Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Nhân Ngày Lễ Độc Lập Của Hoa Kỳ

Collapse
X

Nhân Ngày Lễ Độc Lập Của Hoa Kỳ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhân Ngày Lễ Độc Lập Của Hoa Kỳ

    Nhân Ngày Lễ Độc Lập Của Hoa Kỳ


    Lịch sử Hoa Kỳ (1776-1789)


    Ngày 19 tháng 4 năm 1775, một nhóm binh lính trong quân đội Anh hành quân vào đất liền từ Boston, Massachusetts để tìm một kho trữ vũ khí và được lệnh bắt giữ một số người lãnh đạo địa phương. Tại Lexington, họ đụng độ và bị một nhóm vũ trang địa phương nhỏ tập hợp tại trung tâm thành phố bắn. Đi xa thêm nữa, họ đụng độ một nhóm vũ trang khác lớn hơn tại một cầu tại Concord và phải rút lui. Trở về lại Boston, nhóm lính bị nhiều người bắn tỉa. Các cuộc đụng độ này, xảy ra sau 12 năm từ khi xung đột chính trị giữa nhóm người Mỹ và Nghị viện Anh ngày càng tăng, là dấu hiệu đầu tiên của Cách mạng Hoa Kỳ.

    Vào ngày 10 tháng 5, 1775, Hội nghị lục địa lần thứ nhì với đại biểu từ khắp 13 thuộc địa Anh bắt đầu họp tại thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Hội nghị tức khắc thiết lập một chính quyền liên bang bao gồm cả 13 thuộc địa, chiếm lấy những chức năng trước kia của vua và Nghị viện Anh, và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp của họ để tự trị. Hội nghị bổ nhiệm George Washington làm người lãnh đạo Quân đội lục địa (Continental Army) và gửi ông đến Boston, nơi các nhóm vũ trang địa phương đang bao vây quân đội Anh.

    Sau một năm xung đột, Hội nghị tuyên bố rằng nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ độc lập từ Anh trong bản Tuyên ngôn độc lập. Nhiệm vụ soạn bản tuyên ngôn độc lập được một ủy ban 5 người gánh, trong đó có John Adams và Benjamin Franklin, nhưng văn phong của tài liệu này phần lớn là do Thomas Jefferson. Tuy nhiên, văn bản của Jefferson đã được Franklin duyệt lại nhiều lần và được trình lên hội nghị sau khi sửa đổi nhiều nơi, trong đó có cả việc cắt xén phần tố cáo vua George về vấn đề nô lệ.

    Nước đầu tiên công nhận Hoa Kỳ sau khi tuyên bố độc lập là nước Dubrovnik (lúc đó được gọi là Ragusa).

    Với sự giúp đỡ từ đồng minh Pháp, Hoa Kỳ cuối cùng thắng Chiến tranh Cách Mạng Mỹ với Anh, ký Hiệp định Paris, cấp cho nước mới sinh ra này một lãnh thổ bao la trải dài từ Đại Tây Dương đến sông Missisippi, kể cả khu vực Ngũ Đại Hồ.

    Trong hậu quả chiến tranh, nước non trẻ này bị suy yếu kinh tế, và sự yếu đuối của các tổ chức chính trị làm lung lay chính quyền. Hội nghị lục địa thứ nhì vẫn còn giữ địa vị chính quyền liên bang, được chính thức trong Các điều khoản liên bang, được đưa ra và có hiệu lực vào năm 1778, nhưng không được phê chuẩn cho đến năm 1781. Các điều khoản liên bang là sơ đồ chính quyền của một liên minh lâu dài giữa các bang, nhưng không định rõ Hoa Kỳ là một quốc gia thật sự hay chỉ là một liên minh giữa các bang độc lập đang hợp tác với nhau.


    Vào năm 1787, khi nhiều người nhận rõ quốc gia này cần một chính quyền liên bang mạnh và trọn vẹn hơn, một hội nghị để xem xét sửa đổi các điều khoản được tổ chức. Hội nghị này, họp mặt tại Philadelphia, quyết định soạn thảo một hiến pháp, được 11 bang phê chuẩn vào năm 1788.

    Hiến pháp Hoa Kỳ thành hiệu lực trong năm 1789, và George Washington được bầu làm tổng thống đầu tiên.

    Cách mạng và Độc lập

    Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một liên hiệp gồm có 13 thuộc địa trải dài vùng duyên hải miền đông Bắc Mỹ. Trong thế kỷ 17 và 18, các thuộc địa đã thành lập truyền thống dân chủ tự trị khi bị Anh sao lãng trong lúc đang đương đầu với nội chiến và nhiều vấn đề khác. Sau khi Chiến tranh Bảy Năm (tại Bắc Mỹ được gọi là Chiến tranh Pháp và Người da đỏ) kết thúc vào năm 1763, Anh trở thành cường quốc mạnh nhất, nhưng bị nợ nần đầy rẫy. Nỗ lực tăng thế của Nghị viện Anh làm nhiều người thuộc địa lo rằng quyền tự trị của họ đang có nguy cơ.

    Sau một vài bất đồng với Nghị việt về chuyện thế má, những thuộc địa đầu tiên thành lập ủy ban để truyền đạt thông tin về các chống đối và cuối cùng tổ chức một hội nghị để tẩy chay hàng hóa Anh. Hội nghị lục địa đầu tiên này có 12 thuộc địa tham dự, nhưng không có các phần Florida của Anh và Georgia tại miền nam và Newfoundland và Nova Scotia tại miền bắc, cũng như phần nói tiếng Pháp Quebec. Hội nghị đầu này quyết định sẽ tổ chức một hội nghị thứ nhì nếu nỗ lực giải hòa với Anh bị thất bại.


    Hội nghị lục địa thứ nhì khai mạc vào tháng 5 năm 1775, sau cuộc xung đột giữa các nhóm vũ trang tại Massachusetts và quân đội Anh vào tháng 4. Với 13 thuộc địa tham dự, hội nghị thứ nhì bắt đầu tổ chức một chính quyền liên bang và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp bang để tự trị. Tháng 6 năm 1775, George Washington, một người Virginia tiếng tăm có kinh nghiệm trong Chiến tranh Pháp và Người da đỏ được bổ nhiệm làm chỉ huy Quân đội Lục địa mới vừa được thành lập do sự kết hợp của các lực lượng vũ trang đang bao vây quân đội Anh tại Boston.

    Ngày 4 tháng 7, 1776, Hội nghị lục địa thứ nhì, đang vẫn còn họp tại Philadelphia, tuyên bố độc lập trong một tài liệu quan trọng, bản Tuyên ngôn độc lập, được soạn thảo bởi Thomas Jefferson. Nước đầu tiên công nhận Hoa Kỳ là Dubrovnik (được gọi là Ragusa vào thời đó).

    Trong tháng 8, hải quân Anh đem quân đội Anh đến Thành phố New York, nơi quân Anh đang đóng chiếm vì quân phòng thủ của Washington còn quá yếu kém. Quân Anh đóng chiếm thành phố này cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Một kế hoạch lớn, sau này được gọi là Chiến dịch Saratoga, được chỉ huy từ Luân Đôn để đem quân từ Canada xuống nam và từ Hudson lên bắc, gặp lại tại Albany, New York để chia các thuộc địa thành hai phần, cách ly Tân Anh (New England) ra khỏi các lục địa khác. Vì thông tin không được, quân do tướng John Burgoyne chỉ huy xuống từ Canada đã gặp phải rừng rậm vào phía bắc của Albany, New York. Trong xuốt mùa hè 1777, quân của Burgoyne chỉ tiến được một vài dặm, và cuối cùng đã bị một lực lượng Mỹ đông người hơn đánh bại tại Trận chiến Saratoga. Trong lúc đó, quân đội Anh đáng lẽ phải tiến lên Hudson để gặp Burgoyne, nhưng lại tiến đến Philadelphia trong một nỗ lực kết thúc chiến tranh bằng cách chiếm giữ "thủ đô" của Mỹ.

    Chiến thắng tại Saratoga của quân Mỹ đã khiến Pháp công khai đồng minh với Mỹ. Khi Pháp tham gia, chiến tranh này đã trở thành một thế chiến, sau đó Tây Ban Nha và Hà Lan cũng tham gia vì họ là những cường quốc muốn ngăn chận sự bành trướng của Anh. Anh lại đem quân đến các lục địa miền nam ít người ở hơn và sự hăng hái tham gia vào cuộc cách mạng cũng thấp hơn. Trong năm 1781, một lực lượng gồm có quân đội Pháp và Mỹ, với sự hỗ trợ của một hạm đội Pháp, đã đánh bại một quân đội Anh lớn do Charles Cornwallis chỉ huy tại Yorktown, Virginia. Sau khi Corwallis đầu hàng, Anh không còn nỗ lực tìm giải pháp quân sự nữa.

    Trong các cuộc đàm phán, phía Mỹ được đại diện bởi một nhóm dưới sự lãnh đạo của Benjamin Franklin, trong đó có John Adams và John Jay. Họ bác bỏ thỏa thuận với Pháp để không thương lượng riêng với Anh (làm cho Pháp không đòi hỏi được gì từ Anh) và đã thương lượng được một ranh giới cho Mỹ. Ranh giới này vượt qua dãy Allegehny cho đến tận Sông Mississippi và khu vực phía nam Ngũ Đại Hồ, bao gồm một diện tích đất chưa có người ở lớn gần bằng Tây Âu. Thỏa thuận này được gọi là Hiệp ước Paris (1783).

    Sự hình thành các tổ chức liên bang


    Các điều khoản liên bang

    Hiệp ước Paris đem lại hòa bình và nền độc lập cho Hoa Kỳ, nhưng với một chính phủ chưa ổn định. Hội nghị lục địa lần thứ nhì đã viết ra Các điều khoản liên bang trong năm 1777 để làm rõ vai trò của hội nghị. Các điều khoản này đã tạo ra một liên minh lâu dài, nhưng cấp Hội nghị này, tuy là tổ chức liên bang duy nhất, ít quyền để tự quản lý tài chính hay thi hành các nghị quyết được đưa ra. Một số vụ náo động đã xảy ra tại một vài tiểu bang trong cuộc khủng hoảng kinh tế sau chiến tranh, cũng như nỗ lực của một số người vay nợ để dùng chính phủ để xoá nợ đã khiến giới lãnh đạo lo lắng. Thêm vào đó, Hội nghị bị xem là không trả nỗi nợ trong chiến tranh, cũng không phải là một diễn đàn hợp tác thương mại và kinh tế giữa các tiểu bang.

    Hội nghị hiến pháp

    Một số nỗ lực để tổ chức một phong trào đề cương và đòi hỏi cải cách đã dẫn đến Hội nghị tổ chức một Hội nghị mới, đã được khai mạc tại Philadelphia, Pennsylvania trong mùa hè năm 1787. Nay được gọi là Hội nghị hiến pháp năm 1787, nó có mục đích đơn giản là đưa ra những đề nghị cải cách Các điều khoản liên bang, nhưng đã trong bí mật thành một hội nghị để viết một hiến pháp mới sau buổi họp đầu tiên. Hiến pháp được Hội nghị đề ra đòi hỏi một chính phủ liên bang, tuy ít quyền nhưng vẫn độc lập và cao cấp hơn các tiểu bang. Chính phủ này có quyền đánh thuế, và có cả các nhánh hành pháp và tư pháp cũng như lập pháp có hai nghị viện. Nhánh lập pháp, hay Quốc hội

    Ngày 4 tháng 7 là ngày lễ Độc Lập của Hoa Kỳ. Trong hơn hai thế kỷ nay, người Mỹ đã dành ngày này để vinh danh những ý tưởng cao đẹp của tự do và bình đẳng. Những ý tưởng đó đã được thể hiện qua những dòng chữ được khắc ghi tại đài kỷ niệm tổng thống Thomas Jefferson ở thủ đô Washington. Những dòng chữ đó là: “Chúng tôi coi đây là một chân lý hiển nhiên. Đó là việc tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng và được Thượng Đế ban cho những quyền bất khả chuyển nhượng.

    Trong số những quyền này có quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc”. Đây là một đoạn trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ do ông Thomas Jefferson soạn thảo và được xem như là một văn kiện nổi tiếng biện minh cho những lý lẽ của cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ năm 1776.

    Vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, Quốc hội đã thông qua bản tuyên ngôn này, và kể từ đó mỗi năm cứ đến ngày 4 tháng 7 người Mỹ lại tổ chức ăn mừng ngày mà hiện nay được gọi là ngày Lễ Độc Lập.



    Source: "phiem-dam.com"


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X