Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Ngắn Vương Mộng Long

Collapse
X

Truyện Ngắn Vương Mộng Long

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Ngắn Vương Mộng Long

    BUỔI DẠY VIỆT VĂN CUỐI CÙNG
    Vương mộng Long *


    Bởi vì cái vết mổ khó lành trên lưng, nơi mảnh cối 82 ly đã lấy đi miếng xương vai trái, mà tôi có những cái nghỉ 29 ngày tái khám liên tiếp từ giữa năm tới cuối 1969. Vài tuần một lần, tôi lại quá giang tàu bay Mỹ, đi, về, Ban Mê Thuột- Pleiku thăm em gái một người bạn cùng đơn vị (cô ta sau này trở thành thân mẫu của bốn đứa con tôi).

    Những lần nghỉ 29 ngày tái khám sao mà dài và buồn tẻ lạ lùng! Loanh quanh có mấy con đường dốc ngắn ngủn trong Pleiku, đi vòng vòng riết cũng chán, tôi buồn. Tới thời điểm ấy thì tôi đã ở Pleiku tới năm thứ ba. Cuối năm 1966, tôi thuyên chuyển từ Vùng 1 tới đó rồi cứ ở lì đó, không đi. Đời lính của tôi lớn lên từ Pleiku. Pleiku chứng kiến tôi trưởng thành từ anh Thiếu úy nhóc tì mới ra trường, cho tới khi tôi là một Thiếu tá chỉ huy một đơn vị Biệt Động lừng danh của Quân đoàn 2, Tiểu đoàn 82 BĐQ/BP/Pleime.

    Thành phố Pleiku này rất nhỏ, nhà ở, quán xá sát vách nhau. Đường Hoàng Diệu, đoạn từ Khách sạn Bồng Lai tới dốc cầu Thiết giáp có ít nhất một chục nhà sẵn sàng cho phép tôi vào bếp nhà họ lục cơm nguội ăn lúc đói lòng. Năm 1969 tôi có người bạn làm thày giáo Việt văn tại ba trường trung học ở Pleiku. Anh bận nghỉ phép để cưới vợ và để vận động xin thuyên chuyển về miền xuôi. Anh khéo léo điều đình với các vị hiệu trưởng và được chấp thuận để tôi dạy dùm anh các lớp Việt văn mà anh phụ trách, mỗi lớp hai tiếng một tuần. Anh xin nghỉ ba tháng. Thế là tôi thành thày giáo trong thời gian ba lần tái khám.
    Bộ Tư LệnhQuân Đoàn II

    Thuở còn đi học, tôi đã từng đi kèm tại gia, đến trường làm thày giáo. Đứng trên bục giảng cũng là một công việc đơn giản dễ chịu, không khó khăn lắm. Thời chiến tranh, có rất nhiều vị thày giáo xuất thân từ quân đội, họ hoặc biệt phái ngoại ngạch, hoặc đã giải ngũ. Không có ông giáo nào đi dạy trong tình trạng như tôi. Mùa Thu 1969, tôi tới trường bằng chiếc xe Jeep mang số 122963 có cái huy hiệu đầu cọp nhe nanh nơi bánh sơ cua. Tài xế là B1 Châu minh Đạt áo quần thẳng nếp, đậu xe một cách kỷ luật bên trái cổng trường chờ tôi suốt hơn hai tiếng đồng hồ. Tôi bận quân phục tác chiến Biệt Động Quân với cái bảng tên màu đỏ, chữ trắng, lon vàng. Tay trái tôi còn treo trước ngực bởi sợi dây băng cứu thương quàng quanh cổ.

    Những lớp tôi phụ trách gồm một lớp thuần nữ, hai lớp có nam nữ sinh học chung. Lớp nữ sinh là lớp lớn hơn. Những nữ sinh tuổi mười lăm, mười bảy, ngây thơ và nghịch ngợm. Với họ, thì ít ra có vài cô đã biết tôi lớn lên như thế nào trong cái thành phố bé xíu chật chội này. Cũng vậy, với tôi, tôi nhận ra trong lớp có đôi người đã tới ủy lạo, trao quà cho tôi trong Trại Ngoại Thương 2/Quân Y Viện Pleiku của ông Y Sĩ Trung úy Lê văn Thới sau những chiến dịch lớn như Tết Mậu Thân và Bình Tây mà tôi "có dịp" bị thương nặng.

    Những lần thăm viếng đó, các cô ngồi ở cuối giường bệnh, hát cho thương binh nghe. Lần nào cũng thế, tôi đều yêu cầu được nghe một lần (hai lần càng tốt) bài "Kiếp Nào Có Yêu Nhau" của Phạm Duy.

    Tôi nợ người hậu phương những bữa cơm thân tình, làm vơi nỗi nhớ gia đình. Tôi nợ người hậu phương tiếng hát ru trong viện quân y, làm giảm cơn đau. Tôi vui vẻ nhận lời giúp bạn đứng lớp Việt văn. Tôi nói về văn học Việt. Tôi coi đây là một dịp để đền đáp thâm tình của người hậu phương Pleiku đã dành cho tôi.

    Tôi dẫn những tâm hồn thơ ngây Việt đi vào rừng văn chương Việt, khởi đầu từ tiếng "trống tràng thành" trong Chinh Phụ Ngâm, qua Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, tới Nguyên Sa, Đinh Hùng...

    Thời gian đi dạy ngắn ngủi của tôi chắc đã để lại một kỷ niệm khá êm đềm giữa chúng tôi, thày và trò, hậu phương và tiền tuyến. Tôi cảm thấy như thế...

    Buổi dạy sau cùng của tôi rơi vào lớp nữ sinh là một kỷ niệm khó quên. Cuối giờ, em trưởng lớp bạo dạn đứng lên hỏi thày,

    -"Thày ơi! Ngày mai thày ra trận, cái gì thày sẽ mang theo trong hành trang của thày?"

    -"Thày sẽ đem theo hình ảnh đôi mắt người yêu của thày! Đôi mắt âu lo nhìn theo bóng người ra trận." Tôi mỉm cười,

    -"Bộ thày có bồ rồi hả? Sao tụi em không thấy? Bao năm nay, xe thày chỉ chở đàn ông..." Cả lớp ồ lên,

    -"Thày có bồ rồi! Người yêu của thày không ở Pleiku, cô ấy ở Ban mê Thuột." Tôi thú thực,

    Một phút im lặng nặng nề. Rồi một cô bé bạo dạn hỏi tôi thêm câu nữa,

    -"Thế thày có biết người ở lại sẽ nhớ gì đối với người ra đi hay không?"

    Tôi suy nghĩ một lúc rồi gãi đầu nhỏ giọng,

    -"Thày chịu thua! Thày không biết người ở lại nghĩ gì!"

    Hình như trước buổi học, các em đã hội ý với nhau về câu hỏi này, tôi thấy hai ba em giành nhau đứng lên, một em nhanh miệng,

    -"Nụ cười của thày! Người ở lại không quên nổi nụ cười của thày! Nụ cười của thày buồn quá!"

    Sau ngày ấy, tôi về đơn vị tiếp tục ra chiến trường. Ba mươi sáu năm sau, tôi tình cờ đọc được trên Đa Hiệu 75 lời nhắn tin của người học trò cũ của mình. Tôi thật là cảm động. Không ngờ, biển dâu thay đổi, giờ này còn người nhớ tới tên mình. Thời gian thấm thoắt, ba mươi sáu năm đi qua. Mỗi người có riêng một hành trang, mang nó suốt đời trên vai...

    Seattle, tháng 11/2005

    * Trích trong Tập San Đa Hiệu số 76


    BÊN HỒ THÁC BÀ
    (Hồi ký của Vương Mộng Long-K20)

    Một năm sau khi Miền Nam thất thủ, hàng ngàn sĩ quan QLVNCH đã bị lưu đày lao động khổ sai nơi Làng Đá, Cẩm-Nhân, đầu nguồn hồ Thác-Bà, Yên-Bái, Hoàng-Liên-Sơn.
    Sau đây là một truyện kể về đời tù nơi ấy năm 1977…
    Tháng Năm, trời không còn lạnh lắm, hoa đậu phọng đã rụng, râu bắp đã teo, nhưng mùa màng chưa thu hoạch.
    Đối với những người tù cải tạo trong trại T4 Cẩm-Nhân, thì mùa này ngày dài hơn, cơn đói cũng kéo dài hơn…
    Nơi khúc quanh con lộ đá, sát mé nước hồ Thác-Bà, có một bãi tăng gia sản xuất “cải thiện” đời sống của bộ đội thuộc Đoàn 776 Cộng-Sản.
    Vườn bắp nơi đây tốt giống, tốt nước, nên trái nào, trái nấy no tròn, mập mạp thấy phát thèm…
    Một ngày, giờ đứng bóng, có một anh tù đứng bên một đống lửa đang cháy lớn trên triền đồi; anh ta đang nướng bắp non.
    Bắp anh đang nướng là bắp ăn trộm từ cái rẫy bên hồ của cán bộ.
    Những bạn tù khác vác củi đi ngang qua khúc quanh, đều được anh ném tặng một, hai cái bắp nướng, nóng hổi, thơm ngon, ngọt lịm.
    Không ai nhìn rõ mặt anh tù vô kỷ luật đó, vì anh ta đội nón sụp tới mắt; mặt và cổ anh lại quấn một vuông khăn đen, mặc dù trời không lạnh.
    Anh ta khôn lanh đứng giữa khoảng trống, có thể quan sát tới khúc quanh rẽ vào Trại 4, đồng thời nhìn rõ cả những bóng người di chuyển nơi cổng Trại 9 bờ bên kia.
    Sau lưng anh là rừng già. Bìa rừng già có một nhà sư ẩn mình canh gác cho anh.
    Nhiều người biết nhà sư này là cựu Đại Úy Lê Thái Bình, Tuyên-Úy Phật-Giáo của Tiểu-Khu Phú-Bổn.
    Những người tù vác củi về sớm không được phép nhập trại, họ phải tập trung nơi chuồng lợn, cách trại chừng hai trăm mét chờ tới hết giờ lao động.
    Không rõ có anh “ăng-ten” nào lẻn về báo cáo gì với cán bộ trại hay không, nhưng gần một chục tay súng AK đã hộc tốc, vội vã chạy ra bờ hồ truy lùng anh tù “phá hoại”.
    Họ uổng công thôi! Tìm anh ta không được đâu! Anh “phá hoại” nhanh như cheo. Chẳng thế mà, Trung Tá Nguyễn Công Luận (K12 VB) ở tù chung Lán 11 với anh ta, đã gán cho anh ta cái biệt danh “Con Beo Trại 4″.
    Hôm đó, toán vệ binh chỉ nhìn thấy trên triền đồi, một bếp lửa lớn đang cháy hừng hực và một đống bắp chưa kịp nướng.
    Dưới chân đồi, bên con đường mòn, nằm trơ hai trái bắp nướng, vỏ còn bốc hơi. Hai trái bắp này được ném cho anh tù cải tạo tên là Nguyễn Hữu Sủng cựu Đại Úy An-Ninh Quân-Đội.
    Anh Sủng không dám lượm bắp ăn, vì anh là một tín đồ Thiên-Chúa rất ngoan đạo. Cho dù lúc đó bụng đói muốn chết, anh vẫn sợ phạm tội với Chúa.
    Toán bộ đội hăm hở lùng sục “phạm trường”. Ngón nghề của người trộm bắp quả thực là quá khéo tay. Cả trăm trái bắp non bị hái mang đi không dấu vết.
    Anh trung úy cán bộ quản giáo tên Thu giận quá, nghiến răng trèo trẹo,
    “Đúng là quân phá hoại! Ông mà tóm được mấy thằng này, ông ‘dần’ cho hộc máu!”
    Toán vệ binh đứng bên đống bắp cao nghệu bên đường, tiếc ngẩn ngơ.
    Trên không, có đám mây ngàn hững hờ chứng kiến. Bên hồ, vài con trâu trầm mình trong bùn, vẫy đuôi đuổi ruồi, mắt lừ đừ…
    Biết hỏi ai để tìm ra kẻ “phá hoại ” bây giờ?
    Mười phút sau, toán bộ đội đành rút lui về trại.
    Buổi chiều, đoàn tù vác củi theo chân nhau vào cổng dưới đôi mắt xoi mói của anh trung úy quản giáo Thu .
    Quản giáo Thu lục túi từng người kiếm cái khăn đen. Chẳng ai có cái tang vật màu đen ấy cả.
    Tối đó, cựu Đại Úy An-Ninh Quân-Đội Nguyễn Hữu Sủng lẻn vào Lán 4, ngồi cầu nguyện bên chân linh mục Khổng Tiến Giác , cựu Tuyên-Úy của Cụ Diệm. Cha Giác cũng bị giam ở trại này.
    Anh Sủng hỏi cha,
    “Cha ơi! Con đói quá! Nếu con ăn trộm một trái bắp của trại ăn cho đỡ đói thì con có phạm tội không cha?”
    Cha Giác ôn tồn,
    “Con ơi! Con là con của Chúa. Bắp cũng là của Chúa. Con ăn bắp của Chúa để cứu cái thân con của Chúa thì con có tội tình gì đâu!”
    Những ngày sau đó, trong hàng ngũ những kẻ phá hoại vườn sắn, khoai lang, rau đậu của cán bộ, có thêm hai hung thần nữa, đó là cựu Đại Úy Nguyễn Hữu Sủng và người bạn tù nằm kế bên anh, cựu Đại Úy Tuyên-Úy Tin-Lành Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Mục-Sư Võ Ngọc Thiên Lộc.
    Một năm sau (1978), tay ăn trộm bắp trốn trại lần thứ hai, lại thất bại, lại bị cùm, lại bị chuyển trại.
    Tới trại Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, bạn bè cũ gặp lại nhau, có người hỏi anh ấy rằng ngày đó cái khăn đen anh dấu đâu?
    Anh ta (BĐQ Vương Mộng Long) cười hì hì, tiết lộ rằng anh đã dắt cái khăn đen dưới mái chuồng trâu nhà một người dân Tày, dưới chân dốc Ngàn, ngoài cổng trại.
    Anh chỉ lấy khăn ra khi hành nghề ăn trộm, cứu giúp bạn tù đang đói.
    Xong việc, anh lại dấu cái khăn vào nơi cũ.
    Khi đi trốn trại lần thứ hai, vội quá, anh không kịp đem cái khăn theo.
    Không rõ mấy chục năm qua, cái khăn đen có còn nằm dưới mái chuồng trâu nhà Tày nơi cuối dốc Ngàn hay không?
    Nhưng chắc chắn cái khăn đen đó vẫn chưa quên người, vì người vẫn còn nhớ khăn…

    Vương Mộng Long
    Seattle, WA- USA
    Last edited by nguyenphuong; 06-09-2014, 10:18 AM.

  • #2
    Xin phép post bài cùng tác giả.

    Mùa Xuân,Quê Hương & Khói Súng

    Vương Mộng Long, K20

    Mấy hôm nay tuyết bắt đầu rơi, mùa Ðông Bắc Mỹ đã tới. Tôi nhủ thầm, "Như thế là Xuân đang về nơi quê mẹ!"

    Ðầu năm dương lịch, tôi có một tuần được nghỉ bù cho những ngày làm việc phụ trội mùa Giáng Sinh. Tôi lên nhà con gái tôi chơi với thằng cháu ngoại Maxwell hai tuổi. Bố mẹ nó đi làm tới tối mới về. Tuổi cháu Maxwell bây giờ bằng tuổi mẹ nó ngày ông ngoại nó thua trận năm xưa, ngày Sài Gòn thất thủ (tháng Tư 1975). Thằng bé bập bẹ,

    -"Ong...ong... ong ngại..."

    Tôi vuốt tóc nó. Nó toét miệng ra cười. Nụ cười của thằng bé thật là trong sáng, hồn nhiên. Mùa Xuân đời nó mới bắt đầu... Tôi ôm thằng cháu ngoại vào lòng. Bồi hồi nhớ lại những mùa Xuân đã qua trong cuộc đời mình.

    Thuở ấu thơ, Xuân về, tôi chỉ thấy buồn nhiều hơn vui vì tôi là một đứa trẻ mồ côi cha khi chưa đầy sáu tuổi. Tuổi hai mươi, tôi vào Trường Võ Bị. Ra trường, tôi lặn ngụp trong chiến trận mười năm, tiếp theo là mười ba năm khổ nhục trong lao tù cộng sản. Giờ đây tôi đang bước sang năm thứ mười ba của kiếp sống tha phương nơi đất lạ quê người.

    Tới mùa Xuân này là chẵn 40 năm kể từ hôm tôi giã từ trường mẹ. Tới mùa Xuân này là chẵn 40 năm sau ngày tôi tham dự trận đánh lớn đầu tiên. Trận đánh này tôi xem như bài khảo hạch thực tế quá khắt khe và quá phũ phàng đối với một sĩ quan trẻ vừa rời quân trường. Nó đã ghi sâu trong lòng tôi một kỷ niệm rất buồn, khó quên. Nó cũng là một bài học quý giá giúp tôi thành công những năm sau, trên cương vị một người chỉ huy, sống và chiến đấu sát vai với thuộc cấp của mình.

    Mồng mười Tết năm Bính Ngọ (1966), tôi mãn phép ra trường. Vài ngày sau đó tôi trình diện Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, CHT/BÐQ/QLVNCH. Chuẩn tướng bắt tay tôi, chúc cho tôi một đời binh nghiệp thành công.

    Lòng phơi phới, hân hoan tôi rời Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Sài Gòn với cái sự vụ lệnh bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11/BÐQ đồn trú ở Phú Lộc, Ðà Nẵng. Ðoạn đường ngắn ngủi từ Ban Ðại Diện Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 1 ở gần cầu Trịnh Minh Thế, tới hậu cứ Tiểu Ðoàn 11/BÐQ ở xã Hoà Khánh ngoại ô Ðà Nẵng, cũng chiếm vài ngày vì thủ tục giấy tờ nhiêu khê.

    Thiếu Úy Nguyễn Giáp (K2 Ðồng Ðế) sĩ quan quân số tiểu đoàn nói với tôi rằng ông đại úy tiểu đoàn trưởng đang hành quân ở Hội An. Tôi có thể đi tìm ông ta bằng phương tiện tự túc.

    Hạ tuần tháng giêng âm lịch, hơi hướm Tết còn vương. Vào Xuân, đường phố Hội An rực rỡ. Những đóa hoa mai nở vàng sau vườn. Trong nắng ấm, phấp phới những tà áo màu sặc sỡ. Những câu đối đỏ còn đong đưa trên nêu tre trong phố cổ. Phố hẹp, người đông, người dân Hội An đang sống trong một không khí thanh bình tạm bợ. Khói lửa chiến tranh vẫn ngùn ngụt nơi vùng quê. Từ ngoại ô, tiếng đại bác vẫn ì ầm vọng về...

    Khoảng 10 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1966, tôi rời nhà lên phố tìm ông tiểu đoàn trưởng để trình diện. Từ chùa Âm-Bổn, tôi thả bộ theo đường Nguyễn Duy Hiệu, vừa đi vừa ngắm cảnh phố phường. Khi tôi tới cổng trường trung học Diên-Hồng thì sau lưng tôi có một chiếc GMC từ hướng Ðế Võng chạy lên.

    Tôi thấy trên xe có cái quan tài phủ quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi dừng lại, đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt người chiến sĩ vừa tử trận. Bốn anh Biệt Ðộng Quân hộ tống xe tang thấy tôi đi bộ dưới đường, họ giơ tay chào.

    - "Ai đó mấy chú?" Tôi hỏi với theo.

    -"Thiếu Úy Gia, Thiếu Úy Gia Ðại Ðội 2 đó Thiếu úy!" Một anh lính nghẹn ngào.

    Tôi chột dạ, hỏi thêm,

    - "Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Gia K19 Ðà Lạt phải không?"

    - "Dạ phải!"

    Tim tôi nhoi nhói đau. Tôi đứng lặng nhìn theo chiếc GMC chạy về hướng chợ. Chiếc xe từ từ lăn bánh giữa hai hàng cây xanh. Những cành phượng vỹ mềm mại vướng vào mui xe, quệt trên lá cờ vàng ba sọc đỏ, như níu, như kéo. Khi chiếc xe đi qua, những chùm lá bật qua, bật lại trông như những cánh tay vẫy chào biệt ly...

    Tới đầu chợ Hội An, tôi gặp một toán quân nhân TÐ11/BÐQ đang tụ tập chờ xe đón về đơn vị. Tôi hỏi thăm họ nơi nào ông tiểu đoàn trưởng đóng quân, thì họ nói ông Ðại úy ngày nào cũng loanh quanh ở mấy quán cà phê đâu đó gần chùa Cầu.

    Tôi tìm được Ðại úy tiểu đoàn trưởng trước cửa tiệm chụp ảnh Huỳnh Sỏ. Ông Ðại úy và "đoàn xây lối khố" của ông đang ngồi xẹp, tán dóc giữa đường Nguyễn Thái Học. Ông không cần đọc cái sự vụ lệnh của tôi. Ông nheo mắt quan sát tôi một phút rồi phán,

    - "Còn sữa quá! Làm Ban Ba Tiểu Ðoàn!"

    Tôi đứng nghiêm. Nhìn thẳng vào mặt ông tiểu đoàn trưởng, tôi dõng dạc,

    - "Thưa Ðại úy, tôi muốn ra đại đội tác chiến."

    Ông tiểu đoàn trưởng nhìn sững tôi một giây, rồi phá lên cười,

    - "Ð.M.! Chứ Ban Ba Tiểu Ðoàn không tác chiến sao? Oui! Toa về Ðại Ðội 3 thay Thiếu Úy Vinh. Thằng Vinh lên làm Ban Ba."

    Khi nói chuyện, Ðại Úy Nguyễn Thừa Dzu, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ11/BÐQ thường chêm tiếng Tây (sau này tôi biết ông xuất thân từ quân đội Tây).

    Xế trưa hôm đó, tôi quá giang xe đò tới xã Thanh Quýt, quận Ðiện Bàn, để giữ chức Ðại Ðội Phó kiêm Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1/Ðại Ðội 3/ Tiểu Ðoàn 11/Biệt Ðộng Quân. Sĩ quan Ðại Ðội Trưởng 3/11/BÐQ là Trung Úy Lê Bá Ngọ (K12 Thủ Ðức) đi chơi vắng. Người tiếp tôi là Chuẩn Úy Nguyễn Văn Vinh, sĩ quan trực đại đội, anh cũng là người sẽ bàn giao Trung Ðội 1/3/11 BÐQ cho tôi. Khi bàn giao trung đội cho tôi, Vinh cười,

    - "Sao mày ngu quá? Làm ban ba có xe Jeep lại không chịu. Chịu làm trung đội trưởng, để đi bộ."

    Chuẩn Úy Nguyễn Văn Vinh là con bác Bạo, y tá của bệnh viện Hội An. Anh Vinh là bạn học cùng lớp trung học với tôi. Vinh đi khóa 17 Thủ Ðức. Khóa 17 Thủ Ðức nhập trường sau khóa 20 Võ Bị hai ngày, ra trường trước khóa 20 Võ Bị một năm.

    Ngày tiếp nhận sự vụ lệnh của tôi, Thiếu Úy Giáp có cho tôi biết khóa 20 Võ Bị có ba người được bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11/BÐQ nhưng chỉ có mình tôi tới đơn vị đúng ngày, còn hai người kia chưa thấy đâu.

    Hồi đó tôi còn thư sinh, trắng trẻo lắm, binh sĩ trong đơn vị cứ lầm tôi với Thiếu Úy Thiều, cấp chỉ huy cũ của họ. Tôi thấy họ tỏ ra rất tin tưởng, vâng lời và thương yêu những sĩ quan xuất thân từ Ðà Lạt.

    Ðã có nhiều niên trưởng của tôi phục vụ đơn vị này trước khi tôi ra trường. Nhưng cùng với đà khốc liệt của chiến trường tăng nhanh, sĩ quan Ðà Lạt ở Tiểu Ðoàn 11/BÐQ cũng hao hụt nhanh. Trừ Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Giám K19 còn sống sót, nhưng đang là thương binh loại 2, những niên trưởng khác của tôi đều tử trận cả rồi. Thiếu Úy Hồng Dũ Thiều (K19) và Trung Úy Hùng (K18) chết trong trận Việt An, Quảng Ngãi khi tôi đang tập dượt lễ mãn khóa K20 TVBQGVN. Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Gia (K19) chết ở Cẩm Kim, Hội An, ngày tôi trình diện tiểu đoàn. Vì thế đầu Xuân 1966, ở TÐ/11/BÐQ, nhìn tới, ngó lui, chỉ có một bông mai vàng Ðà Lạt cô đơn, đó là tôi.

    Thời gian này Quân Ðoàn I đang trong chiến dịch "Hỏa Tuyến Vùng Lên". Ðơn vị tôi thường xuyên đi hành quân tảo thanh quanh thị xã Hội An và vùng ven biển Quảng Nam.

    Tôi là cựu học sinh trung học Trần Quý Cáp. Tôi không lạ gì hai con chó đá và hai con khỉ đá chùa Cầu. Tôi cũng rất quen những địa danh Cẩm Kim, Xuyên Quang, Phước Trạch, Thu Bồn, Cửa Ðợi, Câu Lâu v.v... Mỗi khi hành quân về, đại đội tôi lại đóng quân ở nghĩa trang Triều Châu, gần miếu Ông Cọp, ngoại ô thị xã Hội An. Căn lều của ban chỉ huy Trung Ðội 1 dựng gần mộ nhạc sĩ La Hối, tác giả bài "Xuân và Tuổi Trẻ". Ông La Hối là người của thành phố Fai-Foo (tên xưa của Hội An). Căn lều ấy chứa năm thày trò chúng tôi gồm có tôi, Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho trung đội trưởng, Binh Nhất Lý Thí, người mang đồ ngủ, lều chõng cho trung đội trưởng, Binh Nhất Mai Ðăng Vinh, hiệu thính viên của Trung Ðội 1, và Hạ Sĩ nhất Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR, hỏa lực chính của Trung Ðội 1.

    Mặc dù gia đình tôi ở ngay trong phố Hội An, nhưng tôi thích sống tại đơn vị, gần gũi với những quân nhân dưới quyền. Những buổi trở trời, mưa phùn bay mênh mang trên những đụn cát xa xa, Binh Nhất Lý Thí lại mò ra đầu xóm, rinh về một đĩa lòng heo luộc và một bi-đông rượu trắng. Thày trò tôi ngồi tán dóc chuyện dưới biển, trên trời. Khi men cay đã thấm, ông Mầu và thằng Thí gân cổ, vụng về ca những câu vọng cổ chẳng đâu vào đâu, làm cho thằng Vinh lăn bò ra cười. Khi nó cười, miệng nó óng ánh hai cái răng vàng quê ơi là quê!

    Vào những chiều mưa buồn như thế, đám đàn em của tôi thường nài nỉ tôi cụng ly với họ. Sau mỗi lần tôi chịu "dzô!" một ly, thế nào họ cũng bắt tôi kể cho họ nghe một câu chuyện văn chương hay lịch sử.

    Không biết họ có hiểu ý nghĩa của những câu chuyện tôi kể, thơ tôi ngâm hay không, nhưng tôi thấy họ ngây người nghệt mặt, miệng há tròn như chữ "O", họ nhìn tôi với ánh mắt đầy cảm kích.

    -"Sĩ quan Ðà Lạt, văn võ kiêm toàn!"

    Thằng Thí chỉ biết gục gặc cái đầu, tán tụng một câu như vậy, mỗi khi tôi ngừng đọc một bài Ðường Thi, hay kết thúc một chuyện tình của Nã Phá Luân Ðại Ðế.

    Mờ sáng 22 tháng 2 năm 1966, đại đội tôi được thiết vận xa chở từ Hội An lên Vĩnh Ðiện để cùng với Ðại Ðội 1 và Ðại Ðội 4 đi giải vây cho đồn Kỳ Ngọc, Ðiện Bàn. Vì Ðại Ðội 2/11/BÐQ của Trung Úy Tôn Thất Trực (K10 Thủ Ðức) đang tăng cường cho chi khu Quế Sơn, nên Tiểu Ðoàn 11/BÐQ chỉ tham chiến với ba đại đội.

    Thế là chỉ mười hai ngày sau khi đáo nhậm đơn vị, tôi có dịp nếm mùi "Công Ðồn Ðả Viện".

    Vừa rời ngã ba Quốc Lộ 1 được một đỗi, đơn vị tôi bị khựng lại vì đoàn người chạy loạn ngược chiều cản đường. Ðồng bào bồng bế dắt díu nhau ùn ùn dồn về thị trấn Vĩnh Ðiện để lánh nạn chiến tranh. Gần tới tháp Bằng An, tôi gặp Trung Úy Nguyễn Ngại, đại đội trưởng đơn vị Ðịa Phương Quân phụ trách vùng tây Vĩnh Ðiện. Trung Úy Ngại xin gặp Trung Úy Ngọ. Hai ông đại đội trưởng trao đổi tin tức cùng nhau vài phút. Sau đó tôi được lệnh khai triển đội hình một hàng dọc theo lộ tiến về hướng tây.

    Trung Ðội 1/ÐÐ3/TÐ11/BÐQ do tôi dẫn đầu vừa qua khỏi tháp Bằng An thì đàng sau có tin báo trung úy đại đội trưởng bị đạn dính vào cẳng. Ông đã được đưa lên xe tản thương cấp tốc. Anh hiệu thính viên đại đội chạy hộc tốc từ hậu quân lên tìm tôi để đưa cái ống liên hợp máy PRC10 cho tôi,

    - "Thiếu úy! Ðại Bàng muốn nói chuyện với Thiếu úy!"

    Ðây là lần đầu trong đời lính, tôi có dịp đàm thoại với "Ðại Bàng" trên máy PRC10. Trận này chỉ có một "Ðại Bàng" Mũ Nâu, Nguyễn Thừa Dzu. Còn "Ðại Bàng" Mũ Ðen Nguyễn Văn Của, chi đoàn trưởng thiết kỵ thì vắng mặt.

    Buổi ấy là thời cực thịnh của những danh xưng truyền tin dữ dằn, đầy hơi hướm giang hồ hảo hớn như "Sơn Vương", "Phi Hổ" ,"Mãnh Sư", "Ðại Bàng"...

    Mãi về sau, khi bọn thư sinh hào hoa may mắn sống sót, ngoi lên được những vị trí chỉ huy chiến trận, thì tên của những nữ minh tinh, ca sĩ thủ đô mới được trực thăng vận ra chiến trường. Bất cứ chốn nào có súng nổ, đạn bay thì các nàng Thái Thanh, Kiều Chinh, Phương Dung, Hoàng Oanh, Thanh Thúy... lại gọi nhau ơi ới.

    Ông đại úy tiểu đoàn trưởng cho lệnh tôi đảm đương chức vụ Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 3/TÐ11/BÐQ vì đại đội tôi chỉ còn hai sĩ quan là tôi và Chuẩn Úy Ðạt (K18 Thủ Ðức).

    Từ phút đó, trên máy truyền tin, tôi không còn là "Giới Chức 1" nữa mà tôi được quyền xưng danh là "Thẩm Quyền 3".

    -"Ðại Bàng! Ðây Thẩm Quyền 3 tôi nghe 5!"

    Tôi chưa ổn định được đội hình đại đội thì đại úy đã thúc hối,

    -"Ð.M! A lê! Tiến lên cho kịp mấy con cua sắt! Ð.M! Cứ lù đù như gà mắc dây thun thì đến tối cũng chưa tới mục tiêu!"

    Quả thực từ lúc khởi hành cho tới giờ đó, tôi có biết mục tiêu ở chỗ nào đâu! Trung úy ra đi không để lại một lời! Ðại Úy ở chỗ nào tôi cũng chẳng hay! Tôi chỉ nghe được tiếng nói của người trên máy. Tôi định xin đại úy chỉ cho tôi mục tiêu ở chỗ nào, và nhiệm vụ của đại đội tôi làm gì, nhưng tôi lại sợ đại úy nổi giận!

    Thấy đoàn M113 đang hàng dọc bò chầm chậm theo con lộ, tôi vội vàng ra lệnh cho quân mình dàn hàng ngang hai bên đường tiến lên phía trước đoàn xe. Những tia nắng mai bắt đầu lóng lánh trên mặt nước đồng chiêm. Nếu không có những tiếng động cơ M113 rú lên từng chặp trên con đường đá giăm gập ghềnh, thì toàn vùng đồng không mông quạnh này sẽ im ắng như tờ. Không cả tiếng chó sủa, mèo kêu.

    Tôi cảm thấy lạnh lưng, rùng mình trước cái im lặng ghê rợn ấy. Tôi sử dụng đội hình "Tam Giác Mũi Trước"; ban chỉ huy đại đội đi sau Trung Ðội 2 bên trái đội hình. Tôi cẩn thận cho một toán tiền thám ba người đi dò đường một đoạn khá xa phía trước. Khi chúng tôi đến gần một con dốc nơi có cái miếu thổ địa bên đường, thì anh trưởng toán tiền thám là Binh Nhất Trần Quy chạy ngược lại, hớt hải,

    - "Hướng nam con lộ có rất nhiều người cài lá ngụy trang đang di chuyển ngược chiều quân bạn!"

    Tôi cho lệnh đại đội ngừng lại bố trí sẵn sàng. Tôi báo cáo sự việc cho Ðại Bàng. Ông Ðại úy cằn nhằn,

    -"Ð.M! Toa cứ theo mấy con cua! Nó ngừng, toa ngừng. Nó tiến, toa tiến. Ðừng có lôi thôi!"

    Tôi thận trọng tiến lên cùng toán tiền sát để thăm dò tình hình. Tôi đã thấy những cành lá ngụy trang đang di chuyển từ tây sang đông. Chúng ẩn hiện sau những bờ đất hướng nam con lộ. Tôi ra dấu cho Chuẩn Úy Ðạt (Trung Ðội 3) và Thượng Sĩ Nhất Huỳnh (Trung Ðội 2) sẵn sàng chiến đấu.

    Thế rồi..."Ðùng!Ðùng! Oàng! Oàng! Chiu... chíu!" mìn nổ, đạn bay... địch khai hỏa!

    Ðạn địch, trung liên, đại liên, AK47 từ trên dốc và khu ruộng khô bên trái lộ bắn xối xả về hướng đại đội tôi và đoàn xe sau lưng tôi.

    Mới mở màn mà trận này đã có vẻ sẽ là một trận lớn! Cũng may, địch đang vận động lực lượng, mà chưa sẵn sàng! Tôi vào trận không đến nỗi bất ngờ lắm vì tôi đã kịp thời thấy rõ tuyến dàn quân của địch. Tôi biết mình phải làm gì khi bị rơi vào một tuyến phục kích. Lần đầu chạm địch với cương vị một đại đội trưởng, tôi cảm thấy hơi khớp. Nhưng những con mắt thuộc cấp nhìn tôi đầy tin tưởng đã khiến tôi vững tâm hơn. Tôi nhủ thầm,

    - "Ta là Ðà Lạt! Ta là một cấp chỉ huy!"

    Tôi la lớn,

    - "Phục kích bên trái đường! Hai bên trái, Ba bên phải, xung phong!"

    Những người lính già còn sót lại từ thời Chiến Tranh Ðông-Dương (1945-1954) như Thượng Sĩ nhất Huỳnh và Hạ Sĩ Mầu đã chứng tỏ sự lợi hại của họ trong những tình huống hiểm nghèo như thế này! Ông Huỳnh và ông Mầu cùng hô to,

    - "Xung phong bên trái!"

    Nhưng ông Mầu thì kẹp khẩu trung liên BAR vừa bắn, vừa tiến lên trước mở đường, miệng ông oang oang,

    - "Theo tui! Theo tui! Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!"

    Còn Thượng Sĩ Huỳnh thì xoay ngang khẩu carbine ngáng sau lưng những anh lính trẻ đang bàng hoàng chần chừ, để đẩy họ chạy lên xung phong. Ông hạ sĩ quan già không ngần ngại xách cổ áo, đá đít những BÐQ nhát gan đang nằm úp mặt núp mình bên vệ đường. Ông lùa họ chạy theo đồng đội. Thoáng chốc, trên cánh đồng mênh mông, từng cụm khói bốc cao. Tiếng súng đã vang rền, hòa cùng những tiếng thét "Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng!Sát!..." kinh hoàng.

    Tôi cùng Trung Ðội 2 vừa kiểm soát xong khu gò đất hướng nam và cái miếu thổ địa thì Trung Ðội 3 của Chuẩn Úy Ðạt cũng hoàn tất nhiệm vụ làm chủ con dốc hướng tây. Sau đó, tôi xua quân nhanh chân chạy lên chiếm giữ khoảng bờ đất cao tới ngực phân chia hai vùng ruộng khô và ruộng nước.

    Thế là, chỉ vài phút sau, chúng tôi đã có một địa thế vô cùng thuận lợi để chiến đấu. Ðoàn xe M113 vừa qua khỏi giai đoạn lúng túng ban đầu, cũng đã bình tĩnh trở lại. Họ xoay thành hình cánh cung sau lưng chúng tôi. Họ bắt đầu tác xạ tiếp tay cho Biệt Ðộng Quân.

    Nép mình sau miếu thổ thần, tôi nhận định trận địa. Khu ruộng thấp trồng lúa trải dài, cặp hai bên con lộ, theo hướng đông, tây. Ruộng cao chạy song song với ruộng nước từ chân tháp Bằng An tới ga Kỳ Lam. Khu ruộng cao trồng đậu phọng, khoai lang, hoặc thuốc lá. Hết ruộng cao, xa về hướng nam, là khu nhà dân với vườn phi lao và bãi mía um tùm. Ðầu xóm là ngôi trường học cũ. Tường bao quanh trường, chỗ còn, chỗ sập. Từ bờ rào ngôi trường và khu rừng phi lao, đạn địch đủ loại bắn ra đường tới tấp như mưa.

    Từ tuyến dàn quân, chúng tôi dồn hoả lực cắt ngang trục tiến quân của địch. Ðịch đang chuyển quân từ hướng tây qua hướng đông trường học để đánh bọc sườn nam của lực lượng bạn. Trước mắt tôi, những cán binh VC di chuyển thật lộ liễu nơi khoảng trống giữa hai bức tường đổ.

    Hồi còn học trong trường Võ Bị, tôi cũng được lãnh bằng thiện xạ. Hôm tôi đeo cái bằng đó trên túi áo vào chợ Ðà Lạt, chị Chúc vừa nhìn thấy nó đã khen ngay,

    - "Thằng em của chị bắn giỏi quá nhỉ?"

    Tôi vênh mặt lên, cứ tưởng mình là tay súng bá vàng John Wayne.

    (Chị Chúc bán tạp hóa trong chợ Ðà Lạt. Chị thương chúng tôi lắm. Chị có rất nhiều em là SVSQ. Ðứa em nào cũng có tên trong sổ nợ của chị.)

    Thực ra, tôi bắn Garant không giỏi lắm đâu! Khóa tôi còn khối người có bằng thiện xạ! Khi chạm trận, tôi mới phát huy được những gì thày Khuê, thày Cung, thày Thạch đã dạy cho.

    Thấy mục tiêu di động ngon quá, tôi giành khẩu Garant M1 trên tay Binh Nhì Nguyễn Truyền. Chú Truyền thành người nạp đạn cho tôi. Tôi điều chỉnh đường ngắm: từ lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi tới... đầu thằng Việt Cộng. Mục tiêu đang đi ngời ngời trước mắt.

    Giờ này là lúc tôi chứng tỏ bản lãnh của một SVSQ có bằng thiện xạ! Xạ trường nằm giữa hai bức tường đổ. Những cái bia sống cài lá ngụy trang, di chuyển chậm chạp hơn những cái bia "B" ở Trường Sình Lầy Dục Mỹ. Bờ đất cao tới ngực tôi là chỗ tì tay. Kẹp đạn sáu viên nạp đạn.

    "Thế bắn đứng có tì, thủ thế!"

    Một thằng giặc gục, thằng thứ hai, thằng thứ ba... mỗi viên một đứa. Cứ sáu tên, một kẹp đạn.

    "Coong!" kẹp đạn rỗng văng ra khỏi buồng đạn. Binh Nhì Truyền lại vội trao cho "Thiếu úy Sữa" kẹp đạn khác.

    Không có hiệu lệnh, "Bên trái sẵn sàng! Bên phải sẵn sàng!" của sĩ quan giám xạ, thày trò tôi mạnh ai nấy bắn. Tiếng đại liên 30 của ban chỉ huy đại đội hòa tấu với tiếng trung liên BAR của ba trung đội. Góp vui là những trái cối 60 ly và những quả phóng lựu từ súng Garant M1.

    Thời này, vũ khí của BÐQ còn hủ lậu lắm, đi sau vũ khí địch một bước khá dài. Lựu đạn M26 còn rất hiếm hoi, mỗi khi trang bị cho ai, tôi phải đắn đo. Lựu đạn có khía, loại MK2 có tuổi đời già hơn tuổi tôi thì ê hề! Bao nhiêu cũng có! MK2 vừa nặng, vừa chậm nổ so với M26. Hình dạng nó cũng... xấu xí hơn.

    Chúng tôi có đủ loại súng. Trẻ nhất là khẩu carbine M2. Cổ lỗ già nua nhất là khẩu Thompson 45. Có lúc nòng súng Thompson nóng quá, đạn không thèm bay, mà rơi ngay trước mặt xạ thủ.

    Tiền quân của địch đã quấy động được phần đuôi của lực lượng hành quân, nơi Ðại Ðội 1 của Thiếu Úy Lý Phát Tân (Thủ Ðức) đang bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn. Chú Binh nhất hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh giao cái ống liên hợp cho tôi. Trong máy, ông Ðại úy ra lệnh,

    - "Toa nhào lên bẻ cổ con gà mổ nhanh cho moa!"

    Tôi ớ ra chẳng biết "con gà mổ nhanh" là cái gì.

    Ðại úy lại hối,

    -"Ð.M! Tao bảo nhào lên! Bất cứ giá nào! A lê! vít! vít!"

    Tôi hỏi Vinh,

    - "Con gà mổ nhanh là cái gì vậy, Vinh?"

    - "Dạ, con gà mổ nhanh là khẩu 'đum đum' đó Thiếu úy!"

    Tôi đoán khẩu "đum đum" chắc là khẩu 12,7 ly?

    Rõ khổ! Trong trường, tôi đã học ám danh đàm thoại nhuần nhuyễn hai năm ròng, mà đến khi hữu sự lại cứ như thằng ngố! Ám danh đàm thoại ở ngoài đơn vị quả là ngộ!

    Nhận lệnh, tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt lại dặn dò anh bảo vệ hông phải và phía sau đại đội. Tôi để lại cho Trung Ðội 3 của Ðạt khẩu cối 60 ly và khẩu đại liên 30. Tôi cùng hai Trung Ðội 1 và 2 xung phong lên mục tiêu.

    Tiếng kèn xung phong của bộ chỉ huy tiểu đoàn từ rặng tre ngoài đường phía sau xa, vọng tới nghe đứt quãng. Có lẽ anh Ngữ, lính kèn, bị đạn VC bắn dữ quá nên không kịp hít hơi cho đầy phổi để thổi kèn cũng nên?

    Tiếng kèn cứ "Pèm pẹp! Pèm pẹp!" như tiếng kèn xe ngựa đi, về, giữa chợ Ðà Lạt và ấp Thái Phiên. Giờ này, sao tôi thấy thèm tiếng kèn xung phong của anh lính "cà" trường tôi quá đi!

    "Te... te tí! te tò! tò! tò... te tí!...tí! tí! tí!...tí! ...tí..."

    Tiếng kèn làm người nghe lạnh gáy. Tiếng kèn ấy đã khiến khẩu trung liên BAR trên tay tôi nhẹ hẳn đi, khi tôi xung phong lên đồi 1441 sau miếu Thần Hổ, dưới chân núi Lap-Bé-Nord, Ðà-Lạt.

    Tôi xung phong nhanh đến nỗi anh tải đạn Nguyễn Văn Cơ (cùng là SVSQ Trung Ðội 6/Ðại Ðội B với tôi) phải vứt cả thùng đạn xuống đường mà theo chân tôi vẫn không kịp.

    Tiếng kèn thúc quân ma quái ấy thúc đít chúng tôi tiến ào ào lên đồi thông để tiêu diệt ổ đại liên... mã tử của mấy anh lính "cà" giả địch.

    - "Khói súng và kèn, còi xung phong cũng chiếm một phần quan trọng trong các cuộc hành quân"

    Lời thầy Nguyễn Cửu Nhồng mới từ mặt trận Quân Khu 1 trở về trường (1965) làm phụ tá huấn luyện viên chiến thuật. Thầy nói rất đúng!

    Khoảng trống 200 mét đồng cao trồng đậu phọng và khoai lang từ bìa ruộng nước tới bìa làng quả là đáng sợ. Chẳng có sách vở nào dạy rằng tuyến xung phong lại cách xa mục tiêu tới mấy trăm mét. Không đào đâu ra một điểm che dấu cho tôi tiến quân từ bờ ruộng tới khu xóm nhà có cái trường học, và khẩu đại liên 12,7 ly. Khẩu 12,7 ly này không bắn đạn mã tử!

    Trời nắng, đồng trống. Mặt ruộng bằng phẳng, lác đác đó đây có vài cái mả, trên mặt mả trồng dây lang. Ðạn địch đan lưới trước mặt. Ðạn cày đất bụi mịt mù. Mấy người lính có đạo làm dấu thánh giá. Những khuôn mặt đanh lại. Những đôi mắt rực lên, long lanh. Họ nhìn tôi chờ đợi. Tôi sực nhớ bài thực tập phản phục kích vừa học xong tháng trước trên đồi Rọ Tượng, Dục Mỹ trong Khóa 23 Rừng Núi Sinh Lầy mà tôi đóng vai đại đội trưởng. Tôi xin BCH/TÐ cho pháo binh đánh bốn trái khói ngay trên cái trường học. Ông tiểu đoàn trưởng lấy làm lạ tại sao tôi xin tới bốn trái khói thay vì chỉ cần một trái thôi? Ông chỉ thuận cho tôi một trái.

    Tôi nài nỉ anh đề-lô, hắn cũng người Hội An, đi khóa 10 Thủ-Ðức, vì tình riêng, anh ta cho tôi bốn trái. Chờ cho màn khói vừa phủ mục tiêu, tôi đứng dậy, leo lên trên một gò mả, mặt hướng về phía địch, tay trái phất cao, tay phải kẹp khẩu carbine M2, bóp cò. Miệng tôi hét lớn,

    - "Xung phong! Xung phong!"

    Tiếng súng carbine lẹp bẹp khiêm nhường, nghe thật lép vế so với tiếng trung liên, đại liên, và bazooka 57 ly của VC. Tiếng súng lệnh của tôi loãng nhanh trong tiếng 106 ly trên M113 của ta, và tiếng đại bác 105 ly, 155 ly của Mỹ đang nổ đùng đùng tứ phía.

    Nhưng những chiến sĩ dưới quyền tôi chỉ chờ có thế. Thấy tôi đứng hiên ngang hô xung phong, họ hăng hái hẳn lên. Họ bắn. Họ la hét. Họ ném lựu đạn. Họ chạy ào ào trên ruộng khô. Họ tràn lên những bờ ruộng nơi những chùm lá ngụy trang đang nhúc nhích. Họ nhào vào khu khói trắng,

    -"Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!"

    Mục tiêu trước mắt là cái trường học có khẩu phòng không cài lá ngụy trang. Khẩu phòng không đang ngóc lên ngóc xuống. Tôi cố gắng phóng lên cho ngang với những người lính tiên phong của Trung Ðội 1.

    Chạy trước tôi là Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho tôi. Chạy sau tôi là Hạ Sĩ Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR của Trung Ðội 1. Chúng tôi đã lướt qua năm sáu cái gò mả. Cả chục xác VC nằm phơi trên đó. Chúng tôi đạp đầu giặc mà tiến! Khí thế bừng bừng, chúng tôi đuổi theo quân thù đang rút chạy. Bom Mỹ đánh vùi trước mặt. Cobra, Phantom, F.5, Sky-Raider chúi xuống, ngóc lên; tiếng động cơ rú điếc tai, khói bụi mù trời.

    Tôi theo sát gót thuộc cấp. Họ biết tôi đang ở bên cạnh họ. Không ai ngoảnh cổ lại đàng sau. Anh hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh cũng móc cái ống nghe bên hông ba lô, lượm vội một khẩu AK 47 bên xác giặc, chạy theo tôi bén gót (Vinh chỉ có súng Colt 45).

    Bên trái tôi, một BÐQ la thất thanh, "Ối cha!" rồi té nằm xoài bên luống khoai. Trước mặt tôi, một BÐQ vừa trúng đạn, viên đạn đẩy anh ngã ngửa về phía sau. Người đó đội béret đỏ. Tôi thót ruột,

    - "Chắc là thằng Thí?"

    Binh Nhất Lý Thí là người đồ đệ mang đồ ngủ cho tôi. Nhưng tôi không thể ngừng lại để săn sóc cho nó. Ngừng lại là chết ngay! Tôi chỉ có một việc phải làm, bắt buộc! Ðó là vừa bắn vừa lao tới khẩu phòng không khốn kiếp!

    Tai tôi đã o... o... vì tiếng nổ của bom đạn quá gần. Tôi chỉ nhìn thấy miệng khẩu phòng không chớp chớp, phà khói trắng. Một trái lựu đạn hất khẩu 12,7 ly lăn quay. Chúng tôi tràn vào sân trường học. Những chiếc nón cối cài lá xanh vỡ toang. Óc người văng trên mặt sân, thoáng chốc đã trở màu ngà ngà như đậu hũ pha tương ớt. Một tràng AK quét sát hông tôi, làm tung bức tường vôi lớp học trước mặt tôi. Từ dãy lớp hướng tây, một tên địch đã nhắm bắn tôi nhưng không trúng. Hạ sĩ Mầu ria một tràng trung liên BAR vào nơi phát ra tiếng súng. Tiếp theo là hai quả M26. Có nhiều tiếng rên la thảm thiết đồng loạt trong căn phòng đó. Ông Mầu bóp cò tiếp khẩu trung liên BAR. Chú Phong bồi một quả M26 nữa. Căn phòng đổ sụp. Phong nhanh như con sóc, chỉ ba bước nhảy, chú đã tới bên lớp học. Chú bắn cạn ba mươi viên carbine M2 rồi lăn sang núp sau một cây rơm. Phong vội vàng trở đầu băng đạn đôi. (Hai băng đạn nối ngược chiều nhau bằng băng keo. Mỗi lần nhồi đạn, có sáu chục viên sẵn sàng).

    Căn lớp vừa đổ là nơi chứa thương binh của địch. Có khoảng trên dưới hai mươi thương binh địch trong căn nhà đó. Chúng vừa chết hết. Nơi góc nhà có mười mấy khẩu súng, vừa B40, vừa AK. Những cục cơm vắt văng trên nền gạch. Máu đỏ thấm ướt những hạt cơm vãi tung toé đó đây...

    Khi Hạ Sĩ Phong bận thay băng đạn khác thì B1 Vinh ngồi thủ thế khẩu AK 47 bảo vệ an ninh cho bạn. Nghe có tiếng đại úy lè xè trong máy, tôi gỡ cái ống liên hợp, áp nó vào tai. Tôi nghe đại úy giận dữ,

    - "Ð.M! Anh là Ðà Lạt! Anh không lên, tôi lột lon anh!"

    Nản quá, tôi không muốn nói chuyện với đại úy. Tôi đưa ống nghe cho Vinh,

    - "Em báo cho ổng biết rằng mình đang lục soát cái trường học."

    Vinh nhìn tôi áy náy,

    - "Cứ chạm trận là đại úy lại Ð.M! Ð.M! Thiếu úy đừng để bụng làm gì cho mệt!"

    Tôi bố quân theo hình chữ L. Trung Ðội 1 giữ mặt nam, Trung Ðội 2 giữ mặt tây trường học. Tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt và Trung Ðội 3 của anh tiến lên. Trên đường, Trung Ðội 3 có nhiệm vụ thu nhặt chiến lợi phẩm, chuyển những người bị thương và chết ra đường. Bãi cỏ có cái miếu thổ địa bên đường đã thành nơi tập trung thương binh và chiến lợi phẩm của đại đội tôi. Tôi giao cho Trung Sĩ Vũ, y tá đại đội chỉ huy cái trạm này. Trung sĩ Vũ báo cho tôi biết, tính tới giờ đó, trạm cứu thương của anh có hai chục áo vàng (bị thương) và năm áo đỏ (chết). Tôi hỏi Vũ về tình trạng của Binh Nhất Lý Thí. Vũ nghẹn giọng,

    - "Thằng Thí mặc áo đỏ rồi! Thẩm Quyền ơi!"

    Tôi lặng người, cúp máy, không hỏi thêm. Mới chiều hôm trước, khi chiếc xe Dodge của tôi từ phố về ngang miếu Ông Cọp, Hội An, thì Binh Nhất Lý Thí (quê quán Miếu Bông), đang đứng chờ tôi trước cửa quán cháo lòng. Tôi nhận ra nó ngay. Lúc nào nó cũng đội cái béret đỏ chói. Nó chận đầu xe tôi lại.

    Giọng nó lè nhè hơi men,

    -"Thiếu úy ơi! Vào đây cụng với em một ly! Ngày mai ra trận. Biết đâu em không về!"

    Tôi đã đậu xe dưới gốc cây đa bên cạnh miếu Ông Cọp. Tôi đã "dzô!" với đồ đệ của mình một ly. Lúc ấy tôi không hề nghĩ tới chuyện ngày mai nó không về. Bởi vì chiều qua, từ phòng 3 Tiểu Khu Quảng Nam ra, trên tay tôi có cái phóng đồ hành quân tùng thiết vùng ven biển Phước Trạch, Cửa Ðợi. Cuộc hành quân đó dự trù sáng đi, chiều về. Tôi nói với Thí rằng, sáng mai em không cần mang theo đồ ngủ cho anh. Chúng mình sẽ chỉ sáng đi... chiều về!

    Tôi không ngờ hỏa châu rơi suốt đêm. Mờ sáng, lệnh đổi hướng hành quân. Mờ sáng, thày trò tôi cùng ra đi. Tới chiều... đồ đệ của tôi đã không về!

    Sau khi báo cáo sơ lược thành quả vừa thu lượm được cho Trung Úy Trung, tiểu đoàn phó, tôi giao nhiệm vụ củng cố mục tiêu cho Chuẩn Úy Ðạt và ông thường vụ đại đội.

    Chiếc L.19 lướt sát nóc trường học. Chiếc đầm già lắc cánh về trái và về phải hai cái để gửi cho chúng tôi lời chúc mừng của phi công. Tôi đề nghị với sĩ quan điều không cho không yểm di chuyển xa về hướng tây nam nơi những rừng mía um tùm rậm rạp. Tôi đoán địch đang rút lui hướng đó.

    Không yểm đã di chuyển. Tôi cần pháo binh yểm trợ gần để tảo thanh khu vực hướng tây trường học. Tôi liên lạc thẳng với sĩ quan đề-lô của tiểu đoàn để đơn xin được thỏa mãn kịp thời.

    Áp dụng kinh nghiệm hiếm hoi học hỏi được từ Ðà Lạt và Dục Mỹ, tôi thực hành nghề chọi pháo. Cầm tấm bản đồ Kỳ Lam và quyển "Cẩm Nang Ða Hiệu" trên tay, tôi vững tâm đánh những quả đạn 155 ly trên từng gò mả, từng gốc đa. Tôi điều chỉnh đạn từ 100 mét, rồi 50 mét. Sau cùng, tôi dám chỉnh độ chính xác tới 20 mét trên mục tiêu. Những quả delay chui xuống hầm moi xác địch lên mặt đất.

    Những quả nổ cao chặn đầu chúng không cho chạy thoát thân về những đồi sim hướng tây. Tôi đã hoàn toàn làm chủ tình hình mặt tây nam của trận điạ.

    Tôi định cho anh em lấy cơm vắt ra ăn thì bên hướng bắc con lộ, pháo nổ ầm ầm. Thiếu Úy Bửu Chuyển (K12 Thủ Ðức) và Ðại Ðội 4 của anh đang bị địch tấn công từ hướng bắc xuống. Ðịch bám trụ bên kia cái đầm cói rộng. Cái đầm nuôi cá vuông vức, mỗi chiều cỡ hơn hai trăm thước, có bờ đất cao bao quanh. Ðầm nước nằm cách con lộ chừng ba, bốn trăm thước về hướng bắc.

    Ðại úy tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho Ðại Ðội 1 từ phía sau di chuyển thật nhanh lên trám chỗ cho đơn vị tôi. Tiếp đó, ông ra lệnh cho đại đội tôi lui ra con đường lộ để tiếp viện cho anh Chuyển. Khi tôi lội ngược ra tới đường, thì đại đội của Chuyển và những chiếc thiết quân vận đang bám sát bìa đường chịu trận những đợt pháo ào ào của địch. Vừa gặp nhau, Thiếu Úy Bửu Chuyển đã dúi vội vào tay tôi tấm bản đồ có vẽ sẵn sơ đồ mục tiêu và ranh giới hành quân của tiểu đoàn. Tấm bản đồ tôi đang dùng là của cấp trung đội, không có những chi tiết trên. Anh Chuyển cầm tay tôi ân cần,

    - "Cẩn thận nghe em!"

    Rồi anh hối hả lui quân vì đại úy đã ra lệnh cho anh rút về bảo vệ bộ chỉ huy. Ðại Ðội 4 chưa đi hết, đại úy đã ra lệnh cho tôi cùng một thành phần của chi đoàn thiết quân vận đánh thẳng lên hướng bắc tiến chiếm khu gò mả và thôn xóm đằng sau đầm cá. Lệnh của Ðại úy thật rõ ràng,

    -"Thẩm Quyền 3! Ðây là Ðại Bàng! Tôi ra lệnh cho anh nhào lên thanh toán cái xóm nhà bên kia hồ cá! Nghe rõ chưa?"

    Tôi ngạc nhiên vì quyết định của ông đại úy. Tại sao ông phải chuyển Ðại Ðội 1 lên thay tôi trấn giữ khu trường học tôi vừa vất vả chiếm xong? Tại sao Ðại úy phải lôi đại đội tôi từ nam lên bắc để theo chân M113 đánh vào cái hồ cá? Anh Chuyển và Ðại Ðội 4 của anh đang ở sẵn nơi đây cùng với đoàn xe kia mà?

    Tôi im lặng thi hành lệnh, nhưng tôi biết thuộc cấp của tôi không vui... Tôi nghe tiếng máy gọi nhau oang oang từ các thiết vận xa, rồi đoàn M113 bắt đầu nhúc nhích. Chúng tôi bì bõm tiến sau lưng M113. Lúa cao tới nách tôi. Và nước thì cao tới háng tôi.

    Bên kia cái đầm nước là nơi những ổ đại liên, trung liên đang khạc lửa. Khói từ khẩu 57 ly của VC lúc thì phụt ra ở đầu xóm, lúc cuối xóm. Phải công nhận tụi xạ thủ 57 ly của VC chuyển dịch vị trí rất nhanh!

    Một chiếc M113 vừa trúng đạn! Nó bị bắn đứt xích! Chiếc xe nằm bất động giữa ruộng lúa. Viên trưởng xa và xạ thủ đại bác đang lo gỡ khẩu 106 ly để chuyển sang chiếc xe khác. Từ bờ hồ, địch cài lá ngụy trang ào ạt xông về hướng đoàn xe. Chúng tính chuyện bắt sống chiếc M113 bị thương!

    Ðạn 57 ly và B40 nổ ùng oàng tứ phía. Vũ khí chống tank của địch thật là đáng sợ! Chúng bắn nà quá khiến đoàn thiết quân vận chùn bước, phải lui về phía sau. Một chiếc M113 giật lùi để tránh B40 đã đè Hạ sĩ Nguyễn Mầu xẹp xuống bùn trong ruộng lúa. Tôi bị xe cán hụt. Tôi kéo ông Mầu từ dưới bùn lên. Tôi vội vàng vuốt bùn trên mắt cho người lính già. Tôi thấy miệng ông mấp máy. Phải ghé tai sát mặt ông tôi mới nghe được tiếng ông thều thào,

    -"Thiếu úy ơi! Em đi!'

    Máu miệng ông trào ra. Ðầu ông ngoẹo trên ruộng nước...

    Ðoàn cơ giới tụt lại đàng sau. Chúng tôi lòi ra phía trước. Ðạn rơi "chủm, chủm" trên ruộng lúa nước trước mặt. Trong lúc tôi đang phân vân không biết làm cách nào vượt qua cái đầm nước rộng, thì ống liên hợp truyền tin lại xè xè tiếng của Ðại úy,

    - "Ð.M! Nhào lên! Bộ tụi mi ngủ sao? Nhào lên!"

    Tôi phóng nhanh sang phía Trung Ðội 1, bên trái tuyến xung phong. Tôi tránh đánh trực diện với tổ hỏa lực địch. Tôi và Trung Ðội 1 của Trung Sĩ nhất Nguyễn Khê (vốn là trung đội phó của tôi) chạy thục mạng lên chiếm xóm nhà hướng tây cái đầm. Ðại Ðội trừ (-) thì nằm sát mép đường chờ tôi lập đầu cầu.

    Tôi có người bạn K17 Thủ Ðức là Chuẩn Úy Tú, chi đội trưởng của chi đoàn thiết kỵ đang tham chiến. Tôi gọi cho anh, đề nghị anh bắn tối đa vào khu nhà bên hướng bắc hồ nước để chia lửa cho tôi.

    Ðầu cầu lập xong, vài BÐQ chết và bị thương. Khi quả khói vàng bốc lên nơi đám sầu đông đầu xóm, thì Cobra can thiệp. Dưới hỏa lực yểm trợ hùng hậu của Cobra, chúng tôi ào ào chạy lên chiếm những ụ đất nơi rặng tre. Tôi ra dấu cho chi đội thiết kỵ tiến lên để quân tôi theo sau. Hai Trung Ðội 2 và 3 dàn hàng ngang cùng M113 tiến lên tiếp tay Trung Ðội 1. Ðạn bay khắp hướng. Không phân biệt được đạn của ta, hay của địch.

    Chiếc thiết quân vận của Chuẩn Úy Tú vừa đè sập một cái chuồng trâu thì hai quả B 40 bay sượt qua đuôi xe, nổ tung trong bụi chuối. Chiếc xe lùi vội ra ngoài ruộng lúa. Hai khẩu đại liên 30 và đại liên 50 trên xe bắn ào ào vào căn nhà lợp lá dừa, vách ván giữa xóm. Tôi và anh Binh Nhì Truyền nấp sau cây rơm đàng trước căn nhà lá dừa, vách ván đó. Tôi vừa ra sức ném được quả M26 qua nóc nhà để nó rơi nổ hướng sau nhà thì Truyền la to,

    -"Thiếu úy ơi! súng em kẹt đạn rồi!"

    Tôi sợ địch nghe được tiếng anh ta la hoảng, vội đưa tay bịt miệng anh lại. Cái vụ kẹt đạn thì tôi đã gặp nhiều lần trong hai năm còn thụ huấn trong trường. Khốn nỗi, khẩu Garant của Truyền không có lưỡi lê, biết lấy cái gì để cạy vỏ đạn khỏi cơ bẩm bây giờ? Tôi chợt nhớ ra trong túi mình có cái bấm móng tay. Tôi giao khẩu carbine cho Truyền để anh quan sát gác giặc. Chưa đầy một phút sau khẩu Garant lại tốt trở lại. Tôi ném thêm một quả M26 nữa qua mái nhà. Hai thày trò tôi nhào vào nấp sau cái cối xay lúa nơi đầu hiên. Có tiếng người rên bên hiên sau. Tôi thấy một khẩu trung liên nồi RPD nằm chỏng gọng trên nền đất. Hai cán binh VC mình mẩy bê bết máu đang cố lần lưng tìm kiếm cái gì đó. Tôi nhắm ngay đầu chúng, ria qua ria lại một băng M2.

    Trung Ðội 2 của Thượng Sĩ Huỳnh cũng vừa ào tới. Chúng tôi hàng ngang tiến sang khu mấy cái chòi nuôi vịt trên bờ tây của cái đầm nước. Ðoàn thiết vận xa theo sát bên yểm trợ.

    Chúng tôi giờ này đang ở sau lưng những tên VC bám trụ quanh hồ. Chúng ngụp lặn xuống nước giấu mình. Những khẩu đại liên trên xe bắn tung xác chúng. Những thân hình rũ xuống như những trái chuối nát. Nước hồ trở thành màu đỏ, thẫm dần, thẫm dần...

    Chúng tôi còn phải tiếp tục thanh toán cái xóm nhà bên hướng bắc cái đầm. Ðạn réo tứ tung. Khói súng, khói bom, khói lựu đạn, khói nhà cháy mù mịt. Chú Hạ Sĩ Phong, người nấu cơm của tôi bị thất lạc từ lúc khởi đầu cuộc xung phong qua đường, giờ này mới tìm gặp lại được ông thày. Tôi và chú Phong nhảy vào một nhà có những cái lu bằng sành thật to dựng sát vách dùng để chứa lúa giống. Có mấy khẩu AK vứt trên sàn nhà. Dấu chân ướt bùn còn rất mới in trên mặt cái sập gỗ nơi góc nhà, cạnh một cái cót chứa lúa. Hai khẩu carbine M2 nổ dòn, những cái lu bể. Tôi rợn tóc gáy khi thấy từ trong vài cái lu chưa vỡ có người nhảy ra! Tôi bị trượt chân té ngửa giữa sàn.

    Tôi nằm ngửa bóp cò. Những người áo đen tay cầm AK trúng đạn gục xuống. Có vài cái xác đè ập trên người tôi. Trong khi đó, chú Phong bắn ào ào vào căn phòng gỗ cửa đóng kín mít. Vì nằm ngửa, tôi nhìn thấy một thanh mã tấu sáng loáng quơ lên từ cót chứa lúa nơi góc nhà sau lưng chú Phong. Tôi la thất thanh,

    -"Phong! đàng sau!"

    Thanh mã tấu hạ xuống! Phong chỉ kịp dang hai tay đưa khẩu súng carbine lên đỡ nhát chém. Chú khuỵu xuống vì nhát chém quá mạnh. Người chém chú mất đà, lộn cổ xuống đất. Phong hoàn hồn, nện một đế súng vào đầu kẻ thù.

    -"Bốp!"

    Cái đầu vỡ sụm. Óc pha máu phọt ra, văng lên ngực Phong. Phong la lớn,

    -"Chạy thôi! Thiếu úy!"

    Tôi hoảng quá, bắn cạn băng đạn rồi lăn tròn ra hướng sân. Chú Phong theo sát bên. Ra tới sân, chú Phong ném với vào kho một trái M26. Hai thày trò tôi ù té chạy ngược ra bờ ruộng. Hai chiếc M113 án ngữ dưới ruộng từ nãy tới giờ không dám can thiệp sợ bắn lầm quân bạn, nay thấy thày trò tôi chạy ra, thế là họ tưới đạn trùm lên cái nhà kho. Một quả lựu đạn lân tinh khiến cái nhà kho bốc cháy. Chuẩn Úy Tú nhảy xuống xe, giọng anh lạc đi,

    - "Long ơi! Toa bị thương có nặng không?"

    Tôi cúi nhìn quần áo mình. Áo quần tôi đầy máu! Tôi đưa tay xoa mặt, mặt tôi cũng có máu! Máu đỏ cả cái thẻ bài, ướt đẫm cả cuốn Lăng Nghiêm Chú nhỏ xíu tôi đeo trước ngực. Tôi dang tay sờ khắp người, chẳng có chỗ nào đau. Hóa ra máu trên người tôi là máu địch! Khi bị bắn hạ, xác chúng đè lên người tôi trong sàn kho lúa.

    Từ đầu trận tới giờ, Trung Ðội 3 của Chuẩn Úy Ðạt là ít bị tôi sử dụng nhất. Tôi phải phòng hờ một sĩ quan để thay thế mình, nếu mình có mệnh hệ gì. "Dù ít, dù nhiều, phải có trừ bị" (huấn luyện viên chiến thuật, Ðại Úy Mỹ và Trung Úy Ðức căn dặn như thế!)

    Bây giờ là lúc tôi dùng tới lực lượng trừ bị của đại đội. Tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt lên, giao cho anh thanh toán nốt cái xóm nhỏ cuối thôn. Gió lúc này theo hướng nam bắc. Tôi biết M113 của Tú có đem theo nhiều lựu đạn lân tinh. Tôi nhờ Tú làm cho Ðạt một màn khói che để anh an toàn áp sát mục tiêu. Chúng tôi dồn hết hỏa lực bắn yểm trợ hông trái cho Trung Ðội 3. Vậy mà những ổ kháng cự của địch vẫn còn rất mạnh. Cánh quân của Chuẩn Úy Ðạt bị cầm chân nơi vườn chuối phía trước xóm nhà lá có những cây cau và bể chứa nước mưa. Ðạt gọi tôi xin tiếp tay.

    Tôi dàn quân hàng ngang, ào lên bên trái chòm nhà mà Trung Ðội 3 đang giành giựt với địch. Căn nhà có những cây cau cao có vẻ là chỉ huy sở hành quân của VC, vì có nhiều đường giây điện thoại và chòi gác bao quanh. Xung quanh chòm nhà này là vườn tược, với hệ thống giao thông hào chằng chịt. Khu này được địch bảo vệ bằng những tổ tam tam. Mỗi tổ tam tam có hai AK47 và một B40.

    Chúng tôi dùng lựu đạn cay xen kẽ với lựu đạn miểng MK2 để thanh toán từng mắt lưới giao thông hào. Chiếm được đoạn giao thông hào nào, chúng tôi phải chia người bám trụ, sợ địch phản công giành lại.

    Tôi phải vào tần số không lục của chiếc L19 trên trời để xin không yểm tiếp cận. Sĩ quan điều không tiền tuyến hôm ấy là Thiếu Úy Thành, gốc Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam, anh quen với gia đình tôi. Cobra yểm trợ thật hữu hiệu. Chúng tôi tiến chiếm từng thước đất một sau những tràng đạn 40 ly trải xuống từ trực thăng võ trang. Cuộc giao tranh giằng co, kéo dài khoảng hơn nửa giờ mà vẫn chưa ngã ngũ. Có lúc gió bất chợt đổi chiều, quân bạn cũng khổ vì hơi lựu đạn cay.

    Khi cánh quân của tôi vào tới giữa vườn thuốc lá thì tiếng kèn xung phong của Việt Cộng bỗng nổi lên lanh lảnh từ cuối thôn hướng tây. Rồi tôi nghe súng địch rộ lên đồng loạt khắp mọi hướng. Tôi ra lệnh cho đại đội ngừng lại bố trí tại chỗ, cảnh giác chờ đợi một cuộc phản công của địch. Mấy phút sau súng địch thưa dần, rồi ngừng hẳn. Tôi chợt nghiệm ra, tiếng kèn xung phong của Việt Cộng lại là hiệu lệnh rút lui của chúng!

    Tôi yêu cầu máy bay di chuyển tác xạ về những mục tiêu xa hơn, hướng tây bắc. Khoảng xế trưa, đại đội tôi hoàn toàn kiểm soát được lằn ranh bắc trên bản đồ hành quân. Hướng bắc đại đội tôi là vùng trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Chúng tôi lấy được khá nhiều AK, và B40. Trung Ðội 3 tịch thu được một máy truyền tin Trung Cộng, một khẩu đại liên 12,7 ly, và một khẩu 57 ly không giật mà địch đã vùi vội trong đống rơm trước khi tháo chạy.

    Việc cấp bách phải làm của tôi lúc đó là tản thương quân bạn. Tôi nhờ Chuẩn Úy Tú cho một xe M113 chuyển vận dùm những BÐQ chết và bị thương ra ngoài đường. Chiếc xe liên tục đi về như con thoi.

    Tôi nhìn quanh, kiếm cái máy truyền tin đại đội để báo cáo kết quả xung phong cho đại úy tiểu đoàn trưởng. Tôi không thấy Binh Nhất Mai Ðăng Vinh đâu cả. Hạ Sĩ Phong nước mắt dầm dề, cầm tay tôi, kéo tôi lui về khu vườn trồng đậu đũa. Thi thể Mai Ðăng Vinh nằm vắt ngang trên lối mòn. Ðầu của Vinh mất một mảnh sọ bằng bàn tay. Óc Vinh văng vãi trên đất. Ruồi nhặng bu đen hút máu người chết. Hai mắt Vinh mở trừng trừng. Miệng Vinh há hốc. Tôi nhìn rõ hai cái răng vàng óng ánh. Ngực Vinh cũng đầy máu. Cái ống liên hợp của chiếc PRC10 bị bắn văng đâu mất. Vì thế suốt giai đoạn chót của cuộc tấn công, tôi không nghe, "Ð.M! Anh là Ðà Lạt!..."

    Chuẩn Úy Tú gỡ cái băng ca bên hông xe xuống. Tôi và Tú khiêng xác người đồ đệ của tôi lên thiết vận xa. Tình thày trò giữa tôi và Vinh chỉ kéo dài có mười hai ngày. Tôi còn nhớ mãi tiếng nói, tiếng cười của Vinh cho tới ngày hôm nay.

    Bốn mươi năm rồi, anh không quên hai cái răng vàng của em, lúc em cười. Vinh ơi! Bên luống đậu, tôi ngồi thẫn thờ, hồi tưởng lại những lần chấm dứt hành quân trước đây, thày trò tôi về quây quần trong căn lều nhỏ ngoài ngoại ô Hội An. Có lần tôi đã ngâm bài từ "Lương Châu" của Vương Hàn cho đàn em của mình nghe. Qua lời bình giải của tôi, những người lính Biệt Ðộng Quân ấy đã thấy trong ý thơ, cuộc đời của chính họ:

    "...Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu.

    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" (Vương Hàn).

    Chiếc M113 vừa rời điểm tải thương; chiếc xe đem đi những cái poncho; những cái poncho cuốn gọn những thuộc cấp của tôi vừa nằm xuống.

    Trên đồng lúa chiêm xuân, khói vẫn còn mịt mù, nhưng tiếng súng đã dứt. Tàn quân của địch đang rút chạy về hướng Kỳ Lam. Có hai cánh quân, một của TQLC Hoa Kỳ, một của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập đang truy lùng chúng.

    Tôi kiểm lại quân số, thấy đại đội mình hụt đi quá nửa!

    Trận này, cả Tiểu đoàn 11/BÐQ có 17 người chết, đại đội tôi chiếm 13. Số người bị thương của đại đội, vì lâu quá rồi, trong trí tôi chỉ còn mang máng giữa hai con số 46 (hay 64?). Tôi nhủ thầm, "Ðây mới chỉ là trận đầu tiên trong đời một sĩ quan hiện dịch!"

    Chúng tôi được lệnh rút ra đường, chờ đón phái đoàn từ trên xuống thị sát chiến trường. Ðại Tá Ðàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt Khu tới thăm trận địa. Ðại tá xuống vài phút, nói vài lời, rồi đại tá bay đi.

    Chúng tôi lại chờ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu tới thăm trận địa. Trung tướng cũng xuống vài phút, nói vài lời, rồi trung tướng bay đi. Khi bắt tay tôi trước lúc lên tàu, Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn nhìn sững quân phục của tôi. Chắc ông thấy lạ? Áo quần tôi bê bết bùn và máu. Hai ống quần của tôi tả tơi. Chú Phong phải lấy kim băng cứu thương gài nó lại; nếu không, người ta sẽ nhìn thấy quần lót của tôi, tôi nghĩ, chắc có phép mầu nào đó che chở cho tôi. Hoặc linh hồn các niên trưởng của tôi đã khôn thiêng phù hộ cho tôi. Nếu không, tôi khó sống sót qua trận này.

    Bốn mươi năm sau ngày đó, ở một nơi rất xa Hội An, tôi ngồi nhìn mưa tuyết rơi chầm chậm. Một khúc phim đời mình đang quay lại rõ nét, từ từ...

    Một mùa Xuân có mai vàng, nêu cao, đối đỏ. Một mùa Xuân quê hương khói súng mịt mù. Một cánh đồng lúa nước, và những đợt xung phong. Bên tai tôi như còn nghe những tiếng thét, "Biệt Ðộng ! Sát!" vang rền...

    Thằng cháu ngoại choàng tay qua cổ tôi. Nó đòi ẵm. Tay trái nó vô tình chạm vào cạnh sườn phải của tôi. Tôi giật mình. Nơi cháu tôi chạm tay là chỗ viên đạn AK đã chui vào, nằm cách trái tim tôi chừng một đốt tay. Viên đạn nằm đấy đã ba mươi tám năm, kể từ trưa mồng một Tết Mậu Thân. Một cảm giác tê tê, nhột nhột nơi vết thương cũ khiến tôi bật cười.

    Thấy tôi cười, cháu tôi cũng toét miệng cười theo. Thằng bé bập bẹ,

    -"Ong...ong... ong ngại..."

    Nụ cười của nó thật là trong sáng, hồn nhiên.

    Tôi cầu mong ơn Trời ban cho cháu tôi những mùa Xuân bình yên...

    (Seattle, một ngày đầu Xuân Bính Tuất, 2006)

    Comment


    • #3
      Tháng Ba năm xưa...

      Vương Mộng Long

      Tháng 3 năm 1975 dưới quyền tôi có Tiểu Đoàn 82/BĐQ và một nửa Tiểu Đoàn 63/BĐQ trấn giữ vùng biên giới Việt Miên, hướng tây của tỉnh Quảng- Đức.
      Thời gian này Tướng Phú đã thay Tướng Toàn, và Đại tá Tất đã trở thành Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.
      Khi biết tin địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột, vợ con tôi, cha mẹ, anh em tôi, gia đình binh sĩ dưới quyền tôi, đã không di tản khỏi nơi này, chỉ vì chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào sức mạnh của những người bảo vệ thành phố.

      Nửa tháng trước ngày Cộng Quân tấn công Ban Mê Thuột, tôi đã đi bằng xe, từ Kiến-Đức lên Kontum, vượt hàng trăm cây số đường bộ, để gặp mặt, và nài nỉ Đại Tá Phạm Duy Tất cho phép Tiểu Đoàn 82/BĐQ về trấn giữ thị xã đó, nhưng Đại Tá Tất đã từ chối.

      Tới ngày đầu chiến trận Ban- Mê- Thuột xảy ra, trên máy truyền tin, tôi cũng hết lời cầu khẩn vị Tư Lệnh của tôi ban ơn cho chúng tôi được trở về góp sức với quân bạn, tôi lại bị từ chối.
      Ban- Mê- Thuột thất thủ nhanh quá.
      Quân Đoàn II cũng tan rã nhanh quá.
      Năm Liên Đoàn Biệt Động Quân của Vùng 2 thì bốn Liên Đoàn bị xóa tên.
      Riêng Liên Đoàn 24/BĐQ do tôi chỉ huy đã về tới Phan-Thiết an toàn.
      Rồi Tiểu Đoàn 82/BĐQ đã góp công không nhỏ trong trận Long- Khánh cản bước tiến của Cộng Quân đang tiến như nước vỡ bờ, để Thủ Đô có thời gian chuẩn bị di tản.
      Sau trận Long- Khánh, TĐ 82/BĐQ rút về Long- Bình, sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.
      Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất hết bị phạt quản thúc.

      Ông lên Long-Bình, chọn vị trí tạm trú quân của TĐ82/BĐQ làm nơi cho ông căng võng qua đêm. Những ngày đó, tôi lại được nghe Tư Lệnh tâm sự, như thời 1973, khi Tư Lệnh còn lao đao, khổ nhục dưới quyền Tướng Toàn. Ngày đó Tư Lệnh đã đối xử với tôi như đối với một người em, một người bạn, và một người tri kỷ, để ông tâm sự và chia sẻ những khó khăn của công vụ, và cuộc đời.

      Tháng Ba 1975 vợ con tôi, gia đình thuộc cấp của tôi đã rơi vào tay giặc, mãi tới cuối tháng Tư 1975, Tư Lệnh mới nhớ tới tôi thì đã quá muộn màng.
      Tháng Tư 1975, Tư Lệnh đã mất hết binh quyền rồi, đã quá trễ cho chúng ta làm được những điều cần làm cho gia đình và cho quê hương.
      Trưa 27 tháng Tư năm 1975 Trung Tá Bùi Văn Sâm đã mời tôi và Chuẩn Tướng Tất ăn cơm thân mật trên một quán nổi bên bờ sông Biên- Hòa.
      Bữa cơm này là bữa cơm sau cùng chúng tôi còn đeo lon đội mão.
      Hôm đó, tôi đã nói với Chuẩn Tướng Tất rằng,
      "Suốt đời lính, tôi chỉ có một điều ân hận là tháng 3 vừa qua Tư Lệnh đã không cho phép tôi và Tiểu Đoàn 82/BĐQ về Ban -Mê-Thuột để cùng gia đình thân thuộc sống chết có nhau.

      Ngày mai tôi sẽ vào vùng. Bắt tay nhau lần này có thể là vĩnh biệt. Nếu Tư Lệnh có đi được thì đi đi."
      Hôm đó Tướng Tất rầu rầu,
      "Các anh còn chiến đấu, thì mặt mũi nào tôi có thể ra đi? Mà qua Mỹ để làm gì? Gặp những người ngày xưa một điều kêu mình 'Sir, Sir...' hai điều kêu mình 'Sir,Sir...' Mình mắc cỡ lắm..."
      Hôm sau, tôi đem quân vào vùng. Chỉ có một phần mười quân số của TĐ82/BĐQ còn sống sót sau lần hành quân sau cùng đó.
      Từ khi ra khỏi trại tù cải tạo (1988) tôi đã cố tìm cách liên lạc lại những thuộc cấp của đơn vị cũ.
      Số người tôi kiếm được, đếm chưa đầy trên mười đầu ngón tay.

      Vương Mộng Long

      Comment


      • #4
        THỜI THẾ, THIỆN, ÁC và ….CON NGƯỜI

        (Vương Mộng Long)


        Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi tái khám. Nào ngờ, kết quả lần khám này cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn.

        Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

        Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7. Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh. Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ. Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.

        Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư

        - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?

        - Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!

        - Việt-Cộng à?

        - Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).

        - Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?

        - “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

        Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

        - Hắn thuộc đơn vị nào vậy?

        - Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.

        - Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?

        - Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.

        - Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.

        - “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?

        Tôi gật đầu, tán đồng,

        - Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

        Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

        Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

        Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.
        Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng.

        Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.

        Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

        ” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”

        Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

        “Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

        Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ. Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.

        Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay.

        Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.

        Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.

        Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

        Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.

        Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm?

        Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

        Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều…

        Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra.

        Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

        Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

        “Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn.

        Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

        “Here it is!”

        Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn.

        Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác.

        Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

        Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.

        Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

        Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

        Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào.

        Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.

        Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:

        “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”

        Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.

        Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

        Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây.

        Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.

        Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

        Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,

        - Thank you!

        Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.

        Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

        - Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!

        - Không thèm!

        nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.

        Tôi tỉnh như ruồi,

        - Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.

        -Thuốc của đế quốc, không thèm hút!

        - Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

        Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.

        Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

        Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

        - Take it! It’s good for you!

        Tôi chêm thêm,

        - Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

        Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

        - May you tell him to take it?

        Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,

        - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

        Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

        Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.

        Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,

        - Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

        Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

        - Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy?

        tôi bắt đầu gạ gẫm.

        - Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.

        - E mấy?

        - Hăm Tám (28)

        Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

        - Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!

        - Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.

        - Cấp chức gì?

        - Trung úy Đặc-Công.

        - Quê ở đâu?

        - Hải …”Rương”

        - Làng nào?

        - Hỏi gì mà lắm thế?

        - Thôi không hỏi nữa!

        Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

        Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

        Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.

        Mấy lần y mở miệng gọi tôi:

        “Này! Này!”

        Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.

        Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

        Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,

        - Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

        Tôi ngạc nhiên,

        - Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

        Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

        - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.

        Tôi phì cười,

        - Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

        Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:

        “Chẳng lẽ chính ủy nói sai?”

        tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

        - Này! Có phải Xuân là vợ anh không?

        tôi hỏi dò.

        - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

        Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng.

        Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.

        Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.

        Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,

        - Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

        Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.

        Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.

        Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,

        - Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…

        Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,

        - Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?

        Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

        Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

        Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

        “Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

        Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

        “Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

        Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

        Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

        Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

        Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình…

        ***

        Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,

        - Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?

        - Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi.

        Tôi biểu đồng tình,

        - Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?

        Tôi hỏi tiếp,

        - Sau này anh có còn gặp lại y không?

        - Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

        Tôi nhắc anh Tư,

        - Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?

        - “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.

        - Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .

        Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,

        - Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

        Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,

        - Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!

        Anh Tư gật gù,

        - Có khi hai người là bà con cũng nên?

        Tôi cũng gật gù theo,

        - Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.

        Anh Tư phụ họa,

        - Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!

        ***

        Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

        Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

        Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.

        Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau.

        Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

        Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.

        Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

        “Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

        Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác.

        Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.

        Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

        Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh.

        Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:

        “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

        Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?

        Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19.

        Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.

        Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,

        - Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.

        Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

        - Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

        “Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3.

        Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.

        Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.

        Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,

        - Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!

        Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

        Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

        Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

        Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.

        Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai.

        Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

        Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước.

        Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng.

        Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,

        - Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

        Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!

        Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!

        Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

        Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

        Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

        “Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

        Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

        Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

        Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

        - Lẹ lên! Lẹ lên!

        Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc.

        Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.

        Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng.

        Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

        “Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”

        Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

        Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

        Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.

        Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.

        Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”

        Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:

        “Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”

        Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.

        Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

        Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.

        Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam.

        Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

        Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.

        Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

        Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.

        Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17.

        Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.

        Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.

        Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

        Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

        Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.

        Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

        Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian.

        Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?

        Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

        Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.

        Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.

        Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

        Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.

        Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.

        Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

        Vương Mộng Long - K20 VBQGVN
        Seattle, tháng 7 năm 2013

        Comment


        • #5
          Phần 1
          NGÀY TA BỎ NÚI
          Vương mộng Long


          Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Đức, Quảng-Đức lên thăm Đại tá Biệt Động Quân Phạm duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Đêm đó hai thày trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya. Tôi được Đại tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Đại úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại qui mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hãm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SĐ 320 chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Đơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Đêm đó tôi có nói với Đại tá Tất rằng,

          -"Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư lệnh cho tôi về phòng thủ Ban-Mê-Thuột, tôi sẽ có dịp 'cưa' với nó một lần nữa. Đại tá yên chí! Nếu tôi chưa chết thì Ban-Mê-Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Đại tá như vậy!"

          Tôi thực lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống trong thành phố này. Ông Tất cười cười trả lời,

          -"Cậu đừng lo! Ông Phú (Tư lệnh QĐ2) đã giao cho ông Tường (Tư lệnh SĐ23/BB) lo vụ này rồi!"

          Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư đoàn 23/ BB sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban-Mê-Thuột và Pleiku. Tiếp đó Đại tá Tư lệnh "bật mí" cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa TĐ82/BĐQ của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh-Sát, Viễn-Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phái khỏi Liên đoàn 24 BĐQ để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư lệnh Mặt Trận Kontum.

          Hôm sau, trước khi từ giã Đại tá Tất, tôi có đi quanh một vòng thăm Trung tá Lê tất Biên, liên đoàn trưởng LĐ 23 BĐQ và vài người bạn đang tham gia phòng thủ vùng Bắc-Kontum. Thiếu tá Thi, liên đoàn phó LĐ 23 BĐQ hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của liên đoàn. Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam Biên Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ. Trên đường về Quảng-Đức, tôi ghé Ban -Mê-Thuột thăm hậu cứ tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm. Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già Dương đức Mai (cựu Trung tá liên đoàn trưởng LĐ22 BĐQ, mới giải ngũ) xuất hiện giữa phố, dơ tay vẫy,

          -"Chào người hùng Plei-Me. Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!"

          Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình. Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở BCH BĐQ QK2. Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác ở kế hàng rào sân vận động Ban-Mê-Thuột. Vào tới sân, Trung tá Dương đức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi,

          -"Theo ý cậu, tụi VC có dám đánh Ban-Mê-Thuột hay không?"

          Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ,

          -"Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban-Mê-Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!"

          -"Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?" Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm.

          -"Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi." Tôi cầm tay bác, trấn an bác,

          Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm. Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường và Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi (Chuẩn tướng Lê trung Tường Tư lệnh/SĐ 23 BB & Đại tá Nguyễn trọng Luật Tỉnh trưởng Darlac). Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng. Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung tá của Sư đoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được một năm. Ông cụ và bác Dương đức Mai là bạn khá thân. Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay từ giã người cựu liên đoàn trưởng Biệt Động Quân Dương đức Mai, rồi lên đường.

          Hai con của Tác Giả tại Đồn Kiến Đức, Noel năm 1974 Vài ngày sau, ở Kiến Đức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng sĩ của Trung đoàn 48/SĐ 320/ Điện-Biên đã khai, thì giữa tháng Ba tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Tôi lại nghe tin A2 phổ biến từ Phòng Nhì, Quân đoàn 2 thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên phòng Bản-Don. Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi và gia đình binh sĩ Tiểu đoàn 82 BĐQ đều ở Ban- Mê-Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Động Quân Quân- khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu đoàn 82 BĐQ được rời Kiến-Đức, Quảng-Đức để về phòng thủ Ban-Mê-Thuột. Tôi biết rất rõ về Trung đoàn 48 SĐ 320 CSBV, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê Thuột. Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đã hai lần chạm trán với trung đoàn CSBV này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư, 1974) và ở căn cứ biên phòng Plei-Me (tháng 7 & 8, năm 1974). Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua bộ chỉ huy Liên đoàn 24 BĐQ và qua bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung tá Hoàng kim Thanh, liên đoàn trưởng LĐ 24 BĐQ rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi.

          Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin. Sáng ngày 9/3/75 đài tiếp vận "Tam Quái 82" của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Đức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào chi khu Đức-Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh. Xế chiều, tôi nghe anh Binh nhì trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối,

          -"Thiếu tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu tá ơi!"

          Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa. Tôi thường gọi mấy anh Biệt Động Quân của Tiểu đoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là "Tam Quái". Chỉ vì toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin. Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Động Quân lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Động Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào. Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua BCH BĐQ QLVNCH, TTHLBĐQ Dục Mỹ, TTHL Lam Sơn, Đơn Vị 2 Quản Trị Địa Phương, Quân Lao, kể cả Lao Công Phục Hồi. Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, sì-ke tôi nhận tuốt. Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung tá Bùi văn Sâm,

          -"Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch.Chỉ cần người lính chịu bóp cò là được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!"

          Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác. Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt. Lính thong manh, không canh gác được thì cho trực truyền tin, nấu cơm. Lính điếc thì cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Điếc đâu cần bịt lỗ tai! Sì-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Hoàng, Đại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần. Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh! Theo lời dạy của cổ nhân,"Dụng nhân như dụng mộc", tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau. Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu đoàn 82 BĐQ) là thế đấy! Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.

          Sáng 10/3/75, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch pháo kích vào tiền cứ Liên đoàn 24 BĐQ ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Don. Thiếu tá Hồng, chỉ huy tiền cứ đã bị thương. Sau đó là tin chiến xa VC bắt đầu tấn công vào trung tâm thị xã. Tin tức đứt đoạn vì không có đài tiếp vận và tiền cứ liên đoàn đã mất liên lạc. Đêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì hậu cứ cũng như gia đình binh sĩ của tiểu đoàn tôi đều ở Ban Mê Thuột. Ngày 11/3/75 tôi nghe được tiếng Đại tá Phạm duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn tướng Lê trung Tường. Đại tá Tất buồn rầu trả lời,

          -"Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không."

          Trung tá Lê quý Dậu là liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động Quân. Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung tá Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ. Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng,

          -"Trường-An cho phương tiện bốc tôi về Ban-Mê-Thuột đi! Trường-An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!"

          Trường-An là danh hiệu truyền tin của Đại tá Phạm duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân khu 2. Lúc đó tôi nghẹn lời, bên tôi người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Đăng mắt cũng đỏ hoe. Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, "Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phú) để bốc Thái-Sơn về." Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân, thời 1967-69.

          Được lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Đại đội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng bắc về. Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu đoàn 63 Biệt động Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến-Đức thay cho Đại đội 1/82 BĐQ của Thiếu úy Nguyễn văn Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi. Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng. Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào. Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.

          Suốt ngày 12/3/75, tôi không nghe tiếng Đại tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột. Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh. Tôi mô tả con đường Hàm-Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu hậu cứ Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân. Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt. Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài tình ca buồn. Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột tan trường. Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta. Mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa. Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay. Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày. Bên tôi là những cây hoa móng tay. Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu. Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó. Sau Noẽl 1974, tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay. Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Đầu óc tôi phừng phừng. Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can. Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng. Tôi oán trách ông Trời. Tôi oán trách Đại tá Tất. Tôi oán trách Tướng Tường. Tôi oán trách Trung tá Dậu. Tôi tự oán trách tôi.

          Chuẩn úy Lê văn Phước (ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt,

          -"Bình tĩnh lại Thiếu tá! Đài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Đánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hi vọng chị và các cháu không hề hấn gì."

          Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời. Xa lắm, nơi chân mây hướng đông bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.

          Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức gì của Ban-Mê-Thuột. Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến-Đức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ. Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường.

          Sáng sớm 16/3/75, trung đội tuần đường của Đại đội 1/TĐ 82 BĐQ vừa tới đầu khúc cua chữ "S" cách Kiến-Đức hơn 3 cây số thì đại liên 12,7 ly choang choác nổ dòn. Ông Thượng sĩ Y Ngon Near bị phòng không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược về hướng Kiến- Đức. Từ giờ này đoạn tỉnh lộ Kiến-Đức, Nhơn-Cơ bị cắt. Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị bỏ rơi nằm chình ình giữa lộ. Ngay lúc đó pháo địch từ hướng tây bắc nã khoảng gần 100 viên đại bác 105 ly trên đồi Kiến-Đức. Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân tỵ nạn để hỏi han họ lý do tại sao họ không về Nhơn-Cơ chiều hôm trước. Bây giờ thì rõ ràng rồi: địch chặn đường! Lúc này Thiếu tá Hoàng đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 BĐQ báo cáo rằng chiến xa địch đang từ hướng Phước Long tiến về Bù Binh, nơi ông đang đóng quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi. Tối đó Tiểu đoàn 81/BĐQ được tôi chia cho phần nhiệm vụ phòng thủ mặt đông Ngã Ba Kiến-Đức, án ngữ hướng về Nhơn-Cơ. Đêm 16/3/75 Trung tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của Cộng Quân để về phòng thủ quận Nhơn-Cơ.

          Suốt ngày 17/3/75, đạn 12,7 ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng sĩ Ngon. Tiểu đoàn 81 BĐQ không tiến được bước nào. Đêm xuống, con cáo già khóa 2 Đồng-Đế, Hoàng đình Mẫn cho đơn vị chui lòn trong rừng, đánh một vòng rộng về hướng nam, xa hẳn vùng Việt-Cộng đóng chốt để tìm đường vào phi trường Nhơn-Cơ. Ông Mẫn đã khôn khéo tránh né đụng độ, và đã hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu tá Khánh, quận trưởng Kiến-Đức ở căn cứ Nhơn-Cơ buổi sáng ngày hôm sau.

          Mờ sáng 18/3/75, súng cối 82 ly của địch từ hướng tây lại tái pháo kích vào BCH TĐ 82 BĐQ. Từ tuần lễ nay, đồi Bù Row bỏ ngỏ. Địch đã quay lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó, đạn đại bác 105 ly từ đằng xa phía bắc, nã không ngừng trên nửa ngọn đồi hướng bắc, nơi những ụ súng pháo binh đã bỏ hoang từ khi pháo đội 105 ly của SĐ 23 BB rút đi. Tôi phải bỏ cái hầm chỉ huy đã sập, rồi tụt xuống ngã ba Quốc lộ 14. Tôi dùng một cái hầm nhỏ của Đại đội 1/82 bên đường làm hầm chỉ huy. Tôi không cho lệnh phản pháo tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng tây do Đại đội 2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82 ly và nơi phụt khói 75 ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo binh Biên-Phòng đang ở với tôi và Pháo binh Diện Địa Nhơn Cơ mười phút để lột vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên bốn vị trí tôi đã chấm. Đại đội 2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh hai khẩu cối 82 ly đặt gần, ngay sau lưng một ngọn đồi trọc hướng tây. Đại đội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng. Sau Tết Âm Lịch vài ngày, Trung úy Danh (k24 VB) bị sốt rét đi nằm nhà thương nên Đại đội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu. Trung úy Đăng xin tôi cho anh chỉ huy Đại đội 2/82 trong lần ra quân này.Tôi ái ngại,

          -"Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?"

          Hai con của Tác Giả tại Tiền Đồn Kiến Đức, Noel năm 1974 -"Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi. Em còn gì đâu? Thiếu tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện gia đình." Đăng nghẹn ngào,

          -"Ừ! Cậu đã muốn thế thì tôi cũng okay! Thôi đi đi!" Tôi tần ngần,

          Tôi đứng trên đồi nhìn theo bóng dáng cao gầy của Đăng đang lẫn vào rặng cây xanh. Hồi 1969-70, khi tôi còn làm Ban 2 và Trinh Sát Liên đoàn 2 BĐQ thì Chuẩn úy Đăng là trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 22 BĐQ dưới quyền một anh bạn cùng khóa của tôi. Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ82 BĐQ thì Đăng đang là Trung úy đại đội trưởng của Tiểu đoàn 22 BĐQ. Khi đó anh có gặp và xin tôi nhận anh về làm việc với tôi. Tôi từ chối vì đơn vị tôi đã đủ sĩ quan đại đội trưởng. Sau đó Đăng bị thương; anh bị đứt một khúc ruột, chờ ra hội đồng y khoa để chuyển sang bộ binh, thương binh loại 2 yểm trợ. Đăng lại gặp tôi và tình nguyện làm sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh còn được tiếp tục ở lại phục vụ binh chủng Biệt Động Quân. Lần này tôi chấp thuận. Đăng xin xuất viện về làm việc dưới quyền tôi đã được gần một năm.

          Khi cánh quân của Đại đội 2/82 báo cáo còn cách mục tiêu gần hai trăm mét thì tôi cho lệnh pháo binh khai hỏa. Đạn đi! Mỗi mục tiêu một trăm quả hỗn tạp. Và chỉ năm phút sau khi đạn rơi, tiếng M16 nổ rộ như pháo ran chêm vào là những tiếng M 79. Khói súng và bụi che mờ một nửa ngọn đồi. Thoáng chốc, hai khẩu cối 82 ly đã đổi chủ, từ trung đoàn E 271/T10 của QK6/CSBV sang Đại đội 2/TĐ 82 BĐQ. Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền trong thung lũng. Tôi hỏi Đăng,

          -"Ê! Delta! ngoài tiếng AK còn tiếng đại liên. Đại liên của cậu hay của địch vậy?"

          -"Của tụi nó đó Thái Sơn! Em đâu có đem theo M 60!"

          -"Delta đây Thái Sơn! Cuốn gói! Đừng về đường cũ! Hãy theo hướng ba ngàn hai trăm! Tôi với thằng An Bình đón cậu trên đường. Tôi lập lại! Ba ngàn hai trăm! Nghe rõ chưa?" Tôi cho lệnh Đại đội 2/82 rút lui,

          -"Ba ngàn hai! Nhận 5!"

          Nếu trở về đường cũ thì Đại đội 2/82 sẽ phải qua một cái thung lũng. Và hai khẩu đại liên địch không để cho họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau. Đại liên địch cứ nổ dòn, đạn lửa đan chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng bắn tiều chứ chúng chẳng rõ BĐQ đang ở chỗ nào. Tôi chấm vị trí hai khẩu đại liên địch và giao cho Đại úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng sĩ Năng, trưởng khẩu 81 ly sẽ rót cối vào đầu chúng! Từ hướng bắc, đạn đại bác 105 ly địch lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Với đại bác 105 ly thì vô phương! 105 ly của khối Cộng đã bắn dài hơn 105 ly của ta, mà súng của ta lại đặt sau hậu quân. Hai khẩu 155 ly của Sư đoàn 23 Bộ Binh tăng cường cho tôi đã bị tiểu khu đòi lại từ hai tuần lễ trước. Hiện thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng. Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái, chưa hề hấn gì!

          Nửa giờ sau tôi và An Bình (Trung úy Trần văn Phước, ĐĐT/ĐĐ3/82) cùng một trung đội thuộc Đại đội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Đăng. Đại đội 2 đã hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta là một trong những người đi đoạn hậu của Đại đội 2/82 . Tôi thấy Trung úy Đăng vừa thở, vừa cười hì hì khi leo lên mặt Quốc lộ 14. Vừa gặp mặt tôi Đăng đã oang oang,

          -"Có ngay hai khẩu 82 cho Thái Sơn đây!"

          Sau lưng Trung úy Đăng là hai anh lính Thượng đang hì hục vác 2 cái nòng 82 ly. Hai người lính Jarai hớn hở khoe,

          -"Cái ông Thiếu tá ơi! Tụi Việt Cộng này đánh dở lắm! Chưa chi đã bỏ súng mà chạy! Dở hơn mấy thằng đánh với mình ở Trà-Ku nhiều!"

          -"Mấy hôm nữa tụi mình lại về Trà-Ku. Mấy chú có nhớ Trà-Ku không?" Tôi cười,

          Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà-Ku. Tôi ở Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết nhiều tiếng thường dùng của họ. Khi nhắc tới Trà-Ku, không ai cố ý khơi chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thày trò chúng tôi cùng ngước nhìn nhau, rồi cùng nhìn về phương bắc, rưng rưng...

          Hướng Nhơn-Cơ có chạm súng, vì ở cuối gió nên tôi nghe rõ tiếng đạn đại liên và đạn cối nổ đì đùng. Trên máy truyền tin có giọng Thiếu tá Khánh, chi khu trưởng Nhơn-Cơ và Thiếu tá Mẫn BĐQ gọi nhau. Thiếu tá Mẫn báo cáo với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu xưởng cưa cách quận Nhơn-Cơ hai trăm mét về hướng đông. Hai khẩu 105 ly Biên phòng của tôi phải trở ngược nòng về hướng đông, yểm trợ cho Thiếu tá Mẫn suốt đêm. Sáng hôm sau có nhiều phi tuần A 37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn-Cơ. Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng cho tới trưa 19 tháng Ba.

          Trong khi đó thì tình hình vùng tôi chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng nam Kiến-Đức, có cả tiếng động cơ. Những toán chống tank đã được gởi đi nằm phục trong rừng. Ở đây, tôi không ngán tank VC một chút nào, vì tôi đã trấn giữ cái đồn này gần nửa năm. Tôi đã nghiên cứu, thám sát và nắm chắc địa hình vùng này. Chỉ có hai hướng xe tank có thể áp sát đồn Kiến- Đức. Cả hai ngả đều có bãi mìn chống tank của tôi. Mỗi bãi chôn bốn mươi quả mìn đĩa. Mỗi quả mìn đĩa được kèm theo một đầu đạn 105 ly. Quan trọng nhất là việc bảo vệ bãi mìn. Bãi mìn không người bảo vệ coi như vứt đi, vô dụng. Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm 1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng đông căn cứ Plei Djereng tôi đã thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên bãi mìn của Quân đoàn 2 đặt gần Plei De Chi hướng tây Pleiku mà chẳng nghe mìn nổ. Công Binh Quân đoàn 2 đã bỏ công sức hàng tháng trời để thiết lập bãi mìn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ thí, không người canh gác. Công binh VC chỉ cần hai hàng bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua. Ở Kiến-Đức, mỗi bãi mìn chống tank của tôi, khi hữu sự được bảo vệ bằng một đại đội BĐQ. Đại đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh đi dò, dọn đường cho tank.

          Sáng 20/3/75, Trung tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt cái chốt của VC trên tỉnh lộ 344 để link-up với một đại đội thuộc TĐ63/BĐQ của Thiếu tá Trần đình Đàng. Đại đội này đang trấn giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ. Tôi thu Đại đội 4/82 của Thiếu úy Trần văn Thủy từ hướng bắc về hợp lực với đại đội của TĐ63/BĐQ tăng phái để giữ đồn Kiến-Đức. Tôi dặn dò Đại úy Tiểu đoàn phó về sự quan trọng của hai bãi mìn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải giữ. Vì nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập kích từ đàng sau thì không tài nào trở tay. Đại úy Hoàn chần chừ một lúc rồi gãi đầu xin tôi cho đi nhổ chốt,

          -"Thái Sơn cho tôi đi khai thông con đường có được không?"

          Quả thực, từ xưa tới nay (từ đại đội tới tiểu đoàn) tôi chưa bao giờ xử dụng người phụ tá của mình làm nỗ lực chính bao giờ. Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống. Đại úy Ngũ văn Hoàn đã phục vụ dưới quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào. Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ,

          -"Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn cho tôi đi bứt chốt đi!"

          Nghe ông nói có lý, tôi gọi hai đại đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ĐĐ3/82) và Trung úy Đăng (ĐĐ2/82) lên dặn dò, chỉ bảo họ đường đi, nước bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong tình huống này. Bộ chỉ huy nhẹ TĐ 82/ BĐQ của Hoàng Long (Đ/úy Hoàn) cùng hai đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ sáng 20 tháng Ba.

          Trong khi tôi đang theo dõi diễn tiến hành binh của Đại úy Hoàn thì tổ báo động hướng Bù-Binh báo cáo có tiếng xe tank địch. Để tiện quan sát, tôi lại cùng toán hộ tống leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Trần văn Thủy (ĐĐT/ĐĐ4/82) trấn giữ thay cho Đại đội 2/82 đang đi nhổ chốt. Từ đỉnh đồi tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập cách Kiến-Đức gần hai cây số. Khẩu SKZ 57 ly của tiểu đoàn lúc nào cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đã điều chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt thì tổ chống tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay. Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi thì tiếng 12,7 ly nổ rền hướng Nhơn-Cơ. Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các cánh quân của Đại úy tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quýt. Tôi nghe Delta và An Bình báo cáo đang chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối bên trái đường lộ. Delta yêu cầu An Bình giữ an ninh bên phải dùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ "S". Chuẩn úy Đức và trung đội đi đầu của Đại đội 2 đã bị thất lạc. Tôi không nghe tiếng Hoàng Long trên máy. Tôi vào máy hỏi Delta và An Bình sao không nghe Hoàng Long, thì hai anh đều không rõ ông Đại úy TĐP ở chỗ nào. Tình hình có vẻ nghiêm trọng. Tôi giao cho Thiếu úy Thủy lo vụ chống tank rồi tụt xuống đồi.

          . . . . . .

          (còn tiếp)

          (*) "Ngày Ta Bỏ Núi" trong Đa Hiệu 77.

          Comment


          • #6
            Phần 2
            NGÀY TA BỎ NÚI
            Vương mộng Long

            . . . .

            Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh tới cái nút chặn hướng đông của Đại đội 1/82. Từ đây tôi và toán cận vệ chạy bộ lên chỗ Đại đội 3 và Đại đội 2 đang chạm địch. Quân của Trung úy Phước (ĐĐ3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng đông tây. Còn Trung úy Đăng ở bên trái con đường. Đại liên VC từ hai hướng nam bắc con lộ đang bắn tới tấp vào bên trái dốc chữ "S" nơi đơn vị của Trung úy Đăng bị sa lầy. Đại đội của Đăng đang kẹt trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường. Tôi gọi pháo binh và cối 81 bắn cản trước mặt đại đội của Đăng để đơn vị của anh bò từ từ lên cao, bắt tay với Đại đội 3/82. Khi Đại đội 2 bắt tay được Đại đội 3, tôi ra lệnh cho hai đại đội quây tròn trên đỉnh đồi bên phải tỉnh lộ. Tôi xử dụng pháo từ Kiến-Đức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích. Nhưng tiếng súng của địch đã êm. Như thế là chúng không chủ tâm giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với TĐ 82/ BĐQ. Chỉ nhìn thoáng qua trận địa, tôi đã hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ "S" rồi chúng dùng hai khẩu 12,7 ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh địch bao vây chia cắt hậu quân của ta. Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh một đoàn quân đang khai lộ. Trung úy Đăng báo cáo với tôi rằng khi đơn vị anh còn cách cái xác của Thượng sĩ Ngon chừng một trăm thước thì đại liên địch khai hoả. Đại úy TĐP hăng hái xông lên với trung đội đi đầu của Đại đội 2/82. Ông Hoàn nói với Đăng,

            -"Kỳ này mình lấy cây 12,7 ly về cho Thái Sơn giải buồn!"

            Nhưng chỉ năm phút sau, từ con suối bên trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt đơn vị anh thành ba phần. Trung đội đi đầu của Chuẩn úy Đức bị mất liên lạc. Tình trạng của Đại úy TĐP không biết ra sao.

            Xế trưa, tôi áp dụng cách rút sâu đo, cho quân lui từ từ về hướng Kiến-Đức. Chiều đó chúng tôi mới về tới tiếp điểm của Đại đội 1/82. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát,

            -"Tôi đi với đứa con đầu của thằng Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đàng sau. Hiện tôi ở trên triền một ngọn đồi hướng bắc con đường, nhưng không xác định được tọa độ. Chúng nó (VC) đang đuổi theo tôi."

            - " Rồi! Bình tĩnh! Anh còn bao nhiêu người cho tôi biết đi?"

            - "Tôi còn sáu chục người!"

            - "Sáu chục thì đủ mạnh để đánh mở đường về với tôi rồi. Cứ hướng bốn nghìn tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!"

            Có tiếng bấm ống nghe "xẹt!xẹt!" rồi tiếng Hoàng Long thì thào,

            -"Thái Sơn ơi! Tôi còn có sáu người thôi! Tôi ngụy thoại thành sáu chục đó (!) Tôi với năm thằng lính của Delta là sáu. Tụi tôi bị chúng nó (VC) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy này là của trung đội đầu của thằng 2"

            Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi cũng an tâm là ông Hoàn vẫn còn sống. Tôi ôn tồn,

            "Thôi được rồi! Bây giờ làm theo tôi chỉ. Đi thẳng hướng sáu nghìn tư cho tới con suối hướng bắc ngọn đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược dòng con suối đi riết về hướng tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi!"

            - "Tôi nghe 5! Thái Sơn nhớ báo cho tụi thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe!"

            - "Ừ! Thôi! Lẹ lên!"

            Sẵn sàng Từ đồn Kiến-Đức, Thiếu úy Thủy báo cáo rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù-Binh bò lên đã hiện nguyên hình là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. Ba tên cán binh VC trên xe, đã vứt xe, nhảy xuống đường định chạy thoát thân khi trái hỏa tiễn XM 202 xé nát đầu chiếc máy cày. Hai băng M16 đốn ngã 3 tên giặc. Ba khẩu AK 47 và một khẩu phòng không 12,7 ly cháy theo chiếc xe tank dỏm. Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đã trở thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù-Binh, Kiến-Đức.

            Gần tối hôm đó Đại úy tiểu đoàn phó và năm người lính theo ông về tới tiền đồn bắc của Đại đội 1/82. Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn úy Đức chui ra khỏi rừng hướng nam con lộ và liên lạc được toán tiếp đón của Đại đội 1. Người mang máy PRC 25 cho Đại úy Hoàn có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Đức. Cái máy truyền tin của ông tiểu đoàn phó đã bị bắn bể từ phút đầu tiên. Tính tới 5 giờ chiều, Đại đội 2/82 còn thiếu 14 người. Đêm xuống, sương mù dày đặc, trăng thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài mìn bẫy vì sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy. Gần sáng, Trung tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi bỏ Kiến-Đức, tìm mọi cách rút về Nhơn-Cơ.

            Sáng 21/3/75, tôi chuẩn bị đánh một trận nhổ chốt thần tốc. Tôi xin pháo binh của tiểu khu một hỏa tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều một cây số từ đầu tới cuối khúc đường chữ "S". Pháo 105 ly Nhơn-Cơ bắn không ngừng từ khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu. Về phần pháo binh Biên Phòng Kiến-Đức thì 500 quả đạn nổ 105 ly được chất lên xe. Hai khẩu đại bác được hai toán BĐQ đẩy bằng tay di chuyển trên hai bên bìa đường. Đại bác trực xạ ngay sát mép rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước hai chục thước. "Đùng! Đoàng!" "Đùng! Đoàng!" ra khỏi nòng một, hai giây là đạn nổ. Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên phải. Khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái. Sở dĩ phải bắn như thế vì bắn mục tiêu ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng. Cứ thế, "Đùng! Đoàng!" hai họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục . Đàng sau lưng tôi là khẩu 81 ly của tiểu đoàn và bốn khầu 60 ly của các đại đội. Tôi cho cối 81 ly bắn đạn thời nổ chậm (delay) trong khi cối 60 ly bắn đạn chạm nổ. Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa tăng lên một vòng tay quay. Tiếng cối depart "kinh! kinh!" liên hồi kỳ trận, âm vang dội trong khe núi. Đạn cối nổ "ùm! ùm!" Cây cành gãy răng rắc. Mưa đạn cối đang rơi hai bên đoạn đường ngắn ngủi hơn một cây số rừng rậm. Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo hò, la hét. Khói và bụi cuồn cuộn trước mặt. Biệt Động Quân hàng ngang trong rừng, song song với hai khẩu đại bác ngoài đường. Những người lính miệng hô "Biệt Động! Sát!" vừa bước tới, vừa bóp cò. Quân đàng trước vừa hết đạn thì dừng lại, thay băng đạn mới; quân đàng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn vừa tiến. Người thì thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời. Theo thế sâu đo, Biệt Động Quân tiến ào ào, khí thế như nước vỡ bờ. Đây là một trận đánh chớp nhoáng nhưng lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang. Mỗi cánh quân hai bên đường có sáu toán an ninh cạnh sườn. Sáu toán trang bị mìn Claymore và M79 bắn đạn chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường mòn, triền dốc, những toán này dừng lại gài mìn bố trí chờ. Ra quân lần này tôi đã tận dụng tất cả hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên thở. Khẩu 12,7 ly VC bên hướng nam con lộ chỉ bắn được vài viên là câm họng.

            Đúng như tôi đã dự đoán. Khi quân của tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ "S" nơi cái xác của Thượng sĩ Ngon đang bốc mùi, thì hai khẩu phòng không VC đặt trong khu mả của dân Thượng bên trái đường khai hỏa. Lập tức, khẩu 105 ly di động bên phải đường tương hai quả khói trắng về hướng nghĩa địa Thượng để che bớt tầm quan sát của xạ thủ địch . Hoả tập pháo binh trên mặt đường chữ "S" được chuyển xạ sang khu mả Thượng. Đạn 105 ly nổ "Oành! Oành!" trên khu ngã ba đường xe be. Dưới khe bên trái lộ, mìn Claymore bắt đầu nổ. Ba toán BĐQ ngăn chặn lực lượng bao vây chia cắt đã phát giác địch và cho mìn nổ. Những chuyên viên của chiến thuật bao vây chia cắt CSBV đang gặp khắc tinh! Hôm nay các mũi xung kích chia cắt của VC chưa kịp phóng viên B40 nào, các xạ thủ B40 đã vỡ sọ. Tiếng rên la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om xòm dưới khe suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh. Lúc này đạn M 79 của ta bắt đầu tới tấp câu xuống khe. Tôi đang chỉnh 105 ly trên trục nghi ngờ có khẩu phòng không di động của địch thì trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên trời,

            -"Thái Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay! Bắc Bình mới xin tôi lên làm việc với Thiếu tá đây!"

            Bắc Bình là ông Thiếu tá Trần văn Bường (k18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng-Đức. Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng nói quen thuộc của một hoa tiêu L19 mà trong nửa năm hành quân ở đây, tôi đã nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng khu vực Nhơn-Cơ , Kiến-Đức. Tôi và anh phi công này đã nhiều lần đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc. Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát cái nghĩa địa Thượng nơi ngã ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ giùm hai khẩu phòng không di động đang trụ ở điểm này. Tôi sơ lược tình hình bạn địch cho anh ta rõ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam-Bắc, vì quân tôi tiến theo trục Tây-Đông. Chiếc L 19 đảo sát ngọn cây một vòng. Khẩu phòng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi chiếc L 19.

            -"Okay! Tôi thấy rồi! Một cái xe bò cài lá ngụy trang có khẩu phòng không. Tôi chơi ngay!"

            Một trái khói phụt xuống sát bên khu mả Thượng.

            -"Được chưa? Thái Sơn!"

            -"Được rồi! Cứ từ đó dài về hướng 360 độ là địch, đánh tự do!"

            Sau câu trả lời "Okay! Do!" chiếc quan sát cơ bay tránh sang hướng đông. Tôi che mắt tìm những chiếc máy bay oanh tạc. Trời trong xanh. Có hai chiếc A 37 đang lượn rất cao. Hai chiếc tàu lấp lánh trong nắng. Hai chiếc tàu nhỏ tí ti. Tiếng rè rè từ A 37 "Bom đi! Pass số 1! Chỉnh!" Tôi trả lời, "Nhận!" Tôi trả lời "nhận", nhưng tôi phải che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào. Đời tôi đã có hàng trăm lần được không quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Đây là lần đầu tiên tôi thấy máy bay yểm trợ cho tôi đã thả bom ở tầm cao quá sức là cao. Có lẽ bom được thả từ trên cao độ mười ngàn bộ (feet) có dư! Mắt tôi thấy một chấm đen từ trên thăm thẳm hướng đông đang bay về phía mình. Chấm đen tới gần, nó vẫn giữ hình thù một cái chấm. Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái chấm! Thôi bỏ mẹ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó tức là nó đang nhắm vào đầu mình rồi! Tôi la thất thanh, "Nằm xuống! Nằm xuống!" Vừa xô thằng Bích xuống cái rãnh khô bên đường, tôi vừa nói với người phi công trên A 37,

            -"Sáng nay anh đã giết một tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân rồi đó! Anh ơi!"

            Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa thì quả bom đã chạm đất. "Ầm!" Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay tung, phủ trùm một vùng. Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh bắc của con đường, sát bờ suối, đàng sau một mô đất. Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc trên đó đã bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng "Ầm!" vừa rồi. Chưa rõ tổn thất quân bạn ra sao, chưa rõ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin, "Check Air! Check Air!" Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự anh phi công A 37, "Đ.M! Toa làm ăn như con c...c!" Rồi anh hỏi tôi:

            -"Sorry! Sorry! Thái Sơn có sao không?"

            -"Cám ơn anh! Thôi! Cho họ về đi! Tôi không cần họ nữa!"

            Tôi ném cái ống nghe của máy không lục xuống đường. Đoàn người mình mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt cò. "Đùng! Đoàng!" Chỉ một khẩu đại bác bên trái đường còn nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh. Một người chết vì quả bom. Binh nhì Đức Điếc bị vỡ sọ. Xác của Đức Điếc được kéo sang lề đường để tạm trên cỏ. "Đùng! Đoàng!" Tiếp tục! Còn một khẩu, ta chơi theo một khẩu! "Tiến lên đi! Anh em ơi! Biệt Động! Sát!

            Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Son và toán viễn thám của Binh nhất Lê văn Tuấn được gom lại thành một đội xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ trình rút lui của ông tiểu đoàn phó ngày hôm qua. Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Son xin tôi ngừng tác xạ pháo binh trên khu mả Thượng. Rồi M72 nổ. Tiếp đến là M16. Sau cùng là lựu đạn. Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Son reo trong máy,

            -"Báo cáo Thái Sơn xong rồi! Hai cây phòng không. Một trên xe bò, một trên gò mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngã ba."

            Đoạn giữa cái eo chữ "S" là nơi địch đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam đã rách tả tơi nhưng còn bay phần phật bên lộ. Đại đội 1/82 ào lên. Đạn của ta réo như mưa bão. Từ bìa rừng bên phải đường, một tên VC có lẽ là cấp chỉ huy, nhảy ra giữa đường, tay nó giơ cao khẩu K 54 bắn chỉ thiên.

            -"Các đồng chí! Giữ vững..."

            Hắn chưa hô dứt câu thì thân hình hắn đã gập xuống; khẩu K54 rơi trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn. Từ ven rừng phía nam con lộ, nhiều cán binh VC phóng nhanh qua đường tìm cách nhào xuống suối. Súng cứ nổ ròn rã, hiệu lệnh của cuộc hành quân hôm nay là "Giết!" Bất cứ cái gì nhúc nhích trước mặt đều là mục tiêu. "Giết!" Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả lòng căm thù. Chúng tôi đã tiến tới cuối đoạn cua chữ "S" hướng đông. Đại đội của Tiểu đoàn 63 BĐQ trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Nhơn-Cơ thấy hỏa lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận bắn càn nên họ bỏ vị trí rút về bên kia suối.

            Tiếng súng tạm yên thì hai cánh quân hai bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh hai hông phải và trái chiến địa. Tổng kết, quân bạn có bốn chết, ba bị thương nhẹ. Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ. Con số địch bị giết vào khoảng trên dưới một trăm. Vũ khí chúng tôi tịch thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết. Sự hứa hẹn khen thưởng vì chiến công không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này. Tôi vào quận đường Nhơn-Cơ và chỉ gặp Thiếu Tá Khánh, quận trưởng. Vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con đường, liên đoàn đã cho Tiểu đoàn 81 BĐQ của Thiếu tá Mẫn rút về Gia-Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi vào đồn đóng quân chung với Địa Phương Quân của Thiếu tá Khánh và đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi. Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ. Tôi tin chắc rằng, sau khi hai bãi mìn ở Kiến-Đức rơi vào tay Cộng Quân thì chỉ cần hai chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn-Cơ tí teo. Đồn Nhơn-Cơ chỉ có một cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến-Đức về. Sau lưng đồn, sát hàng rào là một cái đập nước rộng và sâu. Chui vào đồn là chui vào rọ.

            Đại úy Hoàn, tiểu đoàn phó được lệnh gom quân đang giữ Kiến-Đức, cuốn chiếu qua mặt tôi rồi lui về đàng sau quận Nhơn-Cơ. Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái đồi Kiến-Đức trước lúc rút đi. Chuẩn úy Bảo, một sĩ quan trung đội trưởng của Đại đội 4/82 là người sau cùng rời Kiến-Đức. Những quả mìn cơ động do Bảo gài lại nơi điếm canh hướng đông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng chào đón những cán binh trung đoàn 271/ T10 CSBV khi họ vào tiếp thu đồi Kiến-Đức. Đại đội tăng phái của Tiểu Đoàn 63/BĐQ đã theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi trả lại Gia-Nghĩa cho Thiếu tá Trần đình Đàng. Khẩu 105 ly bị bể bánh đã được phục hồi. Cả bốn khẩu pháo binh biên phòng đều được kéo về nơi dự trù đóng quân của ông tiểu đoàn phó cùng Đại đội 2/82 và Đại đội 4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn-Cơ cách tôi chừng hai cây số về hướng Gia-Nghĩa. Trưa 21 tháng Ba tôi bố trí bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội 1/82 và 3/82 ngay ngã ba đường xe be, nơi đầu khúc cua hướng đông của đoạn đường chữ "S". Chiều hôm ấy, cách Kiến-Đức hơn bốn cây số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ ùm ùm, lép bép vọng về. Ngọn khói đen bốc lên cao dần. Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những ngôi mộ mới. Chúng tôi đã chôn Thượng sĩ Y Ngon Near, Binh nhì Đức Điếc, ba anh BĐQ mới chết sáng nay và gần chục anh BĐQ chết hôm qua bên lề tỉnh lộ này. Lù lù giữa tỉnh lộ là một đống vũ khí chiến lợi phẩm tịch thu được của địch. Bên đường là một rờ-mọoc (remorque) súng dư dùng của ta. Một núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ cần hai quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết! Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, lòng tôi tê dại, dửng dưng...

            Sáng sớm 23/3/75, tiền đồn hướng tây báo cáo có tiếng hô "xung phong" trên đồi Kiến Đức. Pháo binh đã chuẩn bị yếu tố. Hai chục tràng đạn đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi này. Tiếp đó là một tiếng "Ùm!" từ hướng tây vọng lại. Như vậy là bãi mìn chống tank đã nổ! Không rõ tank địch đã vô ý cán lên bãi mìn, hay bangalore của công binh CSBV đã phá hủy nó? Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy nghĩ phải làm gì để đương đầu với xe tank địch trong những ngày sắp tới?

            Ngày 25/3/75, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông Thiếu tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Từ mấy ngày trước, Thiếu tá Khánh đã ra Gia Nghĩa và ở lại ngoài đó không về. Tôi đi ngang hầm truyền tin thì nghe tiếng loa khuyếch âm oang oang. Thiếu tá Khánh ra lệnh cho lực lượng đồn trú:

            -"Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu tá Biệt Động Quân nghe được thì rầy rà!"

            Người Chuẩn úy trực chi khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống cuống phân bua,

            -"Trình Thiếu tá, không phải lỗi em!" Tôi xua tay,

            Trực thăng vận -"Đừng ngại! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi sẽ gặp xếp của anh!"

            Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nhìn khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106 ly), đạn còn nhiều quá! Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở khẩu súng này lên cho ông Đại úy Hoàn. Thượng sĩ Năng là chuyên viên bắn 106 ly của tôi, khi chúng tôi còn ở Plei-Me. Thượng sĩ Năng chắc phải vui lắm khi nhận được khẩu cối này. Trước khi Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân Nhơn-Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu tá Trần văn Bường ra lệnh cho sĩ quan pháo binh Diện-Địa đồn Nhơn-Cơ phá hủy những khẩu đại bác 105 ly. Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn-Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến-Đức, trong đó có những viên đạn phostpho. Sau cùng, họ đã thả từng quả lựu đạn màu đỏ, hủy từng khẩu pháo. Tôi nhìn cách phá súng của họ và học lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, nòng súng thụt xuống không xử dụng được. Tới trưa hôm đó thì quận đường Nhơn - Cơ trống trơn.

            Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt mìn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn-Cơ. Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc giữa đường Nhơn-Cơ, Gia-Nghĩa. Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng sau cái miếu Thổ Địa nơi đầu dốc. Bốn khẩu 105 ly Biên Phòng hướng về phía tây sẵn sàng đạn chống tank. Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa thăm vị trí của ông Hoàn. Có tiếng động cơ xe từ hướng Kiến-Đức vọng về. Tôi quyết định cho cánh quân của Đại úy tiểu đoàn phó rút qua mặt tiểu đoàn và ngủ đêm bên bờ con sông hướng bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số. Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn. Khi đi ngang xóm nhà của khu dinh điền Nhơn-Cơ, nơi TĐ 81 BĐQ và địch đã giao chiến suốt đêm 18 và sáng 19 tháng Ba, chúng tôi nghe mấy người lính đi bên trái báo có thương binh bạn nằm bên lề đường. Một Biệt Động Quân mang phù hiệu TĐ 81 BĐQ nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ trên mặt cát. Đầu mặt, tay chân anh máu đã khô. Kiến lửa và ruồi nhặng lúc nhúc bu trên người anh. Người chiến sĩ BĐQ chỉ còn thoi thóp nhẹ. Tôi lần tay vào cò khẩu súng Colt. Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn mình.Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm làm việc này! Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đã hôn mê; chắc anh ta không còn biết đau đớn là gì nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát của tôi. Tôi và Đại úy Hoàn lấy một cái poncho phủ lên người anh. Hai chúng tôi đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng. Cách chỗ anh BĐQ nằm chừng năm chục mét trên dốc là hai cái xác Việt-Cộng đã sình. Hai cái xác trương to như hai con bò, áo quần căng cứng. Nắng hầm hập. Một vùng ngập chìm trong tử khí.

            Trưa 25/3/75, khói đen bốc lên hướng thị xã Gia- Nghĩa. Trung tá liên đoàn trưởng báo cho tôi biết tin Tiểu khu Quảng Đức đang bắt đầu rút về BLao. Bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu đoàn 63 & 81 BĐQ đang án binh chờ tôi về rồi mới tính sau. Tôi lên xe chạy về Gia-Nghĩa. Gặp lại Trung tá Thanh, tôi cùng ông duyệt lại tình hình Quảng-Đức. Chúng tôi thấy những ngày trước đó, quân ta chưa có gì sứt mẻ. Tinh thần còn vững vàng. Tiếp liệu còn đầy kho. Chỉ có Kiến-Đức là nóng bỏng. Chúng tôi còn đứng vững, chưa cần tới tiếp viện. Tôi không hiểu vì sao ông tỉnh trưởng bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ. Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi địch chưa tỏ ý định đánh chiếm nó. Kho tàng đã bị đốt hết. Chúng tôi có tử thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút cũng không được. Tôi vội kêu Trung úy Đăng giao Đại đội 2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh dùng xe GMC đi theo bộ chỉ huy tiểu khu. Tới BLao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn cho đơn vị. Ra khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia-Nghĩa. Chợ quán thưa vắng. Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua hai ký tép khô. Giá ba trăm đồng một ký. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy một nghìn, không nhận tiền thối lại.

            -"Sao bà con còn nấn ná ở đây? Người ta đi hết rồi!"

            -"Biết đi đâu bây giờ Thiếu tá ơi! Con thì nhỏ, đường thì xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có chết cũng đành!" Chị bán tép sụt sịt,

            Tôi buồn bã nói với bà con đôi lời từ giã. Lúc đó có tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng bên trái có bóng đi ra đi vô của một bộ quần áo rằn ri. Tôi hỏi chị bán tép chuyện gì huyên náo, chị nói,

            "Cướp, có hai anh lính Biệt Động Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái."

            Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn Chi và Hạ sĩ Mom Son sẵn sàng. Hai người này và anh tài xế đã rõ câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh. Tôi đứng trước đầu xe hét to,

            "Ê! Hai anh kia đi ra không tôi bắn!"

            Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M 26. Tôi ra lệnh, "Bắn!" Hai viên M16 trúng sọ thằng ăn cướp. Nó nằm giãy tê tê trước bục cửa ra vào. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm. Thằng thứ nhì cũng mặc quân phục Biệt Động Quân từ trong nhà chạy ra, trên tay cũng có hai trái M 26. Tôi hét lớn,

            -"Ném hai quả lựu đạn ra sau nhà!"

            Tên cướp ném hai trái M26 ra sân cỏ sau nhà. Chỉ một trái đã bị rút chốt an toàn. Một tiếng "ùm!" làm bay tấm tôle trên mái sau. Tôi ra lệnh tiếp,

            -"Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra!"

            Hắn riu ríu làm theo lệnh.

            -"Còn ai trong nhà nữa không? Ra hết đi!"

            Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo nhau chạy ra ngoài lộ. Ba thày trò tôi tiến lên chổ tên cướp đang run như cầy sấy.

            -"Mày ở đơn vị nào?"

            -"Dạ em là lao công của Sư đoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây!"

            -"Quần áo Biệt Động Quân tụi mày lấy ở đâu ra?" Tôi hỏi vặn,

            -"Dạ nhiều lắm! Trong tiệm giặt ủi đàng kia!"

            Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và túi thằng đã chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho họ. Gia chủ căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám ơn. Tôi đá liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng. Tôi quát, "Cút đi!" Nó lồm cồm bò dậy, chạy một mạch xuống triền đồi khuất dạng. Tôi phân trần với dân phố đang bu quanh,

            -"Tụi này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Động Quân. Biệt Động Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi này!"

            Nói xong câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không còn hiện diện ở nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như thế? Tôi buồn bã lên xe hướng về bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức. Tòa hành chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi. Khu Trung-Tâm Yểm-Trợ Tiếp-Vận chỉ có kho xăng đã cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt lam nham. Những chỗ khác vẫn còn nguyên vẹn. Trên mặt đất, quân trang, quân dụng, lương thực vương vãi khắp nơi. Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với Trung tá liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ sông Kinh-Đà chờ bộ chỉ huy và hai tiểu đoàn. Điểm vượt sông tôi sẽ định sau.

            Sáng 26/3/75, tôi ra lệnh phá hủy bốn khẩu 105 ly ngay trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần một ngàn viên đạn về hướng Kiến-Đức. Khẩu 106 ly được ném xuống dòng sông bên đường sau khi đạn đã được gởi hết qua bờ nam đập nước. Mười giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ sông, tôi gặp một trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm-Đức. Tôi thấy một Nghĩa Quân ngồi trên chòi gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc. Tôi hỏi anh lính,

            -"Sao em còn ngồi đây? Người ta đi hết rồi!"

            -"Ủa! chứ người ta đi đâu Thiếu tá?" Anh lính ngơ ngác,

            -"Người ta rút về BLao hết rồi! Em đi đi!"

            Anh Nghĩa Quân nhìn tôi bán tin bán nghi. Đến lúc thấy quân lính theo tôi đông ngời ngời, anh phát hoảng, co giò chạy về hướng thị xã. Tôi cho tiểu đoàn đi song song với bờ tây của sông Đa-Dung, xuôi về hướng nam chừng nửa cây số thì dừng lại. Càng xa những đường lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo chuyện rủi ro trên bờ đối diện. Tôi quyết định vượt sông nơi vắng vẻ đìu hiu nhất. Tôi chọn hai anh lính gốc dân chài cùng tôi bơi qua sông làm đầu cầu. Ba khẩu M16, ba băng đạn, ba cuộn dây nylon, ba thày trò tôi bu theo ba cái phao poncho độn bằng cành lá. Chỉ có tôi và một anh lính tới bờ bình yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi chìm nghỉm giữa dòng, sau một tiếng "Ối!" thất thanh. Đa-Dung nổi tiếng là sông nhiều cá sấu!

            . . . . .

            (còn tiếp)

            (*) "Ngày Ta Bỏ Núi" trong Đa Hiệu 77.

            Comment


            • #7
              Phần 3
              NGÀY TA BỎ NÚI
              Vương mộng Long

              Qua tới bờ đông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh BĐQ bạn yên tâm cột giây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng. Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm. Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát. Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi bộ chỉ huy liên đoàn bắt đầu xuống mảng thì Tiểu đoàn 82 BĐQ cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao. Cách bãi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước, lội ngược dòng về thượng nguồn. Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau. Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo Trung tá Thanh liên đoàn trưởng, Trung úy Minh sĩ quan truyền tin liên đoàn và ba người khác bị thương. Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi giây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung tá liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán. Sau khi băng bó,Trung tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.

              Sáng 27/3/75, trực thăng từ Đà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này còn có Thiếu tá Hoàng đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng TĐ81 BĐQ. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính. Như vậy là chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Đức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi vùng. Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc hướng về phía đông. Chiều đó đang đi trên một lối mòn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu VC gần đâu đây? Tôi báo cáo tình hình cho Trung tá Đào đức Châu (k12 VB) liên đoàn phó, lúc này đang Xử Lý Thường Vụ chức liên đoàn trưởng Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đề nghị ông cho những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt. Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Động Quân. Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút khói, dưới chân một cái nhà sàn. Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch.

              Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Đại đội 3/82. Tôi và Binh nhì Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào. Trung úy Trần văn Phước (ĐĐT3/82) và cả chục BĐQ dưới quyền anh đang quây quần bên một vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya. Với tôi, thì uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu trong khi hành quân thì tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước. Tôi rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.

              -"Cuốn lều! Đại đội 3 cuốn lều! Hướng một ngàn sáu trăm zu lu! Làm ngay!"

              Trung úy Phước và "tòng phạm" riu ríu thi hành lệnh. Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Đại đội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Đại đội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ. Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 tôi bàn giao căn cứ Đức-Cơ và Tiểu đoàn 81 BĐQ cho Thiếu tá Hoàng đình Mẫn để về giữ chức trưởng phòng 2/BCH BĐQ QK2 thì Chuẩn úy Trần văn Phước mới mãn khoá Tình-Báo Cây-Mai. Đã có lần tôi gởi Chuẩn úy Phước vào Plei M'rong làm ban 2 cho Thiếu tá Phạm duy Ánh, tiểu đoàn trưởng TĐ63 BĐQ (1973). Thiếu tá Ánh chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của Chuẩn úy Phước. Cuối cùng Phước lại khăn gói quả mướp về trình diện tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước ở với tôi từ đó cho tới cuối 1973 thì thày trò tôi vào Plei-Me. Chú Phước và chú Minh (sĩ quan truyền tin LĐ24 BĐQ sau này) là hai sĩ quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi Tiểu đoàn 82/ BĐQ bị tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974 trên căn cứ 711. Rồi cũng chính Thiếu úy Trần văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trở lại trên căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị sáu tiểu đoàn của SĐ 320 Điện Biên xa luân chiến. Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi. Sau trận Plei-Me, Thiếu úy Trần văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề quân báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng. Đây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước. Đầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt,

              -"Em xin lỗi Thái Sơn! Em xin lỗi anh Hai!"

              -"Thôi! Ngủ đi! Chờ mai anh lên với chú!" Tôi cũng thấy mủi lòng, xốn xang,

              Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế!

              Trăng sáng như ban ngày. Gần chín giờ đêm, trung tá liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng. Ông Châu nhờ tôi xin trực thăng tản thương cho ông ta ra khỏi vùng. Đại úy Trần dân Chủ, ban 3 liên đoàn cũng xin phép tôi để đi theo trung tá liên đoàn phó. Tháp tùng Trung tá Châu, ngoài Đại úy Chủ còn hai hạ sĩ quan truyền tin liên đoàn.

              Sáng 28/3/75, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan của bộ chỉ huy liên đoàn vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào. Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng.

              -"Em không về đâu! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng!"

              Người đàn bà này đã theo đoàn quân của TĐ 81/BĐQ từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giãy giụa, miệng chị la bài hải,

              - "Em không sợ chết đâu! Cho em ở lại đi! Các anh ơi!"

              Nhẹ tưạ lông hồng Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà. Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Động Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm. Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.

              Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 Hành Quân chỉ định Thiếu tá Hiện Dịch Vương mộng Long khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi mời Thiếu tá Đàng và Thiếu tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu đoàn 82 BĐQ sẽ mở đường, Tiểu đoàn 81 BĐQ đi giữa, Tiểu đoàn 63 BĐQ có nhiệm vụ đoạn hậu. Đối với Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tôi không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là tiểu đoàn phó của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 81 BĐQ. Anh Trần đình Đàng xuất thân khóa 15 Võ-Bị và phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân từ những năm binh chủng mới được khai sinh. So với Thiếu tá Đàng, tôi là đàn em rất xa, về cả hai xuất xứ, Biệt Động Quân cũng như Võ-Bị (tôi xuất thân từ k20). Tôi xin ý kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại gì khi anh phải nằm dưới sự chỉ huy của tôi không? Anh Đàng trả lời một cách khẳng khái,

              -"Chú chỉ huy là phải rồi! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên chí đi!"

              -"Cám ơn Niên Trưởng!" Tôi xiết tay anh Đàng thật chặt. Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn.

              Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành trình theo dự trù. Cứ theo hướng 1600 ly giác, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về thị trấn BLao. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy; trên đường chỉ có dấu chân voi. Địa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968 tôi đã lặn lội, lùng sục không sót một ngọn đồi nào trong vùng này. Đã bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ đông sông Đa-Dung qua Quốc lộ 20 tới cao nguyên Gia-Bắc giáp giới quận Thiện-Giáo, Bình-Thuận. Ngày đó, Trung tá Bùi văn Sâm LĐT LĐ2 BĐQ đã biệt phái TĐ11 BĐQ của Đại úy Hồ khắc Đàm (k16VB) cho Task Force South của Tướng Trương quang Ân, Tư lệnh Sư đoàn 23/Bộ Binh. Tôi lúc đó là đại đội trưởng ĐĐ1 TĐ11 BĐQ dưới quyền anh Đàm. Chúng tôi được trực thăng Hoa-Kỳ tải vào rừng. Tìm mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Mười ngày sau chui ra bãi trống nhận tiếp tế gạo mắm. Rồi lại leo lên trực thăng, đổ xuống bãi khác. Lại tìm mục tiêu. Lại leo hết đồi này tới đồi khác. Lại tiếp tế... Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng tôi lần mò trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có dịp nhìn thấy phố... Bảy năm sau, tôi lại lội trên những con đường mòn ngày xưa tôi đã dẫn quân đi qua. Bảy năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên Đại-Nga, hướng nào về Tân-Bùi, ngả nào qua Tân-Rai. Lương thực của chúng tôi đã gần cạn. Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua.

              30/3/75, mặt trời vừa lên, trong máy nội bộ của TĐ82/BĐQ đã có tiếng người trên trực thăng hối thúc,

              -"Yêu cầu Thái Sơn kiếm bãi đáp nhận chỉ thị gấp!"

              Lúc đó chúng tôi đang ở gần một bãi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống. Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy bay để nghe anh ta nói,

              -"Tôi được lệnh Quân đoàn lên đón Thiếu tá về Đà-Lạt. Thiếu tá lên tàu mau đi!"

              -"Thế còn liên đoàn thì sao?"

              -"Chúng tôi chỉ 'rescue' một mình Thiếu tá thôi! Những người khác, bỏ!"

              -"Thôi! Nếu thế thì tôi không đi đâu! Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một mình. Anh về báo với Quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm tôi." Tôi xua tay,

              Nói xong câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi thì người phi công cởi giây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn,

              -"Tôi không ngờ giờ này quân đội ta còn một vị chỉ huy đáng nể như Thiếu tá! Thiếu tá cho phép tôi chào kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông."

              Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn giơ tay vẫy vẫy giã từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây.

              Binh nhất Y Don Near mang máy truyền tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đã nghe tất cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đã kể lại chuyện này cho bạn bè. Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân, vài anh lính Rhadé, Jarai đã đến xúm quanh người chỉ huy của họ,

              -"Ông Thiếu tá ơi! Đừng bỏ tụi em, tội nghiệp!"

              - "Ừ! Thiếu tá không bỏ các em đâu! Thiếu tá lúc nào cũng ở bên các em. Chúng mình sống chết có nhau!" Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn trên những gò má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình ấm lại.

              Chúng tôi đã cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói. Răng người nào cũng đen thui vì nhựa chuối rừng. Điều khổ nhất phải chịu đựng là, sau khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối thì chất sơ của chuối làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn đau rát lắm. Đi tiêu xong người nào cũng bước cà-náng, hai hàng. Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ bát canh rau tàu bay của chú Bích thì Thiếu úy Học rón rén tới gần. Học thì thầm,

              -"Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn cho phép bắn làm thịt nghe?"

              -"Ừ! Bắn đi!" Tôi sáng mắt lên,

              Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau chú quay lại, mặt tiu nguỷu,

              -"Thằng lính gác muốn bắn nhưng lại sợ Thái Sơn la. Đợi khi em xin phép xong thì con gấu đã chạy mất tiêu rồi!"

              Tôi thì buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất ăn một bữa thịt gấu. Vui vì tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay. Chúng tôi đang ở bên bờ một con suối lớn. Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ý lạ: Đốt cá! Tôi gọi Thiếu tá Tài và Thiếu tá Đàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho ba tiểu đoàn tản xa theo dòng nước. Mỗi tiểu đoàn trấn giữ một khúc suối. Nơi đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt ba quả lựu đạn M26 là liên đoàn có một bữa cá no nê. Tôi học được cách đốt cá từ khi còn ở Đại đội Trinh-Sát Liên đoàn 2. Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt đi. Bẻ đầu một viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn. Đốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên. Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong lòng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng, lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con gì trong nước cũng nổ con ngươi nổi lên mặt nước. Buổi chiều chúng tôi mỗi người được chia một lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên đường.

              31/3/75, chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi cách Bảo Lộc trên dưới hai chục cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nhìn thấy thung lũng dưới chân đồi là một mật khu trù phú. Kế hoạch đặt ra như sau: Đại đội 3/82 sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu đoàn sẽ cắt hai chục người tải lương thực về. Kế hoạch đã được thi hành như dự liệu và không có gì trục trặc xảy ra. Đại đội 3/82 thanh toán mục tiêu rất nhanh. Một cán bộ VC quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn chờ ly cà phê phin nhỏ giọt thì bị một viên M16 ghim vào ngực. Hai cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị mỗi tên một viên M16 vào ngực. Mấy anh cán binh đang tưới cây trong vườn cũng bị mỗi anh một viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là một trung tâm huấn luyện của Tỉnh-Đội Lâm-Đồng Việt-Cộng. Trung tâm có khoảng trên ba trăm khẩu súng gỗ và cả chục khẩu súng thật. Có một khẩu cối 82 ly với một kho đạn. Tên VC đang chờ uống cà phê có vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đã xuất trại vắng. Quân ta làm chủ tình hình một cách lẹ làng. Có một tai nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà-lọt của tôi đã lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của hạ sĩ. Đói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên đồi. Ăn xong bữa thịt gà hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre còn lòi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ Ba cả tấc. Quân y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba vì không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng kìm cắt cọng tre ngắn đi cho đỡ vướng. Vốn là một tay viễn thám gan lỳ, người tà-lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt đi theo đoàn tùy tùng của Đại úy Hoàn. Tôi cũng quên dặn dò các cánh quân coi chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả, đạn của Đại đội 3/82 đã sượt qua cổ một anh BĐQ TĐ63 BĐQ thay vì trúng đầu một con gà. Người trúng đạn bị thương nhẹ.

              Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đã rút lui an toàn. Mới vài ngày trước, tôi đã chứng kiến cảnh BĐQ hoan hô người đàn bà can đảm của TĐ81 BĐQ trên bãi trực thăng, vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ dưới chân đồi hì hục leo lên. Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại vì ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ý của các đơn vị Việt-Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của chúng lúc này. Khi rút lui, Trung úy Phước đã sơ ý không phá cơ bẩm khẩu súng cối. Vài giờ sau khi chúng tôi rút đi thì đạn cối 82 ly bắt đầu câu theo đít quân ta. Chúng tôi nhanh chân vượt qua hai ngọn đồi rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy. Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt- Cộng "ùm! ùm!" rơi bâng quơ trong núi.

              1/4/75 Lên đường! Sáng nay mọi người đều no bụng. Đoàn quân tìm lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào! Đội hình một hàng dọc! Thứ tự như cũ! Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Binh nhì viễn thám viên Triệu Tân mở đường. N gười thứ nhì là Thiếu úy Học. Người thứ ba là tôi. Sau tôi là thằng Don. Sau thằng Don... là đoàn rồng rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc. Đường độc đạo, hai bên là lau sậy và gai mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung bình mỗi người cách nhau 3 mét, thì toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu tá Đàng phải trên 2 cây số. Tới chiều thì chúng tôi bắt đầu đi lên một cái dốc khá cao. Tình hình vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh bình thì cảnh này thật lý tưởng cho các thi nhân lang thang đi tìm ý thơ...

              "Choác!" Thằng Tân té ngửa! Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. Một giây sau tôi và chú Học mới bóp được cò hai khẩu M16 theo phản xạ, nhắm về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc. Đạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Đạn văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu "Tăng! Tăng!... Tằng! Tằng!..." rồi... "Xèo!" chui xuống cỏ. Toán viễn thám của Binh nhất Tuấn phóng nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn. Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc, nhưng tên bắn tỉa đã cao bay. Viên đạn súng trường Nga trúng ngay giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ còn nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá. Chỉ với một viên đạn, Thượng Cộng đã loại ra ngoài vòng chiến một viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi. Khi đại đội của Thiếu úy Học đã bố trí an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng BĐQ Triệu Tân. Thêm một cái thẻ bài mất chủ bị cất trong ba lô của Thiếu úy Hoàng, ĐĐTĐại đội Công Vụ của TĐ 82 BĐQ. T ôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi để nghỉ qua đêm. Đêm đó toán viễn thám của Binh nhất Tuấn âm thầm lên đường. Điểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ chúng tôi dừng quân gần hai cây số. Mờ sáng hôm sau một quả Claymore nổ. Tên Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lãnh nguyên trái mìn cơ động, khẩu súng trường bá đỏ văng trên bãi cỏ bên đường: Có vay có trả!

              Tấn Công Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho hai tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Đoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được sự theo dõi của Thượng Cộng. Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của mình. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, nhưng đồn Tân-Rai đã bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường cho được!

              Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đã ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con Hinh Đa. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân "thùng! thùng!" Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đã rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, tìm đường lên Đức-Trọng, Liên-Khương. Không biết tình hình Đà-Lạt ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hi vọng, có còn hơn không!

              Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng năm cây số. Bên kia lộ là vườn trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì một chiếc xe tải đi tới. Toán cận vệ BĐQ bắn đại vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít! Tôi không biết vì sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Đà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi, tìm đường ra biển.

              Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng tìm được đường tới Liên-Đầm. Rồi từ Liên-Đầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga bắn "tắc! bụp!" Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng còn có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. "Đoàng!" thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người. Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Đơn vị CSBV này cũng cỡ một E pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ ba mươi sáu trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã. Anh Thiếu tá Đàng đi đoạn hậu, còn ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Đêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Đèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì, eo ơi! vắt nhiều không đâu bằng!

              Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung tá Hoàng kim Thanh LĐT/LĐ24/BĐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3. Trên tàu là Trung tá BĐQ Nguyễn khoa Lộc (k18 VB); anh đang đi tìm tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung Tá Thanh đã về tới Sài-Gòn. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung tá Thanh đã tới trình diện Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông Tướng rằng Thiếu tá Vương mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BĐQ trên đường tìm về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung tá Lộc đi tìm bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Đàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào bìa rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc. Đêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Đàng đóng quân chung. Đó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn Niên Trưởng Trần đình Đàng đã phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu tá Đàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Động Quân còn duy trì toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần đình Đàng khóa 15 Võ-Bị.

              Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BĐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Đổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho Tướng Lê minh Đảo (k10 VB), Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Hôm sau, hai tiểu đoàn 81 BĐQ và 63 BĐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu Bình Thuận.

              Khoảng năm giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME!

              Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: "Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải" (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới.

              Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn (*)

              Seattle, ngày 21 tháng Tư năm 2006

              (*) "Ngày Ta Bỏ Núi" trong Đa Hiệu 77.
              Last edited by nguyenphuong; 07-04-2014, 03:56 AM.

              Comment


              • #8
                Trung úy SƠN
                Charles Kuralt
                Hoàng Mai Đạt dịch

                Nhà Báo Charles Kuralt Nhân ngày tưởng niệm 30 Tháng Tư, mời quí độc giả đọc một bài dịch lồng trong một bài viết về câu chuyện một ký giả Mỹ từng gặp những một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vào đầu thập niên 1960. Bài này đã được đăng trong tuyển tập “Biên Tà Tà” của Hoàng Mai Đạt.

                Ông Charles Kuralt là một ký giả truyền hình nổi tiếng trong giới truyền thông Hoa Kỳ. Người Mỹ kính trọng ông Charles Kuralt không vì ông có thể bám sát chuyện thời sự trên thế giới hoặc thông thạo các ngõ ngách quyền lực tại Hoa Thịnh Đốn. Người Mỹ quí ông vì ông cho họ thấy đất nước này còn có những con người chất phác, giàu lòng bác ái và đầy tình người. Những “con người” của ông Charles Kuralt thường có một đời sống hoặc thói quen kỳ quặc một cách đáng yêu, đáng mến. Họ không xuất hiện trong những bản tin mà người thành phố vẫn đọc trên báo vào mỗi buổi sáng hoặc xem trên đài truyền hình vào mỗi buổi chiều.

                Họ có thể là một ông lão sống giữa rừng trong vùng biên giới Minnesota, từng chui vào bụng hươu, thoát hiểm qua một đêm băng giá; một giáo sĩ râu bạc trắng sống xa lánh trần gian trên một đỉnh núi tuyết tại Washington; những người sống bằng nghề rung lò so se tải để bắt trùng đất tại Florida; một nông dân da đen vừa làm ruộng, vừa đọc sách mỗi ngày, có một thư viện đa dạng hiếm hoi giữa một miền quê nghèo khó tại Arkansas; một bà cụ trên tám mươi tuổi đã bay trên ba mươi ngàn giờ, có thể là phụ nữ bay nhiều nhất thế giới; một người cắm ngược nhiều chiếc Cadillac giữa một cánh đồng “văn hóa xe” tại miền Tây Texas; hoặc một ông lão có thú vui thả diều cho trẻ em ở Indiana giữa đất nước Hoa Kỳ rộng lớn.

                Trong hơn ba mươi năm phiêu bạt đó đây trên khắp thế giới, ông Charles Kuralt tìm ra hàng trăm nhân vật ly kỳ, đáng xem và đáng mến, mang họ đến với khán giả truyền hình. Từ một chàng thanh niên có biệt tài văn chương, làm việc cho một tờ báo địa phương, ông Charles Kuralt được mời đến đài CBS tại New York đúng lúc ngành thông tin truyền hình đang bắt đầu trưởng thành vào cuối thập niên 1950.

                Trong mấy năm đầu ông săn tin, viết tin, đọc tin trên đài truyền hình. Biến cố thời sự nào ông cũng am tường hoặc có tham dự. Tuy thế, viết tin và đọc tin mỗi ngày không là nỗi ao ước lớn nhất đời ông. Đến một ngày kia ông mới có cơ hội thực hiện điều mà ông đã thèm khát từ lâu. Đó là lái một chiếc xe và tự “thất lạc” trên một đất nước bao la, vô tận như niềm vui giang hồ của ông. Trong hai thập niên “thất lạc” ông đã lăn bánh hơn một triệu dặm khắp nước Mỹ, và khi nghe ông kể lại trên đài truyền hình vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật, người ta hiểu rằng ông đã yêu thương từng dặm đường lang thang ấy biết bao.

                Theo lời tâm sự trong loạt chương trình “On The Road” và được in thành sách sau này, ông nếm mùi giang hồ ngay từ ngày 9 Tháng Chín năm 1934, ngày chào đời của cậu bé Charles Kuralt. Hôm ấy một người đàn ông thường giúp đỡ kẻ nghèo khốn đã lái một chiếc xe Chevrolet đưa một cô giáo sắp sanh đến bệnh viện. Chiếc xe phóng qua mấy thị trấn tại miền quê North Carolina trong hơn một giờ đồng hồ. Ông Charles Kuralt tự hào rằng ngay từ lúc lọt lòng mẹ ông đã du lịch trên năm mươi dặm trong chiếc Chevrolet của cha. Từ đó ông “nghiện” du lịch, không ngừng phiêu lưu cho đến ngày qua đời vào năm 1997. Ngoài thời gian tìm tòi trên đất Mỹ, ông du lịch khắp thế giới, từ Bắc Cực đến Congo, từ Cuba đến Liên Bang Xô Viết. Thế rồi hơn bốn mươi năm trước đây, ông ghé Việt Nam và gặp Trung Úy Sơn, một người lính Việt Nam Cộng Hòa mà ông đã kể lại trong một chương sách mang tựa đề “Lieutenant Son”. Chương này nằm trong cuốn A Life On The Road được soạn viết trong thập niên 1980. Nhân dịp ngày 30 Tháng Tư mấy năm trước, tôi quyết định chuyển ngữ “Trung Úy Sơn” để chia sẻ với bạn về những gì mà ông Charles Kuralt viết về một người lính Việt Nam Cộng Hòa. Từ ngày đọc “Trung Úy Sơn” lần đầu, mỗi 30 Tháng Tư tôi vẫn thường tìm lại bài này. Sau khi đọc “Trung Úy Sơn” bạn sẽ hiểu tại sao.

                ***

                Vào Mùa Xuân năm đó ông Les Midgley nói một câu làm cho tôi suýt bị thiệt mạng trong vòng một gang tay. Ông ấy nói, “Việt Nam.”

                Lúc đó là Tháng Tư năm 1961. Sổ tay cho chuyến đi Việt Nam của tôi chỉ ghi nhận vỏn vẹn có một câu: “Khoảng 500 cố vấn quân sự đang có mặt tại đây.” Khi ấy chưa có một cơ quan truyền thông Hoa Kỳ nào cho rằng cuộc chiến Việt Nam có đủ tầm mức quan trọng để cho họ mở văn phòng thường trực tại quốc gia này. Sự viếng thăm của một nhóm truyền hình Mỹ quả là bất thường, đến nỗi khi anh thâu hình Fred Dieterich từ Los Angeles và tôi đặt chân đến phi trường Sài Gòn thì chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gửi ngay một anh tài xế lái xe Citroen đến đón và đưa chúng tôi vào thành phố, giúp cho hai người khách lạ được thoải mái. Chính quyền cũng dàn xếp cho tôi được phỏng vấn Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào buổi sáng hôm sau.

                Ông Diệm được bầu lên chức tổng thống và rồi trở thành một nhà lãnh đạo chuyên quyền. Dưới chiêu bài phải chiến thắng cộng sản miền Bắc, ông ra lệnh bắt giữ đông đảo người đối lập, kiểm duyệt quyền tự do báo chí. Quân đội của ông đương đầu với một cuộc chiến tàn bạo trong rừng sâu và trên những cánh đồng. Họ dần dần mỏi mệt. Trong cuộc phỏng vấn, ông Diệm nói về hoàn cảnh đất nước của ông bằng những lời rất thẳng thắn. Ông không dùng những chữ nghĩa tối mù ngoại giao mà tôi đã chờ đợi. Ông trình bày rất rõ ràng về vấn đề Việt Nam cần viện trợ quân sự của Hoa Kỳ. Ông nói với tôi rằng khi đất nước Việt Nam bị chia đôi vào năm 1954, khoảng 900,000 người miền Bắc đã di cư vào miền Nam. Ông cho biết hầu hết những người di cư là những người chống cộng sản. Tuy thế, trong số này cũng có chừng 10,000 người Việt Cộng được huấn luyện và trà trộn trong khối dân miền Nam. Những người này chờ và thi hành mệnh lệnh khủng bố người miền Nam. Ông Diệm nói như sau, “Những người cộng sản nằm vùng đã giết chết xã trưởng, giết luôn các phụ tá và rồi nắm quyền kiểm soát toàn xã. Đó là chiến thuật của người cộng sản. Giờ đây Việt Cộng hoạt động tại miền Nam còn nhận được sự trợ lực trực tiếp từ các cán bộ tại Hà Nội. Đây là một cuộc xâm lăng rất kín đáo, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc và Liên Sô. Để chống lại sự xâm lăng này, chính quyền của chúng tôi rất cần viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ.” Tôi gợi ý rằng Việt Nam là cựu thuộc địa của người Pháp, và như thế may ra miền Nam Việt Nam có thể nhận được một phần nào sự trợ giúp của Pháp.

                Ông Diệm trả lời thẳng thừng, “Người Pháp không có ý chí. Chỉ có quốc gia của quí vị mới có ý chí bảo vệ tự do trên thế giới. Nếu Hoa Kỳ cũng đánh mất ý chí này thì Việt Nam sẽ không có tự do.” Ngày hôm ấy ông Ngô Đình Diệm đã cho tôi một bài học lịch sử rất hay. Bài học đó cũng là lời tiên tri hay không kém.

                Dưới mắt tôi Sài Gòn là thành phố hấp dẫn nhất trong các thành phố. Cuộc chiến ở miền thôn quê chưa ảnh hưởng đến thủ đô. Tất cả những người mà tôi được gặp, kể cả giáo viên, ký giả, tiếp viên nhà hàng cho đến tài xế taxi, đều thân thiện và rất ý tứ. Tôi cho rằng phụ nữ ở đây xinh đẹp trong những tà áo dài lướt trôi giữa những dòng xe ngoài phố. Sài Gòn có thời tiết mùa xuân rất đáng yêu với những quán cà phê bên đường thật thú vị. Tôi đi bộ dưới bóng cây râm mát trên các đại lộ vào ban ngày, nằm trên giường bên dưới một quạt trần lười biếng trong khách sạn Majestic cũ, lắng nghe tiếng tàu thuyền di chuyển trên sông vào ban đêm. Tương tự như đám ký giả ngoại quốc kéo đến đây trong những năm sau này, tôi đã yêu mến Sài Gòn. Thành phố rất xứng đáng được bảo vệ. Tôi nghĩ nếu một mai thành phố đầy ánh nắng và quyến rũ ấy bị cộng sản xâm chiếm, để rồi trở thành một nơi xám ngoét, đầy kỷ luật nghiêm ngặt, thì thật không còn một chút hy vọng nào cho nền văn minh của nhân loại.

                Mỗi ngày tôi vẫn ghé đến văn phòng thông tin của chính phủ, để quấy rầy một viên chức và xin phép được tháp tùng theo một cuộc hành quân ra miền thôn quê. Ban đầu viên chức nói, “Nguy hiểm lắm;” sau ông nói, “Có thể;” đến khi biết tôi sẽ không đi cho khuất mắt ông, một ngày kia ông ta mới nói, “Ngày mai. Trung Úy Sơn sẽ đến đón ông tại khách sạn. Hãy chuẩn bị để đi xa nhiều ngày.” Ngày hôm sau anh Fred đặt hết dụng cụ vào đằng sau một chiếc Jeep của quân đội, leo vào ghế sau trong khi tôi ngồi ở ghế trước với Trung Úy Sơn.

                Ông Sơn là một sĩ quan Biệt Động Quân trẻ tuổi, gọn ghẽ, từng được huấn luyện mấy tháng tại Hoa Kỳ. Tiếng Pháp rất kém của tôi và tiếng Anh cũng rất kém của ông Sơn cũng đủ cho chúng tôi nói chuyện trong lúc xe chạy ra ngoại ô về phía Bắc Sài Gòn. Tuy còn trẻ tuổi, Trung Úy Sơn lại là người có rất nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh. Ông kể cho tôi nghe rằng ông xuất thân từ một gia đình ái quốc. Ông và hai người anh đã gia nhập lực lượng Việt Minh trong cuộc chiến chống Pháp. Ông là một trong những thiếu niên vác đạn trong những ngày cuối cùng của trận đánh Điện Biên Phủ năm 1954. “Thế nhưng chúng tôi muốn có một đất nước tự do,” Trung Úy Sơn nói thêm. “Gia đình tôi không đánh Pháp để rồi bị cai trị bởi Hồ Chí Minh.” Ông nhún vai và cười, “Thành thử bây giờ chúng tôi vẫn tiếp tục tranh đấu. Ông sẽ thấy có rất nhiều người như chúng tôi trong lực lượng Biệt Động Quân.”

                Chúng tôi ngủ đêm trong một kho hàng bỏ phế tại thị trấn Bến Cát, cùng với Trung Úy Sơn và nhóm của ông, Đại Đội 150 Biệt Động Quân. Ông Sơn giới thiệu hai đứa tôi với những người lính trong trung đội của ông. Chúng tôi trịnh trọng bắt tay từng quân nhân, nghe ông Sơn đọc một bài diễn văn ngắn với những người lính. Sau đó ông cười toe với chúng tôi, “Tôi nói với họ hãy chăm sóc quí vị vào ngày mai.” Khi bóng đêm phủ xuống, ông Sơn mang thức ăn, cơm và thịt trong một thứ nước sệt nặng mùi (thịt kho, lời người dịch). Tôi hỏi, “Món gì đây?” Ông Sơn trả lời, “Tôi không biết phải nói sao với ông. Thôi ông cứ ăn và đừng hỏi nữa.” Ông ta cười lớn. Ông mang cho tôi và anh Fred hai chiếc giường, trong khi chính ông cùng những người lính đã trải chiếu nằm dưới đất. Tôi nói, “Tôi không thích được ưu đãi như thế này. Chúng tôi đã chuẩn bị để sống y hệt như các bạn.” Ông Sơn đưa một tay lên và nói, “Các bạn là quí khách của chúng tôi.”

                Các sĩ quan tụ tập trong một góc phòng, nghiên cứu bản đồ bên dưới một bóng đèn điện treo lòng thòng từ trên trần nhà. Vào sáng hôm sau ba trung đội Biệt Động Quân được lệnh di chuyển xuống phía Nam, tiến vào một dải đất nằm giữa sông Sài Gòn và một con kinh. Cuộc hành quân là nhằm bao vây một lực lượng Việt Cộng mà những người lính Biệt Động Quân cho rằng rất nhỏ. Nhóm Việt Cộng hoạt động trong một khu vực được gọi là An Điền. Trung đội của ông Sơn là hàng lính tiến vào giữa trọng tâm của khu vực. Trung Úy Sơn tỏ vẻ ái ngại khi nói với chúng tôi, “Chúng ta không đi bằng đường đất. Tôi xin lỗi. Hai bạn sẽ bị dính bùn vào giày.”

                Chúng tôi leo lên những chiếc xe vận tải của nhà binh trước khi mặt trời mọc. Sau một đoạn đường rất ngắn, đoàn xe dừng lại bên cạnh một bìa rừng. Trong bóng tối, những người lính đã yên lặng đội nón sắt, cầm thẳng súng, đeo những băng đạn vào thắt lưng. Ở đâu đó từ đằng sau lưng, tiếng đạn đại bác 155 li bắn qua đầu chúng tôi, nhắm vào khu rừng trước mặt. Chúng tôi đi bộ vào trong rừng, tiến tới từng bước một - tiến tới gì? Tôi không biết. Tiến tới cái gì đó nằm ở trong rừng. Khi trời ửng sáng, thỉnh thoảng tôi có thể thấy chúng tôi đi ngang qua những khóm nhà hoang phế ở trong rừng. “Không có ai ở nhà,” ông Sơn nói. “Sợ chúng tôi, sợ đối phương. Luôn luôn chạy trốn.”

                Tiếng đạn đại bác ngưng một thời gian. Buổi sáng trở nên yên lặng, ngoại trừ tiếng động của khoảng ba mươi đôi giày lính di chuyển trên mặt đất. Chúng tôi ra khỏi khu rừng, trèo qua một hàng rào kẽm gai và lội một dặm qua những đồng lúa. Anh Freddy và tôi đi vài bước trước mặt người dẫn đầu hàng lính. Chúng tôi thâu hình đội lính tiến về phía trước. Buổi trưa đang trở nên nóng hơn. Tôi nghĩ rằng chắc không có gì xảy ra. Thôi thì ít nhất chúng tôi cũng thâu được hình ảnh những người lính hành quân qua những cánh đồng.

                Đúng lúc chúng tôi đến một con đê cao hơn mặt ruộng, một tràng tiếng đạn bỗng nổ vang từ hàng cây nằm bên kia con suối, cách chúng tôi khoảng nửa dặm. Tiếng súng nổ mỗi lúc một lớn hơn, gia tăng âm độ và cường độ cho đến khi tất cả tiếng đạn trở thành một tiếng nổ lớn liên tục. Chúng tôi có thể thấy bóng người chạy thấp thoáng ở hàng cây và nghe tiếng kêu la của họ. Trung Úy Sơn hét lệnh cho những người lính của ông. “Phục kích!” ông nói cho tôi biết. “Trung đội bên kia đã rơi bẫy. Họ đang cần chúng tôi ngay bây giờ.” Nói xong ông rút một khẩu súng lục 45, đưa súng lên cao và vẫy qua đầu, chỉ huy trung đội của ông tiến vào trận đánh. Các quân nhân chạy theo ông. Họ lội qua suối phóng về phía hàng cây đang có giao tranh. Anh Fred và tôi cầm máy chạy theo họ. Chúng tôi làm tất cả những gì có thể làm được, để vừa thâu hình các quân nhân chạy tới trước, vừa thâu âm thanh của cuộc đụng độ mà không bị họ bỏ rơi quá xa.

                Đến khi chúng tôi chạy tới hàng cây thì tiếng súng giảm xuống. Thỉnh thoảng có tiếng nổ hàng loạt lẻ loi từ trong rừng sâu. Tôi thấy những tử thi nằm rải rác khắp nơi ven bìa rừng. Hầu hết tử thi là những người lính Biệt Động Quân, ngoại trừ hai xác Việt Cộng trong bộ áo bà ba đen rộng. Một trong hai du kích Việt Cộng nằm bên cạnh một khẩu súng trường Browning nặng nề. Người còn lại chỉ có một thanh mã tấu.

                Trung Úy Sơn ra lệnh cho trung đội của ông dừng lại bên hàng cây. Theo lệnh của ông mỗi người lính lấy ra một chiếc khăn trắng và buộc vào cánh tay trái. Ông cũng trao khăn trắng cho chúng tôi. “Để chúng ta không bắn lầm nhau,” ông giải thích. “Chúng ta sẽ tiến rất chậm. Hai bạn hãy đi sát bên tôi.”

                Các quân nhân dàn rộng dọc theo hàng cây. Nghe lệnh của Trung Úy Sơn, mọi người cùng tiến vào rừng. Chúng tôi đi dò từng bước được năm mươi thước, rồi một trăm thước, mỗi người lính cẩn thận nghe ngóng động tĩnh ở phía trước. Chúng tôi gặp thêm những xác chết. Chúng tôi đi ngang qua một Biệt Động Quân đã bị thương và đang tìm cách ngăn chặn máu chảy từ vết thương trên ngực của một đồng đội. Trung Úy Sơn ngừng lại vài giây để nói chuyện với quân nhân bị thương. Sau đó ông tiếp tục chỉ huy chúng tôi tiến tới rất chậm trong sự im lặng. Anh Fred nói thì thầm với tôi, “Kinh rợn như địa ngục.”

                Cuối cùng chúng tôi đến một con đường đất dẫn ra một bãi đất trống nằm giữa rừng. Trong bãi đất này có một ngôi chùa bỏ hoang và một căn nhà không còn mái che. Trung Úy Sơn ra hiệu cho bốn quân nhân lục soát bên trong ngôi chùa và căn nhà. Họ dùng báng súng đập tung cửa chùa và tiến vào bên trong. Trống trơn. Họ cẩn thận bao vây căn nhà trước khi xông vào. Trống trơn. Nhóm truy lùng trở lại với chúng tôi ở giữa bãi đất trống. Chúng tôi đứng thành một vòng tròn, mỗi người dóng mắt về hướng rừng cây im lặng bao quanh. Và rồi địa ngục bung mở tán loạn. Khu rừng chung quanh chúng tôi bỗng nổ tung. Tiếng đạn kêu lạch cạch liên hồi, bao vây chúng tôi trong âm thanh rền vang điếc ngộp đất trời. Sau một hoặc hai giây tôi mới nhận ra tất cả những tiếng nổ chỉ cách chúng tôi có mấy thước, và những họng súng đều nhắm vào chúng tôi. Tôi nhìn quanh tìm chỗ ẩn. Không có một nơi nào ngoại trừ một khoảng đất trũng không sâu nằm giữa bãi trống. Fred và tôi cùng nhảy vào khoảng trũng này. Chúng tôi có thể thấy những bóng người đằng sau thân cây đang nhắm mũi súng bắn về phía chúng tôi. Thật khó có thể tin được trong lúc nguy hiểm như thế này mà Fred vẫn làm phận sự của một chuyên viên thâu hình. Anh đổi ống kính, dùng ống dài hơn. Sau đó anh chống cùi chỏ trên mặt đất, chĩa máy bắn ngược về phía đối phương. ” Đừng quay nữa!” tôi la lớn. “Cúi đầu thấp xuống!”

                Anh Fred Dieterich vẫn nói rất bình tĩnh, “Charlie à, tôi nghĩ đây là đúng lúc rồi. Thâu hình cho họ biết chuyện gì đã xảy ra cho chúng ta.”

                “Kệ mẹ chuyện thâu hình!” tôi vẫn hét lên. “Đây không phải lúc! Cúi đầu xuống đi!”

                Chúng tôi tìm cách giải cứu trung đội đầu tiên thoát ra khỏi một vòng vây phục kích, và rồi giờ đây chính chúng tôi cũng bước vào một bẫy phục kích. Tuy đang cúi sát đầu xuống mặt đất, tôi vẫn có thể nhìn quanh, nhận thấy chúng tôi đang gặp khó khăn kinh hoàng. Nhiều người lính Biệt Động Quân bị trúng đạn trong đợt nổ súng đầu tiên. Họ nằm chung quanh chúng tôi trong bãi đất trống, chết hoặc bị thương. Tuy thế, những người lính còn đứng vững đã phản công với sự can đảm tột cùng. Một quân nhân cầm một khẩu súng nổ không ngừng ở trong tay, chạy thẳng vào đối phương ẩn núp ở trong rừng. Anh chạy cho đến khi bị kẻ địch bắn gục bên ngoài bìa rừng. Anh té xuống đất mà ngón tay vẫn còn bóp chặt vào cò súng. Từ nòng súng của anh hàng loạt phát đạn bắn lên không trung.

                Những quân nhân khác đã giữ vòng phòng phủ, chống trả mãnh liệt với những phát súng bắn vào rừng. Trung Úy Sơn bị trúng đạn ở một cánh tay, thế nhưng ông vẫn chiến đấu như thường. Ông quì bên cạnh một quân nhân giữ máy truyền tin. Ông quay tay cầm của máy truyền tin chạy bằng máy phát điện từ trường, với hy vọng liên lạc với bộ chỉ huy sư đoàn và xin tiếp viện. Anh Fred và tôi bò lại gần vài thước, để thâu hình ảnh ông Sơn liên lạc với bộ chỉ huy. Những viên đạn bắn tung mặt đất chung quanh chúng tôi. Ông Sơn không quan tâm đến những phát đạn, vẫn tiếp tục quay máy nhiều vòng. Sự cố gắng của ông cũng vô ích. Không có ai trả lời. Chúng tôi ở bên ngoài vòng phát tuyến.

                Đến lúc đó người lính truyền tin bỗng có một hành động rất can đảm mà tôi phải sửng sốt, chưa từng thấy trong đời. Người lính này trẻ tuổi, có lẽ không tới mười bảy hoặc mười tám. Không nói một lời nào, anh thò tay vào trong túi đeo, lấy ra một cuộn dây kim loại. Anh quấn một đầu dây vào ăng-ten của máy truyền tin. Sau đó người lính trẻ tuổi nhanh chân chạy đến một cây cao, vừa chạy anh vừa thả cuộn dây. Đến gốc cây anh ngậm đầu dây còn lại ở trong miệng và leo thăn thoắt lên thân cây, bất kể những viên đạn đang bay vụt ở chung quanh. Anh buộc đầu dây vào một nhánh cây cao, tuột xuống mau chóng, chạy trở về máy truyền tin mà không hề bị sây sướt một chút nào. Anh vội vàng quay máy nhiều vòng. Trung Úy Sơn nằm bên cạnh máy truyền tin, nói vào đầu vi âm và liên lạc được với bộ chỉ huy. Ông đọc tọa độ của đơn vị trên một bản đồ, trao đầu máy cho người lính truyền tin. Quay sang anh Fred và tôi, ông Sơn nói, “Nằm sát xuống. Không sao. Họ sẽ gửi lính nhảy dù.”

                Tiếng súng giảm dần. Tôi không còn thấy Việt Cộng trong rừng cây mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nghe có tiếng súng bắn qua lại ở đâu đó. Hai quân nhân đến băng bó cánh tay của ông Sơn, rồi cả ba người ôm túi thuốc, bò đến những người lính bị thương nằm ở chung quanh. Họ lôi được nhiều thương binh vào bên trong bức tường của ngôi chùa, nơi mà hầu hết những người lính rơi vào một cơn chấn động thần kinh tột độ, tắt thở trong lúc chờ đợi đội nhảy dù tiếp viện như lời hứa hẹn. Lúc bấy giờ ông Sơn đứng dậy, đi lại trong khu đất trống. Ông nói những lời khích lệ dành cho các quân nhân còn sống. Ông đến quì bên cạnh Fred và tôi. “Chúng tôi gần hết đạn,” ông nói. “Tôi muốn ông biết điều này. Tôi không nghĩ là chúng ta sẽ bị tấn công thêm nữa đâu. Tuy thế, trong trường hợp chúng ta bị...”.

                Một phát đạn vừa bay ra từ trong rừng. Viên đạn bắn trúng đằng sau nón sắt của ông Sơn, bay xuyên qua vành phía trước. Ông lao tới phía tôi và té xuống đất.

                Ban đầu vết thương trông có vẻ rất nhỏ. Tôi ôm đầu ông vào ngực tôi. Tôi lượm một mớ lá cây nằm dưới đất và tìm cách nhét vào vết thương, với hy vọng máu sẽ ngưng chảy.

                Tôi còn nhớ viên đạn bắn chết ông Sơn cũng là viên đạn cuối cùng trong trận đánh ngày hôm ấy. Lính nhảy dù có đến trong những chiếc xe nhà binh. Đám du kích Việt Cộng biến mất trong rừng, mang theo những đồng đội tử trận hoặc bị thương. Chúng tôi đi bộ vài dặm xuống một con đường và tập họp tại một ngôi trường làng. Trên sàn nhà tôi lượm được một tờ bích chương mà sau đó tôi có nhờ người khác chuyển ngữ. Tờ bích chương viết: “Không cho cộng sản gạo. Không cho cộng sản tin. Không cho cộng sản vào nhà.” Tờ bích chương nằm trên sàn nhà vì những người cộng sản đã phá hoại ngôi trường một đêm trước đó.

                Một viên đại tá chỉ huy trưởng Biệt Động Quân đến trường học trong một chiếc xe jeep. Ông cho Đại Đội 150 xếp hàng và nói với họ, “Các anh là những người lính chiến đấu rất anh dũng. Các anh ngăn chặn một lực lượng quân thù đông gấp năm lần. Đừng nghĩ đến những người đã chết. Các anh chiến đấu cho một mục tiêu cao cả và các anh sẽ chiến thắng.” Thế nhưng mười chín quân nhân trong đại đội đã không có mặt để nghe đại tá nói. Họ tử trận trong ngày hôm ấy. Trong số những quân nhân này có hai sĩ quan, Trung Úy Sơn và vị đại đội trưởng. Tôi thấy có ít nhất mười một người bị thương; có thể còn có những thương binh khác mà tôi không biết.

                Viên đại tá chỉ định một chiếc xe lính đưa Fred và tôi về Sài Gòn. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau chúng tôi trở về trong sự an toàn của một thành phố dịu dàng. Chúng tôi đi rộn ràng giữa những đại lộ thênh thang. Đó đây có những người đạp xe qua lại. Những quán cà phê bên vỉa hè vẫn đông người. Chúng tôi đến trước cửa khách sạn Majestic trước khi trời tối và băng qua phòng tiếp khách để đến cửa thang máy, mang theo những dụng cụ lỉnh kỉnh ở trên tay. Người ta đã quay đầu nhìn vì chúng tôi quá dơ bẩn, không có vẻ phù hợp với khung cảnh của một khách sạn sang trọng. Áo của tôi đã thấm đầy máu của Trung Úy Sơn. Từ đó tôi không bao giờ quên được Trung Úy Sơn. Trong suốt những năm tháng của cuộc chiến Việt Nam, tôi vẫn nhớ đến ông ấy. Tôi trở lại Việt Nam nhiều lần, tham dự những cuộc hành quân khác ở miền quê - đến những lần sau này với quân đội Hoa Kỳ - và còn chứng kiến những con người tốt lành bị bắn chết trong những bãi đất trống bên cạnh rừng già. Trong lúc cuộc chiến vẫn kéo dài như không có một kết cục và số thương vong Mỹ mỗi lúc một cao hơn, tại Hoa Kỳ người ta có một phong trào cho rằng những thanh niên Mỹ bị thiệt mạng một cách vô nghĩa. Tất cả những bạn đồng nghiệp của tôi đồng ý với nhau rằng đó là một cuộc chiến vô đạo đức, trong đó đế quốc Mỹ chống lại ước nguyện của “nhân dân Việt Nam.”

                Tôi không bao giờ nghĩ như vậy. Những người Việt Nam mà tôi được gặp đều không muốn có chiến tranh. Họ muốn được sống yên trong hòa bình. Thế nhưng người ta không cho họ được yên thân. Họ bị xâm lăng bởi một đạo quân từ miền Bắc xuống miền Nam theo lệnh của một chính quyền mà họ thù hận. Tôi nhớ đến ông Sơn, một người ao ước được thấy một Việt Nam tự do đến nỗi ông sẵn sàng chiến đấu cho lý tưởng này, mặc dù tuổi tranh đấu của ông đã qua lâu rồi. Tôi nghĩ đến những người lính trong Đại Đội 150, người cầm súng xông thẳng vào rừng, người leo lên cây với dây ăng-ten truyền tin ngậm chặt trong răng. Tôi đã nghĩ, và tôi vẫn nghĩ rằng công lý và đức hạnh luôn sống với những người can đảm ấy. Tôi thù ghét mỗi khi trở lại Việt Nam sau này và nghe những người lính như thế bị gọi là “gooks” bởi chính các quân nhân cùng xứ của tôi.

                Những người lính đã sống qua cuộc chiến - trong đó không có là bao quân nhân Biệt Động Quân - giờ đây phải vào những trại “học tập cải tạo.” Sài Gòn xinh đẹp, thư thả năm xưa nay trở thành thành phố Hồ Chí Minh. Vết thương của cuộc chiến Việt Nam đang lành lặn tại Hoa Kỳ. Ở Mỹ, hầu hết mọi người không còn nhớ rõ lắm về cuộc chiến hoặc không còn ghi nhận những mơ ước của “nhân dân Việt Nam.”

                Trong những dịp về Hoa Thịnh Đốn, thỉnh thoảng tôi vẫn đến Đài Tưởng Niệm Cuộc Chiến Việt Nam. Trên bức tường đen có khắc tên của một số quân nhân mà tôi từng quen biết. Tôi nghĩ đến họ. Lẽ đương nhiên bức tường đen không có tên của ông Sơn, tuy thế tôi cũng nghĩ đến ông.

                Tôi chỉ biết ông có một ngày.

                Tôi đã quên không hỏi để biết đầy đủ tên họ của ông.
                Last edited by nguyenphuong; 06-28-2014, 01:34 PM.

                Comment


                • #9
                  Tháng Ba .... Không Đề

                  (Người viết: Họa Mi 82)

                  Kính tặng Thái Sơn Vương Mộng Long

                  Kính tặng thi-sĩ Nhất-Tuấn (Trung-Tá Phạm-Hậu giám-đốc đài phát thanh Quân-Đội Việt-Nam-Cộng-Hòa )

                  Khi Ban-mê-Thuột thất -thủ ,rất nhiều lần tại trung tâm hành-quân của bộ chỉ-huy liên-đoàn 24 B.Đ.Q tôi đả cầm handset lên rồi lại bỏ xuống ,người hạ-sĩ hiệu thính nhìn tôi ái ngại ,tôi thở dài và lắc đầu rôi lặng lẽ bước rời hầm hành-quân . Những lúc như vậy ,tôi thường hút thuốc và suy nghĩ ,cái điều tôi phân vân là gọi qua máy prc25 ,liên lạc với tiểu đoàn 82 B.Đ.Q , người tôi muốn gặp lúc này là người tiểu-đoàn-trưởng :Thiếu-tá Vương mộng-Long có danh hiệu truyền tin mà cả quân khu 2 nghe danh những năm tháng cũ đầy ắp mùi lửa đạn :THÁI-SƠN .

                  Tôi muốn chia buồn và an ủi ông với tâm tình của một sĩ quan thuộc cấp ,thật sự tôi cũng không dám xưng là đàn em của ông vì ông xuất thân khóa 20 trường võ bị Quốc-Gia Việt-Nam [quen gọi là trường Sĩ-quan Đà-Lạt] quân trường đào tạo những sĩ quan hiện-dịch chuyên nghiệp nổi danh châu Á,còn tôi xuất thân là sĩ quan trừ bị trường Sĩ-quan Đồng-Đế . Tôi cứ phân vân mãi có nên không ? Nếu là sự hỏi thăm "chiếu lệ" thì ông rất ghét bởi tính ông rất cương trực ,không hề "giã lã" trong giao tiếp nhất là với thuộc cấp của mình . Liệu có nên không khi mà mất Ban-Mê-Thuột là gia-đình ông,vợ con ông , hàng trăm gia đình binh sĩ thuộc cấp của ông ,một hậu cứ của tiểu đoàn , tôi biết lòng ông như sát muối ,tim ông như bị lửa thiêu trong lúc này thì liệu những lời an ủi ,chia sẻ với thầy mình lúc này có hợp không , từ lưỡng lự ấy tôi quyết định : thà để ông nghĩ và trách thằng em vô tâm còn hơn ,vì tình hình này chúng tôi sẽ phải lui binh , mà đơn vị thiện chiến và tinh nhuệ của liên-đoàn là tiểu-đoàn 82 , và người mà Trung -tá Hoàng-Kim-Thanh tin tưởng và an tâm nhất là Thái-Sơn Vương-mộng-Long , quả vậy trên đường lui binh khi vị Liên-đoàn-Trưởng bị thương ,phải tản thương ,rồi ông Trung Tá Liên-đoàn phó đào ngũ ngay trên đường lui binh ,thì cả liên đoàn được giao cho ông chỉ huy dù lúc đó có vị tiểu-đoàn-trưởng 63 là niên trưởng của ông ,tôi nghĩ cấp trên đã "chọn mặt gửi vàng " , ở đây còn quý hơn vàng ,quí hơn tất cả vì đó là sinh mạng của cả ngàn tinh binh ,những người lính mũ nâu dạn dày trận mạc ,những sĩ quan ,hạ sĩ-quan chưa hề biết bại ... họ tin ông ,trao phó sinh mạng mình cho ông ,sẵn sàng chết vinh cho Tổ-Quốc nhưng trước hết là vì ông ,vị chỉ huy mà họ yêu mến ,trong hàng quân này có những người lính theo chân và "bám trụ" với ông từ khi ông còn là viên Thiếu-Úy "mới tinh " vừa rời trường võ bị . Trên vai ông là cái gánh nặng của TRÁCH-NHIỆM,là cái hào quang nó được "mặc-định" cho người chỉ -huy ,cho người "cầm quân".

                  Trong hồi ký của ông tôi có đọc được câu này : Vinh-quang của một đời người cầm quân là một món nợ,nợ với Tổ-Quốc,nợ với Đồng-Bào và nợ với thuộc cấp của mình,những người đã hy-sinh cho cái vinh quang mà mình đã nhận được. Là người cầm quân,vinh-quang là cứu cánh,vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống (hết câu trích trong hồi hý của Thái-Sơn Vương-Mộng-Long).

                  Trở lại chuyện ông chỉ-huy liên-đoàn 24 BĐQ trong cuộc hành quân này :bao khó khăn diễn ra từng ngày như thiếu đạn dược ,lương thực hầu như không tiếp tế được vì tình hình rất xấu ... cho tới ngày có chuyến trực thăng đáp xuống vùng hành quân này với nhiệm vụ duy nhất là "bốc" một mình Thiếu-Tá Vương-Mộng-Long, trong hoàn cảnh này ông có quyền bước lên chuyến bay rất đặc biệt này ,lương tâm ông không hề bị ray rứt bởi gia-đình ông và cả hậu-cứ tiểu-đoàn đang nằm trong tay đối phương , và là một quân nhân ông tuân lệnh thượng cấp là đúng ,thế nhưng trong cõi người còn có những con người mà với riêng tôi từ NGƯỜI phải được viết hoa và trân trọng cho ông ,cho người chỉ-huy ,cho người lãnh-đạo ,cho một sĩ quan cấp Thiếu-Tá đang nhận Trách-Nhiệm Liên-Đoàn-Trưởng , ông đã từ chối lên máy bay ,cái chỗ trên chuyến bay này là để cho ông ,là cái chỗ mà bất cứ ai lúc ấy cũng muốn có được, viên phi-công đã rất kinh ngạc trước một vị Thiếu-Tá Biệt-Động-Quân nên đã tháo sợi đai an toàn phi hành[seatbell] ,nhảy xuống và CHÀO KÍNH trước ông với lòng khâm-phục và sự ngưỡng mộ mà về sau này những trang sử quân-đội rất cần đến những gương sáng ,lòng nhân dũng đã từng có trong cuộc chiến đầy bi tráng ấy .

                  Một nhà thơ rất nổi tiếng vì ông làm thơ tình tuyệt vời với thi danh mà ai cũng nhớ :Nhất-Tuấn,ông đã từng là giám đốc đài phát thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa với tên thật : Phạm-Hậu ,cấp bậc của giờ "đứt phim" là Trung-Tá . Ông cũng cảm khái chuyện này ,sự kiện đặc biệt này về con người cũng quá đặc biệt này nên ông có làm bài thơ tặng Thiếu-tá Vương mộng Long mà ông rất ngưỡng mộ và cũng rất thân tình gọi ông thầy Long của tôi là Beo chúa 82, bài thơ như sau :

                  Trực thăng đáp bụi mù tung,
                  P hi công vẫy dục mời ông lên tàu.
                  "lên tàu để đi đâu xin hỏi ?
                  Quân ngàn người kẹt đợi quanh đây.
                  Đánh vùi với địch bao ngày,
                  Bốc Liên-đoàn khỏi nơi này được chăng?
                  "Lệnh rất rõ khó lòng cứu hết"
                  Tạm một người được phép đưa ra.
                  Địch kề bên,bạn quá xa,
                  THÁI-SƠN tôi đón phải là chính ông?
                  Chính tôi nhưng rời vùng cho gấp,
                  Bạn trình ngay với cấp thẩm quyền,
                  Tôi không thể bỏ anh em,
                  Tuyến đầu sống chết kề bên mỗi giờ.
                  Người pilot sững sờ khôn tả,
                  Tháo dây đai vội vã nhảy ra..
                  Bao phi vụ mấy tuần qua ,
                  " Thái-Sơn...đáng phục để ta nghiêm chào.
                  Có lắm kẻ quyền cao chức lớn,
                  Thấy pháo tăng...tăng dỏm chém vè,
                  Một người thì đón không về,
                  Lo cho đơn vị chẳng nề tử sinh ....

                  Bạn đọc thân quí ,có viết về người thầy cũ của mình nhiều cũng không nói hết được những tâm tình ,và người đọc chắc sẽ có ý nghĩ vì tình cảm riêng tư mà ca ngợi ... tôi xin mượn lời của Thiếu-Tướng Lê-Minh-Đảo có nhận xét về Thiếu tá Vương-Mộng-Long và Tiểu-Đoàn 82 B.Đ.Q. :
                  " Mỗi khi nhắc tới trận đánh lịch sử này [trận Long-Khánh tháng 04-1975] thì người ta phải nhắc tới Tiểu-Đoàn 82 Biệt-Động-Quân và Thiếu-Tá Vương-Mộng-Long."
                  Tướng Lê Minh Đảo có điểm riêng là ông không bao giờ khen ngợi thuộc cấp để "mị quân" ,để "lấy lòng ". Ông chỉ khen khi sự việc là đáng cho mọi người noi gương mà chiến đấu.

                  Thầy Long kính , chắc bây giờ thầy đã hiểu vì sao ngày ấy em đã không một lời chia sẻ,một lời thăm hỏi ... cậu Trung úy ngày nào nay tóc bạc như cước cả rồi ,ba mươi lăm cái tháng ba của chu kỳ nhật nguyệt ,những lời mộc mạc này xin coi như lời tạ lỗi ...Thầy Long ơi...

                  Comment


                  • #10
                    Noel và Pleime Nỗi Nhớ

                    Vương Mộng Long


                    Hai mùa Noẽl qua trên xứ lạ
                    Seattle buồn, trời đổ mưa
                    Hai mươi năm rồi, bao nhiêu thương nhớ
                    Hai mươi năm rồi, ta mất PleiMe ...

                    Nơi ấy xa xăm...
                    Mùa Đông, bầu trời cao ghê lắm
                    Từng đàn chim soải cánh ngút ngàn mây...
                    Noẽl về, Plei Me rực rỡ bên rừng mai
                    Dòng Ia Meur suốt mùa, lững lờ ngái ngủ,
                    Chiếc lá khô bồng bềnh trên sóng vỗ
                    Ngỡ con đò, xuôi dòng về nơi bến đỗ
                    Mang theo trên mình
                    Những lá thư tình, viết từ chiến trường đỏ lửa.

                    Xưa Plei Me, Noẽl nhớ Em, ta làm thơ.
                    Ta vang lời ca, cao vút đỉnh Chư Gô
                    Để thiên thần ghé tiền đồn, ngời ngời cánh trắng
                    Ánh sáng tưng bừng nơi máng cỏ đêm khôn cùng
                    Chúa giáng xuống trần, trần gian im tiếng súng:
                    Một Ngày Hưu Chiến...
                    Vắng bóng Tử Thần ôm lưỡi hái lang thang!
                    Người lính nhớ thương người thành phố
                    Sau lỗ châu mai đôi mắt đăm chiêu
                    Trong lô cốt vang lời kinh cầu nguyện
                    Đêm không hỏa châu, Plei Me ngủ yên...

                    Ta là lính Biên Phòng, nên quanh năm trong rừng
                    Ta là Biệt Động Quân, nên quanh năm nhớ người hậu phương
                    Chiều cuối Đông, chờ những chuyến trực thăng
                    Chờ những cánh thư, chở đầy thương,đầy nhớ.
                    Ta muốn được quì bên chân Chúa
                    Đêm an bình không tiếng đạn bom rơi.
                    Thương cho Em, canh thâu chờ đợi
                    Một vừng trăng, soi gối chiếc ngậm ngùi...

                    Nhưng bây giờ xa quá đi thôi!
                    Ta mất một vùng trời, ta xa một rừng mai.
                    Noẽl Seattle, ta thầm gọi:
                    Plei Me ơi! Plei Me ơi!
                    Ta mang hồn Hector thương thành Trois
                    Ta người Mũ Nâu thương đồn Plei Me.
                    Đón Noẽl với bao nỗi nhớ
                    Đón Noẽl chất cao ngậm ngùi...

                    (Seattle tháng 12,1995)

                    Comment


                    • #11
                      Những Đứa Con Trường Trung Học Trần quý Cáp

                      Vương Mộng Long

                      Giữa thập niên 50 của thế kỷ 20, đậu vào Đệ Thất Trung-Học Công Lập Trần Quý Cáp Hội-An là một thành tích xuất sắc đáng hãnh diện của một cậu học trò Quảng-Nam mới qua cấp tiểu học; vì Trần Quý Cáp là trường trung học lớn nhất và danh tiếng nhất của tỉnh. Năm đó, ước lượng, có gần hai ngàn thí sinh tranh nhau 170 chỗ, kể cả dự bị, dành cho bốn lớp Đệ Thất Trần Quý Cáp. Tôi được ghi danh vào lớp Đệ Thất 3 cùng với hơn 40 nam nữ sinh khác. Trong bộ đồng phục quần xanh áo trắng, tôi cảm thấy mình lớn hẳn lên, và chững chạc hẳn ra. Đời học trò, lên Đệ Thất là bước vào một thế giới mới. Chân trời trước mặt rực rỡ, đầy hoa thơm cỏ lạ ngát hương, và thánh thót tiếng chim.

                      Thời gian này, trường đang mở rộng cơ ngơi, hàng rào bê tông được dựng lên, cùng với cái cổng xi măng hoành tráng, sơn phết đàng hoàng. Tiếp đó là cái trụ cờ, và những sân bóng chuyền, bóng rổ nhanh chóng hình thành. Những hàng phượng vĩ đã bắt đầu cho bóng mát. Hai năm Đệ Thất, Đệ Lục chỉ là thời gian làm quen với nếp giáo dục mới, với chế độ học giờ, học với nhiều thày giáo, thay vì chỉ có một thày giáo. Chúng tôi biết học nhóm, và biết thế nào là hình phạt cấm túc. Trong hai năm này, thày hiệu trưởng Tăng Dục, thường ghé lớp, kể cho chúng tôi nghe những thành tích vẻ vang của các đàn anh lớp trước. Thày nói rằng nước nhà mới độc lập, đang cần bàn tay xây dựng của các công dân trẻ. Thày mong muốn chúng tôi luôn luôn chăm chỉ học hành, để sau khi thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường.

                      Với tôi, trường Trung-Học Trần Quý Cáp là ngọn đèn soi lối cho tôi ngày mới lớn. Tôi cảm thấy vô cùng yên tâm dưới sự che chở của những bàn tay trìu mến bao dung, đang dẫn dắt tôi. Làm sao tôi có thể quên những người suốt đời tận tụy vun xới cho tương lai của đất nước như cô Luyện, cô Nguyên, cô Huỳnh Tân, thày Kiệm, thày Nhâm, thày Tước, thày Phan Khôi, thày Tống Khuyến, thày Hoàng Trung, thày Dương Đức Nhự....

                      Qua giờ học đầu tiên với cô Luyện, tôi mới hiểu phải tốn bao nhiêu công sức bỏ ra từ khi hạt mạ gieo xuống, cho tới lúc chúng ta có bát cơm ăn mỗi ngày. Vào giờ Pháp Văn, tôi cứ tưởng tượng như được thày Tống Khuyến dẫn đi thăm công viên Luxembourg ngắm lá đổ chiều Thu, leo lên tầng gác chót của tháp thép Eiffel soi bóng nước sông Seine giữa Paris, hay lênh đênh trên giòng Danube vào những đêm lung linh trăng sáng. Mặt khác, với những hiểu biết sâu xa về lịch sử Việt-Nam và thế giới qua mọi thời đại, thày Phan Khôi đã nhóm ngọn lửa yêu nước trong lòng tôi cùng với giấc mộng làm người Quang Trung xua quân chinh phạt giặc Tầu. Tôi từng mơ có ngày hạ trại, đóng quân trên những pháo đài dọc dải Vạn Lý Trường Thành. Tôi cũng ước ao một cuộc ra khơi vượt Địa-Trung-Hải tới thành Trois, tìm vết tích con ngựa gỗ và viếng ngôi mộ của người anh hùng Hector. Cô giáo Huỳnh Tân đã bắt chúng tôi tập đi tập lại nhuyễn nhừ bài "Au Claire de La Lune". Đồng thời thày Tước cũng dạy chúng tôi bài "Red on The Sunset" khi lớp tôi vừa học xong cách phát âm hai mươi bốn chữ cái trong Anh Ngữ. Chỉ với hai bài hát ngắn tiếng Pháp, tiếng Anh này, cũng khiến mặt tôi vênh lên "lấy le" với đám con nít xóm Hồ-Sen, đa phần là các gia đình Bảo An Đoàn Bắc-Kỳ Di Cư. Năm mươi năm sau, hai bài hát này tôi vẫn còn nhớ.

                      Lên tới Đệ Ngũ chúng tôi thành ma cũ. Vào năm này, chúng tôi sang tuổi trổ mã, áo quần cứ ngắn và chật hẳn đi. Phong trào rèn luyện thể chất của lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án đang lên. Những bộ ngực kiến càng của anh Cẩn, Bảo An Đoàn và anh Bính, Ty Thanh Niên trở thành những bộ ngực lý tưởng của lớp nam sinh. Chiều nào tôi và bạn bè cũng tới tập tạ trong trụ sở Thanh Niên Cộng Hòa đối diện Trường Trung Học Diên-Hồng. Những võ sĩ tên tuổi như Văn Đại, Minh Cảnh, Đặng Bốn, Võ Long Châu thỉnh thoảng lại về Hội-An giao đấu biểu diễn. Nhiều lò Thiếu Lâm, Võ Ta, Nhu Đạo, Quyền Anh, mọc lên dưới Sơn-Phong, trên Chùa Cầu, ngoài Nhà Thờ.

                      Chúng tôi bắt đầu được chấm chọn vào đội túc cầu của trường để đem chuông đi đánh xứ người, trong Tam-Kỳ hay ngoài Đà-Nẵng. Lớp Đệ Ngũ 3 có anh Thành và anh Tâm là hai tiền đạo xuất sắc của đội túc cầu học sinh Hội-An. Đội văn nghệ của trường tôi cũng xôm tụ lắm. Những giọng ca sáng giá thời đó phải kể là, Minh Thu, Ngô Rân, Khưu Vỹ Hoàng. Chị Giang người Bắc Di Cư, nhà ở trên Vĩnh-Điện, được nhìn nhận như là kịch sĩ Kim-Cương của ngày mai. Thầy Nhâm vừa là ông bầu vừa là đạo diễn của ban nhạc Trần Quý Cáp.

                      Đệ Ngũ cũng là năm nhiều bạn hữu của tôi chập chững bước vào con đường tình. Vào lứa tuổi mười bốn, mười lăm, tình yêu là cái bệnh hay lây. Người mắc bệnh này thường ưu tư muộn phiền vô cớ. Từ đó, một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng nói, cũng có thể trở thành kỷ niệm một đời. Mắc bệnh này cũng nguy hiểm lắm, bị đánh sưng mặt như chơi. Những kỷ niệm buồn vui thời trung học, nửa thế kỷ qua rồi, tôi vẫn chưa quên.

                      Năm đó mùa Đông về sớm, gió Bắc lạnh tái tê. Một tối, trước thềm chùa Âm-Bổn, tôi và Trần Ngọc Lợi, ngồi bên nhau, hút thuốc lá, chuyện gẫu chờ thằng Phùng Tiến và thằng Ngô Rân. Hai đứa bạn hút hết bốn điếu Ruby rồi mà hai thằng kia chưa tới. Bỗng đâu, từ hướng phố, trên đầu dốc, xuất hiện hai chiếc xe đạp. Xe lạng một cái vèo, đậu ngay giữa sân. Một trong hai kỵ sĩ áo đen, chống nạnh hất hàm,

                      - Ê! Sẵn sàng chưa? Thằng Tiến đâu?

                      Tôi chưa hiểu chuyện gì, thì Lợi đã mau mắn trả lời,

                      - Lúc nào cũng sẵn sàng! Thằng Tiến chưa tới.

                      Nhờ ánh điện đầu đường mờ mờ, tôi nhận ra hai người bận đồ đen này là Lưu Lương Cơ và Nguyễn Đức Tâm, hai anh này học trên chúng tôi hai lớp. Họ là hai tay Huyền Đai Nhu Đạo có hạng của Hội-An.

                      Anh Tâm nhanh nhẩu,

                      - Để khi khác tụi này hỏi tội thằng Tiến. Bây giờ thì hai chọi hai. "Moi" với "Toi" chơi trước.

                      Lợi quay qua tôi căn dặn, trước khi bước ra sân,

                      - Mi lược trận cho tau, nếu thằng Cơ can thiệp, thì chận nó lại.

                      Bước ra giữa sân, võ sĩ Nguyễn Đức Tâm xuống tấn, chân trái trước, chân phải sau, hai tay xoè song song giơ ra phía trước trong một thế Judo căn bản. Anh Tâm đang chờ địch thủ xông vào để ném địch thủ xuống nền đá dưới chân.

                      Võ sĩ Trần Ngọc Lợi, học trò ruột của thày Năm Sửu thì tạ mình xuống thấp, chân duỗi chân co, sẵn sàng một đường Thiếu-Lâm. Dáng dấp của Lợi như một chàng Sơn-Đông mãi võ sắp đi quyền.

                      Thoáng một cái, Trần Ngọc Lợi xoay người, đá dứ chân trái, trước mặt Tâm. Đôi tay của Nguyễn Đức Tâm chưa kịp tóm bàn chân đối thủ, thì nhanh như chớp Trần Ngọc Lợi đã xoay người quạt một cú đá tạt bằng gót phải trúng vai Tâm.

                      Bị cú đá bất ngờ khá mạnh trúng sau vai trái, Tâm chưa kịp lấy lại thế quân bình thì Lợi tiếp một ngọn cước cũng bằng chân phải móc ngược lên, nhắm cằm của Tâm. Cú đá này nhanh và sắc như một nhát cuốc chỉ thiên. Phải là tay Judo bản lãnh lắm, Tâm mới kịp ưỡn người ra sau để tránh. Cằm anh chỉ cách lưỡi cuốc vài phân.

                      Sau đó, nhanh không kém, lợi dụng lúc Trần Ngọc Lợi chỉ còn trụ trên một chân, Nguyễn Đức Tâm xoay người lòn ra sau lưng Lợi. Tâm nhập nội, hai tay túm được vai áo của đối thủ. Anh nghiêng người, kê hông phải làm đòn bẩy, nâng Lợi lên sau vai...

                      Tôi thót tim. Chắc phen này thằng bạn chí cốt của tôi sẽ bị quật dãy "đành... đạch!..." trên nền đá sân chùa, như con cá lóc bị người ta đập đầu làm thịt!

                      Ai dè, Tâm chưa kịp quật Lợi xuống đất thì cái cùi trái của Lợi đã vèo tới cằm anh. Để tránh bị vỡ hàm, Tâm đành buông Lợi ra. Sức nặng của Lợi lơi ra làm cho Tâm mất thăng bằng.

                      Đúng là bên tám lạng, bên nửa cân! Cặp này biểu di࿅n còn hấp dẫn hơn cặp võ sĩ nhà nghề Đặng Bốn "Đầu Tầu Xe Lửa Phan-Rang" và Minh Cảnh "Đôi Găng Vàng Thủ-Đô" vừa diễn ra trước đây một tháng tại sân quần vợt tỉnh, nhân dịp Linh Mục Nguyễn Văn Vàng du thuyết đề tài "Tuổi Trẻ và Quê Hương".

                      Đứng ngoài, tôi và Lưu Lương Cơ hứng chí vỗ tay "đồm độp!" tán thưởng.

                      Chưa xong! Trong lúc Nguyễn Đức Tâm bị trượt chân, còn đang chao đảo, thì ngọn cước chân trái của Trần Ngọc Lợi lại tới. Dân Thiếu-Lâm có những cú đá vô cùng lợi hại,

                      "Bốp!"

                      Ngọn cước trúng hạ bộ của địch thủ. Người bị đòn vào "chỗ đó", đau quá, nhảy tưng tưng, hai tay ôm ngã ba, mặt nhăn nhó, miệng rên "ư... ư... ư..."

                      - Ngưng ngay! Ngưng ngay! Đề nghị ngưng ngay!

                      Lưu Lương Cơ thấy bạn trúng thương khá nặng, bèn đề nghị ngừng trận đấu.

                      Tôi hỏi anh Cơ,

                      - Thế nào? Tôi và anh sao đây?

                      Anh Cơ xua tay,

                      - Hẹn dịp khác!

                      Lợi gật đầu,

                      - Chờ kỳ tới, có thằng Tiến.

                      Thì ra, hôm ấy hai anh Tâm-Cơ đã bỏ công đạp xe khắp nơi để truy lùng thằng Phùng Tiến, để cho nó một trận đòn, chỉ vì nó đã mắc tội "dám yêu" nàng Minh Nguyệt. Cô bé Nguyễn Thị Minh Nguyệt là em gái anh Nguyễn Đức Tâm. Minh Nguyệt học dưới chúng tôi một lớp, có dáng người thanh thanh như liễu rũ, có màu mắt đẹp như nước hồ thu. Tôi chẳng rõ Minh Nguyệt có nhỏ chút xót thương nào cho cái cây si đang héo hon sau ngõ nhà nàng không? Nhưng chỉ vì cái bịnh yêu của thằng Tiến mà bạn bè của nó bị vạ lây. Thực ra tôi và thằng Lợi chẳng có ân oán, nợ nần gì với anh Tâm cả.

                      Hai cặp Lợi-Long, Tâm-Cơ bắt tay nhau, lòng không chút hận thù.

                      Nhị vị đàn anh Trần Quý Cáp phóc lên xe. Đêm yên tĩnh lại trở về.

                      - Cậu Long ơi! Từ lần sau, các cậu có dợt võ thì vào sân sau chùa. Dợt ngoài này, lỡ gặp mấy ông Cảnh Sát đi tuần mấy ổng rầy la đó!

                      Tiếng nói phát ra từ một bóng người trong đêm tối, nơi cửa hông. Đó là tiếng ông từ giữ chùa. Ông từ vừa có ý kiến với "Cậu Long".

                      Trong xóm này "Cậu Long" cũng có uy tín lắm, vì tôi được tiếng là chăm học, chăm làm. Tôi là học trò duy nhứt có học bổng trong số rất đông học trò cư ngụ từ khu Trường Diên-Hồng tới Đế-Võng, Sơn-Phong. Trừ ba tháng nghỉ Hè, mỗi tháng trong niên khóa, tôi được chính phủ trợ cấp 200 đồng. Thời này anh tân binh quân dịch lãnh lương tháng vỏn vẹn có 120 đồng thôi.

                      Phụ huynh học sinh Bắc Kỳ Di Cư xóm chùa Âm-Bổn thường đem tôi ra làm cái gương tốt cho con em của họ.

                      ---o---

                      Trong trường Trần Quý Cáp và lớp Pháp Văn của ông Quận Đĩnh, tôi có nhiều nhóm bạn riêng. Ngay trong lớp Đệ Ngũ 3 này, bạn trai của tôi có hai, ba nhóm. Nhóm bạn văn nghệ, văn gừng là Trần Ngọc Lợi, Ngô Rân, Lê Hữu Mục, Lê Văn Bảy, Phùng Tiến. Nhóm bạn áo rách, nhà nghèo là Nguyễn Đình Liếu, Phan Minh Đông, Nguyễn Văn Đang, Nguyễn Đác. Nhóm Bắc Kỳ Di Cư có Vũ Văn Bằng, Nguyễn Hữu Hạnh, Trần Quế Chính...

                      Bạn gái của tôi cũng có hai phe, mức độ thân thiết và xưng hô khác nhau. Phe thứ nhứt gồm chị Lê Thị Kim Tư, Trần Thị Diệu Hồng, Ngô Thị Xuân Lan, Võ Thị Quý, thêm một bạn trai là Vũ Đức Phụng. Ngoài chị Lê Thị Kim Tư, chúng tôi kêu bằng "chị" và xưng tên, số còn lại chúng tôi gọi nhau là "mi" và xưng "tau". Sau này, lên đệ nhị cấp, chúng tôi tan đàn, xẻ nghé, nhưng mỗi lần gặp nhau, kể cả khi đã có vợ có chồng, chúng tôi vẫn "mi... mi... tau... tau..."

                      Nhóm bạn gái thứ nhì của tôi gồm hai cô ở sát nhà nhau là Tô Thị Vân và Nguyễn Thị Nguyệt Thu. Có một thời gian bạn bè trong lớp tưởng rằng người đẹp sắc nước hương trời Nguyễn Thị Nguyệt Thu có tình ý với tôi. Vì mỗi khi làm xong một bài thơ mới, Nguyệt Thu đều đưa cho tôi xem để tôi cho ý kiến. Và đôi lần, Nguyệt Thu đi học, đem theo vài bông hồng mới cắt sau nhà tặng cho Anh Vọi. Cho tới một hôm, tôi tới nhà thăm Nguyệt Thu, tôi gặp bác Hàm, thân phụ của Nguyệt Thu. Khi tiếp chuyện với bác, tôi thấy ý bác không muốn chúng tôi thân thiết nhau. Từ đó, tôi không ghé nhà Nguyệt Thu nữa. Năm sau, gia đình bác Hàm chuyển nhà ra Huế. Chúng tôi không còn liên lạc với nhau.

                      Nhà họ Tô có ba cô con gái. Cô nào cũng đẹp và duyên dáng. Chị Tô Thị Hồng ít khi xuất hiện. Tô Thị Vân học chung lớp với tôi. Tô Thị Lan học thua tôi một lớp. Chị Vân cũng là một thùng thư. Nhiều anh trong lớp trao thư cho chị lắm.

                      Năm Đệ Ngũ tôi còn một lô bạn gái học chung trường Pháp Văn nhà lá của ông Quận Đĩnh ở Hồ Sen. Tôi được Bác Đĩnh cho học không phải đóng tiền. Đáp lại, tôi đã rủ rê, chiêu dụ được khá nhiều bạn bè tới học Pháp Văn ở ngôi trường nhà lá này. Trong nhóm bạn này có ái nữ của nhà chụp rửa ảnh Huỳnh Sỏ, nàng Huỳnh Thị Tuyết Trinh. Các bạn tôi, và kể cả Bác Đĩnh, hay cặp đôi tôi với cô bé con ông tư bản chủ tiệm ảnh.

                      Một hôm, tan lớp tối, Tuyết Trinh và một đoàn nữ binh kéo nhau tới cổng nhà tôi. Mẹ tôi gọi,

                      - Long ơi! Có khách.

                      Tôi ra tiếp khách. Khách chẳng chịu vào nhà. Khách líu lo dưới gốc cây đu đủ. Ba bốn cô đang tìm cách đẩy cô bé cận thị về phía tôi,

                      - Trinh có gì nói với Anh Vọi thì nói đi! Mắc cỡ chi nữa?

                      Đứng trước một đám nữ sinh, tôi cũng mắc cỡ lắm, nhưng cũng làm bộ tỉnh,

                      - Chi rứa Trinh? Có gì thì nói đi?

                      - Không có chi mô Long! Tan học, còn sớm, mấy người rủ Trinh ghé thăm Long đó thôi!

                      Có tiếng Tô Thị Lan,

                      - Trinh nhớ Anh Vọi, Trinh rủ tụi này qua đây để có dịp cho Trinh thăm Anh Vọi đó!

                      Tuyết Trinh nhoẻn miệng cười, lắc lắc cái đầu. Dưới cặp kính cận, đôi mắt Trinh long lanh...

                      Bọn khách phá làng phá xóm này vớ vẩn đôi lời hỏi thăm chủ nhà, rồi ào ào kéo nhau sang quán chè Bà Chỉ.

                      Chị Hảo, người hàng xóm, chọc quê,

                      - Được nhiều người đẹp ghé thăm, Cậu Long đào hoa lắm nhe!

                      Ba thằng nhỏ trong xóm, một đứa là con Trung Sĩ Tranh, Bảo An Đoàn cũng phụ hoạ,

                      - Anh Long có bồ! Anh Long có bồ! Lêu!... Lêu!.. Anh Long!... Lêu!... Lêu!...

                      Rồi một tối sáng trăng, tôi lại vướng vào một vụ rắc rối khác.

                      Chúng tôi ba đứa Long, Rân, Mục đang tản bộ nơi ngã ba Ty Thông Tin thì đụng đầu toán yêng hùng Lò Heo… Bốn tay hảo hán chặn đường ba đứa chúng tôi lại,

                      - Thằng Rân có ngon thì bước ra đi!

                      Ông nội Ngô Rân lui ra phía sau, xô tôi tới trước,

                      - Hôm nay tau nhức đầu, mày thay thế tau một trận.

                      Người gọi tên Ngô Rân thách đấu là anh Mãnh, một dân chơi xóm Lò Heo. Tôi và anh Mãnh đã có dịp đọ sức một lần, lâu rồi, ở sân sau Trường Nam. Nguyên nhân cũng chỉ vì anh Ngô Rân cứ đảo qua đảo lại trước nhà một cô đẹp đẹp nào đó gần nhà anh Mãnh. Anh Mãnh thấy ghét cái bộ dạng của Ngô Rân, nên thách Ngô Rân đấu tay đôi sau sân trường Nam Tiểu Học. Tới hẹn, Rân bị nhức đầu, nhờ tôi đánh thay. Lần đó, tôi đang lấn điểm thì ông phu trường xuất hiện. Ông cầm cây, rượt tụi tôi chạy vắt giò lên cổ. Anh Mãnh có nhắn rằng, sẽ gặp lại Ngô Rân, mặc dầu sau đó Ngô Rân không dám bén mảng tới khu phố có nhà chị Quế.

                      Tự dưng bị bạn đưa ra làm lá chắn, nhưng tôi vẫn thản nhiên,

                      - Tôi đại diện cho thằng Rân tiếp anh.

                      Anh Mãnh nhanh nhảu,

                      - Thôi thì tiện đây mình giải quyết món nợ cũ cho xong.

                      Tay chân vung lên, hai đứa đánh toàn là đòn độc. Cuộc chiến diễn ra giữa phố. Anh Mãnh cao hơn tôi một cái đầu, vì thế tôi cố tiến sát địch, đánh cận chiến. Tôi gồng mình chịu ba bốn cú thôi sơn vào ngực, vào hông. Nhưng rồi tôi đã thành công với hai phát chém bằng sống tay trúng ngay mặt địch thủ. Chắc mũi địch thủ của tôi phải xẹp lép vì hai cú chém này. Tôi nhấn thêm một bước cho gần địch thủ hơn. Tôi vung chân phải lên, ngáng cẳng sau của địch, đồng thời bàn tay phải tận lực đẩy ngay cằm anh ta. Nếu trúng đòn này, một con bò cũng phải té bật ngửa. Nhưng anh Mãnh quả là tay bản lãnh rất cao. Anh ta xoay nhanh theo chiều kim đồng hồ, tay trái đấm một phát chí tử trúng ngay cằm tôi.

                      "Bốp!"

                      Lãnh cú đòn này, hai mắt tôi nổ đom đóm, hai tai kêu lùng bùng. Tôi nghiến răng, liều mạng, dùng đầu làm vũ khí, húc ngược lên.

                      "Cốp!"

                      Đỉnh đầu tôi chạm cằm của anh Mãnh rất mạnh. Anh ta lảo đảo. Tôi nhào vào kẻ địch, vật nó xuống. Hai đứa quấn vào nhau, lên gối lia lịa... ‘Hự!... Hự!...". Hai đấu thủ lăn lộn giữa đường phố. Một lúc sau, thì bốn cánh tay khóa chặt, chân mỏi nhừ, chẳng đứa nào đánh thêm được cú nào nữa, đành nằm ôm nhau thở phì phò...

                      Lúc tôi đang nằm dưới, Mãnh đè phía trên thì nghe tiếng con gái la rối rít,

                      "Cảnh Sát! Cảnh Sát tới!"

                      Một ông cò cầm dùi cui xuất hiện,

                      - Ê! Hai thằng kia, ngừng lại!

                      Nghe tiếng ông cò nạt, Mãnh buông tôi ra. Tôi vội nhoài người, đứng dậy.

                      Ông Cảnh Sát quất cho mỗi đứa một dùi cui vào mông đít,

                      - Đi về! Lớn rồi còn đánh lộn hả?

                      Một đám học trò con gái bu lại. Có mấy đứa cùng lớp tôi, đang chí choé với nhau. Có đứa lấy dầu cù là bôi lên cằm tôi, chỗ vừa bị đấm. Tôi nghe tiếng Võ Thị Quý,

                      "Cứa thèng Lang quỷ sứ nài cứ đi đắn lộộn hùa!" (Cái thằng Long quỷ sứ này cứ đi đánh lộn hoài!)

                      Hôm sau, vào lớp, chị Kim Tư cằn nhằn,

                      - Long! Lớn rồi, đừng đánh lộn nữa nhé!

                      Tôi bẽn lẽn, trả lời chị,

                      - Vâng, từ nay Long không đánh lộn nữa. À mà ai mách cho chị chuyện này vậy?

                      - Quý chứ ai! Quý, Xuân Lan, Diệu Hồng, đi học Pháp Văn về. Thấy Long đang đánh nhau, tụi nó dừng lại coi. Xuân Lan nó bôi dầu lên chỗ đau cho Long, không nhớ sao?

                      Tôi có nhớ gì đâu? Tôi chỉ ậm ừ.

                      Võ Thị Quý chõ miệng vào,

                      - Mắc cỡ! Đánh lộn bị thua, nằm dưới. Nếu không có ba của Ngô Rân tới can thì bị một bữa ăn đòn đau rồi.

                      Nghe Quý nói, tôi mới nhớ ra. Cái ông Cảnh Sát lùn tịt đó, thấy sao mà quen quá! Thì ra ông ấy là bố thằng Rân. Đêm tối nhập nhoè, tôi không nhìn ra ông. Chắc ông già nhận ra tôi, nên chỉ phết cho một dùi cui rồi đuổi đi. Chứ nếu không, ổng túm về ty, giam cho một đêm, chắc là bị muỗi đốt cho khờ khạo.

                      Nhìn cái miệng Võ Thị Quý cứ xoen xoét hài tội, tôi ức lắm, nhưng không làm gì được nó. Tôi đành rủa thầm,

                      "Cái con khỉ này sao mà lắm mồm thế!"

                      Tôi quay đi không thèm đôi co thêm với các cô này. Cũng từ đó, tôi chấm dứt các cuộc tỉ thí võ nghệ tay đôi. Và chuyện tình của thằng Tiến, thằng Rân chẳng còn dính dáng gì tới tôi nữa.

                      Năm đó, cứ vào giờ thày Tống Khuyến dạy Pháp Văn lớp Đệ Ngũ 3, thì lớp Đệ Tam được nghỉ. Những đàn anh "đứng đắn" thì túa ra sân bóng rổ luyện thể lực, hay lang thang trong sân trường tìm ý thơ. Những tay "ba nhe" thì cứ liệng qua liệng lại trước hiên các lớp dưới có con gái đẹp. Hai chữ "ba nhe" có nghĩa gì, tôi cũng chẳng biết. Thấy chúng bạn dùng danh từ này để chỉ những kẻ xấu, tôi cũng dùng theo.

                      Chúng tôi thường xuyên bị những tay "ba nhe" lớp trên quấy rầy, chỉ vì lớp tôi cũng có vài cô dung nhan khá dễ thương. Bọn phá phách này cứ đi qua, đi lại ngoài hàng hiên, miệng oang oang như những cái loa Ty Thông Tin,

                      "Lune d’automne!"... "Lune d’automne!" (Nguyệt Thu!... Nguyệt Thu!)

                      "Nuage!"... "Nuage!" (Vân!... Vân!)

                      Chúng tôi ngồi trong lớp mà cứ nhấp nhổm, muốn nhảy ra túm cổ bọn nhí nhô đấm vài phát cho bõ ghét. Chúng tôi gọi những tay quậy phá này là bọn "quái vật".

                      Một hôm, thày Khuyến cất giọng, sai tôi,

                      - Long! Nước cam cho thày!

                      Tôi biết là phải ra ngoài nhà ông phu trường mua dùm thày chai nước cam. Thày mà khô cổ, không có nước cam, thày giảng bài không được.

                      Vừa bước ra khỏi cửa, tôi đụng đầu ngay một đàn anh. Anh ta đang gân cổ gáy,

                      "Lune d’au..."

                      Tôi hét lên,

                      - Con quái vật này! Ông đấm... (bể mõm bây giờ!)

                      Tôi chưa la hết câu, thày Khuyến đã thò đầu ra.

                      Thày cũng quát lớn,

                      - Con quái vật kia, mi làm cái chi mà ồn ào rứa?

                      Nghe tiếng thày Khuyến hù, những cái loa Ty Thông Tin tắt ngấm. Đám đàn anh của tôi chạy có cờ.

                      Hôm đó các chị trong lớp ca tụng thày Khuyến hết lời. Còn bọn con trai chúng tôi cũng gân cổ đổ đủ thứ tội lên đầu bọn nam sinh Đệ Tam.

                      Cái uy của thày Tống Khuyến cũng hiệu lực được vài hôm, rồi đâu lại hoàn đấy. Cứ tới giờ Pháp Văn, chúng tôi lại nghe tiếng ma kêu, quỷ rú, từ gần ra xa, từ xa về gần "Lune d’automne!... Nuage!..."

                      ---o---

                      Đầu thập niên 60, đất nước lâm nguy, đám nam sinh Trần Quý Cáp hăng hái, "đứng lên đáp lời sông núi..." (Quốc Ca)

                      Trước ngày quân đội đồng minh đổ bộ lên bãi biển Sơn-Trà, Đà-Nẵng, Trường Sĩ Quan Hải Quân đã mời gọi được những người trai yêu biển cả như Lưu Lương Cơ, Trần Văn Căn, Trần Quế Chính..

                      Trường Sĩ Quan Không Quân cũng tuyển Nguyễn Hữu Hạnh và Vũ Văn Bằng ngay từ khi hai bạn này vừa xong Tú Tài I.

                      Nghe đâu anh Mãnh xóm Tây Hồ cũng cùng vài người bạn, đã tòng quân, theo khóa Hạ Sĩ Quan, Nha-Trang.

                      Tôi quen biết nhiều anh trong số những chàng trai đã cất cao khúc hát "Biệt Kinh Kỳ" thời đó, như Võ Văn Sung, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Lê Hữu Mục, Lê Trung Bòng, Hồ Hùng, Đỗ Bá, ...

                      Một ngày, khi đứng trong đám tân binh của Quân Đoàn I chuẩn bị lên xe lửa vào Đà-Lạt nhập Khóa 20 Võ-Bị, tôi thấy anh Nguyễn Đức Tâm đeo lon thiếu úy, ưỡn ngực đi qua, đi lại, dưới hàng hiên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Hôm đó, tân Thiếu úy Nguyễn Đức Tâm Khóa 18 Võ-Bị, vừa ra trường, đang nghỉ phép thăm nhà. Thấy tôi, anh Tâm giơ tay vẫy. Ngày đó tôi lên đường,

                      Hát khúc Xuất Quân
                      Giỡn mặt Tử Thần
                      Viết những thiên anh hùng ca bằng máu
                      Từ những chiến trường Tây-Nguyên, Bến-Hải, Cà-Mau"

                      (Thơ VMLong)

                      Giữa thập niên 60, đám nữ sinh bạn tôi lần lượt lên xe hoa, về làm dâu... nhà người ta.

                      Thời gian này tôi đang học trong Trường Võ-Bị Đà-Lạt nên không có dịp tiễn chân bạn mình sang sông. Huỳnh Thị Tuyết Trinh lấy một ông thày dạy Anh Văn trường Trần Quý Cáp. Chị Lê Thị Kim Tư lấy một Y Sĩ Trung úy.

                      Vài năm sau, Võ Thị Quý kết hôn với một ông sĩ quan trưởng kho đạn đồn trú ngoài bãi biển Sơn-Trà. Có một lần tôi về thăm nhà, tới thăm bạn, bạn tôi vừa nựng con, vừa cười với tôi,

                      - Nếu mi tìm không ra vợ. Về lại Hội-An tau giới thiệu cho một mớ. Tha hồ mà lựa. Muốn đứa nào, tau nói cho một tiếng là xong. Mà cũng lạ hí? Tụi mình chơi với nhau thân như rứa, mà sao chẳng nghĩ tới chuyện lấy nhau? Lạ hí?

                      Tôi chỉ cười trừ. Chứ biết trả lời sao với bạn tôi đây?

                      Càng ngày, chiến tranh càng leo thang. Tôi tham gia hết chiến dịch này qua chiến dịch khác dọc Trường-Sơn, ít khi có dịp về thăm chốn cũ.

                      Ngày xưa nghe Minh Thu hát,

                      Rừng ơi! Ta nhớ những đêm trăng buồn.
                      Ngồi bên khe vắng nghe suối xa tuôn..."

                      (Hùng Lân)

                      tôiđã thương núi, yêu rừng.

                      Tới khi quanh năm trong rừng, tôi lại thèm được một ngày trở về Hội-An, để nghe Minh Thu hát.

                      Sau Tết Mậu-Thân, đơn vị tôi hành quân trên Đà-Lạt. Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân chạm trận nặng trong rừng Cam-Ly. Đại đội tôi bị máy bay đánh lầm, phải chạy bán sống, bán chết. Đại úy Hồ Khắc Đàm, tiểu đoàn trưởng bị thương. Đài BBC thổi phồng sự thiệt hại của đôi bên, làm cho dân chúng thành phố xôn xao. Ngay hôm tôi rút quân về, một người bạn báo cho tôi biết Nguyệt Thu đang ở đây, và đã tới Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn tìm tôi nhưng không gặp. Hôm sau tôi và tài xế cùng một người bạn gốc Hội-An tới nhà Thu ở trọ để thăm Thu. Lúc đầu, tôi không thể nhận ra Thu. Thu đang có bầu, mặt đầy tàn nhang, chỉ có đôi mắt to đen, mở lớn là còn nét quen thuộc. Nguyễn Thị Nguyệt Thu đã lập gia đình lâu rồi. Và Thu đang làm cô giáo, dạy tiểu học ở Trại Hầm. Tôi cám ơn Nguyệt Thu đã tới tìm thăm tôi, khi nghe tin đơn vị tôi vừa chạm trận, thiệt hại nặng.

                      Nguyệt Thu ngắm cái phù hiệu Biệt Động Quân trên vai áo tôi, giọng bùi ngùi,

                      - Ngày đó Thu tưởng, sau này lớn lên, Long sẽ thành một nhà văn. Không ngờ Long lại chọn nghề võ.

                      Nghe Nguyệt Thu nhắc lại kỷ niệm thời Đệ Ngũ, lòng tôi cũng cảm thấy bâng khuâng.

                      Cả một khung trời êm đềm của tuổi học trò như vừa hiện về. Tôi chợt thấy an ủi trong lòng, khi nhận ra rằng, dù không gian cách trở, thời gian có trôi qua, nhưng tình nghĩa bạn bè tuổi ấu thơ vẫn còn bền chặt thân thiết như thuở xưa.

                      Mới đó mà, từ sau năm Đệ Tứ, chúng tôi đã xa nhau tám năm. Trong tám năm dài đằng đẵng ấy, đã xảy ra bao nhiêu là thay đổi...

                      Tháng 9 năm 1970 tôi phải về Sài-Gòn chờ đi học một khóa ngắn ngày bên Singapore. Tôi tìm địa chỉ của Phùng Tiến để ngủ nhờ. Tôi không nói ngoa, chứ ở cái nơi cùng kiệt của con hẻm 164 Yên Đổ ấy, vào ban đêm, khách lạ phải gồng mình lấy sức, để xông qua bức màn muỗi đói dày đặc như nêm cối chắn lối, mới tìm ra cái cửa căn phòng nhà Phùng Minh Tiến. Thằng Tiến thuê căn phòng này để ở trong những năm chuẩn bị cái bằng Cao Học Hành Chánh. Đây là chốn tụ tập của những bạn đồng môn Trần Quý Cáp năm xưa. Tại đây tôi gặp mặt Mạc Phi Hoàng, Đặng Xuân Nghĩa, Nguyễn Tăng Kỷ và Nguyễn Lợi. Nguyễn Lợi vừa là bạn cùng lớp, vừa là bạn cùng xóm Chùa Âm-Bổn của tôi. Nó có hai đứa em gái đẹp lắm. Cô lớn tên là Nguyễn Thị Nhiều, cô nhỏ tên là Nguyễn Thị Chuyện. Ngày nào tôi cũng gặp hai nàng yểu điệu thục nữ cùng xóm này, nhưng chưa bao giờ dám mở miệng làm quen.

                      Ngày đó tôi ngu quá. Nghe lời thằng Ngô Rân giảng "mo ran" rằng,

                      "Chỉ những thằng khốn kiếp, mặt dày mới đi cù em gái của bạn!"

                      nên tôi cứ phải đóng vai lạnh lùng, đạo mạo với mấy cô em gái của tụi bạn tôi.

                      Ai dè đâu, chỉ vài năm sau, thằng "mặt dày" Ngô Rân cưới được Quế Hương, em gái thằng Trần Ngọc Lợi. Lúc tôi thấy mình ngu, thì tôi đã vào Pleiku mất rồi.

                      Tôi còn nhớ, lần đó bọn thằng Lợi, thằng Nghĩa nài nỉ tôi kể chuyện đời lính Cao-Nguyên cho chúng nó nghe… Đang vui câu chuyện, ông vua phản chiến Nguyễn Tăng Kỷ vụt đứng dậy bĩu môi,

                      - Chỉ vì những thằng hiếu chiến như tụi mi nên mới có chiến tranh!

                      Hôm đó bùng nổ một cuộc đấu lý kịch liệt, một bên là Nguyễn Lợi và Đặng Xuân Nghĩa, bên kia là Nguyễn Tăng Kỷ. Tôi hầm thằng Kỷ lắm, nhưng không quen đánh nhau bằng mồm. Chờ lúc tụi nó thở ra, nghỉ mệt, tôi hét vào mặt thằng Kỷ,

                      - Nếu không có mấy thằng hiếu chiến như tụi tao, thì làm sao mày có thể sống nhơn nhơn ở Sài-Gòn bao nhiêu năm nay được? Cái đồ vô ơn!

                      Thấy tôi đổ quạu, các bạn tôi ngừng cãi nhau.

                      Từ Singapore về, tôi lại tới hẻm 164 Yên Đổ ngủ nhờ, chờ phương tiện về Pleiku. Ngày hai bữa, chúng tôi hẹn nhau về cái chòi căng bằng vải nhựa của một bà bán cơm dĩa trong con hẻm đối diện. Tội nghiệp bà chủ quán. Vào giờ đông khách, trông bà cứ như con vụ, xoay mòng mòng, tả xung, hữu đột, đối phó với bọn khách đang đói bụng. Ít năm sau, bọn khách bình dân này thành Đốc-Sự, Thanh-Tra, Phó Quận, Phó Tỉnh. Chẳng đứa nào ghé thăm bà chủ quán cơm. Có lẽ chỉ vì bà không có con gái, nên khi thành đạt rồi, chúng nó quên bà ngay.

                      Vài hàn sĩ thư sinh bạn tôi đã thoát xác để thành một Phó Ty Cảnh Sát Tỉnh, một Ủy Viên Giám-Sát-Viện, một Chánh-Văn-Phòng sau cùng của Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm. Và từ năm 1973, mỗi khi nhắc tới tiểu sử Trung-Học Trần Quý Cáp Hội-An, người ta lại thấy tên Trần Huỳnh Mính trong danh sách hiệu trưởng trường, sau tên quý vị tiền nhiệm Lưu Chí Kiên, Hoàng Trung, Tăng Dục...

                      Thế sự cứ xoay vần, vận nước cứ đổi thay. Làm sao chúng ta đoán biết được tương lai? Nhưng suy cho cùng, "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả" (Phan Bội Châu) thì ai cũng thành thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ, có ai dại dột đi làm binh... sĩ như tôi?

                      Nhưng có một lần tôi nghiệm ra rằng trăm nẻo đường đời, nẻo nào cũng có chông gai riêng của nó. Đi lính đã trên chục năm, bất ngờ một hôm tôi thấy dưới quyền mình có một người quen. Anh Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh, Sĩ Quan Trợ Y Tiểu Đoàn 82 BĐQ, là bạn cùng lớp của tôi suốt ba năm Tú Tài.

                      Anh Khanh bị loại năm cuối cùng tại Đại Học Dược Khoa Sài-Gòn, bị gọi đi Sĩ Quan Trừ Bị, rồi bị đưa vào Pleime. Đơn xin học lại năm chót Dược Khoa Quân Y của Khanh đã được chấp thuận, nhưng anh phải chờ người thay thế mới được rời đơn vị.

                      Tôi thấy ở Pleime, Tử Thần rình rập từng giờ, từng ngày. Bạn tôi lên đường càng sớm càng hay. Tôi vội ký sự vụ lệnh cho Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh ra đi. Mãi một năm sau (tháng 1/1975) tôi mới được bổ sung ông Sĩ Quan Trợ Y mới.

                      Dược sĩ Nguyễn Hồng Khanh hiện nay vẫn còn hành nghề thày thuốc ở Hội-An. Không biết người cựu chiến binh Biệt Động này có nhớ gì Pleime không?

                      ---o---

                      Ba chú bé trong xóm Hồ Sen, từng có lần trêu chọc tôi, "Anh Long có bồ! Lêu!... Lêu!...", đã nghe lời cha mẹ dặn, lớn lên noi gương "Cậu Long" cố gắng học hành.

                      Ngày tôi ra trường Võ-Bị, đầu đội cái mũ nâu, về thăm nhà, chúng nó đã trở thành học sinh Trung-học Trần Quý Cáp. Ba thằng em bu quanh tôi, miệng hát,

                      "Biệt Động Quân... chết trên rừng,"

                      Nghe thế, mẹ tôi trừng mắt,

                      - Các cháu đừng nói gở...

                      Cả ba đứa toét miệng ra cười,

                      - Anh Long ngon quá! Mai này lớn lên tụi em sẽ đi theo anh...

                      Đầu năm 1974, có một chuẩn úy mới ra trường đáo nhậm đơn vị. Khi nghe anh nói chuyện giọng trăm phần trăm Quảng-Nam, tôi tò mò,

                      - Chú nói tiếng Quảng không pha một chút nào. Vậy chứ chú em quê ở đâu?

                      - Em quê Hội-An.

                      - Em có học Trần Quý Cáp không?

                      - Em tốt nghiệp Trần Quý Cáp sau Thiếu Tá chín năm.

                      - Vậy ra em có biết anh?

                      - Em ở trong khu Hồ Sen, Chùa Âm-Bổn. Nhà em gần nhà Thiếu Tá.

                      - Em tên là gì?

                      - Em tên Trương Trọng Tài. Nhưng em thích được gọi là Trương Thiên Tài.

                      - Ừ thì anh sẽ gọi em là Trương Thiên Tài. Nhà em ở chỗ nào khu Hồ Sen?

                      - Nhà em cách nhà bác Thạnh hai căn, đâu lưng với nhà bác Nhuận, tài xế.

                      - Anh nhớ ra rồi, nhóm em có ba đứa. Hai đứa kia giờ này ở đâu?

                      Đôi mắt người sĩ quan trẻ chợt buồn,

                      - Thiếu Tá ơi! Chúng nó bỏ học ngang xương, tình nguyện đi lớp Hạ Sĩ Quan. Hai đứa đều về Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân. Trận Hạ Lào, chúng nó không về. Lớp tuổi của em, trong xóm mình, còn có mình em thôi.

                      Như thế là, hai đứa em trong xóm, đã theo chân "Anh Long" thành Biệt Động Quân, và đã... chết trên rừng. Nghe Tài kể chuyện, tôi chợt cảm như có cái gì đó làm tôi nghẹn hơi. Có cái gì đó làm tôi khó thở. Ngực tôi đột nhiên nặng như chì.

                      Năm ấy, chiến dịch mùa mưa Cao-Nguyên khởi đầu sớm hơn mọi năm.

                      Một hôm, bình minh lên cùng với tiếng súng. Mưa pháo ào ào cày xới Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân QLVNCH bị hai trung đoàn Cộng Quân tấn công.

                      Chín giờ sáng ngày 14 tháng Tư năm 1974, Chuẩn úy Trương Thiên Tài bị thương vào tay trái. Băng bó vừa xong, người trung đội trưởng lại vội vã lao ra chiến hào. Trận đánh càng lúc, càng thêm ác liệt, và kéo dài suốt đêm. Lực lượng trừ bị sau cùng của tiểu đoàn đã được tôi tung vào trận địa để chống đỡ những đợt biển người liên tiếp của Sư Đoàn 320 Cộng-Sản Bắc-Việt.

                      Tám giờ sáng ngày 15 tháng Tư năm 1974, trung đội trưởng trung đội 3 đại đội 3/ 82 gục trên chiến hào, cách tôi và Thiếu úy Phiến đại đội trưởng đại đội 3/82 vài thước. Chuẩn úy Trương Thiên Tài vỡ ngực vì một băng AK 47 trong đợt tấn công biển người lần thứ sáu của Cộng Quân trong hai ngày kịch chiến.

                      Hôm đó, nơi tiền đồn biên giới, trong màn lửa đạn mịt mù, một đàn anh Trần Quý Cáp vuốt mắt cho một đàn em Trần Quý Cáp.

                      Em gục xuống rồi. Từ nay trong xóm mình, lớp tuổi của em, không còn ai nữa!

                      Biệt Động Quân chết trên rừng,
                      ...cầu mong cho hậu phương bình yên."

                      Như giòng Thu-Bồn chảy mãi không ngừng. Từ nơi đó ra đi, những thế hệ học sinh đã theo chân nhau đóng góp tuổi trẻ, mồ hôi, và xương máu, cho quê hương Việt-Nam, làm rạng danh Trung-Học Trần Quý Cáp.

                      Thời chiến tranh, biết bao thanh niên đã lên đường ra mặt trận. Mỗi năm, bạn bè tôi cứ hao hụt dần. Các anh Trần Ngọc Lợi, Lưu Lương Cơ, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Trần Quế Chính, Hồ Hùng, Đỗ Bá, đã đền nợ nước.

                      Cho tới đầu tháng Năm năm 1975, vào một ngày rất buồn, tôi gặp lại Niên Trưởng Nguyễn Đức Tâm trong Khu Đăng Ký Sĩ Quan Cấp Tá của Ủy Ban Quân Quản, đường Trần Hoàng Quân, Sài-Gòn. Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm là vị tiểu đoàn trưởng sau cùng của Tiểu đoàn 14 Nhảy Dù.

                      Hai anh em nhìn nhau, mắt lệ rưng rưng. Chúng tôi đã không làm tròn sứ mệnh quê hương giao phó. Chúng tôi đã đánh mất quê hương.

                      "Quê hương tôi
                      Bao người bỏ chạy vì đâu?
                      Bao oan khiên chìm đáy biển sâu
                      Từ ngày ba mươi tháng tư năm ấy
                      Quê hương tôi là tất cả thương đau... "

                      (Thơ VMLong)

                      Rồi chúng tôi bị đưa vào các trại tập trung cải tạo. Từ đó, tôi bắt đầu cuộc đời tăm tối không ngày mai. Nhiều đồng ngũ của tôi bị xử tử vì tội vượt ngục.Vượt ngục không thành, nếu may mắn không bị xử bắn, thì cũng bị cách ly, kiên giam, bỏ đói, nhốt trong hầm tối một thời gian. Hai lần trốn trại bất thành của tôi ngoài Hoàng-Liên-Sơn cũng làm cho tôi mất một cái răng, và gãy một cái xương sườn, sau những trận đòn thù của bộ đội Đoàn 776 Quân-Đội Nhân-Dân Việt- Nam.

                      Truyện kể về cuộc đời sau chiến tranh của những người thất trận là một truyện trường thiên đầy nước mắt, không bút giấy nào ghi cho hết.

                      ---o---

                      Sau mười ba năm tù cải tạo, tôi về. Một hôm, trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài-Gòn tôi gặp Nguyễn Tăng Kỷ đạp xe lọc cọc ngược chiều. Thấy tôi, hắn dơ tay vẫy, miệng cười thân thiện. Tôi nghếch mặt lên trời ngắm cánh én bay, không đáp lại cái vẫy tay của người bạn bảy năm Trần Quý Cáp này.

                      Rồi sau đó tôi được nghe bạn bè nói lại rằng, chỉ vài năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, Nguyễn Tăng Kỷ đã mở mắt ra. Giấc mơ thiên đường Xã-Hội Chủ-Nghĩa của nó thành mây khói. Vợ nó chết rồi. Con gái nó đã ra khơi làm thuyền nhân, đang định cư ở Úc. Biết điều này, tôi mới hiểu vì sao, hôm đó cái vẫy tay của nó lại có vẻ thiết tha như thế. Khi nghe tin thằng Kỷ đã sang Úc sum họp với gia đình con gái nó, tôi cũng mừng cho nó.

                      Năm 1993, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện HO.

                      Tháng 9 năm 2007, nơi quê người, tình cờ tôi gặp lại Nguyễn Lợi nhân một chuyến về chơi Wesminster, Nam Cali.

                      Quả đúng như nhận xét của Thục Anh, cô học trò của tôi,

                      "Anh Nguyễn Lợi trông già không ra già, trẻ không ra trẻ, vừa gặp là nhận ra ngay..."

                      Bao năm qua, mà "dung nhan" của Nguyễn Lợi chỉ thay đổi tí ti thôi. Bởi thế, nơi sân khách sạn Little Saigon, khi nghe tiếng người xứ Quảng,

                      "Ê! Lang! Có phửa Giương Mộng Lang đó khô... ong?" (Ê! Long! Có phải Vương Mộng Long đó không?) quay lại, tôi nhìn ra "con ma xó" này ngay. Tôi lén đặt cho nó cái hỗn danh "con ma xó" là vì, chuyện trên trời dưới bể, cái gì nó cũng biết, cái gì nó cũng rành. Nguyễn Lợi giúp tôi tìm được Mạc Phi Hoàng và nhà thơ Phùng Minh Tiến. Mấy thằng này vẫn còn tươi rói, mặc dù mái tóc thằng nào cũng có vẻ nhạt màu và thưa đi nhiều, không còn bồng bềnh đen nhánh như thời chúng nó mới vào Đại Học Chính-Trị Kinh- Doanh, Đà-Lạt.

                      Cho tới bây giờ tôi mới biết rằng Mạc Phi Hoàng cũng là tay yêu văn thơ. Có lẽ vì thế mà nó kỳ khu, miệt mài lấy cho được mảnh bằng Cử-Nhân Văn-Khoa trường Đại Học Đà-Lạt. Cậu học trò Mạc Phi Hoàng nhút nhát lắm. Trong bảy năm, nó âm thầm ôm ấp hình bóng một giai nhân lớp dưới mà không ai hay. Trong tập thơ mới xuất bản gần đây, nó đã thú nhận cái nhút nhát ngày xưa của mình, nơi bài "Hoa Tuyết Phi"

                      Chàng yêu tha thiết cả con tim
                      Cay đắng thương đau với nỗi niềm
                      Câm nín ngàn lần không dám nói
                      Bảy năm mòn mỏi gục bên thềm..."

                      (Thơ Phan Huy Mạc Phi Hoàng)

                      May thay, nó đã chọn đúng người. Khi thương nó rồi, người cựu nữ sinh hương sắc Trần Quý Cáp đó đã thủy chung tần tảo nuôi con, mỏi mòn đợi chờ nó. Nó đi tù cải tạo gần mười năm. Giờ đây, nơi đất khách, anh thi sĩ Phan-Huy Mạc Phi Hoàng, bạn tôi chỉ còn bên mình tập thơ "Phố Cũ Tình Xưa" và nàng Tuyết-Phi, cùng hai cậu quý tử mà nó và cô ta đã vất vả chung lưng "sáng tác".

                      Năm 2009, nhân ngày "Kỷ Niệm 46 Năm Nhập Khóa 20 TVBQGVN" vợ chồng tôi lại về Nam Cali.. Dịp này tôi mời ba ông khách quý tới dự đêm dạ tiệc với bạn bè đồng khóa của tôi. Ông Mạc Phi Hoàng, cựu Phó Ty Cảnh-Sát Tỉnh, đang bị bịnh dời leo vật té ngửa, không tới được. Chỉ có ông Nguyễn Lợi, cựu Chánh-Văn-Phòng Phủ Thủ-Tướng và ông Phùng Minh Tiến, cựu Uỷ-Viên Giám-Sát-Viện hiện diện đêm tiếp tân. Hai đứa này có dịp tha hồ tâm sự cùng bọn đồng môn Trần Quý Cáp đã đi K20 Võ-Bị còn sống sót. Những đứa con Trung-Học Trần Quý Cáp gặp lại nhau nơi đất khách, mừng mừng tủi tủi.

                      Hôm đó, những kỷ niệm của đoạn đời thơ mộng ngày nào chợt sống lại. Một con lộ cắt ngang ruộng rau muống, đêm đêm ếch nhái kêu vang, trước Khổng Miếu tối om; một đoạn phố ven sông, có ánh đèn điện mờ mờ, từ Chùa Cầu tới rạp Hòa-Bình; một khúc đường quê bốn mùa hoa nở từ Chùa Sư Nữ xuống Phước-Trạch; hay cái lối mòn hun hút, ngoằn ngoèo trên cồn cát cháy nắng sau Chùa Long-Tuyền; những con đường in dấu chân thời mới lớn, những mối tình học trò, đã là những đề tài nói mãi không thôi.

                      Hết chuyện thế giới, chuyện quê nhà, tới chuyện gia đình vợ con, chúng tôi hàn huyên suốt buổi. Đêm sao ngắn quá! Mà tâm sự thì chưa thổ lộ hết cho nhau.

                      Tôi cứ thắc mắc trong lòng, thằng Nguyễn Lợi ly dị vợ, sống một mình đã đành; chuyện thằng Phùng Tiến đang đơn côi mới là điều đáng ngạc nhiên. Bộ thằng khờ này không biết Việt kiều đang rủ nhau về quê cưới vợ rần rần hay sao? Tôi nhắc Tiến,

                      - Người xưa đâu?

                      Nó chỉ lắc đầu cười, rồi đưa tặng tôi một tập thơ nhiều tác giả, xuất bản cách đây khá lâu. Trong "Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh" này, tác giả Phùng Minh Tiến có mười bài. Nơi đây, tôi vẫn nhận ra dáng dấp thơ của cậu học trò Đệ Ngũ, Trần Quý Cáp ngày nào,

                      Tôi về thăm bóng trăng xưa
                      Còn đâu bến cũ mà đưa tiễn người
                      Sông Thu nay lở mai bồi
                      Bèo tan cửa Đại, mây trôi phương nào.
                      Nửa đời chưa hết lao đao
                      Bốn mươi năm lẻ làm sao quên người.
                      Trời ơi! Thoáng một nụ cười
                      Theo nhau chi để lụy người núi sông?"

                      (Thơ Phùng Minh Tiến)

                      Đời người đâu có dài cho lắm? Vậy mà, hơn bốn mươi năm sau, nụ cười của một người Hội-An vẫn chưa nhạt phai trong tim một người.

                      Bây giờ là thế kỷ 21. Một trang sử đã lật qua. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Mỗi người con Trung-Học Trần Quý Cáp có những nỗi niềm tâm sự riêng khi nhớ về nơi ấy. Nhưng cứ mỗi lần nghe ai nhắc tới tên ngôi trường này, lòng tôi lại cảm thấy dạt dào thương nhớ.

                      Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trần Quý Cáp đã làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ, uốn nắn, và bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đã được trui rèn nhân cách, trau dồi kiến thức, để trở thành một người tốt; biết tự trọng, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một nước độc lập, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đã lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đã thành người.

                      Tôi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho quê hương xứ sở. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để phục vụ đồng bào tôi và đất nước tôi, như bố tôi đã hằng mong. Và trên xứ Thiên-Đàng, chắc bố tôi cũng đã mỉm cười hài lòng vì đứa con mình.

                      Bây giờ tôi ở cách xa Hội-An cả một đại dương, nhưng trong tâm tưởng, tôi vẫn có thể mường tượng ra rất rõ, hình ảnh của ngôi trường xưa, cùng nét mặt thân yêu của những người đã một thời dạy dỗ tôi.

                      Seattle tháng 10 năm 2009

                      Comment


                      • #12
                        Xin Admin "delete" dùm phần góp ý này. Cám ơn. KQ_NT
                        Last edited by KQ_NT; 07-07-2014, 03:43 AM.

                        Comment


                        • #13
                          Nguyên văn bởi dnchau View Post
                          Xin phép post bài cùng tác giả.

                          Mùa Xuân,Quê Hương & Khói Súng

                          Vương Mộng Long, K20

                          Mấy hôm nay tuyết bắt đầu rơi, mùa Ðông Bắc Mỹ đã tới. Tôi nhủ thầm, "Như thế là Xuân đang về nơi quê mẹ!"

                          Ðầu năm dương lịch, tôi có một tuần được nghỉ bù cho những ngày làm việc phụ trội mùa Giáng Sinh. Tôi lên nhà con gái tôi chơi với thằng cháu ngoại Maxwell hai tuổi. Bố mẹ nó đi làm tới tối mới về. Tuổi cháu Maxwell bây giờ bằng tuổi mẹ nó ngày ông ngoại nó thua trận năm xưa, ngày Sài Gòn thất thủ (tháng Tư 1975). Thằng bé bập bẹ,

                          -"Ong...ong... ong ngại..."

                          Tôi vuốt tóc nó. Nó toét miệng ra cười. Nụ cười của thằng bé thật là trong sáng, hồn nhiên. Mùa Xuân đời nó mới bắt đầu... Tôi ôm thằng cháu ngoại vào lòng. Bồi hồi nhớ lại những mùa Xuân đã qua trong cuộc đời mình.

                          Thuở ấu thơ, Xuân về, tôi chỉ thấy buồn nhiều hơn vui vì tôi là một đứa trẻ mồ côi cha khi chưa đầy sáu tuổi. Tuổi hai mươi, tôi vào Trường Võ Bị. Ra trường, tôi lặn ngụp trong chiến trận mười năm, tiếp theo là mười ba năm khổ nhục trong lao tù cộng sản. Giờ đây tôi đang bước sang năm thứ mười ba của kiếp sống tha phương nơi đất lạ quê người.

                          Tới mùa Xuân này là chẵn 40 năm kể từ hôm tôi giã từ trường mẹ. Tới mùa Xuân này là chẵn 40 năm sau ngày tôi tham dự trận đánh lớn đầu tiên. Trận đánh này tôi xem như bài khảo hạch thực tế quá khắt khe và quá phũ phàng đối với một sĩ quan trẻ vừa rời quân trường. Nó đã ghi sâu trong lòng tôi một kỷ niệm rất buồn, khó quên. Nó cũng là một bài học quý giá giúp tôi thành công những năm sau, trên cương vị một người chỉ huy, sống và chiến đấu sát vai với thuộc cấp của mình.

                          Mồng mười Tết năm Bính Ngọ (1966), tôi mãn phép ra trường. Vài ngày sau đó tôi trình diện Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, CHT/BÐQ/QLVNCH. Chuẩn tướng bắt tay tôi, chúc cho tôi một đời binh nghiệp thành công.

                          Lòng phơi phới, hân hoan tôi rời Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Sài Gòn với cái sự vụ lệnh bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11/BÐQ đồn trú ở Phú Lộc, Ðà Nẵng. Ðoạn đường ngắn ngủi từ Ban Ðại Diện Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 1 ở gần cầu Trịnh Minh Thế, tới hậu cứ Tiểu Ðoàn 11/BÐQ ở xã Hoà Khánh ngoại ô Ðà Nẵng, cũng chiếm vài ngày vì thủ tục giấy tờ nhiêu khê.

                          Thiếu Úy Nguyễn Giáp (K2 Ðồng Ðế) sĩ quan quân số tiểu đoàn nói với tôi rằng ông đại úy tiểu đoàn trưởng đang hành quân ở Hội An. Tôi có thể đi tìm ông ta bằng phương tiện tự túc.

                          Hạ tuần tháng giêng âm lịch, hơi hướm Tết còn vương. Vào Xuân, đường phố Hội An rực rỡ. Những đóa hoa mai nở vàng sau vườn. Trong nắng ấm, phấp phới những tà áo màu sặc sỡ. Những câu đối đỏ còn đong đưa trên nêu tre trong phố cổ. Phố hẹp, người đông, người dân Hội An đang sống trong một không khí thanh bình tạm bợ. Khói lửa chiến tranh vẫn ngùn ngụt nơi vùng quê. Từ ngoại ô, tiếng đại bác vẫn ì ầm vọng về...

                          Khoảng 10 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1966, tôi rời nhà lên phố tìm ông tiểu đoàn trưởng để trình diện. Từ chùa Âm-Bổn, tôi thả bộ theo đường Nguyễn Duy Hiệu, vừa đi vừa ngắm cảnh phố phường. Khi tôi tới cổng trường trung học Diên-Hồng thì sau lưng tôi có một chiếc GMC từ hướng Ðế Võng chạy lên.

                          Tôi thấy trên xe có cái quan tài phủ quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi dừng lại, đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt người chiến sĩ vừa tử trận. Bốn anh Biệt Ðộng Quân hộ tống xe tang thấy tôi đi bộ dưới đường, họ giơ tay chào.

                          - "Ai đó mấy chú?" Tôi hỏi với theo.

                          -"Thiếu Úy Gia, Thiếu Úy Gia Ðại Ðội 2 đó Thiếu úy!" Một anh lính nghẹn ngào.

                          Tôi chột dạ, hỏi thêm,

                          - "Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Gia K19 Ðà Lạt phải không?"

                          - "Dạ phải!"

                          Tim tôi nhoi nhói đau. Tôi đứng lặng nhìn theo chiếc GMC chạy về hướng chợ. Chiếc xe từ từ lăn bánh giữa hai hàng cây xanh. Những cành phượng vỹ mềm mại vướng vào mui xe, quệt trên lá cờ vàng ba sọc đỏ, như níu, như kéo. Khi chiếc xe đi qua, những chùm lá bật qua, bật lại trông như những cánh tay vẫy chào biệt ly...

                          Tới đầu chợ Hội An, tôi gặp một toán quân nhân TÐ11/BÐQ đang tụ tập chờ xe đón về đơn vị. Tôi hỏi thăm họ nơi nào ông tiểu đoàn trưởng đóng quân, thì họ nói ông Ðại úy ngày nào cũng loanh quanh ở mấy quán cà phê đâu đó gần chùa Cầu.

                          Tôi tìm được Ðại úy tiểu đoàn trưởng trước cửa tiệm chụp ảnh Huỳnh Sỏ. Ông Ðại úy và "đoàn xây lối khố" của ông đang ngồi xẹp, tán dóc giữa đường Nguyễn Thái Học. Ông không cần đọc cái sự vụ lệnh của tôi. Ông nheo mắt quan sát tôi một phút rồi phán,

                          - "Còn sữa quá! Làm Ban Ba Tiểu Ðoàn!"

                          Tôi đứng nghiêm. Nhìn thẳng vào mặt ông tiểu đoàn trưởng, tôi dõng dạc,

                          - "Thưa Ðại úy, tôi muốn ra đại đội tác chiến."

                          Ông tiểu đoàn trưởng nhìn sững tôi một giây, rồi phá lên cười,

                          - "Ð.M.! Chứ Ban Ba Tiểu Ðoàn không tác chiến sao? Oui! Toa về Ðại Ðội 3 thay Thiếu Úy Vinh. Thằng Vinh lên làm Ban Ba."

                          Khi nói chuyện, Ðại Úy Nguyễn Thừa Dzu, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ11/BÐQ thường chêm tiếng Tây (sau này tôi biết ông xuất thân từ quân đội Tây).

                          Xế trưa hôm đó, tôi quá giang xe đò tới xã Thanh Quýt, quận Ðiện Bàn, để giữ chức Ðại Ðội Phó kiêm Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1/Ðại Ðội 3/ Tiểu Ðoàn 11/Biệt Ðộng Quân. Sĩ quan Ðại Ðội Trưởng 3/11/BÐQ là Trung Úy Lê Bá Ngọ (K12 Thủ Ðức) đi chơi vắng. Người tiếp tôi là Chuẩn Úy Nguyễn Văn Vinh, sĩ quan trực đại đội, anh cũng là người sẽ bàn giao Trung Ðội 1/3/11 BÐQ cho tôi. Khi bàn giao trung đội cho tôi, Vinh cười,

                          - "Sao mày ngu quá? Làm ban ba có xe Jeep lại không chịu. Chịu làm trung đội trưởng, để đi bộ."

                          Chuẩn Úy Nguyễn Văn Vinh là con bác Bạo, y tá của bệnh viện Hội An. Anh Vinh là bạn học cùng lớp trung học với tôi. Vinh đi khóa 17 Thủ Ðức. Khóa 17 Thủ Ðức nhập trường sau khóa 20 Võ Bị hai ngày, ra trường trước khóa 20 Võ Bị một năm.

                          Ngày tiếp nhận sự vụ lệnh của tôi, Thiếu Úy Giáp có cho tôi biết khóa 20 Võ Bị có ba người được bổ sung quân số cho Tiểu Ðoàn 11/BÐQ nhưng chỉ có mình tôi tới đơn vị đúng ngày, còn hai người kia chưa thấy đâu.

                          Hồi đó tôi còn thư sinh, trắng trẻo lắm, binh sĩ trong đơn vị cứ lầm tôi với Thiếu Úy Thiều, cấp chỉ huy cũ của họ. Tôi thấy họ tỏ ra rất tin tưởng, vâng lời và thương yêu những sĩ quan xuất thân từ Ðà Lạt.

                          Ðã có nhiều niên trưởng của tôi phục vụ đơn vị này trước khi tôi ra trường. Nhưng cùng với đà khốc liệt của chiến trường tăng nhanh, sĩ quan Ðà Lạt ở Tiểu Ðoàn 11/BÐQ cũng hao hụt nhanh. Trừ Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Giám K19 còn sống sót, nhưng đang là thương binh loại 2, những niên trưởng khác của tôi đều tử trận cả rồi. Thiếu Úy Hồng Dũ Thiều (K19) và Trung Úy Hùng (K18) chết trong trận Việt An, Quảng Ngãi khi tôi đang tập dượt lễ mãn khóa K20 TVBQGVN. Thiếu Úy Nguyễn Vĩnh Gia (K19) chết ở Cẩm Kim, Hội An, ngày tôi trình diện tiểu đoàn. Vì thế đầu Xuân 1966, ở TÐ/11/BÐQ, nhìn tới, ngó lui, chỉ có một bông mai vàng Ðà Lạt cô đơn, đó là tôi.

                          Thời gian này Quân Ðoàn I đang trong chiến dịch "Hỏa Tuyến Vùng Lên". Ðơn vị tôi thường xuyên đi hành quân tảo thanh quanh thị xã Hội An và vùng ven biển Quảng Nam.

                          Tôi là cựu học sinh trung học Trần Quý Cáp. Tôi không lạ gì hai con chó đá và hai con khỉ đá chùa Cầu. Tôi cũng rất quen những địa danh Cẩm Kim, Xuyên Quang, Phước Trạch, Thu Bồn, Cửa Ðợi, Câu Lâu v.v... Mỗi khi hành quân về, đại đội tôi lại đóng quân ở nghĩa trang Triều Châu, gần miếu Ông Cọp, ngoại ô thị xã Hội An. Căn lều của ban chỉ huy Trung Ðội 1 dựng gần mộ nhạc sĩ La Hối, tác giả bài "Xuân và Tuổi Trẻ". Ông La Hối là người của thành phố Fai-Foo (tên xưa của Hội An). Căn lều ấy chứa năm thày trò chúng tôi gồm có tôi, Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho trung đội trưởng, Binh Nhất Lý Thí, người mang đồ ngủ, lều chõng cho trung đội trưởng, Binh Nhất Mai Ðăng Vinh, hiệu thính viên của Trung Ðội 1, và Hạ Sĩ nhất Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR, hỏa lực chính của Trung Ðội 1.

                          Mặc dù gia đình tôi ở ngay trong phố Hội An, nhưng tôi thích sống tại đơn vị, gần gũi với những quân nhân dưới quyền. Những buổi trở trời, mưa phùn bay mênh mang trên những đụn cát xa xa, Binh Nhất Lý Thí lại mò ra đầu xóm, rinh về một đĩa lòng heo luộc và một bi-đông rượu trắng. Thày trò tôi ngồi tán dóc chuyện dưới biển, trên trời. Khi men cay đã thấm, ông Mầu và thằng Thí gân cổ, vụng về ca những câu vọng cổ chẳng đâu vào đâu, làm cho thằng Vinh lăn bò ra cười. Khi nó cười, miệng nó óng ánh hai cái răng vàng quê ơi là quê!

                          Vào những chiều mưa buồn như thế, đám đàn em của tôi thường nài nỉ tôi cụng ly với họ. Sau mỗi lần tôi chịu "dzô!" một ly, thế nào họ cũng bắt tôi kể cho họ nghe một câu chuyện văn chương hay lịch sử.

                          Không biết họ có hiểu ý nghĩa của những câu chuyện tôi kể, thơ tôi ngâm hay không, nhưng tôi thấy họ ngây người nghệt mặt, miệng há tròn như chữ "O", họ nhìn tôi với ánh mắt đầy cảm kích.

                          -"Sĩ quan Ðà Lạt, văn võ kiêm toàn!"

                          Thằng Thí chỉ biết gục gặc cái đầu, tán tụng một câu như vậy, mỗi khi tôi ngừng đọc một bài Ðường Thi, hay kết thúc một chuyện tình của Nã Phá Luân Ðại Ðế.

                          Mờ sáng 22 tháng 2 năm 1966, đại đội tôi được thiết vận xa chở từ Hội An lên Vĩnh Ðiện để cùng với Ðại Ðội 1 và Ðại Ðội 4 đi giải vây cho đồn Kỳ Ngọc, Ðiện Bàn. Vì Ðại Ðội 2/11/BÐQ của Trung Úy Tôn Thất Trực (K10 Thủ Ðức) đang tăng cường cho chi khu Quế Sơn, nên Tiểu Ðoàn 11/BÐQ chỉ tham chiến với ba đại đội.

                          Thế là chỉ mười hai ngày sau khi đáo nhậm đơn vị, tôi có dịp nếm mùi "Công Ðồn Ðả Viện".

                          Vừa rời ngã ba Quốc Lộ 1 được một đỗi, đơn vị tôi bị khựng lại vì đoàn người chạy loạn ngược chiều cản đường. Ðồng bào bồng bế dắt díu nhau ùn ùn dồn về thị trấn Vĩnh Ðiện để lánh nạn chiến tranh. Gần tới tháp Bằng An, tôi gặp Trung Úy Nguyễn Ngại, đại đội trưởng đơn vị Ðịa Phương Quân phụ trách vùng tây Vĩnh Ðiện. Trung Úy Ngại xin gặp Trung Úy Ngọ. Hai ông đại đội trưởng trao đổi tin tức cùng nhau vài phút. Sau đó tôi được lệnh khai triển đội hình một hàng dọc theo lộ tiến về hướng tây.

                          Trung Ðội 1/ÐÐ3/TÐ11/BÐQ do tôi dẫn đầu vừa qua khỏi tháp Bằng An thì đàng sau có tin báo trung úy đại đội trưởng bị đạn dính vào cẳng. Ông đã được đưa lên xe tản thương cấp tốc. Anh hiệu thính viên đại đội chạy hộc tốc từ hậu quân lên tìm tôi để đưa cái ống liên hợp máy PRC10 cho tôi,

                          - "Thiếu úy! Ðại Bàng muốn nói chuyện với Thiếu úy!"

                          Ðây là lần đầu trong đời lính, tôi có dịp đàm thoại với "Ðại Bàng" trên máy PRC10. Trận này chỉ có một "Ðại Bàng" Mũ Nâu, Nguyễn Thừa Dzu. Còn "Ðại Bàng" Mũ Ðen Nguyễn Văn Của, chi đoàn trưởng thiết kỵ thì vắng mặt.

                          Buổi ấy là thời cực thịnh của những danh xưng truyền tin dữ dằn, đầy hơi hướm giang hồ hảo hớn như "Sơn Vương", "Phi Hổ" ,"Mãnh Sư", "Ðại Bàng"...

                          Mãi về sau, khi bọn thư sinh hào hoa may mắn sống sót, ngoi lên được những vị trí chỉ huy chiến trận, thì tên của những nữ minh tinh, ca sĩ thủ đô mới được trực thăng vận ra chiến trường. Bất cứ chốn nào có súng nổ, đạn bay thì các nàng Thái Thanh, Kiều Chinh, Phương Dung, Hoàng Oanh, Thanh Thúy... lại gọi nhau ơi ới.

                          Ông đại úy tiểu đoàn trưởng cho lệnh tôi đảm đương chức vụ Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 3/TÐ11/BÐQ vì đại đội tôi chỉ còn hai sĩ quan là tôi và Chuẩn Úy Ðạt (K18 Thủ Ðức).

                          Từ phút đó, trên máy truyền tin, tôi không còn là "Giới Chức 1" nữa mà tôi được quyền xưng danh là "Thẩm Quyền 3".

                          -"Ðại Bàng! Ðây Thẩm Quyền 3 tôi nghe 5!"

                          Tôi chưa ổn định được đội hình đại đội thì đại úy đã thúc hối,

                          -"Ð.M! A lê! Tiến lên cho kịp mấy con cua sắt! Ð.M! Cứ lù đù như gà mắc dây thun thì đến tối cũng chưa tới mục tiêu!"

                          Quả thực từ lúc khởi hành cho tới giờ đó, tôi có biết mục tiêu ở chỗ nào đâu! Trung úy ra đi không để lại một lời! Ðại Úy ở chỗ nào tôi cũng chẳng hay! Tôi chỉ nghe được tiếng nói của người trên máy. Tôi định xin đại úy chỉ cho tôi mục tiêu ở chỗ nào, và nhiệm vụ của đại đội tôi làm gì, nhưng tôi lại sợ đại úy nổi giận!

                          Thấy đoàn M113 đang hàng dọc bò chầm chậm theo con lộ, tôi vội vàng ra lệnh cho quân mình dàn hàng ngang hai bên đường tiến lên phía trước đoàn xe. Những tia nắng mai bắt đầu lóng lánh trên mặt nước đồng chiêm. Nếu không có những tiếng động cơ M113 rú lên từng chặp trên con đường đá giăm gập ghềnh, thì toàn vùng đồng không mông quạnh này sẽ im ắng như tờ. Không cả tiếng chó sủa, mèo kêu.

                          Tôi cảm thấy lạnh lưng, rùng mình trước cái im lặng ghê rợn ấy. Tôi sử dụng đội hình "Tam Giác Mũi Trước"; ban chỉ huy đại đội đi sau Trung Ðội 2 bên trái đội hình. Tôi cẩn thận cho một toán tiền thám ba người đi dò đường một đoạn khá xa phía trước. Khi chúng tôi đến gần một con dốc nơi có cái miếu thổ địa bên đường, thì anh trưởng toán tiền thám là Binh Nhất Trần Quy chạy ngược lại, hớt hải,

                          - "Hướng nam con lộ có rất nhiều người cài lá ngụy trang đang di chuyển ngược chiều quân bạn!"

                          Tôi cho lệnh đại đội ngừng lại bố trí sẵn sàng. Tôi báo cáo sự việc cho Ðại Bàng. Ông Ðại úy cằn nhằn,

                          -"Ð.M! Toa cứ theo mấy con cua! Nó ngừng, toa ngừng. Nó tiến, toa tiến. Ðừng có lôi thôi!"

                          Tôi thận trọng tiến lên cùng toán tiền sát để thăm dò tình hình. Tôi đã thấy những cành lá ngụy trang đang di chuyển từ tây sang đông. Chúng ẩn hiện sau những bờ đất hướng nam con lộ. Tôi ra dấu cho Chuẩn Úy Ðạt (Trung Ðội 3) và Thượng Sĩ Nhất Huỳnh (Trung Ðội 2) sẵn sàng chiến đấu.

                          Thế rồi..."Ðùng!Ðùng! Oàng! Oàng! Chiu... chíu!" mìn nổ, đạn bay... địch khai hỏa!

                          Ðạn địch, trung liên, đại liên, AK47 từ trên dốc và khu ruộng khô bên trái lộ bắn xối xả về hướng đại đội tôi và đoàn xe sau lưng tôi.

                          Mới mở màn mà trận này đã có vẻ sẽ là một trận lớn! Cũng may, địch đang vận động lực lượng, mà chưa sẵn sàng! Tôi vào trận không đến nỗi bất ngờ lắm vì tôi đã kịp thời thấy rõ tuyến dàn quân của địch. Tôi biết mình phải làm gì khi bị rơi vào một tuyến phục kích. Lần đầu chạm địch với cương vị một đại đội trưởng, tôi cảm thấy hơi khớp. Nhưng những con mắt thuộc cấp nhìn tôi đầy tin tưởng đã khiến tôi vững tâm hơn. Tôi nhủ thầm,

                          - "Ta là Ðà Lạt! Ta là một cấp chỉ huy!"

                          Tôi la lớn,

                          - "Phục kích bên trái đường! Hai bên trái, Ba bên phải, xung phong!"

                          Những người lính già còn sót lại từ thời Chiến Tranh Ðông-Dương (1945-1954) như Thượng Sĩ nhất Huỳnh và Hạ Sĩ Mầu đã chứng tỏ sự lợi hại của họ trong những tình huống hiểm nghèo như thế này! Ông Huỳnh và ông Mầu cùng hô to,

                          - "Xung phong bên trái!"

                          Nhưng ông Mầu thì kẹp khẩu trung liên BAR vừa bắn, vừa tiến lên trước mở đường, miệng ông oang oang,

                          - "Theo tui! Theo tui! Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!"

                          Còn Thượng Sĩ Huỳnh thì xoay ngang khẩu carbine ngáng sau lưng những anh lính trẻ đang bàng hoàng chần chừ, để đẩy họ chạy lên xung phong. Ông hạ sĩ quan già không ngần ngại xách cổ áo, đá đít những BÐQ nhát gan đang nằm úp mặt núp mình bên vệ đường. Ông lùa họ chạy theo đồng đội. Thoáng chốc, trên cánh đồng mênh mông, từng cụm khói bốc cao. Tiếng súng đã vang rền, hòa cùng những tiếng thét "Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng!Sát!..." kinh hoàng.

                          Tôi cùng Trung Ðội 2 vừa kiểm soát xong khu gò đất hướng nam và cái miếu thổ địa thì Trung Ðội 3 của Chuẩn Úy Ðạt cũng hoàn tất nhiệm vụ làm chủ con dốc hướng tây. Sau đó, tôi xua quân nhanh chân chạy lên chiếm giữ khoảng bờ đất cao tới ngực phân chia hai vùng ruộng khô và ruộng nước.

                          Thế là, chỉ vài phút sau, chúng tôi đã có một địa thế vô cùng thuận lợi để chiến đấu. Ðoàn xe M113 vừa qua khỏi giai đoạn lúng túng ban đầu, cũng đã bình tĩnh trở lại. Họ xoay thành hình cánh cung sau lưng chúng tôi. Họ bắt đầu tác xạ tiếp tay cho Biệt Ðộng Quân.

                          Nép mình sau miếu thổ thần, tôi nhận định trận địa. Khu ruộng thấp trồng lúa trải dài, cặp hai bên con lộ, theo hướng đông, tây. Ruộng cao chạy song song với ruộng nước từ chân tháp Bằng An tới ga Kỳ Lam. Khu ruộng cao trồng đậu phọng, khoai lang, hoặc thuốc lá. Hết ruộng cao, xa về hướng nam, là khu nhà dân với vườn phi lao và bãi mía um tùm. Ðầu xóm là ngôi trường học cũ. Tường bao quanh trường, chỗ còn, chỗ sập. Từ bờ rào ngôi trường và khu rừng phi lao, đạn địch đủ loại bắn ra đường tới tấp như mưa.

                          Từ tuyến dàn quân, chúng tôi dồn hoả lực cắt ngang trục tiến quân của địch. Ðịch đang chuyển quân từ hướng tây qua hướng đông trường học để đánh bọc sườn nam của lực lượng bạn. Trước mắt tôi, những cán binh VC di chuyển thật lộ liễu nơi khoảng trống giữa hai bức tường đổ.

                          Hồi còn học trong trường Võ Bị, tôi cũng được lãnh bằng thiện xạ. Hôm tôi đeo cái bằng đó trên túi áo vào chợ Ðà Lạt, chị Chúc vừa nhìn thấy nó đã khen ngay,

                          - "Thằng em của chị bắn giỏi quá nhỉ?"

                          Tôi vênh mặt lên, cứ tưởng mình là tay súng bá vàng John Wayne.

                          (Chị Chúc bán tạp hóa trong chợ Ðà Lạt. Chị thương chúng tôi lắm. Chị có rất nhiều em là SVSQ. Ðứa em nào cũng có tên trong sổ nợ của chị.)

                          Thực ra, tôi bắn Garant không giỏi lắm đâu! Khóa tôi còn khối người có bằng thiện xạ! Khi chạm trận, tôi mới phát huy được những gì thày Khuê, thày Cung, thày Thạch đã dạy cho.

                          Thấy mục tiêu di động ngon quá, tôi giành khẩu Garant M1 trên tay Binh Nhì Nguyễn Truyền. Chú Truyền thành người nạp đạn cho tôi. Tôi điều chỉnh đường ngắm: từ lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi tới... đầu thằng Việt Cộng. Mục tiêu đang đi ngời ngời trước mắt.

                          Giờ này là lúc tôi chứng tỏ bản lãnh của một SVSQ có bằng thiện xạ! Xạ trường nằm giữa hai bức tường đổ. Những cái bia sống cài lá ngụy trang, di chuyển chậm chạp hơn những cái bia "B" ở Trường Sình Lầy Dục Mỹ. Bờ đất cao tới ngực tôi là chỗ tì tay. Kẹp đạn sáu viên nạp đạn.

                          "Thế bắn đứng có tì, thủ thế!"

                          Một thằng giặc gục, thằng thứ hai, thằng thứ ba... mỗi viên một đứa. Cứ sáu tên, một kẹp đạn.

                          "Coong!" kẹp đạn rỗng văng ra khỏi buồng đạn. Binh Nhì Truyền lại vội trao cho "Thiếu úy Sữa" kẹp đạn khác.

                          Không có hiệu lệnh, "Bên trái sẵn sàng! Bên phải sẵn sàng!" của sĩ quan giám xạ, thày trò tôi mạnh ai nấy bắn. Tiếng đại liên 30 của ban chỉ huy đại đội hòa tấu với tiếng trung liên BAR của ba trung đội. Góp vui là những trái cối 60 ly và những quả phóng lựu từ súng Garant M1.

                          Thời này, vũ khí của BÐQ còn hủ lậu lắm, đi sau vũ khí địch một bước khá dài. Lựu đạn M26 còn rất hiếm hoi, mỗi khi trang bị cho ai, tôi phải đắn đo. Lựu đạn có khía, loại MK2 có tuổi đời già hơn tuổi tôi thì ê hề! Bao nhiêu cũng có! MK2 vừa nặng, vừa chậm nổ so với M26. Hình dạng nó cũng... xấu xí hơn.

                          Chúng tôi có đủ loại súng. Trẻ nhất là khẩu carbine M2. Cổ lỗ già nua nhất là khẩu Thompson 45. Có lúc nòng súng Thompson nóng quá, đạn không thèm bay, mà rơi ngay trước mặt xạ thủ.

                          Tiền quân của địch đã quấy động được phần đuôi của lực lượng hành quân, nơi Ðại Ðội 1 của Thiếu Úy Lý Phát Tân (Thủ Ðức) đang bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn. Chú Binh nhất hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh giao cái ống liên hợp cho tôi. Trong máy, ông Ðại úy ra lệnh,

                          - "Toa nhào lên bẻ cổ con gà mổ nhanh cho moa!"

                          Tôi ớ ra chẳng biết "con gà mổ nhanh" là cái gì.

                          Ðại úy lại hối,

                          -"Ð.M! Tao bảo nhào lên! Bất cứ giá nào! A lê! vít! vít!"

                          Tôi hỏi Vinh,

                          - "Con gà mổ nhanh là cái gì vậy, Vinh?"

                          - "Dạ, con gà mổ nhanh là khẩu 'đum đum' đó Thiếu úy!"

                          Tôi đoán khẩu "đum đum" chắc là khẩu 12,7 ly?

                          Rõ khổ! Trong trường, tôi đã học ám danh đàm thoại nhuần nhuyễn hai năm ròng, mà đến khi hữu sự lại cứ như thằng ngố! Ám danh đàm thoại ở ngoài đơn vị quả là ngộ!

                          Nhận lệnh, tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt lại dặn dò anh bảo vệ hông phải và phía sau đại đội. Tôi để lại cho Trung Ðội 3 của Ðạt khẩu cối 60 ly và khẩu đại liên 30. Tôi cùng hai Trung Ðội 1 và 2 xung phong lên mục tiêu.

                          Tiếng kèn xung phong của bộ chỉ huy tiểu đoàn từ rặng tre ngoài đường phía sau xa, vọng tới nghe đứt quãng. Có lẽ anh Ngữ, lính kèn, bị đạn VC bắn dữ quá nên không kịp hít hơi cho đầy phổi để thổi kèn cũng nên?

                          Tiếng kèn cứ "Pèm pẹp! Pèm pẹp!" như tiếng kèn xe ngựa đi, về, giữa chợ Ðà Lạt và ấp Thái Phiên. Giờ này, sao tôi thấy thèm tiếng kèn xung phong của anh lính "cà" trường tôi quá đi!

                          "Te... te tí! te tò! tò! tò... te tí!...tí! tí! tí!...tí! ...tí..."

                          Tiếng kèn làm người nghe lạnh gáy. Tiếng kèn ấy đã khiến khẩu trung liên BAR trên tay tôi nhẹ hẳn đi, khi tôi xung phong lên đồi 1441 sau miếu Thần Hổ, dưới chân núi Lap-Bé-Nord, Ðà-Lạt.

                          Tôi xung phong nhanh đến nỗi anh tải đạn Nguyễn Văn Cơ (cùng là SVSQ Trung Ðội 6/Ðại Ðội B với tôi) phải vứt cả thùng đạn xuống đường mà theo chân tôi vẫn không kịp.

                          Tiếng kèn thúc quân ma quái ấy thúc đít chúng tôi tiến ào ào lên đồi thông để tiêu diệt ổ đại liên... mã tử của mấy anh lính "cà" giả địch.

                          - "Khói súng và kèn, còi xung phong cũng chiếm một phần quan trọng trong các cuộc hành quân"

                          Lời thầy Nguyễn Cửu Nhồng mới từ mặt trận Quân Khu 1 trở về trường (1965) làm phụ tá huấn luyện viên chiến thuật. Thầy nói rất đúng!

                          Khoảng trống 200 mét đồng cao trồng đậu phọng và khoai lang từ bìa ruộng nước tới bìa làng quả là đáng sợ. Chẳng có sách vở nào dạy rằng tuyến xung phong lại cách xa mục tiêu tới mấy trăm mét. Không đào đâu ra một điểm che dấu cho tôi tiến quân từ bờ ruộng tới khu xóm nhà có cái trường học, và khẩu đại liên 12,7 ly. Khẩu 12,7 ly này không bắn đạn mã tử!

                          Trời nắng, đồng trống. Mặt ruộng bằng phẳng, lác đác đó đây có vài cái mả, trên mặt mả trồng dây lang. Ðạn địch đan lưới trước mặt. Ðạn cày đất bụi mịt mù. Mấy người lính có đạo làm dấu thánh giá. Những khuôn mặt đanh lại. Những đôi mắt rực lên, long lanh. Họ nhìn tôi chờ đợi. Tôi sực nhớ bài thực tập phản phục kích vừa học xong tháng trước trên đồi Rọ Tượng, Dục Mỹ trong Khóa 23 Rừng Núi Sinh Lầy mà tôi đóng vai đại đội trưởng. Tôi xin BCH/TÐ cho pháo binh đánh bốn trái khói ngay trên cái trường học. Ông tiểu đoàn trưởng lấy làm lạ tại sao tôi xin tới bốn trái khói thay vì chỉ cần một trái thôi? Ông chỉ thuận cho tôi một trái.

                          Tôi nài nỉ anh đề-lô, hắn cũng người Hội An, đi khóa 10 Thủ-Ðức, vì tình riêng, anh ta cho tôi bốn trái. Chờ cho màn khói vừa phủ mục tiêu, tôi đứng dậy, leo lên trên một gò mả, mặt hướng về phía địch, tay trái phất cao, tay phải kẹp khẩu carbine M2, bóp cò. Miệng tôi hét lớn,

                          - "Xung phong! Xung phong!"

                          Tiếng súng carbine lẹp bẹp khiêm nhường, nghe thật lép vế so với tiếng trung liên, đại liên, và bazooka 57 ly của VC. Tiếng súng lệnh của tôi loãng nhanh trong tiếng 106 ly trên M113 của ta, và tiếng đại bác 105 ly, 155 ly của Mỹ đang nổ đùng đùng tứ phía.

                          Nhưng những chiến sĩ dưới quyền tôi chỉ chờ có thế. Thấy tôi đứng hiên ngang hô xung phong, họ hăng hái hẳn lên. Họ bắn. Họ la hét. Họ ném lựu đạn. Họ chạy ào ào trên ruộng khô. Họ tràn lên những bờ ruộng nơi những chùm lá ngụy trang đang nhúc nhích. Họ nhào vào khu khói trắng,

                          -"Biệt Ðộng! Sát! Biệt Ðộng! Sát!"

                          Mục tiêu trước mắt là cái trường học có khẩu phòng không cài lá ngụy trang. Khẩu phòng không đang ngóc lên ngóc xuống. Tôi cố gắng phóng lên cho ngang với những người lính tiên phong của Trung Ðội 1.

                          Chạy trước tôi là Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong, người nấu cơm cho tôi. Chạy sau tôi là Hạ Sĩ Nguyễn Mầu, xạ thủ trung liên BAR của Trung Ðội 1. Chúng tôi đã lướt qua năm sáu cái gò mả. Cả chục xác VC nằm phơi trên đó. Chúng tôi đạp đầu giặc mà tiến! Khí thế bừng bừng, chúng tôi đuổi theo quân thù đang rút chạy. Bom Mỹ đánh vùi trước mặt. Cobra, Phantom, F.5, Sky-Raider chúi xuống, ngóc lên; tiếng động cơ rú điếc tai, khói bụi mù trời.

                          Tôi theo sát gót thuộc cấp. Họ biết tôi đang ở bên cạnh họ. Không ai ngoảnh cổ lại đàng sau. Anh hiệu thính viên Mai Ðăng Vinh cũng móc cái ống nghe bên hông ba lô, lượm vội một khẩu AK 47 bên xác giặc, chạy theo tôi bén gót (Vinh chỉ có súng Colt 45).

                          Bên trái tôi, một BÐQ la thất thanh, "Ối cha!" rồi té nằm xoài bên luống khoai. Trước mặt tôi, một BÐQ vừa trúng đạn, viên đạn đẩy anh ngã ngửa về phía sau. Người đó đội béret đỏ. Tôi thót ruột,

                          - "Chắc là thằng Thí?"

                          Binh Nhất Lý Thí là người đồ đệ mang đồ ngủ cho tôi. Nhưng tôi không thể ngừng lại để săn sóc cho nó. Ngừng lại là chết ngay! Tôi chỉ có một việc phải làm, bắt buộc! Ðó là vừa bắn vừa lao tới khẩu phòng không khốn kiếp!

                          Tai tôi đã o... o... vì tiếng nổ của bom đạn quá gần. Tôi chỉ nhìn thấy miệng khẩu phòng không chớp chớp, phà khói trắng. Một trái lựu đạn hất khẩu 12,7 ly lăn quay. Chúng tôi tràn vào sân trường học. Những chiếc nón cối cài lá xanh vỡ toang. Óc người văng trên mặt sân, thoáng chốc đã trở màu ngà ngà như đậu hũ pha tương ớt. Một tràng AK quét sát hông tôi, làm tung bức tường vôi lớp học trước mặt tôi. Từ dãy lớp hướng tây, một tên địch đã nhắm bắn tôi nhưng không trúng. Hạ sĩ Mầu ria một tràng trung liên BAR vào nơi phát ra tiếng súng. Tiếp theo là hai quả M26. Có nhiều tiếng rên la thảm thiết đồng loạt trong căn phòng đó. Ông Mầu bóp cò tiếp khẩu trung liên BAR. Chú Phong bồi một quả M26 nữa. Căn phòng đổ sụp. Phong nhanh như con sóc, chỉ ba bước nhảy, chú đã tới bên lớp học. Chú bắn cạn ba mươi viên carbine M2 rồi lăn sang núp sau một cây rơm. Phong vội vàng trở đầu băng đạn đôi. (Hai băng đạn nối ngược chiều nhau bằng băng keo. Mỗi lần nhồi đạn, có sáu chục viên sẵn sàng).

                          Căn lớp vừa đổ là nơi chứa thương binh của địch. Có khoảng trên dưới hai mươi thương binh địch trong căn nhà đó. Chúng vừa chết hết. Nơi góc nhà có mười mấy khẩu súng, vừa B40, vừa AK. Những cục cơm vắt văng trên nền gạch. Máu đỏ thấm ướt những hạt cơm vãi tung toé đó đây...

                          Khi Hạ Sĩ Phong bận thay băng đạn khác thì B1 Vinh ngồi thủ thế khẩu AK 47 bảo vệ an ninh cho bạn. Nghe có tiếng đại úy lè xè trong máy, tôi gỡ cái ống liên hợp, áp nó vào tai. Tôi nghe đại úy giận dữ,

                          - "Ð.M! Anh là Ðà Lạt! Anh không lên, tôi lột lon anh!"

                          Nản quá, tôi không muốn nói chuyện với đại úy. Tôi đưa ống nghe cho Vinh,

                          - "Em báo cho ổng biết rằng mình đang lục soát cái trường học."

                          Vinh nhìn tôi áy náy,

                          - "Cứ chạm trận là đại úy lại Ð.M! Ð.M! Thiếu úy đừng để bụng làm gì cho mệt!"

                          Tôi bố quân theo hình chữ L. Trung Ðội 1 giữ mặt nam, Trung Ðội 2 giữ mặt tây trường học. Tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt và Trung Ðội 3 của anh tiến lên. Trên đường, Trung Ðội 3 có nhiệm vụ thu nhặt chiến lợi phẩm, chuyển những người bị thương và chết ra đường. Bãi cỏ có cái miếu thổ địa bên đường đã thành nơi tập trung thương binh và chiến lợi phẩm của đại đội tôi. Tôi giao cho Trung Sĩ Vũ, y tá đại đội chỉ huy cái trạm này. Trung sĩ Vũ báo cho tôi biết, tính tới giờ đó, trạm cứu thương của anh có hai chục áo vàng (bị thương) và năm áo đỏ (chết). Tôi hỏi Vũ về tình trạng của Binh Nhất Lý Thí. Vũ nghẹn giọng,

                          - "Thằng Thí mặc áo đỏ rồi! Thẩm Quyền ơi!"

                          Tôi lặng người, cúp máy, không hỏi thêm. Mới chiều hôm trước, khi chiếc xe Dodge của tôi từ phố về ngang miếu Ông Cọp, Hội An, thì Binh Nhất Lý Thí (quê quán Miếu Bông), đang đứng chờ tôi trước cửa quán cháo lòng. Tôi nhận ra nó ngay. Lúc nào nó cũng đội cái béret đỏ chói. Nó chận đầu xe tôi lại.

                          Giọng nó lè nhè hơi men,

                          -"Thiếu úy ơi! Vào đây cụng với em một ly! Ngày mai ra trận. Biết đâu em không về!"

                          Tôi đã đậu xe dưới gốc cây đa bên cạnh miếu Ông Cọp. Tôi đã "dzô!" với đồ đệ của mình một ly. Lúc ấy tôi không hề nghĩ tới chuyện ngày mai nó không về. Bởi vì chiều qua, từ phòng 3 Tiểu Khu Quảng Nam ra, trên tay tôi có cái phóng đồ hành quân tùng thiết vùng ven biển Phước Trạch, Cửa Ðợi. Cuộc hành quân đó dự trù sáng đi, chiều về. Tôi nói với Thí rằng, sáng mai em không cần mang theo đồ ngủ cho anh. Chúng mình sẽ chỉ sáng đi... chiều về!

                          Tôi không ngờ hỏa châu rơi suốt đêm. Mờ sáng, lệnh đổi hướng hành quân. Mờ sáng, thày trò tôi cùng ra đi. Tới chiều... đồ đệ của tôi đã không về!

                          Sau khi báo cáo sơ lược thành quả vừa thu lượm được cho Trung Úy Trung, tiểu đoàn phó, tôi giao nhiệm vụ củng cố mục tiêu cho Chuẩn Úy Ðạt và ông thường vụ đại đội.

                          Chiếc L.19 lướt sát nóc trường học. Chiếc đầm già lắc cánh về trái và về phải hai cái để gửi cho chúng tôi lời chúc mừng của phi công. Tôi đề nghị với sĩ quan điều không cho không yểm di chuyển xa về hướng tây nam nơi những rừng mía um tùm rậm rạp. Tôi đoán địch đang rút lui hướng đó.

                          Không yểm đã di chuyển. Tôi cần pháo binh yểm trợ gần để tảo thanh khu vực hướng tây trường học. Tôi liên lạc thẳng với sĩ quan đề-lô của tiểu đoàn để đơn xin được thỏa mãn kịp thời.

                          Áp dụng kinh nghiệm hiếm hoi học hỏi được từ Ðà Lạt và Dục Mỹ, tôi thực hành nghề chọi pháo. Cầm tấm bản đồ Kỳ Lam và quyển "Cẩm Nang Ða Hiệu" trên tay, tôi vững tâm đánh những quả đạn 155 ly trên từng gò mả, từng gốc đa. Tôi điều chỉnh đạn từ 100 mét, rồi 50 mét. Sau cùng, tôi dám chỉnh độ chính xác tới 20 mét trên mục tiêu. Những quả delay chui xuống hầm moi xác địch lên mặt đất.

                          Những quả nổ cao chặn đầu chúng không cho chạy thoát thân về những đồi sim hướng tây. Tôi đã hoàn toàn làm chủ tình hình mặt tây nam của trận điạ.

                          Tôi định cho anh em lấy cơm vắt ra ăn thì bên hướng bắc con lộ, pháo nổ ầm ầm. Thiếu Úy Bửu Chuyển (K12 Thủ Ðức) và Ðại Ðội 4 của anh đang bị địch tấn công từ hướng bắc xuống. Ðịch bám trụ bên kia cái đầm cói rộng. Cái đầm nuôi cá vuông vức, mỗi chiều cỡ hơn hai trăm thước, có bờ đất cao bao quanh. Ðầm nước nằm cách con lộ chừng ba, bốn trăm thước về hướng bắc.

                          Ðại úy tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho Ðại Ðội 1 từ phía sau di chuyển thật nhanh lên trám chỗ cho đơn vị tôi. Tiếp đó, ông ra lệnh cho đại đội tôi lui ra con đường lộ để tiếp viện cho anh Chuyển. Khi tôi lội ngược ra tới đường, thì đại đội của Chuyển và những chiếc thiết quân vận đang bám sát bìa đường chịu trận những đợt pháo ào ào của địch. Vừa gặp nhau, Thiếu Úy Bửu Chuyển đã dúi vội vào tay tôi tấm bản đồ có vẽ sẵn sơ đồ mục tiêu và ranh giới hành quân của tiểu đoàn. Tấm bản đồ tôi đang dùng là của cấp trung đội, không có những chi tiết trên. Anh Chuyển cầm tay tôi ân cần,

                          - "Cẩn thận nghe em!"

                          Rồi anh hối hả lui quân vì đại úy đã ra lệnh cho anh rút về bảo vệ bộ chỉ huy. Ðại Ðội 4 chưa đi hết, đại úy đã ra lệnh cho tôi cùng một thành phần của chi đoàn thiết quân vận đánh thẳng lên hướng bắc tiến chiếm khu gò mả và thôn xóm đằng sau đầm cá. Lệnh của Ðại úy thật rõ ràng,

                          -"Thẩm Quyền 3! Ðây là Ðại Bàng! Tôi ra lệnh cho anh nhào lên thanh toán cái xóm nhà bên kia hồ cá! Nghe rõ chưa?"

                          Tôi ngạc nhiên vì quyết định của ông đại úy. Tại sao ông phải chuyển Ðại Ðội 1 lên thay tôi trấn giữ khu trường học tôi vừa vất vả chiếm xong? Tại sao Ðại úy phải lôi đại đội tôi từ nam lên bắc để theo chân M113 đánh vào cái hồ cá? Anh Chuyển và Ðại Ðội 4 của anh đang ở sẵn nơi đây cùng với đoàn xe kia mà?

                          Tôi im lặng thi hành lệnh, nhưng tôi biết thuộc cấp của tôi không vui... Tôi nghe tiếng máy gọi nhau oang oang từ các thiết vận xa, rồi đoàn M113 bắt đầu nhúc nhích. Chúng tôi bì bõm tiến sau lưng M113. Lúa cao tới nách tôi. Và nước thì cao tới háng tôi.

                          Bên kia cái đầm nước là nơi những ổ đại liên, trung liên đang khạc lửa. Khói từ khẩu 57 ly của VC lúc thì phụt ra ở đầu xóm, lúc cuối xóm. Phải công nhận tụi xạ thủ 57 ly của VC chuyển dịch vị trí rất nhanh!

                          Một chiếc M113 vừa trúng đạn! Nó bị bắn đứt xích! Chiếc xe nằm bất động giữa ruộng lúa. Viên trưởng xa và xạ thủ đại bác đang lo gỡ khẩu 106 ly để chuyển sang chiếc xe khác. Từ bờ hồ, địch cài lá ngụy trang ào ạt xông về hướng đoàn xe. Chúng tính chuyện bắt sống chiếc M113 bị thương!

                          Ðạn 57 ly và B40 nổ ùng oàng tứ phía. Vũ khí chống tank của địch thật là đáng sợ! Chúng bắn nà quá khiến đoàn thiết quân vận chùn bước, phải lui về phía sau. Một chiếc M113 giật lùi để tránh B40 đã đè Hạ sĩ Nguyễn Mầu xẹp xuống bùn trong ruộng lúa. Tôi bị xe cán hụt. Tôi kéo ông Mầu từ dưới bùn lên. Tôi vội vàng vuốt bùn trên mắt cho người lính già. Tôi thấy miệng ông mấp máy. Phải ghé tai sát mặt ông tôi mới nghe được tiếng ông thều thào,

                          -"Thiếu úy ơi! Em đi!'

                          Máu miệng ông trào ra. Ðầu ông ngoẹo trên ruộng nước...

                          Ðoàn cơ giới tụt lại đàng sau. Chúng tôi lòi ra phía trước. Ðạn rơi "chủm, chủm" trên ruộng lúa nước trước mặt. Trong lúc tôi đang phân vân không biết làm cách nào vượt qua cái đầm nước rộng, thì ống liên hợp truyền tin lại xè xè tiếng của Ðại úy,

                          - "Ð.M! Nhào lên! Bộ tụi mi ngủ sao? Nhào lên!"

                          Tôi phóng nhanh sang phía Trung Ðội 1, bên trái tuyến xung phong. Tôi tránh đánh trực diện với tổ hỏa lực địch. Tôi và Trung Ðội 1 của Trung Sĩ nhất Nguyễn Khê (vốn là trung đội phó của tôi) chạy thục mạng lên chiếm xóm nhà hướng tây cái đầm. Ðại Ðội trừ (-) thì nằm sát mép đường chờ tôi lập đầu cầu.

                          Tôi có người bạn K17 Thủ Ðức là Chuẩn Úy Tú, chi đội trưởng của chi đoàn thiết kỵ đang tham chiến. Tôi gọi cho anh, đề nghị anh bắn tối đa vào khu nhà bên hướng bắc hồ nước để chia lửa cho tôi.

                          Ðầu cầu lập xong, vài BÐQ chết và bị thương. Khi quả khói vàng bốc lên nơi đám sầu đông đầu xóm, thì Cobra can thiệp. Dưới hỏa lực yểm trợ hùng hậu của Cobra, chúng tôi ào ào chạy lên chiếm những ụ đất nơi rặng tre. Tôi ra dấu cho chi đội thiết kỵ tiến lên để quân tôi theo sau. Hai Trung Ðội 2 và 3 dàn hàng ngang cùng M113 tiến lên tiếp tay Trung Ðội 1. Ðạn bay khắp hướng. Không phân biệt được đạn của ta, hay của địch.

                          Chiếc thiết quân vận của Chuẩn Úy Tú vừa đè sập một cái chuồng trâu thì hai quả B 40 bay sượt qua đuôi xe, nổ tung trong bụi chuối. Chiếc xe lùi vội ra ngoài ruộng lúa. Hai khẩu đại liên 30 và đại liên 50 trên xe bắn ào ào vào căn nhà lợp lá dừa, vách ván giữa xóm. Tôi và anh Binh Nhì Truyền nấp sau cây rơm đàng trước căn nhà lá dừa, vách ván đó. Tôi vừa ra sức ném được quả M26 qua nóc nhà để nó rơi nổ hướng sau nhà thì Truyền la to,

                          -"Thiếu úy ơi! súng em kẹt đạn rồi!"

                          Tôi sợ địch nghe được tiếng anh ta la hoảng, vội đưa tay bịt miệng anh lại. Cái vụ kẹt đạn thì tôi đã gặp nhiều lần trong hai năm còn thụ huấn trong trường. Khốn nỗi, khẩu Garant của Truyền không có lưỡi lê, biết lấy cái gì để cạy vỏ đạn khỏi cơ bẩm bây giờ? Tôi chợt nhớ ra trong túi mình có cái bấm móng tay. Tôi giao khẩu carbine cho Truyền để anh quan sát gác giặc. Chưa đầy một phút sau khẩu Garant lại tốt trở lại. Tôi ném thêm một quả M26 nữa qua mái nhà. Hai thày trò tôi nhào vào nấp sau cái cối xay lúa nơi đầu hiên. Có tiếng người rên bên hiên sau. Tôi thấy một khẩu trung liên nồi RPD nằm chỏng gọng trên nền đất. Hai cán binh VC mình mẩy bê bết máu đang cố lần lưng tìm kiếm cái gì đó. Tôi nhắm ngay đầu chúng, ria qua ria lại một băng M2.

                          Trung Ðội 2 của Thượng Sĩ Huỳnh cũng vừa ào tới. Chúng tôi hàng ngang tiến sang khu mấy cái chòi nuôi vịt trên bờ tây của cái đầm nước. Ðoàn thiết vận xa theo sát bên yểm trợ.

                          Chúng tôi giờ này đang ở sau lưng những tên VC bám trụ quanh hồ. Chúng ngụp lặn xuống nước giấu mình. Những khẩu đại liên trên xe bắn tung xác chúng. Những thân hình rũ xuống như những trái chuối nát. Nước hồ trở thành màu đỏ, thẫm dần, thẫm dần...

                          Chúng tôi còn phải tiếp tục thanh toán cái xóm nhà bên hướng bắc cái đầm. Ðạn réo tứ tung. Khói súng, khói bom, khói lựu đạn, khói nhà cháy mù mịt. Chú Hạ Sĩ Phong, người nấu cơm của tôi bị thất lạc từ lúc khởi đầu cuộc xung phong qua đường, giờ này mới tìm gặp lại được ông thày. Tôi và chú Phong nhảy vào một nhà có những cái lu bằng sành thật to dựng sát vách dùng để chứa lúa giống. Có mấy khẩu AK vứt trên sàn nhà. Dấu chân ướt bùn còn rất mới in trên mặt cái sập gỗ nơi góc nhà, cạnh một cái cót chứa lúa. Hai khẩu carbine M2 nổ dòn, những cái lu bể. Tôi rợn tóc gáy khi thấy từ trong vài cái lu chưa vỡ có người nhảy ra! Tôi bị trượt chân té ngửa giữa sàn.

                          Tôi nằm ngửa bóp cò. Những người áo đen tay cầm AK trúng đạn gục xuống. Có vài cái xác đè ập trên người tôi. Trong khi đó, chú Phong bắn ào ào vào căn phòng gỗ cửa đóng kín mít. Vì nằm ngửa, tôi nhìn thấy một thanh mã tấu sáng loáng quơ lên từ cót chứa lúa nơi góc nhà sau lưng chú Phong. Tôi la thất thanh,

                          -"Phong! đàng sau!"

                          Thanh mã tấu hạ xuống! Phong chỉ kịp dang hai tay đưa khẩu súng carbine lên đỡ nhát chém. Chú khuỵu xuống vì nhát chém quá mạnh. Người chém chú mất đà, lộn cổ xuống đất. Phong hoàn hồn, nện một đế súng vào đầu kẻ thù.

                          -"Bốp!"

                          Cái đầu vỡ sụm. Óc pha máu phọt ra, văng lên ngực Phong. Phong la lớn,

                          -"Chạy thôi! Thiếu úy!"

                          Tôi hoảng quá, bắn cạn băng đạn rồi lăn tròn ra hướng sân. Chú Phong theo sát bên. Ra tới sân, chú Phong ném với vào kho một trái M26. Hai thày trò tôi ù té chạy ngược ra bờ ruộng. Hai chiếc M113 án ngữ dưới ruộng từ nãy tới giờ không dám can thiệp sợ bắn lầm quân bạn, nay thấy thày trò tôi chạy ra, thế là họ tưới đạn trùm lên cái nhà kho. Một quả lựu đạn lân tinh khiến cái nhà kho bốc cháy. Chuẩn Úy Tú nhảy xuống xe, giọng anh lạc đi,

                          - "Long ơi! Toa bị thương có nặng không?"

                          Tôi cúi nhìn quần áo mình. Áo quần tôi đầy máu! Tôi đưa tay xoa mặt, mặt tôi cũng có máu! Máu đỏ cả cái thẻ bài, ướt đẫm cả cuốn Lăng Nghiêm Chú nhỏ xíu tôi đeo trước ngực. Tôi dang tay sờ khắp người, chẳng có chỗ nào đau. Hóa ra máu trên người tôi là máu địch! Khi bị bắn hạ, xác chúng đè lên người tôi trong sàn kho lúa.

                          Từ đầu trận tới giờ, Trung Ðội 3 của Chuẩn Úy Ðạt là ít bị tôi sử dụng nhất. Tôi phải phòng hờ một sĩ quan để thay thế mình, nếu mình có mệnh hệ gì. "Dù ít, dù nhiều, phải có trừ bị" (huấn luyện viên chiến thuật, Ðại Úy Mỹ và Trung Úy Ðức căn dặn như thế!)

                          Bây giờ là lúc tôi dùng tới lực lượng trừ bị của đại đội. Tôi gọi Chuẩn Úy Ðạt lên, giao cho anh thanh toán nốt cái xóm nhỏ cuối thôn. Gió lúc này theo hướng nam bắc. Tôi biết M113 của Tú có đem theo nhiều lựu đạn lân tinh. Tôi nhờ Tú làm cho Ðạt một màn khói che để anh an toàn áp sát mục tiêu. Chúng tôi dồn hết hỏa lực bắn yểm trợ hông trái cho Trung Ðội 3. Vậy mà những ổ kháng cự của địch vẫn còn rất mạnh. Cánh quân của Chuẩn Úy Ðạt bị cầm chân nơi vườn chuối phía trước xóm nhà lá có những cây cau và bể chứa nước mưa. Ðạt gọi tôi xin tiếp tay.

                          Tôi dàn quân hàng ngang, ào lên bên trái chòm nhà mà Trung Ðội 3 đang giành giựt với địch. Căn nhà có những cây cau cao có vẻ là chỉ huy sở hành quân của VC, vì có nhiều đường giây điện thoại và chòi gác bao quanh. Xung quanh chòm nhà này là vườn tược, với hệ thống giao thông hào chằng chịt. Khu này được địch bảo vệ bằng những tổ tam tam. Mỗi tổ tam tam có hai AK47 và một B40.

                          Chúng tôi dùng lựu đạn cay xen kẽ với lựu đạn miểng MK2 để thanh toán từng mắt lưới giao thông hào. Chiếm được đoạn giao thông hào nào, chúng tôi phải chia người bám trụ, sợ địch phản công giành lại.

                          Tôi phải vào tần số không lục của chiếc L19 trên trời để xin không yểm tiếp cận. Sĩ quan điều không tiền tuyến hôm ấy là Thiếu Úy Thành, gốc Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam, anh quen với gia đình tôi. Cobra yểm trợ thật hữu hiệu. Chúng tôi tiến chiếm từng thước đất một sau những tràng đạn 40 ly trải xuống từ trực thăng võ trang. Cuộc giao tranh giằng co, kéo dài khoảng hơn nửa giờ mà vẫn chưa ngã ngũ. Có lúc gió bất chợt đổi chiều, quân bạn cũng khổ vì hơi lựu đạn cay.

                          Khi cánh quân của tôi vào tới giữa vườn thuốc lá thì tiếng kèn xung phong của Việt Cộng bỗng nổi lên lanh lảnh từ cuối thôn hướng tây. Rồi tôi nghe súng địch rộ lên đồng loạt khắp mọi hướng. Tôi ra lệnh cho đại đội ngừng lại bố trí tại chỗ, cảnh giác chờ đợi một cuộc phản công của địch. Mấy phút sau súng địch thưa dần, rồi ngừng hẳn. Tôi chợt nghiệm ra, tiếng kèn xung phong của Việt Cộng lại là hiệu lệnh rút lui của chúng!

                          Tôi yêu cầu máy bay di chuyển tác xạ về những mục tiêu xa hơn, hướng tây bắc. Khoảng xế trưa, đại đội tôi hoàn toàn kiểm soát được lằn ranh bắc trên bản đồ hành quân. Hướng bắc đại đội tôi là vùng trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Chúng tôi lấy được khá nhiều AK, và B40. Trung Ðội 3 tịch thu được một máy truyền tin Trung Cộng, một khẩu đại liên 12,7 ly, và một khẩu 57 ly không giật mà địch đã vùi vội trong đống rơm trước khi tháo chạy.

                          Việc cấp bách phải làm của tôi lúc đó là tản thương quân bạn. Tôi nhờ Chuẩn Úy Tú cho một xe M113 chuyển vận dùm những BÐQ chết và bị thương ra ngoài đường. Chiếc xe liên tục đi về như con thoi.

                          Tôi nhìn quanh, kiếm cái máy truyền tin đại đội để báo cáo kết quả xung phong cho đại úy tiểu đoàn trưởng. Tôi không thấy Binh Nhất Mai Ðăng Vinh đâu cả. Hạ Sĩ Phong nước mắt dầm dề, cầm tay tôi, kéo tôi lui về khu vườn trồng đậu đũa. Thi thể Mai Ðăng Vinh nằm vắt ngang trên lối mòn. Ðầu của Vinh mất một mảnh sọ bằng bàn tay. Óc Vinh văng vãi trên đất. Ruồi nhặng bu đen hút máu người chết. Hai mắt Vinh mở trừng trừng. Miệng Vinh há hốc. Tôi nhìn rõ hai cái răng vàng óng ánh. Ngực Vinh cũng đầy máu. Cái ống liên hợp của chiếc PRC10 bị bắn văng đâu mất. Vì thế suốt giai đoạn chót của cuộc tấn công, tôi không nghe, "Ð.M! Anh là Ðà Lạt!..."

                          Chuẩn Úy Tú gỡ cái băng ca bên hông xe xuống. Tôi và Tú khiêng xác người đồ đệ của tôi lên thiết vận xa. Tình thày trò giữa tôi và Vinh chỉ kéo dài có mười hai ngày. Tôi còn nhớ mãi tiếng nói, tiếng cười của Vinh cho tới ngày hôm nay.

                          Bốn mươi năm rồi, anh không quên hai cái răng vàng của em, lúc em cười. Vinh ơi! Bên luống đậu, tôi ngồi thẫn thờ, hồi tưởng lại những lần chấm dứt hành quân trước đây, thày trò tôi về quây quần trong căn lều nhỏ ngoài ngoại ô Hội An. Có lần tôi đã ngâm bài từ "Lương Châu" của Vương Hàn cho đàn em của mình nghe. Qua lời bình giải của tôi, những người lính Biệt Ðộng Quân ấy đã thấy trong ý thơ, cuộc đời của chính họ:

                          "...Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu.

                          Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" (Vương Hàn).

                          Chiếc M113 vừa rời điểm tải thương; chiếc xe đem đi những cái poncho; những cái poncho cuốn gọn những thuộc cấp của tôi vừa nằm xuống.

                          Trên đồng lúa chiêm xuân, khói vẫn còn mịt mù, nhưng tiếng súng đã dứt. Tàn quân của địch đang rút chạy về hướng Kỳ Lam. Có hai cánh quân, một của TQLC Hoa Kỳ, một của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập đang truy lùng chúng.

                          Tôi kiểm lại quân số, thấy đại đội mình hụt đi quá nửa!

                          Trận này, cả Tiểu đoàn 11/BÐQ có 17 người chết, đại đội tôi chiếm 13. Số người bị thương của đại đội, vì lâu quá rồi, trong trí tôi chỉ còn mang máng giữa hai con số 46 (hay 64?). Tôi nhủ thầm, "Ðây mới chỉ là trận đầu tiên trong đời một sĩ quan hiện dịch!"

                          Chúng tôi được lệnh rút ra đường, chờ đón phái đoàn từ trên xuống thị sát chiến trường. Ðại Tá Ðàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt Khu tới thăm trận địa. Ðại tá xuống vài phút, nói vài lời, rồi đại tá bay đi.

                          Chúng tôi lại chờ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu tới thăm trận địa. Trung tướng cũng xuống vài phút, nói vài lời, rồi trung tướng bay đi. Khi bắt tay tôi trước lúc lên tàu, Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn nhìn sững quân phục của tôi. Chắc ông thấy lạ? Áo quần tôi bê bết bùn và máu. Hai ống quần của tôi tả tơi. Chú Phong phải lấy kim băng cứu thương gài nó lại; nếu không, người ta sẽ nhìn thấy quần lót của tôi, tôi nghĩ, chắc có phép mầu nào đó che chở cho tôi. Hoặc linh hồn các niên trưởng của tôi đã khôn thiêng phù hộ cho tôi. Nếu không, tôi khó sống sót qua trận này.

                          Bốn mươi năm sau ngày đó, ở một nơi rất xa Hội An, tôi ngồi nhìn mưa tuyết rơi chầm chậm. Một khúc phim đời mình đang quay lại rõ nét, từ từ...

                          Một mùa Xuân có mai vàng, nêu cao, đối đỏ. Một mùa Xuân quê hương khói súng mịt mù. Một cánh đồng lúa nước, và những đợt xung phong. Bên tai tôi như còn nghe những tiếng thét, "Biệt Ðộng ! Sát!" vang rền...

                          Thằng cháu ngoại choàng tay qua cổ tôi. Nó đòi ẵm. Tay trái nó vô tình chạm vào cạnh sườn phải của tôi. Tôi giật mình. Nơi cháu tôi chạm tay là chỗ viên đạn AK đã chui vào, nằm cách trái tim tôi chừng một đốt tay. Viên đạn nằm đấy đã ba mươi tám năm, kể từ trưa mồng một Tết Mậu Thân. Một cảm giác tê tê, nhột nhột nơi vết thương cũ khiến tôi bật cười.

                          Thấy tôi cười, cháu tôi cũng toét miệng cười theo. Thằng bé bập bẹ,

                          -"Ong...ong... ong ngại..."

                          Nụ cười của nó thật là trong sáng, hồn nhiên.

                          Tôi cầu mong ơn Trời ban cho cháu tôi những mùa Xuân bình yên...

                          (Seattle, một ngày đầu Xuân Bính Tuất, 2006)
                          Đọc bài này tôi mến mộ sự can trường của tác giả VML cũng như tình thương ông dành cho thuộc cấp. Tôi cũng ngao ngán cho sự đối xử bất công (đì) của Đ/U NTD đối với tác giả. Đ/U NTD sau mang TĐ 11 BĐQ theo phe phản loạn trong vụ biến động miền Trung và chỉ quy hàng khi được Tướng NNL hứa cho về SG làm quận trưởng. Thật đáng buồn cho QLVNCH có những cấp chỉ huy như vậy.

                          Comment



                          Hội Quán Phi Dũng ©
                          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                          website hit counter

                          Working...
                          X