôi, như y hẹn từ trước, hai anh em lại vô tiệm Ross cho gần, nếu đi Mall rất xa, sợ không có thì giờ kịp trở về; để đi chuyến du hí đã ấn định. Họ chọn quà tặng cho nhau, hầu đánh dấu kỷ niệm những ngày gặp gỡ. Nị tính mua tặng anh con dao cạo râu điện có ba chấu Remington, nhưng họ đi vài ba tiệm khác, đều không bán. Chi lạ thiệt, nếu biết vậy thì cô mua ở Florida rồi. Vô tiệm Mỹ kia tìm được tủ bán dao cạo râu, ai ngờ khi bà bán hàng cho chìa khóa vô mở cửa tủ kính, cớ sao lại bị gãy lìa chìa khóa dính cứng ở trong ổ? Thiệt tình! Họ đứng chờ hoài không được. Nị bảo:
                          - Hay đây là “cái điềm” báo trước: nếu ai mà tặng dao, kéo... cho nhau, là không tốt, vì trước sau gì cũng “cắt nhau đứt lìa, chia ly vĩnh viễn” chăng?
                          - Có chuyện ấy sao em!
                          - Dạ, em nghe nhiều người nói rồi.

                          Họ không mua dao cạo râu nữa. Nị và Thiệu đồng ý chọn cho nhau mỗi người hai cái áo. Ui! “Mình” tuy hai nhưng chỉ là một, tuy một mà là của hai cơ mà, vì đã hiểu ý nhau, chọn đúng màu sắc, sở thích của người yêu đến không ngờ. Thế mới ngộ. Nị trao tặng anh cái bóp mới kèm $105 dollars, là do cô suy nghĩ:
                          - Cái bóp mới lấy hên là: em trao tặng anh “một trăm năm” hạnh phúc bên nhau hén anh.
                          Cứ dẫy nẫy lên không chịu nhận, Thiệu nói:
                          - Em tốn tiền vì anh quá nhiều.
                          - Vậy chứ anh không tốn tiền mua nhiều món quà cho em ư? Điều quan trọng là cách anh trao tặng món quà, mà em rất vừa ý đó sao? Anh à, có những món quà mình tặng cho nhau; tưởng rằng đắt tiền… hay tự tay em đan cho anh cái mũ xinh xắn, để anh đội đi bộ vào mùa Đông chẳng hạn, hoặc con chó lông xù… như là vật-tín báo hỉ về sự trung thành tình nghĩa. Vậy thôi. Mình đã chọn quà cho nhau thật vừa ý quá chừng, món quà ân tình đậm nét yêu thương ấy, sẽ đi theo chúng mình suốt cuộc đời ngắn ngủi còn lại. Nhưng kỳ thực trong lòng em nghĩ khác:
                          Em xa mình hổng chết cũng đau.
                          - Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền
                          ". (cd)

                          Tiền bạc hay vật chất mình tặng, có khi rồi sẽ hết. Còn tình yêu và hạnh phúc đã trân trọng trao cho nhau, dù chỉ một lần, mà vĩnh cửu một đời, không ai, không có gì có thể so sánh, hay dùng tiền bạc đánh đổi tình yêu, hoặc suốt cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc của riêng ta. Hẳn là anh cũng đồng ý với em điều nầy. Phải không hở anh !?
                          - Anh đồng ý.
                          Xong xuôi, còn dư nhiều thời gian, ngồi bên nhau trong nhà hàng chờ chuyến di hành, họ kể lại biết bao chuyện đáng nói. Gần đến giờ lên đường, hai người ngồi trong xe, cô bắt đầu chọn ít quần áo gọn gàng để mang theo, đồ đạc đàn bà bao giờ cũng rườm rà, Nị chọn lui chọn tới thứ cần thiết qua một túi xách vải khác, cô nghiêng đầu:
                          - Em gởi áo quần ké anh, anh mang vác mệt nghỉ vì em, thì nhớ đời, anh sẽ tởn không dám có bà khác, lại phụ tình em ha.
                          - Rồi anh sẽ có một đời mang nặng em mãi mãi… Em ơi! anh biết em muốn nhắn nhủ gì rồi. Em hãy nghe anh nói: anh biết em yêu anh nhiều lắm, chính điều ấy đã làm phiền lòng em! Anh tức cười chớ không giận, hay bực gì em cả, vì anh biết đó là do bắt nguồn tự tình cảm yêu đương mà em đã dành cho anh. Anh yêu em và anh rất trân trọng tình yêu của mình. Bây giờ anh nhắc lại, để em suy nghĩ nha: Ngày xa xưa ấy… Em suy luận sai, anh không có tình ý gì, anh chẳng biết “họ” là ai cả. Nói lại là KHÔNG rồi; bây giờ NẾU là anh có, cũng là chuyện quá khứ.
                          Anh nói hiện tại ngoài em ra, anh độc thân không có ai hết. Mà anh đã nói “không có”, là không. Còn bây giờ, nếu anh nghe chuyện em kể về em: “hồi trước em có tình yêu như vậy, như vậy...”. Tự dưng anh cằn nhằn, nổi đóa, thì sao nà! Vô lý ha. Việc nữa: anh làm Thơ Vui, là anh nói chọc, chẳng có biểu lộ tình cảm riêng tư gì ở đó đâu em! (chọc phá, chớ không phải chọc để "gò, cua, câu" người ta)! khi anh post bài thơ đó, bạn đọc cho là vui, (không một ai coi anh có tình ý gì cả; ngoài việc chọc cười thôi!). Người kia cũng cảm thấy vui, hay bị quê xí thôi. Em cho anh biết nếu có người thứ hai nào nói như em, thì tội gì anh cũng chịu!
                          - Dạ... dạ.
                          - Ban đầu anh tưởng em giả bộ hờn dỗi là đùa thôi, đâu dè thế. Anh nói lại một lần nữa: Vì biết tất cả là do TÌNH em YÊU anh, vì em ghen mà ra, nên anh không hờn em gì cả! Nhưng em nhớ là mình phải đắn đo suy nghĩ cho hợp lý một chút nghe.
                          - Dạ vâng! Anh nói phải.

                          Đúng 8g30 pm đoàn xe du lịch lên đường. Đến nơi, Thiệu vào check hotel, họ lên thang máy ở từng lầu 15. Phòng ngủ khá khang trang tiện nghi sạch sẽ và rộng rãi. Ngồi bên nhau chuyện trò ăn uống thoải mái, rồi cùng đi tắm rữa, Thiệu kỳ lưng cho Nị, cô kỳ cọ lưng cho anh. Trước khi mua quà tặng, ở nhà anh đã mua sẵn hai chiếc áo thun, một cái có size XX rất rộng, dài, và một cái size L, để khi gặp gỡ, là mỗi người mặc áo ấy, hầu lấy "hơi hướm" của nhau. Rồi khi nào chia tay, họ sẽ trao đổi áo đó đã mặc, đem về nhà mình. Bây giờ họ đã mặc chiếc áo ngàn đời khó quên, như sợi tơ trời dệt gấm hoa tình yêu, sẽ không ai có thể rứt ra mối duyên nầy. Cho dù tuổi đời họ không còn trẻ dại như ngày xưa. Nhưng “tình yêu đôi ta” vẫn nồng thắm duyên mơ, đắm say như thuở mái tóc mình còn xanh vậy.

                          Suốt thời gian hầu như gần một tháng rưỡi nay Nị bị cảm cúm, ho kinh khủng. Khi lên phi cơ đến với anh, Nị không thể mở mắt ra. Ấy thế mà… trên đường đôi ta đi tìm dấu chân tình yêu, thì Nị chả ho hiếc hách xì nhảy mũi gì! Đích thực sự mãn nguyện không thể và không bao giờ ngờ đã đến với họ trong tột đỉnh hạnh phúc cuối cùng ("happy ending") quá tuyệt vời! Mùi thơm từ hương hoa ngâu trên từng lầu 15 bay về phòng, nhắc Nị nhớ lại hương yêu đằm thắm ngọt ngào thâm trầm sâu lắng. Nị cảm thấy dường như tình tuyệt hảo hoá thân từ bờ môi ân tình say đắm thở nhẹ vô trái tim, vào trí óc lá bùa yêu ngọt lịm, khiến cho đêm thương ngày ngẩn ngơ mê mệt nhớ! Trùng dương mở hội cho tình yêu chân thật rất đỗi đằm thắm dịu dàng và nồng nàn lên ngôi. Bừng thức dậy, nghe tiếng chim hót trên mái lầu: Nị vương tay ra, thì chạm gói qùa, và tờ thiệp, ghi:
                          "Em ngủ ngon không? Anh ngủ không ngon lắm, chỉ tàm tạm. Anh chúc em vui tươi bình an trong tâm hồn bên anh. Anh tạ ơn em đã mang đến cho anh tình yêu nồng nàn chân thật, cho anh tin rằng mình đã yêu, và được yêu, một mối tình lớn trong đời! Anh mừng sinh nhật của em. Cầu chúc em đạt được những gì mơ ước, yêu đời và yêu anh, kể từ nay cho đến mãi đến tận mai sau em nhé.
                          Người yêu em
                          Th

                          Ôi! Anh Thiệu: Thiếu Tá Không Quân Việt Nam Cộng Hòa quyết ươm tơ vàng ung dung bay đi dệt mộng hải hồ, rong ruỗi quan hà lả lướt qua muôn dặm sơn khê: suốt từ Bến Hải cho tới Mũi Cà Mau. Anh hào hoa phong nhã, trí thức, anh thuộc típ người cao ráo to con, đẹp trai với mái tóc cắt ngắn, vừng trán vuông vắn cao và rộng, khuôn mặt hồng hào, lông mày rậm đuôi mày hơi nhếch lên dưới đôi mắt hai mí to “có trữ tình”, mũi lân, miệng rộng. Anh có duyên nhứt là từ bờ môi nầy, khi anh cười thì lộ ra hàm răng đều đặn, anh nói giọng miền Nam nghe sang sảng rõ ràng, nhưng ngọt ngào ấm áp chân thật, chứ không gay gắt, khiến Nị ưa ngẩn ngơ ngắm nhìn anh. Nay trên vầng trán anh đã in nhiều dấu ấn suy tư, mái tóc anh nhuộm muối tiêu đầy phong sương, bụi phấn thời gian phủ trên đôi vai săn chắc. Dù ngày nay: không gian, thời gian, tuổi trẻ điạ vị danh vọng… tất cả với anh đã không còn; nhưng Nị rất kính trọng anh, yêu anh tha thiết biết ngần nào. Nị quàng tay lên cổ anh, vít xuống thủ thỉ:
                          - Nị đến với anh dẫu muộn màng, nhưng yêu anh nhiều lắm. Bởi hôm nay đây em yêu anh, không vì ở trên ngực áo của anh còn gắn phù hiệu cánh bay, không vì trên cầu vai anh có cánh mai bạc rực rỡ, không vì anh có chức tước vinh sang trong cuộc đời giàu kinh nghiệm xưa. Bây giờ em thật lòng yêu anh khi anh không còn gì. Anh đến với em bình dị không danh phận, không xa hoa phù du, nhưng chúng ta đến với nhau giống như cuộc tình đầu đơn sơ. Em yêu anh vì cung-cách anh đáng quý mến, vì lúc nào anh cũng giữ mực thước, thấu hiểu, uy nghi, tính tình anh đàng hoàng, tiết độ chững chạc. Em yêu anh vì anh có trái tim bao dung, độ lượng tình đồng-cảm. Vậy thì, xin anh hãy cho em say đắm tìm về chút mùi hoài hương xưa nồng thắm từng ấp ủ trong vòng tay nhau nỗi quấn quít nhớ nhung. Nhe anh.
                          - Anh hiểu. Anh cũng rất yêu em, chân tình và vụng dại như ngày nào anh còn trẻ.

                          Họ đển bên nhau là: Jan-14-2008. Nị vùi đầu trên ngực anh, lắng nghe anh tâm tình:
                          - Khi anh đọc thư em, cũng như lúc nói chuyện vớí em, anh thật vui và thấy có hạnh phúc. Cám ơn trời đã mang mình lại với nhau! Anh nghĩ: lúc trước không biết anh tán em hồi nào, anh cũng không nhớ, thật ra anh không có ý đó nữa. Nhưng mà lúc nói chuyện với em, tự nhiên anh có lời lẽ như thể mình đã bồ bịch với nhau tự thuở nào, mà thân thiết vậy! Bây giờ nhớ lại, anh tức cười ghê, rất vui là chúng mình thành há. Bởi vậy anh cho là hai đứa mình được ơn Trên sắp đặt đến đúng thời điểm nầy, là dính với nhau thôi! Được vậy, cứ nên trân trọng giữ gìn, cùng hưởng nghe em yêu.
                          - Dạ vâng.

                          Trên đường trở về từ trưa Chủ Nhật, sau khi Thiệu lái xe đi vòng lần thứ nhứt, Nị ngồi lại chờ người thân đến đón, nhưng quá lâu. Tủi thân và bật khóc trong tiệm ăn, nên Nị vô restroom rửa mặt. trở ra cô ngồi trong tiệm nhìn thấy Thiệu vòng xe đến, Nị vui mừng vội chạy ra parking, cốt nhìn anh xí thôi. Lòng Nị quá buồn khi anh chìa tay ra siết chặt tay mình, đôi mắt Thiệu rất buồn lại trữ tình nhìn Nị say đắm thay lời chào từ biệt, xe anh đã từ từ chạy đi khuất xa.

                          Sau những ngày hạnh phúc, mình chia tay nhau, bỗng dưng Nị thèm khóc, đã nức nở gục đầu vô hai bàn tay ở trong tiệm ăn. Dù đã dặn lòng: “Dễ gì mà khóc khi mình vẫn còn là của nhau. Vĩnh viễn. Đừng lau nước mắt, không khóc nghe! Đừng buồn. Hãy cương quyết và tươi vui lên. Dù bị cào xé hơn roi vọt mỗi ngày ngấm đẫm vô tim khi chia xa, em can đảm mà không khóc. Hay em đã trở thành chai đá rồi sao”!? Hay vì, em vẫn và sẽ là người chiến thắng. Phản quang sinh tồn ấy là nhờ tình yêu anh yêu em rất chân thật, chung thủy, thì hy vọng chúng ta sẽ vượt qua tất cả. Phải không anh yêu dấu?

                          Hôm thứ Hai, cô hỏi đứa cháu gái, nó cho biết khu nhà anh đúng là khu nhà mới. Nị dự định ra chợ mua những món quà Tết, mang đến nhà anh để cúng ba má, và muốn nhìn anh xí, để anh ngạc nhiên. Cô muốn mua nhiều thứ: thịt, cá, rau, lạp xưỡng, v.v. nữa. Nhưng sợ không kịp giờ về cho chuyến bay xa, cô nghĩ đi nghĩ lại, thấy không mấy tiện. Nên Nị mua mấy món quà hoa quả bánh mứt tượng trưng cho ngày Tết (nếu bất ngờ không phone báo trước, không gặp anh ở nhà, cô sẽ để những món quà ấy ở ngoài cửa, không sợ mèo xé ra ăn vụng, hoặc những thứ khác như thịt, cá, vân vân… bị hư).

                          Vì khu nhà mới xây chưa có tên trong bản đồ, nên cháu và Nị tìm nhà anh, chạy xe lui chạy tới gần chục vòng, cuối cùng đã tìm thấy. Tới nhà anh, Nị chưa kịp chui ra xe, ai dè con cháu nhanh nhẹn đi đến bấm chuông hồi nào, Thiệu bước ra. Ôi, cô không thể nào tưởng tượng anh đã sửng sốt bàng hoàng đến thế. E ngại, nên Nị không nhớ dự định ban đầu của mình muốn tự tay sắp xếp món quà đó lên bàn thờ, thắp ba nén nhang lạy tạ ba má. Cô nhìn lướt sơ trong nhà mới cuả anh: có phòng đọc sách, nơi làm việc tươm tất. Trong nhà chưng bày đầy đủ thứ tiện nghi cần thiết, nhưng trang nhã, lịch sự, gọn gàng không rườm rà, cạnh cửa sổ có chậu hoa lan màu tím nở rất nhiều hoa và đẹp. Đặc biệt nhà quá vắng lặng, vì anh đã sống một mình thư thái trong sự độc thân.

                          Anh yêu, anh giống như con chim phượng hoàng rực rỡ dù có soãi rộng đôi cánh tung bay tự do thoải mái khắp bốn phương trời; thì đến một lúc nào đó cũng mệt mỏi rã rời đôi cánh, muốn dừng lại ở mái hiên nơi căn nhà vừa đủ ấm. Thế mà sao em vội ra đi như gã trể tàu, như người lỡ hẹn, như người chạy trốn, một nỗi buồn kinh khủng phủ chụp lấy trái tim Nị, đầy nghẹn ngào chua xót, khi cô mệt mỏi bước vô lòng phi cơ. Nhưng rồi trong phút chốc Nị tràn lan hy vọng và hạnh phúc khôn cùng: chúng mình sẽ vĩnh viễn sống bên nhau, khiến Nị vui lắm khi nhớ lại lời anh thủ thỉ:
                          - Chỉ biết mình đến với nhau bằng tình chân thật, hết lòng với nhau trong hiện tại, không dám đòi hỏi gì hơn. Có được là tốt thêm thôi, chứ không bắt buộc. Trong những lúc nào đó trong đời sống mình có gì không vừa ý, thì hãy nhớ rằng: vẫn còn có anh (hoặc em) bên cạnh, để vỗ về và sống với nhau, tuy trong mộng, mà thực đấy nghe. Anh mong muốn cho em có hạnh phúc, anh chỉ là kẻ lấp đầy thêm những cái em thiếu thôi, nhứt là về tình yêu, để cho em vui, là đẹp rồi. Đúng là trên đời nầy biết bao người có đầu óc làm hại kẻ khác vì ích kỷ, rêu rao nầy nọ, khoe khoang! Anh hoàn toàn không như vậy, nghĩa là con người anh thuộc loại bình thường, nhưng lương thiện, chớ không là bậc anh hùng, hay loại đạo cao đức trọng gì. Những gì anh đã hứa và nói với em, đều đáng tin cậy vì chữ tín, vì lương tâm của anh lớn lắm.

                          - Lần thứ nhì họ hẹn hò với nhau 4 ngày: Thứ Ba, ngày 17-Mar-2009. Lần nầy anh nhìn sâu vô mắt Nị:
                          - Em yêu. Lúc trước mình đã từng nói với nhau rằng: hễ có gì thắc mắc không rõ, là nói ngay ra, đừng ghim trong lòng, mà giận hờn không nên. Em còn nhớ chứ?! Thì ra nói vậy, mà không phải vậy há!! Anh không ngờ anh đùa với em, có ý nói “em đúng là dân... hay cải đó”, mà anh viết (… chấm chấm); không ngờ em không hiểu ý bởn cợt của anh! Trong đầu em lại nghĩ: anh nói em là (thứ) dân gì, là sao? (tại chính em mang vô chữ “thứ" , nên nghe nó nặng nề thêm, lầm là vậy đấy). Biết em như thế, từ nay anh không bao giờ đùa với em nữa, là yên chuyện.
                          Cô cúi đầu im lặng.
                          - Tại sao em nói hiểu anh; mà em cho con người anh ăn nói như vậy ha?! Có bao giờ anh khinh miệt người mình yêu một cách vô cớ không? Anh thật không ngờ em hay bắt bẻ vô lý, em hay hỏi dò, để xem ý, rồi suy đoán sai. Em có tật hay nói lẩy quá đi! còn nói mát và xóc óc nữa! Bản tánh của anh thẳng thắn, nên nói ra ngay như thế! Thí dụ như em nói:
                          - “... thì xin lỗi đó, được chưa? Hoặc giả… “thì em ngu nên không hiểu ý anh”. Sao em không để dành những câu như vậy, để đối đáp với những nơi và những ai cần đối đáp. Chứ em đem ra nói với anh làm gì, mất vui! Cái gì không bằng lòng và không rõ, em nói thẳng ra, dù em xem anh thế nào đi nữa. Phần anh cư xử với ai cũng vậy hết. Tại sao đến giờ phút nầy, mà lại có chuyện vô cớ, làm khổ nhau, hả em? Hay là cá nhân em vừa có chuyện gì buồn bực trong lòng, nên nảy sinh ra gắt gỏng chăng?
                          Em thử xem lại coi anh có ý nói như vậy không? anh không có gì sợ mà tráo trở tránh né đâu. Đó là bản tánh của anh, mong em thấy. Như vậy là em cố tình tạo ra sự căng thẳng... dựa vô một chuyện không có thực gì cả! Tại sao em không đem chuyện gì đó ra thẳng thắn hỏi anh? Mà có gì đâu để hỏi chứ? Hay là em chỉ dựa vô đó, như là một cái cớ, để xa nhau... mà thôi? Nếu em muốn vậy, cứ nói ra, chớ cần gì nại cớ nầy, cớ nợ làm chi!
                          - …
                          - Anh đã nói từ lâu: anh không có gì oán trách em hết, cho dù em xa anh bằng cách nào. Thế thì có ngại gì em phải lấy cớ ha... Mà cũng nực cười, là cái cớ không có gì vững vàng cả! Anh sợ gì chuyện anh quen người nầy người nọ mà nói dối chứ. Nếu anh có quen ai, cũng xảy ra trước khi anh gặp em mà. Thế thì đâu có gì đáng trách? Ngặt nỗi là anh không quen ai trong lúc anh đang yêu em; mới đáng nói chứ! Nầy em, nếu em vẫn coi chuyện ấy là quá serious, và em TỰ cho mình là đúng, anh mong em kể rõ lý do vì sao mà em quyết định như vậy đi.
                          Khi hai người ngồi bên nhau, Nị thút thít khóc, Thiệu băn khoăn:
                          - Em à, có mấy điều anh cần nói thẳng ra, em nên suy nghĩ xem sao nghe: Tự dưng kêu nhau đến đây, rồi phút chót em lại kiếm chuyện gì không đâu, để làm phiền lòng nhau. Tại sao tới giờ nầy em không tin anh bận? Cái vụ làm sân gạch và cỏ nhà anh, đâu phải làm một vài ngày là xong. Anh vừa lo nghĩ cách làm, vừa làm mệt, mà nói ra như vậy, không được sao, không tin à? Đúng là em cứ đem ba cái chuyện đó ra nghi ngờ, dọ hỏi để không tin, rồi nói lẩy nói đương; như vậy có giúp ích gì trong tình yêu không? Nếu em không tin mà cứ cho anh là như vậy, thì em nên xa anh ngay, cho em khoẻ thân và không bận lòng gì cả! Thật ra, anh cũng có nỗi buồn vậy! Nhưng mà em à, mình phải chấp nhận cái tình cảnh hiện tại thôi, biết để mà không buồn và oán trách nghịch cảnh gì cả em à!
                          Nị cúi đầu cứng cổ, chỉ biết im lặng. Anh ôm bờ vai cô:
                          - Nên nói một lần cho dứt khoát! chúng ta là người lớn, có hiểu biết cả, xin thẳng thắn phân tỏ rành mạch, đừng để hối tiếc, và phải ân hận, vì sự nông nỗi của mình, nghe em. Anh không muốn chuyện tình của mình tan vỡ một cách phi lý như vậy. Đó là vì anh vẫn tin nơi những gì em nói với anh từ trước, anh nhắc lại thế! Xin nói lại anh không có gì lỗi trong chuyện nầy cả, nên anh không cần năn nỉ, hay xin lỗi gì hết!
                          - Dạ, anh nói rất phải. Em sai.
                          - Nếu em biết là sai, thì từ nay em không nên lập lại nghe em.
                          - Dạ vâng.

                          Người ta thường bảo: “Sinh ly, tử biệt rồi, mới nhận ra sự chân tình của người mình yêu”, thì đã muộn chăng? Thế mà giờ đây khi ngồi trên seat 17 F chuyến phi cơ CO 1830 W, lúc 7:15PM – thành phố của người yêu trầm mình dưới đáy phi cơ đang trôi bồng bềnh trong bầu trời đêm rét mướt, khi triệu triệu ánh đèn màu dưới đất xa dần, xa dần… chìm khuất và mất hẳn. Trả lại anh yêu đơn độc ở trong ngôi nhà cũ những ngày trống vắng, đêm đen tĩnh mịch vô tận, Nị gởi lại cho người yêu những chéo mộng, cùng nỗi buồn hiu vô cùng nhớ nhung, thương cảm xót xa tột cùng.

                          Trở về nơi chốn xưa, Nị đã xé tặng Thiệu nửa mãnh trái tim, lòng cô trĩu nặng nhớ thương và quá đỗi là đau, cơn đau đầy tê tái trong hạnh phúc vun ắp bẽ bàng quá thật! Ôi sao giờ đây mình đã xa nghìn trùng. Chao! tình yêu ấy nhè nhẹ, đơn sơ, mộc mạc, thấm đượm tình yêu đồng quê cỏ nội, khi mình hân hoan dẫm trên lối xưa để tìm đến nhau. Cùng chia sẻ niềm vui chất ngất trong hạt lúa trổ đòng đòng. Cùng cụng ly rượu hồi quang ngọt bùi, bên ngô khoai bốc hơi thơm ngào ngạt. Yêu nhau trong tiếng ca dao tình tự, trìu mến lời ru con từ mẹ nhân ái trong từng nốt nhạc hân hoan, độ lượng và ưu ái khoan dung. Lòng Nị lắng dịu những u uẩn đau buồn cao chất ngất, nghe lòng phổ tình yêu vào từng nốt nhạc, thở hơi sương trong lòng đời đắm say hạnh phúc đơn sơ không thể diễn đạt nên lời.

                          Lần thứ ba gặp nhau 4 ngày là: Ngày thứ Tư, 02-Sept- 2009.
                          Thiệu rất vui, và Nị cũng vui không kém, thật hạnh phúc khi nghe:
                          - Thuở ban đầu mình tưởng rằng chỉ thân nhau thôi, nhưng không ngờ mình đã được đến với nhau, sống hạnh phúc bên nhau, như vậy là bù đắp được khá nhiều rồi em ơi. Không nên mơ ước theo ý mình, rồi thất vọng, khổ tâm thêm chứ ích gì! Em tập nghĩ rằng: mình có như vầy là ĐƯỢC THÊM đi nghe em. Nếu không được thêm nữa, thì đành chịu vậy. Nhớ mà trân trọng, nâng niu cái gì mình đã có với nhau. Giữ mãi như vậy, là quý đó em ạ! Trong tương lai, dù khó khăn, nhưng biết đâu có sự xui khiến, thì mình gặp nhau thôi, biết đâu được, có ai ngờ!
                          - ...
                          - Anh nghĩ là số mình chắc chắn là thọ, có điều là sau nầy sức khoẻ sẽ yếu kém nhiều vì một phần là do lớn tuổi, một phần khác sức khoẻ sẽ suy yếu, là đương nhiên. Cho nên nghĩ và nói ra cái thực tế sau nầy mình khó gặp lại nhau em ạ. Thôi thì dù sao bây giờ mình cũng may mắn gặp gỡ, hạnh phúc vui vẻ với nhau như vậy, là rất quý, đáng trân trọng, ghi nhớ há. Trong tương lai chắc chắn là mình còn trọn lòng với nhau, nghĩ về nhau, là tốt rồi đó em ơi. Đó là thực tế, mình phải thấy như vậy!
                          - Em cũng nghĩ như anh.
                          - À, hôm sau khi nhổ răng cái thứ nhì về, là chiều tối anh bị sốt, trong người lạnh run, phải trùm mền và nằm trên tấm heat nóng khoảng hơn một giờ, mới hết lạnh run. Có lẽ do anh hơi ớn lạnh muốn bệnh, mà đi nhổ răng, nên mới sinh ra như vậy. Lần đầu tiên trong đời bị đó. Tóm lại coi như tiêu thêm hai cái răng hàm dưới, từ nay ăn uống sẽ khó khăn và chậm chạp, đành chịu thôi. Chứ nó nhức từng cơn không thể nào chịu nỗi. Cái bệnh nướu răng khốn nạn thật! Nhìn hai cái răng không hư hao gì, mà phải nhổ thật là tiếc!

                          Do công việc làm, hai người lại phải "nhà ai nấy ở, đường xa ta cứ đi...". Rồi một ngày không lâu lắm, sau cái ngày anh nhổ răng, Nị đã thẩn thờ lo âu và bàng hoàng nghe tin anh Thiệu lâm trọng bệnh, vậy mà anh cố gọi phone:
                          - Những lời anh dặn dò em từ trước, mong rằng em suy nghĩ chính chắn, làm đúng theo lời anh dặn nghe. Duyên tình của mình được Trời cho thêm như vậy là quý rồi, mình có may mắn gặp nhau là coi như mãn nguyện. Bây giờ không phải lúc hỏi có yêu nhau không? Cũng như xác nhận từ lâu rồi, phải không em?
                          - Em biết rồi.
                          Thiệu cười:
                          - Hôm DEC 10 anh đi đến bác sĩ làm siêu âm về tim như thường lệ, mỗi năm làm một lần. Mãi đến hôm Dec 24 - (14 ngày sau) bác sĩ kêu anh đi vô bệnh viện emergency, để có thêm những cái test khác. Kết quả họ thấy không bình thường, lúc đó là cận lễ NOEL, vã lại quá đơn chiếc nên anh tự động dời lại đến thứ 2 DEC 28 mới đi đến đó. Nhưng khi vô bệnh viện phòng emergency, họ không cho về, bắt anh phải nằm lại, để có nhiều cái test. Lúc đầu họ nghĩ anh bị máu đóng cục. Nhưng sau khi làm siêu âm lại, thì không phải, họ thấy trong valve tim của anh có một chút gì đó, rất nghi ngờ bị nhiễm trùng.
                          Họ lấy máu để xem, có đúng hay không, họ cần anh phải làm nội soi, để họ nhìn rõ bên trong, xem ra sao. Họ bắt anh ở lại sáng thứ 4 sẽ làm nội soi. Anh không đồng ý, xin về, thứ Hai tuần tới anh gọi phone để hẹn, sẽ làm sau. Lý do nằm trong nhà thương mà chờ đợi, bất tiện, tốn tiền vô lối lắm.
                          - Anh ôi. Khổ anh rồi.
                          - Trở về thực tế, anh dặn em như thế nầy. Trong thời gian anh phẩu thuật, tuyệt đối không muốn em đến thăm hay gọi phone gì cả. Vì làm như vậy, không ích lợi gì cho nhau, mà gây rối rắm phiền hà lắm. Có một số bạn biết anh sẽ đi phẩu thuật, những tin tức bạn thăm hỏi ấy, anh đều không đọc, vì thời gian đầu tiên sức khoẻ còn yếu sức, cá nhân anh không thích ồn ào xôn xao. Em có suy nghĩ và thấy vậy không?
                          - Dạ, cũng nên như vậy.
                          - Do giải phẩu trong van tim, phải mất thời gian khá lâu anh mới hồi phục sức khoẻ trở lại bình thường, anh nghĩ ít ra cũng vài tháng, mới có thể ngồi lên sơ sơ vô Internet được, còn bình phục hoàn toàn phải cả năm đó em à! Khi nào khoẻ được, anh sẽ gởi mail cho em ngay nhé. Bởi vậy mình đã có cơ may gặp nhau như vậy, cũng là mừng vui, hạnh phúc lắm rồi; trong tương lai sức khoẻ của anh sẽ yếu đi, chắc gì mình gặp nhau được. Thì mình vẫn gặp và yêu nhau ở mail giống trong nhà mình vậy. Mong em làm đúng lời dặn nghe, thì anh hôn em nhiều lắm.

                          Dĩ nhiên là thời gian nầy anh vẫn liên lạc thư với em đều đặn mà. Thật sự anh không sợ hãi vụ đi phẩu thuật. Ngay cả không sợ chết đâu, nghĩ mình cũng lớn tuổi rồi, nếu Trời không cho sống nữa, thì chịu thôi, anh bình thản không sợ gì cả. Tuy nhiên vì là con người nên có lo lắng, tâm trạng như học sinh bồn chồn băn khoăn về ngày đi thi vậy mà, chứ thật tình anh không sợ gì hết.

                          Thứ 5 tới, là ngày Jan 21, anh phải đi vô bệnh viện, làm một cái test khác, trước khi phẩu thuật, đó là điều bắt buộc, b/s xem anh có bị nghẻn tắt ở mạch nào không, để khi giải phẩu b/s biết, thì họ làm luôn. Sau đó sẽ có ngày hẹn đi giải phẩu, chứ bây giờ chưa biết. Nhưng anh nghĩ khoảng cuối tháng nầy! Hôm nọ nhờ thọc máy chụp hình vô họng để soi tim, nên thấy trong van tim của anh có một cục thịt thừa tròn, nằm dính phía ngoài van, giống như cái bong bóng có sợi dây cột vô que gỗ vậy. Van tim như que gỗ, mỗi khi van đóng mở, thì cái bong bóng nó bay đập tứ tung.

                          Bác sĩ bật hình lên cho anh thấy, nên anh mới quyết định cho mổ, vì sợ nó vỡ ra, hoặc là nó nằm ngay chỗ nghẽn mạch, là nguy hiểm lắm. Nhưng em yên tâm nghe, vì B/S nói: đó là loại dễ trong mấy ca mổ van tim. Nhưng vì mổ tim nên cần nhiều thời gian hồi phục. Anh hỏi thăm và đoán biết rằng ít nhứt cũng phải bốn năm tháng anh mới cảm thấy đỡ đau. Dĩ nhiên sức khoẻ không được như xưa đâu. Hiện tại anh thấy bình thường, khoẻ mạnh, vẫn đi bộ như thường em ạ!

                          Tuy anh không nói ra, nhưng hiểu tình cảm mà em dành cho anh như thế nào chứ, anh biết và cảm động lắm. Yêu em nhiều, anh vẫn nhớ và giữ lời nói lúc trước với em! Với bạn bè, một số ít biết, anh yêu cầu họ đừng phổ biến đến những bạn khác, vì lẽ anh sợ họ gọi tới hỏi thăm nầy nọ, lại làm cho mình thêm lo lắng và mệt hơn thôi, thà để yên vậy cho thanh thản đến ngày đi phẩu thuật. Khi nào gọi cho em, thì anh sẽ viết cho biết trước; nhưng em phải bình tĩnh, đừng khóc lóc hay lo sợ gì cả, không hay nghe em. Anh nhớ những lời em dặn, anh phải hỏi b/s chớ, nhưng dù sao mình cần kiêng ăn tôm, cá biển và nếp... dễ làm cho thịt lồi ra và ngứa...
                          Tạm biệt em yêu
                          Anh Th
                          ***
                          May-01-2010.
                          Em yêu

                          Ca mổ của anh là đại phẩu thuật, vì mổ xẻ trái tim, mổ hơn 5 giờ đồng hồ, xong có đặt cái ống để cho chảy nước vàng ra ngoài. Anh bị biến chứng, vì cỡ bốn ngày sau bác sĩ rút ống chảy nước vàng ra, nên nó bị ứ đọng, làm anh mệt và khó thở lắm. Anh ho ra máu ở ngay lằn mổ, nên bác sĩ biết có máu đọng, do đó anh phải mổ lại lần hai, để lấy nước vàng ra gần 1 lít nước vàng, và đặt ống rút nước, để vậy đến bây giờ coi như cả tháng. Rồi sau đó vì nhịp tim đập yếu, họ phải giải phẩu lần ba, đặt máy trợ tim pace maker vô cơ thể của anh vĩnh viễn.

                          Bác sĩ quyết định đặt máy trợ tim, để khi nào tim mình đập thấp, thì nó tự động kích trái tim mình đập mạnh lên. Máy nầy đặt dưới da trên ngực, chứ không phải trong trái tim. (Cỡ gần 10 năm khi check thấy hết pin, là bác sĩ mổ ra ngay chỗ đó, để thay pin mới, chứ không mổ tim lần nữa. Mổ chỗ đó chỉ khoảng 1/2 giờ thôi. Có nhiều cái phức tạp nữa…) Tim anh vẫn còn trục trặc, hôm nọ đi rút nước vàng ra rồi, nó vẫn còn có air trong thành của buồng phổi! Nếu nó từ từ biến mất thì ok. Còn không, phải đi rút kiểu khác, rất phiền. Anh vẫn còn yếu và mau mệt. Chuyện về hai người, anh nghĩ: trong tương lai thật khó mà gặp nhau lắm, vì sức khoẻ của anh. Anh đã đọc mail của Nị và attach mà em gởi, nên bây giờ anh có đôi điều nói với em đây:
                          - Mấy đêm qua anh có ngủ được chút đỉnh; thật tình anh không biết con người mình bây giờ ra sao nữa. Nó xáo trộn khi vầy khi khác, không đoán trước được; duy có điều là anh dễ bị mệt hơn xưa nhiều lắm. Thí dụ như chỉ xách mấy bịch đồ không nặng lúc đi chợ về, từ garage vô nhà mà cũng mệt. Thật nản cho anh bây giờ. Thực lòng mà nói sức khoẻ của anh được bình thường 85%, nghĩa là không còn nước ra; phải mang ống nữa; chứ không có nghĩa là 85% sức khoẻ của lúc xưa, em hiểu không? Bây giờ anh mau mệt, đi đâu mà nhìn qua nhìn lại mau, là chóng mặt. Anh ngước lên vói tay làm gì đó, là mệt phải đứng đó thở... Kể sơ như vậy. Dù sao được như bây giờ cũng là quá ngon lành rồi. Chứ lúc trước chỉ riêng cái vụ fluid, là nó quần anh mệt lắm, vì nó ép buồng phổi khó thở kinh khủng. Anh vẫn biết rằng mỗ tim mà, đâu dễ dàng bình phục mau được! Sức khoẻ làm phiền mình lắm từ thể xác đến tinh thần...

                          Đúng ra bây giờ anh yếu và hay chóng mặt quá. Hôm nọ trên FL, anh đi ra ngoài tiệm, đang ngồi trên bàn ăn thấp, anh nghiêng qua một bên, để lau chùi cái bàn bị rớt đồ ăn dơ, vậy mà mất thăng bằng, anh ngã xuống sàn nhà, không sao cả, nhưng thấy là mình yếu không gượng vững được. Cũng như ở nhà khi anh ngồi chồm hổm một xí, là bật ngửa trên thảm, vì ngồi như vậy thì anh uất hơi khó thở! Nếu ngồi cả ngày không nằm nghỉ, là mệt thấy rõ! Phải chịu vậy thôi. Dáng đi của anh bây giờ khom và rút vai như con gà rù. Thấy nản quá. Tập sửa dáng đi lại, chắc cũng hơi khó đây!

                          Lúc nầy trời ở đây rất lạnh dưới 40F độ, anh đi bộ mặc áo lạnh dày và trùm mũ len do Nị đan tặng… nên rất ấm áp. Bây giờ chỉ có vậy và hồi ức là hình ảnh đẹp. Mình biết vậy và phải chấp nhận. Tự trong thâm tâm anh mong Nị cũng biết nghĩ suy cái thực tế, để mà sống bình thản! Dù sao thực tại mình còn liên lạc trao đổi vui buồn trong cuộc sống, như những người bạn tâm giao hồng nhan tri kỷ, là điều rất quý. Anh có sự hiểu biết, coi chuyện xưa là kỷ niệm đẹp thôi, anh cám ơn Ơn Trên đã cho mình được những gì mong ước bên em yêu. Coi như vậy là đủ... Giữ chuyện xưa ở mức độ như thế, là đẹp vô cùng!

                          Về phần anh, thật tình mà nói anh có ý tốt đối với em, em không thấy hay sao lại đâm ra quạo quọ với anh vậy? Anh biết tình cảm của em đối với anh mà. Nhưng anh cũng biết thân của mình bây giờ, nên anh không trói buột em điều gì cả, đó chẳng qua là mở lối cho em cảm thấy thoải mái thôi. Riêng phần em, anh đồng ý cho em vui vẻ, hoặc trao đổi thư từ với những ai mà em thấy hợp. Em cứ tự nhiên cho đỡ buồn, nhưng nhớ tình chân thật là chính và căn bản đó nghe em. Anh không hề trách cứ gì em cả. Miễn là em được đền bù vui vẻ là mừng rồi. Đó là những gì anh nói thực. Vì mình phải biết và nhận thấy cái thực tế đó em ạ! Anh rất hiểu tình cảm và sự lo lắng của em dành cho anh. Anh không quên cám ơn những lần cầu nguyện, sự lo âu và sự đặc biệt quan tâm em dành cho anh. Cám ơn em đã lo lắng và an ủi anh. Anh rất biết điều đó, anh hiểu và thấy nhiều về tình cảm của chúng mình. Nhưng anh không muốn kể lể ra làm chi,
                          cần giữ mãi trong lòng thôi em ạ.

                          Phần anh đối với em vẫn vậy! Nhưng nói trước vì sức khoẻ, nên lắm khi bất ngờ anh không vào mail, hoặc phone cho em mỗi ngày. Như vậy làm cho em nổi nực, rồi nghĩ nầy nọ... làm anh cũng thấy không vui. Tất cả những gì nói trên là góp ý và nhận xét chân thật, nếu có gì khác ý của em, cũng bỏ qua cho nhá. Có gì cần chia sẻ và trao đổi với anh, thì em cứ tự nhiên. Phần em phải lo cho sức khoẻ trên mọi thứ nghe... Vì lớn tuổi thì sức khoẻ của mình cũng thất thường lắm! Anh cầu mong cho em khoẻ mạnh và vui. Lúc nầy anh oải quá hết hôn em nỗi.

                          Thực tế về sức khoẻ bây giờ đã khiến anh bức rức, tánh tình hay bẳng gắt! Ngay chớn-thuỷ ở ngực hay bị uất hơi, khó thở, đau lói ở đó, có lẽ do bị nhịp tim (rhythm) đập nhanh gây ra như vậy. Anh đi thì cảm thấy như bị co rúm lại, nên khó thẳng người. Ngoài ra da mặt và da đầu bây giờ hay bị tróc da như vảy cá vậy! Có lẽ bị mỗ tim, nên nó làm cho da khô hơn xưa? Ngồi dựa lưng vô thành ghế một xí là bị ho, do phổi yếu chắc. Bây giờ một ngày uống hơn 10 viên thuốc, vì vậy anh để hình ảnh xưa cho nó đẹp, hơn là thực tại. Dĩ nhiên đó cũng gợi nhớ đến kỷ niệm vui… nhưng mà thôi, chắc là cái phần mình chỉ được có vậy thôi, không nên than oán gì cả! Sức khoẻ làm cho con người cũng hết hăng hái mọi chuyện. Ham hố cái gì khi anh về nhà luôn mang một túi nhỏ bên hông để đựng nước vàng. Tội nghiệp em yêu, người thân và bạn hữu đều lo lắng, đồng thời cầu nguyện cho anh nhiều lắm. Anh rất xúc động và mang ơn tất cả.
                          Anh dừng bút, mong em luôn bình an, vui vẻ nhen.
                          Anh Th

                          Mỗi đêm… từng đêm… hai tay Thương Nị ôm đầu, lắng nghe bài ca: “Cơn Bão Nghiêng Đêm” và, không thể cầm được lòng, cô đã gục đầu lên thành ghế khóc nức nở, khóc hoài, khóc mãi muốn mờ đôi mắt.
                          ***
                          Tình Hoài Hương


                          (1) ca dao
                          (2) sưu tầm
                          (Câu chuyện rất buồn của TT TM)
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 04:58 PM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • #43
                            TUỲ BÚT về sự Phù Hoa cuả Chúng Mình

                            Huấn Luyện Phi Hành
                            Phần Thứ Ba
                            Chương 32


                            TUỲ BÚT về sự Phù Hoa cuả Chúng Mình
                            (Viết từ chuyện buồn của TM Ayana & PH Tony)
                            Tình Hoài Hương
                            ***



                            Trên cành sao có chiếc lá cong queo cứ lao xao rên rĩ, dường như cố vươn cuống lá khô đét để vờn ôm phiến tích thời gian, lay đọng nỗi nhớ nhung muộn phiền ngày tháng cũ nó được ung dung đong đưa trên cây. Chiếc lá lắc lư rồi hững hờ buông mình chao lượn trong không gian héo úa nắng tàn. Gió chiều hiu hắt phe phẩy trêu đùa ngọn cỏ dại không tên ở viả hè. Nhìn chiếc lá và một con chim lẻ bạn rủ cánh buồn bã thỉnh thoảng cất tiếng gọi đàn, lòng em bỗng chùng xuống bao sầu đắng.

                            Hạnh phúc lớn nhất trong đời người là thực hiện được những ước mơ lúc mình đạt nguyện vọng. Em muốn tìm một hướng đi đứng đắn trong công việc, trong tình yêu và cuộc sống bằng khả năng hữu dụng cuả chính mình. Cuộc sống ở những ngày còn ấu thơ bao giờ cũng đẹp với bao ước mơ và hy vọng, hoài bão, lập trường, lý tưởng… Có điều khi đã lớn lên, thì những ước mơ tươi đẹp, và thực tế quả thật khá xa vời. Vì so với góc nhìn mới mẻ, cùng quan điểm, hoài bão, lập trường cuả mình, lại hoàn toàn trái ngược. Rồi ta sẽ thấy vị trí bây giờ mình đứng vững nơi đây, và bao quan niệm, lập trường, hoài bão, ước mơ to lớn (của mình từ nhiều năm xưa trong cuộc đời) - thật ra khi ngoảnh nhìn lại, chỉ cách nhau những bước chân mờ nhoà, chập chùng phai nắng trên thềm nhà cũ, ấy vậy mà bây giờ vô cùng đối lập, lung linh, xa xôi và khác lạ.

                            Tình yêu khi nhìn từ xa dưới ánh mặt trời, tưởng là óng ả long lanh như hạt kim cương chói sáng, nhưng lúc em nhìn gần: va chạm cuộc sống, tình yêu, hôn nhân, lại khác xa nhau lắm! Trước ánh mặt trời rạng rỡ thì viên kim cương long lanh lóng lánh đẹp và sang, coi quý giá quyến rũ thượng khách lắm bạc nhiều tiền; Nhưng trong bóng tối, viên kim cương bình dị như hòn đá vô tri vô giác. Quá vui hoặc quá buồn; cũng có những giọt lệ long lanh trên giếng mắt bờ mi. Người ta thường nói “cười ra nước mắt”, hoặc “cười là tiếng khóc khô không lệ”; quả thật không sai! Khi chúng ta yêu nhau say đắm, giống loài hoa nở rộ, sẽ thấy hết vẻ đẹp và ngưởi được mùi thơm riêng biệt cuả nó. Những lần anh ôm em vô lòng hứa hẹn chúng mình sẽ có hạnh phúc đầy ắp trong tương lai… Lúc đó em đã nói:
                            - Nếu trời có sập xuống, anh nhớ bảo vệ tình yêu chúng mình bền vững trong vòng tay anh rắn chắc như hôm nay nhen, anh không thay đổi à.
                            - Hi hi… Trời sập, thì chúng mình sẽ tiêu tùng, tình yêu tất nhiên biến mất rồi, còn đâu!
                            - Anh đừng lo, vì anh chính là bầu trời đầy sao và trăng cuả riêng em mà. Bầu trời dành cho trái đất nếu có sập, cũng đành! Nhưng tình yêu chúng mình giống khuôn mặt cuả em và anh thì không thay đổi. Nhất là, anh là trăng là sao, thì không thể rụng trong tim em! Anh có biết một câu nói đáng giá ngàn tỷ đồng dollars, nhưng khi anh phát âm ra với em, hoàn toàn miễn phí, không anh?
                            - Ồ! Câu gì nặng ký vậy em?
                            - Câu: “anh yêu em nhiều lắm, em là mối tình đầu, là tình cuối cuả anh. Em chính là tình yêu. Ngoài em ra, anh không hề yêu ai nưã. Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai. Em hãy cùng anh chọn hướng đi lên chiếc cầu dài nối từ bờ nầy sang bờ kia, chúng mình sẽ nắm chặt tay nhau vượt qua mọi trở ngại, để tiến về ngôi nhà bên sườn đồi. Mỗi khi nhìn thấy nó, chúng ta đều mến thích và ước nguyện trọn đời chung sống bên nhau. Nhen em.

                            Ôi! Nghe anh nói có vẻ như “nghe ca cải lương”, nhưng em cảm động sung sướng hạnh phúc ngất ngây dạt dào niềm rung cảm yêu thương anh biết ngần nào. Lúc đó không phải do hạnh phúc chúng ta sung sướng rạng ngời oà vỡ tiếng cười; mà cười vì chúng ta mới có hạnh phúc, em có cảm tưởng em nâng mặt đất lên sát bầu trời đầy sao lấp lánh. Có câu ca dao chí lý nầy quả không sai:
                            Dế kêu cho giải cơn sầu
                            Mấy lời anh nói, bạc đầu không quên
                            .
                            Dụi mái đầu em có những lọn tóc đen nhánh rất dài (thơm mùi bồ kết lá bưởi lá chanh) buông xoã trên bờ ngực anh, em tươi cười ứa hai giọt nước rung rinh ở khoé mắt. Ngồi trên chiếc cầu gỗ nhìn xuống hồ Than Thở im vắng, em thấy gương mặt chúng mình in trên mặt hồ yên sóng không phải là hai con quạ xấu xí, mà gương mặt của đôi loan phượng rực rỡ vờn nhau! Anh cúi xuống âu yếm nâng cằm em lên, đặt những nụ hôn nồng nàn nơi giếng mắt bờ môi ấy. Hẳn anh còn nhớ lúc đó anh đã nói:
                            - Những giọt nước mắt ân tình nầy mặn hơn biển cả, nồng hơn vôi, khi trọn đời chúng mình đã chọn, thì không bao giờ quên. Em ạ.

                            Lại “ca cải lương” nữa rồi, khi yêu nhau có lẽ trai gái đều có những câu nói lẩm cẩm thế mà hay, nên em càng mê anh mới chết. Ấy vậy em cảm thấy hạnh phúc tràn ngập uà về vào tháng năm dài đằng đẵng trôi qua… Nếu anh đã chọn một hướng đi, em mong anh tôn trọng lời hứa ban đầu, tình yêu đôi ta không như bọt sóng ào đến rồi tan biến. Ngày đó anh bảo em “chọn”. Chọn! chọn cái gì nữa? Tình yêu nam nữ giống như mây và lửa, một khi chúng ta không còn yêu nhau, thì ngọn lửa dù toả sáng bao nhiêu, vì giông bão mưa dầm mà lửa tắt ngúm, khói sẽ theo mây tản mác bay đi hoà lẫn nơi nào không biết. Anh có nhớ lúc ấy trên tay anh cầm hai cây cà rem to, cây cà rem nào cũng hấp dẫn ngon lành, anh phân vân đắn đo không biết nên ăn cây nào, vì anh chỉ có thể ăn mỗi lần một cây. Anh tủm tỉm cười đưa cho em một cây cà rem. Em chưa kịp giơ tay ra cầm, anh “chọc quê” em, thụt tay lại dấu cây ca rem sau lưng, rồi anh tươi cười dường như trêu ghẹo đưa cây kia ra cho em. Cứ thế, cho đến khi… cuối cùng trên tay anh chỉ còn hai cây que tre, kem vì gió thổi đã chảy hết xuống đất.

                            Sự nghiệp nếu thất bại, ta có thể gầy dựng lại lần nầy, lần khác… Muốn có tình yêu chân chính vững bền chung thủy, trước hết mình cho đi không hề tính toán, sau đó sẽ nhận được mọi thứ hoàn hảo, tuyệt vời tin yêu hơn. Nhưng hôn nhân nếu đã thất bại, dường như em cảm thấy có một lỗ hổng trong trái tim mỗi khi có gió lùa rít qua lỗ đó, khi có mưa thì nước rỉ ra. Dù lỗ hổng không to, nhưng dần dà nước có thể thấm đẫm và mục nát cả cây cầu. Mối tình cũng giống chuyến tàu suốt, nếu mình chọn lầm người đó, là sẽ thay đổi cả cuộc đời ta. Thế nên mọi phiền não đau khổ cứ tràn đầy không có gì lấp được, dù cố gắng khao khát mong chờ, cũng khó lòng hàn gắn, thì chuyện tan vỡ không biết sẽ đến lúc nào (như cây cà rem đó thôi).

                            Cũng vậy! thuở xưa anh thèm em (ngược lại xin thừa nhận em thèm anh biết mấy! thèm đến nhiễu nước miếng muốn nhỏ xuống đất, như cây cà rem chảy). Không phải sao? tự thuở ban đầu có những bước chân tình cờ rụt rè đi về chung lối trên đại lộ Yersin ra phố chợ, đôi ta e ấp thẹn thùng; bỡ ngỡ, rón rén, vui vẻ rộn rịp, anh hân hoan chọc ghẹo làm quen em. Tia mắt bẽn lẽn đong đưa liếc nhìn nhau đằm thắm, sâu lắng, trữ tình mời gọi trao gởi. Rồi từ phương xa nhiều lần thư anh & em tới tấp bay đi bay về... trong nôn nao đợi mong, băn khoăn thấp thỏm, xao xuyến hẹn hò. Ngày tháng trôi qua… chúng mình gặp lại trên thành phố thơ mộng, mấy ngón tay ấm áp rụt rè nhẹ nhàng len lén ngại ngần lướt nhẹ vào nhau, xoắn xuýt nắm chặt mãi chẳng nỡ rời. Nụ cười khả ái chúm chím dịu dàng đượm hương nồng, hồn nhiên, ân tình rạng rỡ trao duyên. Bao yêu thương ngất ngây âu yếm chờ đón nụ hôn ngọt lịm, thắm thiết đắm say, nồng nàn, đầy ắp quý mến tin yêu… suốt nhiều tháng năm ngự mãi không rời trên bờ môi vụng dại cuả chúng ta.
                            Một lần nọ em ngồi đan áo sau vườn thông trong biệt thự Mimosa, (số 2 Pasteur) thấy anh vô nhà, con chó chạy ra sân sủa rân trời, em nói:
                            - Chó sủa vang rứa, nhưng không có răn mô.
                            Nghe lời em, anh dựng xe vespa đi vô sân, liền bị nó đớp một phát, may mắn chỉ rách chút xíu ống quần. Em la con chó, đuổi nó đi. Anh cười khà khà:
                            - Ôi dào. Con chó có đủ hai hàm răng nhe ra, nó cắn anh rách ống quần nè. Vậy mà em nói “chó không răng”! Không biết, anh bắt đền em à.
                            Vậy là anh hôn em thật lâu. Rồi một lần kia em nhờ anh:
                            - Tiện thể, anh cho em xin ly nước lọc nhen.
                            - Loại nước lạt lẽo nầy, mà em thích uống sao?
                            - Do em đã thấm đẫm sự ngọt ngào nơi anh rồi.
                            - Từ lúc nào vậy em?
                            - Còn hỏi nữa sao anh? Nhưng… em cần nhắc lại: kể từ khi có "người khác giống” chen vô đời hai ta. Vô tình anh cột nhiều nút thắt trong lòng em, khiến em đau đến tê liệt.
                            Anh cười cười, hóm hỉnh:
                            - Anh là người dũng cảm, oai hùng, đa tình và tốt bụng, anh giúp người khác khi họ “thiếu thốn” hoặc lâm nguy nép vào ngực anh thôi. Trong mười điều luật Chuá dạy có thể tóm lại hai điều: “Kính Chúa, yêu người”. Nhưng quan trọng là “thương người như thể thương thân” mà em. Anh giống lớp vỏ cứng của trái cây, ví như trái mít, sầu riêng, măng cụt, “mãn cầu” thì nó mới bảo vệ được múi thịt thơm tho, mềm mại ngon lành ở bên trong.
                            - Ồ…
                            - Anh yêu em không những tặng em thứ anh đang có, mà anh cho em những cảm giác em không thể có… ví dụ anh mớm vào môi em mật ngọt tình yêu, hoặc “giọt rượu nồng tình ái”. Vị ngọt ở rượu giống như câu chuyện của anh và em. Mình phải biết cách ung dung nhâm nhi nhấm nháp khi uống rượu chứ em.
                            - Tại sao?
                            - Ban đầu vị ấy có chút ngọt ở đầu lưỡi, kèm sau nhiều vị nồng chát, nóng bỏng, kéo theo chút đắng, cay cuối cuống họng. Cũng như tình yêu mang đầy hương vị ngọt ngào chua cay đắng chát trong lòng ấy mà cưng.
                            Anh nhớ không, lúc đó em nhìn anh mỉm cười đằm thắm:
                            - Có hai mẹ con sư tử nói chuyện với nhau, con hỏi mẹ:
                            - Hạnh phúc của mình ở nơi nào vậy mẹ?
                            - Hạnh phúc của con ở nơi cái đuôi của con đó.

                            Sư tử con ngây thơ hân hoan vui thích liền đứng lên quay vòng tròn nhiều phen, nó cố gắng tìm bắt cho được cái đuôi của mình. Nhưng nó quay hoài mãi, mà không chụp được cái đuôi, đến khi nó mệt lử, xâm xoàng chóng mặt nằm vật xuống đất, nó vẫn không thấy hạnh phúc nơi nào!
                            Mẹ sư tử dịu dàng vỗ về con:
                            - Khổ thân con! Hạnh phúc không do ở nơi con quay cuồng xoay vòng quanh tìm kiếm đâu. Chỉ cần con an tâm ngồi xuống, thứ nhất cái đuôi sẽ ôm vòng bên bắp vế cuả con, lúc đó con tha hồ tìm ra chân lý. Thứ nhì con đứng thẳng lên, ngẩn cao đầu trung thực tiến về phía trước: giữ vững niềm tin yêu, chung thủy, là hạnh phúc sẽ ở trong con.
                            - Theo em, khi yêu nhau chỉ cần uống một ly nước lạnh, mình cũng cảm thấy mát lòng, là hạnh phúc rồi anh nhỉ!
                            Anh ngẩn ngơ nhìn em giây lát, đong đưa:
                            - Em đẹp như hoa pensée, có tư tưởng đáng mến phục.
                            - Cám ơn anh. Nhưng xin từ chối, em muốn làm loài cỏ.
                            - Tại sao?
                            - Hoa nở rực rỡ ít ngày rồi tàn. Nhưng cỏ thì có sức sống dai và mạnh, mặc dù Thu tới Đông tàn, nó ủ rũ nhất thời, rồi mau chóng trở lại xanh tươi.

                            Anh giống bụi gai mắc cỡ năm xưa ở trên đồi Cù, khi đó, anh hái một nhánh hoa "Mắc Cỡ" màu tím, có gai nhọn nằm ẩn dưới cành nhiều lá kép, anh cài hoa lên đầu người anh yêu. Ui cha! Cành lá e thẹn ẻo lả khép lại, em xuýt xoa khi mấy gai nhọn đâm vô đầu rỉ ra chút máu. Nhưng muốn làm anh vui, em cố chịu đựng. Anh nhớ không? dường như hoa lá và gai nhọn ấy quấn chặt trong tim em mãi. Bây giờ em vẫn cảm thấy đau ghê lắm, không làm sao nhổ ra được. Anh ơi!

                            Nhớ một lần kia, anh em che chung chiếc dù, chúng mình vui vẻ nắm tay nhau hân hoan hát bản nhạc “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ: “… Anh đến thăm em trời đông giá, anh đến thăm em trời mưa gió, đường xa lạnh lùng! Mặt gặp mặt cầm tay không nói một câu. Lời nghẹn ngào hồn anh như say như ngấy, vì đâu…”. Chúng ta cười reo sung sướng, vô tư lự chạy bên hàng cây xá lị lúp xúp có từng chùm hoa trắng nở dưới bầu trời Đà Lạt trong cơn mưa tầm tã, cơn mưa giông đầy sấm sét ầm ầm nổ liên tục. Thế mà đôi ta chẳng sợ sấm sét, vậy mới ngộ! Nước mưa rơi lộp độp trên chiếc dù như những dòng nhạc thánh thót êm êm rơi trên hai mái đầu chụm lại, chúng ta vừa chạy vừa hổn hển trao những nụ hôn mê đắm nóng bỏng. Một lúc sau em dừng lại ngơ ngác hỏi anh:
                            - Uả! Xe vespa cuả anh mô rồi?
                            - Anh làm con gà trống đi bộ mà cưng.
                            - Tại sao?
                            - Thì con gà làm gì có bằng lái xe, mà chẳng đi bộ!
                            - Hi hi… Bi chừ chúng mình đi mô “rưá”?
                            - Ổ khoá phòng em hư, anh mua khoá, không mua “rựa”
                            - Trời à! Anh nói giọng miền Nam, là em hiểu hết. Còn em “noái”, anh khôn hiểu mô tê răn rứa chi cả, là răn hì?

                            Anh cười ha ha ha. Thuở ấy vui vẻ hồn nhiên hạnh phúc biết ngần nào! Giờ đây, anh cầm chiếc dù khác che nắng che mưa cho em. Anh tưởng rằng anh có thể che nỗi muộn phiền buồn bã trong lòng em ư? Tình yêu không thể hiện vụng về thờ ơ lạt lẽo khi trao chiếc dù không bằng mắt, bằng tay; mà cần thể hiện cả tấm lòng, ước nguyện, thông cảm, nhiệt thành tin yêu nhau nưã anh à.
                            Một ngày xa xôi kia anh vui vẻ hỏi em:
                            - Mặt trời và quê hương, nơi nào gần em hơn?
                            - Tất nhiên là mặt trời.
                            - Ồ! Tại sao?
                            - Em ngẩn đầu lên, là thấy rõ mặt trời đứng trên đầu em rồi. Còn quê hương mặc dù gần hơn mặt trời. Nhưng em không nhìn thấy, nên em nói quê hương xa hơn mặt trời.
                            - Em duyên dáng thùy mị dễ thương lại dí dỏm, thông minh kỳ lạ. Chính vì em rất thông minh, nên anh yêu em nhiều.
                            - Cảm ơn anh. Nhưng anh hóm hỉnh hơn em, lại có duyên ngầm. Anh quyến rũ người khác phái dễ dàng trong sự đa tình lãng mạn đó nhe.

                            Lúc đó anh nhìn em, nụ cười dạt dào trìu mến ẩn dưới tia mắt trĩu nặng ân tình. Anh hiện tại trong mắt em thì… anh giống con búp bê Nhật treo lơ lửng nhún nhảy đong đưa trên cành cây khô mục, búp bê có đẹp, nhưng không có sức quyến rũ và hấp dẫn, tệ hại hơn chẳng còn sức sống! Ly thủy tinh đầy nước trong đã giáng mạnh xuống nền gạch bông, nước tung tóe, chút nước đọng trong lòng bàn tay khẽ khàng bụm lại, nhưng nước không cầm giữ mãi trên tay mình, ly bể tan làm anh đứt tay. Bàn chân anh đầy máu lúc anh vô tình dẫm đạp lên mãnh vỡ lổn nhổn. Trái tim con người giống dòng nước không ngừng chuyển động. Trên sông, nước sâu đến đâu cũng đo được xuống đáy, vậy mà lòng anh thì em không thể nào lường.
                            Cuộc đời là thế! lúc anh em mình leo lên núi Lâm Viên, hoặc đi lãng du các thác Pongour, Preen, Gougah, Datanlania, đi thăm thác Hang Cọp… các nơi ấy cao ngất và sâu hoắm; chuẩn bị mọi thứ bao giờ chúng ta cũng hân hoan, vui vẻ, khoẻ khoắng khi khởi hành. Nhưng… khi chúng ta xuống núi, hay bò lên khỏi vực thác sâu hun hút, để trở về, thì thân thể ta rã rời mệt mỏi, uể oải đừ đẫn suốt mấy ngày. Cũng vậy, “cả hai cô cậu” cảm thấy đời tưng bừng lên hương, nếu hai người có cỡi trên trường giang sóng sau xô sóng trước, chúng mình vẫn hài hoà vui vẻ, thảnh thơi nồng thắm tin yêu. Ngày xưa hai người âu yếm ngồi chung trên thuyền, chúng ta từng thề:
                            - Nếu thuyền chìm, mình nắm chặt tay nhau, bằng mọi giá phải dắt dìu nhau ngoi lên bờ, không được buông ra. Nhen.
                            Khi một trong hai người tự ý bỏ xa thuyền, mình ên dong đi trên dòng sông bão tố; có ngày thuyền lật úp hay tụt xuống vực sâu, thì chẳng thể trách ai. Một chân bên nầy một chân bên kia, anh không thể bước chàng hảng cùng lúc ở hai con thuyền bồng bềnh trên sóng nước. Muốn giữ người mình yêu, phải giữ mình trước với hai bàn tay và đôi chân đứng vững của chính mình. Thế thì em đã hiểu vì sao!

                            Có một lần duy nhất trong dịp Noel cách đây 46 năm, từ Sài Gòn lên Đà Lạt thăm em, anh trao tặng em sợi dây chuyền 18K mặt chữ H rất nhuyễn độ một phân, chiếc áo lạnh màu vàng óng ả, loại nỉ nhung mềm nhẹ của Pháp đắt tiền, rất đẹp. Đôi guốc sơn mài cao gót màu tím đầy hoa lá cẩn xà cừ. Khi ấy anh ân cần cúi xuống mang đôi guốc hài hoà xinh xắn vô chân em. Anh chưa hề đo chân em, mà em mang sít sao vừa vặn. Em phục anh thật tinh mắt và khéo chọn! Rồi anh đứng dậy âu yếm ôm hôn em, em nghẹn ngào vui thích hân hoan và cảm động biết bao. Điều đó luôn ngự bên phiá trái lồng ngực nầy! Hẳn anh còn nhớ chứ!? Ký ức qua tháng năm có thể mờ nhạt dần, nhưng không hiểu tại sao em trân quý nâng niu giữ gìn những món quà đầu tiên do anh trao tặng đó biết ngần nào.

                            Thời gian theo tháng năm quá dài trôi qua mau… cho đến một ngày một kia, do sợi dây chuyền mỏng manh đã đứt và rơi tự bao giờ. Em tiếc ngẩn ngơ đi tìm khắp nơi, chẳng biết nó rớt ở chỗ nào, em kiếm hoài trong vô vọng! Cái áo đẹp em luôn trang trọng cẩn thận nâng niu, giữ gìn, nay không còn mới, nó ngắn và chật. Lại thêm chiếc guốc bên chân trái mòn hẳn gót, đứt quai, chiếc cao chiếc thấp lệch lạc, cũ mèm và có phần xấu xí, em không thể mang. Đôi guốc phải có cặp vừa vặn số đo, không chật không hẹp không ngắn không dư, không rộng không hẹp. Hai bàn chân cần đi cùng một hướng mới yểu điệu, ung dung, thảnh thơi. Chứ không thể một chân bên nầy một chân bên kia, như dấu chấm phết, là guốc có thể mang thành đôi, thành cặp.

                            Chẳng hiểu sao em không nỡ vất đôi guốc, vẫn tiếc rẻ, sợ quăng đi là “sỉ nhục tình cảm”; nên “gắn bó duyên nợ” lưu giữ nó tận đến bây giờ. Em có thể mang chiếc guốc què khập khểnh đi cùng anh, nhưng do tình em đối với anh chân thật, thuỷ chung, vì lương tâm em không thể chạy trốn anh suốt đời. Nào ngờ… những kỷ niệm đó biến thành giọt nước mắt mọng tròn lăn hoài trên má, ý nghĩ em từa tựa giống thi sĩ Nguyễn Trung Kiên*: … Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
                            Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
                            Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
                            Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
                            Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
                            Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
                            Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
                            Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh
                            (*)

                            Ngày nay ở trong lòng em vẫn nhớ hoài đôi guốc ấy, em sợ một ngày nào đó chính em sẽ mang “đôi guốc què” ra đi khỏi đời anh, sợ rằng khi em mang đôi guốc nầy là bị té, không phải té từ ngọn núi cao, mà em bị ngã do những hòn đá cuội dưới chân mình. Vì, suốt thời gian qua em bị đôi chân mình mang guốc lệch đã treo ngược lên trời, khiến đầu óc em vật vờ choáng váng, quay cuồng dật dờ, mệt mỏi kinh khủng! Đôi guốc mất đi có thể mua đôi khác, nhưng tình yêu khi mất thật rồi, thì chẳng thể nào tìm lại được.

                            Thay vào bao hụt hẫng muộn phiền đó, em đền bù bao mất mác cho mình và anh, mà không hề so đo tính toán hơn thiệt. Bằng cách, em dư khả năng trao tặng anh những món quà dềnh dàng to lớn đắt tiền khá đẹp, kèm nhiều bộ áo quần, veston hợp thời trang, cặp kính Ray Bon P, đồng hồ Longines Admiral Automatic dây vàng 18K Thụy Sĩ Swiss Made, chiếc nhẫn 5 chỉ vàng 18K khắc con rồng nhận ngọc bích, sợi dây chuyền hai lượng vàng 24K & những đôi giày đủ loại đủ kiểu, v.v...

                            Thế nhưng mỗi lần em tin yêu ân cần trao tặng anh, anh “lại vô tình lơ đễnh” đánh mất một thứ, mỗi lần một thứ có trọng lượng nặng nhẹ, và hiện kim nhiều ít khác nhau… Những vật “tuỳ thân hộ thổ” tiền tài vàng bạc kia, em đề phòng ngộ lỡ khi anh ốm đau bệnh nạn bất ngờ chẳng đặng đừng, anh có thể bán nó, để “trang trải” trước, sau đó vợ con bù đắp đầy đủ hậu hỉnh cho anh sau! Vậy mà... dần dà anh bán sạch từng món, không phải do anh túng thiếu, bệnh nạn gì! Vì cuộc sống vật chất của anh đã có người vợ tào khang (là em) và con gái trưởng chu toàn lo cho anh rất đầy đủ. (Mà do anh “dại gái” bán đi để “bao” họ!!!).

                            Thật ra của ngoài thân có trọng lượng khá nặng kia, em không hề tiếc, mà chỉ tiếc… chỉ xót những đôi giày, (mấy bà tình hờ cuả anh cố ý đánh cắp cả đôi, hoặc một chiếc, do sự ngụy tạo thấp hèn kém tế nhị, vô ý thức bởi những “hành động cố gắng thanh cao”). Thì chiếc giày còn lại anh không thể ung dung thanh thỏa mang đi cùng em, nên nó trở thành vô dụng, dị hợm, trơ trọi và rất khả ố. Tuy nhiên, em phải có trách nhiệm về những món quà mà anh đã trao cho em, cũng như ngược lại anh cũng nên như thế. Nếu anh không trả được, thì cho đến cuối đời anh vẫn không thể yêu ai thật lòng. Máu của mình là máu lạnh, thế mà từ khi gặp anh lần sau cùng vào năm 06, em vẫn sôi sục niềm luyến thương say đắm, tỏ lòng mềm nhũn, nhân ái, bao dung và tha thứ cho anh về những lỗi lầm đáng nguyền rủa...

                            Sự thay tình yêu hay đổi lòng giống như một con khỉ, nó leo lên cao thì càng lộ rõ mông đít đỏ của nó. Từ đó, tình yêu mãnh liệt đầy tin tưởng trong em, như bọt sóng ào đến rồi oà vỡ tan biến trên lớp cát mịn dưới chân. Cơ khổ thay! anh đã vất những đôi giày, lật đật đi chân trần trên con đường lạo xạo sỏi đá, anh tự động ra khỏi chiếc thuyền hoa chắc chắn êm ái bền lâu cuả chúng mình. Làm trai nên nhìn thẳng về phía trước, hãy nói đi: “anh chọn gì ngoài sự trao đổi thô thiển về dục tính”!?

                            Lần cuối cùng người còn lại sẽ dừng bên mé vực cảm thấy xót xa, ê chề, cay đắng, chua xót và buồn bã lặng lẽ nhìn theo người kia. Tuy nhiên em có chút hiếu kỳ, bởi dã tâm anh muốn đạt tới “sự nghiệp, tài chính, hoặc vụ lợi”; mà chà đạp tình yêu cùng quá khứ đầy ắp ân tình, bất chấp mọi thủ đoạn à? Nhưng, em hiểu ra rồi, anh tính nào tật ấy không hề thay đổi, có khi anh càng tệ hơn ngày xưa vì mục đích riêng, anh xem thường tình yêu, danh dự, nhân cách, để đạt đến đòi hỏi xác thịt cá nhân với mấy bà kia sao? Cánh lá xương khô trôi một chặng trên dòng sông đời ngắn ngủi có bóng dáng anh trầm luân lưu lạc… với khuôn mặt hằn nếp nhăn chất chồng vội vã từng đêm truy hoan. Luống thời gian hối hả ùa về cuồn cuộn chảy từ trên mắt xuống môi, khiến lòng em bỗng nghẽn đắng từng cơn uất giận bùng sôi thắt lòng.

                            Tình yêu cuả em xét ra coi “chàng” còn có sự bất trung, lừa dối và vụ-lợi, gây tổn thương trầm trọng đối với tình cảm thiết tha mà “nàng” đã tận tụy thành tâm trao tặng “chàng”. Nhất là anh biết em chân thật trong mọi hoàn cảnh, em hết lòng “chung thủy chỉ yêu một mình anh”, em năn nỉ anh hãy cho em một thời gian, khi có đủ khoảng tiền kha khá, em sẽ quay về bên anh. Dạ vâng! Em thành tâm yêu thương và tôn trọng anh, quyết định bỏ tất cả, thi hành đúng lời hứa: hai ngôi nhà đồ sộ và một cửa tiệm, em chỉ bán một cái nhà, (nhà trả hết tiền mua từ lâu), nên em đã có $789.999. Khi check tiền cho anh coi, em tính rút tiền “trong tổ kiến cuả chúng mình” ra chi dùng bao dự tính ở tương lai. Nhưng “nhà nước” báo số tiền quá lớn, & ở Việt Nam không có ngân hàng mà em đang xử dụng.

                            Em loay hoay, phân vân không biết làm cách nào, thì… thì do các con cảm thấy bất nhẫn, vô lương tâm và tự hổ thẹn… nếu các con tiếp tục hùa theo anh lừa dối em (vì các con hết lòng yêu thương em), bé Hai và Bé Tư đã méc lại em mọi chuyện: anh vẫn xài thủ thuật “vơ vét tiền bạc của mẹ con em, lại “xơ cua bao trọn gói” thêm bà nọ bà kia, khiến em đau đớn, thì quả nhiên anh quá tồi, khả ố và tệ kinh khủng. Bây giờ em chẳng thể giơ tay ra cứu vớt anh thêm lần nữa, người ta nói “nhất bất quá tam” í mà! Khổ thay! Em đã “lờ đi” ôm trong lòng sự phiền não chua xót đau đớn biết bao năm rồi, (khi anh lừa dối em về tình và tiền không chỉ ba lần, mà ba lần ba... là chín lần ấy nữa).

                            Không đúng sao anh? Nầy nhé: Từ năm 1963 vụ cô Quyên Hà – từ bà Tư Râu Rậm, bà Dung, bà Nga, bà Nguyệt, bà Kim, bà "Lý Lắc" lu xu bu… nhặng cả lên, không làm sao kể hết. Mấy mụ kia chả đáng gì, chính anh luôn tự hào thừa nhận: "em xuân sắc mặn mà, thùy mị, hiền thục dịu dàng, thông minh vượt trội hơn mấy mụ kia, là cái chắc, anh cảm phục sự thông minh của em, nên anh càng yêu em"). Lời anh nói đó dĩ nhiên em hãnh diện chứ. Tuy nhiên, em chỉ buồn về vụ mấy cú phone gọi ở Mỹ về, khi vợ nằm bên chồng: qua vài câu xã giao, anh lẽn ra phòng khách nói chuyện phone với bà tình nhân cũ: từ hai giờ khuya đến năm giờ rưỡi sáng. Sau đó anh lên lầu lóc cóc gõ e-mail.
                            Hôm sau bé Hai, bé Tư khều em lên lầu mở e-mail ra, chỉ cho em, cả ba mẹ con cùng đọc:
                            Date: 01-20-2006 > 14:05:20
                            From: khanhson21@saigon.com
                            To: cungio77…thu.com
                            cc: tmtfe@.com
                            Subject: Gửi Thư
                            Lê Trân Thư ơi!
                            Anh đọc thư em, mà lòng anh ngổn ngang trăm mối và ngậm ngùi. Nhưng anh rất mừng, là hai đứa mình cùng một quan điểm: Mối tình đó bất diệt. Vậy thì, xin cứ để đó. Mình cứ tôn thờ nó, và xem đó là cuộc tình tuy đậm đà. Nhưng kết thúc rất có hậu. “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” mà em! Vâng! Em cứ tự nhiên, vì anh cũng hiểu là công việc của em rất đa đoan và bề bộn. Tuy nhiên, em vẫn drop cho anh vài hàng khi rãnh rỗi. Vì như em nói đó: Bây giờ chỉ có sự cảm thông sâu sắc; Những gì tiềm ẩn được phơi bày. Anh hiểu em, và ngược lại em cũng hiểu anh phần nào. Xin cứ xem mối tình cuả mình là giai đoạn đẹp nhất cuả cuộc đời nầy. Nếu có kiếp sau. Nếu có... thì anh hứa với em là: anh không để lỡ bước nữa đâu. Anh đã có em trong vòng tay. Và bỗng nhiên em thoát ra bay mất. Nhưng ngược lại, em vẫn còn mãi mãi trong tim anh. Điều nầy chỉ có anh biết, khi nào anh nằm xuống, thì nó vẫn còn tiềm ẩn với thời gian và không gian. Em vẫn là mãi mãi, là ngàn năm Trân Thư ơi!
                            Thôi thì như anh nói: Mình còn có thể nói cho nhau những gì mình từng ấp ủ tận đáy tâm hồn. May thay, kiếp sau còn đoạn cuối cuộc đời - em đã hiện diện cho kiếp sau.
                            Anh gửi lời cảm ơn em. Anh đã nhận được 200usd. Vâng! Anh sẽ nhớ mà, mỗi ngày anh đều viết cho em hai lần thư, càng dài càng tốt - một copy về điạ chỉ e-mail ở sở em làm - một copy về điạ chỉ e-mail: tmt cung707.com.

                            Mấy năm nay anh chuẩn bị đón Tết, lu bu nhiều việc. Mặc dù năm nào cũng như năm nào: Anh vẫn đi trên đường một mình cô độc. Nhưng mùa xuân năm nầy, anh có em, có thêm nhiều bạn đồng hành trong quá trình đớn đau nầy. Anh tin rằng: Nếu em “hét” được, thì anh cũng sẽ hét. Cho có thời gian và sự kiên nhẫn, cũng như ý chí quyết chống chọi lại mà thôi?! Điều nầy anh có thừa. Anh hiểu là anh vẫn có, và vẫn còn em trong đời mà. Hãy đến với anh – Như cô thiếu nữ ngày nào em nhé. Mọi chuyện khác, thì thời gian sẽ cuốn trôi đi. Anh cũng không quên cảm ơn sự quan tâm đặc biệt của em: Em hứa quyên góp tiền từ các bạn, và gửi về thêm cho anh 2.000usd nữa há. Thanks.

                            Để hôm nào buồn buồn, anh nói chuyện phone tâm tình với em, ôi! chuyện gì mà mình nói phone vào lúc đêm khuya, từ bốn năm giờ liền vậy nhỉ!? Thì ra, vẫn còn rất nhiều điều, mà chúng mình chưa bao giờ thổ lộ với nhau. Gần tàn đời rồi em. Hãy nói cho nhau biết tất cả nhe. Em còn nhớ anh thường viết cho em câu: Em không chỉ là người yêu. Mà, em chính là tình yêu? Tạm biệt... Hẹn sẽ gặp lại em.
                            Tony

                            Đọc xong thư, em quá thất vọng, đau đớn kinh khủng gục mặt trên bàn phím khóc nức nở. Hai con gái ôm lưng em, cả ba người cùng khóc. Từ lúc đó, em mới biết cách học theo “cái sách bất hủ cuả anh”, em điềm đạm khôn ngoan lặng lẽ suy tính, biết tàn nhẫn lạnh lùng hơn, (những thứ nầy em lãnh đạm dấu kín trong tim, tuy ngoài mặt em vẫn lo đi chợ nấu ăn, ân cần săn sóc anh, tận tụy chu toàn hết bổn phận). Kẻ nầy đã vinh dự chiến thắng tình cảm nông nỗi quá tệ ấy! Thân phận con người, sự kính trọng, tin yêu, danh dự, lòng tự trọng: khiến em mệt mỏi tột cùng. Định mệnh thật trắng trợn, cay đắng, vô tình đến tàn nhẫn phản bội hai người. Một cuộc tình có lẽ thật lâu dài, (49 năm tròn “dang díu” cố giằng co níu kéo chắp nối trên mail, trên phone, trên thực tế) tri âm tri kỷ, say mê đắm đuối yêu nhau nhất. Em xót thương dày vò, ân hận… hối lỗi, ray rứt lẫn mến yêu anh, và thương yêu các con lắm.

                            Bỗng dưng hôm nay toàn diện bể vỡ sụp đỗ tan tành, vĩnh biệt trong đắng chát bão bùng! Cứ tưởng cuộc tình sẽ thắm thiết trường cửu. Nào có phải như vậy! Vì rằng tình yêu “chàng” trao cho “nàng” là con dao hai lưỡi đâm lút cán vào trái tim người chân tín, đã bùng vỡ máu tươi. Em ví mình như con bò, anh là con rắn cùng uống chung một dòng nước yêu thương. Ấy thế mà con bò khi uống nước, thì ưu ái cho nhân loại sự sống bằng máu thịt chính mình và sữa tươi. Còn con rắn khi uống nước, lại phun ra nọc độc, con rắn ấy chính là anh: Tân Tỵ sanh vào tháng 6 oi ả, nóng kinh hồn!

                            Bây giờ anh trở thành cái bóng đen lem luốc lu mờ, không sôi bỏng trong quá khứ, cũng như ở hiện tại và tương lai. Lần cuối cùng, nếu quyết định sai nữa; là em hư mục, ân hận suốt đời! Khi nhận ra quá khứ, hiện tại, tương lai của người yêu dấu chả tốt đẹp gì, anh vĩnh viễn không bao giờ xoá sạch lỗi lừa gạt -mọi người và riêng em- cần được tha thứ. Quá khứ không hay ho, do từ anh tự bôi tro trát trấu thành vết chàm nám khắc lên mặt anh mất rồi, không bao giờ anh kỳ cọ rửa sạch trong tâm thức người thân. Anh chỉ là con chim sẻ muốn bay bổng lên cao để hóa thành con phượng hoàng, thì trước tiên nó hồn nhiên đập cánh xuống. Khốn thay, nó vụng về phành phạch vỗ cánh đập xuống vũng bùn nhơ, nay con phượng hoàng hoá thân thành con quạ lửa hung ác gớm ghiết, mà ai khi trông thấy nó, cũng lấy ná bắn, hoặc lấy đá ném cho chết; bởi vì con quạ chỉ đem đến điều bất hạnh tai ách, điềm xui xẻo đến mọi người!
                            ***
                            Đứt tay một chút còn đau.
                            Huống chi nhân nghiã lìa nhau, sao đành
                            ”.
                            Vậy mà… “tình ly thân” của chúng mình… (nói ngắn gọn thật sự chia tay vĩnh viễn từ ngày July 4/06- Independence Day). Một ngày đại lễ lịch sử tôn qúy cuả Hoa Kỳ, toàn dân long trọng kỷ niệm tuyên ngôn độc lập. Ngày cả nước Mỹ hân hoan sung sướng vui vẻ hạnh phúc chào mừng (federal holiday), họ tay trong tay nườm nượp đi lãng du rong chơi các nơi trên du thuyền, đi xe lửa tốc hành vội vã gặp nhau, mọi nẽo đường bộ kẹt nghẽn vài chục triệu xe hơi trên freeway. Phi trường đầy ứ đông nghịt người ta xếp hàng hai, hàng tư... chờ đợi. Thế mà chính ngày nầy, hai ta ngượng ngùng run run ấp úng cúi mặt ngậm ngùi không còn giọt nước mắt, thấp thỏm khi “ký hiệp định phân ly”!
                            Thế nhưng… dù đi lô ca chân có chậm đến mức nào, rồi có lúc cũng đến đích, em dứt khoát thả những chiếc thuyền giấy chở đầy hoa tình yêu và hoa tim trôi ra ngoài khơi, mà có một thời dài ngoẵng em đã chân thành, ưu ái, nồng nhiệt tha thiết trân trọng trao dâng cho người… tưởng là “hồng nhan tri kỷ”. Tình ấy nay như đống tro tàn, tuy trong lòng em không mất đi ngọn lửa vùi trong tro nỗi luyến lưu một thời xôn xao nỗi nhớ. Mọi việc giờ đây hoàn toàn sụp đỗ, nhưng điều duy nhất em muốn nhắn với anh:
                            - Không nên coi thường sự chân thành khi em tin yêu anh, em thuỷ chung với mối tình “phân lià hợp rồi tan, tan lại hợp suốt 49 năm qua”. (Em nhấn mạnh -anh nên nghiền ngẫm suy nghĩ kỹ ở điểm: “em chỉ mang hình ảnh cuả chính anh đi khắp bốn phương trời, chung tình với anh suốt bao năm nơi lồng ngực nầy đây”). Tuy vậy, may mắn hết sức bây giờ em đã tỉnh ngộ dứt khoát thoát ra, tình cảm không cho phép mình tiếp tục dệt mộng trên bãi cát vàng với “phu quân cố nhân”. Để rồi, khi bừng tỉnh giấc mơ, nghe bạn bè nhắc tới tên “anh yêu” với nhiều điều kinh dị… hơn là sự tốt đẹp; khiến em ngao ngán. Bỗng giật mình, lạnh toát cả người.
                            Ôi! Cuộc tình tàn và thế thái nhân tình nào chỉ có thế thôi: em sợ ai kia dã man tàn bạo nhất thế giới, vì lòng người ấy hiểm ác nhẫn tâm khó lường. Em lạnh lùng ngoảnh mặt quay lưng không thích lún sâu vào con đường tình nữa, theo ý Trời mất rồi.

                            Lúc mới yêu nhau, “em tôi” đến với “anh ta” bằng hai bàn tay đầy ắp ân tình dạt dào yêu thương, khá nhiều rung cảm, chân thật và tín trung. Lúc lặng lẽ ra đi, em không hề có một lời oán trách anh. Chân thật mà nói em chỉ muốn chúng ta chia tay nhau lặng lẽ, êm đềm, không để lại trong lòng nhau nỗi muộn phiền, dày vò, oán hận, buồn đau. Em đã làm thế thật, em trần trụi -có còn gì nữa- để tiếc nuối, mà không buồn bã lặng lẽ ra đi trước mặt anh không hề mang theo một thứ gì. Nỗi đau thấm đẫm muộn phiền, rõ ràng khuấy động tim em, tim anh, oái oăm dằn vặt từng chặng, từng chặp, từng bước chân tức tưởi đong đầy chua xót, (do định mệnh trớ trêu quái ác trao vô tay mình), làm sao mình không đau xót chứ! em cố dằn lòng kéo carry on nhỏ xíu ra đi trước mặt anh và con gái, không ngoảnh lại. Nếu quay lại nhìn, em sẽ thương xót anh hơn, rồi thêm lần nữa… em không cương quyết chia xa anh, thì đâu vẫn hoàn đấy.

                            Anh thập thò rón rén đứng nơi cưả chính, bồn chồn lo âu, hồi hộp nhìn theo em mãi. Có lẽ anh sợ em trở lui giở trò đòi lại những gì đã biếu! Anh à, em không tồi và tệ như anh nghĩ đâu. Tình cảm là thứ bảo vật trân quý nhứt, hơn bất cứ vật gì trên cõi đời ô trọc, mà em không đòi lại, thì sá gì mấy chục ngàn dollars, vài lượng vàng và những thùng quà to tướng, những bộ quần áo & những đôi giày thời trang lẻ tẻ! Đó là chuyện nhỏ. Rời xa anh, em chỉ vỏn vẹn còn hai bàn tay trắng trơn, chiếc vòng ngọc thạch thuở xưa em đưa anh, nhờ anh đeo vô tay mình, lúc đó em thỏ thẻ:
                            - Anh đeo nó vô tay em, cố ý ngầm bảo tình chúng mình sẽ trường cửu, chuyển tiếp liên lũy như một vòng tròn, không hề phân ly, hén anh & chiếc nhẫn hôn ước mình đã sung sướng hân hoan lồng vào ngón tay đeo nhẫn cưới cho nhau -không còn. Mái tóc của em bóng mướt rất dài mà từng ngày anh hằng trân quý vuốt ve, cũng cụt lũn -do tự tay anh đã cắt trước mặt ba đứa con gái- anh trang trọng cất trong hộp:
                            - Lâu lâu nhớ em, anh đem ra nhìn, vì đó là thứ có thật từ chính thân em.

                            Từ thuở xưa, xa lăn lắc… tay em đã gài lộn hàng nút áo từ cái khuy trên tụt xuống hột nút dưới, lúc ấy em “mờ mắt vì sự chói lói huy hoàng sáng láng long lanh trong tình cảm”, em không hề thấy, và đâu có ngờ... nên hí hửng hân hoan vui vẻ vội vã chụp những tấm hình “kỷ niệm tình yêu anh và em”, mà em hằng trân quý, em trìu mến nâng niu niềm khát vọng yêu thương vô vàn dâng lên cao vút! Bây giờ những tấm ảnh ngày xưa xuyên qua thời gian còn in dấu sờ sờ “chiếc áo tình lệch lạc và xéo xẹo giưã hai hàng nút thắt”. Mối tơ duyên nầy sai: khi em và anh vô tình đi vào đời nhau, khiến toàn cái áo bị nhăn nhúm méo xẹo, không còn sự long lanh phù phiếm huyền trầm đầy xao xuyến và dạt dào rung cảm trong ký ức. Em gỡ hoài mà cái nút thắt quá bền và rất chặt không thể bung ra.

                            Nay nhận biết, em thật quá thất vọng về anh, anh nói một đằng làm một nẽo. Đời người như chuyến xe đò chạy qua những bến tạm trên con đường dài ngoẵng, có lúc xe êm ái bon bon lướt nhanh; cũng lắm khi nhấp nhô gập ghềnh bởi nhiều ụ đất lồi lõm. Hai ta gặp nhiều phiền muộn, chông gai thử thách, và sóng gió khi cởi trên con sóng, để vượt qua mọi trở ngại, vì hạnh phúc không tự đến từ những điều dễ dàng suông sẻ mình muốn. Em nghĩ mãi không hiểu, so với thời gian 49 năm qua, biết bao phen anh gieo cho em nhiều đau khổ tột cùng dai dẵng, em thiết nghĩ: anh có tài năng quá tuyệt và rất lạ: anh có thể thu hút & biến cuộc sống, tình yêu, con đường chúng ta đang đi dẫn tới đào nguyên, hay tụt xuống địa ngục. Bức tranh tình yêu ấy quyến rũ mê hoặc mình, đã mặc nhiên biến em trở thành kẻ nô lệ luôn gắn bó, cô vợ ngu dại nầy lầm lủi lẽo đẽo theo chồng từ những tháng năm quá dài. Bỗng mất.

                            Lần chia tay coi như vĩnh biệt, em chẳng còn gì phải bịn rịn, lưu luyến ngậm ngùi tiếc nuối. Mất 49 năm vượt thắng mọi vấn đề tình yêu, sự sống, hạnh phúc bằng chính đôi chân dần dà khoan hoà và khoan đãi bước tới tương lai, thì em phải quên dĩ vãng đáng buồn. Anh có đập đỗ mối tình mà anh từng tự hào khoe với bạn hữu: “Tôi yêu cô ấy rất nhiều, cô ấy là tình đầu cũng là tình cuối, ngoài cô ấy ra, tôi chẳng hề yêu ai, tôi nâng niu trân quý và mến trọng mối tình đó”.

                            Thì em chỉ ủ rũ muộn phiền ngả xuống trên mặt đất; như loài cỏ may, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ gà, cỏ gấu, cỏ tranh, cỏ mần trầu, cỏ lồng vực, cỏ mật, “cỏ bạc đầu” bị đàn ngựa dẫm đạp, nó vẫn có sự sống dẽo dai tự vươn lên mà bùng dậy. Thật tình em không thể hiểu sao chúng mình đã yêu nhau suốt từng bao năm qua, mà ta không thấu hiểu về nhau hơn tí nữa? Quá thất vọng để nhìn anh qua lăng kính ngã bụi vàng đường xa: Nay em mới “ngộ ra” một điều se sắt xót xa đau lòng: Hết lòng tạ ơn Trên! con chưa phải là người “xấu số”. Em không thèm tham dự cuộc đua, chả cần nghe lời đường mật của anh, em tủi hổ đi ra khỏi đời anh mà trở về “nguyên quán” khi tóc em và anh đã bạc, lưng còng, gối mỏi, đôi mắt không còn tinh anh. Tiền bạc, ước muốn tình yêu chân thật trường cửu, chưa phải là quyết định cuối cùng. Em nhận ra giá trị tình yêu ấy chỉ là bánh xe cũ rích lăn tròn như con số O rỗng tuếch. Dĩ vãng, hiện tại rồi tương lai là bánh xe thời gian chậm chạp có vòng quay khổng lồ. Anh không đáng được em yêu đằm thắm, em không thể nhân nhượng, bao dung tha thứ một người không biết hối cải.

                            Anh trắng trợn tàn nhẫn hẹn hò thề hứa với con đàn bà khác trước mắt người mà anh bảo là “anh chỉ có em, ngoài em ra anh không hề yêu ai”. Thì anh sẽ phải ôm lấy suốt đời sự lỗi lầm, ân hận, ray rứt và dày vò suốt kiếp. Dù mai đây lá trên rừng có tơi tả rụng, trăng có úa tàn, những ánh sao lu mờ, sóng biển có bốc hơi thành mây, thành mưa, thì em vẫn khẩn thiết cúi rạp mái đầu phủ phục xuống đất: "Xin Trời cao đất dày có hai quan thần linh đứng trên hai giá vai mình biên chép soi xét: Hãy tha cho con cái tiền duyên đớn đau, đốn mạt dày vò, đắng cay, đọa đày nầy. Thưa ông Trời"!

                            Vậy, anh cũng chả nên hậm hực tức tối, nói xấu và trách móc oán giận người vợ bạc phận làm gì! Lúc xưa chúng ta yêu nhau thắm thiết, nồng nàn, say đắm, để rồi bây giờ anh nhẫn tâm đào hố chôn sống em (-không phải chỉ một vài lần trong sự phẫn uất cuả cuộc sống rã rời ly thân-). Rồi sau đó anh lại móc em lên, tiếp tục gieo cho em sự phiền muộn tột đỉnh, khiến em vô cùng đau đớn, xót xa, chua cay, thương cảm, ray rứt. Anh nỡ xem em như con cá sống nằm trên thớt, anh nhẫn tâm cắt từng khúc rồi rắt thêm muối tiêu tỏi ớt vô. Anh không nhớ rằng: con cá cũng có xương. Vậy nên, anh hãy cẩn thận vì có khi xương cá sẽ đâm sâu vô cuống họng, khiến anh đau đớn vì xương cá mắc hoài trong cổ nghen anh. Hẳn nhiên anh thừa nhận là em rất hiền, có nhân ái, em chỉ biết lặng lẽ khóc thầm và an phận; do vậy mà khi anh quen mụ Li Lac kia, anh trở mặt e-mail mắng nhiếc xỉ vả em đủ điều, anh còn nhớ nhỉ? Anh à, anh không nên coi thường tình yêu chân thật cuả em, mà bôi nhọ lỵ mạ em đến vậy.
                            Lần ấy, vì còn yêu anh nên em tha cho anh đó. Chẳng qua… từ trước tới nay, em luôn luôn học theo cái sách bất hủ của anh Tony Hoàng Năm đã từng dạy cho em Thụy Mi Ayana những chiêu độc đáo. Em bắt chước anh từng món, từng món… từ cái giá đau đớn tột cùng căm phẫn đó thôi. Ngày ấy em có phần nhẹ nhàng, có chút nương nhẹ trả hết cho anh. Nhưng anh à, đừng trách em -sẽ không có lần sau khả ái nhẹ nhàng nữa đâu nhé-, (nếu anh nhẫn tâm chà đạp lên sự đau khổ và tự ái cuả người anh từng yêu), thì em không nương nhẹ đâu. Lúc bùng sôi từng cơn uất hận cháy lòng lên cao độ, thì không biết sự phẫn nộ trong tư tưởng và hành động của em sẽ ập đến lúc nào. Nếu hôm nay phải trả cho vụ việc anh gây tổn thương cho em từng chút, từng chút… -trong quảng đời ngắn ngủi còn lại (cuả anh) ở buổi xế tà; từ bây giờ cho đến lúc anh chết- so ra, thật không quá lắm đâu.
                            ***
                            Rồi một buổi kia, (cách bốn năm sau khi chúng ta ly biệt), vô tình em lại nhận được tin anh “than thở kêu gào” trong e-mail lần nữa:
                            My name’s Tony
                            Have you received my Circular letter? You are stunned… aren't you? But it is true. I'm stricken by disease and mostly by painful (prostrate) problem and chronic (asthma). I don't have Medicar... and we are... out of mean to be hospitalized. I need urgent financial HELP. I'm waiting patiently for YOU to HELP me... I'am calling out for ALL HELP. Please do answer me.
                            Your friends and brothers.
                            Tony
                            Chuyển ngữ:
                            Tôi tên là Tony,
                            Các anh chị có nhận được thư của tôi chưa? Chắc anh chị rất ngạc nhiên lắm phải không? Nhưng đó là sự thật. Tôi bị một chứng bệnh rất nặng “ung thư”, chủ yếu là do tuyến tiền liệt (Prostate) và hen suyễn (Asthma) kinh niên, tôi cần phải nhập viện đễ được điều trị, rất tiếc tôi không có bảo hiểm về sức khoẻ (Medicare), và cũng không có tiền bạc. Tôi rất khẩn cấp cần sự giúp đỡ về tài chánh. Lời kêu gọi của tôi đến tất cả quý anh chị, và rất mong được sự giúp đỡ. Xin vui lòng trả lời tôi.
                            Bạn của các anh chị và anh (cuả các em)
                            Tony

                            … Nay, em đã có cuộc sống mới. Nếu còn -chút tình chăng- với anh, hy vọng em còn sót lại tí dư vị qua tình "bè bạn" mới lạ, & xíu xiu tò mò? Tuy nhiên, bỗng dưng em nhận được tin anh, qua những hàng nhắn RE: kia, đôi ba lần em phân vân xót xa tự hỏi:
                            - “Tưởng anh có tí hạnh phúc" với mụ đàn bà Lí Lac thứ bao nhiêu kia tại Việt Nam, cớ sao hôm nay anh nhiều lần E-mail & PM (Private Messages) cho em vậy!? Cây kim có một đầu nhọn, một đầu có lỗ, cuối đuôi kim kéo theo sợi dây dài đằng đẵng giống thời gian. Nếu cây kim lỡ chích sâu vô tay anh, đụng xương, đụng gân, nỗi đau lê thê khôn nguôi, thì đau lắm, có khi tật nguyền lặt lià lặt lọi suốt đời anh ạ. Thì ra… “mụ Lí Lắc” gốc Quảng Trị ấy đến với anh không cho anh “cái mỏ lết mu ruà” gì, ngược lại càng khiến đời sống anh (vốn dĩ trước kia phẳng lặng an vui sung túc khi có “mẹ con chúng em”); bỗng dưng bây giờ anh mang vác đủ thứ âu lo, đeo thêm gánh nặng, chìm lĩm theo “hủ mắm nêm khổng lồ bu bám trên lưng”. Anh bận rộn, chao đảo tinh thần, bần hàn lo lắng đủ mọi phương diện đến thế sao!? Em nghĩ rằng: tự trong cùng đáy tâm tư, anh đã tiếc nuối và dật dờ trong sự dày vò hối hận, ray rứt vô vàn bức bối, (khi anh rời xa gia đình mình đã có một thời đầm ấm yên vui: nơi đó từng có em có các con, ấy thế mà anh bỏ lỡ cuộc sống tươi đẹp sung túc từ bao năm qua cùng mẹ con em). Phải không nào!?

                            Anh à, bây giờ... muộn mất rồi! anh không nên làm thế nữa, anh không còn là "thần tượng thời vàng son" cuả mẹ con chúng em. ANH đã chọn con đàn bà ấy, thì anh không nên làm họ buồn, càng không nên liên lạc với người xưa. Ngược lại vị hôn thê đầu đời nầy khinh anh, bởi vì anh đã nhiều phen lừa dối em và con gái về hai phương diện: Tình và Tiền. Anh cũng hiểu từ xưa nay em chưa bao giờ gọi anh là “ông” và xưng là “tui” nhỉ! Nhưng đây là lần đầu tiên và là lần cuối TÔI không bao giờ trân trọng & kính phục Ông.
                            Tuy nhiên, em nói đây với tất cả sự chân thật của người đối với tình người. Mai kia, em không muốn ngồi đây buồn bã, để nghe anh báo tin lần thứ mấy mươi là cuộc tình của anh hôm nay lại tan vỡ… Mà, thật sự em cầu mong anh giữ chặt bà nầy, bà kia, bà ấy…, (dù bà tình hờ "lòi tói" hay không nào cũng vậy nha). Anh đừng để thêm những lần tan vỡ, tội nghiệp anh! Em thương xót anh lắm, biết không! Dù sao, nay anh đã khá già cần có người "hầu hạ"! như anh đã nói chuyện phone ở lần em làm giấy tờ bảo lãnh anh du lịch qua Mỹ đó:
                            - [“Anh đã già, cần người phục vụ (như sợi dây lòi tói)” lo cho anh, chứ ai lo cho anh]!!!

                            Dẫu sao thì em tôn trọng sự lựa chọn không đơn giản và ích kỷ vụ lợi cuả anh, chỉ xin anh không nên coi bà ta là “công cụ lòi tói cũ kỹ & hư mục” đời mình. À, ra thế! Sẽ không còn ai thực sự chân tình đến với anh chia sẻ mọi điều, (như em: một hôn thê xa xưa nữa sao ta)? Thiệt tình em ứa nước mắt ngậm ngùi thú nhận em thương xót anh lắm! Sau những năm quá dài… nay em đã hiểu: cho dù con sói có rụng hết răng và lông, nó vẫn là một con sói già lầm lì ương bướng, ngoan cố đáng sợ, khiến người ta dè dặt xa lánh. Nếu anh muốn thành công trên mọi lãnh vực [kể cả “hôn nhân lờ tạm bợ cuả sợi giây lòi tói” ăn vờ ngủ vẩn với tình hờ và hủ mắm nêm của mụ Li Lac. (Ồ! Ở Cali có con đường mang tên Lilac thiệt mà anh), -như anh từng nói-, anh phải học cách “dấu nhẹm bản lãnh con sói già” trong tim. Anh không nên lập lại thêm lần thứ mấy mươi về sự tàn nhẫn “flirt” đùa cợt tình cảm với người khác phái, dẫm đạp họ ngả gục xuống trên mặt đất. Nhe.

                            Anh tưởng rằng mấy bà ấy thật tâm yêu thương anh (như em) sao? Anh đã “bị họ trấn lột” sạch sành sanh mọi thứ trần truồng, như con sói già rụng hết lông và răng chăng nữa. Vậy, anh có biết “mụ thợ săn Lilac ấy” bẫy con sói bằng cách cắm những cọc cán dáo lún sâu xuống đất, ngọn dáo bôi đầy máu chiả lên trời. Khi con sói đi qua rừng cây, nó ngưởi được mùi máu tanh, nó say mê vui thích đứng lại nhắm mắt liếm hoài máu trên ngọn dáo, liếm mãi. Khi nó bị ngọn dáo cắt đứt lià cái lưỡi nó không hề biết đó là máu cuả chính mình, lúc tỉnh ngộ, con sói đau đớn ngửa mặt lên dưới ánh trăng tru hú vang động khắp khu rừng (như trong hình ảnh miêu tả về loài sói). Nhân đây, em kể hầu anh nghe câu chuyện: "Có một nông thôn kia được một nhà triệu phú gọi đến, nhà triệu phú nói:
                            - Anh đi dọc theo khu đất nầy, nếu anh đi tới đâu, thì đất đó là của anh. Tôi cho anh.
                            Ông nông thôn rất mừng, ban đầu ông khoan thai bước đi từng bước, sau đó ông đi mau hơn, ngoảnh lại nhìn sau lưng mình thấy chủ còn đứng đó, ông không rảo bước mà chạy rất mau, nếu ông chạy xa chủ bao nhiêu, thì phần đất sẽ thuộc về riêng mình càng nhiều bấy nhiêu. Lúc cắm cây sào lên chỗ phần đất cuối cùng không thấy chủ nữa, ông dừng chân ngồi nghỉ. Tối đến, ấy là lúc ông phải quay trở về nhà như lời chủ dặn. Vì chạy quá xa, quá lâu, nên trời tối đen không thấy đường, khi mò đến gần nhà thì ông rất mệt, ngất xỉu, đứt hơi và chết. Ông ta chỉ nằm vỏn vẹn dưới ba tất đất.

                            Trong chuyện "mụ lòi tói Li Lac và Anh", có sự lợi dụng nhau đê tiện, thô bỉ, cùng “thủ thuật” tham lam cuả con sói, tên thợ săn, sẽ giống hệt người nông dân kia đấy. Hạnh phúc hay tàn nhẫn đây? Gieo “giống” nào thì gặt “nhân” ấy đã lạnh lùng dấn bước vô đời sống anh rồi, em không cười nhạo khinh rẻ lúc anh sa đoạ, vấp ngã rồi sụp đổ đâu. Có những người chỉ cần trìu mến nhìn vào mắt nhau vài lần, là có cảm giác ngất ngây, vững chí tin tưởng chung thủy yêu nhau say đắm kéo dài đến vô tận, là có thể tìm được một nửa kia của chính mình, như một cạnh sườn (hụt mất) của ông Adong mà có bà Eva. Khi em đã chính thức có được một chiếc xương sườn thứ 6 nơi hông trái, ở gần buồng tim của anh rồi. Thì hà cớ sao anh bị kẻ kia lừa, ăn cắp mất “chiếc xương sườn” vậy hở! Em chẳng hiểu trong lòng anh có nghĩ như em không? Bây giờ thân anh xiêu vẹo, suy sụp, cuộc sống ấy sao thảm thương chua xót thế nầy? Tội nghiệp anh biết chừng nào! Vũ khí của người chân tình tín trung thương yêu là sự say đắm đầy tin tưởng & lòng tự trọng. Vẫn khốn thay lòng tự trọng của anh bất hạnh hơn sự bất hạnh của em: Đó là anh đã bì bõm dày xéo dẫm đạp lên những vết chân cũ trong vũng bùn sình mà anh từng đi qua.

                            Em không thể khóc một cuộc tình đan trong mây, có lẽ qua thời gian bụi phấn bay theo gió tàn phai vỡ vụn, sóng và gió cuốn tình bay đi biền biệt trong không gian bao la, theo hàng nước lăn tăn trong khoé mắt trôi mãi trôi hoài ra ngoài. Nay em không thể khóc nữa khi nhìn anh bi thương, bởi vì nước mắt mình ráo hoảnh từ lúc nào, chẳng rõ, nước mắt bây giờ là thứ xa xí phẩm như rượu cạn kiệt xuống đáy chai. Để rồi hằng năm anh viện cớ nầy, cớ nọ… luôn ngửa tay xin tiền làm phiền em và nhiều người bạn phương xa. Em thật tình ao ước, mong muốn anh có sự sống tốt đẹp hơn; dù sao em vẫn có lòng nhân đạo vì chút tình riêng nghiã cũ, dẫu sao “tình cũ không rủ cũng đến” cơ mà. Một lần yêu thôi là suốt đời nhớ tưởng, huống chi mình đã có nhau gần như suốt cả đời người!

                            Biết anh ưa thanh nhàn sung túc, thật tâm ngay lúc nầy em muốn gởi nhiều tiền về giúp anh như thuở nào, vì em có thừa khả năng (khi chúng ta xa nhau, em đã về Việt Nam năm lần không muốn để anh biết, hoặc gặp anh. Em lui tới những nơi ông bà bô lão, trẻ thơ nghèo khổ ở vùng hẽo lánh xa xôi đang cần… “hảo tâm”). Hôm nay em cũng muốn tặng riêng anh nhiều hơn họ! (tất nhiên). Nói nào ngay thiệt tình bi giờ “em vẫn còn… muốn cho anh hơn thế nữa, nếu anh nhận lỗi mình cư xử không đẹp không đúng với em,
                            là em có thể…”. Nhưng các em, nhất là bạn hữu quyết liệt can ngăn, cấm tiệt, họ thừa biết “cái tẩy” anh ưa lừa dối gạt gẫm người khác nhiều phen. Họ bảo:
                            - Mầy quá ngu si đần độn, mê muội mất cả lý trí, (khi giúp người khốn nạn, chỉ biết ăn chơi đàng điếm, hắn chuyên lừa phỉnh bạn, hoang đàng). Tại sao mãi đến bây giờ mầy vẫn chưa chịu mở mắt ra, tỉnh ngộ hả? Đồ ngu! Bọn tao quyết liệt phản đối việc mầy giúp đỡ cho hắn. Ngu vừa vừa thôi.
                            - Thì tôi “thương người như thể thương thân” í mà.
                            - Nên để tiền đó giúp cho người thật sự cùng quẫn, nghèo khó, bệnh tật hoạn nạn, hơn là giúp kẻ mạnh khoẻ phây phây kia… chỉ biết chuyên “làm tiền người khác”.

                            Buồn thay mọi thứ huyền trầm phù phiếm nhanh chóng biến tan trong phù hoa phân ly rồi. Mất hết thật vẻ nhìn trìu mến, tư lự, bâng khuâng, băn khoăn ray rứt, xót xa dày vò liên lũy. Không còn gì cả! “anh của tôi” ơi! Từ hạt sương mọng giọt lung linh dưới ánh nắng rực rỡ, từ tình yêu lý tưởng nồng nàn, đắm say tin yêu mà em trân quý tôn thờ thần tượng trong giấc mộng hoài hương xưa. Giờ đây đối với em bập bùng chao đảo và rỗng tuếch. Chả là gì! Chẳng có giá trị ti tí mảy may hạnh phúc nào. Ngược lại nó dày vò bất tận là đằng khác. Nếu bây giờ em trở về với anh, có nghĩa là đồng tình dấu nhẹm những chuyện anh lừa dối các bạn, em và con gái, mà anh luôn sai phạm sao!? Tình yêu giống như chiếc răng sâu bị đau nhức, biết nó hư mà cứ tiếc, để đó, lần lữa không chịu nhổ quăng đi, thì mình sẽ đau nhức hoài. Nhưng mà, bây giờ… chẳng thà mình chịu đau một lần, nhổ quách đi, rồi sẽ hết đau mãi. Phải không nào, thưa anh?

                            Trong cuộc lột xác đổi đời, vĩnh viễn em buông xuôi hai tay, không thèm đem theo chút hành trang, cho dù những kỷ niệm ru tình vẩn vơ bé tí xíu, nhỏ nhất. Mặc dù anh từng nói: “Không có ai rộng lượng tha thứ, bao dung, kiên nhẫn chịu đựng, cần cù, chu đáo và hiểu anh trọn vẹn- như em”. Thiên đường hay điạ ngục chẳng ở nơi nào xa lắc, mà chính tại nơi trần gian đây, là do cách suy nghĩ, hành xử và hoàn cảnh của mỗi người trong gia đình. Em cảm thấy quá buồn, hổ thẹn cùng thất vọng não nề, chiếc “đồng hồ nô lệ thời gian & tình yêu giữa em và anh” không còn ung dung reo vui triền miên kêu tích tắc mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi tháng, mỗi năm… khi lên dây thiều nó dần dà kêu cót két, rột rạc, khô khan, rồi nhão nhoẹt nghe kỳ lạ và đứt phựt, chết hẳn, chết tiệt trước thời gian khi ta muốn vượt đến đích rồi.

                            Đúng ra, em đã cơ cùng gian nan lặn lội vượt qua được những ngọn đồi an toàn. Lúc xưa em ứa hàng nước mắt, cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Ngày nay em đơn độc vượt qua lưng chừng ngọn núi cao ngút to lớn sừng sửng chấn trước mặt, e rằng sức cùng hơi cạn, em không đủ khả năng kiên cường nhẫn nại bước thêm bước nào, khi đôi chân em vụng về rã rời run rẩy. Anh giống như ngọn núi lớn sừng sững chận đứng trước mặt, khiến em cảm thấy rùng mình sợ hãi và ngộp thở, em không thể ngoảnh nhìn lui phía sau, vì sau lưng em là một dĩ vãng dài ngoẵng có vực thẳm sâu hun hút. Mình đã bao phen bẽ bàng quay lưng với nhau, đối diện với vách núi đá cao ngất, và vực thẳm chênh vênh cheo leo sâu hoắm. Bây giờ làm sao quay mặt lại nhìn nhau, khi mình không thành tâm tôn trọng yêu thương người đối diện!

                            Anh giống như một quyển sách dày, em cần mở ra nghiêng cứu đọc từng trang, rồi nhắm mắt từ từ nghiền ngẫm suy nghĩ… từ ký ức xa xăm tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua, em ôm dĩ vãng để sống mãi với thời gian, lúc đó em mới thấy rõ, hiểu và biết hết ý nghĩa của những uẩn khúc buồn vui trong cuộc sống từ anh. Thời gian dài trôi qua, có cố gắng cỡ nào cũng chẳng thể ruồng bỏ quá khứ khi ngày qua ngày… quá khứ còn đeo bám theo mình, cho dù đi xa tới đâu nó vẫn hiện hữu, tồn tại. Em cứ tưởng bản thân có ý thức là mình chưa thể quên, ấy thế mà cuối cùng em đã vượt qua. Hôm nay chỉ mới đọc tới ¾ trang sách thì em nhận ra "chân tướng" cuả anh. Vậy thì, đối lập với tình cảm hiện tại là sự lạnh nhạt thờ ơ, để rồi em thừa bản lãnh giải quyết tình trạng nan giải hiện tại. “Quyển sách đời ấy” chẳng còn hấp dẫn, mối tơ duyên nầy sai từ thuở ban đầu trẻ dại (lúc chị Tư có “nhận định” khá chính xác, đứng đắn về anh). Lúc đó em không nghe lời chị khuyên can. Nay em chân thành hối lỗi, ray rứt dày vò. Phải! Bây giờ mới ra nông nỗi, ta đấm ngực tự trách thân: lỗi tại tôi mọi đàng, chớ trách ai.

                            Ngày xưa đôi ta ngồi ở cuối bờ hồ Xuân Hương, em thấy trên viền mi anh long lanh giọt nước, khi đó anh nói: “anh đã phóng lao, thì phải theo lao”. Nghe vậy, em ngẩn ngơ nhìn anh mà chẳng thể khóc. Quảng thời gian dài đằng đẵng trôi qua, anh che hai mắt, bịt hai tai hối hả chạy về phiá trước. Đến lúc anh mở mắt ra, thì dĩ vãng đầy ắp xô kéo anh tụt về ngỏ hẹp chằn chéo không lối thoát. Nào ngờ… khi anh “theo lao” để rồi sau bao năm, mũi lao ấy quay lại cắm phụp vô tim vô óc anh (kể cả em) có những vố đau điếng đến dại người. Thời khắc nầy nầy em mới ngộ ra mũi lao mà anh phóng đi đã và đang “sống” cùng anh. Em đọc mẫu đối thoại ngắn sưu tầm lượm lặt ở đâu đó: Một người cha nói với con của mình:
                            “Hãy nắm chặt bàn tay của con lại, nói cho cha biết con có cảm giác gì?”.
                            Người con nắm chặt tay: “Hơi mệt ạ”.
                            Người cha: “Con thử nắm chặt hơn nữa xem!”.
                            Người con: “Càng mệt hơn ạ!”.
                            Người cha: “Vậy con hãy buông tay ra!”.
                            Người con thở phào một hơi: “Thoải mái hơn nhiều rồi ạ!”.
                            Người cha: “Khi con cảm thấy mệt, nắm càng chặt sẽ càng mệt, buông nó ra, sẽ thoải mái hơn nhiều!”.

                            Bây chừ… em cố gắng... đã buông hết, nên an thư tự tại. Nhiều đau thương tinh thần trầm trọng ngút ngàn, thể chất sụp đổ đã qua, em có thể can đảm đứng dậy bằng đôi chân chính mình, nhìn thẳng vô mặt mọi người thân, anh ơi! Em nhếch mép nở nụ cười mãn nguyện! Thôi cũng đành. Vì dù “làm em” mình đã kiên trì nhẫn nhục bao dung chịu đựng và cao thượng nhất, em đã làm hết tất cả những gì có thể cho anh về tình cảm, sự chân thật tín trung, vật chất, tài chánh: kể cả sự rộng lượng, bao dung, tha thứ “vì anh yêu” quá nhiều! Cám ơn anh (chị, em v.v) ... dù sao cũng nhớ về tôi... Bây giờ tôi quá suy yếu, không thể nhớ lại xem, tôi đã từng biết anh (chị, em) chưa. Nhưng mà về tôi (với tôi) giống như chiếc xe lửa vội vã qua khỏi nhà ga, đi đến... (ai biết nơi đâu...). Tôi chỉ có thể chợt thoáng nhìn anh (chị, em) thôi...! Lòng khoan dung (sự tha thứ) và quá khứ (dĩ vãng) đã xoá mờ tôi khỏi cõi đời nầy (thế giới nầy). Amen.
                            Tạm dịch:
                            THANK YOU all the same for remembering of me...? I am now too senile to recall if I have ever known you... but to me it is like a train rushing past the station heading for (who know where). I only got a glimpse of you...!!! Forgiveness and past have erased me from this world... Amen.
                            Ngày nay em ngậm ngùi “rũ áo phong sương” :
                            Như cây lá… làm sao đếm
                            Cuộc tình rũ áo bên thềm. Thế thôi
                            Núi cao chân chồn gối mõi
                            Còn gì nữa đâu: những chiều trưa tối
                            Sông xưa nước cuốn lá trôi theo thuyền
                            Năm tháng qua không ưu phiền giữa thiên nhiên
                            Giờ trút bỏ, là nhẹ phần bão tố
                            Nhớ chuyện cũ làm chi mùa phượng đỏ
                            Theo dòng đời thả áo trôi đi
                            Bao phong sương chẳng mộng mị, có lạ gì
                            Nếu gặp gỡ mình trang nhã… đi khuất dạng
                            Âu cũng là duyên nợ trong định mạng
                            Trách chi năm tháng hững hờ
                            Em ra đi, ai điếng lặng trông chờ
                            Biết rằng nẽo ấy bơ vơ
                            (*)

                            *
                            Tình Hoài Hương
                            (*) Thơ Tình Hoài Hương

                            July/4/2009
                            (Viết từ chuyện buồn cuả TM Ayana & PH Tony

                            *
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 05:35 PM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • #44
                              Du Hành Từ Vực Thẳm lên Đỉnh Núi Tuyết Palm Springs

                              Huấn Luyện Phi Hành
                              Phần Thứ Ba
                              Chương 33

                              Du Hành Từ Vực Thẳm lên Đỉnh Núi Tuyết Palm Springs
                              Tình Hoài Hương
                              ***



                              Do hơn nửa tháng trước, bầu trời Cali rất ảm đạm vần vũ mây đen nặng trĩu, trông thê lương và so với những mùa Đông năm cũ, thì năm nay tại Cali lạnh lắm. Sau đó đã mưa to tầm tã suốt bốn năm ngày đêm, nên nhiều vùng núi ở California đã có tuyết phủ dày hơn 5i. Đây là một “hiện tượng khác lạ” rất hiếm khi xảy ra ở vùng có mỹ từ “Cali nắng ấm”. Thế là đại gia đình Nị hân hoan hớn hở rù rì rủ nhau đi leo núi tuyết ở Palm Springs trên cao độ 8,500f, để chơi tuyết, trượt tuyết. Vì, ở Cali mặc dù trời rất lạnh, nhưng có mấy khi dự báo thời tiết chỉ cho biết mức độ tuyết dày cui như lần nầy đâu. Nếu không đi, thì uổng.

                              Sau khi năm gia đình đi mua nhiều thức ăn, nước uống, cùng đầy đủ những thứ khi chơi tuyết cần mang theo như: Ván trượt tuyết. Mắt kính Goggles. Giày loại trượt tuyết. Gậy. Mũ bảo hiểm. Găng tay. Bít tất. Khăn quàng cổ. Quần áo lót bó sát ôm thân thể, quần áo dày mặc ngoài. Áo lông thú mặc phủ bên ngoài. Khoanh dây dừa (đề phòng để kéo mấy người yếu từ dưới vực lên trên mặt bằng). Chúng tôi các con cháu tất cả 18 tên đã tụ họp đông đủ ở nhà Nị, họ hân hoan hớn hở vui vẻ sung sướng thoải mái du hành. Đoàn xe gồm 5 chiếc bon bon chạy từ các hướng khác, trong xe các cháu luôn hân hoan ca hát, từ xe nầy gọi phone qua xe khác cho nhau, hẹn ở tụ điểm đúng giờ quy định dưới cổng trạm gác đầu tiên, cách xa chân núi chừng ¾ ml.

                              Tất cả đã vui vẻ đến nơi an toàn, xuống xe mọi người đều thay đổi quần áo dạ len dày cui cần xử dụng lúc đi trượt tuyết. Họ nai nịt gọn gàng, mang giày, đội mũ lông, bao tay, mang sky trượt tuyết, vân vân... Tại dưới chân núi xa xa là Top # 1, nơi đây có một xe chữa lửa, hai xe cảnh sát, một xe hồng thập tự Ambulance có còi hụ báo động trên nóc, và lắp đèn tín hiệu. Trong ca bin có hai ghế dành cho tài xế, sau lưng tài xế là vách ngăn chia cách tài xế và khu dành riêng cho bệnh nhân. Khu nầy ở trên vách xe có treo hộp Band-Aid, tủ đựng đồ sơ cứu, bình oxy, máy hút đàm, giá treo dịch truyền, hai băng ca, có hai ghế dựa cho bác sĩ và y tá. Tất cả mấy xe kia luôn đậu trên parking lot, ngỏ hầu lo về việc an toàn cho du khách, hoặc nếu có chuyện gì bất trắc bất ngờ xảy ra, họ sẽ kịp thời có xe chở người đi cấp cứu.

                              Khi nhân viên kiểm soát giấy tờ tuỳ thân xong, họ hướng dẫn du khách qua phòng chờ khoảng mười lăm phút, thì thiên hạ xếp hàng theo từng đợt, từng tốp (tuỳ theo số thứ tự đã ghi trên tấm vé, để vào parking lot, rồi tại đó họ ngồi trên những hàng ghế chờ xe Bus. Cũng khoảng mười phút sau xe Bus đến chở cả đoàn lên tầng đồi # 2. Tại # 2, có bốn phòng mua vé: cả đoàn người thứ tự xếp hàng bước tới những bậc cấp của Tram-car chính, nơi đó có một cái sân lát gạch hồng khá rộng, đoàn lữ hành xếp hàng ba hàng bốn dài như “rồng rắn” lần lượt đi vô cổng Tram-car. Giá vé ở Tram-car đưa lên núi tuyết là $39/1 người lớn, người già bớt còn $22, trẻ em $17. Nếu chiếc tính ra, thì sơ sơ một ngày ở đây có thể thu vô tám chín chục ngàn, là thường, (ấy là hôm nay không phải holiday, hoặc weekend; mà thiên hạ lũ lượt kéo nhau đi chơi, dù phải xếp hàng chờ đợi đông hơn kiến).
                              Nơi cổng # 3: có nhân viên điều hành mở cửa cho từng người vô bên trong tram-car, mà các con cháu gọi là “khu phòng lồng kính treo lơ lửng khổng lồ".

                              Cái Tram hình bát giác toàn bộ làm bằng kính dày cui, ngó ra tám hướng dễ dàng thấy cảnh vật bên ngoài, cột bằng inoc chắc chắn. Tram-car lơ lửng lắc lư trong gió được nối liền với một sợi dây cáp to và rất dài, (to bằng cổ tay của người nam). Chúng ăn khớp sít sao với nhau bởi một cái móc câu ròng rọc to tướng, chạy từ trên đỉnh núi cao nối dài dài xuống mặt đất. Chiếc lồng kính khổng lồ này được trang bị những cây inoc to bằng cổ tay, nối dọc theo chu vi lồng kính là một lan can ionc tự động xoay tròn theo chiều kim đồng hồ (mỗi cửa kính từ dưới chân lên chóp lồng cao khoảng 8f, rộng khoảng 6f). Trong khoan lồng kính có thể chứa từ 20 đến 30 người lớn và trẻ em, cùng các dụng cụ cồng kềnh lủng củng lỉnh kỉnh do cá nhân mang theo.

                              Khi đoàn người "thám hiểm" đã vô trong lồng kính an toàn, thì hướng dẫn viên gài khoá cửa, chu đáo kiểm soát rất kỹ những ngỏ ngách. Nị run rẩy lù đù chọn một chỗ ngồi trên bệ, sát cây cần trục đặt chính giữa lồng kính hình bát giác nầy. Người điều hành đã đóng cửa phòng lái, ông bắt đầu mở máy cho Tram-car chạy, thì cây cần trục sau lưng Nị (đã ngồi đây), đang từ từ xoay vòng quanh theo hướng kim đồng hồ. Nhưng cái lồng kính khổng lồ tram-car chứa mấy chục người kia, thì nó xoay ngược lại với vòng xoay tròn của cái kim đồng hồ. Ngộ thiệt! Mặc dù thế, cả hai thứ nầy đều nhịp nhàng ăn khớp xít sao với nhau, không hề rung rinh, hoặc cọ xát vào nhau, không có tiếng kêu rột rẹt cót két nào, mọi thứ đều hài hoà êm ái, chẳng hề có tiếng động, cứ giống như mình ngồi ở trên sofa ung dung uống cà phê và xem phong cảnh tuyệt vời ở ngoài lồng kính vậy.

                              Duy có một điều: Khi đến một điểm đúng vị trí nhứt định của tầng núi nào đó, ví dụ như cái lồng kính đã lên cao độ 2000f, là nó sẽ "giao tiếp dây nối kha1c" ở với cao độ 3.000f ; thì tự nhiên nguyên cái lồng kính tram-car chứa từng ấy người, bỗng dưng lắc lư rung rinh chao lượn nghiêng nghiêng, giống như người đang nằm trên võng đung đưa. Cái lồng kính liền hụp xuống, dường như rơi xuống, nghe "cái rột", rồi lắc lư nhẹ nhàng vút vút bay bổng lên cao, như chùm bong bóng thả trên trời lúc có gió thì nhô lên hụp xuống. Mọi người Mỹ, Mễ và thanh niên thiếu nữ trai trẻ khác đứng trong lồng kính đều vui thích sảng khoái níu lấy nhau reo vui sung sướng "ồ" to.

                              Chỉ có riêng Nị mỗi lần như thế, là run lập cập, nhắm tít mắt, sợ mất hồn mất viá đến són đái, tim óc muốn bay lên chín tầng mây, hai tay Nị bấu chặt lấy thành ghế, thân thể lạnh toát, mồ hôi hột đổ ra như tắm. Úi trời đất quỷ thần ơi! lúc đó gan phổi ruột phèo mình dường như muốn bóc ra ngoài. “Đường tơ duyên” nối liền đất ở dưới chân đồi mịt mùng với đỉnh núi cao chót vót muốn chọc thủng màn trời, chỉ vỏn vẹn có một sợi dây cáp khổng lồ treo lơ lửng cái tram-car lắc lư chứa 30 mạng.

                              Nị sợ hãi, do trí tưởng tượng phong phú mà ra, ví dụ như: ngộ lỡ ra chuyến tram-car nầy lên, chuyến kia xuống, cứ liên tục như thế chẳng ngừng, sợi dây cáp sẽ nóng, sẽ sờn nhão, dãn, sẽ già rệu rạo, sẽ dứt... khi không có điện hoặc trục trặc… làm sao sửa chữa khi bị hư, vân vân… thì nó chơi vơi lơ lửng giưã chín tầng mây trắng ùn ùn bay, gió lồng lộng rít không ngừng bên man tai. Thật chẳng có gì bảo đảm an toàn! thì khi ấy làm sao nào? Nói nào ngay từ trong thâm tâm Nị lấy làm hối hận, lo lắng, bồn chồn, phập phồng run rẩy, sợ hãi không thể tả, vì mình cũng “quá date” rồi, mà còn xiêu lòng ham vui, nghe lời mấy con trai xúm lại dụ khị:
                              - Ba mẹ nên đi lên “đỉnh núi thần” vài lần cho biết, đó là cảnh ở trên “Đào Nguyên của hạ giới Mỹ”, rất ngoạn mục, không có nơi nào đẹp tuyệt vời bằng. Lần nầy có đông đủ con cháu sẽ nữa, khi “đời người có mấy gan tay. Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm”. Ba mẹ không đi với con cháu, sẽ tiếc lắm, uổng phí cả đời người, lại mang tiếng là ở Mỹ mà chẳng biết nơi mô tê chi rứa...

                              Bây giờ Nị ngồi đây tự dày vò, ân hận sao mình quá ngu dại trót “nghe lời đường mật” cuả con cháu, lù đù leo lên đỉnh núi tuyết làm chi, cho đến nỗi dở khóc dở cười. Thiệt là thân già khú đế, rệu rạo, cà tong cà teo, răng long tóc rụng sói cả đầu, chỉ thấy da bọc trốt, mà còn dại dột ưa thích ham vui! Thiệt tình “đường quang không đi, đâm quàng vào đường rậm mà dỡ khóc dỡ cười”.

                              Những khung cửa kính tram-car trong veo rất dày có trục inoc từ từ xoay cái lồng kính chuyển vòng quanh đi tứ phía: khi thì lồng kính nơi Nị ngồi xoay vô núi, lúc thì quay ra đất liền, hoặc thấy đồi tuyết bao la ẩn núp dưới vầng mây vàng. Nị hi hí hai mắt ra nhìn, cũng xuýt xoa công nhận sự phi thường do Thượng Đế tác tạo ra vũ trụ đẹp ơi là đẹp tuyệt trần. Y như Từ Thức lên Đào Nguyên lạc cõi thần tiên, ở trên mây nhìn xuống hạ giới lung linh diễm ảo dưới những lọn mây trắng ùn ùn bay, từng đám hoa tuyết xôm xốp lênh đênh lả lơi trong bầu trời giác nắng vàng chói lói rơi rơi. Nị có thể nhìn lên chóp núi, nhìn xuống thành phố xa xa, cảnh vật hùng vĩ, thi vị, bao la, mênh mông thấp thoáng dưới chân mình rất đẹp...

                              Nhưng Nị vẫn hãi hùng vì nó sâu mút tầm mắt. Thật là chóng mặt, xâm xoàng, rùng mình kinh hãi hết biết. Một cái nhà đồ sộ có vài chục tầng dưới đất, mà từ trên cao độ nầy, Nị nhìn thấy nó nhỏ như con rận, con chí. Đi lên thì ngợp thở như thế đã đành, lát chiều gần tối tram-car sẽ đi xuống dưới mặt đất, chẳng biết phải làm thế nào mà “bò” đây? Cầu xin sao cho mình không rệu xuống. Than ôi! Có lẽ do thế mà Nị chỉ là một người tầm thường, không thể trở thành một pilot khí phách đẹp trai hào hoa phong nhã kiên cường (như anh). Hoặc là một anh lính Nhảy Dù đỉnh đạt oai hùng bất khuất từng trải (như cháu Bảo), để có thể ôm mây lãng du vào không gian lả lướt, tự do bay lượn trên bầu trời thênh thang (cũng giống như anh), và (cũng như em) đã từng ôm ấp mộng quan san giong ruỗi sơn hà, giang hồ chu du qua bốn biển, đi khắp đó đây cho phỉ chí tang bồng...

                              Họ là những người hùng rất đáng trân trọng mà mình bội phần ngưỡng phục! Nhạc sĩ Lam Phương đã có câu "Em ơi! Nếu mộng không thành, thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm. Đường đời mịt mù vạn nẽo về đâu. Mong chờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu…" - Đúng là non cao đất rộng chẳng thể thấy đâu mà tìm… ra một lối thoát, cho nên bi chừ em mới “chết chìm” trong mây. Ha ha hả...

                              Đùa tí cho vui vẻ cả làng. Bây giờ Nị xin kể tiếp: Lúc mọi người: Mỹ, Việt, Tàu, Nga, Thái, Lào, Ấn Độ, Campuchia… đều hân hoan tấp nập vui vẻ bước ra khỏi Tram, họ đi từng hàng dọc theo hành lang lót thảm đỏ mịn và dày dệt hoa văn đủ màu. Tứ bề thì một bên là núi đá cao dựng đứng, ngửa đầu lên mỏi cổ vẫn không thể nhìn thấy chóp đỉnh núi đá ở đâu. Những hòn đá khổng lồ nằm kề bên những hòn đá tự nhiên vừa vòng ôm. Hay những viên đá to to nho nhỏ tròn tròn, dẹp dẹp, hoặc những viên đá tảng hình thể lạ mắt, nhưng tất cả đều rất đẹp (hình thù tự nhiên không do bàn tay nghệ nhân trau chuốt). Nhìn những loại đá
                              độc đáo pha màu sắc không trắng không đen, mà ngà ngà nâu nâu dễ ngắm ưa nhìn, khiến Nị nghĩ đến những câu ca dao khá hay của Việt Nam mình thâm thúy tuyệt vời:
                              Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
                              Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn
                              Giận thì em nói vậy, chứ dạ còn thương anh.


                              Nị cúi xuống nhìn vực thẳm sâu hun hút, chỉ thấy điệp trùng ngọn cây xanh tươi um tùm và núi tuyết bao bọc tứ bề. Trong nhà khách khá rộng có máy điều hoà, bên tay phải lồ lộ ra một nhà hàng chênh vênh mọc bên mép đá phủ đầy tuyết đóng chặt thành lớp băng dày cui. Mấy con đường uốn lên uốn xuống quanh co từ ngoài nhà hàng ra balcon đều bám đầy những ụ tuyết dày và cao. Một bên là vách núi lồi lỏm dựng đứng, ba bên khác là vực thẳm, có nhiều tầng lớp đá cheo leo nhô ra góc núi, núi trên cao chồng lên núi dưới thấp, núi chênh vênh lưng chừng lơ lửng. Cứ thế núi len lỏi trong đám cây tùng bách, đan quyện những cây sồi chập chùng xếp lớp lớp tầng tầng, ngút ngàn, tạo thành những con đường ngoằn ngoèo len lỏi trong rừng cây khi đi xuống đi lên, nói chung chỉ có hai màu xanh của cây lá và màu trắng cuả hoa tuyết.

                              Trong phòng khách rộng nhiều ngọn đèn mờ màu xanh lục. các cửa sổ treo màn voan trắng khá dài, buông thả từ trên trần nhà xuống nền thảm. Tốp người trong đại gia đình Nị lên lầu ba để nghỉ ngơi, nơi đó là khu nhà hàng nổi cao chót vót chọt lên khoảng mây trần ùn ùn bay. Bàn ghế sạch sẽ, tứ bề tường làm bằng gạch, khung cửa kính dày. Chung quanh nhà hàng là vực thẳm, những đỉnh núi đá chen lẫn với giàn hoa tygon, bồn hoa hồng, cây bách, cây tùng, rừng dương nhọn hoắt đang rì rào vi vu reo, gió rủ nhau đùa giỡn xô nghiêng ngã những cành cây uốn cong. Khi có người nào đó mở cánh cửa lớn ở đại sãnh, để bước ra sân sau, mà xuống mấy con đường quanh co uốn lượn theo ven vực sâu lót những viên đá tảng đã đẽo gọt, thì những làn gió lồng lộng xoáy rít lên từng cơn hú, nghe ghê rợn khắp tứ bề.
                              Lạnh kinh khủng! Lạnh thấu xương! Nị và một số người Mỹ khác đang đứng xớ rớ gần cửa lớn (do gió thổi tạt vô nên bị đóng ập lại), suýt tí nữa thì lăn cù cù, may mà đầu Nị không va vào góc cái bàn sắt sát đó, nếu gió đẩy họ ra xa xa xí nữa, họ sẽ rơi tỏm xuống mé vực, thì toi mạng như chơi! mé vực nầy nằm cheo leo ở bên con đường đá độc đạo.

                              Lồm cồm ngồi dậy, chính lúc đó từ ngoài sân Nị nhìn vô bên trong nhà hàng dưới tầng hai, (là nơi dành để tiếp tân, triển lãm hình ảnh... bán quà lưu niệm, vân vân...) thì Nị thấy ông xã đang lồm cồm lết lết từ hành lang tới chân cầu thang, anh mò vô ở băng ghế dựa, rồi anh nằm vật lên đó, cánh tay thòng xuống, một chân gác trên thành ghế, một chân sà xuống sàn nhà. Nị hoảng hốt đứng lên loay hoay chưa biết làm sao. Lát sau có đứa con trai chạy xuống tầng trệt, con lại nhảy lên những bậc cấp ở tầng hai ngoài sân, (nơi Nị đang dòm vô ô cửa kính). Thấy mẹ, con nói:
                              - Hồi nãy ba đã mệt, muốn xỉu. Bây giờ không sao. Con đã khám cho ba, thì biết ba không việc gì. Do ba "dị ứng với cao độ í mà". Mẹ đừng lo.
                              Trước khi đi chơi núi tuyết, ông xã bị cảm nhẹ, nhưng các con nài nỉ:
                              - Ba đi chơi cho vui, chứ ở nhà một mình buồn!!!
                              Nhìn chồng mặt xanh như tàu lá mà run, Nị nói với con:
                              - Con cứ đi trượt tuyết với họ. Để mẹ trông chừng ba cho.
                              - Dạ. Có gì mẹ gọi phone cho con nhe.

                              Người ta đông như kiến, cánh cửa kính to dày ở tầng hai, dù có muốn mở thế nào, cũng phải có sức mạnh mới kéo ra được. Nhưng hôm nay cánh cửa ở tầng hai đã khoá, vì gió lùa dữ dội. Nên Nị chạy ngược xuống phía cửa tự động dưới tầng hầm, nơi nầy kín gió hơn, chung quanh có ba vách núi cao bao bọc. Mọi nơi (của ngôi nhà) đều có hai lớp cửa kính dày cui, một lớp cửa tự động ở ngoài, và một lớp cửa bình thường ở bên trong kính rất dày, cũng là nơi để cho tất cả mọi người dễ dàng đi ra đi vô, mà không sợ có gió lùa hút mình ra ngoài mé vực.
                              Nị vô tầng hầm, rồi chạy lên lầu hai, và tới bên ông xã. Mặt mày anh tái méc, môi khô rốc, tróc lở, anh nhắm mắt, một tay gác lên trán, hơi thở yếu ớt nhưng phập phồng dồn dập. Nị nghiêng đầu cúi sát xuống trên mũ len, kêu to tên anh. Ông xã lừ đừ mở mắt lim dim, phều phào:
                              - Anh không sao, em để yên anh nằm nghỉ chút xíu, là khỏe ngay í mà.

                              Mặc người ta đi qua đi lại, ông xã vẫn chiếm cứ một khoảng rộng, nằm chình ình ngay cù đơ trên ghế dựa. Tuy cảm thấy thật chướng mắt, nhưng Nị ngồi kế bên lo lắng bồn chồn vuốt lưng anh, Nị định gọi nhân viên cấp cứu, thì ông xã mở mắt, dường như thều thào:
                              - Mỗi lần anh nhìn xuống chân núi, là cảm thấy quay cuồng, chóng mặt muốn ói thôi, chứ chả phải việc gì.

                              À thì ra ông xã rất sợ độ cao. Ngộ ghê! đã hơn 40 năm rồi, bây giờ mình mới chưng hửng “khám phá” ra điều bí mật nầy. Vậy mà làm cho người ta hết hồn hết vía! Ai có ngờ anh thường vỗ ngực khoe với các cháu là “ông già gân” lại nhác như cáy, “đi lâu mới biết đường dài” nhỉ! Thảo nào anh ưa nói câu: “Chú bạo chú khôn. Tôi nhác tôi khốn (nhưng) tôi hãy còn đây”! Hi hi hi… đôi khi ông xã cũng phéc lác tỏ ra ta đây oai dũng, chả sợ hãi điều gì, thế mà anh lại quá sợ con chuột. Ấy mà mình cứ tưởng do “vì cô bán rượu” nên anh mới “say” chếnh vếnh như thế chứ:
                              Còn trời còn nước còn non
                              Còn cô bán rượu anh còn say sưa.

                              Nị tủm tỉm cười đưa cơm hộp cho ông xã, nhưng anh không ăn, nên Nị đi mua nước và mua bánh mì Bate Chaud. Ông xã ngồi dậy, cả hai cùng ngấu nghiến nhai bánh mì, uống nước lọc. Khoảng một giờ sau, thì ông xã ổn định trở lại bình thường. Hai người dắt díu nhau đi xuống tầng hầm mờ mờ ánh đèn tím nhạt (lầu 1, chìm trong nửa hốc đá làm thành một bờ tường). Đi ra cửa nhìn xuống vực thẳm phủ đầy tuyết đông cứng thành những con đường trơn láng, y như lướt trên mặt băng, Nị thấy có những người té lăn cù cù, chổng tay chân lên trời. Vậy mà đám trẻ khoái chí vỗ tay reo cười ha hả. Nị nghĩ cũng vui vui mà sợ khá nhiều, sợ e nguy hiểm. Nị bấm camera quay phim chỉ được mươi lăm phút, không dám tới gần lan can nhìn mọi người nhỏ tí dưới vực sâu.

                              Ông xã không dám xích ra gần tới hàng rào ngăn cái sân gạch và thung lũng, anh mới chụp khoảng mười tấm hình, thì có đợt gió lồng lộng đột nhiên ùa về, rung ngả nghiêng những cây thùy dương trồng bên mé đồi, đọt cây thùy dương nằm rạp xuống hàng rào (ở cuối sân sau nhà hàng). Gió rít lên từng cơn. Thật lạnh! Lạnh xoáy vô hai mang tai đau buốt dị thường. Hai người vội vàng kéo nhau chạy vô tầng hầm rất ấm, Nị và chồng mệt mỏi rã rời leo lên từng bậc cấp, trở về chỗ cũ, là nơi ban nãy ông xã đã nằm thẳng cẳng trên sofa!
                              Ngồi chưa ấm chỗ, trong phòng khách kế lò lửa toả hơi nóng ra khắp tứ phiá, thì đứa con Út (là đứa to cao khoẻ mạnh nhứt) đang lừ đừ đem những thứ lỉnh kỉnh lên phòng khách, con mệt mỏi ngồi bệt xuống tấm thảm, mặc thiên hạ đi qua đi lại. Con thở hổn hển:

                              - Ba mẹ không thể xuống dưới vực thẳm đâu. Mấy anh chị không chơi gì hết, vì ở dưới đó ẩm ướt, quá lạnh. Độ dốc thì cao dựng đứng, con đường nhỏ hẹp mà ngoằn ngoèo, lại trơn trợt, khi đi xuống con nhích nhích từng bước, thì có đỡ mệt, nhưng lúc đi lên con phải lấy hai tay mà từ từ vịn xuống mặt tuyết láng bóng, bò lên. Nên con đi lên càng lúc càng mỏi mệt hơn. Đường rất trơn và lạnh lắm. Mấy anh chị và các cháu đi còn không nỗi, làm sao khiêng vác thứ gì. Con sẽ xuống dưới phụ mấy anh chuyển dần dần đồ đạc lên, vì trời đang đổ tuyết xuống dày và nhiều hơn. Nếu chậm, trời tối, là không kịp và càng nguy hiểm vì không thấy gì.
                              - Hãy cẩn thận đi từ từ nghen con.
                              - Dạ.
                              Ui Trời ơi! Cả một bầy tám đứa con, cộng với bầy cháu tám đứa nhóc nữa. Nghĩ mà run sợ hãi hùng, bồn chồn, lo lắng, băn khoăn, đứng ngồi không yên! Ngoài mặt thì lạnh nhưng trong lòng Nị quắt quay, y như ngồi ở trên lò lửa nung! Nị thì-thầm đọc kinh cầu nguyện, van xin cho mọi sự sẽ bình yên, con cháu và tất cả mọi người đang hiện diện bất kể là ai, sẽ vượt qua nỗi hiểm nghèo.

                              Mãi đến xế chiều khi hoa tuyết đã bay trắng xóa ngập tất cả núi rừng, thung lũng, gió ào ào lồng lộng tạt vô các khung cửa kính rít lên từng cơn hú vù vù. Các con cháu tất tả kéo theo những túi đồ đạc lết lết sau lưng mà thở dốc, hai hàm răng tự động va vào nhau kêu lụp cụp hoài. Họ rên hừ hừ, hai gò má lại đỏ au, mà đôi môi khô tái nhợt và run bần bật, tóc họ ướt nhẹp nước vì hoa tuyết rơi dán vô mặt, vô mũi, giống như họ đã tắm trong hồ, quần áo tả tơi xộc xệch. Thật là quá thảm! Vừa lên khỏi bậc cấp cuối cùng ở trong phòng chờ, không cứ gì đại gia đình nầy, mà ai nấy (kể cả Mỹ, Mễ, Thái…) đều nằm la liệt co quắp xuống nền nhà, thở dốc! Y như họ đang nằm vạ giữa bá quan văn võ!
                              Bé Matthew nói bằng tiếng Anh:
                              - Cháu không bao giờ đi đến đây lần thứ hai.
                              Bé Aidyn cũng ngọng nghịu:
                              - Em không thích đi coi tuyết.
                              - Phải. Chẳng thú vị chút nào!

                              Nị lần bước run run lẫn bồn chồn hồi hộp lo sợ, (như lúc ban đầu) vô tram-car để trở xuống chân núi. Khi an toàn dựa lưng vô góc "tường" (làm bằng kính), một tay Nị vịn vô lan can của tram, còn một tay Nị cầm camera quay liên tục. Quả thật phong cảnh buổi hoàng hôn từ trên đỉnh núi ngút ngàn, chập chùng uốn lượn hoa tuyết lẫn trong mây, trong núi đá phủ rêu quá diễm lệ. Lúc xuống giữa lưng núi đá, nhìn xuống thành phố bao la dưới bình nguyên, những ánh đèn lấp lánh nhiều cao ốc sáng từ mọi nhà, đèn xe hơi có dòng đỏ chạy ngược chiều, dòng vàng chạy xuôi chiều, tấp nập nối đuôi nhau xuôi ngược trên freeway, thật là một đất nước diễm ảo thiên đường, tươi đẹp, phong phú, tột đỉnh giàu sang và phù vinh.

                              Nị liếc nhìn quanh, thì hầu như Tây, Tàu, Nga, Mỹ, Việt Nam, Lào, Campuchia hay Ma-rốc cốc keng chi, cũng ủ rũ, bần thần, mỏi mệt khủng khiếp! Nhưng ánh mắt họ vẫn biểu lộ sự hân hoan, sảng khoái tự hào mãn nguyện, khi họ đã tận hưởng những phút giây lênh đênh trên không trung tuyệt vời hoa mỹ, trong giang sơn cẩm tú mà thiên nhiên ưu ái đặc biệt ban tặng cho nước Hoa Kỳ diễm lệ. Xin cám ơn Trời.

                              Về phần ông xã, sau khi đi chơi núi tuyết đến nay đã nửa tháng qua, ông xã còn ốm đau do thời tiết, do khí hậu, hay môi trường sống bị ảnh hưởng cái cảm cúm cuả miền Đông Bắc lây lan đã tràn về Cali, hay do gió hú thổi vù vù từ trên núi tuyết ở đỉnh Palm Springs thổi vô tim, vô óc, khiến anh choáng váng, quay cuồng, mà phát ốm yếu o ho hen, và nằm vạ từ đó đến ngày hôm qua mới lôm côm bò dậy? Hở ông xã? nằm lì chi lâu vậy mà run cầm cập, ngủ li bì hoài, khiến cho em bị bệnh thật sự, bị lây anh từ bệnh cảm cúm bốn ngày nay, em rất đau, ho khan, đau đầu đau óc, đau ngực. Tết nhất sắp đến, gần kề… nhưng mắt mờ giọt nước, thương thân già khú còn dại ơi là dại… chân tay lỏng lẻo, vì ham leo núi tuyết.
                              *
                              Tình Hoài Hương
                              Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
                              Trân trọng
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-09-2020, 05:54 PM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • #45
                                CÔN SƠN * (Côn Đảo POULO CONDOR


                                Huấn Luyện Phi Hành
                                Phần Thứ Ba
                                Chương 35
                                CÔN SƠN
                                (Côn Đảo POULO CONDOR

                                còn gọi: Long Range, hay Côn Lôn LORAN)
                                Tình Hoài Hương
                                ***



                                Côn Sơn Loran (Côn Đảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời vẫn giao hòa nhịp nhàng thắm thiết cùng biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh, xam xám, nhàng nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc lóng lánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh, hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.
                                Côn Sơn an tọa tại vùng Đông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Điều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: “Côn Lôn ngộ xá bất nguyên” (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Đơn điệu! Lẽ loi! Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40” 57” Bắc & 106/o 36”26” Đông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36’ Đông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36’ Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Đông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.
                                Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bao la, bát ngát triều cường sóng vỗ lao xao. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây. Thế nên, thuở xưa cụ Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) đã làm một bài thơ có tựa đề: "Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn" được chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch nghĩa:
                                Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
                                Mưa Thu gió Thu âm thầm làm cho mộng hồn ảm đạm
                                Tự ta suy đồi mà lòng chưa già cỗi
                                Có ai hăng hái mà chí vẫn đang còn
                                Gió mây biến đổi thật lấy làm lạ
                                Trời đất xoay vần chẳng cần phải nói
                                Mỗi khi gặp đàn thơ, treo cao ngọn cờ
                                Thẹn mình đánh trống qua cửa sấm

                                Và dịch bài thơ ấy như sau
                                Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
                                Mưa gió trời Thu để đoạn hồn
                                Như tớ suy đồi lòng chửa chết
                                Ấy ai khẳng khái khi đang còn
                                Gió mây tráo chác trăm hình đổi
                                Trời đất vẫn xoay một quặng tròn
                                Cao ngất đàn thi cờ phất đấy
                                Thẹn nghe cửa sấm trống khua dồn
                                (HTK)
                                Năm. Tháng. Ngày, giờ… ngày cũng như đêm lồng lộng sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây, trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng “làm ngơ” nũng nịu chẳng thèm nhìn về đất liền. Một phần “con gấu” đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt “con gấu” ngâm mình trong nước loáng bạc, "nó" hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập. Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhất ở Đầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường và đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi công dễ nhìn một xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhất nhanh chóng và an toàn tuyệt hảo lúc bấy giờ (1973).
                                Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. “Con gấu Côn Sơn” cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn. Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. "Hòn" thì như thế, mà "Bãi" cũng có chút độc đáo qua tên gọi: Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Đất Dốc. Bãi Ông Đụng. Bãi Đầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa ra biển.
                                Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm… Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây… vân vân... Ai trong những nhóm tù phạm đó giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vào đài làm việc, họ sẽ được tự do đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ cũng có ít tiền xài, được mua sắm thoải mái trong canteen của Mỹ. Thật ra, tuy ở tù mà họ còn “sung sướng” vô canteen ăn nhậu như ở “Đường Sơn Quán” thoả thuê ha!
                                Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Đến "thành phố buồn” mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Đi mãi tận cuối “lãnh địa sầu muộn” ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vào khu rừng bạt ngàn để đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để cho Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế xử dụng. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam. Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan) và dàn khoang Ocean Prospector về phía Đông-nam, cách xa đảo Côn Sơn khoảng 188 hải lý. Những nơi của đài phát sóng đây có nhiều cột antenna cao ngất trời xanh cả trăm mét.
                                Hôm trước cái bóng đèn điện ở Côn Sơn bị yếu xìu, nó cứ xìu xìu ễng ễng chớp chớp tắt tắt và “đứt bóng”. Sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn, và tốp quân nhân đi kèm trên phi cơ để “hộ tống một bóng đèn” từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền thì ta không nói, nhưng mà… nhất là nó là "một vật chính" thật quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng “le lói, danh dự” quý trọng kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
                                - Suốt ngày nay tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Hôm nay tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh Tony trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.
                                Nói xong ông Trưởng-đài mời Hoàng Năm, Tom (thư ký tiếp liệu), và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến để ký nhận). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy tốt bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện tận mắt chứng kiến, rồi cùng ký tên vào. Ông trưởng đài từ tốn đóng dấu lên tờ giấy xong, ông bỏ trong tủ lớn khoá lại. Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo túi haversack to nặng. Đó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vào cột antenna, anh ta từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30’ Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất. Nghĩa cử ấy về sự tận tâm chu đáo trong tinh thần tận tụy làm việc có trách nhiệm thật cao quý của người Mỹ, khiến Năm khâm phục, Năm sực nhớ đến bài thơ "Đập Đá Côn Lôn" của cụ Phan Châu Trinh (1872- 1926) khi cụ bị tù đày ở Côn Đảo, có khác chi Mike bây giờ:
                                Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
                                Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
                                Xách búa đánh tan năm bảy đống
                                Ra tay đập bể mấy trăm hòn
                                Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
                                Mưa nắng càng bền dạ sắt son
                                Những kẻ vá trời khi lỡ bước
                                Gian nan chi kể việc con con…
                                (PCT)
                                * * *
                                Trước khi ra Côn Đảo, tháng tháng, ngày ngày... mỗi buổi sáng Tony (Hoàng Năm) chỉ có việc lái xe hơi đến điểm hẹn, chú tài xế chở anh vào bệnh xá sắp hàng giữa sân, chờ khám bệnh. Đứng xớ rớ chút cho “có lệ làng”, rồi anh chuồn! Sau nầy, anh vào trình diện tại đại đội hành dinh Không-quân, anh được giao nhiệm vụ “cai quản” độ hai mươi người, thuộc đủ thành phần. Có tên đào ngũ. Có tên thặng số linh tinh. Có tên lính kiễng. Trung đội “ruồi ô hợp” ấy chỉ có hai người sĩ quan, là Năm và Thiếu-úy Tâm. Chả hiểu sao Tâm bị truy nã về tội đào ngũ? Trong khi Tâm còn ở trong bệnh xá rành rành thế nầy nè!?
                                Nhiệm vụ của Tony Năm: Sáng sáng cho họ ra sân, sắp hàng, điểm danh, anh báo cáo lại cho Thiếu-tá Chỉ-huy-Trưởng. Cho họ đi vòng quanh doanh trại lêu bêu cúi nhặt vài cọng rác, nhổ vài cây cỏ mọc ven lề đường, nhặt tàn thuốc lá vứt vào sọt rác. Thế là xong. Tony Năm lại cho họ đủng đỉnh vào sân xếp hàng, điểm báo, ung dung đọc vài tin ngắn. Rồi anh ra lệnh cho họ tan hàng. Hàng tháng, họ vẫn an nhàn phây phây lãnh lương. Hàng qúy, vẫn có người đến làm lại sổ sách đàng hoàng (lũng đoạn tài chánh của chính phủ một phần lớn là: do kẽ hở to tát nầy). Năm nằm ở đây từ giữa tháng 4-1968, đến tháng 6–1968, thì nhận được lệnh:
                                - Phải chuyển “quý anh” qua bên Tổng Y Viện Cộng Hoà để nằm. Bằng mọi giá, phải cho những người “an nhàn phơi phới” như thế nầy giải ngũ. Vì trong một cuộc thanh tra bên bộ Tổng Tham-mưu thì anh và viên Trung-uý kia, đều "không" có tên trong danh sách Không-quân, họ cho là “tụi nó” đã đào ngũ bên Không Quân rồi?! Trời ơi là trắng trợn và dị hợm! Thế mới chết. “Hai anh tướng con” vội vàng co giò chạy qua bên Tổng-y-viện Cộng Hoà nằm chơi xơi nước. Và, phải làm cách nào đó để được phép chính thức giải ngũ, mà có ăn lương hợp lý. Xét về cánh tay, và chân của Năm bị gãy, thì nay cánh tay đã tạm ổn. Chân phải đi đứng chưa được vững, hầu như bị tật luôn rồi. Nghĩa là khập khễnh chút chút. Nhưng, cứ coi như bình thường, kể như lành lặn chưa đến nỗi phải đi theo kiểu chấm và chấm phết, hoặc tản bộ điệu cha cha cha... thì làm sao giải ngũ đây? Ông Thượng-sĩ ở bệnh viện, cảm thương anh đã rỉ tai bảo nhỏ:
                                - Chỉ có cách: tạo ra bệnh suyễn, thì anh mới có thể giải ngũ.
                                Thế là từ thời điểm đó, Năm bắt đầu hút thuốc phiện. Anh theo bọn “lính kiễng” thương binh sung sướng nhàn hạ, “nhàn cư vi bất thiện” đi ăn chơi xã láng, hút xách khá nhiều. Mỗi ngày, sau khi làm những công việc nhàn hạ vô duyên của một quân nhân ung dung đi lượm lặt ba bốn cọng cỏ ăn lương, Tony Năm cùng bọn “lu la” kia lủi nhanh vô nhà tên Xì Thẩu ở Chợ Lớn, ông ta chuyên cung cấp bàn đèn, thuốc phiện, và sa đoạ. Giá cắt cổ kinh hồn. Trong mắt anh đã nhìn thấy nỗi quằn quại của một người bị tước đoạt mọi quyền hạng sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi, khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng lì lợm. Như màn voan xám đục giăng mây đen luôn vây kín, từ mọi phía trên đỉnh sương mù.
                                Sau thời gian buông thả đời mình trong đau buốt chán nãn tột cùng, Năm muốn “quay đầu là bờ” ổn định cuộc sống nên anh đã lập gia đình. Tưởng rằng “đã yên” nào ngờ… gia đình Năm “lủng củng lình xình” chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp gì, càng rất đau buồn! Thời gian nầy anh đã được giải ngũ. Ở nhà Năm quá chán bà vợ, bà là dân thiếu học mà ưa quậy và phổi bò, bà ưa gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Phần chính do Năm chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: “Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào "ông xã với bà xệ" cũng có... “gấu ó” tưng bừng sóng gió, đay nghiến, dằn vặt xỉ vả nhau, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng "hùng hồn" cùng nhau ẩu đả to tiếng không ngượng mồm, khiến chúng rất “hết hồn hết vía”.
                                Ngày ngày anh thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãi… cuối cùng có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Tony có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho anh có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ phải trả lời như:
                                - * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhất từ trước tới nay xảy ra vào năm 1557 ở Trung Quốc. Nơi khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Nơi có nhiều động đất và phun trào núi lửa nhất trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là Vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động và nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.
                                - * Đại dương lớn nhất trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Đại Tây Dương, có độ sâu trung bình là 3,9 km.
                                - * Nơi duy nhất có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.
                                - * Điểm tận cùng của nước Mỹ về phía Đông là đảo Amatignak, Alaska. Điểm xa nhất về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Điểm xa nhất về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Điểm xa nhất về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.
                                Tony Năm ghi nhớ, nên anh đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn nhất, Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã cố ý trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Được làm việc, nhưng với điều kiện là Năm phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, anh cảm thấy thật hào hứng thoải mái, tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật.
                                Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng anh được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thật thú vị. Nói ra chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo nhưng đầy đủ tiện nghi “sảng khoái” như ở đất liền. Có điều là “tụi mình” không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết.
                                Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trại để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy người, đến những “em” binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài, để lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu, vân vân...
                                Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kỵ là Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku, anh ta bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” trong cơn say túy lúy, chỉ “muốn xàm-xỡ” với mụ vợ “ông thầy” (của Kỵ mà thôi!)!! Dù họ chưa rờ mó chắm mút xí xi nào với “ngài phu-nhân” trét phấn tô son, mụ chưng diện lòe loẹt, đỏm đáng, hở hang khêu gợi quá lố, mụ ưa phô bộ ngực xề xệ độn nòng coi phì nhiêu ra, chả trách ai mà không thích lom lom dòm. (Chớ chẳng phải họ muốn xàm xỡ với vợ của mình, dù vậy Kỵ bỗng muốn dợt le, nổi máu “yên hùng” tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác)! Kỵ bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta ân hận thì đã… ra Côn Đảo mà… ngồi.
                                Hằng ngày, Tony Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của anh mỗi ngày ở Côn Sơn là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike khi có việc cần. Hết giờ, Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá, tôm hùm, cua, sò, ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.
                                Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Tony Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng CÔNG TY). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 Dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền điều trị. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, và làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ đợi. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, nên nằm đó điều trị hai tháng.
                                Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vào thăm anh đã đành. Còn có con bồ cũ ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ đang tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghe… thì bà xã anh lù lù xuất hiện, bà ta nổi máu ghen la lối mắng nhiếc um sùm xong, bà ta xông tới một tay túm mái tóc dài của con bồ, một tay bà ta thoi đấm túi bụi lên mặt mũi cô ta đến xịt máu, khiến con nhỏ xanh mặt lủi mất. Năm đang nằm trên giường không kịp phản ứng, anh mắc cỡ cứ thộn mặt ra chịu trận lôi đình từ vợ trút xuống.
                                Khi Tony Năm khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Tony Năm đã siêng năng làm việc; đồng thời được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, Năm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên anh được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, lần nầy họ cho Năm vào làm tạm “gác cổng” ở văn phòng chính tại đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi vào Năm làm “trợ lý” cho một người nữa, anh lo cỡi xe cúp đi lên đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt.
                                Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm đi làm một bản đồ, trong đó Năm ghi rõ ràng tất cả địa chỉ, nơi nào nhân viên Mỹ đã, đang ở tại Sài Gòn, các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con từ Mỹ đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “sếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”. Tony Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam! Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “sếp” gọi Năm:
                                - Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
                                Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
                                - Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm.
                                Năm giống như:
                                “Thằng Bờm có cái quạt mo.
                                Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
                                Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
                                Phú ông xin đổi một xâu cá mè
                                Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
                                Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
                                Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
                                Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
                                Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
                                Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười”
                                Ha ha ha !
                                *
                                Ừ thì… trước năm 1975, “Bờm” cứ thoải mái vui vẻ cười ha ha ha đi, để rồi… nếu sau ngày 30 tháng 4 mất nước, mà Bờm không biết lo giữ gìn đất nước quê hương Việt Nam cẩm tú trường cửu và vĩnh thịnh trong độc lập tự do, đó là hòn ngọc viễn đông vô cùng trân quý, và Côn Sơn (Côn Đảo Poulo Condor) thơ mộng tuyệt vời đầy rung cảm; “nếu” bị lọt vô bàn tay khát máu của Tàu Cộng… Thì, “Bờm” không còn cười ha hả nữa, mà Bờm sẽ hối hận ôm mặt khóc hu hu hu, là đã muộn mất rồi! Khi đất nước Việt Nam thân yêu nhuộm máu Trung Quốc, chúng trắng trợn ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế, dùng mọi thủ đoạn, vũ lực thô bạo cưỡng đoạt & thủ thuật cướp đoạt chủ quyền cuả Việt Nam, chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa - đấy là hải đảo huyết mạch nằm trên tuyến đường chiến lược quan trọng; rồi Đèo Ngang, Hà Tĩnh… cũng đi đon!
                                Thế nên Trung Quốc chủ trương bá quyền độc chiếm (từ eo biển Malacca, sẽ lấn đến các nước Đông Bắc Á, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…). Lại thêm những vụ: dân Trung-quốc “núp bóng” người Việt bằng cách đưa tiền tỷ cho người Việt có điều kiện đứng tên mua nhà ở ven biển, sông ngòi, hải đảo… Họ mua hơn 246 lô đất ở Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cụm đất rộng lớn nầy có thể chứa hơn 100.000 người, làm đặc khu cho người Trung-quốc ở. Đây cũng là kế sách di dân tuyệt hảo cuả Trung Quốc chuyển sang Việt Nam; (chính phủ Trung Quốc sẽ đỡ mang vác gánh nặng hơn một tỷ ba con dân nước họ). Thế mà số ít người Việt “chỉ đứng trên danh nghiã “hợp tác, hợp te, quản lý hờ” với “con đường tơ lụa”, còn mọi vấn đề khác đều do Trung-quốc sở hữu làm chủ; xây khách sạn, lập công ty thương mại nầy, công ty sản xuất, hoặc nhà hàng ăn uống, du lịch nọ! Đó là vấn đề chính yếu đáng sợ nhất!
                                Bây giờ nhà nước Việt Nam còn “làm” vụ động trời khác -đề xuất lập ba đặt khu “thuê đất” 99 năm- Hiện nay Trung-quốc đã “lọt thỏm” vô những yếu điểm quan trọng như Đà Nẵng, Nha Trang, Vân Đồn, Quảng Ninh, Bắc Vân Phong, đảo Phú Quốc… vẫn là điều phi pháp! Đê hèn. Ôi! máu sẽ chảy từ chân núi Bayan Har qua các dòng sông: Yanguoxia, Bapanxia, Daxia, Qinglongxia, v.v… (Tây Tạng, Trung Hoa), máu ngoại bang thắt bím đuôi sam tuôn trào khắp mọi nơi, trôi về trên non sông gấm vóc quê ta, là máu thấm đẫm đến từng chân tơ kẽ tóc dân Việt! là chúng nuốt chửng, nuốt trọn Việt Nam rồi – thì từ đây sẽ “sụp đổ & tàn lụi suốt bao thế hệ, từ đời chúng ta và hậu duệ sẽ đau khổ, ngậm ngùi cay đắng, xót xa cùng quẫn dài dài. Vậy thì người Việt (chúng ta) sẽ ngao ngán cúi gầm mặt, đớn đau lủi thủi quay trở lại trang sử buồn… trên những con đường đất nhuộm đỏ máu tươi rất gập ghềnh, hoang phế… (mà tổ tiên đã từng trải qua đầy gian truân khổ ải, lẫn chông gai. Ngỏ hầu cho Việt Nam “sống” vững mạnh tới bây giờ… mới có chúng ta).
                                Quyền lực vinh sang hiện đang “sống” ở trong tay đảng và nhà nước đó thôi, nó như một toà lâu đài rộng thênh thang và quá cao, nếu biết cách xây dựng nền móng và duy trì cho vững bền; thì trường cửu và vĩnh thịnh không cứ gì cho chính thân, mà đất nước và con dân cũng được hưởng nhờ “ơn mưa móc”. Bằng không... một khi chân móng và bức tường rạn nứt lung lay, ắt có ngày sụp đỗ và "chết". Vấn nạn nầy cũng tương tự như “dạy học” và “học tập” là chúng ta đi tìm con đường chính chắn, đúng đắn, đầy nhiệt huyết cho chính bản thân. Nếu sai lạc những nguyên tắc căn bản về: ngôn ngữ, xuề xòa cách phối trí điều hành, không tôn trọng về tự do ngôn luận, tự do cá nhân, tướt đoạt quyền công dân, cùng sự giáo dục không đoan chính, “cả vú lấp miệng em” bóp méo sự thật và chà đạp lịch sử cuả dân tộc Việt Nam từng quật cường đứng lên xua đuổi giặc ngoại xâm (như tổ tiên ông cha chúng ta đã từng thể hiện); sẽ khiến trí tuệ và hàng lớp thanh niên của đất nước đó bị băng hoại đào thải, hỏng cả một dân tộc, mất gốc và tàn lụi theo thời gian, làm hại cả dân tộc & thế hệ con em tương lai. Cớ sao đảng và nhà nước hiện tại, hay thằng Bờm có cái quạt mo ngày xưa lại dẫm chân lên vết xe cũ, trùng lặp một 1.000 năm đô hộ giặc Tàu lần nữa, mà không sáng con mắt ra? – hay vẫn do chủ nghiã: “100 năm trồng người”?
                                Lúc đó “dân nước ta” sẽ bị ngoại lai đô hộ, thống trị trong xiềng xích nô lệ khổ ải trầm luân suốt kiếp! Đã mất Hoàng Sa và Trường Sa rồi, không chóng thì chày đảo Phú Quốc, Côn Đảo, vịnh cảng quân sự Cam Ranh… & những nơi thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam; là “yếu điểm quan trọng nhất, là pháo đài khó công nhưng dễ thủ”, cũng tương tự na ná -sẽ rơi vô tay bè lũ khát máu Tàu cộng cho mà coi- Thế thôi! Người Việt Nam từ bé chí lớn không thể hết nguôi từng cơn rúng động choáng váng, rụng rời, bàng hoàng rơi lệ, vì kẻ tội đồ bán đất nước.
                                Tàu chệt đã tràn ngập trên những vùng đất quan trọng ở khu phố Tây sầm uất, (thuộc thành phố Nha Trang). Tôi đến Nha Trang vào tháng 10 năm 2017 mà tưởng chừng như đang đi lạc trên đất nước Tàu đông đúc náo nhiệt ồn ào kinh khủng! Trong nhà ngoài phố đều xuất hiện người Tàu, chữ viết trên tiệm ghi toàn tiếng Tàu & khu Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trung – Thiệt tình! Cho đến bây giờ mà Đảng và Nhà Nước không có những “nhân sĩ trí thức” có thể chế, có ý thức trách nhiệm và tinh thần tự tôn dân tộc? vẫn “tập trung phá thối” không chịu mở mắt ra!? Trời ơi! Giờ phút lâm nguy nầy, mà đảng còn ru ngủ dân Việt trong chiêu bài mị dân bán nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc” sao ta? Hãy tỉnh táo lại đi. Chuyện đó “xưa rồi Diễm, xưa rồi Bờm” !!!
                                *
                                Tình Hoài Hương

                                Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
                                Trân trọng
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-08-2019, 11:41 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X