Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tập thơ truyện KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN (1974)

Collapse
X

Tập thơ truyện KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN (1974)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tập thơ truyện KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN (1974)

    Không lực VNCH chỉ có 1 thời gian ngắn 20 năm để thành lập và phát . Trong thời gian ấy, đã có nhiều tác giả và tác phẩm, có những nét riêng của những cuộc sống nhiều thay đổi, của thời thế lịch sử và của những nghịch cảnh của từng đời thường của mỗi cá nhân. Cái chung bàng bạc trong cái riêng của 1 nền văn học khai phóng và tự do - nên phản ánh được 1 phần nào nỗi niềm cúa thế hệ - mang ít nhiều "bơ vơ" (chữ của THẾ UYÊN)

    Cung cách khiêm cung, nhã nhặn và trân quý con chữ..là điều dễ bắt gặp trong những ấn phẩm của dòng văn học nhân bản 20 năm này..Từ lời bạt, cho đến những chú thích nho nhỏ "cho quê hương một đời...", "để đánh dấu một thời đoạn...", "mãi mãi quê hương".. .là điều dễ làm ra rung động nơi độc giả...

    Nơi đây, bay theo những cánh chim trời, bay theo muôn vàn những tinh tú, một sợi khói vấn vương hoài niệm đã bay lên…đã lẫn hòa vào cái mênh mông của những tâm hồn đẹp ấy..đã lan ra trên những chiều kích bát ngát của quê hương..và cũng là một sợi khói của nén nhang tâm tưởng, mơ tiếc ..một đời cho quê hương…

    “Giữa những giòng văn chương, có những dòng văn chương tự thân sừng sững, lớn khỏe, khởi phát từ nỗi điêu linh của giống nòi.
    Chúng tôi muốn nói đến dòng văn chương của Không Quân, những tác giả đã lên đường, có mặt trong chiến tranh, đóng góp xương máu, bảo vệ vùng trời, bảo vệ đất đai và truyền thống nhân sinh của Tổ quốc. Đó là dòng văn chương tranh đấu, văn chương lửa, văn chương dấn than. Tác giả hoành thành tác phẩm bằng chính nỗi kinh qua, nào vinh nhục, vui buồn, mồ hôi nước mắt máu xương, trên hoạn nạn trùng điệp của một phần đời dài, của suốt giai đoạn lịch sử hỗn mang vô nhân tính, mà kẻ có long đôi khi thấy mình “già” mỏi mệt, có vẻ như bất lực , đành ôm chút liêm sỉ, trong một phút giây, lẩn trốn vào riêng tư..

    Dòng Văn Chương của KHÔNG QUÂN thời chiến …là một trong những dòng chính của văn học nghệ thuật thời đại. NHƯ THÊ không lí do gì khiến THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN lại vắng mặt trước cuộc tra tìm của văn học sử.
    Đứa con văn nghệ đã ra đời, tất nhiên nó thuộc về cuộc đời, hiện diện của cuộc đời và mãi mãi của quê hương. Đó là ý nghĩ chân tình trong mơ ước của chúng tôi khi góp tay làm sách.“









































    Xin cám ơn NT Hồ Danh Lịch và Nguyen TRUONG TRUNG HUY gởi tặng
    (http://huyvespa.blogspot.de/2014/03/...hoi-chien.html)
    Last edited by Phòng Trực; 03-17-2014, 03:05 PM.

  • #2






















    Comment


    • #3
      Con Đường Xưa

      Con Đường Xưa
      (Để nhớ một loài chim Bearcat)
      ~~~





      thủ bút, chữ ký và chân dung MYK, tức Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh
      (trang 145, 149 TẬP THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN)



      Bây giờ chỉ còn là kỷ niệm. Con đường xưa các anh đã đi qua, thật là ồn ào, hoang dã; nhưng cũng là hào hùng và nhiều huyền thoại.

      Trong giai đoạn khai phóng vùng trởi Việt nam, các anh đã hao mòn sức lực, đã đổ nhiều mồ hôi nước mắt, đã nát thịt tan xương. Con đường mây nào cũng đẹp, và hướng mây nào cũng có bóng dáng bi hùng của loài phượng hoàng gãy cánh vì đất nước.

      Thuở ấy, trên vòm trời này đã xuất hiện một loài chim cổ cánh đen đủi dị kỳ, nhưng móng vuốt cũng đã sắc bén. Từ những cái đập cánh đầu tiên ngỡ ngàng cho đến khi lên cao thuần thục, bay bướm; loài chim xưa cổ đã có ước vọng được thay long đổi cánh để đập mạnh hơn, lên thật nhanh, thật cao, mong vuốt thật nhiều, thật bén nhọn.

      Ước vọng đó chưa hình thành thì đã có những cánh chim được gói ghém trong chiếc áo quan -- thể xác và ước vọng -- mà những cánh chim còn lại đã từng phen mang lên vai, theo nhịp điệu thật buồn, những bước chân nuối tiếc đi đến nhà mà như đi chôn niềm tủi hận vô biên của chính mình.

      Vòm trời xưa đâu có no tròn tiếng động cơ phản lực.

      Vòm trời xưa đầy vị kỷ như muốn xua đuổi những thân tàu run lẩy bẩy cố bám víu vào vòng quay gió để vươn mình lên cao. Canh gió thật là ồn ào, phòng lái không ấm cúng, thân tàu không êm ả; nhưng họ thật là bao dung, họ thật là hiền hòa, nhưng họ cũng thật là dũng mãnh.

      Có những cánh chim ngã xuống trong cái chết để đời, nhưng trong quân sử nào có ai ghi chép lại.

      Từ những mảnh trời hoang vu man dại, các anh là những viên đá lót đường. Con đường xưa anh đi mịt mù mà thiếu nhiều ánh sáng. Nhưng các anh đã hăng say đặt bước, những bước chân đầu tiên cho một cuộc hành trình đầy cam go, lắm khổ nhọc nhưng cũng nhiều thi vị.

      Những viên đá lót con đường xưa bây giờ đã rêu phong kín mượt -- Thật là đau xót.

      Nhưng bây giờ chúng ta đã có đôi hia bẩy dặm -- Thật là hứng khởi -- Trận chiến đã trở nên khốc liệt hơn và trách nhiệm của loài chim trời lại càng nặng nề hơn. Bây giờ là những bước nhảy vọt tân kỳ, vươn lên thật cao, thật nhanh, thật rộng lớn, thật bao la.

      Bây giờ tổ ấm của những chim không còn ẩm thấp, nghèo nàn. Bây giờ đường bay không còn là vỉ sắt. Bây giờ phi đạo đêm không còn những ngọn đèn cổ vịt với ánh sáng vàng vọt, leo lét ma trơi. Bây giờ ngoài khung trời lửa đạn , không còn những giây phút thần kinh căng thẳng giăng mắc trên đường đi lối về. Bây giờ thân chim đã nhẹ phần tự cứu rỗi lấy mình. Chúng ta đã lớn mạnh, đã có đất đứng vững chắc, đã được thiên hạ chú ý đến nhiều.

      Và giờ đây, thân chim ngày xưa vào tàng cổ viện, thành một kỷ vật để trang hoàng. Mộ chí của các anh -- như loài hoang đảo -- được dựng lên rải rắc đó đây trên đất nước khổ đau này, chỉ còn mong được gia đình các anh chăm sóc.

      Riêng chúng tôi, trong thời gian qua, cũng không còn kịp ghi chép vào sổ tay để viết hồi ký, vì mình cũng phải sỏ chân vào đôi hia bày dặm để đi cho kịp bạn đồng hành.

      Giờ đây chúng tôi chỉ còn biết, và, cũng là còn được dịp ngồi tưởng lại con đường xưa để làm gạch nối giữa tâm tư của các anh và các cánh chim đang độ tráng cường đang tung hoành trên khắp nền trời mây -- không mới lạ đối vơi các anh -- để thực hiện hoài bão mà các anh đã mang theo, chôn giấu dưới mồ.

      Và giờ đây, chắc các anh cũng không muốn trở lại con đường xưa, cạo bỏ lớp rêu phong kín để tìm lại dấu chân chim. Màu rêu xanh vẫn đẹp, vẫn mướt như nhung, và, những dấu chân chim dưới lớp rêu; nhưng thật là dịu hiền, thật là dễ mến.

      Những dấu chân của các anh để lại trên con đường xưa, dẫu cho là đã bị chìm vào quên lãng, nhưng lại là những mấu chốt cần thiết cho cuộc hành trình khai phóng vòm trời Việt Nam.

      Vươn lên cao, đó là hành trang và ước vọng của các anh, khi xưa các anh dấn thân lên đường.

      Và hôm nay, những cánh chim bay rợp trời của chúng ta đã đem lại niềm kiêu hãnh đó lên cao.


      LỜI RU CON

      Tiếng mẹ ru con run rẩy
      trong đêm dày đạn rít không gian
      tiếng mẹ ru con
      à ơi

      Tiếng mẹ ru con
      không thành lời
      đời con thì bé bỏng
      chinh chiến khắp nơi nơi
      lòng mẹ ru con lạc lõng
      à ơi ru hời à ơi

      Cha con bay vào đêm dày
      trời xuống thấp trời nhiều mây
      tiếng mẹ ru con thấp thỏm
      biết cha con có thể về đêm nay

      Mẹ ru con bằng lời nguyện cầu
      xin trời đêm chứa đầy vì sao
      cho cha con bay không lạc hướng
      cho cha con cấy cánh trời cao

      Tiếng mẹ ru con bằng chân tình
      nguyện xin đất nước được bình yên
      tiếng mẹ ru con bằng nước mắt
      cho cha con trở lại an lành

      Bom nổ ầm vang lệ hỏa châu
      chảy dài vất vưởng giữa đêm thâu
      lệ trời héo úa, ôi vàng vọt
      lệ mẹ thầm rơi, ôi khổ đau

      Thôi ngủ đi con ngủ đi con
      xin cho con nụ cười thiên thần
      cho con không biết loài đạn lửa
      làm vỡ ra nhiều tiếng khóc than

      Tiếng mẹ ru con bằng đợi chờ
      từng giây từng phút bóng đêm qua
      cha con trở lại ngừng đôi cánh
      tổ ấm êm đềm tiếp giấc mơ

      Tiếng me ru con ôi mỏi mòn
      cha con nặng nợ kiếp chim bằng
      ngày sau cầu nguyện con khôn lớn
      dáng đẹp và cao như không gian.


      MYK

      (Trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)




      @@@ Vài dòng tiểu sử:

      Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (SQ: 52/600.277)
      Sanh ngày 1 tháng 8 năm 1932 tại Nha Trang
      Học Sinh Lycee Chasseloup Laubat Saigon tốt nghiệp Tú Tài phần 2.
      1954: Trúng tuyển du học ngành Phi hành trường Võ Bị Không Quân Salon de Provence Pháp, tốt nghiệp Thiếu Úy Hoa tiêu Khu Trục
      1965: ngày 1-11 thăng thiếu tá nhiệm chức - Trung Tá Tư lệnh Không Đoàn 41 Chiến thuật
      1970: Tháng 9, Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân tân lập Đà Nẵng
      1974: Ngày 1-4 Vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức
      1975: Định cư tại Montreal Quebec, Canada
      1996: Mãn phần lúc 9:10 tối 14 tháng 9 tại Canada Hưởng thọ 64 tuổi.
      (theo http://daubinhlua.blogspot.it/2012/05/chuan-tuong-nguyen-uc-khanh-tu-lenh-su.html)

      Comment


      • #4
        Chàng Hải Âu Kỳ Diệu

        Chàng Hải Âu Kỳ Diệu
        ~~~





        (Thủ bút, chữ ký và chân dung KQ Tr/tá Trần Tam Tiệp, hàng dưới - bên trái)


        Sau khi đọc xong bản dịch cuốn 'Chàng hải âu kỳ diệu' của Richard Bach, một nhà văn không quân Hoa Kỳ, tự dưng tôi muốn viết cho anh, người sinh viên sĩ quan phi hành KQVN, [Không quân Việt nam [cộng hòa] mà tôi được hân hạnh diện kiến mừng ngày quân lực tại Sài gòn.

        Bóng dáng thoải mái, trẻ trung của anh trong bộ quân phục đại lễ mầu trắng làm gương mặt trang nghiêm hơn. "Như cái oai nghiêm của chú hải âu có đôi cánh trắng, như bóng dáng tự tin lao mình vào không trung để thử 'cú' bay đầu tiên" -- nhưng tôi vẫn cho tôi thấy một cái gì tươi mát và tin tưởng trong tim, một con tim quá già trước tuổi.

        Cuốn 'Chàng hải âu kỳ diệu', hiện là cuốn truyện phá kỷ lục về số phát hành, ngang với cuốn 'Cuốn theo chiều gió', đang làm xao động nền văn chương Hoa Kỳ, với cốt truyện thật giản dị -- cuộc đời một chú hải âu ở miền bể lúc mới học bay, khi đã bay được; chú liền nghĩ ra nhiều lối bay tân kỳ, để trở thành bậc thầy, truyền 'đạo bay 'cho một số chú hải âu môn đệ.

        Nha Trang cũng là bờ biển; và, anh bạn vào đời Không Quân trên vai mới nhú, như một chiếc cánh vụng dại, ngờ nghệch ở một bãi biển xa xôi -- và, tôi còn nhớ, tưởng như mới hôm qua -- được chứng kiến sự quyết tâm của bạn gia nhập Không Quân -- qua những hàng rào thép gai; quân cảnh [kiểm soát quân sự] -- và, cả rừng tấm lòng quyết tâm như bạn. Sự quyết tâm mà Richard Bach đã viết như sau,

        " ... là ngọn lửa bé nhỏ sáng ngời đang rực cháy trong tất cả chúng ta, những người chỉ sống cho những giây phút mà chúng ta cảm thấy đọat đến đỉnh tuyệt vời."

        Đỉnh tuyệt với ấy là thước ka-ki, cái đầu trọc lốc; và, chuỗi ngày huấn nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Cũng giống như chú hải âu, anh bạn đã phải qua bao nhiêu khổ cực, có khi cả bao nhiêu nước mắt nhỏ vụng trong đêm, để nuôi một kỳ vọng: mình sẽ được bay và bay được.

        Niềm tin vững chắc đó, cũng giống như niềm tin của một bé hải âu gãy cánh được Cao Phi (tên chàng hải âu kỳ diệu) nói với hắn,

        "Em có cái tự do để trở nên 'chính mình'. 'Cái mình thực' của em; ngay đây, bây giờ -- và, không một cản trở nào ngăn chặn em được!"

        'Bé hải âu' gãy cánh hỏi,

        " Có phải anh nói em có thể bay?"

        Cao Phi trả lời,

        " Ta nói là em tự do!"


        'Bé hải âu' bay được, cũng như bạn -- sau bao nhiêu cam go của những buổi địa huấn khó khăn, những giờ học lý thuyết cực nhọc, khó nuốt -- mà chỉ có những người vững niềm tin như bạn, mới có thể chịu đựng được, vượt qua được -- để một sáng nào đó leo lên phi cơ, ngồi ghế trước, cầm cần lái trong tay, mà lòng tràn ngập xúc động -- vì đỉnh tuyệt vời đã đạt: được bay.

        Hải âu mẹ sẽ kèm bạn một thời gian để truyền lại cho bạn tất cả kinh nghiệm, bí quyết của cuộc đời làm thầy, với thật nhiều an ủi: khuyên răn, khích lệ; và, cả cáu giận, để một ngày nào hải âu mẹ thấy có thể nói với bạn câu: 'ngày mai thả chú bay 'solo' được rồi' -- để sau lần đáp một mình thành công, bạn có thể tự hào để gần tới đoạn đầu cuộc sống mới: phi công Việt Nam.

        Không phải chỉ là Không Quân; nhất là nhà văn Không Quân -- hay ít ra, cũng như bạn -- nên tôi không hưởng được cái kiêu hãnh, những người nhận ra được là mình ở trên cao, thật cao hơn, hơn hẳn lũ nhân loại đang lúc nhúc sống dưới đất. Ở trên vòm trời thánh khiết không bị ô nhiễm, chắc chắn tâm hồn bạn sẽ thật thanh thản, loại bỏ mọi bon chen, danh lợi, mưu mô; để được sống thật với chính bản thân mình.

        Mộng ước lớn nhất của tôi là được lên thật cao một lần; để nhìn xuống lũ người dưới đất xem sao; nhưng đến bây giờ, hơn nửa đời người -- mức lên cao nhất của tôi chưa vượt quá tầng lầu 3 của một cao ốc, vùng ngoại ô nghèo nàn. Mới ở tầng lầu 3; tôi đã nhìn được thấy mái nhà nào bằng bê-tông, mái nào lợp tôn, che lá -- cũng đã phải cười ra nước mắt, về cái giả dối của một số người khi làm nhà -- bề ngoài thật đồ sộ, đẹp đẽ; nhưng, trên nóc lại thật nghèo nàn, vay mượn. Thật buồn cho những hào nhoáng vay mượn bề ngoài của một lũ trọc phú, chó nhảy bàn độc.

        Đó; mới chỉ cao không quá 6 thước, tôi đã khám phá được cái chua xót buồn nôn đó; thì, bạn ở trên cao hơn tôi hàng mấy trăm lần, bạn sẽ thâu thập được đầy đủ hình ảnh con người -- và, hàng ngày nhìn thấy quá nhiều cảnh bon chen; để tiện đó, bạn sẽ cảm thấy lòng mình vị tha, quảng đại, rộng rãi hơn lên -- chắc chắn sẽ buồn cho những ai, cả đời chưa được một lần trên cao để nhìn xuống cuộc đời.

        Rồi một ngày nào đó, võng la chỉ đạo đè nặng cánh bay, bạn sẽ làm thầy, truyền 'đạo bay' lại cho lũ hải âu nhỏ bé mơ ước nghiệp bay, dấn thân vào Không Quân -- đồng thời bạn sẽ thấy bay là một cái nghiệp -- tới lúc đó, bạn nhìn lại Không Quân, bằng đôi mắt, dù tha thiết, hận thù -- thì tầm mắt vẫn còn bị giới hạn -- nhưng hãy bằng tấm lòng quảng đại thứ tha -- bởi bạn là những người sống trên bầu trời xanh vút dài hơn mọi người -- và đã biết thế nào là Tự do.

        Trần Tam Tiệp
        (trang 415- 419, "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)




        @@@ Đôi dòng tiểu sử tác giả:

        "... Niên Trưởng Trần Tam Tiệp sanh ngày 11/11/ năm 1928 (mất ngày 23/12/2009), tốt nghiệp trường sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức, khóa 2, gia nhập Không Quân năm 1954, theo học khoá phi hành tại Maroc, từng phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân.
        Niên trưởng được anh em Không Quân biết nhiều khi phụ trách Phòng An Ninh Không Quân.
        Với cấp bậc Trung Tá, tinh tình cương trực và thanh liêm với thượng cấp và lúc nào cũng đức độ, hoà nhã, rộng lượng với trực thuộc nên được anh em Không Quân quí mến và trọng nể, Niên Trưởng còn là một trong những chủ biên tập san Lý Tưởng Không quân dưới bút hiệu Đạo Cù và là cây bút quen thuộc trong giới báo chí Việt Nam trước năm 1975.

        Sau tháng tư 1975, Niên Trưởng định cư tại Pháp, cùng với một số nhà văn Việt Nam, nhanh chóng thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, vận động và liên lạc công tác được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn nhận liên tục cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra còn vận động kêu gọi Văn Bút Thế Giới tranh đấu bảo vệ các văn nghệ sĩ Miền Nam bị cộng sản bắt giam không xét xử. Chính nhờ những sự vận động bền bỉ đó mà tổ chức ‘‘The International Pen Writers in Prison Committee’’ đã dành cho các nhà văn, nhà báo đó nhiều trợ giúp có ý nghĩa hoặc được can thiệp bảo trợ.

        Niên Trưởng còn bỏ tiền túi và kêu gọi anh em, gởi tiền về để giúp đỡ các đồng đội và văn nghệ sĩ đang bị cộng sản cầm tù trong những năm đó. Niên Trưởng còn vận động các quốc gia Âu Châu như Ý Đại Lợi và Thụy Diển cho cuộc tranh đấu về Tự do và Hoà Bình cho nhân loại... "

        (trích "Điếu văn Niên Trưởng Trần Tam Tiệp của Hội Ái Hữu Không Quân tại Pháp ngày 06/01/2010")

        Comment


        • #5
          Một bông hồng cho con

          Một bông hồng cho con
          ~~~





          bút tích và chân dung nhà văn Phùng Ngọc Ẩn (hàng trên, từ phải qua)
          trong
          TẬP THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỚI CHIẾN (Saigon, 1974)



          Hi vừa trở về sau một phu vụ hiểm nghèo. Thân phi cơ còn in dấu lỗ chỗ vết đạn từ dưới bắn lên. Cũng như bao nhiều lần khác, anh chép miệng 'số mệnh cả ' -- để trả lời cho các bạn cơ khí viên bu quanh, hỏi han những chi tiết phi cơ trúng đạn. Trong những phiêu bồng tưởng tượng bay xa, những thằng bạn thầm ước được nghe ít nhất một lời nói hào hùng 'nghiêng cánh sắt đâm đầu vào súng phòng không đang khai hỏa' , một hình ảnh chuyên chở tràn đầy chí cả chất ngất chín từng mây. Anh nhìn thân con tàu loang lổ như một kỵ sĩ nhà nghề, ngắm kỹ con ngựa già của mình đang chảy máu, sau một lần xung phong vượt qua hào lũy, trận mạc đối phương; mà các vết thương còn hiển hiện chưa khô, đang rỉ xuống từng giọt hồng, đọng thành vũng đầm đìa trong tâm hồn chai sạn.

          Môt điếu thuốc cong queo, răn rúm, giữa 2 ngón tay gầy guộc nổi gân xanh, chậm chạp đưa lên mũi một thứ khói cay xè, giữa 2 hàm răng thiếu chất 'calcaire' bắt đầu vỡ mẻ. Những vòng khói tròn ẻo lả, ngập ngừng, chập choạng tản mát vào khỏang không; như tâm sự riêng anh trong nỗi buồn giao động.

          Đứa con gái anh đang đau nặng, nằm ở quân y viện thành phố ngoài kia; ở ngoài khung phi đạo dài mút tầm mắt; ngoài cổng rào kẽm gai chi chít, rải rác từng cậy bảng cấm, vẽ hình đầu lâu xương sọ 'bãi mìn'. Anh vỗ vai thằng bạn thân,

          " Tao về thăm con. Mày chuẩn bị chuyến bay sau nhé! "

          Đường thành phố nhộn nhịp ồn ào. Những nụ cười bất chợt ven đường, từ trong các 'Snack bar' vọng ra, nghe chát chúa , dữ dội hơn cả những lằn đạn trực diện chốn sa trường. Hi rùng mình, tưởng tượng đến hình bóng âm thầm của một anh quân nhân thám báo, đang dò dẫm tiến chiếm mục tiêu dưới màn sương, bỗng thật nhanh như sao xẹt, êm đềm như lời tình; một mũi tên tẩm thuốc độc bắn từ ngang hông, xuyên qua cổ họng anh ngọt lịm. Mồ hôi lạnh, không biết dồn nén từ đâu, nhỏ ra từng giọt trên gáy. Hi giá buốt, kéo cổ áo bay, ngửi thấy mùi nồng trận mạc xông lên, sau một chuyến bay nhiều cảm giác.

          Trại nội thương có vẻ vắng người. Chiến tình dạo này đang hồi sôi động -- khu ngoại thương là khu ăn khách nhất , náo nhiệt đầy đủ mọi thứ áo lính từ trận tuyến tải về. Có cả những vết thương thi đua triển lãm tràn ngập ngoài hành lang. Phòng chật, chỗ thiếu; các chiến sĩ bị thương nằm tạm trên ghế xếp trình bày công khai chứng tích chiến trường, dưới mắt nhìn xót xa đồng đội. Gió mưa bất chợt, mỗi sáng mỗi chiều; là những vuốt ve thường xuyên hiện diện, mang những cọng lá vàng úa đang run rẩy bay vèo rơi xuống ghế trận, dưới làn gió thoảng rùng mình. Dư ảnh của hoàng hôn mộ địa vùi nông một thằng bạn lính, chết đi không được nghe kèn đồng, một bài 'chiêu hồn tử sĩ' như còn lảng vảng đâu đây, oan hồn chưa siêu thoát. Sự thua thiệt là hình ảnh dành riêng cho người vắng mặt, và cho cả người sống sót nín câm. Những chính trị gia thường hay dựa vào cái thế 'đa số trầm lặng' làm mẫu số cuối cùng cho mỗi lần thua cuộc trên bàn cờ chính trị. Một mẫu số vô hồn vay mượn vào những nơi bất mãn ngụy trang, những chán chường giả tạo, sau những lần miếng đỉnh chung, mồ danh lợi vượt thoát khỏi tầm tay. Một thứ trầm lặng hiện diện khác của những người hơn một lần, thề nhập cuộc; đang mang nỗi u hoài khắc khoải làm hành trang lang thang lếch thếch trên đoạn đường chiến chinh dài dằng dặc, bằng mười mấy năm 'ở lính', xin được tách rời tâm sự chiến trường ra khỏi vòng hào quang tôn vinh tưởng tượng trá hình của những kẻ chưa hề được xót sa cho chín những giọt máu bạn thân hòa lên nét vẻ hào hùng mưu sinh tồn tự do trên đất Việt.

          Hi im lặng ngồi ở hàng hiên, đợi đến giờ thăm chính thức. Anh chợt nhớ đến 7 ngày hôm trước, anh mang con đến bệnh xá dân y. Đứa con đang lên cơn sốt dữ dội, nóng trên 42 độ -- cơn nóng của đứa bé truyền sang anh dưới tình phụ tử, thành một bộ dạng buồn cười. Cô nữ y tá đang bận viết thư tình, đã cười ruồi, trước bộ mặt thất thần của anh đang lo âu, hốt hoảng. Ông bác sĩ vào giờ chót, cũng lộ diện trước mặt Hi, như một vị thần độ thế. Những gõ, những nghe; cuối cùng ông ta trách, sao anh không xao lãng bổn phận làm cha. Lời than phiền khiến Hi đau điếng, "... tại sao giờ này, anh mới đem con đến?" Hi trả lời nghẹn ngào, "Thưa bác sĩ, tôi mới đi bay hành quân về. Nhà chỉ có vợ, và con, cùng ốm một lúc. Hiện nay tôi để vợ ở nhà, và nhờ hàng xóm ghé mắt trông giùm." Ông bác sĩ y khoa gật gật, " y viện đã hết nước biển, ông cố tìm một chai, rồi đem ngay đến đây. Nếu không, e con bé khó sống!"

          Giao con cho y tá, Hi trở ra xe gắn máy, phóng như bay. Chưa bao giờ Hi thấy mình lái xe bạt mạng đến thế. Nhiều lúc Hi giật mình, chợt nghĩ, nhỡ có tai nạn, ai sẽ tìm hộ chai nước biển cho con đây, lại bớt ga chạy chậm lại. Rồi Hi lại tăng tốc, để quyết ăn thua đủ với tử thần, khi nhớ đến con đang hồi quyết liệt, mà hơi ấm con còn vương nồng trong vòng tay lồng ngực của anh. Cuối cùng anh cũng đến được bệnh xá đơn vị. Anh cố gắng sẽ trình bày mạch lạc bệnh trạng con đang hồi nguy kịch, hy vọng được người ta bố thí cho một chai nước biển. Vị sĩ quan quân ý trực đêm hôm đó, lạnh lùng trả lời,

          "Nước biển khan hiếm, chỉ để dành cho nhân viên phi hành lâm nạn. Thiếu tá chịu khó đi xoay nơi khác vậy."

          Hi cười buồn, ngắm kỹ lại gương mặt ông ta. Gương mặt đó không có một nét nào đáng giá, để có thể so sánh với y sĩ đại úy Hà Thúc Nhơn, một 'toubib' ít ra cũng đã làm rạng danh ngành quân y ngành bộ binh ở Nha Trang. Và, Hi gửi ý nghĩ phiêu du vào vùng trận mạc hôm rồi, tại sao dàn phòng không địch hôm ấy không bắn trúng ngay mình, để mình được chảy máu, và được người ta cấp cho vài ba chai nước biển? Nước biển đó đem cho con ta, liệu sớm thoát bệnh hiểm nghèo.

          Bé Thu ơi! bố đã hết lời, lòng nhân đạo của thấy thuốc đã cho thuê mất rồi; thôi thì con hãy cố với sức yếu trẻ thơ cầm cự, chờ bố phải đi tim bằng được chai nước biển cho con. Hi quan sát lại kỹ càng cái tủ kính đựng một dọc lọ nước biển thẳng hàng. Rồi Hi xoay ngang, ngỏ lời cảm ơn ông quân y sĩ. Anh chạy bay về phòng hành quân đơn vị, bảo thằng bạn thân đi theo, giả ôm rên la. Sĩ quan trực phi đoàn gọi xe cứu thương tới tấp. Ông quân y sĩ, con người máy, đi ngay với đầy đủ y cụ cứu nguy. Trong lúc đó, Hi bỏ ra xe trực hành quân, mang theo một thằng em, chuyên viên 'bàn tay nhám'.

          Trở lại bệnh xá, Hi vô gạ chuyện với cô y tá trực phòng, trong lúc đó, thằng em 'bàn tay nhám' bắt đầu giở ngón 'điệu thủ thư sinh' thần tốc. Một phút ngắn ngủi trôi em, thằng em 'bàn tay nhám' đã ra ngay xe Jeep, ngang anh, nó nháy con mắt cười tình.

          Thế là xong, đứa con gái duy nhất của Hi sẽ thóat được cái chết trong đường tơ kẽ tóc rồi -- và Hi cũng đã qua được một đêm lo sốt vó kinh hoàng. Ngay ngày hôm sau, anh lập tức mang con gái vào quân y viện. Giờ cất cánh hành quân đã gần kề, thế mà anh vẫn còn thui thủi ngồi ở góc phòng chờ đợi -- đứa con gái trong tay thỉnh thoảng nấc lên, trở mình quằn quại. Giá có tiền, anh đã đem con vào những bệnh viện lớn mang danh hiệu ngoại quốc tại Sài gòn -- cỡ Grall, Saint Paul chẳng hạn -- chứ không đủ can đảm đợi chờ những giây phút căng thẳng triền miên, lo âu, tê xót. Một nỗi buồn không tên, như viên đạn đồng rít xé không gian lao thẳng vào tim nhức buốt. Hi ôm con trong lòng chờ chực đã hằng giờ -- ngòai vòng kẽm gai -- tiếng rao của hàng bán phở rong đang gọi mời sự lớn dậy của dạ dày thoi thóp; từ trong các hạch khẩu vị ưa ra một dòng nước dãi thèm thuồng. Anh chậm chạp nuốt nước bọt đẩy nó trôi xuống cổ họng, tự dưng dậy lên niềm cay đắng đang cào xé theo từng nhịp lên của trái táo Adam nặng kịt. Điếu thuốc lá, vẫn là điếu thuốc lá quân tiếp vụ trên đầu môi, mang đủ vị cay xè, khói đắng vào cung thẳm cung tim đang nhảy nhịp buồn nhạc chết.

          Bảy ngày đã trôi qua, người khách viếng thăm đều đặn nhịp nhàng ở khu nội thương quân y viện -- kể cả những giờ phút thăm bất chợt, sau lượt bay vê, như cái bóng lặng lẽ, im lìm, ngồi ở hàng hiên, đếm những lá úa vờn bay, như thể anh từng đếm những 'chiếc lá đồng đội' bay đi, không trở lại khu vườn 'quân đội' vào thu. Nghĩ miên man đến cái chết đồng đội, buồn, rồi qua đi nhanh; không nguy kịch bằng lưỡi hái 'kiệm ước' đời sống đắt đỏ, nguy hiểm gấp vạn lần đạn địch, đang tung hòanh đe dọa khủng khiếp trên mũ sắt, ba lô lính trận.

          Bé Thu, con anh đã chết rồi!

          Ngay từ đêm đầu, nhiệt độ cơn sốt quá cao, vì phải đợi mãi chai nước biển, sức chịu đựng trẻ thơ căng thẳng đến mức tuyệt cùng rồi; đã làm tan vỡ mạch máu nào đó trong não. Những ngày kế tiếp, ông quân y sĩ đã tận tình cứu chữa, không cãi được mệnh trời. Một tiếng sét ngang tai như vỡ bùng âm thanh tung tóe! Như một kẻ hấp hối trong án tử 'thời đại kiệm ước' hiện nay. Tin con chết như phát súng ân huệ cuối cùng đang nhả đan vào thái dương chàng phi công thời chiến. Hi ngồi lịm trước hành lang quân y viện, nước bọt ứ ra mép như một dòng suối hận đời. Lệ đã cạn từ lâu trên 'cửa sổ linh hồn' ráo khô của những ngày bắt đầu nếm mùi lọc lừa, phản trắc, bạc như vôi, dưới bàn tay quyền uy 'định mệnh'.

          Một chiếc xe Lambretta 3 bánh chạy lọc cọc trôi xuôi về miền ngoại ô thành phố, một khoảng đất nhỏ nhoi gói ghém xác hài nhi, lời vĩnh biệt con thơ chỉ là hơ mây ngủ thì thầm dưới rặng trâm bầu trong chiều mây xám. Trên bầu trời, một cánh chim đơn kẻ lẻ loi bay chập choạng về tổ, giống hệt tâm hồn Hi đang vỡ vụn.

          Một nén hương cô độc nghiêng ngả cắm lên mộ sơ sài, mộ chí nguệch ngoạc nét chữ sắt se tình phụ tử. Chỉ vì không kiếm được một chai nước biển đúng lúc. Vợ Hi vẫn tiếp tục ốm đau uể oải. Cuộc sống èo uột, thiếu đủ thứ, mọi bề, như một thứ trì hoãn cuộc chiến não nề, trước quyền lực ào ạt của từng ồng thuốc tây đắt giá. Một mình chôn con, cô độc trở về nuôi vợ, lẻ loi trong từng bữa ăn nấu lấy một mình, lạnh lùng trong giấc ngủ chập chờn ác mộng.

          Hi sa sút hốc hác như một quả chanh bị vắt hết nước, những sớ khô, xơ xác, củn mẳn, trơ tráo như cọng rau ngổ đơn lẻ phất phơ trong cánh đồng hoang sau mùa gặt -- chẳng khác gì hàm râu biếng cạo, tỉa; mọc lởm chởm lăng loàn. Cũng may phi công cấp tá, nếu là đại úy ra đường bị quân cảnh hỏi sự vụ lệnh, giấy xuất trại, số quân - "không quân số quân mang số 6 đầu, phạt nặng gấp 6 lần bộ binh đó a?"

          Trở mình, vợ thức giấc, hỏi thăm con ra sao? Hi bèn trấn an bằng giọng ngụy trang, vui ngay, trả lời, " con đã đỡ nhiều, vài hôm nữa, anh sẽ đón nó về với em, được chưa?" Vợ gật đầu, Hi nhớ lại nhiều lần mặc quần áo ra phố, vợ hỏi, lại ngụy trang, đi thăm con.

          Hi bỏ hết thời gian ngồi lặng câm trong nghĩa địa tiêu sơ, để cật vấn tâm hồn mình trong niềm run rẩy, nao núng của lương tri, để nghe một đáp số về thân phận '17 năm ở lính' -- con chết vì không đủ tiền mua 1 chai nước biển -- nếu có tiền dư dả, thì đã đưa nó vào Grall, Saint Paul; thì đâu đến nỗi?!

          Trên đường về nhà chiều hôm đó, Hi đi ngang qua Câu lạc bộ, ánh đèn rực rỡ ánh hoa đăng. Anh lính gác cổng cho biết, đêm nay kỷ niệm ngày sinh nhật ông quân y sĩ. Hi chợt nhớ tới đứa con xấu số, đến chai nước biển 'định mệnh' phũ phàng đêm nào. Anh soát lại túi tiền -- hồi chiều một thằng bạn thân từ Đà Nẵng vào -- biếu 500 đồng mua thuốc lá hút chơi cho quên đời. Chẳng hiểu sao, Hi vù ra chợ, mua một bó hoa, để chúc ông quân y sĩ một ngày vui sinh nhật. Cầm bó hoa trên tay, cài tấm danh thiếp, Hi đưa cho anh lính gác. Hi bỗng thấy tiếc nhớ một cái gì khó nói, Hi ngắt lại một bông, lâm râm khấn nguyện, 'đóa hoa hồng này ba dành tặng con'.

          Giã từ anh lính gác, cài đoá hồng vào túi áo bay, Hi tiếp tục trên đường về nhà; để cũng tiếp tục đóng kịch với vợ anh, chưa khỏi cơn đau ốm.

          Phùng Ngọc Ẩn
          (tr. 215-223 trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)




          @@@ Vài dòng tiểu sử:

          Xem tại đây >>> Nhà văn KQ Đại tá Phùng Ngọc Ẩn

          Last edited by Hoanghac; 01-26-2016, 01:31 AM.

          Comment


          • #6
            Một tóe lửa, một vòng đen

            Một tóe lửa, một vòng đen
            ~~~




            thủ bút, chữ ký và chân dung nhà văn Nguyễn Mạnh Côn
            (trang 1, TẬP THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN)



            Thân mến gởi Người có Bộ Râu
            Người mang Mái Tóc


            Tối hôm ấy trời phân phất mưa, gió hơi lành lạnh. Trong cái quán có ít người biết đến; và, có cái tên thơ mộng Mây bốn phương -- một người trẻ đang hát trên micro một bản tình ca buồn, bằng giọng thấp hết sức ấm áp. Phía dưới, bộ râu nổi tiếng nhất nước -- có lẽ nhất thế giới, sau bộ râu Sta-lin đôi môi mỏng tham lam, thốt ra những lời nhớ thương day dứt. Bên trong cạnh một chiếc bàn vuông; một người trẻ khác, có bộ tóc gợn sóng màu xám pla-tin; có lẽ cũng nổi tiếng nhất trong một quân chủng, đang nói nhỏ với mấy người cùng bàn:

            "Thật ra, nhiều người đã kể chuyện tương tự. Ít ra ở Việtnam, cũng có Khái Hưng, viết về người tài xế xe lửa phải từ biệt vợ hấp hối; để cầm máy chuyến xe lửa chở quan Toàn quyền Đông dương. Dọc đường, ông ta thấy có bóng người thấp thoáng trước mặt; ra hiệu cho tàu ngừng lại. Ông ta không dám làm theo, nhưng đến lúc nghe tiếng gọi cấp bách; thì, trong cơn mê hoảng; ông ta hết sức phanh tàu cho dừng lại. Mọi người đổ xô đến, thấy cách nơi tàu ngừng một quãng ngắn; có một con sông nước chảy xiết, còn cẩu đã gãy. Ông ta nhìn đồng hồ. Khi về, được biết bà vợ đã qua đời đúng vào đêm, giờ ông chồng thoát nạn."

            Chuyện được Khái Hưng phóng tác, từ một câu chuyện ngoại quốc -- một người đứng tuổi nói tiếp. Cách đây mấy chục năm; địa vị Việtnam còn khiêm tốn quá đối với quốc tế, nên không ai thấy cần phải ghi rõ xuất xứ những truyện ngắn được phỏng dịch, hay phóng tác.

            "Câu chuyện của Khái Hưng có một phần khiến cho tôi chú ý -- một người khác nói -- người tài xế thấy con bướm mắc kẹt trên mắt kính ngọn đèn ở đầu máy xe lửa. 'Bóng người trong sương mù' là nhan đề của truyện; như vậy, rõ rệt ý tác giả có ý muốn gây nên, trong độc giả; một vài ý niệm bâng khuâng liên hệ từ cánh bướm trước ngọn đèn; ánh sáng chiếu thành bóng trắng trong đêm, rồi từ bóng trắng đến người vợ bạc mệnh.

            Câu hỏi không được đặt thành lới; mà xao xuyến trong lòng ta, phải chăng là người vợ chết, thì linh hồn bà dõi theo đường đi, để cứu ông ta kịp lúc. Nếu bóng trắng trong sương thật sự là con bướm -- theo lẽ, thì thân hình nó ngăn trở ánh sáng của ngọn đèn, bóng chiếu trên màn sương phải là bóng đen -- thì linh hồn bà vợ đã nhập vào con bướm một phần -- còn một phần quanh quất bên ông tài xế, đã tạo thành tiếng gọi 'dừng lại'; chỉ một mình ông ta nghe thấy --có nhà văn nước ta diễn tả như một tiếng im lặng, một thứ tiếng im lặng; một thứ tiếng của quá khứ; hay, được giao truyền lại theo phương pháp cách cảm.

            "Phải, người mang bộ tóc pla-tin nói: 'vấn đề được đặt ra, gian tiếp hay trực tiếp; là vấn đề linh hồn. Trong truyện ngắn của Khái Hưng: con bướm đã chết -- và, bóng người trong sương cũng quá mơ hồ, người đọc xong chỉ có thể cảm xúc mang mang, chứ không có y nghĩ nào rõ rệt; có lẽ, vì chính tác giả cũng không có chủ đích trình bày một quan điểm rõ rệt. Còn câu chuyện, tôi sắp kể cho các anh nghe; có một đặc tính là minh bạch hơn nhiều; cũng vì thế phi lý hơn nhiều".

            Một chàng phi công trẻ bất thần nghe được mấy lời nói sau cùng; anh ta đến gần, nói:

            "Còn gì phi lý hơn những chuyện xảy ra hàng ngày chung quanh chúng ta? Thưa thiếu tướng, thằng Hoạch nó chết 7 giờ 30 tối hôm nay, em vừa được báo tin qua điện thoại. Đại úy Hoạch, anh chàng phi công quay ra nói với những người khác, với ngót 2 trăm phi xuất trên mặt trận giới tuyến; 3 lần bị trúng đạn đều nhẹ, mấy lần bị lủng cánh; vỡ đuôi; đều đem được tàu về bãi đáp. Thế mà, nghe tin vợ đẻ con trai; mừng quá, chạy gấp từ lầu 3 xuống; chân đạp vào một quả nho rơi mà ngã chết... thưa các anh, cuộc đời nó phi lý như vậy đó."

            "Đại úy Hoạch chết rồi! -- người có mái tóc đẹp ngậm ngùi -- linh hồn nó có nhớ đường về thăm vợ con; hay, về đây uống chút rượu này với chúng ta -- ly rượu từ từ ngã; dòng nước vàng chảy lênh láng xuống nền nhà -- và, nghe kể chuyện về bạn thân cùa nó' thằng Phúc, hỗn danh Phúc Hên."



            Trung tá Trần Lương Phúc, còn gọi Phúc Hên, hôm nay đã ra khỏi quân chủng. Đời người phi công, đến tuổi nào đó, sẽ mất dần tính chất bén nhạy của phản ứng giác quan; đồng thời, cũng kém dần về sức chịu đựng dẻo dai của thân thể. Đến lúc nào đó, hay tuổi nào đó; một phi công chiến đấu sẽ không được lái tàu chiến đấu nữa. Đời người phi công đến đây là chết mất quá một nửa. Anh ta sẽ tìm cách xin biệt phái sang lái những chiếc tàu hạng ì-ạch, 3, 4 trăm/ cây số giờ; hoặc, lái những máy bay chở khách hạng trung, không vượt quá nghìn cây số.

            Trung tá Phúc khi phải chọn lựa, đã không chọn cả 2 biện pháp. Ra khỏi hàng ngũ, anh tìm đến trú ngụ tại một thị trấn nằm bên bờ biển. Mỗi buổi sáng mua nhiều cá thả xuống một cái hồ nước nhỏ; và, mua thêm nhiều thứ ngô, đậu; làm thức ăn cho một giống chim trắng toát có vết đen nâu, có đôi cánh rất rộng; thường bay chập chờn, rỡn chơi trên những làn sóng bạc đầu, vào những ngày biển động. Ở nhiều nơi, người ta gọi loài chim đó là những con mố.

            Mấy người thủy thủ Việt đi trên tàu xuyên đại dương cũng gọi chúng như vậy.

            Trung tá Phúc có người em trai, kém 1 tuổi; cũng tên Phúc, Trần Nhân Phúc; nhưng không phải là Phúc Hên, vì hiện nay gọi là cố thiếu tá Phúc. Trong quân chủng, thiếu tá Phúc là Phúc Em. Em ngã tàu vào một buổi chiều mưa. Ba tháng sau, Phúc Hên không còn khả năng lái tàu chiến đấu nữa; nhưng anh ta vẫn còn trong hàng ngũ được mấy năm, làm phi công vận tải. Rồi sau đó, anh ta xin giải ngũ; ra ở ngoài bờ biển, ngày ngày nuôi những con mố đó; thì, có một con là em anh ta. Hay nói cho đúng; thì, có một con mố nào đó; ở một miền duyên hải nào đó của nước Việt Nam, nơi trú ngụ của linh hồn Phúc Em.

            Câu chuyện thực buồn nhưng không đến nỗi đau khổ. Hai anh em Phúc cùng lớn lên trong một gia đình đoàn tụ, nên rất thương yêu nhau. Phúc Em có phần thông minh hơn; nhưng Phúc Em khỏe mạnh, to lớn hơn.

            Phúc Em học giỏi, vượt theo kịp anh; rồi vượt luôn trong bảng sắp hạng tam cá nguyệt. Nhưng Phúc Hên không ghen với em, vì anh ta ham chơi hơn ham học -- chơi, ở đây chơi thể thao, bóng đá, đánh quần vợt. Đấu võ, Phúc Hên có nhiều dịp bênh em trong những cuộc tỉ thí; nguyên nhân không mấy khi là ngoài mấy cô bạn gái xinh đẹp. Nhờ thế, anh ta không mang mặc cảm đối với cậu học giỏi; trong khi Phúc Em đã không dám coi thường anh -- ngược lại, còn biết ơn và kính phục Phúc Hên, như một tay hiệp sĩ giang hồ.

            Đến cuối ban trung học, Phúc Hên thi trượt phần 2 bằng tú tài. Anh không ngần ngại tình nguyện vào không quân. Phúc Em đậu cao, lên đại học được hơn 1 năm; rồi cũng tình nguyện vào không quân, tình nguyện theo học lớp hoa tiêu. Người ta có thể tin rằng thái độ sống ngang tàng, những cử chỉ hào hoa, phong nhã và, có lẽ cả bộ quân phục của Phúc Hên đã ảnh hưởng đến em anh ta không ít. Người tuổi trẻ làm bạn với nhân vật trong sách vở nhiều hơn với người đời, chắc hẳn đã qua người anh đã tạo thành một mẫu mực lý tưởng cho cuộc sống.

            Phúc Em vào không quân, tốt nghiệp sĩ quan hoa tiêu, rồi nài nỉ xin về cùng đơn vị với anh. Vả từ bấy giờ, anh em không rời nhau lấy một giờ. Khi xuất trận thì cùng một phi tuần, khi dạo phố cũng cặp đôi... Thậm chí khi gặp Mến, cô sinh viên không bao giờ đánh phấn của đại học Y, Dược; thì, anh em không ai bảo nhau, lại cùng mê nàng một lượt.

            Mến có lần tâm sự với bạn thân:

            "Thật khổ cho tao: chọn một, thì tao biết chắc sẽ có một gia đình êm ấm; với người chồng thi gì cũng đậu, làm gì cũng xứng đáng hết. Nhưng tao còn trẻ, việc lấy chồng còn xa xôi; mà, ngay trước mắt lại có một người yêu lý tưởng, một người yêu quàng tay dạo phố; tao biết chắc không thiếu gì có đứa ghen tức, thèm thuồng. Băn khoăn quá, có lần tao đem đồng tiền xu mang hình cụ Diệm để xin 'âm dương' -- ngửa chọn anh, xấp chọn em; sau lại sợ, không dám..."

            "Thì mày chỉ việc nhận lời tên nào nói trước" -- lời đứa bạn thân.

            "Nhưng, chưa có tên nào nói cà".

            Đúng như thế, Phúc Hên không nói, Phúc Em không nói. Thâm tâm, anh nào cũng yên chí Mến ngả về mình nhiều hơn. Cả 2 anh em đếu không nói ra, hình như họ quyết định nhường cho nhau.

            Một người bạn là cấp trên có dịp được nghe Phúc Em phân trần:

            "Những kẻ đọc sách như tôi, nước ta không thiếu; mà thiếu những người như anh tôi. Đối với tôi, may có điều kiện học thêm, cũng đậu được cái bằng tiến sĩ, kỹ sư; rồi về nước, gặp hoàn cảnh thì tôi cũng có thể làm đến tổng giám đốc một xí nghiệp nào đó. Chỉ thế thôi, trừ phi tôi lao vào chính trị, cũng lừa lọc, gian dối như ai; hẳn là cũng có thể có một chân trong chính phủ... Còn anh tôi thì khác, đầu óc thực tế hơn, có tài tổ chức, lại chỉ huy vững vàng. Anh có đủ khả năng tự bảo vệ, đủ khả năng tấn công bất cứ ở đâu, lúc nào... nhất là trong công cuộc cải tạo xã hội; chúng ta cần đến hạng người có khả năng lôi cuốn nhiều người khác; hạng người tin tưởng vừa phải vào công lý; mà, cũng tin tưởng vừa phải vào sự thật."

            Rồi không biết liên tưởng thế nào, Phúc Em nói tiếp:

            "Chính anh tôi mới đáng sống; cuộc chiến còn kéo dài, chưa biết ai sẽ thoát được. Nhưng, nếu tôi có quyền gì, tôi sẽ nhường sự sống cho anh ấy. Anh ấy đáng được hưởng hạnh phúc."

            Câu nói cuối cùng kỳ lạ, có thể là lời nói gở; Phúc Em gặp nạn sau đó ít bữa.



            ***

            Vảo một buổi chiều vần vũ, trần mây thấp, gió mạnh; có một phi tuấn A-1 trên đường về; lại chỉ có 2 chiếc tàu của anh em Phúc. Tàu tránh mây đen phải bay thấp, giữ bình phi dưới 3000 bộ. Phúc Hên gọi em:

            "Lốc Đen 2, đây 1, trả lời".

            "1, đây 2; nghe anh 5/5".

            Tiếng cười ngắn trên làn sóng, đoạn:

            "Phúc coi chừng, chúng mình đang bay trên đất địch".

            "Lốc Đen 1 yên chí lớn đi... mấy thằng tay mơ không dám để lộ mục tiêu đâu!"

            "Nghe nói có SA7 tầm nhiệt phóng tay; và 57 ly phòng không đấy. Đừng khinh địch, Phúc."

            Phúc Em cười thành một chuỗi dài:

            "Phải rồi, ông bao giờ cũng thế, chỉ lo cho tôi. Ông quên rằng địch chỉ lo nhắm bắn thằng đấu đàn".

            "Nhưng tao là Phúc Hên, tao nhiều may mắn, mày quên sao?".

            Phúc Hên bỗng khựng lại. Phi tuần có 2 anh em; mình hên thì ai xui đây? Một chút gì tê tái mới chớm lên trong lòng, đã bị đè chặt xuống; Phúc gọi em bảo sang tần số của phi tuần:

            "À này Phúc, tối nay về, đến chơi đằng Mến nhé".

            "Nên lắm, nhưng ông đi một mình."

            “Còn mày, sao không đi?"

            "Tôi hơi mệt".

            "Láo. Mày phải đến, mày không đến, nó buồn."

            "Sức mấy mà buồn!"

            "Sao lại không! Mày không thấy ư, hễ có mày, Mến tới ngồi sát bên mày suốt buổi sao?"

            "Phải rồi, ngồi suốt buổi để tập đàn mà thôi. Còn ông, cứ ra ngoài đường, ai bám lấy tay ông kè kè đấy?"

            "Thì... thì... nhưng, tao là anh, tao có nhiều kinh nghiệm hơn mày. Tao muốn mày..."

            Một tiếng cười dở dang, bỗng tắt lịm. Một lóe sáng bên cánh phải. Một cách rất máy móc, Phúc Hên duỗi chân phải, co chân trái, nghiêng một nửa thân tàu. Và liếc thật nhanh, thấy tàu Phúc Em chao động.

            "Hello... Phúc, Phúc, có sao kh... ô... ng?"

            "Có".

            Tiếng cười đứt đoạn được tiếp nối. Phúc Hên mở thắng gió, nghiêng tàu trở lại. tàu của Phúc Em chao động mạnh, làn khói đen mù mịt phun về phía sau. Nơi chân, khói lửa vàng liếm chung quanh cốc-pít.

            "Phúc, Phúc... đừng cười, tàu nổ đến nơi rồi, bấm dù mau đi".

            "Thong thả..." Tiếng cười ngắt quãng, nhưng vẫn là tiếng cười. Phúc Hên từ phiá dưới nhìn lên, hình như Phúc Em quay đầu lại tìm mình".

            "Phúc! nhảy ngay đi!... Anh bắn cô-vơ, đợi trực thăng đến bốc đi. Hello! Võng Mây, nghe thấy không? Trả lời?"

            "Đâ, Võng Mây. Tôi nghe anh 5/5, mọi chuẩn bị đều sẵn sàng. Hãy cho tôi tọa độ, tôi cho..."

            Tiếng Phúc Em cắt ngang, bình tĩnh:

            "Lốc Đen 2 nói với Võng Mây... cảm ơn bạn, quá muộn rồi. Chúng nó bắn tôi hơi đau. Pháo bắn ghế không nổ... Tôi chỉ còn 1 tay..."

            Đoạn, bất thình lình:

            "Anh! Anh Phúc! Địch ở 2 giờ, coi chừng... để em xuống với chúng nó."

            Tàu của Phúc Em bốc cháy phừng phừng, bắt đầu nghiêng cánh phải. Từ một khoảng rừng thưa, màu xanh tươi giữa biển cậy xanh đen, có những đốm lửa bay lên, cách quãng nhau khá xa. Tàu của Phúc Hên rung rinh, vì những tiếng nổ gần. Những đám mây nhỏ nở hoa đen trắng trước cánh quạt, bên cánh đằng sau. Đúng rồi, chúng nó phục 57 ly kiểu mới của Nga ở đây, trước sau gì cũng có anh em bị.

            Phúc Em chắc hẳn cũng biết như vậy... Nó đang lao xuống... cầu Trời cho tàu đừng nổ giữa đường. Át hẳn những tiếng lục đục, tiếng của Phúc Em nhanh và nhẹ, như vui tươi:

            "Đúng rồi anh ơi, đại bác 57 ly kiểu mới, nòng cao hơn ngọn cây... Hai thằng chập một, mấy tên áo vàng chạy như vịt. 300 bộ. Anh Phúc ơi, cho em gửi lời chào chị Mến... chị Mến..."

            Lửa đỏ tóe lên, khói mù mịt. Một người anh ngồi lặng trong tàu, chiếc tàu lượn quanh cột khói. Sáu bề im lặng, rừng già bạt ngàn. Khói tan dần. Nhìn xuống dưới, Phúc Hên chỉ thấy giữa một vòm xám đen, một khoảng đất trống ngổn ngang những mảnh vụn. Đứa em yêu quí, gần gũi đã đi rồi... Phúc Hên không nghĩ gì, không cảm thấy gì, cứ bay quanh vòng xám đen mãi cho đến khi sương xuống, như một tấm màn tang sô gai bao la phủ kín biển xanh mênh mông.

            Trong khi đó, còn văng vẳng bên tai chàng phi công thui thủi một mình, tìm về bãi đáp.

            "Hello! Lốc Đen 1. Phượng Hoàng có mặt... Đây Phượng Hoàng... chia buồn với anh. Mặt Trời biết, chia buồn với anh..."


            ***

            Tất cả anh em đều biết, dưới bề ngoài vững chắc vui tươi; Phúc Hên là người giàu tình cảm. Phúc Hên thương em vô cùng, trong tình thương có pha lẫn một niềm quí trọng rõ rệt. Cứ mỗi khi 2 anh em cãi lộn nhau về một điều gì, Phúc bao giờ cũng chịu thua. Thua là thua, trong ánh mắt của Phúc, thấy dày ngộp vui thích, hãnh diện. Phúc Em quả là con người rất xuất sắc, rất đặc biệt. Nhưng con người ấy đã đi rồi.

            Phúc Hên không ở lại đơn vị được vì anh ân hận không nguôi, chính bởi anh nêu gương, khiến cho Phúc Em vào không quân. Đủ tuổi học, thua điều kiện 'chớp' học bổng đi ngoại quốc thì nó làm sao mà chết được... Càng nghĩ, Phúc Hên càng thấy trách nhiệm quả là lớn lao, đâm ra oán giận luôn những con tàu săn địch. Anh không muốn ngồi trong phòng lái, không muốn đến gần, không nghe nói. Chuyến bay nào cũng trở thành miễn cưỡng, tuy anh không muốn rời bỏ nghề bay. Chỉ còn cách thuyên chuyển Phúc Hên sang một đơn vị vận tải nặng.

            Với chức vụ hiện tại, Phúc Hên rất ít khi phải đích thân lái tàu, trừ trường hợp khẩn cấp là thiếu hoa tiêu nhiều quá. Như đã xảy ra, nhân vụ lụt năm xưa. Bao nhiêu máy bay có thể cất cánh được đều bị bộ tổng tham mưu trưng tập để chở thóc, gạo, cơm sấy quần áo, chăn màn ra miền Trung. Cho nên đến lượt Phúc Hên phải lái chiếc tàu phản lực Boeing727 chở một phái đoàn đi ngoại quốc 24 giờ, rồi trở về ngay.

            Phúc Hên lãnh đạm lên tàu, chuyến đi không có gì trục trặc. Chuyến về, có mấy cô tiếp viên nữ bên dân sự đi nhờ, và được trưởng phái đoàn thỏa thuận. Chiếc máy bay Boeing 727 tới phi trường Đài Bắc khỏang xế chiều, rồi qua Hong Kong đậu lại khoảng 10 tiếng đồng hồ. Lên đường trở lại vào nửa đêm, Phúc Hên nói với trưởng phái đoàn:

            "Gần sáng tàu về đến Saigon."

            "Sao lâu quá thế."

            "Vì bay trên lộ trình VIP bảo đảm an ninh 100% cho hành khách. Chúng tôi men xa ngoài mặt biển, ra khỏi tầm của bất cứ loại vũ khí nào của địch, dù là thật hoặc phỏng đoán."

            "Thế các máy bay bay đường quốc nội, thì sao?"

            "Cũng thế, từ Đà Nẵng hay Nha Trang thì bay thẳng về phía Đông 50 cây số, rồi mới quay mũi xuống phía Nam."

            "Còn những tàu khác, ví dụ như tàu tiếp tế ra ngoài Trung, nếu phải đi vòng chẳng hoá ra phiền phức, tốn phí lắm sao?"

            "Thưa, không phải vậy, tàu thường đã có một hành lang an toàn được định sẵn. An toàn tương đối thôi và cũng thay đổi luôn, tùy theo hoạt động địch quân ở dưới đất."

            "Người ta đi được, mình cũng đi được. Nếu tôi không nhầm thì loại tàu này có thể lên cao 35 ngàn bộ; không lẽ bay trên không phận của mình cũng sợ hỏa tiễn SAM sao? Yêu cầu trung tá cho tàu đi theo hành lang đã đượic xác định."

            "Thưa, tôi không được quyền, trừ phi cụ ra lệnh. Tuy nhiên, tôi sẽ hỏi ý kiến Saigon."

            "Vâng, tôi ra lệnh."

            Saigon đồng ý, Phúc Hên cũng thấy vui vui. Ai bảo 'mấy ông già làm lớn thì đều nhát như thỏ đế'. Mấy người trẻ họp nhau vào bàn tán trong căn phòng nơi cuối tàu. Họ tự giới thiệu:

            "Tôi là Loan."

            "Tôi, Thu Thủy".

            "Quỳnh Châu quận chúa", một giọng vui cười tiếp theo.

            "Quận chúa?" tôi nhớ ở đâu đó, có một cửa tiệm bán toàn hàng đắt tiền mang tên Quận chúa. “Cô Quỳnh, có phải..."

            "Không phải đâu! Ba Quỳnh là công chức, mẹ Quỳnh ở nhà săn sóc các em."

            "Đúng thế đấy -- giọng vui cười giải thích -- Quỳnh Quận chúa, bởi vì... đó là một quận chúa."

            "Cô Quỳnh, người Huế, sao?"

            "Sai rồi! nghe một lời nói trong suốt pha lê, cũng đủ biết cô Quỳnh ra đời trên bờ sông Nhị. Các cô để tôi đoán về cô Quỳnh này nhé... tôi vừa thấy cô Quỳnh đi từ ngoài vào. Thân hình này, dáng đi ấy thật quí phái!... Có phải vì thế, cô Quỳnh được 'phong làm quận chúa', phải không?"

            "Đúng, đúng vậy đấy!"

            "Thế còn anh, tại sao họ người gọi anh là Phúc Hên? ộ anh nhiều may mắn, lắm sao?"

            "Vâng, tôi có nhiều may mắn thật đấy, quả là nhiều ..."

            "Nói dại, có lần nào anh gặp nạn suýt 'toi mạng' không?"

            Câu hỏi giản dị, bình thường nhưng khiến làm cho Phúc Hên đứng dậy khẽ gật đầu, rồi lầm lũi mở cửa phòng, đi lên phái trước. Tĩnh Thúy, nữ tiếp viên chính tàu này, cô không muốn để buồn cho mấy người bạn mới, trả lời thay cho Phúc:

            "Sự thật là 10 năm lái tàu chiến đấu, hơn 2 năm lái tàu vận tải; trung tá Phúc chưa gặp một khó khăn nào đáng được gọi là nguy hiểm cả. Nhưng chị Quỳnh hỏi, làm anh ấy nhớ lại một chuyện buồn. Ấy là người em anh ấy, phi công chiến đấu, cấp bậc hoa tiêu thiếu tá, nickname Phúc Em. Hai người cùng bay một phi tuần, địch quân ở dưới bắn lên thì tàu thiếu tá Phúc bị trúng đạn. Có lẽ người anh tưởng mình bị cướp hết may mắn, nên người em mới tử nạn."

            Tĩnh Thúy nói về Phúc Hên có phần đúng. Hai hàng hoa tiêu cùng bay; mà, may mắn đến thật cho nhiều người; rủi ro đến cho ai đây? Trung tá Phúc thừa hiểu sự sống chết con người, dù là phi công, không thể chỉ do may rủi mà thôi. Một thợ máy giỏi, tận tụy tất nhiên thận trọng từ đích thân anh ta không bao giờ có thể lơ là; thì mới là yếu tố quyết định về mạng sống cho một phi công bay trên phu vụ -- thật ra thì cũng còn điều kiện khác nữa.

            Ví dụ như Phúc Em, sao nó luôn nói đến cái chết? Đành rằng thích học triết, không phải vì thế mà mỗi khi gặp bạn vừa ý là cùng nhau thức sáng đêm bàn chuyện linh hồn. Mà, cũng phải nhân là 'nó nói thật hay, làm người nghe vui thích theo dõi những ý tưởng thật khô khốc'.

            Có lần Phúc Em đi chơi về, dựng người anh đang ngủ phải bật dậy, để nghe:

            "Tôi vừa đến ông Hậu về. Ông ơi, ông hãy nghe tôi hỏi đây, nhớ trả lời cho kỹ: 'nếu tự nhiên ta mất luôn cả tai, mắt, mũi, miệng và cả tay chân thì sao nhỉ?'-- ông trả lời xem sao?"

            "Ô hay! Thì còn lại một cục thịt chứ sao?"

            "Nhưng, nếu mới ra đời đã vậy; thì sao đây. Không nghe, không biết có tiếng nói, không nhìn, không biết có hình ành, mầu sắc; cũng không thể sờ mó, không thể xê dịch; hẳn là không thể biết có ngoại cảnh. Như vậy thì 'liệu cục thịt có linh hồn không'."

            "Có chứ, ít ra cũng biết nóng lạnh, khô, ướt. Nếu cần ăn thì biết no, đói; nếu cần ánh sáng và không khí; thì vào chỗ tối tăm, ngột ngạt, nó sẽ chết dần. Trước khi chết, chắc chắn nó quằn quại, đau đớn."

            "Đúng! Và, đó là một thứ linh hồn, một phần của linh hồn. Bây giờ, tôi hỏi tiếp 'nếu người ta bỏ một đứa bé ra đời ở một nơi vắng vẻ; không cho nó thấy bóng một đồng loại nào. Thì, nó sẽ ra sao đây?"

            "Thì... thì nó cũng như một con vật: không biết nói, không biết viết, không có kinh nghiệm gì về loài người, qua mấy nghìn năm; cũng không biết tránh mưa nắng, không biết cày cấy."

            "Nếu có vợ, cũng y như nó, thì sao đây. Liệu có con? Nó có thương yêu không?"

            "Chắc là không rồi. Nó không thể có ý niệm gì về vợ, con. Trong khi đó thì thương con, yêu vợ; là điều những đứa trẻ mới lớn được dạy dỗ, được đối xử; thấy người và việc quanh mình; và, đọc trong sách vở... Nó cũng không nhớ được lâu; vi, muốn nhớ phải biết gọi bằng tên; phải biết chắp nối được nhiều hình ảnh có tên, thành một chuỗi dài sự kiện có ý nghĩ, có tác dụng. Là quá khứ. Như vậy, giá nó đang ở với vợ con; rồi bị đưa đi chỗ khác, gặp người đàn bà và đứa trẻ khác; nó có thể nhận ra ngay là vợ con nó..."

            "Trừ phi nó đánh hơi mà biết; có phải vậy không? Nghĩa là: nó lại có thêm một phần linh hồn. Biết kiếm ăn, biết giao hợp để sinh sản... biết chạy trước lửa cháy, biết sống thành đàn; còn biết tranh nhau chức 'chúa tể' nữa. Đó là một thứ linh hồn hoàn toàn được cấu tạo thành, bởi những tin tức, do giác quan cung cấp. Xong rồi! Bây giờ tôi hỏi ông... xin ông nhắm mắt lại rồi hãy trả lời -- nếu bất thình lình thân thể ông tàn rữa đi hết mà, ông vẫn còn sống, ông còn thấy được những gì?"

            "Còn những kỷ niệm, kỷ niệm về quá khứ, về người thân, về công việc..."

            "Nhưng nếu không còn khối óc, không còn tai, mắt; ông sẽ không giữ lâu được kỷ niệm về hình ảnh, về tiếng động, ông sẽ quên hết nhiều thứ một cách nhanh chóng..."

            "Rất có thể vậy. Dầu sao tao cung còn giữ được kỷ niệm về những gì hoàn toàn trừu tượng. Trước hết, kỷ niệm về tình cảm; dù yêu, dù ghét. Thứ 2, kỷ niệm về những điều mình hiểu biết. Thứ 3: khả năng nhận thức và, động cơ của sự nhìn, nghe, ngửi."

            "Đúng! Đó là một phần nữa của linh hồn. Phần cao nhất, phần của riêng loài người. Khi người ta chết đi, phần linh hồn rời thể xác, bay lên cao, tìm đầu thai vào những đứa trẻ mới ra đời. Hoặc giả vào các loại muông thú, làm cho chúng nó tinh khôn hẳn lên. Nhưng nếu không có bàn tay dụng cụ, không có sách vở, cũng đành chịu thôi."

            Phúc Em ngưng lại, đoạn sau có một phút suy nghĩ, bỗng mơ màng, nói tiếp:

            "Loài chim là loài vật thông minh nhất, hơn cả loài người -- ông Hậu bảo thế -- nếu em chết, em sẽ đầu thai vào một con chim; một con chim thật thông minh, thật đẹp."

            Một kết luận bất ngờ làm cho Phúc Hên vừa ngạc nhiên, vừa tức bực. Anh gắt lên:

            "Mày ngu như con bò. Phần linh hồn sau cùng làm gì có mắt; để cho mày chọn con chim kia chứ?"


            "A ha! anh nói phải, chắc hẳn lúc bấy giờ linh hồn ấy mất mọi giác quan cụ; tất phải có một khả năng nào mới, để nhận biết chung quanh một cách khác hẳn người sống. Phải có thế, mới đầu thai được chứ!"

            Rồi thêm một câu bất ngờ hơn cả:

            "Giá mình làm thế nào thử được, nhỉ? Anh Phúc, anh có nhớ các cụ ngày trước hay nói đùa: 'hễ chết thì về cù chân nhau'. Em chết, em sẽ về cù chân anh."



            Phúc Hên chưa muốn làm công việc nào rõ rệt. Anh vẫn ở trong hàng ngũ, vẫn ngồi trong chiếc ghế lái êm ấm này.

            Đêm về sáng mùa mưa, ngoài trời đã có sa mù thoang thoảng. Phòng hoa tiêu hoàn toàn im lặng, không nghe tiếng gió, cũng không nghe tiếng máy. Phúc Hên rất bình tĩnh quay qua nhìn hoa tiêu phụ đang ngủ say, miệng ú ớ gọi tên một người con gái. Anh giảm bớt ánh sáng từ ngọn đèn trên trần buông xuống, một tay móc bật lửa. Ngọn lửa tóe sáng, anh nghiêng nghiêng cúi đầu.

            Nhưng... quái lạ! Có một cái gì như bóng trắng thấp thoáng. Phúc Hên tưởng mình bị hoa mắt -- khi nhìn lên, quả thật phía trước tàu có những vệt loang loáng như cánh chim vỗ lẫn vào sương sa. Phúc Hên nhắm mắt, đếm đến 10; mở mắt ra, vẫn thấy in như cũ. Và, thấy càng thêm rõ.

            Một con chim trắng vỗ đôi cánh rộng mênh mang lên xuống thật nhịp nhàng. Chim gì? Sao có thể vô lý như thế? Con chim cất từ không trung lao xuống; đạt được vận tốc 400/cây số giờ; chỉ cần trong khoảnh khắc mà thôi. Loài chim cánh dài bay được xa, lượn giỏi; không con nào vượt được cây số, giờ, đường trường. Con tàu này đang đọ bình phi, vận tốc không dưới 900/cây số giờ... Phúc Hên dán mắt vào đôi cánh, nghe trong lòng một trạng thái mời gọi cuốn hút kỳ lạ, vui tươi... như vui tươi, như tha thiết.

            Chàng hoa tiêu nhóm lên muốn rời khỏi ghế, tiến tới; nhưng nhớ đến con tàu. Không quay lại, chỉ đưa tay nắm lên đùi hoa tiêu phụ:

            "Hoành, Hoành! Dậy mau, đi."

            "Cái gì thế?"

            Hoành chồm thân người về phía trước, cánh tay phải đưa lên giụi mắt:

            "Con chim, cậu có thấy con chim không?"

            Hoành vừa muốn hỏi con chim nào thi đôi cánh trắng đột nhiên chao, chúc xuống. Phúc Hên mở 2 mắt lớn, đưa mạnh cần lái về phía trước, đạp chân bên trái. Con tàu đổ theo cánh chim, Hoành giật mình, 2 tay vồ lấy cần lái, kéo trở về:

            "Ông, ông làm gì thế?"

            Tiếng hỏi chưa dứt, trong khoảng không, một khối đen lao tới, cùng những thấp thoáng xanh đỏ, trắng ấp tới. Đoạn, vút cao lên. Rồi, đánh 'ầm' một tiếng, làm rung chuyển cả thân tàu. Nhưng chỉ thế, rồi thôi. Phúc Hên tỉnh táo, lấy lại quân bình dễ dàng.

            Một người trẻ, quấn áo bảnh bao, hé cửa; hỏi:

            "Có gì thế, các ông? "

            "Chúng tôi cũng chưa rõ. Có lẽ tàu gặp cơn lốc nhọn, cũng có thể không phải vậy. Để ông Hoành về phiá sau, xem sao."

            Tĩnh Thúy đứng sau chàng trai vừa cất tiếng nói:

            "Đằng sau vẫn yên, chỉ ly chén đổ lung tung. Hình như đuôi tàu đụng hơi mạnh. Anh Phúc này, đèn tê-moanh ra sao anh?"

            "Không có gì, 3 máy đều, lái đuôi vững. Không hiểu... không hiểu tàu đụng phải cái gì. Biết đâu một SAM trúng vào, mà không nổ.”
            Người trong tàu không thể nào hay biết được, nhưng viên sĩ quan vô tuyến giao liên đã biết:

            "Anh Phúc, tôi vừa bắt được tần số thằng Jack của bạn nước vĩ đại cho biết, 'nó vừa sát nhẹ vào một phi cơ ngược chiều; sau khi thoát khỏi đụng thẳng mặt. Nó nói ra-đa của nó nhận ra thì quá muộn; trong khi tàu trước mặt đã chúc xuống về phiá tay phải nó, vừa vặn kịp. Nó hỏi 'có sao không'; nó đang bay vòng lại, bay ở cao độ 40 ngàn bộ; nó hỏi ta có can gì không; để nó còn báo về Cam Ranh... nó còn nói 'ta 'năm-bờ-oăn'."

            "Mẹ nó, cậu hỏi tại sao nó đi vào 'way' này?"

            "Nó xin lỗi, nó nói 'cao độ kế' của nó bị hư'."

            "Mẹ nó, cậu cho nó biết 'chúng ta 'ô-kê'; trừ những hư hại có thể đến sau."

            Vừa lúc đó, Phúc Hên ngước mắt nhìn, thấy đèn sáng của chiếc khu trục.

            “Cậu bảo, "ta tha cho nó, đi đi. Nó có theo mình cũng vô ích, lần sau thì tôi đập vỡ mặt nó ra."

            Chuyến bay tiếp tục; mọi người vây quanh hoa tiêu. Hỏi, 'tại sao anh tránh kịp?' Nhưng anh chỉ mỉm cười, yên lặng, xa vắng; cho đến khi Tĩnh Thúy nói một câu thật chính xác:

            "Thì anh ấy là Phúc Hên, Phúc Hên mà!"


            ***

            Sáng hôm sau, Phúc Hên về đến nhà. Ăn điểm tâm xong, ngồi hút thuốc lá ngoài hiên, nghe Mến kể:

            "Lạ lắm anh, anh đi rồi thì có con chim trắng đến đậu trên hàng rào. Em đuổi, nó không bay đi; mà, em nói cái này, anh đừng cười em nhá... Em đến gần con chim, xua nó; nó không sợ; hình như nó cón ngoẹo cái đầu; rồi nhắm một mắt lại; y hệt chú... y hệt chú Hai trước kia, hay trêu em đó..."

            Phúc nhảy một bước xuống sàn, nhìn quanh quẩn, hỏi: 'đâu, nó đâu rồi..."

            -Anh trung tá Soạn bảo, 'nó là con 'mố', giống nó ở biển, khi vào đất liền là xui lắm, lấy súng bắn nó. Bắn hụt hoài, hình như nó có vẻ quyến luyến nhà mình. Nhưng săn nó mãi rồi nó cũng bay đi luôn. "

            "Mẹ nó, thắng khốn nạn!"

            Mến ngạc nhiên, qua câu chửi rủa quá nặng. Nhưng nàng vẫn không ngạc nhiên bằng việc thấy Phúc nói, 'xin giải ngũ, rồi bán nhà, ra biển lập nghiệp, để mỗi buổi cho chim ăn... như cố tìm lại 'một con chim biết nhắm một mắt, ngoẹo đầu' -- là cố tìm thấy dấu vết người em thân mến xưa kia...

            Nguyễn Mạnh Côn
            (trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)

            Comment


            • #7
              Thơ Trần Văn Minh




              thủ bút và ảnh (dưới, trái): Trần Văn Minh
              ảnh (trên): Nguyễn Mạnh Côn + (dưới, phải): Toàn Phong




              Cơn đau tình dữ dội của anh phi công già


              Điệu 1
              lỡ phú lỡ thơ lỡ nói lối


              Thôi thế là cuộc đời tình ta không qua đúng con trăng này
              Ta đi đây
              Trả lại cho em cinémas tối mò mặc tình sờ soạng,
              party cuồng loạn đùi bụng hở hang,
              xa lộ không đèn, cùng cóc nhái
              có những bàn tay thư sinh ngượng nghịu
              nhưng làm liều chụp đại
              và miệng môi nham nhở của những thằng đàn ông mặt trơ
              trán bóng sồn sồn ẩu xị đớp càn

              Ôi ta đi đây
              Đàn bò vô kỷ luật của sư đoàn vẫn lang thang nhởn nhơ
              gặm cỏ
              cỏ xanh mượt đầu mùa năm nay về sớm
              đất Tân sơn [nhất] có tiếng động cơ phản lực
              gào rú hằng đêm và một trái tim cằn thoi thóp

              Ôi! Em! Ta đi đây
              Giậu hoa móng tay, hàng chuối dại, có đêm buồn trong
              ánh đèn thủy ngân phòng thủ mặt xanh xao,
              hoa và chuối thì thào kháo chuyện
              "chàng và nàng đã đến" những đêm nào xưa cũ
              mà giờ đây buông lời thở than tội nghiệp
              "ôi! Con nhỏ nó đã bỏ ông già"
              Ôi! Ai đã bảo với ta là ái tình không tuổi tác
              Ôi! Ai đã dối lừa ta

              Con ngựa già làm sao mà kéo xe lên được dốc
              Con cọp già dù là cọp thần 516 năm nào
              còn tung hoành phạt Bắc mà bây giờ đó, ôi bây giờ
              cũng đành nằm xuội lơ cán cuốc mũi dãi lòng thòng

              Ôi! Ta, anh em ta những thằng già đèo một dội
              leo còn thẳng cẳng ngất ngư, làm sao trèo được
              ba bốn dội mà đèo bòng

              Ôi! Ta, anh em ta hoa tiêu già phi đạo xi măng mênh mông
              dài nhất nước mươi mười lăm ngàn bộ cất cánh đã
              rung chưn, đáp còn muốn hụt, làm sao mà hành quân
              sân cỏ ngắn, cứ tưởng mình tài.
              Ôi! Em! Ta đi đây
              Đời em còn dài
              thật là dài
              mà đời ta đà xế bóng

              Em bỏ ta là vừa
              Em bỏ ta là phải

              Mai đây xen em đêm nào mùa mưa này
              mưa ngoài trời và mây mưa trong phòng
              trong vòng tay kít-tô thằng cà-lơ nào đó
              xin em xuýt xoa thảng thốt gọi tên,
              oh! Pà pà pàpa
              chỉ một lần
              dù chỉ một lần
              cũng đủ cho ta đỡ hận cái vong linh

              Ôi! Em! Ta sẽ về đó
              ta sẽ về đó một mình

              thăm hàng chuối dại, thăm giậu hoa móng tay
              ta xách nước ta đun là ta xông nắm cỏ tương tư
              trong thoang thoảng dư hương ngày xưa cũ
              mà nhai lại cái thời ta đã cùng em
              cái thời ta những tưởng la thời ta oanh liệt.

              Trại Phi Long TSN
              31-3-1974





              Khi anh phi công già tưởng bở

              Điệu 2
              văn chẳng thành văn cú không ra cú



              Sách có chữ: Mình giây thầy cơm

              Ăn hoài không biết chán, càng xơi càng thấy ngon mồm,
              mới thời xong lại muốn còn thực nữa
              Ôi cái lực xực của anh mình giây thì biết mấy cho vừa
              Sớm trưa chiều tối liên tù tì đêm 7 ngày 3 vẫn
              còn chưa thấy đã, ý là không kể bữa vào lại với bữa ra

              Từ đó mà nghiệm cổ chiêm kim, bàn cho rộng, tán cho xa
              ắt ông Hạ Hầu Đôn xưa và chàng Lào Ái hẳn là
              thuộc týp mình giây

              Sách lại chú: Chớ có bé cái nhầm mình giây lai với mình gầy
              Vì hiểu bậy mà lắm anh phi công già toi mạng
              Mình thì gầy lại cứ tưởng bở mình: mình giây nên cứ lang bang
              thành đành lìa xa cõi thế gian mà ngao du ở chỗ suối vàng

              Ta, phi công, dọc ngang trời đất
              tối ngày đáp xuống cất lên
              nào hành quân quánh giặc
              nào huấn luyện duy trì khả năng
              nào đáp sân này nào hạ cánh sân kia
              dù ngắn nhỏ ta trăm thứ hằm bà lằng

              Mà mần răng bay bổng luôn luôn
              hết lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên
              xuống xuống lên lên cứ như chày giã gạo
              người không thì giờ đổi áo
              tàu chẳng kịp xả hơi
              có nghỉ có ngơi chăng là để châm xăng chế nhớt

              Không thể ỷ mình con to xác lớn
              nên khi tàu nghỉ
              mình cũng phải ngơi
              kiếm cái gì mà xơi mà xực

              Chữ rằng: Phải có thực mới vực được đạo
              cái đạo phi hành
              Muốn lên cao lên nhanh có cái gì dằn cho chắc dạ
              nhưng khốn nỗi lương, tiền đồng thì 3 cọc, cũng chỉ có 3
              hóa cho nên suốt đời coi chẳng giống ai
              vác cây chổi ráng hình cụm lão mai
              người thì ốm nhom lòi 2 con mắt
              ốm thắt 3 sườn
              ốm giương xương sống
              ốm cà tong cà teo
              bèo nhèo bạc nhạc

              Vậy mà
              Gặp mỡ không tha gặp nạc cũng không tha
              Gặp gì không bỏ gặp nhỏ cũng na
              Thậm chí chỉ xương với da
              có cũng làm tuốt luốt

              Ôi buồn lắm, buồn lung lắm, anh phi công già ơi!
              Lóp ngóp bơi trong áo rộng thùng thình
              lại cứ tưởng rằng mình bảnh, mình chi rằng đích thực
              mình giây
              Cho nên nó mới ra cái nông nỗi này:
              Nhác xem phi lệnh có tên đà run như cầy sấy
              vừa mới thấy có mang: nào bom, nào hỏa tiễn,
              nào đạn ca nông
              không rét sao mà chưn lẩy bẩy
              gặp ai cũng ỉ ôi năn nỉ: Mầy, mầy đi giùm tao
              dù vẫn biết chẳng thằng nào nó khứng
              đành nai lưng mũ vác mũ ra tàu
              nhớ anh cơ trưởng ảnh bế ảnh bồng ảnh thả
              vào trong cốc-pít
              mặt nạ dưỡng khí mang vào thì hì hà hì hít
              hít thật nhiều vì cảm thấy thiếu hơi

              Nhưng khi cất cánh lên trời là lấy lại ngay phong độ
              con cọp có già vẫn là Ông cọp
              anh phi công già khọm vẫn là anh phi công
              anh dũng gồ ghề
              7 chữ liệng bom, 8 nghề bắn súng
              anh cũng nằm lòng, nào có kém chí trai
              cũng trở cũng xoay cũng nhảy củng nhún
              cũng bóp cò bắn súng tùm lum
              đôi khi còn quánh cho mấy pát bom chùm
              [địch] hùa nhau xí lắc lẻo, ngủm cù đẻo, kéo nhau
              khơi khơi đi
              miền xa biên giới
              Phòng không anh cũng chơi
              giao thông hào anh cũng chọi
              xe tăng xe tiếc mọi thứ anh cũng mần

              Anh nào có kém chi đâu đàn hậu tấn,
              lại có phần hơn là cái phần anh chính xác

              Nhưng
              cái buổi hậu phi mới biết đá vàng
              bước xuống thang là anh muốn té
              ngũ chi ê ẩm, mặt mày xây xẩm, đầu gối lỏng le
              không phải xì-ke mà cứ như anh xì-ke thiếu thuốc
              mắt hoa đầu buốt trời đất cuồng quay
              đi khám định kỳ ắt phen này i-náp

              Anh phi công già ơi
              người ta trung bình ba mình đà 6, 7 ngàn cái đáp
              nghèo chớ có mà ham, của trời cho, thì đâu có đấy
              mình già mình lại đói thì mình gầy
              Phải biết cái thân phận mình gầy
              chớ có tưởng bở rằng mình mình giây.

              Mười 1974

              Trần Văn Minh

              ----------------------------------
              Vài dòng tiểu sử:
              Sinh ngày 20 tháng 7 năm 1932 tại Bạc Liêu.
              23 năm lính, 21 năm phục vụ trong Không quân [VNCH], ngành phi hành, chỉ số 0001. Nhiều phen suýt được truy thăng cấp lẫn cấp đẳng Bảo quốc Huân chương.
              Tác phẩm đã xuất bản:
              - chết non (tập truyện, 1967, tái bản 1974)
              - trong đục (tập truyện, 1973)
              Đang viết:
              - một tập văn - để cùng cười với các chiến hữu phi công gìa sắp về vườn.
              Thơ trích tuyển:
              - Cơn đau tình dữ dội của anh phi công già... (tr. 90)
              - khi anh phi công già lại gầy tưởng bở ... (tr. 91- 95)
              (tr. VIII cuối sách)

              (trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)
              Last edited by chieutim; 11-09-2016, 11:04 PM.

              Comment


              • #8
                Nhớ lại một vùng trời

                Nhớ lại một vùng trời
                ~~~




                Thủ bút, chữ ký và chân dung Mai Thảo
                Trang 529, TẬP THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN (Saigon, 1974)


                Mười năm trước đây, ở một nửa đêm về sáng lất phất mưa bụi, tôi đã bước lên một xe nhà binh, giã từ Hà Nội, vượt qua Hồng Hà. Để từ vùng lạt sạt ẩm ướt của cỏ sớm nơi phi trường Gia Lâm còn nhòa nhạt trong biển sương mù trắng xóa, làm một người lữ hành của một chuyến bay lên vùng trời đất nước mênh mông. Tôi đi, đi suốt mấy ngày ngàn cây số, đi từ những tia sáng lung linh những vì sao cuối cùng đang rụng xuống một tàn đêm miền Bắc, đi tới cái chói chang của nắng lớn miền Nam.

                Nhớ đêm đó, tôi không ngủ được. Như Hà Nội của 5 cửa ô và 36 phố phường bồi hồi không ngủ. Như những con sông chở lũ ngàn tháng 8 của Hồng Hà, những con sóng ấy nức nở dưới chân cầu, khi 10 bánh nặng nề của chiếc xe vận tải bít bùng thả hết tốc lực băng qua. Như những thân cỏ xôn xao, [âm thanh ồn ào] không ngủ của một phi trường Gia Lâm đã thức với những chuyến bay 5 phút một lần, và những giàn đèn trần truồng chiếu giải xuống khuôn mặt trầm tư của tôi, phút ôm va-ly ngồi trong phòng đợi.

                Đêm lên đường, người ta không ngủ được, những đêm khởi hành đó của người Hà Nội 1954. Hiệp định chia đôi đất nước. Vĩ tuyến 17 nghe thấy và nói tới lần đầu tiên. Miền Bắc chỉ còn là một sự chuyển động bạt ngàn của một chuyến đi lớn. Hằng hà sa số đàn bà trẻ con, ông già bà lão, những người mẹ tay bồng tay bế, những người chị đầu đội, vai gánh, lũ lượt, bất tận, dằng dặc, từng xâu, từng chùm, từng dòng, từng đợt, điệp điệp, trùng trùng, đêm ngày mai miết, từ những hình bóng li ti chân trời, tới những hình nét cận ảnh sát mắt, luôn luôn nối nối, vần vũ, chuyển đi. Sống hết mình với những dấu chân thi nhanh với thời hạn, đuổi gấp những chặng đường, để đến một Hải Phòng, một phi trường. Một triệu bước chân. Tôi là một những dấu chân một triệu. Tháng 8 1954 và tôi là một trong cái biển di chuyển họp lại từ muôn vạn nhánh của lớp công dân Việt Nam đổi đời, khởi từ thay đổi một vùng trời không thở được thứ không khí nhiễm độc của nó nữa. Mười một năm nay, bây giờ hồi tưởng lại. Đêm vượt Hồng Hà, đêm tới Gia Lâm, đêm mượn những đồi cỏ bồng bềnh của phi trường tảng sáng như một bàn đạp xanh biếc làm sức đu đẩy bay lên; đêm đó không hề được sống trong tôi bằng những xúc động lớn. Một đêm của cả một đời người? Một đêm của một chói sáng ý thức vĩ đại? Khẳng định chỉ là giả dối. Trong đêm đó thật ra chỉ thấp thoáng những lén thầm, những xao xuyến của một tâm sự riêng tư vật vờ. Đành rằng là cấu thành nhiều chia sẻ đau đớn của một lựa chọn. Nhưng đừng có phóng lớn cái gì ở hiện tượng phát sinh chỉ có một kích thước tầm thường thu nhỏ. Hành động mưu sinh thường nhật nào chẳng chuyên chở và hình thành trong nó bằng và từ một lựa chọn? Đêm giã từ Hà Nội, tôi chưa biết yêu miền Nam. Tôi mang cái tâm trạng hoài nghi của kẻ vô thần thiếu vắng niềm tin thần thánh không lay chuyển, không đổi dời ở một đất hứa bông hoa, nơi người lữ hành dừng lại, cắm xuống một cái cọc đánh dấu chỗ nẩy mầm nhánh sống ngày tới, ở lại đó, và làm lại cuộc đời.

                Tôi không nghĩ tới kết thân vĩnh viễn được với Saigon, bằng thứ tâm hồn nhão mỏi, nhiều nếp nhăn của phần đời còn lại. Cho nên đêm đó, đêm thiên đô, lên đường đã thiếu vắng thứ ánh sáng rực rỡ của ý thức. Chỉ là một trận mưa tình cảm ướt sũng, tăm đẫm cái vũng tâm sự lướt thướt, những sầu nhớ cái phải chia lìa, cái phải đoan tuyệt. Rời Hà Nội miễn cưỡng, nghe sự xa như một vách núi âm u cao ngất đội đập lại não nùng những vang ngăn không cùng của một mất mát xót đắng. Chỉ như thế. Có thế đấy mà thôi.

                Ngồi trong phòng đợi, như phút ra khỏi căn phòng gác thấp ở phố Mã Mây tôi ở từ những ngày tháng học trò, như lúc xe lăn trên dốc Long Biên, xe băng qua Sông Cái, như lúc đang chôn chân trên cái xôn xao bồng bềnh của bãi sớm phi trường, trước mắt nhìn lên vòm trời Hà Nội, chỉ thấy thân thể là cái lãng đãng cuối đời ấy của một vì sao đang rơi nốt cái chu kỳ rơi rụng và phai tàn của sao.

                Suy tư của đêm vượt tuyến 11 năm trước là kiểu suy tư u uất không hề một giây phút nào trao được vào lòng tay tôi chiếc chìa khóa vàng mở cho sáng choang, cho dồn đuổi được hết những ép khuôn ngột ngạt dồn nén của căn phòng tâm thức tối đặc. Chỉ là gào lớn trong trái tim một nỗi nhớ kết chùm. Chỉ là thất thanh kêu lên trong cõi lòng cái mất không lấp đầy được bằng vô thức trong hoài nghi ngày tới. Lịch sử quật đạp dữ dội vào mặt mãi là thế. Mà cũng phải sáng. Điếc cũng phải nghe. Bàng hoàng sấm sét. Ấy thế mà vuốt mặt, chỉ thấy những chuỗi kỷ niệm, kỷ niệm bằng hình ảnh, của nơi chốn quá khứ. nặng chĩu tiếc thương không nguôi khuây chút nào. Và thắp nó lên mà vượt Hồng Hà.

                Bỏ Hà Nội đêm đó, tôi đi giật lùi.

                Thay vì ngẩng cao nhìn xa để đo lường khả năng phục hồi của bản thân có thái độ với không gian tổ quốc mênh mông, từ cất cánh đến đậu xuống, tới trầm nét mặt lại, đi những bước giật lùi cho được còn đối diện với những ràng buộc đằm thắm, từng sợi, từng đốt một, rã rời bỏ lại sau lưng. Cái trạng thái khôn ngủ thở dài của kẻ thất tình.

                Hà Nội như người đàn bà mình không giữ được, chứng kiến tận mắt cái sự nó lõa thể nằm trong tay kẻ khác... Hà Nội như người yêu, che mặt bước lên xe hoa về phía bờ sông đối nghịch, và mình là kẻ bị hất hủi phụ bạc tan nát ngẩn ngơ đứng chôn chân trên cái lạnh tanh hắt hiu của bãi bờ.

                Thành tượng trên cỏ phi trường Gia Lâm chập chờn trong sương mù kín đặc, vào máy bay, và máy bay cất cánh bay lên, máy bay tới mây, đụng trời, độ cao lạnh buốt cũng không làm tôi hồi tỉnh. Mê đi. Ngây ra. Đắm chìm vào hồi tưởng, vất vả trong gợi nhớ và choáng váng trong thương tiếc. Cứ thế, suốt chuyến đi, tôi ngó đăm đăm vào tâm thức ráo hoảnh của mình treo cao thành cái kính chiếu hậu. Nó chiếu hậu một Hà Nội mịt mùng dấu tích. Nó chiếu hậu một Hà Nội đã bên này sông, đã giới tuyến chia đôi, đã những tầng mây cao xa bổng khỏi một đứa lìa dưới thấp. Hà Nội bỏ lại sao mà đẹp. Cái đã mất, mất vào cái đẹp; định lý bất biến ủa cái mất và trở thành của cái mất đó. Trong tưởng tượng lúc bay, hồn tôi mọc thành mười ngón run rẩy. Nó ve vuốt những con đường Hà Nội, rưng rưng và âu yếm lần đi trên từng gốc cây, từng mái hiên, từng chân tường, từng thước nhựa đường Hà Nội, như trên da thịt thiếu nữ một hình hài đương hoa, ngây ngất tiếp thu bằng tình yêu thứ nhất. Nó ôm lấy Hồ Gươm, vòng lấy Hồ Tây. Nó ghì nghẹt Trúc Bạch. Nó nắm chặt Tháp Rùa.

                Hà Nội trong hồi tưởng vượt tuyến, là một cuốn từ điển 1000 trang của những cái đẹp bị tước đoạt kỳ hết. Lất phất mưa tơ trên cái nét kiến trúc phong kiến cổ cũ của ô Quan Chưởng vào những tháng đầu của thủy tiên Yên Phụ và hoa đào Thụy Khuê. Phiên chợ Đồng Xuân trong đèn lửa tinh sương, ngăn ngắn xanh chảy trong văn xuôi Thạch Lam ngợi ca những kho tàng mỹ thuật của 36 phố phường mà sống là một nghệ thuật vươn tới cùng độ của tế nhị, ngọn đỉnh của chuốt lọc. Phượng vĩ chói lòa từng trưa hè Quán Thánh. Từng chùm màu đỏ trong từng ôm trời xanh. Hà Nội của ta ơi! Hàng Bạc. Hàng Đào, mái nhà cong thủng, những đời ngói cũ mặc áo rêu đầy, đựng lá mùa thu như từng nấm mộ lộ thiên rào rào cái mưa cái nắng Hà Nội, cái ấm hơi hơi của Hà Nội lập xuân, cái gây gấy vừa vừa, cái thứ xăn xăn lả tả của Hà Nội vào thu, cái lạnh ngọt che cao áo mưa nghiêng nghiêng vành mũ, xúyt xúyt xoa xoa của Hà Nội trọng đông và tiếp giáp Nguyên Đán. Chiếc đồng hồ to bằng cái nia phơi trên nóc ga Hàng Cỏ mỗi buổi tàu hảo từ Thường Tín Văn Điển xình xịch vào ga, Hà Nội ơi của người Hà Nội! Với những sướng thỏa cho khứu giác, những kỳ thú cho vị giác. Bánh tôm Cổ Ngư, nuốt vào nuốt cả cái ngon Yên Phụ. Tô cháo bò cửa trường Gia Long hút hết hút trọn cái ngon của tuổi học trò. Những sớm Hà Nội bốc khói thơm nghi ngút bằng bánh cuốn Ngõ Huyện. Những đêm Hà Nội tỏa hết cái thứ không khí bình dân thân mật giữa người Hà Nội hàng rong, từ cái nóng bỏng đầu lưỡi của một ly cà phê bờ đường Phố Mới ninh chín trên than hồng. Nam Hoa xe đạp lăn những vòng vui thú tròn đầy trên Tràng Tiền nhạt nắng. Bách Thảo tìm vào như thi sĩ, đầu tựa gốc cây khi đêm qua đã đứng cho sương ướt mái đầu cửa sổ người yêu. Bạch Mai lầm lụt từ nối dài phố Huế ồn ào. Gia Ngư như đẹp nhất của ngõ. Mã Mây như cong nhất. Hàng Bạc như xưa nhất. Hàng Giấy như ngắn nhất của đường. Lá vàng dệt chiếu hoa dẫn vào thư viện Phúc Xá như một thành phố khác dưới thấp. Hà Nội như một thôn xóm nghỉ ngơi giữa cái không nghỉ của phố phường chung quanh. Và mầu đỏ nào bằng mầu đỏ Thê Húc. Và mầu xanh nào bằng mầu xanh Hồ Gươm. Ba miền tổ quốc đất nước nằm dài 5 năm mùa thu chỉ ở riêng một vòm trời Hà Nội.

                Mười năm sau khu trục ào ạt bay ngược lại một phần của đoạn đường không gian xuyên Việt mà 11 năm trước, một chiếc 4 máy vẽ phù hiệu Hàng không dân sự trưng tập cho đổi dời lịch sử đã nhấc bổng thân thể tôi khỏi vùng trời nhiễm độc của Hà Nội trút tưới- hạt- sen cái sợ, cái chết, qua giới tuyến; lên những tử huyệt cháy bùng của hình hài địch 11 năm phây-phây yên ổn, trả đòn có phần muộn màng. Nhưng với tôi, oanh kích 1965 vẫn là một dội đáp bàng hoàng vào những đầu dây thần kinh của tâm sự tưởng đã nhận chìm vẽ lân đường 1954. Trong tôi, thoát để lại rì rầm tiếng sóng phả lên 10 bánh xe lăn qua một Hồng Hà tàn đêm. Lại gờn gợn cái cảm giác lạt sạt ẩm ướt ấy của cỏ sớm phi trường nhấc bổng bước chân đợi chờ chuyển dịch của mình. Tên mũi nhọn sáng hồng của ý thức phóng tới, giờ mới nhận thức được châu đáo đêm không ngủ 11 năm trước đêm giã từ 11 năm cũ, là khoảng ráo hoảnh của thanh bình, và thực hiện một lựa chọn dũng liệt. Cỏ Gia Lâm đêm đó qủa là những thân cỏ và những đời cỏ bàn đạp. Từ đó, tôi đã cất nổi thân thế mình bay về 11 năm sau, bay về phần đời còn lại sáng ngời lên thành một bắt đầu.

                Sinh hoạt thường nhật của tôi và những bạn hữu cùng làm nghề viết chữ, trong thứ trò chuyện cắm mốc trên hồi tưởng trong kỷ niệm, Hà Nội vắng khuất thường vẫn được nói lại nhắc tới. Vùng trời vô sản ấy trong giai đoạn phản công oanh kích hiện giờ của ta như thế nào? Mưa miền Nam vào mùa rồi, và lại thoang thoáng trước tầm mắt mơ màng, những sợi tóc những sợi tơ của trời Hà Nội thải hơi nước tầm cao thành những nghiêng nghiêng bay trên 36 phố phường dưới thấp. Phố Mới ướt át, Chợ Hôm lướt thướt chảy dài tới. Bạch Mai đầm đìa. Nắng miền Nam sau mưa dấy bừng lên rực rỡ chứa chan, lại loà lòa trong hồn lắng lắng mầu đỏ của phượng vĩ Quan Thánh mầu xanh của mùa hạ Hồ Tây, những tháng 6, tháng 7 miền Bắc bão lớn.

                Bây giờ kiềm điểm lại với nhau về tương quan tình cảm của mình với Hà Nội, đều vỡ nhẽ ra rằng trong cái hồ rung động nội tâm từng người, lượng nhớ thương ngậm ngùi cứ rút thấp mãi xuống. Phản công oanh kích. Những cái hay của vũ khí ta ngay ngày vượt tuyến. Mặt nước Bến Hải động bởi ào ạt từng đoàn lớn lướt qua. Rồi là cái ngần ngật hỏa táng của đồn trại, cầu cống đường xá địch tiếp nhận sự trả đũa của 11 năm đỡ đòn dồn cộng lại. Thời sự bốc lửa bằng những phi vụ sấm động trên đầu lại nở hoa thành những phát biểu cảm tưởng mới về Hà Nội. Vết thương cũ lành rồi. Mầu Hồng Hà 11 năm sau, sao không chảy nữa trên những đau đớn mất mát cũ của người Hà Nội vượt tuyến. Bây giờ là đo lường được tầm bay rồi lưng chừng Hải Vân qua dằng dặc Trường Sơn tới cuối đáy mênh mông. Cà Mau sóng vỗ. Bây giờ là đã nhìn thấy những rễ mẹ rễ con tươi khỏe vạm vỡ hội nhập được vào cái lớn bồng vững chãi, cái thỏa thuê tràn đầy là đời sống chúng ta trải đi, mênh mông dưới vùng trời bên này của chúng ta. Bây giờ là khoan thai và chính xác đòn trả lại đòn.

                Một người bạn mang trên tay áo binh phục hình ngọn lửa hồng của [Cục] Tâm lý chiến đã tả cho tôi về một tấm hình chụp từ mấy ngàn thước cao trên vùng trời Hà Nội xuống một Hà Nội thất kinh từng hồi còi báo động rùng rợn. Người Hà Nội trong những hồi còi gào rú trên lũ cây cối nín thở của Hà Nội trên những mái nhà run rẩy của Hà Nội, mất 11 năm sau mới phải biết thế nào là cái tâm trạng của đồng bào miền Nam thôn dã chúng ta trong những đêm phục kích, khủng bố, và tàn sát cuồng tín miền Bắc. Ghi được trên tấm hình tuần thám ấy, một Hà Nội vắng và chết. Một Hà Nội ngừng sống. Một Hà Nội thôi cười. Một Hà Nội không thể đi đứng đường hoàng ngang ngược được nữa. Mà đào những hầm sâu, cuống cuồng nhào đại xuống đó, dúm dó và co quắp lại. Tôi nghĩ oanh kích còn hàm chứa và phát hiện được cái ngọn lửa hồng ấy nhìn thấy trên vai áo người bạn tâm lý chiến, thuật tả cho tôi về Hà Nội phòng thủ và Hà Nội kinh hoàng hiện ra dưới kia; trong khoảng khắc ngắn ngủi của một phi vụ tuần thám. Như thế cho người miền ngoài như người miền trong cùng nhau nhận thức được như nhau, về thế nào là phi lý và thê thảm của chiến tranh tương tàn. Để đòi chấm dứt nó. Để trả lại bình yên cho tất cả những vùng trời tổ quốc chúng ta. Để sống còn là một nhìn lên. Để thấy tự do mình như mây trời bay.

                Hà Nội cũ ơi của người Hà Nội mới! Mười một năm sau, 5 cửa ô và 36 phố phường cũ vẫn là hình thể của kỷ niệm còn đằm đằm trong trí nhớ. Nhưng người Hà nội trong tôi, trong từng chúng ta, trong 1 triệu dấu chân làm thành ngọn triều bát ngát kín trùm cái toàn thể còn phải cắt đôi của hình hài tổ quốc; thôi đã đeo bám suy tư, và thái độ mình vào cái dấu chấm than lướt thướt hèn đớn. Gia Lâm. Phi trường ướt sương. Những thân cỏ sạt bồi hồi, và những đời cỏ thao thức không ngủ. Bước chân 11 năm cũ đặt hẫng xuống vùng ẩm lướt, mượn cái xanh biếc tảng sáng của bãi bay cũ làm bàn đạp cất bổng thân thể có lựa chọn vào đổi đời và làm lại từ đầu. Hồng Hà nức nở. Cầu Sông Cái vắt qua vùng âm thanh thao thao chảy trong đêm tàn. Hà Nội không nhìn thấy nữa. Đêm đứng trên cỏ sớm của phi trường bên này Hà Nội, tôi đến đó để đi, đã chỉ làm một việc phải. Hà Nội không nhìn thấy nữa; thì hướng tầm mắt vui thú bỡ ngỡ vào những cái đáng nhìn thấy gấp trăm nghìn lần Hà Nội bỏ lại đang nguy nga hiện hình trên những cửa ngõ mới của đời sống chúng ta.


                Mai Thảo
                1965

                (Trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)

                Comment



                Hội Quán Phi Dũng ©
                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                website hit counter

                Working...
                X