Đặc San Hội Ngộ Fort Rucker Phần 14
Ngày xưa khi học ở bậc tiểu học, chúng ta được học các môn tập đọc, tập viết, chính tả, tập làm văn, sử, địa, khoa học thường thức, vệ sinh . ..nhưng môn học được cho là quan trọng nhất không chỉ ở bậc tiểu học mà ở cả trung học hay đại học vẫn là môn toán. Hình như bọn con trai chúng tôi đứa nào cũng thích môn này hơn, vì chỉ cần lắng nghe, cộng thêm chút đỉnh thông minh, và biết suy luận là giải toán nhanh như gió, và điều quan trọng là khiến cho lũ con gái phục lăn ( vì các cô nàng đa số chỉ giỏi các môn học bài, hay văn chương mà thôi).
Cũng vậy, so với các môn hoá, lý, sinh ngữ thì Toán là môn học khá nhất của tôi, và cho dù các môn toán quỹ tích, hình học không gian, giải tích hay tân toán học gì gì đó cũng không sao làm khó tôi bằng những bài Toán Đố hồi học ở lớp Nhất ( bây giờ gọi là lớp Năm). Phải công nhận là lớp nhất có quá nhiều loại toán đố, và thật lòng mà nói, tuy giỏi toán nhưng bọn con trai chúng tôi không phải đứa nào cũng giỏi giống nhau mà có đứa giỏi những bài toán về động tử, có đứa lại giỏi về loại toán vòi nước chảy ra, vòi nước chảy vào, có đứa lại giỏi những bài toán “ vừa gà vừa chó, bó lại cho tròn vừa được trăm chân . . . ” mà ở cái lớp nhất sao mà có nhiều loại toán đố thế không biết, nhưng với tôi chỉ là chuyện nhỏ, chỉ có những bài toán “ vòi nước chảy vào, rồi đồng thời lại có cả vòi nước chảy ra là tôi cứ sợ sợ thế nào ấy, cho dù cũng không khó gì, và tôi vẫn giải ra như thường, và như một định mệnh, những bài toán đố cứ đeo đẳng theo tôi suốt một đời cho đến tận bây giờ, gần bước vào cái tuổi “thất thập cổ lại hy” mà tôi vẫn cứ phải loay hoay mãi hoài với những bài toán đố không lời giải đáp của đời mình.
Thuở ấy, khi vừa bước chân vào ngưỡng cửa đại học thì cũng là lúc cuộc nội chiến của quê hương bắt đầu đi vào giai đoạn khốc liệt nhất kể từ ngày chia đôi đất nước. Sau cuộc chiến Mậu Thân không bao lâu thì Hạ Lào, tiếp theo Mùa Hè Đỏ Lửa nổ ra . . . Không khí như nóng lên từng ngày, cứ như một câu hát thời đó của Phạm Duy mà tôi vẫn còn nhớ đến tận bây giờ “ Ngày tháng hạ mênh mang buồn, lòng vắng vẻ như sân trường. Bầy phượng vỹ cũng khác thường, nhỏ tia máu trên con đường... ”. Thế nên chúng tôi, những đứa có trong lòng chút ít nghĩ suy về tương lai đất nước, cũng như nhìn thấy những bậc cha anh của mình hay thậm chí bạn bè cùng trang lứa đang từng ngày đổ mồ hôi và máu để bảo vệ cho sự an bình của đất nước thì không thể nào có thể an tâm ngồi lại giảng đường một cách an nhiên tự tại, Vậy là tôi và mấy thằng bạn cùng khoa rủ nhau gia nhập quân đội . . . Trong lúc chờ trình diện trường Võ Khoa Thủ Đức, thì một hôm mấy thằng bạn học cùng lớp đệ nhất ở trường cũ Nguyễn Công Trứ rủ đi xem film “Doctor Zivago” đang chiếu ở Rex; sau đó lại nghe tin thằng Tĩnh, bạn cũ vừa từ quân trường Thủ Đức được về phép thăm gia đình nên chúng tôi lên nhà thăm nó.
Sau một hồi tán dóc, cả bọn kéo nhau về, tình cờ ngang qua cổng Phi Long, nhìn thấy tấm bande role với hàng chữ “ Chào Mừng Các Bạn Trẻ Gia Nhập Binh Chủng Không Quân” với “ khúc tình ca hàng hàng lớp lớp ” thanh niên đang chen lấn nhau để xin mẫu đơn tuyển mộ, bỗng dưng hình ảnh của anh Thặng ( Thặng Fulro), oai hùng trong bộ combinaison mà tôi có cơ hội gặp mỗi lần gia đình có đám giỗ ông bà ngoại, hiện ngay ra trong đầu tôi, thế là cả lũ rủ nhau ghi danh, bon chen mãi chúng tôi cũng xin và điền được tờ đơn gia nhập quân chủng hào hoa nhất nước thời bấý giờ . . .
Sau khi điền và nộp đơn lại, bọn chúng tôi nhận được lịch khám sức khỏe vào những ngày khác nhau, ở Trung Tâm Y Khoa của BTL/KQ trong sân bay Tân Sơn Nhất. Khám sức khỏe của Không Quân có lẽ khó nhất là khoa mắt, tôi nhớ đứa nào cũng sợ khi gặp “hung thần Lữ ”, nhìn lạng quạng, trả lời ngập ngừng về những con chữ trên bảng là coi như nghiệp phi hành đành đóng cửa, còn tân tuyển như bọn chúng tôi thì coi như rớt là cái cẳng ( mà cũng phải thôi, phi công mà kém mắt thì nguy hiểm quá còn gì). Hồi đó nghe nói vấn đề răng bên KQ cũng khá là khó, vì nghe mấy người lớn trong nhà nói “ Không Quân đang lái máy bay mà nhức răng thì làm sao mà lái được”, thế nên bọn tôi cũng lo, vì hình như đa số dân Nam kỳ chúng tôi răng được coi là không tốt bằng người Bắc và người Trung vì chúng tôi thường hay uống trà đá khi ăn cơm . . . Tuy nhiên khi gặp nha sĩ Từ Hùng Bình thì coi như không có gì ghê gớm lắm, răng sâu thì chỉ việc trám là xong; tôi nghĩ chắc chỉ có thằng nào bị mất “hàng tiền đạo” thì mới “out” thôi. Còn về cân nặng và chiều cao thì không lo . . .50kg thì tôi vừa đạt, còn 1m60 thì tôi lại còn dư tới 15cm, thế nên tôi được lọt vào binh chủng Không Quân ngon ơ, cả đám hôm đó đi khám chỉ mình tôi đậu, thế nên khi có lệnh gọi là tôi âm thầm rời bỏ Sài Gòn, không cho đứa nào biết sợ bọn nó buồn.
Tôi nhập ngũ ngày 15/3/1973. Vào trại 900 của thượng sĩ Tiến ở cổng Phi Long, nằm chờ ra Nha Trang, và mặc dù cùng khám sức khỏe một đợt với nhau, nhưng chuyển ra Nha Trang khác ngày nên mang tên khóa khác nhau, tôi rơi vào khóa 73F, khóa này coi vậy mà lại là khóa có đông tân khóa sinh nhất ( chắc vì vậy nên bọn chúng tôi cũng “nhiều chuyện” nhất thì phải).
Khỏi nói thì chắc người nào cũng không quên ngày đầu tiên bước chân ra khỏi chiếc C130, chúng tôi đã được đàn anh đón tiếp như thế nào, chào Đại Bàng ra sao, và cả những ngày tháng huấn nhục, cùng với mùi mồ hôi đi vào tận giấc ngủ, cho đến ngày tắm suối tiên trong đêm lột xác, những ngày chống thế chờ ở phạn xá, những khi nuốt nhai ớt mà phải cố gắng tưởng tượng ra mùi thơm ngọt của trái chuối, cả những khi khát cháy họng phải uống cả nước tiểu của chính mình mà vẫn nghe ngon làm sao. Thế nhưng tất cả đều có thể quên và tan biến nhọc nhằn khi nhận thư người yêu . . .
Tôi thì lại không có được cái may mắn đó, người tôi yêu là một cô tiểu thư học cùng lớp, là con một nên cá tính cũng rất khó chịu, và có lẽ cũng vì cái thằng tôi có quá nhiều mặc cảm, cũng như không có khả năng ăn nói lắm nên hai đứa mỗi lần gặp nhau chỉ nói được vài câu là có phong ba bão táp, và tôi luôn luôn là người “lãnh đạn” ( có lẽ đó cũng là một trong những lý do tôi không cho nàng biết tôi gia nhập Không Quân), hy vọng ngày nào đó, khi gắn Alfa, áo mão xênh xang về trình diện may ra nàng có “cảm động” mà yêu tôi thêm chút nào hay không . . . Thế nhưng mọi việc đều không như dự tính của tôi, khi gặp lại, nàng không trách móc gì chuyện tôi lặng lẽ “biến mất”, nhưng chỉ phán một câu : “Tui ghét Không Quân lắm, bay bướm tùm lum, tui chỉ thích Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù hay Biệt Động Quân thôi, ông có ngon thì đi lính tác chiến đó đi ”( có lẽ cô nàng không biết là lái Trực Thăng thì cũng đâu có kém hiểm nguy, nhưng tôi làm sao cãi lại nàng được). Thế nên có lẽ tôi là người ít có cơ hội nhận được thư tình nhất trong đám . Tuy nhiên tôi và Trung Sơn lại là hai thằng viết thư tình giùm cho mấy thằng bạn cùng khóa nhiều nhất, dù hai thằng tôi chẳng có thư của “bồ ruột” bao giờ ( thư tình dạng kết bạn bốn phương, em gái hậu phương đó mà). Thế nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn cứ yêu mỗi mình nàng, cho dù nàng có trái tính trái nết cỡ nào tôi cũng vẫn thấy đáng yêu mới chết chứ.
Sau khi gắn Alfa, chúng tôi được học anh văn giai đoạn một ở Nha Trang, sau đó chuyển về học ở trường Sinh ngữ Quân Đội Sài Gòn ( ở gần ngã ba chú Ía), lẽ ra chúng tôi sẽ được đi Lackland học tiếp sinh ngữ trước khi học bay ở Fort Rucker hay một nơi nào đó ở Hoa Kỳ thì đùng một cái, Mỹ cắt viện trợ, cả đám còn ở VN được đưa vào trường sĩ quan bộ binh Long Thành để học quân sự giai đoạn 2&3. Chúng tôi được vào Tiểu đoàn 3 khăn xanh gồm các Đại đội 31,32,33 và 34; Tiểu đoàn 4 khăn Vàng gồm các Đại đội 41,42,43 và 44. Các bạn ở Mỹ về vào Tiểu đoàn I khăn đỏ, gồm các Đại đội 11,12, 14 và 15 ( không có ĐĐ 13, vì trước đó đđ 13 bị vc đặt mìn claymore chết cả trung đội nên từ đó không có số 13 nữa). Đến đầu tháng Tư các anh em của Võ Bị Đà Lạt khóa 30/31 và 32 vừa mới gắn alfa cũng được chuyển về ở chung với chúng tôi. Khóa 28 và 29 được cho ra trường sớm.
Vài ngày sau được lệnh di tản về trường BB Thủ Đức cũ ở Chợ Nhỏ ( hay còn gọi là đồi Tăng nhơn Phú). Anh em SVSQ/KQ chúng tôi được bố trí canh gác sát bờ rào phòng thủ của trường. Tôi ở đại đội 41, đóng chốt ở cổng số 9, là cổng sau của trường. Sáng 30/4/1975 chiếc xe tăng PT 76 của cộng quân lù lù từ cổng trước lao thẳng vào cổng sau của trường, vừa chạy vừa bắn như vãi trấu, bọn chúng tôi chỉ có M16, nhưng cũng cố chạy theo bắn, chiếc xe tăng như con trâu điên, ủi vào các ụ phòng thủ chạy tọt ra khỏi khuôn viên nhà trường. Ngay sau đó Bộ Chỉ Huy Liên đoàn Phòng Thủ cho mấy chiếc GMC lấp vào chỗ trống ở cổng 9, thế nhưng chỉ khoảng 15 phút sau, cái khối sắt điên đó lại ủi những chiếc GMC trở vào trường, chúng tôi lại bắn, nhưng M16 chẳng nhằm nhò gì, AC Bình già khóa 72F đã dùng cây M72 ( mỗi trung đội được trang bị hai cây M72) để nã vào khối sắt này. Anh Bình gìa khai hỏa lớ quớ sao để bàn tay trái sau ống phụt hậu nên bị đứt rời hết mấy ngón tay, nghe tiếng la đau đớn của Bình, bọn tôi chạy đến và tôi là người nhặt được những ngón tay của Bình.
Khối sắt này sau cùng cũng bị những đàn anh có kinh nghiệm ( những anh này về học khóa Tham Mưu) bắn cho đứt xích, chiếc xe điên cuồng bắn loạn xạ vào các lô cốt phòng thủ, đây là lúc AC Trịnh văn Tá, khóa 73F hy sinh cùng với một vị trung tá của trường BB, chiếc xe tăng lúc đó cũng là điểm tác xạ của chúng tôi, nên cuối cùng nó cũng phải dơ cờ trắng đầu hàng . . . Không bỏ lỡ cơ hội rửa hận cho đồng đội. AC La văn Tường 73C (dân Fort Rucker về) rút chốt lựu đạn quăng vào con trâu sắt điên đó, và nó bốc cháy trong tiếng hò reo sung sướng của chúng tôi, nhưng niềm vui không kéo dài được lâu, tên hàng tướng big Minh đã kêu gọi chúng tôi buông súng vô điều kiện . . .
Không ai nói với ai được lời nào, những giọt lệ nóng bỗng dưng trào ra trên khóe mắt của tất cả chúng tôi, cả đám ngơ ngác nhìn nhau như những đứa trẻ bỗng dưng bị cha mẹ đưa mình ra giữa chợ vứt bỏ. Chúng tôi bàng hoàng nhìn nhau trước khi tan hàng, im lặng nhìn nhau, không một lời nào được thốt lên trong giờ phút đó, kể cả lời nói từ biệt nhau ( cũng có một vài thằng con ông cháu cha được cha mẹ lo cho di tản trước đó, cùng với những quan chức đào ngũ, và bọn chúng cũng lặng câm không một lời từ giã, nhưng niềm đau uất hận như chúng tôi vào giờ phút đó chắc hẳn là bọn chúng chẳng bao giờ có được).
Sau khi lão nhục tướng Minh cồ tuyên bố đầu hàng, lũ chúng tôi như đàn ong vỡ tổ, cứ thế lội bộ về Sài Gòn, đứa nào may mắn có gia đình ở Sài Gòn thì còn đỡ, những thằng ở tỉnh như bọn tôi thì phải ở ké nhà bạn và kiếm đường về miền Tây ( còn may hơn những thằng ở miền Trung và Cao Nguyên, vì không biết cha mẹ anh em mình còn hay mất), lương hai tháng rồi không được lĩnh, trên đường từ trường ra ngã tư Thủ Đức, chúng tôi chạy vào Cư Xá Kiến Thiết để đi tắt ra hãng bột giặt Viso, người dân thấy chúng tôi như thế thì có người chạy theo đưa cho cái áo, cái quần civil và dúi cho vài ngàn đi xe, nhưng làm gì có xe cộ, chúng tôi dắt díu nhau, nhắm mắt đi qua những xác người rải rác trên xa lộ, nhắm mắt lội qua cầu Rạch Chiếc, mà hai mắt nhòe nhạt vì thương xót cho thân phận, cho quê hương đất nước, và ngơ ngác tự hỏi tại sao lại như thế này . . . khi đi ngang cầu Rạch Chiếc, những thằng cơ hội, mà người Sài Gòn gọi là “cách mạng 30”, không biết súng ở đâu mà chúng khư khư trên tay, cùng với chiếc băng đỏ trên cánh tay, chĩa súng vào chúng tôi hạch hỏi:“giờ này mà còn mặc đồ này” bắt chúng tôi cởi quần, và bạn tôi, AC Qưới, khóa 73F phải mặc slip lội về tới Sài Gòn mới vào nhà bạn kiếm quần dài mặc vào.
Thật lòng mà nói không phải bọn chúng tôi sợ hãi hay hèn nhát gì, nhưng tất cả mọi sự diễn ra quá nhanh chóng khiến chúng tôi bàng hoàng đến độ không thể nào thích nghi được, mà không chỉ chúng tôi mà đối với mọi người trong cả nước 30/4/1975 là một giấc mộng kinh mang, những kinh hãi trong cuộc đổi đời, những nỗi sợ không tên rình rập, những kẻ cơ hội đi hôi của, Commissary nằm cạnh cầu Sài Gòn bị đập phá và những thùng hàng hóa như các loại đồ hộp của Mỹ, đường sữa, bánh kẹo, thậm chí cả gạo cũng được kéo ra bày bán đầy trên những hè phố, có lẽ chỉ những người được coi là “kẻ thắng cuộc” chú tâm đến những “ chiến lợi phẩm”đó như những chiếc muỗng, nĩa, nhưng chiếc ca uống nước bằng Inox của Mỹ là được họ quan tâm, còn những người như chúng tôi thì lúc đó chỉ lo đem vứt bớt hay tẩu tản những thứ được gọi bằng cái tên dễ sợ là “ tàn dư Mỹ Ngụy” . . . Và trong lúc khó khăn đó thì Bài toán đố của đời tôi bỗng xuất hiện, tôi băn khoăn không biết phải làm gì trong những ngày tháng này, về quê là đương nhiên, thế nhưng tôi không thể naò không nghĩ đến nàng. Tôi tự hỏi , không hiểu sự đổi đời của cả nước như thế có phải là cơ hội cho chúng tôi đến gần nhau dễ dàng hơn hay không, những quan niệm về “ môn đăng hộ đối” chắc giờ này không còn là rào cản, nhưng thực ra, vấn đề không nằm nơi ba mẹ nàng, mà nằm ở nơi nàng thì phải, cuối cùng tôi về quê, cùng với hai đứa em gái và cả với nàng ( với sự cho phép của ba mẹ nàng). Gia đình tôi chào đón nàng với tất cả yêu thương trìu mến, và cho dù người miền tây chúng tôi không thích gả, hay cưới con cho người Bắc hay người Trung, nhưng gia đình tôi lại rất yêu thương nàng, nhất là ba tôi, ông đặc biệt yêu quý cô bắc kỳ nho nhỏ là nàng, cả chú Bảy , anh Ba và anh Năm, tôi những tưởng rồi chúng tôi sẽ là của nhau, thế nhưng, cuộc đời quả là khó đoán, cuối cùng thì chúng tôi cũng đành mất nhau, chẳng vì đâu . . .
Cuối cùng tôi đã đánh đu cuộc đời mình với người phụ nữ khác, người mà trong một đêm bất chợt tỉnh dậy thấy nằng nặng ở ngực, cảm giác như bên cạnh mình có một thứ giống cái thì phải, mái tóc bết mồ hôi trong một đêm hè, con thú trong tôi bừng dậy và kết quả là một bào thai tượng hình, tôi đành phải nhắm mắt giải bài toán đố mà cuối cùng ra tới ba đáp số, nhưng dường như tất cả đều sai, tuy vậy tôi vẫn phải chịu vì không còn lời giải đáp nào. Người ta bảo, sống chung mãi rồi sẽ quen, sẽ có tình cảm, sẽ yêu thương, tôi công nhận một điều là cũng có, có vì cái con thú đực và cái trong chúng tôi cần phải có nhau, nhưng tình yêu thì dường như chẳng bao giờ có được. Tôi là thằng đàn ông khá là đơn giản, không đòi hỏi gì nhiều trong tình yêu, hay đời sống gia đình, miễn là đừng đòi hỏi gì quá đáng, bổn phận làm cha, làm chồng tôi vẫn chu toàn cho dù cuộc hôn nhân của tôi không có tờ giấy lận lưng, nhưng tôi vẫn làm tròn bổn phận, cho dù có nhiều lúc thấy quá cô đơn, phải đi tìm điều gì đó bên ngoài người được gọi tên là vợ, cuộc sống trong những tháng năm được gọi là “thời bao cấp” đã khiến nhiều lúc tôi chẳng còn nhớ gì đến ngày tháng cũ, nhưng dường như trong tôi vẫn có cái gì đó trống vắng, cái gì đó mà không thể nào có ai bù đắp được, và cuối cùng thì tôi mới hiểu cái mà không ai, không gì bù đắp được đó chính là “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” năm xửa năm xưa của mình, và đúng như bài thơ của một tác giả nữ, mà tôi tình cờ đọc ở đâu đó.
Những tưởng thế là yên mãi một phận đời, dù thi thoảng có nhớ đến nàng nhưng cũng chỉ là nhớ thế thôi, tôi cũng chẳng hy vọng gặp lại nàng, vì tôi định cư ở Sài Gòn cả mấy chục năm nay, nếu nàng còn ở VN, có lẽ nào chúng tôi chẳng một lần gặp mặt dù tình cờ . . . Nhưng dường như những oan nghiệt cuộc đời vẫn luôn đeo đẳng, thế nên khi tôi dự định an phận thủ thường với những gì thượng đế đã an bài, khi tôi dự định chôn hẳn cái quá khứ vàng son một thời theo một nghĩa nào đó thì “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” bằng xương bằng thịt lại hiện về, bài toán đố nữa lại xuất hiện, và lần này, bài toán đố nhất định phải có lời giải đáp, và cho dù ngoài kia có là phong ba bão táp đi nữa thì tôi vẫn phải giải cho xong bài toán đố này. Tôi phải mở to mắt mà bước đi, tôi có cảm tưởng lần này mới là bài toán đố đích thực của đời tôi, nếu không giải chính xác thì chắc là có chết tôi cũng không tài nào nhắm được mắt.
AC Trần Minh Tân (73F)
Truyện cười ngắn
Nhà xác..Cháy lớn tại bệnh viện. Sau khi dập tắt đám cháy một lính cứu hỏa báo cáo với chỉ huy:
- Lửa đã bị dập tắt hoàn toàn! Tại tầng hầm chúng tôi cứu được 9 nạn nhân. Đã làm hồi tỉnh được 4, còn 5 người kia rất tiếc đã chết.
Viên chỉ huy nghe xong liền ngất đi. Một lúc sau, tỉnh lại ông ta mới thều thào nói:
- Chúa ơi! Dưới tầng hầm là cái nhà xác của bệnh viện mà.
Những Bài Toán Đố
AC Trần Minh Tân (73F)
AC Trần Minh Tân (73F)
Ngày xưa khi học ở bậc tiểu học, chúng ta được học các môn tập đọc, tập viết, chính tả, tập làm văn, sử, địa, khoa học thường thức, vệ sinh . ..nhưng môn học được cho là quan trọng nhất không chỉ ở bậc tiểu học mà ở cả trung học hay đại học vẫn là môn toán. Hình như bọn con trai chúng tôi đứa nào cũng thích môn này hơn, vì chỉ cần lắng nghe, cộng thêm chút đỉnh thông minh, và biết suy luận là giải toán nhanh như gió, và điều quan trọng là khiến cho lũ con gái phục lăn ( vì các cô nàng đa số chỉ giỏi các môn học bài, hay văn chương mà thôi).
Cũng vậy, so với các môn hoá, lý, sinh ngữ thì Toán là môn học khá nhất của tôi, và cho dù các môn toán quỹ tích, hình học không gian, giải tích hay tân toán học gì gì đó cũng không sao làm khó tôi bằng những bài Toán Đố hồi học ở lớp Nhất ( bây giờ gọi là lớp Năm). Phải công nhận là lớp nhất có quá nhiều loại toán đố, và thật lòng mà nói, tuy giỏi toán nhưng bọn con trai chúng tôi không phải đứa nào cũng giỏi giống nhau mà có đứa giỏi những bài toán về động tử, có đứa lại giỏi về loại toán vòi nước chảy ra, vòi nước chảy vào, có đứa lại giỏi những bài toán “ vừa gà vừa chó, bó lại cho tròn vừa được trăm chân . . . ” mà ở cái lớp nhất sao mà có nhiều loại toán đố thế không biết, nhưng với tôi chỉ là chuyện nhỏ, chỉ có những bài toán “ vòi nước chảy vào, rồi đồng thời lại có cả vòi nước chảy ra là tôi cứ sợ sợ thế nào ấy, cho dù cũng không khó gì, và tôi vẫn giải ra như thường, và như một định mệnh, những bài toán đố cứ đeo đẳng theo tôi suốt một đời cho đến tận bây giờ, gần bước vào cái tuổi “thất thập cổ lại hy” mà tôi vẫn cứ phải loay hoay mãi hoài với những bài toán đố không lời giải đáp của đời mình.
Thuở ấy, khi vừa bước chân vào ngưỡng cửa đại học thì cũng là lúc cuộc nội chiến của quê hương bắt đầu đi vào giai đoạn khốc liệt nhất kể từ ngày chia đôi đất nước. Sau cuộc chiến Mậu Thân không bao lâu thì Hạ Lào, tiếp theo Mùa Hè Đỏ Lửa nổ ra . . . Không khí như nóng lên từng ngày, cứ như một câu hát thời đó của Phạm Duy mà tôi vẫn còn nhớ đến tận bây giờ “ Ngày tháng hạ mênh mang buồn, lòng vắng vẻ như sân trường. Bầy phượng vỹ cũng khác thường, nhỏ tia máu trên con đường... ”. Thế nên chúng tôi, những đứa có trong lòng chút ít nghĩ suy về tương lai đất nước, cũng như nhìn thấy những bậc cha anh của mình hay thậm chí bạn bè cùng trang lứa đang từng ngày đổ mồ hôi và máu để bảo vệ cho sự an bình của đất nước thì không thể nào có thể an tâm ngồi lại giảng đường một cách an nhiên tự tại, Vậy là tôi và mấy thằng bạn cùng khoa rủ nhau gia nhập quân đội . . . Trong lúc chờ trình diện trường Võ Khoa Thủ Đức, thì một hôm mấy thằng bạn học cùng lớp đệ nhất ở trường cũ Nguyễn Công Trứ rủ đi xem film “Doctor Zivago” đang chiếu ở Rex; sau đó lại nghe tin thằng Tĩnh, bạn cũ vừa từ quân trường Thủ Đức được về phép thăm gia đình nên chúng tôi lên nhà thăm nó.
Sau một hồi tán dóc, cả bọn kéo nhau về, tình cờ ngang qua cổng Phi Long, nhìn thấy tấm bande role với hàng chữ “ Chào Mừng Các Bạn Trẻ Gia Nhập Binh Chủng Không Quân” với “ khúc tình ca hàng hàng lớp lớp ” thanh niên đang chen lấn nhau để xin mẫu đơn tuyển mộ, bỗng dưng hình ảnh của anh Thặng ( Thặng Fulro), oai hùng trong bộ combinaison mà tôi có cơ hội gặp mỗi lần gia đình có đám giỗ ông bà ngoại, hiện ngay ra trong đầu tôi, thế là cả lũ rủ nhau ghi danh, bon chen mãi chúng tôi cũng xin và điền được tờ đơn gia nhập quân chủng hào hoa nhất nước thời bấý giờ . . .
Sau khi điền và nộp đơn lại, bọn chúng tôi nhận được lịch khám sức khỏe vào những ngày khác nhau, ở Trung Tâm Y Khoa của BTL/KQ trong sân bay Tân Sơn Nhất. Khám sức khỏe của Không Quân có lẽ khó nhất là khoa mắt, tôi nhớ đứa nào cũng sợ khi gặp “hung thần Lữ ”, nhìn lạng quạng, trả lời ngập ngừng về những con chữ trên bảng là coi như nghiệp phi hành đành đóng cửa, còn tân tuyển như bọn chúng tôi thì coi như rớt là cái cẳng ( mà cũng phải thôi, phi công mà kém mắt thì nguy hiểm quá còn gì). Hồi đó nghe nói vấn đề răng bên KQ cũng khá là khó, vì nghe mấy người lớn trong nhà nói “ Không Quân đang lái máy bay mà nhức răng thì làm sao mà lái được”, thế nên bọn tôi cũng lo, vì hình như đa số dân Nam kỳ chúng tôi răng được coi là không tốt bằng người Bắc và người Trung vì chúng tôi thường hay uống trà đá khi ăn cơm . . . Tuy nhiên khi gặp nha sĩ Từ Hùng Bình thì coi như không có gì ghê gớm lắm, răng sâu thì chỉ việc trám là xong; tôi nghĩ chắc chỉ có thằng nào bị mất “hàng tiền đạo” thì mới “out” thôi. Còn về cân nặng và chiều cao thì không lo . . .50kg thì tôi vừa đạt, còn 1m60 thì tôi lại còn dư tới 15cm, thế nên tôi được lọt vào binh chủng Không Quân ngon ơ, cả đám hôm đó đi khám chỉ mình tôi đậu, thế nên khi có lệnh gọi là tôi âm thầm rời bỏ Sài Gòn, không cho đứa nào biết sợ bọn nó buồn.
Tôi nhập ngũ ngày 15/3/1973. Vào trại 900 của thượng sĩ Tiến ở cổng Phi Long, nằm chờ ra Nha Trang, và mặc dù cùng khám sức khỏe một đợt với nhau, nhưng chuyển ra Nha Trang khác ngày nên mang tên khóa khác nhau, tôi rơi vào khóa 73F, khóa này coi vậy mà lại là khóa có đông tân khóa sinh nhất ( chắc vì vậy nên bọn chúng tôi cũng “nhiều chuyện” nhất thì phải).
Khỏi nói thì chắc người nào cũng không quên ngày đầu tiên bước chân ra khỏi chiếc C130, chúng tôi đã được đàn anh đón tiếp như thế nào, chào Đại Bàng ra sao, và cả những ngày tháng huấn nhục, cùng với mùi mồ hôi đi vào tận giấc ngủ, cho đến ngày tắm suối tiên trong đêm lột xác, những ngày chống thế chờ ở phạn xá, những khi nuốt nhai ớt mà phải cố gắng tưởng tượng ra mùi thơm ngọt của trái chuối, cả những khi khát cháy họng phải uống cả nước tiểu của chính mình mà vẫn nghe ngon làm sao. Thế nhưng tất cả đều có thể quên và tan biến nhọc nhằn khi nhận thư người yêu . . .
Tôi thì lại không có được cái may mắn đó, người tôi yêu là một cô tiểu thư học cùng lớp, là con một nên cá tính cũng rất khó chịu, và có lẽ cũng vì cái thằng tôi có quá nhiều mặc cảm, cũng như không có khả năng ăn nói lắm nên hai đứa mỗi lần gặp nhau chỉ nói được vài câu là có phong ba bão táp, và tôi luôn luôn là người “lãnh đạn” ( có lẽ đó cũng là một trong những lý do tôi không cho nàng biết tôi gia nhập Không Quân), hy vọng ngày nào đó, khi gắn Alfa, áo mão xênh xang về trình diện may ra nàng có “cảm động” mà yêu tôi thêm chút nào hay không . . . Thế nhưng mọi việc đều không như dự tính của tôi, khi gặp lại, nàng không trách móc gì chuyện tôi lặng lẽ “biến mất”, nhưng chỉ phán một câu : “Tui ghét Không Quân lắm, bay bướm tùm lum, tui chỉ thích Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù hay Biệt Động Quân thôi, ông có ngon thì đi lính tác chiến đó đi ”( có lẽ cô nàng không biết là lái Trực Thăng thì cũng đâu có kém hiểm nguy, nhưng tôi làm sao cãi lại nàng được). Thế nên có lẽ tôi là người ít có cơ hội nhận được thư tình nhất trong đám . Tuy nhiên tôi và Trung Sơn lại là hai thằng viết thư tình giùm cho mấy thằng bạn cùng khóa nhiều nhất, dù hai thằng tôi chẳng có thư của “bồ ruột” bao giờ ( thư tình dạng kết bạn bốn phương, em gái hậu phương đó mà). Thế nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn cứ yêu mỗi mình nàng, cho dù nàng có trái tính trái nết cỡ nào tôi cũng vẫn thấy đáng yêu mới chết chứ.
Sau khi gắn Alfa, chúng tôi được học anh văn giai đoạn một ở Nha Trang, sau đó chuyển về học ở trường Sinh ngữ Quân Đội Sài Gòn ( ở gần ngã ba chú Ía), lẽ ra chúng tôi sẽ được đi Lackland học tiếp sinh ngữ trước khi học bay ở Fort Rucker hay một nơi nào đó ở Hoa Kỳ thì đùng một cái, Mỹ cắt viện trợ, cả đám còn ở VN được đưa vào trường sĩ quan bộ binh Long Thành để học quân sự giai đoạn 2&3. Chúng tôi được vào Tiểu đoàn 3 khăn xanh gồm các Đại đội 31,32,33 và 34; Tiểu đoàn 4 khăn Vàng gồm các Đại đội 41,42,43 và 44. Các bạn ở Mỹ về vào Tiểu đoàn I khăn đỏ, gồm các Đại đội 11,12, 14 và 15 ( không có ĐĐ 13, vì trước đó đđ 13 bị vc đặt mìn claymore chết cả trung đội nên từ đó không có số 13 nữa). Đến đầu tháng Tư các anh em của Võ Bị Đà Lạt khóa 30/31 và 32 vừa mới gắn alfa cũng được chuyển về ở chung với chúng tôi. Khóa 28 và 29 được cho ra trường sớm.
Vài ngày sau được lệnh di tản về trường BB Thủ Đức cũ ở Chợ Nhỏ ( hay còn gọi là đồi Tăng nhơn Phú). Anh em SVSQ/KQ chúng tôi được bố trí canh gác sát bờ rào phòng thủ của trường. Tôi ở đại đội 41, đóng chốt ở cổng số 9, là cổng sau của trường. Sáng 30/4/1975 chiếc xe tăng PT 76 của cộng quân lù lù từ cổng trước lao thẳng vào cổng sau của trường, vừa chạy vừa bắn như vãi trấu, bọn chúng tôi chỉ có M16, nhưng cũng cố chạy theo bắn, chiếc xe tăng như con trâu điên, ủi vào các ụ phòng thủ chạy tọt ra khỏi khuôn viên nhà trường. Ngay sau đó Bộ Chỉ Huy Liên đoàn Phòng Thủ cho mấy chiếc GMC lấp vào chỗ trống ở cổng 9, thế nhưng chỉ khoảng 15 phút sau, cái khối sắt điên đó lại ủi những chiếc GMC trở vào trường, chúng tôi lại bắn, nhưng M16 chẳng nhằm nhò gì, AC Bình già khóa 72F đã dùng cây M72 ( mỗi trung đội được trang bị hai cây M72) để nã vào khối sắt này. Anh Bình gìa khai hỏa lớ quớ sao để bàn tay trái sau ống phụt hậu nên bị đứt rời hết mấy ngón tay, nghe tiếng la đau đớn của Bình, bọn tôi chạy đến và tôi là người nhặt được những ngón tay của Bình.
Khối sắt này sau cùng cũng bị những đàn anh có kinh nghiệm ( những anh này về học khóa Tham Mưu) bắn cho đứt xích, chiếc xe điên cuồng bắn loạn xạ vào các lô cốt phòng thủ, đây là lúc AC Trịnh văn Tá, khóa 73F hy sinh cùng với một vị trung tá của trường BB, chiếc xe tăng lúc đó cũng là điểm tác xạ của chúng tôi, nên cuối cùng nó cũng phải dơ cờ trắng đầu hàng . . . Không bỏ lỡ cơ hội rửa hận cho đồng đội. AC La văn Tường 73C (dân Fort Rucker về) rút chốt lựu đạn quăng vào con trâu sắt điên đó, và nó bốc cháy trong tiếng hò reo sung sướng của chúng tôi, nhưng niềm vui không kéo dài được lâu, tên hàng tướng big Minh đã kêu gọi chúng tôi buông súng vô điều kiện . . .
Không ai nói với ai được lời nào, những giọt lệ nóng bỗng dưng trào ra trên khóe mắt của tất cả chúng tôi, cả đám ngơ ngác nhìn nhau như những đứa trẻ bỗng dưng bị cha mẹ đưa mình ra giữa chợ vứt bỏ. Chúng tôi bàng hoàng nhìn nhau trước khi tan hàng, im lặng nhìn nhau, không một lời nào được thốt lên trong giờ phút đó, kể cả lời nói từ biệt nhau ( cũng có một vài thằng con ông cháu cha được cha mẹ lo cho di tản trước đó, cùng với những quan chức đào ngũ, và bọn chúng cũng lặng câm không một lời từ giã, nhưng niềm đau uất hận như chúng tôi vào giờ phút đó chắc hẳn là bọn chúng chẳng bao giờ có được).
Sau khi lão nhục tướng Minh cồ tuyên bố đầu hàng, lũ chúng tôi như đàn ong vỡ tổ, cứ thế lội bộ về Sài Gòn, đứa nào may mắn có gia đình ở Sài Gòn thì còn đỡ, những thằng ở tỉnh như bọn tôi thì phải ở ké nhà bạn và kiếm đường về miền Tây ( còn may hơn những thằng ở miền Trung và Cao Nguyên, vì không biết cha mẹ anh em mình còn hay mất), lương hai tháng rồi không được lĩnh, trên đường từ trường ra ngã tư Thủ Đức, chúng tôi chạy vào Cư Xá Kiến Thiết để đi tắt ra hãng bột giặt Viso, người dân thấy chúng tôi như thế thì có người chạy theo đưa cho cái áo, cái quần civil và dúi cho vài ngàn đi xe, nhưng làm gì có xe cộ, chúng tôi dắt díu nhau, nhắm mắt đi qua những xác người rải rác trên xa lộ, nhắm mắt lội qua cầu Rạch Chiếc, mà hai mắt nhòe nhạt vì thương xót cho thân phận, cho quê hương đất nước, và ngơ ngác tự hỏi tại sao lại như thế này . . . khi đi ngang cầu Rạch Chiếc, những thằng cơ hội, mà người Sài Gòn gọi là “cách mạng 30”, không biết súng ở đâu mà chúng khư khư trên tay, cùng với chiếc băng đỏ trên cánh tay, chĩa súng vào chúng tôi hạch hỏi:“giờ này mà còn mặc đồ này” bắt chúng tôi cởi quần, và bạn tôi, AC Qưới, khóa 73F phải mặc slip lội về tới Sài Gòn mới vào nhà bạn kiếm quần dài mặc vào.
Thật lòng mà nói không phải bọn chúng tôi sợ hãi hay hèn nhát gì, nhưng tất cả mọi sự diễn ra quá nhanh chóng khiến chúng tôi bàng hoàng đến độ không thể nào thích nghi được, mà không chỉ chúng tôi mà đối với mọi người trong cả nước 30/4/1975 là một giấc mộng kinh mang, những kinh hãi trong cuộc đổi đời, những nỗi sợ không tên rình rập, những kẻ cơ hội đi hôi của, Commissary nằm cạnh cầu Sài Gòn bị đập phá và những thùng hàng hóa như các loại đồ hộp của Mỹ, đường sữa, bánh kẹo, thậm chí cả gạo cũng được kéo ra bày bán đầy trên những hè phố, có lẽ chỉ những người được coi là “kẻ thắng cuộc” chú tâm đến những “ chiến lợi phẩm”đó như những chiếc muỗng, nĩa, nhưng chiếc ca uống nước bằng Inox của Mỹ là được họ quan tâm, còn những người như chúng tôi thì lúc đó chỉ lo đem vứt bớt hay tẩu tản những thứ được gọi bằng cái tên dễ sợ là “ tàn dư Mỹ Ngụy” . . . Và trong lúc khó khăn đó thì Bài toán đố của đời tôi bỗng xuất hiện, tôi băn khoăn không biết phải làm gì trong những ngày tháng này, về quê là đương nhiên, thế nhưng tôi không thể naò không nghĩ đến nàng. Tôi tự hỏi , không hiểu sự đổi đời của cả nước như thế có phải là cơ hội cho chúng tôi đến gần nhau dễ dàng hơn hay không, những quan niệm về “ môn đăng hộ đối” chắc giờ này không còn là rào cản, nhưng thực ra, vấn đề không nằm nơi ba mẹ nàng, mà nằm ở nơi nàng thì phải, cuối cùng tôi về quê, cùng với hai đứa em gái và cả với nàng ( với sự cho phép của ba mẹ nàng). Gia đình tôi chào đón nàng với tất cả yêu thương trìu mến, và cho dù người miền tây chúng tôi không thích gả, hay cưới con cho người Bắc hay người Trung, nhưng gia đình tôi lại rất yêu thương nàng, nhất là ba tôi, ông đặc biệt yêu quý cô bắc kỳ nho nhỏ là nàng, cả chú Bảy , anh Ba và anh Năm, tôi những tưởng rồi chúng tôi sẽ là của nhau, thế nhưng, cuộc đời quả là khó đoán, cuối cùng thì chúng tôi cũng đành mất nhau, chẳng vì đâu . . .
Cuối cùng tôi đã đánh đu cuộc đời mình với người phụ nữ khác, người mà trong một đêm bất chợt tỉnh dậy thấy nằng nặng ở ngực, cảm giác như bên cạnh mình có một thứ giống cái thì phải, mái tóc bết mồ hôi trong một đêm hè, con thú trong tôi bừng dậy và kết quả là một bào thai tượng hình, tôi đành phải nhắm mắt giải bài toán đố mà cuối cùng ra tới ba đáp số, nhưng dường như tất cả đều sai, tuy vậy tôi vẫn phải chịu vì không còn lời giải đáp nào. Người ta bảo, sống chung mãi rồi sẽ quen, sẽ có tình cảm, sẽ yêu thương, tôi công nhận một điều là cũng có, có vì cái con thú đực và cái trong chúng tôi cần phải có nhau, nhưng tình yêu thì dường như chẳng bao giờ có được. Tôi là thằng đàn ông khá là đơn giản, không đòi hỏi gì nhiều trong tình yêu, hay đời sống gia đình, miễn là đừng đòi hỏi gì quá đáng, bổn phận làm cha, làm chồng tôi vẫn chu toàn cho dù cuộc hôn nhân của tôi không có tờ giấy lận lưng, nhưng tôi vẫn làm tròn bổn phận, cho dù có nhiều lúc thấy quá cô đơn, phải đi tìm điều gì đó bên ngoài người được gọi tên là vợ, cuộc sống trong những tháng năm được gọi là “thời bao cấp” đã khiến nhiều lúc tôi chẳng còn nhớ gì đến ngày tháng cũ, nhưng dường như trong tôi vẫn có cái gì đó trống vắng, cái gì đó mà không thể nào có ai bù đắp được, và cuối cùng thì tôi mới hiểu cái mà không ai, không gì bù đắp được đó chính là “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” năm xửa năm xưa của mình, và đúng như bài thơ của một tác giả nữ, mà tôi tình cờ đọc ở đâu đó.
Khi xa em
anh thắp đuốc nghìn phương soi người đẹp
những Tây Thi, Đắc Kỷ cũng dễ tìm
duy chỉ có phiên bản của em là thất lạc
Phiên bản của em
người con gái đã đi qua đời anh
long lanh biển mắt buổi đầu
môi hôn thiết tha gặp lại
tình yêu không hề nói
vẫn đầy chật buồng tim
Người ta có thể yêu nhiều lần từ lúc biết yêu
cho đến khi không còn yêu được nữa
ngày và đêm rồi cũng theo nhau
những hạnh phúc trôi qua không ngừng lại
ai chà đạp tình yêu
thì hạnh phúc chẳng còn
Khi anh không còn em
Ngày và Đêm giống nhau hết sức
ngày có lửa trời nóng nực
đêm bén ngót đêm đen
Chào em, hạnh phúc của anh
phút thoảng qua đau nhói
những ngày đêm héo mòn chờ đợi
cuộc sống riêng tì vết của mỗi người
những nỗi buồn chen lẫn niềm vui
sự đổ vỡ bất ngờ đến thế ?
Khi hạnh phúc bay đi lặng lẽ
cái mắt của đời ngước mắt tráo trưng
anh và em lẽ nào chỉ là những chứng nhân
cái o ép của đời bắt ta quay mặt lại
bên hông đời còn bày những con diều giấy
những hình nhân biết múa biết cười
những nông cạn bên trong
những hào nhoáng bên ngoài
những sâu thẳm chỉ đời biết được . . .
Tưởng như mình kết thúc
ngỡ mình sẽ nguội lòng yêu
lẽ đâu dễ dàng như thế
nên hoài hoài nhớ nhau
người ta có thể yêu nhiều lần từ lúc biết yêu
cho đến khi không còn yêu được nữa
có ai tan vỡ chẳng buồn ?
Chính là anh đã mất em
chính là anh đã mất
phiên bản thứ hai của em không bao giờ anh còn bắt gặp
dẫu trên đời vẫn có những Tây Thi
những sắc đẹp và những con người mới
anh sẽ còn ôm đến cuối đời
phiên bản tình yêu em chẳng bao giờ gặp lại
dẫu cho anh thắp đuốc đi tìm . . .
Và như thế
đời bình yên hay đời sóng gió
hạnh phúc tầm thường hay hạnh phúc cao sang
những gặt hái trong đời anh nếu mai này tính lại
có lẽ nào không có mối tình em
( thơ Phạm thị Ngọc Liên)
anh thắp đuốc nghìn phương soi người đẹp
những Tây Thi, Đắc Kỷ cũng dễ tìm
duy chỉ có phiên bản của em là thất lạc
Phiên bản của em
người con gái đã đi qua đời anh
long lanh biển mắt buổi đầu
môi hôn thiết tha gặp lại
tình yêu không hề nói
vẫn đầy chật buồng tim
Người ta có thể yêu nhiều lần từ lúc biết yêu
cho đến khi không còn yêu được nữa
ngày và đêm rồi cũng theo nhau
những hạnh phúc trôi qua không ngừng lại
ai chà đạp tình yêu
thì hạnh phúc chẳng còn
Khi anh không còn em
Ngày và Đêm giống nhau hết sức
ngày có lửa trời nóng nực
đêm bén ngót đêm đen
Chào em, hạnh phúc của anh
phút thoảng qua đau nhói
những ngày đêm héo mòn chờ đợi
cuộc sống riêng tì vết của mỗi người
những nỗi buồn chen lẫn niềm vui
sự đổ vỡ bất ngờ đến thế ?
Khi hạnh phúc bay đi lặng lẽ
cái mắt của đời ngước mắt tráo trưng
anh và em lẽ nào chỉ là những chứng nhân
cái o ép của đời bắt ta quay mặt lại
bên hông đời còn bày những con diều giấy
những hình nhân biết múa biết cười
những nông cạn bên trong
những hào nhoáng bên ngoài
những sâu thẳm chỉ đời biết được . . .
Tưởng như mình kết thúc
ngỡ mình sẽ nguội lòng yêu
lẽ đâu dễ dàng như thế
nên hoài hoài nhớ nhau
người ta có thể yêu nhiều lần từ lúc biết yêu
cho đến khi không còn yêu được nữa
có ai tan vỡ chẳng buồn ?
Chính là anh đã mất em
chính là anh đã mất
phiên bản thứ hai của em không bao giờ anh còn bắt gặp
dẫu trên đời vẫn có những Tây Thi
những sắc đẹp và những con người mới
anh sẽ còn ôm đến cuối đời
phiên bản tình yêu em chẳng bao giờ gặp lại
dẫu cho anh thắp đuốc đi tìm . . .
Và như thế
đời bình yên hay đời sóng gió
hạnh phúc tầm thường hay hạnh phúc cao sang
những gặt hái trong đời anh nếu mai này tính lại
có lẽ nào không có mối tình em
( thơ Phạm thị Ngọc Liên)
Những tưởng thế là yên mãi một phận đời, dù thi thoảng có nhớ đến nàng nhưng cũng chỉ là nhớ thế thôi, tôi cũng chẳng hy vọng gặp lại nàng, vì tôi định cư ở Sài Gòn cả mấy chục năm nay, nếu nàng còn ở VN, có lẽ nào chúng tôi chẳng một lần gặp mặt dù tình cờ . . . Nhưng dường như những oan nghiệt cuộc đời vẫn luôn đeo đẳng, thế nên khi tôi dự định an phận thủ thường với những gì thượng đế đã an bài, khi tôi dự định chôn hẳn cái quá khứ vàng son một thời theo một nghĩa nào đó thì “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” bằng xương bằng thịt lại hiện về, bài toán đố nữa lại xuất hiện, và lần này, bài toán đố nhất định phải có lời giải đáp, và cho dù ngoài kia có là phong ba bão táp đi nữa thì tôi vẫn phải giải cho xong bài toán đố này. Tôi phải mở to mắt mà bước đi, tôi có cảm tưởng lần này mới là bài toán đố đích thực của đời tôi, nếu không giải chính xác thì chắc là có chết tôi cũng không tài nào nhắm được mắt.
AC Trần Minh Tân (73F)
Truyện cười ngắn
Nhà xác..
- Lửa đã bị dập tắt hoàn toàn! Tại tầng hầm chúng tôi cứu được 9 nạn nhân. Đã làm hồi tỉnh được 4, còn 5 người kia rất tiếc đã chết.
Viên chỉ huy nghe xong liền ngất đi. Một lúc sau, tỉnh lại ông ta mới thều thào nói:
- Chúa ơi! Dưới tầng hầm là cái nhà xác của bệnh viện mà.
Comment