Thông báo

Collapse
No announcement yet.

cafe_coc: Góc SẢN PHẨM

Collapse
X

cafe_coc: Góc SẢN PHẨM

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Lịch Sử Phát Triển XE ĐẠP


    Xe đạp là một phương tiện giao thông có lịch sử phát triển lâu đời và trước tình hình chi phí nhiên liệu leo thang, người ta lại tìm về với xe đạp như một giải pháp vừa tiết kiệm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và cũng là một phương pháp rèn luyện sức khỏe.

    Để trở thành một phương tiện giao thông hoàn thiện như ngày nay, xe đạp đã trải qua một lịch sử phát triển với hàng loạt các cải tiến của nhiều nhà phát minh. Chuyên mục "Mỗi tuần một phát minh" tuần này mời các bạn cùng điểm lại những cột mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của xe đạp nhé.

    Năm 1817: Cỗ máy đi bộ của Drais - xe đạp được khai sinh

    Khái niệm đầu tiên về xe đạp xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Nam tước người Đức - Baron von Drais đã có ý tưởng phát minh một phương tiện dùng sức người và có thể giúp ông di chuyển nhanh quanh khu vườn hoàn gia. Năm 1817, ông đã trình làng một chiếc xe "đi bộ" có tên Laufmaschine (trong tiếng Đức có nghĩa là "cỗ máy chạy bằng chân"). Trong lần sử dụng đầu tiên vào ngày 12 tháng 6 năm 1817, ông đã đi được đoạn đường 13 km mà chỉ mất khoảng 1 giờ đồng hồ.


    Mẫu xe đạp Draisine được lưu trữ ở bảo tàng xe 2 bánh tại Đức

    Laufmaschine còn được gọi với là Draisine (tiếng Anh) hay draisienne (tiếng Pháp) hoặc Hobby Horse (ngựa gỗ) vì nó được chế tạo gần như hoàn toàn từ gỗ. Chiếc xe nặng 22 kg với cấu tạo gồm 2 bánh xe bằng gỗ được bọc sắt có kích thước bằng nhau và được lắp thẳng hàng trên một chiếc khung gỗ. Bánh trước có thể lái được và bánh sau được trang bị một chiếc phanh. Chiếc xe được vận hành bằng cách người điều khiển sẽ đẩy chân xuống đất ra phía sau và nó sẽ tiến về phía trước.

    Ông được cấp bằng sáng chế thương mại cho phát minh này vào năm 1818. Hàng nghìn chiếc đã được sản xuất chủ yếu tại thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ nhưng vẫn còn một khuyết điểm là rất khó để có thể giữ thăng bằng khi điều khiển. Phát minh của Drais nhanh chóng bị người sử dụng từ chối do số lượng các vụ tai nạn ngày càng nhiều khiến chính quyền một số thành phố phải cấm sử dụng loại phương tiện này.

    Những năm 1860: Bàn đạp xuất hiện và chiếc xe Boneshaker hay Velocipede


    Xe đạp Boneshaker tại Châu Âu vào những năm 1868

    Sự phát triển tiếp theo của xe đạp là chiếc xe tương tự như Laufmaschine của Drais nhưng được trang bị thêm trục khuỷu và bàn đạp lắp trực tiếp vào trục bánh xe trước. Mô hình này được Pierre Michaux - một nhà phát minh người Pháp, giới thiệu vào những năm 1865 với tên gọi là Fast-Foot và gây nên một cơn sốt thời trang khi mọi người đua nhau sở hữu. Thời bấy giờ, người ta còn đặt cho nó một tên gọi khác là xe lắc xương (Boneshaker). Tên gọi hài hước Boneshaker bắt nguồn từ việc bánh xe được làm bằng gỗ trong khi viền bánh xe được chế tạo từ kim loại. Sự kết hợp này khiến việc chạy xe trên những con đường gồ ghề trở nên cực kỳ khó chịu, dằng xóc giống như vừa đi vừa "lắc xương". Cũng chính vì lí do nêu trên mà Boneshaker trong giai đoạn này vẫn chưa được phổ biến rộng rãi.

    Những năm 1870: Xe đạp bánh cao (The High Wheel Bicycle)

    Sự phát triển của trình độ luyện kim thời bấy giờ cho phép tạo ra những chi tiết kim loại nhỏ, mảnh nhưng đủ chắc chắn để chịu được trọng lượng cơ thể người. Năm 1870, chiếc xe đạp được chế tạo hoàn toàn bằng kim loại đầu tiên được phát minh bởi hai nhà sản xuất xe đạp là James Starley và William Hillman. Chiếc xe này được đặt tên là "Ariel" với bánh trước lớn và bánh nhỏ phía sau.


    Xe đạp Ariel năm 1870 với đặc trưng bánh trước to và bánh sau nhỏ.

    Với một khung xe có trọng lượng nhẹ, Ariel có thể di chuyển với vận tốc 24 km/h, một vận tốc kỷ lục của xe đạp vào thời đó. Tương tự Boneshaker, bàn đạp vẫn được lắp trực tiếp vào trục bánh trước và chưa có cơ cấu líp. Lốp xe được chế tạo từ cao su cứng và đặc ruột cộng với các nan hoa dài, mảnh cho phép chiếc xe chuyển động mượt mà hơn rất nhiều so với các mẫu xe trước đây.

    Xuất phát từ nhu cầu một mẫu thiết kế xe đạp dành cho phụ nữ, năm 1876, James Starley tiếp tục phát minh mẫu xe đạp 3 bánh mang tên Salvo. Đây là chiếc xe đạp đầu tiên được trang bị dây xích nối bánh răng kép trên bánh xe với nhau, thiết kế này cho phép bánh xe quay được 2 vòng khi người điều khiển đạp 1 vòng. Cả 2 bánh xe đều được trang bị các nan hoa bằng kim loại. Thời gian sau đó, mẫu xe này trở nên rất phổ biến do có giá thành rẻ, dễ điều khiển và vận hành một cách an toàn.


    James Starley (người thứ 3 từ phải qua) cùng mẫu xe đạp Salvo trong bức ảnh được chụp vào năm 1877. Ông chính là người phát minh ra cơ cấu dây xích nối 2 bánh răng lắp trên xe đạp với nhau. Ông được mệnh danh là cha đẻ của ngành công nghiệp sản xuất xe đạp.

    Năm 1878, 2 nhà sản xuất xe đạp đến từ nước Anh là Otto và Wallace phát minh nên mẫu xe đạp 2 bánh mang tên Kangaroo. Đây là chiếc xe đạp được phổ biến rộng rãi đầu tiên được trang bị hệ thống sên - dĩa đầy đủ nhất. Kangaroo có bánh trước to hơn bánh sau rất nhiều cho phép nó có thể di chuyển nhanh hơn. Các nhà nhà sản xuất nhận thấy rằng nếu bánh xe càng lớn thì một vòng đạp của người điều khiển sẽ đưa chiếc xe đi được quãng đường dài hơn. Chính vì lí do đó mà các nhà sản xuất đua nhau làm nên những chiếc xe với bánh trước ngày càng to hơn. Người mua sẽ phải lựa chọn một chiếc xe với độ lớn của bánh trước phù hợp với chiều dài chân của mình để đảm bảo họ có thể sử dụng được. Đây cũng là lần đầu tiên người ta dùng từ Bicyle (xe đạp) để chỉ phương tiện di chuyển 2 bánh bằng, dùng sức người "đạp và chạy".


    Xe đạp Kangaroo của Otto và Wallace năm 1878

    Khuyết điểm lớn nhất của các mẫu xe đạp trong thời kỳ này là do chỗ ngồi của người lái quá cao nên trọng tâm trên xe không được phân bố đều. Nếu bánh trước vấp phải một hòn đá hoặc đang di chuyển xuống một con dốc, toàn bộ chiếc xe sẽ bổ nhào về phía trước trong khi chân của người lái bị mắc kẹt vào bàn đạp cộng với việc vị trí điều khiển khá cao nên rất dễ xảy ra những chấn thương nguy hiểm, đặc biệt là chấn thương đầu.

    Năm 1879, Bayliss Thomas phát minh xe đạp "The Bayliss Thomas" với khung xe chế tạo bằng những ống thép rỗng ruột và được trang bị phuộc trước. Cùng thời gian đó, nhà phát minh người Anh là Harry John Lawson chế tạo mẫu xe đạp đầu tiên có sử dụng dây sên. Dây sên được nối giữa dĩa ở trục bánh sau với bàn đạp của người điều khiển. Mẫu xe này được gọi là xe đạp an toàn. Đây là tiền thân của chiếc xe đạp ngày nay.


    Hình ảnh xe đạp an toàn được chế tạo vào năm 1879 bởi Lawson. Xe đạp an toàn sử dụng dây sên để nối dĩa ở trục bánh sau với bàn đạp của người điều khiển. Đây chính là hệ thống sên-dĩa hoàn thiện đầu tiên trên xe đạp.

    Năm 1874, Đến năm 1878, những chiếc xe đạp đầu tiên được sản xuất công nghiệp với số lượng lớn tại Mỹ bởi công ty Pope thuộc sở hữu của Albert Augustus Pope.

    Những năm 1880 - 1899: giai đoạn hoàng kim

    Năm 1880, nhà phát minh người Anh là E.C.F. Otto chế tạo mẫu xe đạp "dicycle" với hai bánh xe có kích thước bằng nhau được đặt song song cạnh nhau. Người điều khiển ngồi ở giữa 2 bánh xe và vận hành xe bằng bàn đạp ở hai bên. Khi muốn điều khiển xe rẽ trái hay phải, người điều khiển dừng đạp ở bên tương ứng với hướng muốn rẽ. Mẫu xe này không được sản xuất đại trà do việc điều khiển khá phức tạp và gặp nhiều khó khăn.


    Mẫu xe đạp của E.C.F. Otto năm 1880

    Năm 1885, John Kemp Starley, cháu của nhà phát minh James Starley, đã chế tạo ra mẫu xe đạp an toàn với 2 bánh xe có kích thước bằng nhau được lắp thẳng hàng trên một khung kim loại rỗng. Xe được trang bị đầy đủ các bộ phận như phanh, hệ thống dây sên - dĩa. Đây chính là nguyên mẫu của chiếc xe đạp hiên đại. Khoảng 2 đến 3 năm sau đó, mẫu xe này được đưa vào sản xuất hàng loạt và phổ biến một cách rộng rãi.


    Mẫu xe đạp mang tên Rover do John Kemp Starley (cháu của James Starley) phát minh năm 1885.

    Năm 1888, nhà phát minh người Scotland, John Dunlop phát minh ra lốp xe khí nén áp dụng cho xe đạp. Chiếc lốp này cho phép xe đạp vận hành êm ái và nhẹ nhàng hơn trên những con đường gồ ghề, khắc phục được những nhược điểm của lốp xe đặc ruột. Sau đó, người ta cũng tìm thấy được mô hình thiết kế khung xe gọi là kiểu "kim cương" với khả năng chịu lực tốt hơn. Thiết kế lốp xe khí nén và khung xe kiểu "kim cương" đơn giản làm xe đạp có trọng lượng nhẹ giúp vận hành trơn tru, hiệu quả hơn. Đồng thời, các cải tiến nói trên cũng tạo điều kiện cho việc bảo trì, sữa chữa trở nên thuận lợi hơn.


    John Dunlop (1840 -1921) người phát minh ra lốp xe khí nén. Ông chính là người sáng lập nên công ty Dunlop nổi tiếng chuyên sản xuất lốp xe và các dụng cụ thể thao.

    Với các khía cạnh quan trọng là dễ điều khiển, an toàn, thoải mái và di chuyển nhanh chóng, xe đạp trở thành phương tiện giao thông phổ biến đối với tầng lớp trung và thượng lưu tại châu Âu và Bắc Mỹ trong nửa cuối những năm 1890. Mẫu xe đạp có lốp cao su, kích thước 2 bánh bằng nhau được lắp trên khung với "thiết kế kim cương" chính là mẫu xe đạp đầu tiên mà cả nam và nữ đều có thể sử dụng một cách thuận lợi. Giai đoạn này là thời kỳ phát triển hoàng kim trong lịch sử phát triển xe đạp với hàng loạt những cải tiến góp phần hoàn thiện mô hình xe đạp hiện đại ngày nay.

    Từ thế kỷ 20 đến nay…

    Xe đạp ngày càng trở thành một phương tiện di chuyển quan trọng ở châu Âu trong nửa đầu thế kỷ 20, nhưng nhu cầu sử dụng xe đạp lại giảm đi đáng kể tại Mỹ từ năm 1900 đến năm 1910 do sự ra đời của xe hơi. Đến những năm 1920, xe đạp dần biến thành một món đồ chơi trẻ em và vào năm 1940, hầu hết xe đạp tại Mỹ đều được sản xuất dành cho trẻ em. Tuy nhiên, tại châu Âu, xe đạp vẫn được sử dụng hết sức rộng rãi.

    Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, xe đạp luôn được tiếp tục phát triển cho phù hợp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Hệ thống líp xe nhiều dĩa cỏ thể chuyển đổi qua lại khi đang chạy được phát triển tại Pháp từ năm 1900 đến 1910 và dần được hoàn thiện theo thời gian. Năm 1930, Tổ chức đua xe đạp châu Âu đã cho phép các tay đua sử dụng hệ thống này. Trước đó, nếu muốn thay đổi dĩa xe trong cuộc đua, tay đua phải dừng lại, tháo bánh xe ra để thay đổi chiếc dĩa mong muốn và lắp lại. Điều này cực kỳ mất thời gian. Hệ thống này giúp các tay đua tiết kiệm được rất nhiều thời gian khi muốn thay đổi tốc độ của chiếc xe.


    Hệ thống nhiều dĩa có thể luân chuyển khi đang xe đang chạy

    Khoảng giữa thế kỷ 20, nhiều thiết bị khác trên xe đạp được tiếp tục chế tạo và hoàn thiện như hệ thống phanh tay, vòng đạp nhẹ hơn, hệ thống đèn chiếu sáng chạy bằng dinamo gắn trên bánh xe, lốp xe cũng được thiết kế hẹp hơn giúp giảm ma sát cho phép xe đạp di chuyển trơn tru và nhẹ nhàng hơn. Những chiếc xe đạp này trở nên rất phổ biến tại châu Âu đặc biệt là tại Anh vào những năm 1950 và luôn được cải tiến trong suốt những thập niên còn lại của thế kỷ 20. Xe đạp dần trở thành là một sở thích phổ biến của nhiều người.

    Kể từ đầu thế kỷ 21, xe đạp bắt đầu được cải tiến mạnh mẽ với sự phát triển của công nghệ. Trong thiết kế, khung xe được chế tạo bằng các vật liệu khác nhau để giảm trọng lượng nhưng vẫn đảm bảo độ bền cũng như các yêu cầu về khí động họ. Sự cân bằng của xe đạp được tính toán và mô phỏng bởi các phần mềm máy tính cho phép chế tạo những chiếc xe đạp an toàn với người điều khiển hơn. Các công nghệ mới được áp dụng như chế tạo các chi tiết bằng sợi cacbon hay hệ thống tự chuyển đổi líp bằng điện tử khiến chiếc xe đạp ngày càng hiện đại hơn. Cho đến thời điểm hiện tại, xe đạp vẫn luôn được cải tiến song song với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của người dùng.


    Mẫu xe đạp thể thao của BMW ra mắt năm 2012

    Nguồn: Tổng hợp

    SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
    HỒ VI LAO KỲ SINH

    Comment


    • #17
      NHIẾP ẢNH_Thủ bản bỏ túi - các yếu tố căn bản làm chủ máy ảnh


      Có quá nhiều điều để tìm hiểu, để nhớ, để nói mỗi khi nhắc đến nhiếp ảnh, nhất là nhiếp ảnh căn bản. Những ai đang tập tểnh bước vào thế giới này, đôi khi như lạc vào khu rừng rối rắm của mớ lý thuyết khô cằn chán ngấy, hoặc ngụp lặn trong mớ lý thuyết quan điểm của những người được gọi hoặc tự phong là dân nhà nghề chia sẻ 5 đường 7 nẻo. Để đơn giản hoá, mình xin sưu tập đống kiến thức có sẵn đó và tóm lại thành những thủ bản bỏ túi, hầu có thể hỗ trợ những bạn mới chơi ảnh phần nào tham khảo những thông tin hữu ích và cần thiết nhất khi tập tành cầm máy ảnh. Mình cố gắng chú thích ngắn gọn nhất để các bạn có thể tổng hợp và bạn "save-as" cái ảnh, rồi có thể in ra giấy để dùng khi cần.


      Giải thích thủ bản này, chúng ta nhắc lại với nhau các điều cơ bản nhất khi bắt đầu cầm máy ảnh:

      1/ Tốc độ màn trập
      2/ Khẩu độ (độ mở) ống kính
      3/ ISO

      Thêm 2 yếu tố quan trọng:

      1/ Thước đo sáng của máy ảnh số
      2/ Điểm mạnh trong bố cục căn bản

      Tốc độ màn trập

      Độ mở rộng hoặc thu nhỏ của các lá khẩu trong ống kính còn được gọi là “khẩu độ”, có tác động trực tiếp đến lượng ánh sáng đi vào cảm quang (hoặc bề mặt phim gắn trong máy ảnh đối với máy ảnh chụp bằng phim). Việc thiết đặt tốc độ màn trập có tác động đến thời lượng để ánh sáng đến được cảm quang (hoặc bề mặt phim đối với máy ảnh chụp bằng phim).

      Có thể hình dung đơn giản hơn với hai tình huống sau: nếu với một thiết đặt tốc độ màn trập máy ảnh nhanh, thì cần một lượng ánh sáng nhiều, và để có lượng sáng nhiều thì cần khẩu độ mở lớn. Ngược lại, nếu tốc độ màn trập máy ảnh chậm, thì khẩu độ khép nhỏ hơn. Một biến số khác tác động đến việc cân bằng mức độ phơi sáng là ISO, dựa theo độ nhạy sáng của cảm quang hoặc của phim bên trong máy ảnh.

      Trong "thủ bản", tốc độ màn trập thông thường: 1s - 1/2s - 1/4s - 1/8s - 1/15s - 1/30s - 1/60s - 1/125s - 1/250s - 1/500s - 1/1000s - 1/2000s. Tuỳ theo hoàn cảnh ánh sáng thực tế, bạn chọn tốc độ màn trập phù hợp ý đồ chụp như gợi ý tham khảo trong hình thủ bản.

      Hình chụp tốc độ màn trập châm, ảnh mờ nhoè


      Hình phơi sáng tốc độ màn trập 30s

      Khẩu độ ống kính

      Khẩu độ là độ mở của ống kính cho ánh sáng(hình ảnh) đi vào bề mặt phim hay cảm biến ảnh. Khẩu độ - độ mở càng lớn thì ánh sáng đi vào càng nhiều và ngược lại.
      Các khẩu độ tiêu chuẩn phổ biến là: f/1.4 – f/2 – f/2.8 – f/4 – f/5.6 – f/8 – f/11 – f/16 – f/22 – f32 . Khẩu độ càng lớn tương ứng với số giá số thể hiện càng nhỏ. Các số trên càng lớn đồng nghĩa với khẩu độ càng nhỏ.

      Cấu trúc hệ thống lá khẩu của ống kính


      ISO
      Để hình ảnh được ghi lại trên bề mặt phim, cần có khá năng thu nhận ánh sáng và chuyển hóa tất cả thành các giá trị nhất định (về hóa học) để khi đem tráng phim và rửa ảnh sẽ tạo ra độ sáng tối (đen/trắng) và màu sắc (phim màu) của hình ảnh. Tương tự như vậy, cảm biến ảnh của máy ảnh số có khả năng ghi nhận ánh sáng và màu sắc, chỉ khác là sẽ chuyển thành các giá trị số hóa để ghi lại hình ảnh.

      Độ nhạy này được quy định bằng trị số ISO (trước đây hay gọi là ASA hoặc DIN). ISO càng cao thì độ nhạy sáng càng cao, tốc độ màn trập tăng cao (khi đó thời gian phơi sáng giảm). Các trị số ISO truyền thống là: ISO 100, ISO 200, ISO 400, ISO 800, ISO 1600, ISO 3200, ISO 6400 ...

      Kết hợp 3 yếu tố trên khi chụp 1 bức ảnh


      Thước đo sáng trong máy ảnh số

      Thước này được nhìn thấy trên màn hình LCD hiển thị các thông số trên máy ảnh số và trong khung ống ngắm. Tại cùng điểm đo sáng, vạch 0 được thống nhất là đúng sáng theo thuật toán đo sáng của máy ảnh. Khi bạn xoay bánh xe tăng/ giảm tốc độ màn trập hoặc bánh xe hiệu chỉnh khẩu độ ống kính hay ISO, vạch sẽ dịch chuyển qua trái và qua phải làm thay đổi lượng sáng đi vào cảm biến ảnh.


      Bố cục căn bản
      Tỷ lệ vàng 1/3

      Nhiều người vẫn hay nói rằng không có nguyên tắc nào tạo nên bức ảnh đẹp, chỉ có những bức ảnh đẹp mà thôi. Vâng, nhưng, ở những bức ảnh đẹp ấy đều chất chứa một số nguyên tắc. Những nguyên tắc ấy chẳng do người nào đặt ra làm tiêu chuẩn cả. Tự thân chúng ẩn náu trong tận tiềm thức về cái đẹp nơi con người, và phải nói người chụp ảnh là người đi tìm, gặp gỡ và lưu giữ cái đẹp. Chính một bức ảnh đẹp cho thấy những nguyên tắc trong đó. Và, một trong những nguyên tắc đầu tiên cho người bắt đầu cầm máy đó là nguyên tắc về bố cục, nguyên tắc vàng.


      Tỷ lệ FIBONACCI (PHI)

      Nếu tỷ lệ 1/3 kia được gọi là “Tỷ Lệ Vàng”, thì cấu trúc thành phần khung ảnh này được mệnh danh là “Tỷ Lệ Thần” trong nhiếp ảnh – người ta hay gọi là tỷ lệ Fibonacci - Tỷ lệ Phi. Tỷ lệ này được Leonardo Fibonacci khám phá khoảng năm 1200 sau Công nguyên. Ông nhận ra rằng trong tất cả khung ảnh đều có một tỷ lệ thường xuyên xuất hiện. Nó được nhận ra như một điều được thiết kế cho moi sinh vật sống và cho đôi mắt con người nếm cảm được “cái Đẹp”. Vì vậy, nó mang tên “Tỷ Lệ Thần”.

      Chúng ta biết tỷ lệ trong kiến trúc và nghệ thuật tranh thời Phục Hưng được định ước là 1: 1.618 . Tỷ lệ này được thể hiện rõ trong: Các đền Parthenon thờ thần Athena ở Hy Lạp, Công trình nổi tiếng Mona Lisa, hay như trong bức tranh Bữa Tiệc Cuối Cùng của Chúa Giêsu, và nó vẫn còn được thể hiện đến ngày nay. Người ta còn cho biết hãng Apple đã ứng dụng tỷ lệ này cho việc thiết kế sản phẩm của họ; hãng Twitter sử dụng cho việc tạo dựng trang quản lý hồ sơ, cũng như nhiều công ty lớn trên thế giới ứng dụng vào việc thiết kế Logo.




      Source: tinhte
      SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
      HỒ VI LAO KỲ SINH

      Comment


      • #18
        Singapore Airshow 2014 _ Trực thăng chiến đấu AH-64D Apache


        Bên cạnh các mẫu máy bay phản lực quân sự, triển lãm hàng không Singapore Airshow năm nay cũng có không ít các mẫu máy bay trực thăng chiến đấu và vận tải. Trong số đó phải kể đến 2 sản phẩm nổi tiếng hiện đang được Boeing sản xuất là trực thăng chiến đấu Apache và trực thăng vận tải đa năng MV-22 Osprey.

        Boeing AH-64D Apache:

        Boeing AH-64 Apache là một mẫu máy bay trực thăng tấn công với rotor 4 cánh kèm 2 động cơ và buồng lái đôi dành cho 2 phi công. Nguyên gốc của Apache là mẫu trực thăng Model 77 được phát triển bởi công ty Hughes Helicopters dành cho chương trình trực thăng tấn công tối tân Advanced Attack Helicopter của Quân đội Hoa Kỳ nhằm thay thế cho AH-1 Cobra. Nguyên mẫu Apache đầu tiên với số hiệu YAH-64 đã thực hiện chuyến bay thử đầu tiên vào tháng 9 năm 1975. Quân đội Hoa Kỳ cuối cùng đã chọn nguyên mẫu này để phê chuẩn sản xuất vào năm 1982. Sau khi mua lại Hughes Helicopters năm 1984, McDonnell Douglas tiếp tục sản xuất và phát triển AH-64 Apache. Và sau khi McDonnell Douglas sáp nhập với Boeing vào năm 1997, hoạt động sản xuất tiếp tục được chi nhánh Boeing Defense, Space & Security duy trì. Tính đến hiện tại đã có hơn 1000 chiếc AH-64 Apache với nhiều biến thể đã được xuất xưởng. AH-64 Apache có 5 biến thể là AH-64A/B/C/D và E.



        Về thiết kế, AH-64 Apache có rotor chính và rotor đuôi đều có 4 cánh quạt. Buồng lái được thiết kế cho 2 phi công với vị trí ngồi sau cao hơn trước. Phi công ngồi sau sẽ đóng vai trò là cơ phụ và pháo thủ. Cả 2 phi công đều có thể điều khiển máy bay và kích hoạt vũ khí độc lập. Phiên bản AH-64D Apache được đem đến triển lãm dùng 2 động cơ tuabin trục (turboshaft) T700-GE-701C do General Electric sản xuất với các họng xả được lắp cao sát 2 bên thân máy bay. Buồng lái và rotor cánh quạt được thiết kế để có thể chịu được đạn 23 mm. Khung sườn máy bay có đến 1100 kg vật liệu bảo vệ và thùng nhiên liệu tự vá - ngăn nhiên liệu rỉ ra ngoài trong trường hợp bị bắn phá bởi các loại đạn. Thiết kế máy bay cũng đáp ứng tiêu chuẩn quân sự MIL-STD-1290 với mục tiêu giảm thiểu năng lượng chấn động khi rơi để giảm thiểu tối đa thiệt hại về người. AH-64 Apache có thể bay ở vận tốc tối đa 293 km/h, tầm bay 476 km và trần bay 6400 m ở tải trọng tối thiểu.

        Một trong những tính năng mang tính cách mạng trên AH-64 Apache là màn hình hiển thị trong mũ phi công hay IHADSS. Với chiếc mũ này, phi công hay pháo thủ có thể điều khiển khẩu súng tự động M230 cỡ đạn 30 mm lắp bên dưới máy bay nhắm bắn mục tiêu chỉ với việc chuyển động đầu về mục tiêu đang quan sát. Khẩu M230E1 có thể được khóa cố định hướng về trướng hoặc được điều khiển thông qua hệ thống Target Acquistion & Designation System (TADS). Hiệu suất chiến đấu tiêu chuẩn của một pháo thủ trên AH-64 Apache thường tiêu diệt ít nhất 1 phương tiện hoặc 1 mục tiêu trong một loạt đạn 30 viên ở cự ly từ 800 đến 1200 m.


        AH-64 được thiết kế để chịu được các môi trường hoạt động khác nhau và để vận hành trong suốt cả ngày và đêm, trong nhiều điều kiện thời tiết nhờ hệ thống cảm biến và điện tử hàng không tiên tiến. Các hệ thống này bao gồm hệ thống chọn và khóa mục tiêu TADS, hệ thống tầm nhìn phi công ban đêm PNVS, hệ thống đối phó hồng ngoại bị động, định vị GPS và mũ phi công IHADSS. Một hệ thống mới hơn là Arrowhead đã được Lockheed Martin phát triển thay thế cho TADS/PNVS và kể từ năm 2005 thì Arrowhead đã xuất hiện trên những chiếc Apache của quân đội Mỹ.

        Về phiên bản AH-64D Apache Longbow thì đây là một phiên bản cải tiến được trang bị gói cảm biến tiên tiến và buồng lái được thiết kế theo mô hình Glass Cockpit. Những cải tiến chính trên AH-64D so với AH-64A là đỉnh tròn radar được lắp trên rotor cánh quạt chính. Bên trong radome này là radar kiểm soát khai hỏa bằng sóng millimet (FCR) AN/APG-78 Longbow, hệ thống khóa mục tiêu và radar đo giao thoa tần số (RFI). Vị trí radome được đặt cao hơn cho phép phát hiện các mục tiêu và phóng tên lửa trong khi trực thăng đang bay đằng sau các chướng ngại vật như địa hình, cây cối hoặc tòa nhà. Radar AN/APG-79 có khả năng theo dõi cùng lúc 128 mục tiêu và xác định 16 mục tiêu nguy hiểm nhất, cho phép khai hỏa chỉ trong 30 giây. Vào năm 2012, AH-64D được nâng cấp với hệ thống bắt mục tiêu trên mặt đất (GFAS) nhằm phát hiện và tấn công các nguồn hỏa lực trên mặt đất. GFAS gồm 2 cảm biến nhỏ được tích hợp trên 2 đèn chớp ở mũi máy bay. Cùng với các cảm biến có sẵn và camera hồng ngoại trên AH-64D, GFAS có thể xác định chính xác sự hiện diện của các mối đe dọa trên mặt đất ở khoảng cách thích hợp. GFAS có trường quan sát 120 độ và hoạt động hiệu quả ở tất cả điều kiện ánh sáng.


        Là một máy bay trực tăng chiến đấu đa năng, tấn công tầm gần nên AH-64 có thể được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau. Ngoài khẩu M230E1 30 mm với cơ số đạn 1200 viên lắp dưới, hệ thống vũ khí còn lại được lắp qua các mấu cứng trên 2 cánh nhỏ của máy bay. Thông thường, AH-64 Apache được gắn hỗn hợp hệ thống tên lửa chống tank AGM-114 Hellfire gồm 8 quả (mỗi bên cánh 4 quả) và rocket Hydra 70 không dẫn đường gồm 38 quả (mỗi bên cánh 19 quả lắp trong ống phóng tổ ong). Đây cũng chính là trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản AH-64D Apache có mặt tại triển lãm. Ngoài ra, AH-64D Apache còn có thể được trang bị thêm 2 tên lửa không đối không AIM-92 Stinger tại 2 đầu cánh nhỏ.

        Giá của mỗi chiếc AH-64D Apache với hệ thống vũ khí tiêu chuẩn từ 52 đến 61 triệu USD.

        Source: tinhte
        SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
        HỒ VI LAO KỲ SINH

        Comment


        • #19
          X36 _ UAV do Boeing Sản Xuất


          Máy bay không người lái (UAV) đã trở nên phổ biến và được áp dụng không chỉ trong quân sự mà còn nhiều lĩnh vực khác phục vụ con người. Trong quá trình phát triển UAV có sự phát triển thầm lặng của chiếc máy bay X-36, kết quả của 1 dự án máy bay tiêm kích không thành công. Dù dự không được chính thức chế tạo và đưa vào sử dụng rộng rãi, nhưng các nhà nghiên cứu gọi đây chính là chiếc máy bay không người lái thú vị nhất trong lịch sử ngành hàng không thế giới.

          Vào năm 1989, các hãng sản xuất máy bay Phantom Works, McDonnell Douglas (sau đó được sáp nhập vào Boeing) và NASA đã bắt đầu phát triển máy bay X-36. Đây là máy bay tiêm kích được trang bị những công nghệ tiên tiến, vượt trội vào thời điểm bấy giờ với thiết kế không đuôi và khả năng tăng tốc cực kỳ nhanh có thể so sánh với dòng máy bay MiGs do Liên Xô chế tạo.

          Tuy nhiên, do những yếu tố như thời gian, chi phí chế tạo, nhu cầu sử dụng và chưa được kiểm định chính thức nên cuối cùng cả NASA và Boeing đã không sản xuất một mô hình hoàn chỉnh cũng như chính thức đưa vào biên chế sử dụng. Thay vào đó, nhóm phát triển đã chọn phát triển bộ đôi máy bay không người lái UAVs với kích thước nhỏ hơn 28% trong dự án khác mang tên "X-36 Tailless Fighter Agility Research Aircraft vehicles”

          Được chế tạo trong vòng 28 tháng dựa trên kỹ thuật của mô hình cũ, và tiêu tốn khoảng chi phí 17 triệu đô la, các mẫu UAV mang tên X-36 ra đời với kích thước nhỏ, trọng lượng 870 kg lúc đầy nhiên liệu, chiều dài thân 5,79 mét, cao 0,91 mét, chiều dài sải cánh 3 mét và được điều khiển bởi 1 phi công tại trạm mặt đất. Mẫu UAVs trên tương tự như các thế hệ drone hiện nay và được trang bị hệ thống fly-by-wire của Boeing cho phép điều khiển động cơ phản lực cánh quạt Williams International F112 đặt phía sau với lực đẩy 949 J.

          X-36 không sử dụng đuôi định hướng như các thế hệ máy bay khác. Thay vào đó, X-36 được trang bị 2 cánh phụ gần mũi máy bay và sử dụng vòi phun định hướng đẩy đặt phía sau nhằm điều khiển máy bay chuyển hướng.

          X-36 đã thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào ngày 17 tháng 5, 1997 và 31 chuyến bay thành công trong 25 tuần sau đó với tổng cộng 16 giờ bay trên không bằng 4 phiên bản phần mềm điều khiển khác nhau. Kết quả cho thấy X-36 có khả năng điều khiển tuyệt vời và vượt trội hơn so với các dự án trước đó. X-36 đã đặt được độ cao hơn 6500 mét với góc tấn tối đa là 40 độ và đạt tốc độ tối đa là 105 m/s. Chương trình đã đạt được mục tiêu đề ra và đạt được thành công ngoài sự mong đợi của các nhà nghiên cứu.

          Mặc dù đã thực hiện hết sức thành công và an toàn những chuyến bay thử nghiệm đầu tiên, nhưng cuối cùng dự án nghiên cứu đã bị hủy bỏ và âm thầm chấm dứt vào tháng 11 năm 1997. Nguyên nhân được đưa ra đơn giản chỉ vì X-36 đã vượt xa công nghệ tại thời điểm bấy giờ. Hiện tại, các mẫu máy bay không người lái X-36 đang được trưng bày tại Viện bảo tàng không quân quốc gia Hoa Kỳ.

          Đoạn video ngắn một chiếc UAV X-36 tailless đang cất cánh

          Source: tinhte
          SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
          HỒ VI LAO KỲ SINH

          Comment


          • #20
            Spacecraft tuyệt mật X-37B


            Theo báo cáo mới nhất, trong sứ mạng lần thứ 3, tàu không gian tuyệt mật X-37B đã phá vỡ kỷ lục của chính mình đạt được trước đó là 469 ngày bay trên quỹ đạo ngoài không gian. Tàu không gian không người lái X-37B được thiết kế để trải qua những chuyến bay dài ngày trên quỹ đạo trong các sứ mạng tuyệt mật được giám sát chặt chẽ và trực tiếp báo cáo các kết quả thu thập được về cho không quân Hoa Kỳ. Cho đến nay, hoạt động và các sứ mạng do X-37B thực hiện vẫn là một vấn đề bí ẩn và nhiều chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới ngày đêm theo dõi.

            Phần lớn thông tin về X-37B và những sứ mạng của nó đều được quản lý một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, các chuyên gia quân sự cho rằng đây chính là thử nghiệm mới nhất do không quân và chính phủ Mỹ thực hiện nhằm áp dụng những công nghệ giám sát mới nhất vào trong hoạt động tình báo của mình.

            Chuyến bay thứ 3 do X-37B thực hiện mới đây mang tên USA-240 và được khởi động hồi ngày 11 tháng 12 năm 2012 sau khi được phóng vào không gian bởi tên lửa Atlas V tại cape Canaveral. Điều đáng nói ở đây là X-37B được đưa lên quỹ đạo bởi một tên lửa nhưng nó vừa lượn xuống mặt đất theo cách tương tự như một tàu con thoi nhưng không hề chịu hư hại nghiêm trọng.

            Như thông tin đã đề cập bên trên, sứ mạng thứ ba lần này, X-37B đã phá vỡ kỷ lục của chính nó trong những sứ mạng trước đó kể từ năm 2010. Trong lần bay đầu tiên, X-37B đã thực hiện chuyến bay 240 ngày trên quỹ đạo trước khi hạ cánh xuống sân bay thuộc căn cứ không quân Vandenberg tại California hồi tháng 3 năm 2010.

            5 tháng sau đó, vào ngày 3 tháng 5 năm 2011, X-37B tiếp tục thực hiện sứ mạng thứ 2 của mình. Rút kinh nghiệm từ lần bay đầu tiên, các kỹ sư đã thực hiện một số tùy chỉnh nhằm nâng cao số ngày hoạt động trên quỹ đạo của X-37B lên tới 270 ngày. Dù vậy, cho tới khi kết thúc sứ mạng của mình vào ngày 16 tháng 6 năm 2012 và cũng hạ cánh tại sân bay Vandenberg, X-37B đã thực hiện được tổng cộng 469 ngày bay trên quỹ đạo.

            Mới đây, X-37B lại một lần nữa phá vỡ chính kỷ lục của mình đã đạt được trước đó.


            X-37B có hình dạng như một chiếc tàu con thoi của NASA nhưng có kích thước nhỏ hơn. NASA đã đề xuất dự án có liên quan tới X-37B hồi năm 1998 nhằm phát triển công nghệ thăm dò và khám phá không gian. Và sau đó, NASA đã ký với Boeing một hợp đồng trị giá 137 triệu đô la nhằm phát triển X-37.

            Ban đầu, các kỹ sư chỉ muốn áp dụng một công nghệ nào đó trên tàu con thoi nhằm giảm thiểu thời gian tái hoạt động trở lại sau khi trở về Trái Đất. Tuy nhiên, cuối cùng dự án được chuyển từ NASA sang Cơ quan nghiên cứu công nghệ quốc phòng (DARPA) vào năm 2004. Và kể từ đó, X-37B bước vào bức màn bí ẩn.

            Theo Jonathan McDowell, nhà vật lý thiên văn học tại Đại học Harvard thì chương trình X-37B được khởi động nhằm cung cấp cho không lực Hoa Kỳ một chiếc tàu không gian có khả năng thực hiện được những sứ mạng dài ngày, trở về Trái Đất và trở lại hoạt động trên quỹ đạo trong thời gian nhanh nhất.

            Jonathan cho biết: "X-37B đã tăng thêm tiềm lực cho không lực Hoa Kỳ. Một số tướng lĩnh nghĩ rằng nó chỉ đơn giản là một kiểu tàu không gian có thời gian kích hoạt nhanh chóng. Tuy nhiên, X-37B còn kế thừa những kinh nghiệm từ việc chế tạo tàu con thoi nhưng lại có giá thành rẻ hơn."

            Cho đến nay, bí ẩn vẫn bao trùm quanh những sứ mạng mà X-37B thực hiện. Theo Janathan thì nó không chỉ đơn thuần là thực hiện những chuyến bay phục vụ mục đích khoa học hoặc khám phá vũ trụ. Ông cho biết: "Tôi tin rằng X-37B đang thử nghiệm một số loại cảm biến mới cho Phòng trinh sát quốc gia Hoa Kỳ. Một ví dụ đơn cử, nó được trang bị công nghệ ảnh viễn thám siêu phổ hoặc một số công nghệ phục vụ tình báo tối tân nhất. Các cảm biến mới đang được áp dụng thành công cho phép giảm tải trọng của X-37B cho phép thực hiện được những chuyến bay dài ngày hơn trên quỹ đạo."

            Một manh mối khác cho thấy X-37B đang được thử nghiệm cho các hoạt động tình báo chính là nó đang được kiểm soát bởi lực lượng phản ứng nhanh của không quân có văn phòng đặt tại Washington. Đây là đơn vị có nhiệm vụ phát hiện những công nghệ mới nhằm giúp quân đội có thể đối phó nhanh với các mối nguy hiểm bất ngờ.

            Các chuyên gia quân sự dự đoán X-37B có thể được phát triển nhằm do thám và cảnh báo sớm các động thái của đối phương. Nó có khả năng hoạt động ở nhiều độ cao khác nhau nhằm tiến hành các hoạt động do thám thích hợp và tránh được sự phát hiện của đối phương. X-37B có khả năng triển khai nhanh chóng các hoạt động giám sát trên phạm vi toàn cầu nhưng rất khó bị phát hiện do luôn bay quanh Trái Đất với quỹ đạo không lặp lại.

            Kể từ khi bắt đầu chính thức hoạt động đến nay, X-37B luôn là đối tượng nghiên cứu của các nhà thiên văn học cũng như các nhà khoa học quân sự do tính chất bí ẩn cả về hoạt động lẫn các thông tin được kiểm soát một cách chặt chẽ của nó.


            Theo Slasshgear, itwworld, Wiki

            Source
            : tinhte
            SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
            HỒ VI LAO KỲ SINH

            Comment


            • #21
              Lịch Sử CÂY BÚT.


              Chữ viết là một đóng góp của loài người vào sự phát triển của nền văn minh. Chữ viết giúp chúng ta ghi lại những ý nghĩ và công việc. Trước khi cây bút ra đời thì con người đã sử dụng rất nhiều thứ khác nhau để viết chữ. Ví dụ, như người Nguyên thuỷ đã dùng những hòn đá nhọn đầu để khắc những hình vẽ lên tường hoặc trong hang động, hoặc nhúng những đầu ngón tay vào nhựa cây, hay thậm chí vào máu của động vật rồi vẽ lên những bức tường…

              Cây bút đã có những đóng góp quan trọng trong việc con người lưu trữ lại tri thức, là một vật dụng vô cùng hữu ích trong đời sống hàng ngày mà không ai có thể phủ nhận được vai trò của nó. Để có được hình dáng thuận tiện và lâu bền như ngày nay, ít ai biết được nó đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử phát triển và cải tiến.

              Các mốc phát triển và cải tiến quan trọng của cây bút được tóm lược trong Infographic dưới đây:


              Source: tinhte
              SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
              HỒ VI LAO KỲ SINH

              Comment


              • #22
                Súng Điện Từ Railgun cho Tàu Đổ Bộ Siêu Tốc JHSV lớp Spearhead


                Theo báo cáo mới nhất từ Washington, hải quân Hoa Kỳ đang lên kế hoạch lắp đặt và thử nghiệm mô hình súng railgun điện từ cho tàu đổ bộ siêu tốc JHSV (Joint High Speed Vessel) lớp Spearhead vào năm 2016 sắp tới. Kế hoạch trên thuộc khuôn khổ chương trình hải pháo của tương lai do hải quân Mỹ đề xuất và phát triển từ năm 2005. Đây cũng là lần đầu tiên súng railgun điện từ (EM railgun) được chính thức thử nghiệm ngoài khơi và đánh dấu một cột mốc quan trọng cho sự tiến bộ trong kỹ thuật tác chiến của hải quân Hoa Kỳ.

                Hiện nay, các chiến hạm của hải quân đều được trang bị tên lửa hiện đại nhất với phạm vi hoạt động lớn, độ chính xác và mức sát thương cực cao,... dù vậy, công tác vận hành và chi phí cho một lần khai hỏa là vô cùng đắt đỏ, lên tới hàng triệu đô la cho mỗi loạt bắn. Các loại vũ khí cổ điển như hải pháo dù ít tốn kém hơn nhưng hoạt động cũng kém hiệu quả hơn với tầm bắn ngắn, độ chính xác kém và việc kiểm soát khá khó khăn. Theo hải quân Hoa Kỳ, vấn đề cần thiết nhất hiện nay là một loại vũ khí hải quân có hiệu quả tương tự như tên lửa nhưng với chi phí hoạt động cho mỗi lần khai hỏa phải ít hơn so với các khẩu hải pháo thông thường.

                Đó cũng chính là nguyên nhân cho sự ra đời của súng điện từ railgun. Đây là thế hệ súng sử dụng lực điện từ để đẩy đầu đạn ra khỏi nòng súng thay vì sử dụng một lượng lớn thuốc nổ như trước đây. Trên thực tế, ý tưởng này đã được đề xuất và thậm chí là thử nghiệm từ những năm 1920 với các ứng dụng đa dạng từ súng điện từ cho tới các nghiên cứu vận tải vũ trụ. Dù vậy, việc chính thức áp dụng vào thực tiễn công nghệ điện từ nói trên mới được triển khai trong vòng vài năm trở lại đây.


                Về cơ bản, súng điện từ railgun là một mô tơ điện với lõi thép đặt giữa những giá xoay có tác dụng dẫn điện. Giống như các động cơ điện khác, railgun sử dụng trường điện từ xen kẽ để tạo nên lực kéo dọc theo thiết bị. Trong trường hợp này, lực điện từ sẽ tác động dọc theo 2 đường ray kim loại để đẩy đầu đạn được đặt ở giữa ra khỏi nòng súng với tốc độ siêu thanh.

                Theo kết quả nghiên cứu, khẩu súng điện từ railgun có khả năng bắn một đầu đạn ra khỏi nòng với vận tốc đạt Mach 7,5 (tương đương với 9200 km/h). Ở vận tốc này, đầu đạn chỉ mất 6 giây để bay tới đường chân trời và có thể bắn tới một mục tiêu cách đó 203 km. Hơn nữa, đầu đạn do railgun bắn ra mang rất nhiều động năng nên không cần phải mang theo vật liệu nổ để phá hủy mục tiêu.


                Một ưu điểm của súng điện từ railgun chính là chi phí lắp đặt và vận hành ít tốn kém hơn so với các hệ thống tên lửa tối tân hiện nay. Nếu như trước đây phải mất khoảng 1 triệu đô la để bắn một loạt tên lửa thì đối với railgun, người ta chỉ cần chi phí vài nghìn đô la là đã có thể bắn ra các đầu đạn với hiệu quả tương đương.

                Điều trên cho phép các tàu chiến có thể mang theo được nhiều đầu đạn hơn và hỏa lực cũng được gia tăng hơn so với trước đây nhằm đối phó được với nhiều tình huống tác chiến khác nhau. Hải quân cho biết rằng súng điện từ railgun có thể được dùng để chống lại nhiều loại kẻ địch từ chiến hạm, tàu chiến cỡ nhỏ, máy bay, tên lửa và các mục tiêu trên đất liền.

                Theo thông tin từ phía Hải quân mỹ, kế hoạch năm 2016 sẽ là thử nghiệm trên biển đầu tiên của súng railgun. Trước tiên, súng railgun sẽ được trang bị cho tàu đổ bộ siêu tốc JHSV do đặc điểm phía trên tàu có thể dễ dàng lắp đặt khẩu súng này. Bên cạnh đó, khi JHSV không tham gia chiến đấu, khẩu súng sẽ được tháo ra dễ dàng nhằm thực hiện các kế hoạch tác chiến một cách linh động hơn.


                Nguyên mẫu súng điện từ railgun là kết quả của quá trình thử nghiệm và phát triển của hải quân Hoa Kỳ cùng một số công ty tư nhân từ năm 2005 tại Trung tâm thủy chiến Dahlgren, bang Virginia và Phòng thí nghiệm nghiên cứu hải quân. Giai đoạn kế tiếp của chương trình sẽ nghiên cứu phát triển họng súng có lực bắn 32 mega jun cho phép bắn viên đạn trong bán kính 182 km. Đồng thời, trong giai đoạn tiếp theo của nghiên cứu, súng railgun sẽ được nâng cấp để có thể bắn 10 viên đạn trong vòng 1 phút.

                Bên dưới là đoạn video mô tả sơ lược hoạt động của súng điện từ railgun


                Theo Gizmag
                Nguồn: Hải quân Hoa Kỳ
                SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                HỒ VI LAO KỲ SINH

                Comment


                • #23
                  30 Sự Thật về GIẤC NGỦ


                  Không thể phủ nhận là giấc ngủ là một phần không thể thiếu của cuộc sống, như cơm ăn, nước uống hay không khí để hít thở hàng ngày. Nó ảnh hưởng đến cả thể lực và trí lực của con người. Mất ngủ có thể làm giảm khả năng học tập và ghi nhớ của con người, làm giảm khả năng chịu đau đớn…

                  Ngoài ra, sự rối loạn giấc ngủ của con người còn có thể gây ra những thảm họa lớn như chernobyl, Three Mile Island, …Vì thế có thời gian ngủ hợp lý và đảm bảo chất lượng của giấc ngủ là điều vô cùng quan trọng.

                  Infographic dưới đây trình bày những mối liên hệ của giấc ngủ với đời sống và cho thấy tầm quan trọng của nó.


                  Nguồn: visual.ly
                  SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                  HỒ VI LAO KỲ SINH

                  Comment


                  • #24
                    CỌP & SƯ TỬ. Loài nào mới là chúa sơn lâm?


                    Tuổi thơ mình biết đến cọp là chúa tể rừng xanh qua bộ phim hoạt hình Tarzan, còn sư tử là vua hoang mạc xa-van qua bộ phim hoạt hình Lion King. Không biết các bạn thế nào, về phần mình từ nhỏ đến giờ vẫn luôn mang trong người một câu hỏi chưa được giải đáp. Giữa cọp với sư tử loài nào xứng đáng làm chúa tể những khu rừng, hay còn gọi là chúa sơn lâm đó? Nếu bạn chia sẻ với mình cùng câu hỏi trên thì chúng ta tiếp tục "mổ xẻ" vấn đề thú vị này bên dưới nhé!

                    Về lý thuyết thì hiện nay cọp và sư tử đều không chia sẻ môi trường sống trong tự nhiên. Mỗi con đều là vua một phương, chúa một cứ. Tuy nhiên, lịch sử từng ghi nhận là chúng đã từng cùng tồn tại ở vùng Trung Ấn cho đến cuối thế kỷ 19.

                    Về mặt lý tính


                    1 Con sư tử đực châu Phi có thể dài đến 2,5 m và nặng 272 kg
                    (Nguồn hình: wikipedia)


                    Chiều dài 1 con cọp Xi-bia có thể lên đến 3,38 m và nặng khoảng 389 kg trong tự nhiên
                    (Nguồn hình: 99hdwallpaper)


                    Về mặt săn mồi


                    Nguồn hình: Africadreamsafaris​​

                    Sư tử thường đi săn theo đàn và nhiệm vụ này thường do các con cái trong đàn đảm trách. Trong khi đó lũ đực chỉ có nhiệm vụ trong chừng đám trẻ. Tuy nhiên, khi 1 con đực ra tay thì con mồi thường có kích cỡ lớn hơn chúng rất nhiều, có thể là một con hươu cao cổ. Tuyệt chiêu của chúng là dùng hàm răng sắc nhọn của mình để cắn gãy cổ những con mồi.


                    Nguồn hình: idailymail


                    Ngược lại, cọp bản năng là loài sát thủ đơn độc. Mưu yêu thích của chúng là nằm phục kích chờ thời cơ con mồi đến gần sẽ ra tay thủ tiêu. Sức mạnh của nó có thể knock out những tên hùm xám chính vì thế tiếng ác chúa tể rừng xanh có phần lẫy lừng hơn vua rừng già. Cũng nói thêm, 1 cú tát trời giáng của cọp có thể dễ dàng cướp đi sinh mạng của 1 người bình thường.

                    Về mặt kỹ thuật chiến đấu


                    Nguồn hình: turtlehurtled

                    Khi nhảy, sư tử có thể sử dụng cả 2 chân trước của mình để chiếm ưu thế. Tuy nhiên, trong những trận sáp lá cà , chúng chỉ có thể sử dụng 1 chân trước để chiến, chân còn lại làm nhiệm vụ giữ cân bằng cho cơ thể. Đó là lý do chúng gặp hạn chế trong việc chiếm thế thượng phong về chiều cao.


                    Nguồn hình: easytourchina​

                    Về võ công thì loài cọp có phần thượng thừa hơn. Cụ thể chúng có thể nhảy xa đến 6m, giữ thăng bằng tốt hơn, ra đòn với tốc độ trời giáng và tuyệt chiêu cuối cùng của chúng là vồ bằng 2 chân trước. Đó là lý do vì sao môn kungfu có 1 chi võ bắt chước theo các động tác loài cọp. Để biết thêm các chi võ còn lại mời xem phim Kungfu Panda Chưa hết, chân của cọp khỏe đến nỗi chúng có thể chết trong tư thế đứng hiên ngang.


                    Nguồn hình: funnyfunda​

                    Dù cùng họ nhà mèo, nhưng cọp lại có nhiều điểm không giống sư tử như chúng có thể tung hoành cả dưới nước. Ngoài ra chúng cũng có bộ não lớn thứ 2 trong các loài ăn thịt, chỉ sau loài gấu bắc cực.

                    Nếu lỡ có dịp cọp đụng độ với sư tử thì cơ may cọp nằm ở "kèo trên" sẽ nhiều hơn Vì chỉ trúng 1 cú tát vào động mạch chủ, thì sư tử sẽ biết vì sao biển xanh lại mặn, củ sắn lại trắng liền.

                    Cuối cùng, chắc các bạn cũng đoán được ai là chúa tể của những khu rừng rồi phải ko. Hẹn gặp các bạn trong những chủ đề cuộc chiến bất hủ kỳ sau!

                    Cập nhật: Chúa Sơn Lâm xứng đáng là Cọp, còn danh hiệu Vua Sơn Lâm chắc thuộc về Sư tử

                    PS
                    : "Bản lĩnh": nói tới đây chắc nhiều bạn nghĩ bậy... Mà đúng là vậy. Sư tử đực lúc nào cũng có 5 thê 17 thiếp nên hầu như "quanh năm". Cứ thấy khoẻ trong người, ăn uống đầy đủ là ... ^_^ còn hổ thì "theo mùa", mỗi năm chỉ có 1 mùa, đó là chưa kể phải cạnh tranh khốc liệt... Có khi "nằm không".

                    Vậy là xét trên từng yếu tố đơn lẻ hổ có thể hơn sư tử nhiều mặt, nhưng nếu phải chọn làm sư tử (đực) hay hổ... Các bạn sẽ chọn con nào? Nói thiệt đi.

                    Source: tinhte
                    SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                    HỒ VI LAO KỲ SINH

                    Comment


                    • #25
                      XE BAY trở thành hiện thực


                      Nếu bạn thích có một chiếc "hover-bike", tức loại xe có thể bay lơ lửng trên mặt đường thì ngay bây giờ có thể đặt hàng ngay một chiếc của hãng Aerofex với giá 85.000 USD. Hãng này vừa công bố giá bán chính thức cũng như thời gian giao hàng vào năm 2017. Chiếc xe bay Aero-X từng được hãng thử nghiệm cách đây 2 năm nay đã bước vào giai đoạn hoàn thiện và nó có thể bay nhanh tới 72 km/h ở độ cao tối đa là 10 mét so với mặt đất bên dưới.

                      Bởi vì bay là chính nên chiếc xe này không có bánh xe, thay vào đó nó có 2 cánh quạt được làm bằng sợi Carbon siêu nhẹ và bền nằm ở phía trước và đuôi của xe. Chính 2 cánh quạt này sẽ giúp cho chiếc xe có thể bay lơ lửng trên mặt đất và cả mặt nước, sau đó bay lướt đi một cách dễ dàng. Theo nhà sản xuất cho biết sau khi đổ đầy nhiên liệu thì chiếc xe có thể bay liên tục 1 tiếng 15 phút. Aero-X có tổng cộng 2 chỗ ngồi và chở được tối đa 140 kg.


                      Ảnh render chiếc xe bay Aero-X




                      Theo CNET, Aerofex​
                      SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                      HỒ VI LAO KỲ SINH

                      Comment


                      • #26
                        PIN _ Lịch Sử 400 Năm Hình Thành & Phát Triển


                        Pin là nguồn năng lượng thông dụng cho nhiều thiết bị cá nhân, gia dụng cho đến các ứng dụng công nghiệp. Có nhiều chủng loại, kích thước pin khác nhau tương ứng với rất nhiều thiết bị tiêu thụ điện từ đồng hồ đeo tay, đồ chơi trẻ em, điện thoại di động, máy tính bảng đến pin cỡ lớn dùng cho xe điện,... Pin đã, đang và sẽ là một công cụ lưu trữ năng lượng được sử dụng phổ biến không chỉ trong hiện tại mà còn nhiều năm nữa trong tương lai. Chuyên mục "Mỗi tuần 1 phát minh" lần này sẽ cùng các bạn tìm hiểu các câu hỏi đặt ra xung quanh loại thiết bị quen thuộc và quan trọng nói trên: Pin được chế tạo lần đầu tiên khi nào? Ai đã phát minh ra pin? Pin sạc có từ bao giờ?...

                        Tóm tắt các cột mốc quan trọng có liên quan mật thiết đến quá trình phát triển của pin


                        Pin được phát minh khi nào? 400 năm hay hơn 2000 năm trước?

                        Một trong những phát minh vĩ đại và đáng chú ý nhất của con người trong 400 năm qua chính là điện. Những dòng điện đầu tiên có thể được tạo ra trước đó, nhưng mãi đến cuối những năm 1800 thì nhân loại mới chứng kiến được những ứng dụng cụ thể của điện. Đó là 250.000 bóng đèn dây tóc thắp sáng Triễn lãm tiêu dùng tại Chicago, Mỹ năm 1893 hay làm một cây cầu bắt qua sông Seine, Paris phát sáng tại Hội chợ thế giới năm 1900.

                        Tuy nhiên, những dòng điện đầu tiên đã được con người tạo ra từ nhiều năm trước đó. Vào năm 1963, trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt gần Baghdad, những công nhân đã phát hiện ra những "viên pin của người Parthian" có niên đại lên tới 2000 năm nằm trong một hầm mộ cổ. Đây là những viên pin xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người do bàn tay chế tạo của những người Parthian, một dân tộc miền Bắc Ba Tư.


                        Trong số những di tích được tìm thấy trong lăng mộ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một cái vại hoặc bình bằng đất sét chứa đầy giấm với một thanh sắt cắm vào chính giữa sau đó niêm phong kính miệng bình. Xung quanh thanh sắt được bao bọc bởi ống quấn bằng các tấm đồng. Mỗi bình có chiều cao khoảng 15 cm, ống đồng có đường kính khoảng 4 cm và dài 12 cm. Sau khi dựng lại và thử nghiệm với một phiên bản tương tự, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng "bình pin" có khả năng tạo ra dòng điện từ 1,5 đến 2 V giữa trụ sắt và tấm đồng.

                        Qua đó, các nhà khoa học đã dự đoán rằng những người Parthian cổ đại đã sử dụng các công cụ tạo ra dòng điện để mạ vàng và bạc vào những vật dụng từ những năm 250 trước công nguyên. Nhiều nhà khoa học cho rằng người Parthian chỉ sử dụng các công cụ trên cho mục đích mạ chứ chưa nhìn nhận nó như một nguồn năng lượng. Nhiều bằng chứng khảo cổ khác cho thấy những người Ai Cập cổ đại cũng đã biết mạ antimon lên các vật dụng bằng đồng từ hơn 4300 năm trước. Các di tích khảo cổ khác cũng cho thấy những người Babylon cũng đã khám phá và sử dụng kỹ thuật dùng nước ép nho như một chất điện phân để mạ vàng lên đồ trang sức.

                        1786 - Cặp chân nhái đã chết nhưng biết cử động!


                        giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) với phát hiện đâm que sắt vào chân nhái đặt trên bàn kim loại khiến chân nhái co giật​

                        Năm 1786, trong khi thực hiện một bài giảng, giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) tại trường Đại học Bologne, Italy, đã dùng một thanh kim loại đâm vào một con nhái đã lột da. Do tình cơ con nhái được đặt trên mặt bàn bằng kim loại, chân con nhái có hiện tượng co giật lại. Galvani đã rất ngạc nhiên với hiện tượng này và sau vài ngày tìm hiểu, ồn đã nhận ra rằng chân nhái co giật khi đầu thanh kim loại đâm vào và chạm tới mặt bàn kim loại bên dưới.

                        Một ngày khác, Galvani đã dùng một móc đồng phơi đôi chân nhái phía trên một thanh sắt ngoài ban công. Galvani đã nhận thấy rằng khi gió thổi khiến đôi chân nhái đung đưa chạm vào thanh sắt và ngay tức khắc, chân nhái sẽ bị co giật. Ông suy nghĩ để cố lý giải cho hiện tượng kỳ lạ này và một ý tưởng đã lóe lên trong đầu ông: điện. Galvani kết luận rằng điện có trong khắp mọi vật và có trong cả đôi chân nhái. Ông đặt tên cho loại điện này là "điện của sinh vật" và công bố phát hiện của mình trên một bài báo khiến cho giới khoa học gia châu Âu hết sức sửng sốt với loại điện mới này.

                        Ngày nay, chúng ta đều biết rằng Galvani đã nhầm lẫn khi cho rằng đó là điện của sinh vật và ông chỉ dừng lại ở hiện tượng mà không tìm hiểu nguyên nhân sinh ra điện. Tuy nhiên, phát hiện trên của Galvani đã tiến rất gần tới những nguyên lý mở đường cho việc chế tạo pin sau này.


                        "Pin Volta" - Pin đầu tiên của nhân loại ra đời vào năm 1800


                        Alessandro Volta (1745-1827) là giáo sư vật lý tại Đại học Pavie, Italy, cha đẻ của pin​

                        Alessandro Volta (1745-1827) là giáo sư vật lý tại Đại học Pavie, Italy. Trước đó, Volta đã có nhiều nghiên cứu nhằm tăng cường tính điện của chai Laiden. Trước đó, ông đã đề xuất mô hình "súng lục bắn điện" nhằm thực hiện liên lạc đường dài. "Khẩu súng luc điện" được nối với một sợi dây sắt được đặt trên các cọc gỗ kéo dài từ Milan đến Como, Italy. Đầu cuối của dây sắt được nối với một chai chứa đầy khí mê tan. Khi muốn gởi một thông điệp được mã hóa, "súng lục điện" sẽ "bắn" một tia lửa điện và người nhận sẽ "đọc" được các thông điệp trên chai chứa mê tan. Dù vậy, mô hình của ông không hề được chế tạo thực sự.

                        Từ khi Galvani phổ biến các phát hiện của mình về "điện của sinh vật" vào năm 1791, tại nhiều phòng thí nghiệm lớn tại châu Âu, hàng loạt các nhà khoa học đã thực hiện các thí nghiệm với đôi chân nhái của Galvani. Có người đã nối đôi chân nhái với chai Leiden (hình thái đầu tiên của tụ điện, một chai thủy tinh tích trữ tĩnh điện giữa 2 điện cực bên trong và bên ngoài chai) và nhận thấy rằng đôi chân nhái có sự co giật dữ dội. Với thí nghiệm trên, các nhà khoa học bắt đầu nghi ngờ về giả thuyết "điện sinh vật" của Galvani. Trong số những người phản đối giả thuyết có Alessandro Volta.

                        Đối với thí nghiệm chân nhái , Volta không quan tâm đến hiện tượng co giật đơn thuần, sâu xa hơn, ông cố gắng tìm hiểu nguồn điện đã sinh ra từ đâu để làm chân nhái có thể co giật. Volta nhận thấy rằng chân nhái chỉ co giật khi có sự tiếp xúc của 2 kim loại khác nhau. Sau khi tiếp tục nghiên cứu, Volta phát hiện thêm rằng điện sinh ra do phản ứng hóa học và hiện tượng co giật của chân ếch chỉ xảy ra khi 2 kim loại khác nhau tiếp xúc trong một dung dịch muối. Cụ thể, dung dịch muối tồn tại bên trong cơ thịt của chân nhái.


                        Mô hình pin của Volta​

                        Tiếp tục nghiên cứu, năm 1800, Volta đã thực hiện một loạt các thử nghiệm dùng kẽm, chì, thiếc và sắt làm tấm tích điện âm (cathode); và đồng, bạc, vàng, than chì như một tấm tích điện dương (anode). Sau đó, ông xếp các tấm trái cực xen kẽ với nhau, ngăn cách bởi miếng giấy xốp tẩm dung dịch muối ăn. Cuối cùng, ông nối điểm đầu với điểm cuối với một sợi dây dẫn và nhận thấy có 1 dòng điện chạy qua. Đây chính là viên pin đầu tiên của nhân loại được mang tên là "pin Volta". Sở dĩ danh từ pin hay chính xác hơn là pile được đặt cho thiết bị này chính là do đây là 1 chồng các miếng tròn bằng đồng và kẽm có hình dáng như một chiếc cọc.


                        Mô hình pin đầu tiên của Volta còn được bảo tồn đến ngày nay​
                        Cũng trong năm 1800, Volta đã công bố phát hiện của ông về một nguồn cấp điện ổn định trước Hội đồng khoa học Hoàng Gia tại London trước sự chứng kiến và thán phục của nhiều nhà khoa học từ khắp châu Âu. Với phát minh này đã giúp tên tuổi của Volta lừng lẫy khắp nơi và được ghi nhận là người có đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại.


                        Hình ảnh Volta đang thực hiện thí nghiệm với sự theo dõi trực tiếp của hoàng đế nước Pháp Napoleon Bonaparte.​

                        Tuy nhiên, Pháp mới là quốc gia đầu tiên công nhận phát minh của Volta do trong giai đoạn bấy giờ, nước Pháp đang cố gắng tiếp cận với nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên sẵn sàng đón nhận bất cứ ý tưởng mới nào được đề xuất. Không lâu sau đó, Volta được mời tới Pháp và giảng dạy tại Viện hàn lâm khoa học Pháp về các nghiên cứu điện học của ông. Thậm chí trong nhiều bài giảng của ông có sự theo dõi của Napoleon Bonaparte.


                        Nhà vật lý và hóa học người Cornwall, vương quốc Anh, Humphry Davy (1778-1829) cùng mô hình pin.

                        Trong cùng năm 1800, nhà vật lý và hóa học người Cornwall, vương quốc Anh, Humphry Davy (1778-1829) đã bắt đầu thử nghiệm các tác dụng hóa học của dòng điện và phát hiện ra rằng dòng điện có khả năng tách các chất trong dung dịch mà ngày nay chúng ta biết đó là sự điện phân. Dựa trên mô hình của Volta, Davy đã chế tạo ra pin điện lớn nhất và mạnh nhất tính đến thời điểm bấy giờ tại tầng hầm của Viện khoa học Hoàng gia Anh. Những nhân chứng đã kể lại rằng mô hình pin của ông đã làm một chiếc đèn hồ quang điện chat sáng rực rỡ chưa từng thấy. Ngoài ra, Davy cũng là người nổi tiếng với việc phát hiện ra khí gây cười N2O hay đèn mỏ an toàn.


                        Nhà hóa học người Anh, William Cruickshank với thiết kế mô hình pin đầu tiên có thể sản xuất dưới quy mô công nghiệp

                        2 năm sau đó, vào năm 1802, nhà hóa học người Anh, William Cruickshank thiết kế mô hình pin đầu tiên có thể sản xuất dưới quy mô công nghiệp. Cruickshank đã đề xuất phương pháp dùng các tấm kẽm và đồng có cùng kích thước, xếp xen kẽ với nhau, đặt vào một hộp gỗ dài hình chữ nhật và dán chặt lại. Bên trong hộp có các rãnh để giữ cố định các tấm kim loại và chứa nước đầy nước muối hoặc acid pha loãng để làm chất điện phân. Thiết kế này có ưu điểm so với mô hình ban đầu của Volta là không bị khô và có thể cung cấp được dòng điện mạnh hơn. Mô hình pin của Cruickshank giống như pin ướt mà chúng ta vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay.

                        Từ pin có thể sạc được, pin ướt cho đến pin khô


                        Pin ướt có thể sạc được của nhà vật lý người Pháp Gaston Planté

                        Vào năm 1836, nhà hóa học người Anh, John F. Daniell đã phát triển một phiên bản pin hoàn thiện hơn với hiệu suất được cải thiện và tạo ra dòng điện ổn định hơn so với nguyên bản ban đầu của Volta hay Cruickshank. Tuy nhiên, cho tới thời điểm bấy giờ thì toàn bộ đều là pin sơ cấp, nghĩa là chỉ dùng được 1 lần và không thể sạc để tái sử dụng được. Đến năm 1859, nhà vật lý người Pháp Gaston Planté phát minh ra pin sạc đầu tiên. Đó là một pin với các tấm chì ngăn cách nhau bởi tấm vải flannel và được đặt trong acid sunfuric loãng. Pin sẽ được sạc lại bằng cách châm thêm acid vào để tái sử dụng. Mô hình này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay dưới tên gọi pin ướt hoặc ắc quy ướt (bình ướt) hoặc pin carbon zinc


                        Kỹ sư người Pháp Georges Leclanché (1839-1882) và mô hình pin của ông.​

                        Năm 1866 tại Pháp, kỹ sư Georges Leclanché (1839-1882) đã chế tạo pin ướt với các điện cực ngâm mình trong dung dịch điện phân. Tuy nhiên không lâu sau đó, ông đưa ra sáng kiến cải thiện pin bằng cách dùng dung dịch hồ amoni chloride sau đó niêm phong pin lại. Sáng kiến này đánh dấu sự ra đời của thế hệ pin khô. Thế hệ pin mới cho phép pin được sử dụng ở nhiều vị trí khác nhau, chịu được di chuyển dao động mạnh mà không sợ dung dịch điện phân bị tràn ra ngoài như pin ướt. Thêm vào đó, pin cũng được chế tạo thành dạng ống hoặc hình hộp bên trong chứa các bộ phận khác của pin như các cực dương làm bằng kẽm (anode) và cực âm gồm mangan dioxide và carbon theo tỷ lệ 8:1 (cathode). Hồ điện cực còn có thể chứa thêm kẽm chloride.

                        Năm 1881, Camille Faure chế tạo pin dùng các dải cọc chì oxit làm điện cực để thay thế cho các tấm chì trong pin ướt trước đây. Điều này cho phép tạo ra dòng điện mạnh và ổn định hơn rất nhiều. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển của pin ướt sau này với nhiều loại điện cực khác nhau.


                        Pin NiCd​

                        Đến năm 1899, nhà khoa học Waldemar Jungner đến từ Thụy Điển đã phát minh ra pin nickel-cadimi (NiCd). Đây là thế hệ pin dùng nickel làm cực âm (cathode) và cadimi làm cực dương (anode). Tuy nhiên, do chi phí chế tạo khá cao nên pin NiCd không được áp dụng rộng rãi cho nhiều người sử dụng. 2 năm sau đó, nhà phát minh nổi tiếng Thomas Edison đã phát triển mô hình pin khác bằng cách dùng sắt để thay thế Cadimi làm anode giúp giảm giá thành nguyên vật liệu sản xuất pin. Dù vậy, mô hình pin Nikel-Sắt của Edison đã gặp phải các nhược điểm nghiêm trọng: năng lượng yếu, hiệu suất kém ở nhiệt độ thấp và khả năng tự xả cao. Tất cả các nhược điểm trên khiến pin của Edison cũng không được đưa vào sản xuất và sử dụng rộng rãi.

                        Mãi cho tới năm 1932, Shlecht và Ackermann đã đạt được thành công trong việc cải tiến pin NiCd với dòng điện mạnh và tuổi thọ cao. Giải pháp cải tiến của 2 nhà phát minh là trang bị thêm những tấm vách ngăn các điện cực thành nhiều khoang. Năm 1947, George Neumann tiếp tục hoàn thiện mô hình trên thông qua việc chế tạo thế hệ pin NiCd với nhiều vách ngăn bên trong được hàn kín lại.


                        Pin NiMH quen thuộc với tất cả chúng ta ngày nay​

                        Nhiều năm sau đó, pin NiCd tiếp tục là loại pin duy nhất có thể sạc và di chuyển được. Vào những năm 1990, vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu tại châu Âu và các nhà khoa học bắt đầu chú ý đến pin NiCd do khả năng xử lý các hóa chất độc hại sau quá trình sử dụng. Các đạo luật được ban hành nhằm hạn chế việc sử dụng các nguyên tố này và chuyển sang sử dụng pin Nickel-Sắt Hydrid (NiMH) thân thiện với môi trường hơn. Dù vậy, tương tự như pin NiCd, pin NiMH vẫn chưa thật sự đạt được hiệu quả như mong đợi và các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục phát triển nên một thế hệ pin ưu việt hơn. Đây chính là bàn đạp tạo tiền đề cho sự ra đời của pin lithium-ion (Li-ion).

                        Pin Li-ion ra đời và phát triển cho đến ngày nay


                        Nhà hóa học người Mỹ Michael Stanley Whittingham, người đầu tiên đề xuất ý tưởng pin Li-ion

                        Pin Li-ion đầu tiên được đề xuất vào những năm 1970 bởi nhà hóa học người Mỹ Michael Stanley Whittingham (1941) đến từ Đại học Binghamton sử dụng titanium sunfide và kim loại liti thuần làm các điện cực. Dù vậy, do Liti là một kim loại hoạt động mạnh nên khi tiếp xúc với không khí dễ dàng xảy ra các phản ứng hóa học gây nguy hiểm. Chính vì vậy, mô hình pin dùng liti thuần làm cực dương đã không được chấp nhận. Cùng thời gian này, J. O. Besenhard tại Đại học Munich đã phát hiện ra tính chất trao đổi ion thuận nghịch giữa than chì và cathode bằng oxit kim loại.

                        Tiếp theo vào năm 1979 tại Đại học Oxford, John Goodenough và Koichi Mizushima đã chế tạo một loại pin sạc tạo ra dòng khoảng 4 V sử dụng Liti Cobalt Oxit (LiCoO2) làm cực dương và liti thuần làm cực âm. LiCoO2 là một chất dẫn điện tích điện dương với tính ổn định cao nên có thể cung cấp các ion liti nhằm tạo ra dòng điện. Khả năng này đã mở ra triển vọng sử dụng LiCoO2 làm cực dương cho các thế hệ pin hoàn toàn mới có thể sạc lại một cách dễ dàng.

                        Năm 1977, Samar Basu đến từ đại học Pennsylvania đã chứng minh tính khả thi của việc chế tạo và sử dụng pin điện hóa với các điện cực bằng liti và than chì. Không lâu sau đó, mô hình này đã chính thức được chế tạo bởi các kỹ sư tại phòng thí nghiệm Bell (hiện nay là phòng thí nghiệm AT&T).


                        Rachid Yazami, người chứng minh tính điện hóa thuận nghịch của liti trong than chì​

                        Vào năm 1980, Rachid Yazami tiếp tục chứng minh tính điện hóa thuận nghịch của liti trong than chì. Dù vậy, các chất hữu cơ dùng làm chất điện phân trong thế hệ pin mới này bị phân hủy trong quá trình sạc. Do đó, Yazami đã đề xuất hỗn hợp chất hữu cơ rắn bền vững trong quá trình sạc làm chất điện phân. Mô hình chất điện phân của Yazami vẫn còn sử dụng trong các thế hệ pin Li-ion cho đến hiện nay.

                        Đến năm 1983, Michael M. Thackeray, Goodnewa và các cộng sự đã xác định có thể dùng khoáng chất Mangan Spinen để chế tạo cực dương cho pin Li-ion. Đây là loại khoáng chất có tính dẫn điện tốt, giá thành rẻ và hoạt động ổn định. Tuy vẫn còn nhược điểm là bị tiêu hao dần trong quá trình sạc nhưng vẫn có thể khắc phục bằng các biện pháp chỉnh sửa hóa học. Cho đến năm 2013, Mangan Spinen vẫn tiếp tục được sử dụng cho các thế hệ pin Li-ion thương mại.


                        Sơ đồ nguyên lý hoạt động của pin Li-ion​

                        Vào năm 1985, Akira Yoshino lắp ráp mô hình pin đầu tiên dựa trên tất cả các yếu tố thành công từ trước, sử dụng vậy liệu cacbonate giúp giữ các ion liti trong 1 điện cực giúp LiCoO2 bền vững trong không khí hơn. Chính vì lý do này, thế hệ pin Li-ion đã được hoàn thiện và an toàn hơn rất nhiều so với trước đây.


                        Viên pin Li-ion này có quen thuộc với các bạn không?​
                        Năm 1991, tập đoàn điện tử Sony chính thức thương mại hóa pin Li-ion dưới quy mô sản xuất công nghiệp. Cho đến nay, hầu hết các hoạt động nghiên cứu đều xoay quanh việc cải thiện hiệu suất của pin Li-on. Bên cạnh việc cung cấp năng lượng cho điện thoại di động, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, dụng cụ điện và các thiết bị y tế, pin Li-ion hiện nay còn được sử dụng cho xe điện. Đây là thế hệ pin đáng chú ý nhất tính đến thời điểm hiện tại do có mức lưu trữ năng lượng cụ thể, thiết kế đơn giản, hiệu suất cao, cho dòng ổn định, chi phí bảo trì thấp và khá thân thiện với môi trường.

                        Tiếp theo đó là sự kiện công ty Bellcore chính thức thương mại hóa pin Li-ion Polymer vào năm 1994 sau quá trình nghiên cứu. Bước tiếp theo là pin sự xuất hiện của pin li-ion với cathode bằng mangan, pin li-phosphate được các nhà khoa học liên tục cải tiến và hoàn thiện để chính thức thương mại hóa. Các nhà khoa học dự đoán tiếp theo sẽ là sự ra đời của những thế hệ pin phát triển dựa trên tiến bộ của công nghệ nano giúp tăng cường hiệu suất cũng như kích thước và tuổi thọ của pin.


                        Theo AAB, BatteryUniversity, IEEE, MaximumPC, ARRL, Historium, Electroline, Glogster, Chemheritage, Telephonecolecting, Batteryfacts, Intechopen, Rollingsd, Wiki (1), (2), (3)
                        SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                        HỒ VI LAO KỲ SINH

                        Comment


                        • #27
                          Các PHƯƠNG TIỆN LƯU TRỮ tốt nhất của mọi Thời Đại

                          Lịch sử các phương tiện lưu trữ ghi nhận từ thời sơ khai như các bức tranh vẽ trong hang động hay thông tin với hệ thống báo chi... Trong thời đại công nghệ hiện đại thì đây là những phương tiện lưu trữ tốt nhất từ trước tới nay.

                          Băng từ- Magnetic tape


                          Băng từ đặt dấu ấn trong lịch sử âm nhạc và hình ảnh.


                          Băng từ là một phương tiện ghi âm bằng từ tính được làm bằng một lớp phủ magnetizable mỏng trải trên cuộn phim nhựa dài và mỏng. Các thiết bị, định dạng đã phát triển từ những năm 1950 đáng chú ý nhất là hệ thông Uniservo, định dạng reel-to-reel và băng cassette nhỏ gọn. Và đến nay thì công nghệ này vẫn đang tiếp tục phát triển với loại băng từ có thể lưu trữ gần 200 TB dữ liệu của Sony. Băng từ đã được đưa vào phục vụ con người như một phương tiện đáng tin cậy, giá thành hợp lý cho việc lưu trữ dữ liệu của phần lớn các máy tính trong lịch sử trước đây.

                          Vào thế kỉ trước thì băng từ là một trong những trụ cột của ngành công nghệ và giải trí có mặt trong các thiết bị chơi nhạc cầm tay, video gia đình, giải pháp lưu trữ… Thậm chí các trò chơi đầu tiên của máy tính cá nhân 8-bit ZX Spectrum, Commodore 64, Atari đều xuất hiên trên băng từ. Nếu thiếu định dạng lưu trữ này thì thời đại thông tin đã có thể bị lùi lại vài thập kỉ.

                          Đĩa mềm 3,5-inch


                          Đĩa mềm "mê tư" là một dấu ấn lịch sử của thời kì đầu máy tính cá nhân"


                          Đĩa mềm 8-inch và 5,25 inch được phát triển vào thập niên 70 đã được ứng dụng vào trong các ngành đặc thù. Nhưng đến đầu nhưng năm 1980, đĩa mềm 3.5-inch ra đời đã đánh dấu một phương tiện lưu trữ bỏ túi hoàn hảo cho thị trường máy tính cá nhân đang phát triển. Đĩa mềm 3,5 inch dễ dàng trong lưu trữ, cung cấp một lượng không gian lưu trữ khá tốt. Thời điểm đó hầu hết mọi người chỉ lưu trữ tệp tin văn bản và các chương trình ứng dụng nhỏ. Còn lưu trữ nhạc hay video trên máy tính vào thời điểm này thì là một giấc mơi của người dùng.

                          Vào cuối thập niên 80, đĩa mềm 3,5inch có dung lương 1.44MB đã được tiêu chuẩn hóa, và đó là thiết bị lưu trữ di động chiếm ưu thế cho đến khi đia quang CD đã có giá cả phải chăng trong cuối thập niên 90. Mặc dù một số nỗ lực để thay đổi như đĩa Zip hay đĩa Jaz nhưng vẫn không thể cản lại bước tiến công nghệ. Sony là hãng cung cấp đĩa mềm 3,5 inch lớn nhất thế giới. Năm 2008, công ty chiếm 40% thị phần trên cả thế giới, và 70% ở Nhật Bản. Doanh số đĩa mềm 3,5 inch đạt mức cao nhất vào năm 2000 với 47 triệu đĩa, tuy nhiên đến năm 2009 con số này chỉ còn 8,5 triệu.

                          Khi iMac đầu tiên được giới thiệu vào năm 1998 không được trang bị ổ đĩa mềm, Apple đã bị chế giễu bởi nhiều chuyên gia công nghệ cao vào thời điểm đó bởi vì đĩa mềm 3.5-inch đã rất phổ biến. Và nay lịch sử đã chứng minh Apple đã quyết định đúng khi từ bỏ đĩa mềm.

                          Đĩa compact


                          Đĩa CD mang âm nhạc vào thế giới số.


                          Hiện nay một số những người đam mê âm nhạc vẫn đang còn sử dụng khá nhiều dòng sản phẩm này, những chiếc đĩa quang này đã mang âm nhạc vào thời đại kĩ thuật số. Những chiếc đĩa CD nhạc đầu tiên được giới thiệu vào đầu năm 1980 nhưng phải đến những năm 1990 định dạng này mới bắt đầu thực sự cất cánh. Tiện ích đầu tiên mà định dạng quang học mang lại cho người dùng là khả năng cũng như chất lượng âm thanh không bị suy giảm khi nghe lặp đi lặp lại nhiều lần hiệu quả hơn để thay thế băng cassette trong các máy nghe nhạc di động. Đĩa CD được xem như là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực giải trí số nhất là thời điểm Sony quyết định sử dụng đĩa quang để thay thế băng từ, một trong những điểm nhấn đó là Final Fantasy VII.

                          Ngoài thành công trong việc chuyển đối thế giới âm nhạc kỹ thuật số, đĩa CD cũng cho phép người dùng dễ dàng lưu trữ và truy cập lượng dữ liệu lưu trữ khổng lồ với giá thành thấp. Ổ ghia đĩa CD bắt đầu bùng nổ vào cuối những năm 1990 đã đẩy đĩa mềm và đĩa Zip trở nên lỗi thời. Khả năng sao lưu với quy mô lớn đã trở nên thiết thực với người dùng bình dân. Các phương tiện lưu trữ đĩa quang này cũng tồn tại được thời gian khá dài và dần bị đẩy lùi bở các định dạng khá cao cấp hơn như thẻ nhớ flash giá rẻ. Mặc dù vậy đĩa quang là vẫn là một điểm nhất quan trọng trong lịch sử các thiết bị lưu trữ.

                          Thẻ SD- Secure Digital Card


                          Định dạng thẻ nhớ SD đang được sử dụng rộng rãi trên các thiết bị tiêu dùng.


                          Trong những năm 1990, một trong số những cạnh tranh về định dạng thẻ nhớ đươc đánh dấu bằng việc ra đời của 2 sản phẩm là CompactFlash và Memory Stick. Nhưng tại thời điểm này bởi giá thành khá cao nên cả 2 chuẩn thẻ nhớ này không được sử dụng rộng rãi.

                          Hiệp hội thẻ SD (SDA) được thành lập ngày 28/1/2000 bởi các tập đoàn Matsushita, Panasonic, SanDisk, Nintendo, Toshiba…. Và đến thời điểm hiện tại sau hơn 14 năm hoạt động thì thẻ SD đã trở thành một trong nhưng tiêu chuẩn lưu trữ.

                          Thẻ nhớ SD với thiết kế nhỏ gọn, dung lượng lớn và tốc độ cao đã trở thành phương tiện lưu trữ cho rất nhiều sản phẩm công nghệ tại thời điểm hiện tại. Có 4 dòng sản phẩm SD bao gồm : Hiệu suất tiêu chuẩn SDSC – Standard Capacity; Hiệu suất cao SDHC – High Capacity; Hiệu suất mở rộng SDXC - eXtended Capacity (SDXC); và loại thẻ kết hợp đầu vào/ ra dữ liệu SDIO.

                          Dòng sản phẩm SD còn được sử dụng rộng rãi trong điện tử tiêu dùng như điện thoại với tiêu chuẩn nhỏ gọn micro SD và có khả năng lưu trữ video 4k…

                          Ổ đĩa lai SSHD


                          Ổ đĩa lai SSHD.


                          Đĩa cứng HDD là một trong những phương tiện lưu trữ chi phối các thiết bị trong nhiều thập kỷ nay. Những chiếc đĩa cứng lưu trữ đầu tiên được ra năm vào thập niên 50 và phát triển mạnh mẽ cho đến hiện tại. SSD bắt đầu được sử dụng trong laptop mặc dù cho đến năm 2009, chi phí trên đơn vị lưu trữ của SSD vẫn đắt hơn HDD nhiều lần.

                          Và một định dạng mới ra đời là ổ đĩa lai SSD hay còn gọi là SSHD-solid-state hybrid drives. Bằng cách kết hợp giá thành thấp trên mỗi GB của HDD và tốc độ ấn tượng của SSD, định dạng SSHD đã nhanh chóng trở thành thiết bị lưu trữ di động cho người dùng tìm kiếm sự cân bằng hoàn hảo giữa chi phí và hiệu suất.

                          SSHD sử dụng các thuật toán "bộ đệm" (caching) do firmware của thiết bị điều khiển. Nó sẽ tính toán xem phần dữ liệu nào nên nằm trên phần flash và phần nào nằm trên các đĩa từ. Một Seagate SSHD dung lượng 1TB lưu trữ truyền thống và 8GB flash có giá khoảng 110 USD. Trong khi đó, một ổ cứng cung dung lượng nhưng định dạng SSD của Samsung có giá khoảng 450USD.SSHD cũng cho một hiệu năng hoạt động tương đương đặc biệt là liên quan đến thời gian khởi động. Vì thế SSD có thể là tương lai nhưng hiện tại là SSHD.

                          Source: PC World
                          SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                          HỒ VI LAO KỲ SINH

                          Comment


                          • #28
                            Công Nghệ Đồ Họa Mắt SIÊU THỰC

                            Disney Research giới thiệu công nghệ đồ họa mắt siêu thực tại SIGGRAPH Asia 2015



                            Tại hội nghị SIGGRAPH Asia về công nghệ đồ họa máy tính đang diễn ra, bộ phận nghiên cứu của Disney đã trình diễn một mô hình đồ họa 3D chi tiết của mắt người. Để tái hiện tất cả các chi tiết cần thiết nhằm tăng tính chân thực của thế hệ nhân vật mới, Disney Research đã phát triển một phương pháp đồ họa các chi tiết phức tạp này, không chỉ là về vẻ ngoài của mắt mà còn là sự phản ứng của mắt đối với ánh sáng.

                            Theo Disney Research, họ đã tạo ra một hệ thống ghi hình và đồ họa tiên tiến có khả năng tái tạo chính xác tất cả các thành phần thấy được của mắt gồm củng mạc màu trắng, giác mạc trong suốt và tròng đen. Các thành phần này có đặc điểm bên ngoài rất khác nhau, do đó họ sử dụng một phương pháp đồ họa kết hợp từng phần và tương quan giữa các phần với nhau. Kết quả là Disney Research đã có thể tạo ra một mô hình 3 chiều có vẻ ngoài tương tự với độ chi tiết chưa từng có.



                            Thêm vào đó, để tạo nên độ "thật" cao nhất cho con mắt đồ họa, Disney Research đã ghi lại hình ảnh mắt của nhiều người với nhiều hình dạng, màu sắc khác nhau và sự phản ứng co giãn của đồng tử trước nguồn sáng. Đưa vào mô hình đồ họa, tròng đen và đồng tử được tái hiện với nhiều kích cỡ và có thể thay đổi linh hoạt theo nguồn sáng. Như vậy, một nhân vật với con mắt đồ họa 3D này có thể thể hiện các chuyển động và biểu hiện qua đôi mắt như thật. Pascal Bérard - nhà nghiên cứu tại Disney Research tại Zurich cho biết: "Nhìn chung những đôi mắt mô hình có thể là đủ đối với các nhân vật nền nhưng giờ đây chúng tôi đã rất nổ lực để tạo ra những đôi mắt thực cho các nhân vật anh hùng và nhân vật chính."

                            Dự án trên không quá mới mẻ đối với bộ phận nghiên cứu của Disney bởi trước đây họ đã từng tìm kiếm một phương pháp tái hiện đôi mắt với độ chi tiết cao. Phương pháp lần này không chỉ cắt giảm lượng công việc cần phải thực hiện để tạo ra kết quả như ý mà công nghệ còn có thể giúp cải tiến việc mô hình hóa đôi mắt trong y học.



                            Nguồn: Disney Research
                            SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                            HỒ VI LAO KỲ SINH

                            Comment


                            • #29
                              Màn hạ thủy tàu chiến 3.500 tấn ấn tượng của Mỹ

                              Từ cuối thế kỷ 19 cho tới nay, hầu hết các con tàu khi hạ thủy lần đầu tiên đều dùng cách hạ thủy theo hướng đuôi tàu. Tuy nhiên, màn hạ thủy đặc biệt của Hải quân Mỹ từ thân tàu sẽ khiến bạn phải bất ngờ.


                              Màn hạ thủy thành công chiếc tàu chiến USS Detroit của Hải quân Mỹ được ghi lại vào ngày 18/10/2014. Chiếc tàu này có trọng lượng lên tới 3.500 tấn và tổng số tiền để chế tạo và lắp ráp lên tới 360 triệu USD.

                              Khi công nghệ đang ngày càng phát triển và các con tàu cũng không ngừng gia tăng về kích thước lẫn sự hạn chế về không gian hạ thủy. Lẽ dĩ nhiên, cần phải có một hình thức hạ thủy tàu thật hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Nhiều chuyên gia hàng hải đã lựa chọn cách thức hạ thủy tàu theo cách di chuyển từ thân tàu. Trong thế chiến thứ II, thậm chí hình thức này còn trở nên phổ biến hơn.

                              Tuy nhiên, cách thức hạ thủy theo thân tàu này giờ đây chỉ còn được áp dụng lần cho những tàu chiến được đặt ở những nơi như sông hoặc vịnh nhỏ trong lần hạ thủy đầu tiên.

                              Dưới đây là màn hạ thủy độc đáo được ghi lại:






                              Theo BusinessInsider

                              Source: VNReview
                              SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                              HỒ VI LAO KỲ SINH

                              Comment


                              • #30
                                The littoral combat ship (LCS 7)

                                Last edited by ttmd; 07-30-2015, 02:29 AM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X