Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Dòng sông tĩnh lặng!

Collapse
X

Dòng sông tĩnh lặng!

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Dòng sông tĩnh lặng!

    Dòng sông tĩnh lặng!
    (Xin thắp một nén nhang lòng tưởng niệm cố Trung Tá Phi Công Lê Bá Định. Để nhớ lại một thời đã qua...Một đời đã qua!)

    Trần Ngọc Nguyên Vũ



    "Tịch tịch Lăng Gìa nguyệt"
    "Không không độ hải chu"
    Thiền Sư Huệ Sinh


    *****

    Người khách lữ hành miệt mài đi trên con đường cái quan của đất nước, bắt đầu từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Vượt qua biết bao nhiêu những dòng sông lịch sử, từ Bạch Đằng Giang, Hồng Hà, tới sông Gianh, sông Bến Hải. Qua dòng Thạch Hãn, vượt đỉnh Trường Sơn ngược nguồn lên cao nguyên lần theo những dòng sông PoKor, Dakbla huyền hoặc. Rồi xuôi Nam tụ về 9 dòng Cửu Long Giang cuồn cuộn đổ ra trùng khơi biển cả. Ở mỗi nơi, khách đều dừng chân ngậm ngùi chiêm ngưỡng những dấu tích bi tráng của một thời. Nhưng cảnh vật còn đây mà "Anh Hùng Hào Kiệt" ngày xưa nào đâu thấy...Chỉ thấy sóng nước gầm lên khúc độc hành...

    ...Ông ra chào đời và lớn lên vào "thủa trời đất nổi cơn gió bụi" (1). Lúc thiếu thời, ông miệt mài nấu sử sôi kinh, rèn luyện bản thân và tạo cho mình một gánh hành trang cần thiết để đi vào cuộc sống...Cũng như bao người trai cùng thế hệ "mầu tím hoa sim" với ông, thế hệ của những người đã "...Bao năm mài gươm dưới nguyệt - Mà tưởng nghe hồn thép réo sông sâu." (2) Năm 1958 ông tình nguyện đầu quân vào quân chủng Không Quân, và được huấn luyện để trờ thành một phi công. Sau khi tốt nghiệp, ông về phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục (tiền thân của PĐ Phượng Hoàng 514) đồn trú tại căn cứ không quân Biên-Hòa. Là một phi công tài hoa son trẻ và nhiệt tình, ông cùng các bạn đồng lứa ôm trong lòng một hoài bão của những người lấy "Chí làm trai dậm nghìn da ngựa - Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao" (3) làm phương châm cho cuộc sống. Chính những nguời như ông cùng các bạn đã làm cho ngành Khu-Trục trở thành những đơn vị tác chiến lừng danh của KLVNCH thời bấy giờ.

    Hồi mới vào KQ tôi đã nghe danh ông cùng những tên tuổi như Phạm Long Sửu, Võ Xuân Lành, Nguyễn Quang Tri, Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc Khoa, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Hồng Tuyền, Nguyễn Văn Tường, Chế Văn nghĩa, Ôn Văn Tài, Nguyễn Văn Giang, Lê Văn Thảo, Huỳnh Văn Vui, Nguyễn Quốc Hưng, Nguyễn Quốc Thành, Lê Mộng Hoan, Lê Như Hoàn, Dan Hoài Bửu, Phạm Đình Anh, Lê Phước Cung, Trần Văn Việt, Phạm Đăng Cường, ...nhưng chưa có dịp quen ông cho đến khi đi biệt phái PleiKu, bay cho MAC SOG yểm trợ Chiến Đoàn 2 Xung Kích ở KonTum, và B50 ở Ban Mê Thuột, tôi mới được hân hạnh gặp gỡ và quen biết ông. Tôi gặp ông cũng là do cái "duyên nghiệp" đưa đẩy. Lúc đó ông đang giữ chức vụ Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến của căn cứ 92 chiến thuật. Vì cùng là dân KT nên thỉnh thoảng ông hay ghé biệt đội thăm chúng tôi, và chia sẻ những kinh nghiệm bay bổng. Qua những lần gặp gỡ đó, tôi thấy ở ông như đang có ngọn lửa ưu tư bập bùng trong lòng. Tôi vốn là người thích thơ văn, gặp ông cũng là tay sính văn chương thơ phú, cho nên tuy mới gặp mà đã như quen biết tự bao giờ...Thủa ấy vào những ngày mưa dầm gió bấc, ông hay mời chúng tôi đến nhà ông. Có khi cùng ông ăn một bữa cơm thanh đạm gia đình, do bàn tay khéo léo của người vợ hiền sửa soạn. Hay những buổi tối đội mưa ghé thăm ông để được thưởng thức một chén chè đậu đỏ ngọt đậm tình người. Hoặc những buổi chiều mây dông đen kịt kéo về phủ kín cả bầu trời phố núi, tôi cùng Vũ Công Hiệp, Nguyễn Hoàng Mai, Hoàng Mạnh Dzũng đến thăm ông, cùng ông bàn chuyện thơ văn bên ấm trà sen thơm ngát...Ông là một người hào phóng và lịch duyệt, nói chuyện rất có duyên, hiểu biết nhiều, lại thêm giọng nói trầm ấm, đằm thắm và lôi cuốn làm cho người nghe phải cảm mến. Qua những buổi trà đàm cùng ông, ông thường nói về nghệ thuật uống trà của kẻ sĩ. Ông nói uống trà không cần phải cầu kỳ qúa như Trà Đạo của Nhật Bản, hay lối pha trà kiểu cách của người Tầu, nhưng cũng không qúa giản dị mà để mất đi cái "lễ" đối với trà. Uống trà là phải uống được cái hồn trà, cũng như đọc thơ văn hay nghe nhạc là phải cảm nhận được cái hồn của văn thơ và nhạc. Mà hồn văn thơ hay hồn nhạc là gì nếu không phải là tâm tình của tác gỉa hòa lẫn vào câu thơ, lời văn hay khúc nhạc mong gởi đến người nghe đó sao. Hồn trà cũng vậy, có phải là hồn của người pha trà gởi vào trong ấm trà, bình trà để khi rót ra, tức là rót cả tâm tình của mình vào ly vào tách để mời khách đó hay sao. Cho nên khi uống trà, người uống có thưởng thức được vị trà, và cảm nhận được tâm tình của người pha trà mới gọi là tri âm, tri kỷ...Nghe ông nói dù chưa uống trà nhưng tôi đã thấy đâu đây thoang thoảng hương trà đậm tình tri kỷ bốc lên rồi...Trong số những văn nhân thi sỹ Đông Tây kim cổ, ông thích nhất Tô Đông Pha, và Hàn Mặc Tử. Với họ Tô , ông thích cái hào khí của một kẻ sĩ quấn lấy bước chân của thi nhân trên những chặng đường đầy ải. Với Hàn Mặc Tử, ông cảm nhận được cái phong thái phiêu diêu, lãng đãng và những nỗi day dứt, thiết tha ẩn sau những cơn đau đớn tột cùng của thân xác thi nhân. Hình như qua cuộc đời thăng trầm đầy những sự đau đớn, oan khuất và đọa đầy của những nhà thơ tài hoa nhất mực ngày xưa này, mà ông đã tìm được chân diện mục của chính mình chăng...Ông có một lối sống ung dung tự tại...Một lối sống rất thiền trong triết lý "Cư Trần Lạc Đạo" của vua Trần Nhân Tôn, vị đệ nhất tổ thiền phái "Trúc Lâm Yên Tử" của Việt nam. Ông đem thiền cả vào trong cuộc chiến để vượt ra khỏi vòng cương tỏa của những chết chóc, của bom nổ đạn bay, để thấy được cái hạnh phúc thật đơn giản của con người, những cảnh trí đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Nó luôn luôn ở ngay bên cạnh mình, không cần phải vọng tâm mong ước; chỉ cần nhận ra nó, và nhìn nó bằng một cái nhìn "bất nhị", và nhất là để biết mỉm cười với thế nhân. Hãy nghe ông tâm sự:

    "...Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…

    Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?

    Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.

    Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt…

    Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.

    Tôi vượt lên cao…

    Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.

    Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.

    Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.

    Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.

    Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế…

    Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.

    Hoàng hôn đẹp.

    Sóng biển lấp lánh ánh bạc.

    Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
    Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút giây căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.

    Thuốc ngon quá.

    Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.

    Tôi mỉm cười…

    Lê Bá Định".


    Thật là một nụ cười dí dỏm. Nụ cười thoang thoảng hương "Thiền" trong cuộc sống.

    ...Không phải vô cớ mà từ một Phi Đoàn Phó của phi đoàn Phượng Hoàng 514, một phi đoàn khu-trục lừng danh của Không Lực VNCH, cùng với hàng ngàn giờ bay cá nhân, qua các phi vụ bình Nam phạt Bắc, ông lại thu mình ngồi mai danh ẩn tích trong cái văn phòng nhỏ bé, trên ngọn đồi của căn cứ 92 Chiến Thuật đèo heo hút gió này. Cái văn phòng vỏn vẹn chỉ có dăm ba nhân viên, cả Kinh lẫn Thượng, và một người lính văn thư ngày ngày ngồi đợi ông đọc xong giấy tờ từ trên gởi xuống để cho vào sổ lưu...

    ...Cho đến ngày ông bước ra khỏi cái văn phòng nhỏ bé đó để về làm phi đoàn trưởng phi đoàn "Thái Dương 530", quy tụ những anh-hùng hào-kiệt từ các nơi đổ về, hợp cùng với phi đoàn quan sát "Black Cat" (3) của Thiếu Tá Võ Công Minh, các phi đoàn trực thăng "Lạc Long" của Thiếu Tá Lê Văn Bút, và "Sơn Dương" do Thiếu Tá Vĩnh Quốc làm Phi Đoàn Trưởng, cùng các đơn vị kỹ thuật của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Sung, tạo nên cái sườn cho Không Đoàn 72 Chiến Thuật, dưới quyền chỉ huy của chiến lược gia lỗi lạc của KQ là Trung Tá Nguyễn Văn Bá, mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, Không Đoàn tân lập này đã vươn mình như Phù-Đổng Thiên-Vương, lập được nhiều thành tích đáng kể, và đã góp phần vào cuộc chiến thắng lẫy lừng của toàn quân vào mùa Hè năm 72...

    ...Ông làm Phi-Đoàn Trưởng PĐ "Thái-Dương 530" chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, rồi lên làm liên Đoàn Trưởng LĐ72 Tác Chiến thay Tr/Tá Trang được thuyên chuyển về Nha Trang. Ít lâu sau, tôi cũng rời phi đoàn để lên coi phòng Huấn Luyện Không Đoàn, thay thế Th/Tá Hưng đi làm sĩ quan liên lạc trực thăng bên Hoa Kỳ. Tuy ngồi ở phòng huấn luyện, nhưng tôi vẫn thường xuyên về phi đoàn để chia sẻ cùng anh em những nhọc nhằn, nguy hiểm trong cuộc chiến...Trong khoảng thời gian này, khi bay những phi vụ hành quân, chúng tôi đã nhiều lần phát hiện ra dấu vết của những con đường mòn do địch quân khai phá, xuyên qua vùng núi đồi trùng điệp của miền Tây Nguyên. Có những đoạn rộng thênh thang đủ cho xe tăng và molotova của địch di chuyển. Những phi-tuần trưởng có uy tín của phi đoàn như Nguyễn Văn Huynh, Phạm Văn Thặng, Vũ Công Hiệp, Bạch Diễn Sơn, Hồng Khắc San, Trần Thanh Long, Hoàng Mạnh Dzũng, Nguyễn Hoàng Mai, Lê Thuận Lợi, Vũ Văn Thanh đã nhiều lần viết những bản báo cáo tỷ mỷ gởi lên ông và Trung Tá Bá để trình lên thượng cấp, nhưng không lần nào thấy hồi âm...Riêng chỉ có ông và ông "Bá Chủ" là những người chia sẻ ưu tư cùng chúng tôi. Ông tỏ ý lo ngại không biết đất nước này rồi sẽ đi về đâu...Ông lo ngại cho những người lính trẻ đầy nhiệt tình và lòng qủa cảm, sẵn sàng hy sinh cho đại cuộc, đang bị buộc chân, cột tay, dấn thân vào một cuộc chiến không có lối thoát...Ông tâm sự với chúng tôi là chúng ta cần phải làm một cái gì đó để thoát ra khỏi tình trạng này, dành lại quyền làm chủ chiến trường, để sớm đem lại cuộc sống thanh bình cho đất nước. Nếu không thì cuối cùng chúng ta sẽ phải lãnh một hậu qủa vô cùng thảm khốc...Câu nói này đã để lại trong tôi những day dứt suốt cả cuộc đời...Và cũng vì câu nói này mà định mệnh đã đẩy tôi cùng Phạm Văn Thặng, Trần Kim Long, Trần Văn Phúc, và Trần Cao Chánh bên BĐQ vào một khúc ngoặt của lịch sử...

    ...Vào khoảng cuối mùa Xuân năm 1971, Trung Tá Khoa, sếp cũ của tôi hồi ở BĐ83, bất thần bay lên Pleiku để gặp Trung Tá Bá và ông. Không ai biết được chi tiết về cuộc gặp gỡ bí mật của những con người coi núi Thái Sơn nhẹ như chiếc lông hồng này. Buổi trưa hôm đó, tôi được gọi lên trình diện ông và Trung Tá Bá để nhận lệnh thành lập một phi đội đặc nhiệm. Tôi nộp cho ông một danh sách 4 người gồm có tôi cùng Phạm Văn Thặng, Trần Kim Long và Trần Văn Phúc, để ông làm SVL di chuyển.

    Sáng sớm hôm sau, khi đất trời còn đang ủ mình trong màn sương lạnh của núi rừng, ông đưa chúng tôi ra tận chỗ chiếc trực thăng đang quay máy chờ nơi đầu phi đạo 09. Trước khi lên phi cơ, ông nắm chặt tay từng người nói qua sức gió thổi của cánh quạt quay vù vù trên đầu: "Tụi 'Toi' về trong ấy gặp anh Khoa. Công việc chưa biết ra sao, nhưng ở ngoài này 'Moi' và ông Bá chủ sẽ phải gồng mình chờ đợi..." Nghe ông nói tôi lặng người đi như vừa chạm phải một dòng điện...Nhìn vào mắt ông, tôi thấy trong tận cùng sâu thẳm nơi đáy mắt của ông, như đang bốc lên ánh men say của khúc "Tống Biệt Hành." Chúng tôi nhẩy lên phi cơ. Chiếc trực thăng bốc mình rời khỏi mặt đất, quay một vòng như để chào tiễn biệt, rồi chúi mũi lao về phía trước. Từ trên chiếc trực thăng nhìn xuống, tôi thấy dáng ông nghiêng ngả trên sân bay, giơ tay vẫy...Tôi thấy lòng mình trùng xuống, qua tiếng động cơ của con tầu, tôi nghe như có tiếng gào thét vọng về từ một dòng sông định mệnh...

    ...Nhưng ý trời chưa thuận chiều theo lòng người nên mọi chuyện đã không thành. Sau một thời gian nằm chờ tại Tân Sơn Nhất, chúng tôi lại trở về đơn vị cũ. Lúc đi không có rượu Bồ Đào, chén Dạ Quang đưa tiễn; lúc về cũng âm thầm như cơn gió thoảng, không để lại dấu vết gì, mà chỉ để lại cái âm hưởng hào hùng của tráng sĩ qua những vần thơ: "Một nhát dao bay ngàn thủa đẹp - Dù sai hay trúng cũng là dư." (4) Cũng từ đó, trên vầng trán của ông và của những người trai thời loạn, càng hằn sâu thêm những nếp nhăn ưu tư cho vận nước.

    Sau mùa Hè năm 1972, Đại Tá Bá đổi về Phan Rang làm Chỉ Huy Trưởng căn cứ 20 chiến thuật, và ông được điều lên làm Không Đoàn Trưởng KĐ/72/CT. Cùng quãng thời gian này, khi Sư Đoàn 6 KQ được thành lập, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Ngọc Sang, thì cuộc đời và sự nghiệp của ông lại bung ra như mây như mưa bay khắp bốn phương trời...Nhớ lại ngày nào ông từ cái văn phòng "Tâm Lý Chiến" chật hẹp, đứng lên vươn vai xoải cánh như con phượng hoàng vùng vẫy, tạo ra biết bao nhiêu những huyền thoại, bạch thoại quấn lấy bước chân...Nay cái duyên của ông với vùng trời biên trấn cũng đã hết. Ông lại ung dung cùng gia đình ngất ngưởng ngồi trên chiếc xe đò xọc xạch, từ PleiKu xuyên qua Quốc Lộ 19, đánh một vòng ngao du sơn thủy, đắm mình vào với khung cảnh kỳ tú của non xanh, nước biếc, nhuộm thắm tâm hồn người "chinh nhân nghệ sĩ". Rồi qua đèo đổ dốc xuôi Nam về miền biển, ngày ngày chăm lo cho những cánh chim non, đào tạo cho Không Lực VNCH những phi công ưu tú trẻ tuổi, để sau này tung vào cuộc chiến.

    Tháng Tư năm 75, lịch sử lại một lần sang trang. Những ưu tư, lo lắng của ông ngày nào như một lời tiên tri nay đã ứng nghiệm. Đời ông cùng với vận mệnh của đất nước lại rẽ vào một khúc ngoặt nghiệt ngã của cuộc bể dâu...Sau mười năm bầm dập trong chốn lao tù, ông bước ra khỏi vũng lầy dâu bể, trở về với nhân thế để chứng kiến sự phá sản đến tận cùng của quê hương, và của những mảnh đời bất hạnh. Sóng gió ầm ầm nổi lên cùng những câu hỏi quay cuồng trong đầu... Than vãn ư? Có cần thiết lắm không khi quanh ông đầy những tiếng oán than. Trách móc ư? Trách cái gì và trách ai đây khi tất cả mọi người đang ngụp lặn trong cơn ba đào của cuộc sống. Nhưng đó là cái phong độ hào sảng của một "chinh nhân" trong ông. Nó không cho phép ông được yếu lòng như vậy. Thế còn là một "thi nhân" thì sao? Có lẽ nào ông không có những cảm xúc hay rung động gì sao? Có lẽ nào ông không cảm được hồn của người pha trà đã rót hết tâm tình của mình vào ly trà hội ngộ mừng ông trở về đó hay sao? Và ông đã ngửa cổ uống cạn ly trà tri kỷ, uống cạn cả những ân tình đọng trong đáy mắt của tri âm...Ông trở về như người về trong cõi thơ và nhạc:

    "Ta về như tiếng kêu đồng vọng
    Rau mác lên bờ đã trổ bông
    Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
    Chờ anh như biển vẫn chờ sông
    Ta gọi thời gian sau cánh cửa
    Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu
    Ta nghe như máu ân tình chảy
    Từ kiếp nào xưa tưởng lạc nhau
    Ta về dẫu phải đi chân đất
    Khắp thế gian này để gặp em
    Đau khổ riêng gì nơi gió cát
    Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm" (5)


    ...Chỉ có thế thôi, và cũng chỉ mới có ngần ấy thôi mà cũng đã đủ để làm cho nước mắt của người bạn đời tuôn ra chan hòa như dòng suối mát, cuốn trôi tất cả những héo úa, mỏi mòn của những tháng năm chờ đợi...Là một kẻ sĩ bất phùng thời, ông ung dung hòa mình vào với dòng đời xuôi ngược, sắn tay vén ống thu dọn những đổ nát của xã hội nhân quần:

    Ta về dạy dỗ đàn con trẻ
    Đạo lý vuông tròn của tổ tiên
    Tu bổ ngôi đền thờ Quốc Tổ
    Vun bồi công đức thủa Hùng Vương.
    Ta về lợp mái nhà loang lổ
    Sửa bức tường nghiêng đắp lại nền
    Cuốc xới khu vườn hoang phế cũ
    Cho mầm hạt giống mới vươn lên.
    Ta về lật quãng thời gian cũ
    Đếm bước ngày xưa phủ bụi đường
    Ai có vì ta mang hệ lụy
    Cúi đầu ta nhận hết đau thương.
    Ta về gây lại nong tầm cũ
    Dệt nốt cho em tấm lụa vàng
    Se kết đường tơ còn dang dở
    Cho nàng áo mới đón Xuân sang.


    Ông bắt đầu xây dựng lại cuộc sống cho gia đình. Ông dậy con cái rất nghiêm minh, để sau này các con ông trở thành những người hữu ích cho nhân quần, xã hội. Với bản thân, ông luôn luôn giữ cho mình cái tiết tháo của một kẻ sĩ. Rồi ông lại ung dung nắm tay dìu người bạn đời, cùng nhau cất bước đi cho trọn quãng đường trần...

    Suốt cuộc đời ông trong cuộc sống, ông đã trải qua biết bao nhiêu những thăng trầm, lao đao lận đận...Từ một chinh nhân và thi nhân bồng bềnh theo cơn gió bụi, tới một tha nhân chìm đắm trong cõi vô thường. Cho đến những ngày tháng cuối cùng nơi trần thế, nằm trên giường bệnh, chịu đựng sự hành hạ đau đớn đến tột cùng của thân xác, như để trả hết cái nghiệp của "Nhân Duyên" do "Vô minh và Hành" gây ra từ vô lượng kiếp. Gột sạch những "tạp niệm" tích lũy trong thân tâm. Buông xả những cái "chấp" do "Ái, Thủ, Hữu" bám vào. Ông để lộ ra cái "Tâm" thanh khiết và trong suốt của một hành gỉa đã "chiếu kiến ngũ uẩn giai không" mà bước ra khỏi vòng "Sanh, Lão tử"...Rồi tìm về một dòng sông tĩnh lặng...nơi có con thuyền vượt bến mê, con thuyền "Bát Nhã" đưa ông qua bờ, về cõi vĩnh hằng cao diệu vợi.


    Trần Ngọc Nguyên Vũ
    (Mùa Xuân năm Giáp Ngọ)

    Chú thích:
    (1) Chinh Phụ Ngâm
    (2) (4) Thơ Vũ Hoàng Chuơng
    (3) "Black Cat" sau này đổi thành "Bắc-Đẩu" dưới quyền chỉ huy của Th/Tá Võ Ý
    (5) Thơ Tô Thùy Yên
    Last edited by chieutim; 01-26-2016, 04:58 PM.

  • #2
    Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ đến cố Trung Tá Khu Trục Lê Bá Định (Thái Dương 01) một thời đi mây về gió....

    Trung kiên một lòng vì Tổ Quốc
    Sắt son một dạ với Không Gian


    Lê Bá Định

    Bay Trên Đất Bắc
    Lê Bá Định


    Phi công "Phú" Lê Bá Định

    Tôi đã nhiều lần vượt vùng trời Bến Hải với những chuyến bay ném bom trên đất Bắc. Lần này tôi được chỉ định dẫn dắt mười hai phi cơ tiến đánh một mục tiêu xa hơn những lần trước. Đó là hai trại quân quan trọng nằm trong vùng rừng nơi phía Tây Bắc thành phố Vinh.

    Tôi ghi nhớ nhiều về chuyến bay này vì là lần đầu tiên tôi điều khiển hoàn toàn một phi vụ Bắc phạt.

    Những lần trước tôi chỉ hướng dẫn một phi tuần bốn phi cơ theo sự điều khiển của phi đội trưởng.

    Đối với phi công khu trục, cấp trung uý dù rằng với chức vụ trưởng phòng hành quân phi đoàn, đây là một danh dự và là một hãnh diện nữa khi được lệnh đảm trách một công tác quan trọng như vậy.

    Suốt từ lúc được lệnh bay, xuyên qua buổi thuyết trình về phi vụ, tôi đã hỏi rất nhiều, rất kỹ lưỡng vị sĩ quan Quân Báo về các vị trí phòng không địch, cho đến khi đứng lên nhắc lại các phương thức phi hành cùng các đoản lệnh hành quân cho các chiến hữu cùng bay với tôi, tôi cảm thấy nôn nao vô cùng.

    Có thể hơn thế nữa, gần như là một mối lo âu. Không thể là sự lo sợ được đối với một người trẻ tuổi như tôi, đã được rèn luyện trong cái khí thế hiệp sĩ của một phi công khu trục bao lần vùng vẫy trên vùng trời lửa đạn.

    Tôi run run đếm những số giây cuối cùng cho các bạn tôi điều chỉnh giờ đúng. Nỗi lo âu ngập tràn. Khẳng định không phải là sự thiếu tự tin. Những người trẻ tuổi thường không sợ sệt trong lý tưởng mà luôn muốn chứng minh khả năng của mình trong khi bay. Khả năng của tôi đang được khảo thí. Một cuộc khảo thí quan trọng vô cùng, vì từ giờ trở đi, những quyết định của tôi, một phi công hai mươi ba tuổi, nếu sai lầm sẻ phải trả bằng giá của sinh mạng tôi và của cả mười một phi công khác mà số tuổi chỉ trên dưới hai mươi.

    Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong nghề, lần này tôi sắp sửa thêm một kinh nghiệm nữa mà mãi sau này tôi vẫn thấy thú vị vô cùng. Danh nhân nào đã nói kinh nghiệm là một ông thầy khó tính, bắt ta phải khảo thí trước khi dạy ta.

    Tôi đang là thí sinh của cuộc khảo thí kỳ cục đầy hào khí này. Hình ảnh cuốn phim Le Pont de Toko Ri chợt đến bao trùm trong tôi thật rõ ràng linh hoạt như ngày nào tôi mười hai tuổi xin tiền mẹ bốn lần để xem đi xem lại phim này.

    Vùng trời Đà Nẵng hôm đó thật thấp và âm u với nhiều mây xám. Đã có lác đác vài hạt mưa rơi.

    Các bạn tôi lộ vẻ chán nản và nói “Chán quá! Lại phải hủy bỏ phi vụ”. Chúng tôi có những giới hạn thời tiết tối thiểu để hoạt động. Dù với lòng quả cảm chấp nhận hiểm nguy nhưng chúng tôi đều phải tôn trọng những luật lệ về an phi. Tuy nhiên tôi thản nhiên ra lệnh: “Vẫn cất cánh như đã dự trù”.

    Các bạn tôi đều ngạc nhiên và cho là một quyết định khá liều lĩnh. Thật ra tôi đã quyết định ngay từ lúc rời phòng thuyết trình và thầm mong một biến chuyển thời tiết khả quan hơn. Tôi nhớ thật rõ các dữ kiện mà sĩ quan khí tượng đã cho biết. Trong trí tôi, cuốn phim Le Pont de Toko Ri đang quay chậm. Tôi ôn lại các lối lượn bay toát mồ hôi lạnh trong phim.


    Có ai ngờ mười mấy năm sau tôi lại đóng vai chính của một cuốn phim oai hùng.

    Thời gian trôi qua thật nhanh chóng.

    Tôi tưởng chừng như mới hôm qua còn ngồi trên ghế nệm thoải mái trong rạp hát, hồi hộp theo dõi một kiệt tác của nghệ thuật thứ bảy. Để rồi hôm nay ngồi trong phòng lái chật hẹp tù túng, trước mắt là cánh quạt động cơ ào ào rung chuyển quay tròn như cơn gió lốc, như trộn lẫn định mệnh với cuộc đời…

    Thế rồi phơn phớt dưới chân mây, là đà trên ngọn núi, chúng tôi đem tuyệt kỹ phi hành để khắc phục trắc trở thiên nhiên. Tôi đem hết hiểu biết kinh nghiệm để dẫn dắt mười hai cánh chim lao về Bắc.

    Nhìn các bạn tôi chao đi trong mưa gió âm u, lòng tôi se lạnh. Trong gió mưa cuồng loạn các bạn hãy cố gắng lên. Chúng ta còn đến trung tâm một cơn bão khác quay cuồng hơn, đang đe doạ không riêng chúng ta mà cả hàng triệu chiến hữu đang gian khổ dập tắt cơn bão loạn này. Tôi biết trời âm u lắm, đôi cánh nặng vô cùng, các bạn hãy theo tôi đi dẹp tan cái âm u khác đã triền miên từ lâu. Theo tôi cho vững để trút cái nặng nề dưới đôi cánh, xoá tan những áp lực núi đá khác đang đè nén quê hương.

    Nhìn xem kìa, bên trái hướng chín giờ, Huế cố đô thân yêu. Chân mây cao hơn đôi chút rồi. Đừng dùng máy nhiều nhé, nhớ tiết kiệm từng giọt xăng.

    Chúng ta còn đi xa lắm, dù mang thêm bình xăng phụ nhưng lúc giao chiến, đôi khi chúng ta phải thả đi cho nhẹ bớt để còn mặc sức vẫy vùng. Máu của cánh chim, máu của chính mình đó các bạn.

    Tôi đang cố gắng giữ hướng Bắc dù cho đôi cánh đang chao mạnh run rẩy từng cơn.

    Hãy tin ở tôi, ở tuổi trẻ Việt Nam.

    Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt...

    Các bạn thấy Cửa Việt chưa? Cố lên, hãy tra chìa khoá vào cánh cửa Việt Nam đang bị rỉ sét để mở ra cho lịch sử thôi tù túng, đóng khung.

    Đừng bay quá xa về phía biển, chúng ta sắp vượt Bến Hải, vĩ tuyến đau thương. Ha ha, chiếc cầu với hai cột cờ. Chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta.

    Các bạn còn nhớ bài Địa Dư vỡ lòng ngày nào?

    Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Đâu có ai ngờ là đứt khúc nơi Bến Hải.

    Bên cánh trái là giang sơn gấm vóc của giống Tiên Rồng. Dưới cánh phải là Thái Bình Dương đang dâng sóng vỗ về đất nước. Chúng ta cố bay nhanh để sớm quay về, chắp đôi cánh lại cho thanh bình mau ấp ủ quê hương...

    Vĩnh Linh, Quảng Khê, Đồng Hới...

    Tôi đã bay trên miền trời các địa danh đó, đã đem tử thần đến và cũng đã chạm mặt tử thần ở những nơi này. Quê hương tang tóc rối bời. Những trại quân bị tàn phá, những chiếc cầu gẫy gục, những quang cảnh tiêu điều, vết tích lưu lại những lần oanh tạc trước vẫn còn lở lói bên dưới kia.

    Những ai đó còn mê ngủ hay đã kinh hoàng tỉnh giấc trong những tràng bom nổ inh tai, dưới những làn phi tiễn nhức óc? Đừng để cho ảo tưởng bao trùm, hãy lên đây cùng chúng tôi, suốt con đường từ Nam ra Bắc để nhìn rõ bức dư đồ rách nát vì đâu?

    Hãy ngồi bên chúng tôi để nhìn rõ quê hương, để biết cái cảm giác của một người bay trên quê hương mà phải nghĩ đây là đất địch.

    Đã bao lần tôi muốn xua đuổi ý tưởng đau lòng đó, nhưng bên những sườn núi kia, trong thung lũng nọ, trên bờ biển này, tử thần đang chực chờ lôi kéo chúng tôi bằng lưới đạn giăng trời, để rồi sau cái tan vỡ kinh hoàng của một cánh chim, Thân xác cũng tan tành đưa chúng tôi đến nơi nào không biết, nhưng chắc chắn rằng cho đến lúc đó, chúng tôi chưa tận hưởng được cái khang cường thân thể với những mạch máu căng đầy sinh lực mà cha mẹ tạo thành, chưa mãn nhãn nhìn hết cái đẹp hùng vĩ đất nưóc của tổ tiên để lại, cũng như chưa tiêu xài hết một phần tuổi trẻ của cuộc đời.

    Tôi đưa cả phi đội bay thật thấp để cố tránh tầm rada địch. Trong mũ nghe chỉ còn tiếng rè rè của vô tuyến. Chúng tôi âm thầm bay, không một ai lên tiếng trong lúc này, kể cả đài kiểm báo Sơn Trà. Ngoại trừ khi tôi cần. Tôi biết rằng chúng tôi không cô đơn, vì ở nhà bao con tim đang hồi hộp đợi chờ. Chúng tôi rời phương Nam đã lâu, nơi đó bạn tôi cũng chờ đợi.


    Địch? Bạn?

    Tại sao lại bắt chúng tôi dùng những từ ngữ ấy?

    Tại sao không xoá bỏ những chữ ấy trong tự điển, trong lòng người? Tại sao lại xem chúng ta là kẻ thù để chúng tôi trở nên những người đối địch họ vì chúng ta sắp nhận là kẻ ác của những người thiện để tiêu diệt bất cứ kẻ ác nào muốn giết người thiện.

    Từng phần đất quê hương sẽ thêm một lần vỡ tung dưới làn bom nổ. Thân thể mẹ Việt Nam đang bị vi trùng đục khoét, chúng tôi xót xa phải cắt bỏ những ung nhọt đang hoành hành.

    Nguyện ước bây giờ là làm sao cho Mẹ bớt đau đớn, hết rên xiết, con cháu Mẹ sớm quây quần bồi dưỡng Mẹ. Mẹ, xin Mẹ cho chúng con thêm một lần chạm vào da thịt thiêng liêng để Mẹ sớm yên lành...

    Hà Tĩnh nghèo nàn âm u kia rồi.

    Vinh u buồn thảm não.

    Chúng tôi cho vòng máy quay nhanh hơn bắt đầu vượt cao theo hướng Tây Bắc tràn vào.

    Mây mù giăng đặc. Tôi cố lượn giữa các tầng mây, dò theo từng chi tiết trên bản đồ mà hầu như đã thuộc kỹ. Tôi không được phạm một sơ xuất nào, một lầm lỗi nào dù nhỏ đến đâu.

    Tôi ra thủ lệnh cho các bạn tôi.

    Loang loáng trong mây, mười hai hiệp sĩ như những cánh thiên thần đi tìm tử thần trong cái âm u của trời đất. Tôi phải tận dụng yếu tố thời tiết và bất ngờ, nếu không… nếu không thì…

    Le Pont de Toko Ri ơi, sao có sự trùng hợp lạ kỳ?

    Chỉ khác chăng không phải chiếc cầu mà là trại quân. Vẫn một thung lũng rợn người với ba mặt núi cao đầy lửa đạn. Vẫn một lối vào duy nhất như lùa vào tử lộ. Vẫn một lối ra hiểm trở, vách đá sừng sững chi chít cao xạ. Tôi có cảm tưởng như địch đã biết, đang mỉm cười chờ những cánh thiên thần.

    Trời âm u quái đãn, bay đến đâu mới nhìn được đến đó. Tầm nhìn xa bị giới hạn tột cùng. Thoáng qua vài lỗ hổng chân mây, xa xa là Thanh Hoá.

    Tám phút trước mục tiêu, tôi chợt đổi đường bay về hướng Bắc. Các bạn tôi vẫn đeo sát.

    Nhạc gió quay cuồng, tiếng máy thét gào rú mạnh.

    Đài kiểm báo Sơn Trà như lo lắng gọi chúng tôi cho biết đang bay lệch mục tiêu ba mươi độ và báo động phi cơ địch được nhìn thấy trong vùng hoạt động. Tôi đáp hiểu, không giải thích lối đánh của tôi.

    Tôi lượn quanh trong mây đổ chập chùng, vòng sang hướng Tây mục tiêu rồi chọc thẳng về hướng Nam, tin tưởng hoàn toàn vào tấm bản đồ không ảnh.

    Các bạn tôi đã sẵn sàng ở đội hình chiến đấu.

    Tôi từ đầu rặng núi vượt ra từ trong mây.


    Số một lao vào mục tiêu. Tốc độ tăng nhanh như vũ bão. Áp lực ép mạnh vào người. Làm sao… Làm sao ngay từ giây phút đầu… Le Pont de Toko Ri… Phải, tôi phải cố gắng làm sao cho hai trái bom đầu tiên rơi đúng ngay trên mục tiêu nằm cách nhau non một ngàn thước để đánh dấu cho các bạn tôi nhìn thấy qua đám mây mù. Tôi phải lam sao cho các phi tiễn cùng lúc ấy phá vỡ các ổ cao xạ ở vách núi trước mặt ngăn chặn lối ra duy nhất.

    Hơn nữa nếu tôi xuống quá thấp để tìm sự chính xác cho làn bom và phi tiễn thì lúc vượt lên sẽ quá muộn chỉ trong vòng một giây đồng hồ tôi sẽ cùng cánh chim dán vào vách đá.

    Tôi còn phải lượn lại ít lắm hai lần, trong lúc các bạn tôi đang oanh tạc, để trút số bom còn lại lên các ổ phòng không hai bên vách núi đang kẹp mục tiêu như chiếc kéo của tử thần đang chực chờ họ. Tôi còn phải nhắc nhở và theo dõi họ lúc vượt qua vách núi chắn ngang. Tất cả đều tùy thuộc vào ở lúc này.

    Tôi lao xuống mục tiêu đang tỏ dần trước mặt…

    Bom nổ kinh hoàng, phi tiễn xé rách vùng trời thung lũng. đạn bay loè sáng… Tôi như chết đi trong con người, đắm chìm trong chiến trận. Tôi trở thành máy móc, một công cụ khoa học, một nô lệ kỹ thuật. Phòng không địch giật mình hoạt động. Nhưng trễ quá rồi.


    Thời tiết xấu đã giúp chúng tôi tận dụng yếu tố bất ngờ. Các chú không ngờ chúng tôi tiến đánh lúc trời xấu phải không? Nếu trời trong thì với lối phòng thủ chắc ăn như vậy, các chú có thể xơi tác một con ruồi bay qua. Chúng tôi cần vài giây đầu tiên thôi. Đạn phòng không đỏ rực nổ tung dày đặc khung trời.

    Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…

    Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?

    Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.

    Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt…


    Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.

    Tôi vượt lên cao…

    Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.

    Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.

    Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.

    Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.

    Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế…
    Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.

    Hoàng hôn đẹp.

    Sóng biển lấp lánh ánh bạc.

    Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
    Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút giây căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.

    Thuốc ngon quá.

    Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.

    Tôi mỉm cười…

    Lê Bá Định

    Chú thích:
    Lê Bá Định sinh trưởng tại miền Bắc nhưng theo gia đình di cư vào Nam từ 1954.
    Lê Bá Định là một phi công Khu Trục lừng danh của Quân Chủng KQVNCH kể cả về khả năng bay bổng và khả năng viết lách.
    Lê Bá Định cũng được biết đến như một cấp chỉ huy trẻ cương trực và quả quyết khi là Trung Tá Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật.
    Sau 1975, Lê Bá Định trở thành tù nhân cải tạo nhiều năm, nhưng quyết định ở lại Sài Gòn mưu sinh bằng cách kèm dạy Anh Văn.
    Ông đã qua đời ngày 04 tháng 02 năm 2014 tại Saigon, Việt Nam. Hưởng Thọ 76 tuổi.
    Last edited by khongquan2; 12-10-2015, 07:42 AM.

    Comment


    • #3
      Anh Lê bá Định hay (Định bá Lê) là một viên kim cương trong sáng cuả ngành KHU TRỤC,
      VNCH, rất tiếc anh không may đã ở vào vị trí bất lợi ( wong place )nên gặp nhiều khó khăn,
      trong nghiệp dỉ, dù sao thì Anh đã chu toàn sứ mệnh rất đáng mến phục.
      Phượng hoàng nâu.
      Last edited by khongquan2; 01-16-2016, 04:15 PM.

      Comment


      • #4
        Niên Trưởng Phượng Hoàng Nâu viết: "Anh Lê bá Định hay (Đinh bá Lê) là một viên kim cương trong sáng cuả ngành KHU TRỤC, KLVNCH, rất tiếc anh không may đã ở vào vị trí bất lợi ( wrong place ) nên gặp nhiều khó khăn, trong nghiệp dỉ, dù sao thì Anh đã chu toàn sứ mệnh rất đáng mến phục.

        Phượng hoàng nâu


        *****

        Xin cám ơn Phượng Hoàng Nâu với những lời nhận xét rất sâu sắc và trân trọng về NT Lê Bá Định. Cùng một thế hệ "Mầu Tím Hoa Sim" sinh ra và lớn lên trong giai đoạn chuyển mình quằn quại của đất nước, các anh, những người đi trước đã dấn thân nhập cuộc và hướng dẫn lớp đàn sau cùng chung thế hệ chu toàn sứ mệnh của những người trai thời loạn, cho dù ở vào bất cứ một vị thế nào. Phải là những người đã từng qua lại trên quãng đường sinh tử nhiều lần như các anh mới có đủ phong độ phóng tay điểm lên bức tranh sơn hà những đường nét bi tráng, và đủ chất liệu để tô điểm cho cuộc sống hào hùng và lãng mạn của những anh hùng vạn thuở. Hằng đêm nhìn lên khoảng không gian vô tận, chúng ta đã thấy có nhiều vì sao băng lạc như "Nguyễn Quang Tri", "Lê Bá Định", "Dương Thiệu Chí", "Nguyễn Văn Dọng", "Nguyễn Đình Bảo", "Bửu Chuyển", "Bùi Đại Giang", "Đào Giang Hải"...và bây giờ nếu chúng ta vẫn còn thấy những vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời tinh đẩu thì đó chính là những tên tuổi một thời tung hoành ngang dọc như: "Phượng Hoàng Nâu Lê Văn Thảo", "Thần Phong Nguyễn Ngọc Khoa", "Phi Hổ Tím Nguyễn Hồng Tuyền", "Nguyễn Văn Bá", "Nguyễn Quốc Thành", "Lê Mộng Hoan", "Lê Như Hoàn", "Phạm Đình Anh", "Dan Hoài Bửu", "Queen Bee 01 VinhTrương", "Huỳnh Thanh Minh", "Trần Văn Nghiêm", "Trần Mạnh Khôi", "Tạ Thượng Tứ", "Ngô Đức Cửu", "Lâm Thành Mông", "Đào Bá Hùng", "Hoàng Trọng Hùng", "Phạm Hữu Lộc", "Đinh Đức Bản", mũ đỏ "Lê Minh Ngọc", "Đoàn Phương Hải", mũ nâu "Đào Trọng Vượng" , "Trần Cao Chánh", "Nguyễn Văn Song"...

        Xin kính chúc các anh một cuộc sống an bình cùng người thân bên ngọn lửa hồng sưởi ấm lòng người qua những ngày Đông buốt gía.

        Xin gởi đến các anh bức:

        Chân dung của những người trai thời loạn!

        Anh sinh ra giữa thời ly loạn
        Đất nước tang thương tự thủa nào
        Nối gót tiền nhân cơn quốc biến
        "Đầu bút nghiên hề sự cung đao"

        Không gian một cõi trong tầm mắt
        Nhìn quanh nhân thế thoảng mây bay
        Đôi vầng Nhật Nguyệt trên vai gánh
        Ngạo nghễ mang theo những tháng ngày

        Xưa kia tráng sỹ trên lưng ngựa
        Múa kiếm xông pha chốn lũng ngàn
        Hide original message

        Anh cũng tung hoành trong bão lửa
        Một thời hứng trọn những nguy nan

        Xác bạn tan tành thôi vĩnh biệt
        Máu hồng thay rượu tiễn chơi vơi
        Khung trời rực cháy cười khinh mạn
        Một cánh dù bung đẹp tuyệt vời

        Âm vang cuồng nộ lời thơ cổ
        Bi hùng theo gió cuốn mây trôi
        "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu"
        "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"

        Anh vốn chẳng màng chi danh lợi
        Một đời chĩu nặng những ưu tư
        Cho dù định mệnh còn cay nghiệt
        Lòng vẫn bùng lên khúc tạ từ

        Chỉ thương phận bạc hồng nhan ấy
        Mắt mỏi mòn trông ở cuối trời
        Xé nửa vầng trăng treo cánh gió
        Nửa vầng trăng cạn chén ly bôi.


        Thân kính,
        Trần Ngoc Nguyên Vũ.
        Last edited by khongquan2; 01-22-2016, 07:35 AM.

        Comment


        • #5
          Kính thưa quý Niên trưởng và quý chiến hữu KQ,
          Về thân thế, lý lịch của cố Trung tá Lê Bá Định, theo tôi được biết, thân phụ của ông là người miền Bắc nhưng vào Sài Gòn rất sớm, trước Đệ nhị Thế chiến. Ông Lê Bá Định ra chào đời tại Sài Gòn ngày 1 tháng 4 năm 1939; sau khi ông mất, cả Cáo phó lẫn Cảm tạ của gia đình đều ghi rõ như thế.
          Trân trọng,
          KQ Nguyễn Hữu Thiện

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X