Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Cơm Hến

    Cơm Hến
    Việt Phương

    Cơm Hến là một món cơm bình dân xứ Huế, nhưng trong đó chứa đựng cả một quá trình thật vất vả. Trước tiên, nói đến cơm Hến, dĩ nhiên là phải nói đến Hến. Muốn có được Hến, chúng ta không thể nào không nhắc đến những người làm nghề cào Hến trên sông Hương, hay đãi Hến nơi cồn Hến. Họ vất vả đi xúc, đãi từng con Hến nhỏ, về ngâm nước cho Hến nhả hết cát. Xong, họ rửa sạch, đun sôi lấy nước Hến, đãi lấy thịt Hến ra khỏi vỏ. Thật là nhiêu khê


    Cồn Hến - NGUỒN PANORAMIO.COM

    Tuy nhiên, ngày nay, có những lò chuyên nấu Hến và cung cấp Hến và nước Hến cho những quán ăn, những người bán hàng gánh, nên khâu này được giản dị thêm một bước.

    Phần tiếp theo cũng rắc rối những vấn đề, tuy là món bình dân nhưng theo đó là một chuỗi những rau và gia vị ăn kèm. Rất cầu kỳ thường có trong những cách chế biến thức ăn của kinh đô Phú Xuân một thời.

    Rau gồm: Khế chua cắt từng ngôi sao năm cánh rất đẹp mắt, bạc hà, bắp chuối (từ hoa chuối), lõi cây chuối non, rau muống chẻ, giá sống, rau xà lách, rau thơm đủ loại, ớt trái, chanh... (như thế đã có trên 10 loại rau trái khác nhau)

    Gia vị: Hành khô, gừng, tương ớt, mắm ruốc, đậu phụng chiên, tóp mỡ, (có nơi còn cho thêm bánh tráng nướng)

    Và dĩ nhiên là phải có cơm.

    Thật ra, ngày xưa cơm Hến dành cho những người nhà nghèo. Muốn sử dụng lại cơm nguội, nên ngày hôm sau chỉ luộc nồi Hến lên, rồi ra vườn cắt những thứ rau trái có sẵn trong vườn, nhất là lõi cây chuối non (phần già thường bằm cho heo ăn). Những món rau ăn độn với cơm, làm thành món cơm Hến.


    Bắt hến tại Vỹ Dạ - NGUỒN VIETNAMNET.VN

    Tôi nhớ nhất những sáng mưa phùn bay lất phất, thấy người gánh cơm Hến run rẩy trong chiếc áo mưa tơi. Khói nghi ngút một đầu gánh, đi ngang qua sân nhà. Me tôi thế nào cũng gọi bà vào, mua vài tô cơm Hến. Nhẹ nhàng đặt gánh xuống hiên nhà, bà gỡ miếng nylon che mỗi đầu quang gánh. Những giọt mưa như những giọt nước mắt theo đó nghẹn ngào nhểu xuống nền nhà. Ðôi tay bà run run trong cái lạnh. Hình ảnh đó vẫn theo tôi suốt từ thời thơ ấu. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam dãi dầu với biết bao hy sinh, chịu thương, chịu khó. Mỗi lần có dịp ăn cơm Hến, tôi không thể nào không bùi ngùi nhớ lại những hình ảnh cũ. Chỉ một tô cơm bình dân thôi, cũng đã gói ghém biết bao gian lao khó nhọc trong đó. Gánh cơm Hến. Một đầu gánh là nồi nước Hến cùng cơm và những gia vị như mắm ruốc, ớt, chanh, tương ớt, đậu phụng chiên giòn, tóp mỡ. Ðầu kia là một thúng đầy những thứ rau mát mắt, đã cắt rửa sẵn.

    Trước tiên, bà múc ra tô một ít cơm, sau đó nào rau, nào đậu phụng rang, nào tóp mỡ hành khô và Hến, tôi nhớ là Hến rất ít, chỉ một muỗng canh mà thôi. Và một chén nhỏ nước Hến múc riêng. Trộn tất cả những hỗn hợp trên, thêm vào chút tương ớt đặt biệt của người Huế, chút mắm ruốc, vắt chút chanh tùy khẩu vị mỗi người. Ăn trong cái cay cay, chua chua, mằn mặn quyện trên đầu lưỡi. Ăn trong cái giòn giòn ngọt ngào của rau sống, cùng cái giòn rụm béo ngậy của tóp mỡ và đậu phụng chiên làm tăng nồng vị giác. Thỉnh thoảng múc một muỗng nước Hến cho vào miệng, nước Hến ngọt lịm đưa cơm trơn tuột vào dạ dày. Thật không có cái món cơm bình dân nào sánh bằng.

    Ngoài trời, mưa bay lất phất, ngồi co ro bên lò than của nồi nước Hến, ăn tô cơm Hến. Hít hà vị cay của ớt chạy vào ấm buồng ngực. Nhìn đôi tay thoăn thoắt của bà bán bún Hến gánh, như đang dạo trên những phím dương cầm khúc nhạc không lời đầy những nốt thương yêu, cơ hàn, nhẫn chịu. Khúc nhạc đó vẫn còn vang lên trong lòng tôi, mỗi khi nhớ về xứ Huế.


    Cơm hến - NGUỒN DANANG43.COM

    Nói đến cơm Hến phải nói đến cồn Hến. Cồn Hến, nằm ở hạ nguồn sông Hương cách thành phố Huế khoảng 4km. Cồn Hến thuộc xã Hương Lưu, phường Vĩ Dạ, rất nổi tiếng qua bài thơ "Ðây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử. Ăn cơm Hến phải tới cồn Hến ăn mới đúng là cơm Hến chính gốc. Hến được bắt và đãi tại đây. Có nhiều quán cơm Hến ở Cồn Hến. Lái xe qua Cồn Hến, vào những con đường đất. Dọc bên đường là những quán cơm Hến, bún Hến, cháo Hến. Chúng tôi dừng xe lại ở quán Hoa Ðông,

    Quán là những mái tôn được lợp chìa ra khỏi hiên nhà. Trong vườn, những bàn ghế bình dân nằm chờ khách. Vài bàn đã có khách cười nói xôn xao, âm thanh rất Huế.

    Dĩ nhiên tôi kêu một tô cơm Hến. Ăn cơm Hến, lòng bồi hồi nhớ đến thuở ấu thời. Ðã bao nhiêu năm trôi dạt khắp nơi, nhưng lòng lúc nào cũng nhớ về một nơi chốn tôi đã được sinh ra. Và, cơm Hến cùng bà bán gánh dạo thường đi ngang nhà tôi mỗi sáng, ngày xưa. Tôi thương quá, tà áo dài ngả màu, rách nhầu bà vẫn thường mặc, khi gánh cơm đi bán. Và những làn khói vương vất gót chân bà. Khói vẫn vương vất hồn tôi dù thất lạc. Tôi thẫn thờ nhìn quanh, con đường làng xanh lá. Chợt nhớ câu thơ họ Hàn "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh."


    Việt Phương

    http://baotreonline.com/Chuyen-muc-t...i/com-hen.html

    Comment


    • Login to Cánh Thép Website today

      Login to Cánh Thép Website today November 29, 2016

      Comment


      • Cai Rượu

        Cai Rượu

        Có rất nhiều người sa đà vào bia rượu, họ sẽ cảm thấy vô cùng bứt rứt nếu không có rượu trong người. Việc này gây ra không ít những hệ lụy không đáng có. Việc cai rượu cũng chẳng hề đơn giản 1 chút nào, mình sưu tầm được cách này rất hay và hy vọng ai đó cũng có thể dùng nó để cai rượu.


        Thật sự mình thấy rượu chè có bổ béo gì đâu mà mọi người lại bị nghiện như vậy. Nghiện bia rượu được xem là sự bất lực của con người bởi họ không còn khả năng kiểm soát được mong muốn của bản thân đối với uống rượu nữa.

        Chưa kể, nghiện rượu gây ra khá nhiều khó khăn trong cuộc sống và phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình. Đôi khi, việc nghiện rượu còn đem đến nhiều tai nạn không mong muốn cho bản thân người uống như mất kiểm soát hệ thần kinh, biến chứng huyết áp và tim mạch.

        Nếu mọi người có ý chí dù chỉ 1 chút, hãy dùng cách này:

        Nước húng quế điều trị nghiện rượu

        Húng quế là một trong những loại rau thơm được sử dụng khá phổ biến trong bữa cơm của người Việt, đây cũng là vị thuốc tuyệt vời để điều trị nghiện rượu. Húng quế chứa khá nhiều dược liệu giúp giảm cơn thèm rượu bia, nếu tiêu thụ thường xuyên bạn sẽ cai được hẳn bia rượu.

        Ngoài ra, húng quế còn hoạt động như một chất chống oxy hóa giúp loại bỏ các gốc tự do độc hại cũng như giúp thanh lọc cơ thể.

        Chuẩn bị:
        – 5 ngọn húng quế
        – 20 hạt tiêu đen
        – 1 ly nước chừng 250ml

        Thực hiện:

        Đêm trước khi đi ngủ, hãy đặt lá húng quế và 20 hạt tiêu đen vào trong cốc nước, để ngâm húng quế và tiêu trong ly nước qua đêm.

        Sáng hôm sau, khi thức giấc người nghiện bia rượu chỉ cần uống cốc nước này (trước đó hãy vớt bỏ tiêu và húng quế ra khỏi ly). Uống đều đặn trong 1 đến vài tuần, người nghiện rượu sẽ giảm dần và bỏ hẳn các loại đồ uống có cồn.

        Nếu được, hãy thêm vào khẩu phần ăn của người nghiện rượu 1 nhúm lá húng quế để tăng hiệu quả của phương pháp này. Bạn có thể yên tâm hoàn toàn vì những nguyên liệu của công thức từ tự nhiên tuyệt đối an toàn cho sức khỏe.

        Chúc bạn thành công nhé!



        nguồn: http://www.webtretho.com/forum/f73/d...ruo-u-2217237/

        Comment


        • Chuyện Vui Cuối Tuần

          Cái Bí Ẩn Của “Chuyện Đàn Ông”
          Cô ghi phiếu hỏi người đàn ông đi khám “chuyện đàn ông”: Anh tên gì?
          - Dạ, Trần Ngọc Quý.
          - Ngắn hay dài?
          - Dạ…? Dạ… bình thường ạ.
          - Hoặc ngắn hoặc dài, sao bình thường được?
          - Ý cô là…
          - I ngắn hay Y dài?
          - Dài… dài ạ.
          - Dài thì nói luôn là dài, ậm ừ mất thời gian quá.



          Chuyện Trên Thiên Đường
          Ba cô gái bị tai nạn, lên tới của thiên đường thì gặp thánh Pie. Ông này dẫn các cô vào vườn thiên đường cực đẹp nhưng vịt con đi lại kín cả vườn. Ông bảo: "Ai mà dẫm phải vịt thì sẽ bị trừng phạt rất nặng".

          Được một lúc thì cô thứ nhất dẫm bép một cái, chết một con vịt. Thánh Pie hiện ra tức thì, dắt theo một người đàn... ông cực xấu và nói: "Đây là hình phạt dành cho con".

          Một lúc sau cô thứ hai làm bép một cái nữa, thế là Pie hiện ra với một người còn xấu hơn lúc nãy.

          Cô thứ ba run như cầy sấy, đi dò dẫm từng bước một. Mãi chả dẫm chết con vịt nào. Thánh Pie hiện ra cùng với một chàng trai tuyệt đẹp và đưa chàng cho cô. Còn chàng trai mặt cau có bực bội:
          "Tức quá đi, đã cẩn thận thế rồi mà vẫn dẫm chết vịt!"



          Bực Cả Mình
          Bà mẹ vợ nghe vọng ra từ phòng tắm:
          -Bực cả mình, sáng tối nào anh cũng chỉ bóp ở trên không à.
          -Em nhớ lại đi, tối hôm qua anh chẳng bóp từ dưới bóp lên là gì?
          -Sao bây giờ ở trên nó dẹp lép còn ở dưới nó phồng to như thế này?
          -Em nói nhiều quá...
          -Bóp ở dưới đi! Tiếng cô vợ hét lên.
          -Bóp ở đâu mà chẳng được. Tôi thích bóp chổ nào thì bóp! Tiếng anh chồng cự lại.

          Ba già sợ có đánh nhau vội lên tiếng can:
          -Nó muốn bóp ở đâu thì cứ để yên... Trên dưới gì cũng cần thôi.

          Cô con gái nghe xong mở cửa phòng tắm ló đầu ra chìa cho mẹ xem ống kem đánh răng móp méo:
          -Mẹ nhìn xem có tức mình không?

          Bà già vợ:
          -Tao tưởng chuyện gì to. Tụi bây đánh răng, tao cũng... nhức đầu!!!


          Comment


          • Merry Christmas & Happy New Year 2016

            Thân chúc Admin, BĐH, thành viên và độc giã HQPD
            một mùa Giáng Sinh vui tươi, ấm cúng bên gia đình,
            và một năm mới đầy an lành, hạnh phúc.


            Comment


            • Đời Kỵ Binh

              Đời Kỵ Binh

              Đã từ lâu rồi tôi muốn viết chuyện đời Kỵ Binh của tôi, chỉ hơn một năm đội chiếc mũ đen, chịu đựng nổi gian khổ của một Sĩ Quan còn quá trẻ với tuổi đời và trách nhiệm quá lớn của một Chi Đội Trưỡng.


              Chiến Lê

              Cuộc đời Kỵ Binh có nhiều nổi đau hơn là chiến công hiển hách, không huy chương, không hào quang ngụy trá tô điểm cho cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi. Tôi mản khóa 56 SQCBTG cuối tháng 3/1974, sau một tuần lể ngắn ngủi về thăm nhà rồi vào Sài Gòn trên chuyến bay của hảng HKVN mà mẹ tôi đã bán chiếc nhẩn cưới để tôi có tiền mua vé, vì đường bộ vào Sài Gòn rất nguy hiểm trong lúc đó, VC hay chận xe đò thu thuế, bắt thanh niên trẻ tuổi vào rừng hay lính VNCH đi phép xui xẻo gặp tụi nó.

              Tôi về Biên Hòa trình diện BCH Lữ Đoàn III KB, cũng con đường quen thuộc mà tôi đã đi qua trong những ngày đi phép về Sài Gòn, khi còn thụ huấn tại trường Thiết Giáp Long Thành, mà bây giờ thì khác hẳn nhau, tôi sẻ nhận một nhiệm vụ mới, một trách nhiệm nặng nề của một cấp chỉ huy chỉ hơn 21 tuổi đời, trong hoang tàn đổ vở của cuộc chiến do kẻ thù cùng chủng tộc từ phương Bắc. Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Vu Gia hiền hòa, thuộc quận Đại Lộc, tỉnh Quãng Nam, con lớn trong một gia đình có 6 trai, 2 gái, ba tôi là HSQ Pháo Binh của SĐI BB, khóa 8/62 HSQ ĐB, tôi khóa 8/72 SQTB cũng chung trường Đồng Đế cách nhau 10 năm.

              Tôi chọn về LĐIII mặc dù tôi đậu thứ sáu và mỗi nhóm 5 người tôi là người đầu tiên của nhóm thứ hai, tuy nhiên vì chuyện tình cảm ngu ngơ của ngày mới lớn, tôi đã làm trái lời mong ước của mẹ tôi là muốn tôi chọn đơn vị về vùng I CT cho gần nhà. Ngày đứng trước mặt Đ/Tá Trần Văn Thoàn Tư lịnh phó LĐIII XK nhận lảnh đơn vị về Thiết Đoàn 18 tôi nhớ mẹ tôi muốn rơi nước mắt khi biết từ đây sẻ còn có dịp gặp lại mẹ tôi không.

              Tôi và Thông cùng dân Đồng Đế nó khóa 10/72 được bổ nhiệm về Chi Đoàn 2/18, hai đứa mang hành trang qua BCH CĐ 2/18, được ông Th/ Sĩ thường vụ cho hai giường bố bỏ đồ và đợi sáng mai xe GMC chở lên Tân Uyên Biên Hòa chi đoàn đang đi ủi rừng ở đó, hai thằng ghé CLB của TĐ ăn cơm tối uống cà phê ngồi nói chuyện đời cho đến khuya, chuẩn bị cho ngày mai không biết cuộc sống sẻ về đâu trong cuộc chiến, mà sống chết trong đường tơ kẻ tóc.

              Chiếc xe GMC chở tôi và Thông rời phố Tân Uyên, rẻ qua con đường đất đỏ trực chỉ về phía Tây hai bên là rừng chồi, tôi nhớ quê tôi phía Tây Mỹ Đông, cũng rừng chồi bên nay Hà Nha gần quận Thường Đức, có sim rừng màu tím ngọt lịm, tôi nhớ bài thơ màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan nhưng tôi không có vợ, tôi không lo sợ chiếc bình hoa ngày cưới trở thành chiếc bình nhang, tôi không nghe tiếng người con gái trong thơ mà chỉ nghe tiếng đạn nổ và khói mịt mù trước mặt, anh tài xế bảo chúng tôi lội bộ vào khi chi đoàn bố trí trên đường rút quân ra trong nhiệm vụ ủi rừng, Thông về chi đội 2, tôi chi đội 4 súng cối 81 ly.

              Chi đoàn trực chỉ về Phú Chánh phía Tây trại cùi Bến Sắn, dưởng quân và lục soát khu vực nầy được vài hôm thì Chi đoàn di chuyển lên Trảng Bàng, tôi thích viết văn, làm thơ dù chẳng có hay ho gì, mỗi lần dừng quân hỏi tài xế Hùng ở đó có gì nổi tiếng, tôi sẻ làm thơ chép vào trong nhật ký, nó bảo tôi viết cho tập san Vó Câu Biên Trấn của LĐIII XK, nghe chuyện Tha La xóm đạo tôi ao ước qua đó nhưng CĐ vào Khiêm Hanh và Trị Tâm giải tỏa áp lực địch trên đồn Chà Rầy và Bò Cạp nên không có thì giờ làm thơ, tại trận đánh đồn Chà Rầy đi với 1 trung đội Trinh Sát SĐ 25 BB tôi mới thấy cái nguy hiểm của trận mạc, xác chết bó trong poncho bỏ lên trực thăng và binh sỉ bị thương rên rỉ chờ tản thương, cảnh tượng rất buồn, tôi không biết gia đình của họ sẻ ra sao khi nhận được xác chồng con đem về mai táng, tôi có nhiều đêm không ngũ được, nổi lo sợ nào về trong giấc mơ làm tôi thao thức, không có em gái hậu phương choàng vòng hoa chiến thắng, chỉ có người cô phụ quấn khăn tang trong nước mắt tủi buồn, chiến tranh là vậy đó không biết bao giờ đến phiên mình, nếu tôi có mệnh hệ nào mẹ tôi sẻ ra sao, sẻ không còn những ngày đợi mong con nhưng sẻ có nhiều đêm dài trong nước mắt.


              Giửa tháng 4/74 CĐ đóng quân tại Lò Chén bên xa lộ Đại Hàn, tỉnh Bình Dương, nữa đêm di chuyển lên Gò Dầu Thượng vượt biên giới vào Kampuchia để giải vây căn cứ Đức Huệ, CSBV tấn công bằng hỏa tiển 122 ly lúc chi đội tôi đi bên hông phải của đội hình chử U, CĐ quay hướng về bên phải thanh toán mục tiêu và phá hủy toàn bộ hỏa tiển đặt nơi nầy, tôi xuống các địa đạo và hầm hố của CSBV lục lọi hy vọng tìm được cái gì đó làm kỹ niệm, tôi thấy một túi xách loang lổ với vết máu, mở ra tìm thấy cuốn vở nhàu nát, vàng úa của loại giấy rẻ tiền, trong đó lá thư của một anh bộ đội viết gởi cho mẹ được nửa chừng, anh hứa sẻ cố gắng trên con đường đấu tranh chống Mỹ Ngụy để mẹ anh có thêm khẩu phần mua đường làm bánh trong ngày Tết đến, tôi nghe lòng chùng xuống, không biết bây giờ anh chết rồi mẹ anh có mua được thêm đường làm bánh không, hai kẻ không cùng chiến tuyến có cùng nổi lo cho mẹ, dù sao nổi lo của tôi cũng đở hơn, tôi lo không có tôi về ăn Tết, ăn bánh tráng cuốn với thịt ba rọi xông khói, tẩm chút mắm với đường, mà mẹ tôi thường làm trong dịp Tết, chắc mẹ tôi sẻ buồn, sẻ khóc.

              Tôi đã khóc trên đường vượt biên giới về phía Việt Nam tôi khóc cho bà mẹ không có con về ăn bánh Tết, tôi khóc cho mẹ tôi khi nghe bản nhạc Xuân nầy con không về, mẹ tôi thường nói trong thư gỡi cho tôi, Tết con không về mẹ ăn mải không ngon, mẹ sẻ sống đến cuối đời canh cánh một nổi buồn nhớ con, tôi nghe mắt cay cay và môi mặn chút gì khi chi đoàn dừng quân taị QL 1 Gò Dầu Hạ dưỡng quân và bổ sung đạn dược.

              Đầu tháng 5 năm 1974, sau cuộc hành quân vào Kampuchia để giải vây căn cứ Đức Huệ , nằm trong quận Đức Hòa thuộc tỉnh Hậu Nghỉa, do Tiểu Đoàn 83 Biệt Động Quân biên phòng trấn giữ, chi đoàn 2/18 Thiết Kỵ có nhiệm vụ giữ an ninh trên quốc lộ 22 từ Bình Dương về Củ Chi,Trảng Bàng và Gò dầu Hạ, cho đến giữa tháng 5 năm 1974 khi chi đoàn nhận lịnh di chuyển về Bến Cát, một quận lỵ nằm trên đường về Lai Khê, cách Bình Dương hơn 10 cây số dọc theo quốc lộ 13, một con đường đã đi vào trong chiến sữ với địa danh An Lộc, mà những tháng ngày còn lặn lội ở quân trường Đồng Đế, Nha Trang ,tôi chỉ nghe tên mà không có lúc nào hình dung trong đầu óc, là có một ngày nào đó tôi sẻ trực tiếp tham chiến tại vùng nầy, mục đích của cuộc hành quân là yểm trợ cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh tái chiếm An Điền và căn cứ 82 đã bị sư đoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt tấn công và tràn ngập trong 2 ngày 16 và 17 tháng 5 năm 1974.Chi đội trưởng chi đội 4 là Chuẩn Úy Nùng ông Nội về hậu cứ trị bịnh, nên tôi tạm thời chỉ huy chi đội 4 trong cuộc hành quân nầy, đây là cái nhìn hạn hẹp của của một sĩ quan chi đội trưởng vừa ra trường không đầy 3 tháng, trong một trận đánh dữ dội mà tổn thất của hai bên lên đến cả ngàn người.

              Chi Đoàn 2/18 TK dưới quyền chỉ huy của chi đoàn trưởng Đại Úy Trần văn Làm vào quận Bến Cát ngày 17 tháng 5 cùng với Tiểu Đoàn 64 Biệt Động Quân tùng thiết , trong lúc các toán trinh sát của SĐ 18 BB đi vào bố trí bên nầy bờ sông Thị Thính và chờ lịnh vượt sông , CSBV bắt đầu pháo kích vào quận lỵ bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly và 107 ly suốt ngày, nên những người dân ở đây đã di tản về một vùng bình yên nào đó.

              Ngày 25 tháng 5 chi đoàn di chuyển đến bờ sông Thị Thính để yểm trợ cho Lực lượng BĐQ và trinh sát SĐ18 BB tái chiếm An Điền,một chi đội chiến xa M48 của TĐ 22 CX,chi đội 1 chiến xa M41 của Th/Úy Lân án ngử tại đầu cầu, bên hông có chi đội 2 thiết vận xa M113 của Th/Úy Dạ và chi đội 3 M113 của Th/Úy Viên , chi đội 4 của tôi chỉ huy còn có 3 xe M113, trang bị súng cối 81 ly nằm trên đường tỉnh lộ 14 ,cách sông Thị Thính chừng 500 thước, từ đây nhìn qua bên kia cầu là môt đoạn đường khoảng 100 thước hai bên là sình lầy, xác của 2 chiếc xe tăng T 54 bị bắn hư hại bởi một đơn vị bạn vẩn còn nằm bên phải của đoạn đường nầy. Đạn pháo của địch vẩn tiếp tục rơi vào bên nầy sông và thỉnh thoảng một vài trái hỏa tiển AT-3 từ bên kia sông bắn qua nhưng không gây một thiệt hại nào đáng kể, bên kia sông địch quân di chuyển vủ khí, đạn dược và đào công sự phòng thủ đợi chờ.

              Từ đây cho đến cuối tháng 5 năm 1974 ,TĐ 64 BĐQ và trinh sát SĐ 18 đã lấy lại một phần phía đông của làng An Điền, nhưng cầu sông Thị Tính và đường vào An Điền không đủ khả năng an toàn để Chi đoàn 2/18 TK vào yểm trợ cho các đơn vị bạn. Ngày 1 tháng 6 Trung Đoàn 52, SĐ 18 BB băng qua cầu Thị Thính vào An Điền, chi đoàn nằm bên nầy bờ sông Thị Thính xử dụng đại liên 50, đại bác trên chiến xa M 48 và M 41 để yểm trợ cho cuộc tấn công, Chuẩn Úy Trần văn Đình cùng khóa 8/72 SQTB Đồng Đế với tôi là trung đội trưởng trinh sát của SĐ 18 BB đã tử trận ngày hôm đó, trong thời gian nầy Công Binh chiến đấu đã tu bổ cầu và đường vào An Điền, ngày 4 và 5 tháng 6 với sự hổ trợ của Trung Đoàn 48, SĐ 18 BB và BĐQ đã tái chiếm An Điền và mở đầu cho cuộc tấn công của Chiến Đoàn 318 Xung Kích trên đường về căn cứ 82.

              Chiều ngày 6 tháng 6 năm 1974, chi đoàn vượt qua cầu Thị Thính, tôi lội bộ trên đoạn đường vào làng để chỉ dẩn chi đội 4 vượt qua một bải lầy thì Cộng quân bắt đầu pháo kích trên đường vào An Điền, tôi phải nhảy vào trong một chiến xa T54 cộng quân còn bỏ lại trên đường để tránh pháo, Trung sỉ Phước, một trưởng xa trong chi đội 4 và 2 người lính BĐQ bị thương nặng, xe tôi bị gảy cây antena nên tôi xử dụng xe của TS Phước để xử dụng máy truyền tin và hướng dẫn chi đội 4 vào An Điền khi trời vừa sụp tối, trong cơn mưa đầu mùa tháng 6 của miền Nam. Chung quanh làng An Điền hàng chục xác chết CSBV rải rác trên đường ,một số nằm trên bờ ruộng và một phần lớn chôn vùi trong giao thông hào kiên cố, mà cộng quân đã che đậy với những tấm lưới đan bằng cây chồi và phủ đầy với 5, 6 tất đất, những xác chết CSBV đã để lại sau hơn hai tuần lể giao tranh nên mùi hôi thối rất khó chịu, đêm đó CS tấn công phòng tuyến của SĐ 18 BB và tiếp tục pháo kích vào An Điền, trong xe ngoài tôi ra chỉ còn có Hùng tài xế và Thạch là một tân binh mới về đơn vị làm xạ thủ đại liên, cả ba đứa tôi thay phiên canh gác đợi chờ sáng mai vào giải tỏa căn cứ 82.

              Tờ mờ sáng ngày 7 tháng 6 chi đoàn di chuyển ra khỏi làng An Điền về hướng Bắc , đội hình di chuyển với chi đội 1 và 2 đi hàng ngang ,đi hàng dọc hông bên trái là chi đội 3 và hông bên phải là chi đội 4 của tôi chỉ còn hai xe liên lạc bằng máy truyền tin, xe còn lại chạy theo sau và tôi ra dấu hiệu bằng tay . Chi Đoàn tiến vào khoảng 200 thước thì đụng độ chốt đầu tiên của CSBV, hàng cây chồi và cỏ ở đây cao hơn một thước nên khó nhìn rỏ địch quân ở đâu, trận đánh kéo dài suốt ngày, dưới cơn mưa pháo của tất cả các loại từ đại bác 130 ly, hỏa tiển 107ly, 122 ly, súng cối 82 và 61 ly của cộng quân, chi đoàn di chuyển rất chậm, một số binh sỉ BĐQ và thiết kỵ tử thương trong khi địch bỏ lại nhiều xác chết trong các hầm hố xây dựng rất kiên cố, tối đến chi đoàn vòng lại bố trí phòng thủ, nửa đêm đặc công CS xâm nhập vào vòng đai và cuộc chiến tiếp diển, tôi nghe máy truyền tin, nhận tọa độ và bắn súng cối yểm trợ trước phòng tuyến của thiết giáp và BĐQ, mổi lần nghe tiếng động phía trước đầu xe thì tôi ném vài trái lựu đạn đề phòng đặc công tấn công.


              Sáng hôm sau trước khi di chuyển vào mục tiêu, Hùng tài xế lấy C4 [thuốc nổ trong mìn Claymore] nấu ca nước nóng đổ vào bịch gạo sấy, ba đứa tôi chia nhau ăn với ba miếng khô cá sặc bằng hai ngón tay và cả ba đứa uống chung một ca nước lạnh, rồi sẳn sàng vào trận địa để tiếp tục thêm một ngày máu lữa, ngày nào cũng vậy sau những miếng cơm sấy với cá khô, súng đạn sẳn sàng khai hỏa khi vào mục tiêu, xông pha trong tiếng đạn thù, để đêm về trong giấc ngủ không yên nghe đạn pháo rơi đầy trên chiến lũy, chi đoàn tiến quân còn cách căn cứ 82 một cây số thì CS phản công dữ dội, tử thủ trong hầm với B40, B41 , 82ly không giật với pháo binh yểm trợ từ Lai Khê và phía bắc căn cứ 82, ban đêm địch xữ dụng đại liên 12 ly 7 từ những chiến xa T 54 và PT 76 đã bị hư hại bởi pháo binh hay phi cơ oanh kích trước đây, bắn vào khi đơn vị phòng thủ ban đêm, mổi ngày chi đoàn tấn công chiếm được 50 đến 100 thước, ban đêm lùi lại 50 thước để vào vị trí phòng thủ và ngày hôm sau lại tiếp tục tấn công, chi đoàn cầm chân tại chổ cho đến 13 tháng 6 thì Chiến Đoàn 315 Xung Kích vào tiếp viện. Chi Đoàn di chuyển qua khỏi An Điền, vượt cầu Thị Thính về giử an ninh trên quốc 13, bổ sung quân số và đạn dược đồng thời bảo vệ các căn cứ pháo binh của Tiểu khu Bình Dương và SĐ 18 BB, yểm trợ các đơn vị bạn còn tiếp tục trên đường về giải tỏa căn cứ 82.

              Ngày 20 tháng 6 năm 1974 chi đoàn di chuyển về tỉnh lộ 1A trên đường đi Phú Giáo , ngày hôm sau tôi nhận lịnh về Lử Đoàn III Kỵ binh, khi về đến Biên Hòa mới biết tin tôi được thuyên chuyển về Chi Đoàn 2/15 TK, ngày 22 tháng 6 tôi trở lại An Điền trình diện tại bộ chỉ huy Thiết Đoàn 15,nằm tại phía đông nam làng An Điền. Ngày hôm sau CĐ 2/15 TK rời An Điền thay thế bởi CĐ 2/18 TK và mấy ngày sau tôi được tin Đ/Úy Trần văn Làm tử trận trên đường về căn cứ 82.

              Đầu tháng 10 năm 1974, khi CĐ 2/15 TK hành quân trên QL 20 về Định Quán, Phương Lâm, tôi nghe tin SĐ 5 BB đã tái chiếm và treo cờ vàng ba sọc đỏ trên căn cứ 82, tôi rất vui mừng vì sau gần 4 tháng với các đơn vị bạn BĐQ, SĐ 18, SĐ 5, SĐ 25 BB và Lử Đoàn III XK với các chiến đoàn 315, 318 và 322 XK, nhiệm vụ giải tỏa căn cứ 82 đã thành công, bù lại tổn thất của hai bên lên đến cả ngàn người, những đổ vỡ của chiến tranh trên phố Bến Cát và điêu tàn của ngôi làng mang tên An Điền, mà thửa ruộng cũng không còn ngày tháng bình yên. Tôi nhớ mải về Hùng, nhớ câu chuyện về quê hương của Hùng ở Tây Ninh, những hứa hẹn có ngày về thăm khi đơn vị hành quân qua lối đó, tôi nhớ mãi những người kỵ binh anh dũng của CĐ 2/18 TK, những người đã cùng tôi chia xẻ những ngày dài trong chiến trận, tôi nhớ Hùng và Thạch những ngày chia nhau nắm cơm sấy ăn vội vàng với miếng cá khô, ngồi bên nhau đếm từng tiếng đạn pháo rơi về trên trận tuyến, ước mong hai chử bình an, tôi thương mến vô cùng những kỵ binh đồng đội của tôi và những chiến hửu của các đơn vị bạn, đã hy sinh trên chiến trường An Điền và trên đường về căn cứ 82.

              Tôi và Thiếu Úy Long lên xe Jeep từ BCH LĐIII ở Biên Hòa , trực chỉ Bình Dương rẻ qua QL 13, Long cho tôi biết là từ lúc ra trường cho đến khi thăng cấp Thiếu Úy gần một năm nay chưa có lần ra đơn vị tác chiến, chỉ ở BCH làm ban 3 của LĐ, tôi dặn dò Long cẩn thận vì trận chiến trên đường về căn cứ 82 rất nguy hiểm, không biết chi đoàn 2/15 đi đến đâu rồi, hai đứa trình diện Bách Thảo tại BCH của TĐ 15 ngay giữa làng An Điền thì CSBV bắt đầu pháo kích vào BCH, tôi chui xuống gầm xe khi tài xế đóng cửa sau, nhìn lại phía sau thấy Long đứng ngẩn ngơ coi tội nghiệp vô cùng, sau đó hai đứa lội bộ vào bìa rừng khi CĐ 2/15 kéo ra, Đ/Úy Vinh 81 cho Long về chi đội 2 và tôi chi đội 4, lúc đó chỉ còn có 2 xe, 2 trưỡng xa và 2 tài xế.

              Sau khi rút quân ra khỏi An Điền cuối tháng 6/1974 chi đoàn 2/15 về ngả ba Tân Hưng , ai cũng gọi là cua Paris không biết tại sao? Thiếu Úy Long chi đội trưởng chi đội 2 không đủ khả năng chỉ huy chi đội nầy, sau trận An Điền chi đoàn được bổ sung một số lao công đào binh và các quân nhân mới nầy không biết xe M113 là gì, tác xạ vủ khí ra sao? Thiếu Úy Vân tạm giữ chức vụ chi đoàn phó muốn tôi về coi thế cho Long , khi tôi về chi đội 4 có Hạ Sĩ Cần và HS Có là người có kinh nghiệm và rất giỏi về mọi công tác trong chi đội, tôi hỏi cả hai nếu tôi về coi chi đội 2 họ có thể về giúp tôi không? Cả hai đồng ý nên tôi xin Đ/Úy Vinh 81 cho cả hai về chi đội 2 với tôi .

              Chi đoàn có nhiệm vụ giữ an ninh trên TL 1B đến TL 2B về Phú Giáo , mỗi ngày tôi dẩn 3 chiếc M113 nằm án ngữ từ Chánh Lưu đến ngả ba Tân Hưng , trước đây trên con đường nầy chi đội 1 Bích La chạm địch làm tụi nó bỏ lại vài xác chết với vũ khí cá nhân, có lẻ tụi nó sợ xe số đỏ nên khi tôi di chuyển trên vùng nầy cả tháng mà không gặp tụi nó, chỉ có một đêm tối trời tụi nó bò ra bắn 1 trái B40 vào xe tôi làm bể góc lưới chống B40, rủi thay trái đạn trượt qua xe bên cạnh nổ ngay nắp đậy làm chết một KB mà đáng lẻ anh ta đi phép chiều hôm ấy nhưng thay đổi ý định và ở lại cho đến ngày mai.

              Đầu tháng 7/74 chi đoàn chuyển quân về Phú Chánh nằm trong rừng cao su, cứ vài bửa thì tôi quá giang xe Lam ra Bình Dương, uống cà phê, coi cinê không trả tiền vì bà chủ rạp thương lính VNCH lắm, bả hay nói các con đừng lo tiền vé má cho mấy con coi thả dàn. Một lần ra chợ Bình Dương mấy người lính thèm thuốc nhờ tôi mua thiếu cho họ, ai là SQ các đơn vị LĐIII XK đều biết là khi đi chơi không ai mang lon nên cô Lợi chủ tiệm thuốc lá tưởng tôi là lính nghèo nên bán chịu, sau đó cuối tháng tôi mang tiền ghé trả cho cô, cô Lợi dân Biên Hòa lên Bình Dương lập nghiệp , thấy tôi dân miền Trung nghèo khổ đi lính bị đổi vào trong Nam xa nhà nên rất mến thương tôi, sau nầy có Th/Úy Xưng cùng khóa ở Thiết Đoàn 10 muốn về Bình Dương gặp tôi, tôi bảo nó ghé chợ gặp cô Lợi sẻ biết tôi ở đâu, cô Lợi khám phá ra tôi là SQ nên giận hờn không muốn gặp tôi nửa, thật ra tôi không có ý định lừa dối cô, tôi chỉ muốn ai quen biết tôi vì tôi chớ không phải vì tôi là ai.

              Đầu tháng 10/74 Đ/Úy Vinh cho tôi về Đà Nẵng 2 tuần , đây là cơ hội cuối cùng để tôi gặp lại người tôi yêu , từ giả nhau lần cuối khi biết hy vọng ngày bên nhau chỉ còn là cơn mộng mà thôi , trao cho em gái cô ấy tập thơ 122 bài tôi viết cho cô ấy ngày mới quen , thề không bao giờ trở về Đà Nẵng nửa , ngang trái sao đâu lời thề gần thành sự thật , 23 năm sau tôi mới trở về khi thuyền đã lở bến sông.

              Tôi trở lại vùng hành quân nhận lệnh đi học SQ bổ túc 2 tuần lể tại BCH LĐIII ở Biên Hòa, có lẻ đây là hai tuần sung sướng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, nằm ngũ giường nệm ăn cơm với Tướng Khôi, Đại Tá Thoàn toàn là cao lương mỹ vị, ngày đầu về đó gặp Th/Tá Danh trưởng ban 5 biết tôi là Thiên Chương cây bút thường trực của Đặc San Vó Câu Biên Trấn, Th/Tá Danh hứa sẻ liên lạc với Chi Đoàn cho tôi về Sài Gòn 3 ngày phép lể Giáng Sinh, tôi không biết có chắc là chuyện đó sẻ xảy ra hay không nên không quan tâm gì cho mấy.


              Đầu tháng 11/74 chi đoàn hành quân vùng Phương Lâm, Định Quán trên QL 20, mổi ngày chi đội 1, 2, 3 thay phiên nhau giữ an ninh trục lộ cả tháng dài, ai hành quân vùng nầy cũng biết, hai bên đường chỉ có chuối và đu đủ mà thôi, phơi chuối khô, luộc chuối xanh chấm mắm, ăn gỏi đu đủ tối ngày cũng chán, chận xe chở hàng Đà Lạt về xin bắp cải, su hào ăn đổi món, cuối tháng 11/74 CĐ 2/15 rời vùng nầy chi đội tôi đi đầu, tôi đi giửa 2 xe di chuyển cách nhau 50 thước, vừa ngưng lại báo cáo qua 1 chặng đường thì tôi bị lảnh 1 trái B40 bắn qua xe trật thùng xăng khi tôi ngồi sau cây ĐL 30 bay qua trước mặt, nói chuyện cái chết cận kề trong đường tơ kẻ tóc là đây, từ đó về rừng cao su Trảng Bom dưởng quân, có lẻ Thiết Giáp có duyên nợ với cao su mà lúc nào cũng dính vô rừng cao su như vậy.

              Đ/Úy Vinh có buổi tiệc giả từ nghiệp nhà binh về làm nhà giáo khoảng giữa tháng 12 /74, tôi đi biệt phái cho CĐ 2/22 CX hơn 1 tuần xong trở lại CĐ thì Đ/Úy Bản thay thế cho 81 báo cho tôi biết Th/Tá Danh gọi cho tôi về Sài Gòn ăn Noel 1974. Tôi quen biết với 3 người chị làm cho Bộ Phát triển sắc tộc văn phòng trên đường Nguyễn Du, con đường có lá me bay và những tháng ngày gợi nhớ, tôi ghé đón họ về ăn tối xong đi lể nhà thờ Đức Bà cho tới nửa đêm, đêm Noel cũng là đêm đầu tiên trong giấc ngũ bình yên không lửa đạn ở Sài Gòn, ngày hôm sau cả đám đi ăn tiệc ở nhà bà chị bên chợ Dakao, sáng hôm sau tôi lên xe về đơn vị, đó là lần đầu tiên tôi hưởng không khí thanh bình, ánh đèn điện thay ánh hỏa châu rơi, tiếng cười vui rộn rả thay cho tiếng đạn thù.

              Trở lại đơn vị tôi nhận lịnh tăng phái cho CĐ 2/22CX đang trên đường vào Gò Dầu Thượng đầu tháng 1/75, dịp nầy tôi được hội kiến với Th/Tá Thái Minh Sang trong một hoàn cảnh gay cấn, CĐ1/22 và 2/22 CX nằm bên nay cầu Gò Dầu yểm trợ một đơn vị của SĐ 18 BB thì phải vì tướng Lê Minh Đảo bay trực thăng điều động ở trên, một chiếc M48 lảnh nguyên một trái 82 không giật bị cháy tử thương vài KB, Thiết Giáp và BĐQ tùng thiết rút về rừng cao su trên QL1 về hướng Tây Ninh, sáng hôm sau một KB 22CX gọi tôi trình diện Quỹ Kiến Sầu, NT T.M. Sang bắt được tài xế xe tôi đem gạo ra chợ bán, lục xét trong thùng gạo thì có 2 trái lựu đạn, vùng nầy là vùng xôi đậu đem gạo và lựu đạn bán cho ai, tôi được lịnh dẩn anh tài xế cà chớn nầy về xe trừng trị, tôi sợ vô cùng khi gặp cấp trên , nhất là không biết người lính mình có ý định gì khi đem lựu đạn đi bán, trên đường về xe Huệ cháy là tài xế xe tôi chưởi bới làm tôi nổi nóng, đánh cho anh ta một trận cho đến khi người xạ thủ ĐL ngăn cản sợ lở có di chuyển thì không có người lái xe, đêm đó CĐ di chuyển về Khiêm Hanh, tôi dạy cấp tốc cho một anh LCĐB lái xe vì Huệ nằm một đống , men rượu và trận đòn tôi cho làm nó bất tỉnh cho đến khi về gần Truông Mít.

              Từ giữa tháng 1/75 cho đến cuối tháng 1/75 CĐ2/22 CX và BĐQ tùng thiết phá nhiều chốt CSBV thiết lập sau khi chiếm Trị Tâm mở đường về Khiêm Hanh , có lần qua một làng nhỏ phía nam Truông Mít chi đội tôi chở 1 tiểu đội Trinh Sát của BĐQ vào bìa làng thì bị CSBV ẩn nấp dưới hầm hố và điạ đạo kiên cố tấn công mãnh liệt, Th/Tá Hà Ngọc Bé ra lệnh cho tôi rút lui để CX M48 vào ủi chốt, thay vì kéo ra bên hông để yểm trợ, tôi cho chi đội ra phía sau BCH 2/22 CX và nằm chờ thời, anh Bé sau khi phá chốt xong chạy xe gần bên tôi nói nhỏ (tao biểu mầy ra , sao lại chạy xa quá vậy) tôi thấy mình trong lúc luống cuống quên hẳn nhiệm vụ chỉ huy, sau nầy gặp nhau bên Mỹ nhắc chuyện cũ cho anh Bé nghe, anh cười như chẳng có gì quan trọng, anh ấy rất tốt với các SQ thuộc cấp, không la lối, chưởi bới trong hệ thống truyền tin làm mất mặt anh em.

              Tháng 2/75 tôi về lại CĐ2/15 khi CĐ nằm bảo vệ căn cứ Tân Hưng, có lần một anh BĐQ và người lính tôi muốn làm chuyện vệ sinh, trời xui đất khiến họ lội ra hàng rào kẻm gai, anh BĐQ đạp trúng trái mìn nhảy khi trái đạn nầy bay lên làm tử thương người lính của tôi, tôi đang uống cà phê sáng dưới căn hầm dả chiến, tưởng pháo kíck vì CSBV xử dụng các dàn phóng hỏa tiển pháo kích vào căn cứ nầy hàng ngày, bửa đó bị 07 chưởi tả tơi, ngày Tết tôi vào BCH TĐ 15 cũng trong căn cứ nầy để gắn lon Th/Úy mặc dù tôi đã được thăng cấp trước đó hơn 6 tháng, Tr/Úy Ngô Bính bẻ lon của ảnh làm hai cho tôi có 2 bông mai, Th/Tá Thảo cắm vào bao gối trên giường ngũ của ổng rồi gắn lon cho tôi, cả Chi Đoàn ăn Tết tại căn cứ Tân Hưng không bánh tét, bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành chỉ có cơm, bún và phở của CLB dả chiến, không có rượu để uống, bên kia làng có du kích tụi nó, phiá bắc có tụi CSBV không ai dám nhậu lo phòng thủ cho chắc ăn.

              Mồng ba Tết Đ/Úy Lượng cho tôi và anh Bính chở mấy cô em gái hậu phương của trường An Mỹ về Bình Dương khi họ lên thăm đơn vị, tôi và ba Bính về Sài Gòn ăn Tết, đó cũng là lần cuối tôi gặp lại mấy bà chị quen rồi về đơn vị tiếp tục những ngày dài chiến đấu. Sau Tết Chi Đoàn 2/15 di chuyển trên đường về Phú Giáo giữ an ninh trục lộ, tôi ở lại phòng thủ căn cứ Tân Hưng tiếp tục những ngày buồn chán nơi nầy, sáng lên CLB kiếm gì ăn xong về xe nằm đọc sách, mỗi lần bị pháo thì chun vô xe, tối đi kiểm soát các vọng gác sợ lính ngũ quên, ngày nào cũng vậy cho đến đầu tháng 3/75 tăng phái cho CĐ 2/22 CX hành quân Khiêm Hanh, phá chốt, mở đường có chiến xa làm hết, chi đội tôi đi theo chỉ yểm trợ khi cần thiết.

              Tuần đầu tháng 4/75 tôi về lại CĐ2/15 xin phép về Sài Gòn để tìm gia đình sau khi mất Đà Nẵng, sau 2 ngày liên lạc với nhà báo nhắn tin, để địa chỉ KBC và tên các vùng tôi hay hành quân cho người bạn thân có gia đình cũng ở xóm tôi, nếu tìm được thì cho tôi hay, tôi trở về khi CĐ 2/15 vào Truông Mít cũng là ngày CĐ 2/18 bị tổn thất khá nặng và bạn tôi Th/Úy Thông tử trận tại đây, mấy ngày sau mới lấy xác được đem về an táng tại Nghỉa Trang QĐ BH, vì lúc đó cũng mất Tuy Hòa quê của Thông, tôi rất buồn vì thấy đời lính quá ngắn ngủi, hơn nửa hai đứa cùng chung trường Đồng Đế, chung khoá CBTG về chung đơn vị hay đi uống cà phê tâm sự với nhau. Mấy ngày sau trở lại vùng hành quân với CĐ 2/22CX qua phía Tây Truông Mít, CSBV dồn hết quân số vào vùng nầy, nhìn từ xa thấy tụi nó chuyển quân mà phát sợ, ban đêm mỗi lần phi cơ Hỏa Long bay thả trái sáng và bắn yểm trợ cho các đơn vị bạn, phòng không 37ly bắn đầy trời từ 4 hướng khác nhau, cầm chân tại chổ chừng một tuần lể đến giửa tháng 4/75 tôi đi theo CĐ 2/22 CX về giải tỏa Long Khánh.

              Đơn vị di chuyển qua Bắc QL 1 gần ngả ba Dầu Giây, đụng độ hàng ngày với CSBV và ăn sơn pháo 75 ly từ các ngọn đồi chung quanh bắn vào, có lần một SQ chi đội trưởng mời tôi lên xe M48 uống cà phê sáng, chưa kịp uống nửa ly cà phê nhìn xuống chân đồi CSBV chuyển quân hàng trăm theo mấy đám ruộng bám lên đồi, cả CĐ bung rộng tác xạ liên tục vào cuộc tấn công biển người nầy, cho đến khi tụi nó tổn thất nhiều quá rút lui qua ngọn đồi bên kia, chẳng ai thèm lục soát mục tiêu hay thu hoạch chiến lợi phẩm, nhìn xuống chân đồi xác địch chết ngổn ngang với vũ khí bỏ lại trên chiến trường.

              Ngày hôm sau CĐ di chuyển xuống chân đồi tôi đi bên phải, cạnh một con lộ nhỏ, từ xa có một đám người đi thẳng vào phòng tuyến chi đội của tôi không biết là dân hay tụi nó, không cần chờ lệnh ĐL 50 trên xe 32, xe 36 và 34 bắt đầu tác xạ, đám đông tản mác mọi nơi, tôi nghỉ là dân nên gọi ngưng bắn, cái lầm lẩn đó để địch có cơ hội đến gần và bắn B40 vào xe 34 đi tận cùng bên phải, tất cả KB trên xe nhảy xuống vì xe bốc khói mịt mù, hai xe còn lại bốc họ lên xe khi chi đoàn rút quân qua bên kia đồi và CSBV bắt đầu pháo kích mở đầu cho cuộc tấn công, chiều đó nằm bên nay đồi nhìn về bên kia xe M113 mang số 34 bắt đầu phát nổ, tôi báo cáo tổn thất về CĐ2/15 đang yểm trợ cho Trung Đoàn 48 SĐ18 BB tại Dầu Giây, đêm đó tôi không ngũ được, nổi lo âu cho cuộc sống của gia đình tôi ngày mất Đà Nẵng, nổi lo sợ cho ngày mai của tôi sẻ ra sao trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn nầy, tôi ngồi dựa vào pháo tháp gục đầu trong mỏi mệt, khi mặt trời vừa rựng ánh bình minh trên cỏi chết của những người lính Kỵ Binh.

              Khoảng giữa tháng 4 năm 1975 trong cuộc hành quân giải tỏa Long Khánh, chi đội 3 của tôi tăng phái cho chi đoàn 2/22 Chiến Xa, dưới quyền chỉ huy của chi đoàn trưởng Thiếu tá Hà ngọc Bé, nằm án ngử phía Bắc Quốc Lộ 1 khoảng 2 cây số, phía tây Quốc Lộ 20 và chừng hơn vài cây số trên đường về Dầu Giây, qua nhiều cuộc đụng độ với Sư Đoàn 341 CSBV trên mặt trận nầy đã gây nhiều tổn thất cho cả hai bên, cho đến chiều ngày 24 tháng 4 năm 1975 ,CĐ 2/22 CX di chuyển về Biên Hòa, qua khỏi rừng cao su bên chợ Trảng Bom thì tôi được lịnh ở lại, để chờ đợi đến sáng hôm sau thì chi đội của tôi sẻ trở về chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ, khi chi đoàn sẻ di chuyển qua vùng nầy trên đường về dưởng quân ở Biên Hòa.

              Sau hơn một tuần lể giao tranh với CSBV để yểm trợ cho Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh tham chiến tại ngả ba Dầu Giây, chi đội tôi không có bộ binh tùng thiết, chỉ còn vỏn vẹn 2 thiết vận xa M113 và 9 kỵ binh, di chuyển khoảng hơn cây số về hướng Bắc QL 1 và bố trí phòng thủ đêm tại cạnh rừng cao su Trảng bom bên con đường đất đỏ, sau nầy gặp anh Lưu ngày ĐH TG nam Cali tôi mới biết đó là con đường đi về Bầu Hàm mà vài chi đoàn của LĐIII XK đã bị đánh bật ra khỏi nơi nầy cách đó vài bửa. Trong suốt đêm đó, CSBV chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công về Sài Gòn đã di chuyển nhiều chiến xa, quân xa với đại pháo và lực lượng bộ binh về hướng Biên Hòa, trước vị trí phòng thủ của chi đội tôi không xa lắm, hầu như không ai được ngủ yên trong đêm đó, tiếng động của xe cộ, chiến xa , tiếng người và ánh đèn trong đêm tối càng gia tăng nổi lo lắng trong thâm tâm của mọi người, sau những ngày dài trong chiến trận từ giữa tháng 3 năm 1975 hành quân vùng Gò Dầu Hạ trên đường về Tây Ninh, đầu tháng 4 năm 1975 về Truông Mít, quận Khiêm Hanh cho đến cuộc hành quân giải vây Long Khánh, ai cũng chưa có một ngày nghỉ ngơi hay về phép thăm viếng gia đình.

              Trưa ngày 25 tháng 4 tôi được lịnh di chuyển ra QL 1 để tháp tùng CĐ 2/15 TK, dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô duy Lượng lên đường về Phước Tuy, sau khi ăn Tết 1975 đây là lần thứ hai tôi trở về chi đoàn sau hơn 2 tháng tăng phái cho CĐ 2/22 CX , Chi đoàn di chuyển đến cuối thành phố Biên Hòa rẻ vào quốc lộ 15, qua căn cứ Long Bình rồi trường Thiết Giáp, Long Thành, nơi tôi đã có một thời gian thụ huấn Sỉ Quan căn bản Thiết Gíáp ở đó vào cuối năm 1973, chi đoàn đóng quân tại Phú Mỹ một ngôi làng nhỏ trên QL 15 giửa chi khu Long Thành và tỉnh lỵ Phước Tuy chiều hôm đó, trong lúc nầy Lử Đoàn I Nhảy Dù sau trận giải tỏa Long Khánh di tản về Phước Tuy và có nhiệm vụ bảo vệ QL15 từ Long Thành về Bà Rịa, nên TĐ 9 Nhảy Dù đêm đó là đơn vị tùng thiết cho CĐ 2/15 TK, đây là lần đầu tiên tôi đi hành quân với các anh hùng mủ đỏ, mà tôi chỉ từng nghe ca ngợi trong những bản nhạc trên đài phát thanh hay trên màn ảnh truyền hình trong những lần về phố ngồi uống cà phê , từ xa về hướng Đông là thị xã Bà Rịa , hướng Tây là trường Thiết Giáp và trường Bộ Binh Thủ Đức, đại pháo của CSBV vẩn vang rền trong khi các đại bác 37 ly phòng không của địch, như màng lưới lữa trong bầu trời đen tối đuổi theo các phi cơ Hỏa Long trong phi vụ yểm trợ cho các đơn vị bạn, còn đang chiến đấu trong tận cùng tuyệt vọng, tôi vùi đầu trong giấc ngủ, tin tưởng vào các chiến sỉ Nhảy Dù sẻ bảo vệ phòng tuyến đêm nay và hy vọng ngày mai có thêm một ngày bình yên trong lữa đạn.


              Ngày 26 tháng 4 tôi được hai ngày phép về Sài Gòn xả hơi, vì đầu tháng 5/1975 khi tôi phải về trường TG học khóa SQ Tu Bổ Quân Xa, trong khi chờ đợi Thiếu Úy Huỳnh, chi đội trưởng chi đội 2 mản phép trình diện đơn vị để thay thế tôi trong lúc đi phép, tôi ghé uống cà phê sáng trong ngôi quán nhỏ bên đường , trong lúc xe 26 của chi đội 2 nằm gần chợ và vài kỵ binh ngồi uống bia kế bên, đến trưa mà Th/Úy Huỳnh vẩn chưa trở lại, tôi ghé vào xe chi đội 2 uống vài chai bia để giết thì giờ trong nôn nả đợi chờ, cho đến 5 giờ rưởi chiều hôm đó Th/Úy Huỳnh mới trở lại đơn vị, tôi suy nghỉ nếu về tới Biên Hòa thì đã tối sẻ không có xe về Sài Gòn được, tôi nói với Th/Úy Sinh lấy xe Jeep về Biên Hòa một mình đừng chờ tôi, tôi xin phép Đại Úy Lượng cho tôi ở lại đêm nay và sáng sớm ngày mai tôi sẻ đi phép về Sài Gòn, trời vừa sụp tối thì SĐ 304 CSBV bắt đầu tấn công vào trường Thiết Giáp và trường Bộ Binh Thủ Đức, SĐ 325 CSBV tấn công chi khu Long Thành, khoảng 8 giờ tối hôm đó trong tiếng đạn đại pháo, đại bác phòng không và các loại vủ khí vang rền khắp mọi nơi của Cộng quân, chi đoàn 2/15 TK và TĐ 9 Nhảy Dù di chuyển trong đêm tối vào thị xã Bà Rịa cùng lúc với SĐ 3 CSBV từ mặt trận Long Khánh kéo về Chi đội 1 Bích La và chi đoàn phó là Trung Úy Ngô Bính 07 nằm đầu phố án ngữ về hướng Bắc và hướng Tây, chi đội 3 nằm giửa phố với xe số 32 của tôi quay mặt về hướng Bắc và xe số 36 nằm sau xe tôi cách 50 thước án ngữ phía Nam , có lẻ tôi nghỉ có Bích La và 07 ở hướng Tây nên tôi bỏ trống bên hông, tuy nhiên đó cũng là điều may mắn cho tôi sáng ngày hôm sau, chi đội 2, cđ 4 và bộ chỉ huy CĐ 2/15 TK án ngử ở cuối phố về hướng Đông. Sau khi sắp xếp phiên gác đêm và kiểm soát chung quanh vị trí của hai thiết vận xa trong chi đội, tôi đi ngủ sớm để chuẩn bị ngày mai di chuyển lên tuyến đầu đối mặt với quân thù, trong lúc nầy có lẻ đã rời mặt trận Long Khánh di chuyển về Phước Tuy.

              Sáng sớm ngày 27 tháng 4 năm 1975 , tôi nhìn thấy tận mắt cảnh hoang tàn của thành phố nầy lần đầu tiên, các đường phố không một bóng người , những cuộc pháo kích của địch vài ngày trước đây đã để lại nhiều đổ nát , không biết người dân ở đây đã di tản về đâu, hay tạm trú trong những căn hầm dả chiến với niềm hy vọng được gìn giữ tài sản của ông cha để lại. Tiếng súng và đạn pháo bắt đầu vang dội phía Bắc nơi chi đội 1 án ngử tôi lên máy để biết được CSBV bắt đầu tấn công bằng pháo binh, chiến xa và bộ binh vào tuyến của Thiết giáp và Nhảy dù, tôi cho chi đội lên xe sẳn sàng ứng chiến, lúc nầy quân đội CSBV đã vào trung tâm thành phố vài chiến xa T54 đã chạy vào trên đường phố bên trái tôi chừng 100 thước, nhìn về trước mặt tôi chừng hơn 50 thước cộng quân tràn ngập trong các ngôi nhà và ngay cả trên các ngỏ hẻm vào phố , tôi xử dụng hỏa tiển M72 bắn vào các căn nhà trước mặt và ra lịnh khai hỏa đại liên 50 , 30 ly để ngăn chận bước tiến của địch, khi nhận được lịnh mở đường cho chi đoàn trở ra QL 15, tôi vừa lùi xe ra đến ngả tư thì đại bác của địch trên chiến xa T54 khai hỏa cùng lúc với đại bác 90 ly, hỏa tiển M72 của lực lượng Nhảy Dù, may mắn cả hai chiếc M113 không bị hư hại giữa hai làn đạn của bạn và thù.

              Sau nầy mấy chục năm may mắn liên lạc và nói chuyện với Th/Úy Hường tôi mới biết Hường xử dụng 106 SKZ trang bị trên M113 đã bắn cháy 1 T54 và thiệt hại thêm 1 chiếc nửa, có lẻ điều nầy đã cầm chân lực lượng địch đũ để CĐ rời khỏi phố Phước Tuy, trong hệ thống truyền tin tôi còn nghe được tiếng Hường nức nở báo với 08, tụi nó bắn trúng Sông Hồng rồi tuy nhiên không biết vì lý do gì, tôi đã không liên lạc được với BCH CĐ để Hường biết tôi bình yên vô sự trong tình trạng hổn loạn nầy.

              Từ giữa phố ra QL 15 phải qua ngôi chợ nằm bên tay phải, CSBV bố trí trong chợ với hỏa lực rất mạnh, chi đội đã xử dụng đại liên 50, đại liên 30 và tất cả vủ khí cá nhân còn sót lại vừa bắn vừa di chuyển qua ổ phục kích nầy, ra đến QL 15 về hướng Đông chừng 1 cây số thì chi đội án ngử tại phía Tây cầu Cỏ May, chờ đợi chi đoàn di tản qua phía Đông bên kia cầu. Chiều hôm đó chi đội 2 với 3 xe còn lại tử thủ tại chân cầu với 1 trung đội ND, trong số đó xe 23 phải câu bình điện mỗi lần di chuyển, chi đội 3 của tôi với 2 xe bố trí cách đó gần trăm thước , sau đó là chi đội 1 [tổn thất khá nặng trong cuộc tấn công của CSBV sáng hôm đó] 1 xe thiệt hại nặng phải phá hủy tại chỗ, xe của Bích La còn nguyên vẹn, BCH chi đoàn có 2 xe chỉ huy với 1 xe sửa chửa và chi đội 4 có 2 xe súng cối nằm dọc theo QL 15 về hướng Đông cầu Cỏ May, Lúc nầy Đ/Tá tỉnh trưỡng tỉnh Phước Tuy tháp tùng với Tướng Vũ Văn Giai TL SĐ 3 đến tại BCH chi đoàn ra lịnh TG và TĐ9 Nhảy Dù trở lại tái chiếm Phước Tuy, Đ/Úy Lượng liên lạc với Th/Tá Đường TĐT TĐ9 Nhảy Dù cho binh sĩ sẳn sàng lên xe nhưng Th/Tá Đường không chấp nhận và chọn ở lại cầu Cỏ May, không có BB tùng thiết và sau khi bàn cải với đơn vị ND , Đ/Úy Ngô duy Lượng ra lịnh cho Công binh chiến đấu phá nổ cầu để ngăn bước tiến của CSBV, tuy nhiên đã không làm thiệt hại nặng trên chiếc cầu nầy nên ban đêm địch xử dụng đặc công bò qua cầu tấn công, chi đội 2 và binh sỉ của TĐ 9 ND chống cự mảnh liệt, địch xử dụng ghe, xuồng chuyển quân dọc theo bờ sông qua phòng tuyến của CĐ 2/15 TK và TĐ 8 ND để tấn công từ phía Nam và Bắc QL 15, sau vài giờ tấn công khi tiếng súng vừa ngưng , một số binh sỉ của Thiết Giáp và Nhảy Dù bị thương nhưng không được di tản.

              Sáng ngày 28 tháng 4 , địch quân tiếp tục pháo kích vào vị trí phòng thủ của chi đoàn và tìm cách vượt qua cầu Cỏ May, chi đội 2 và các binh sỉ Nhảy Dù vẩn còn chống trả với địch ở chân cầu Cỏ May, đại pháo của CSBV càng lúc càng gia tăng và càng đến gần, một trái đại bác 130 ly nổ bên cạnh xe tôi lúc di chuyển qua một vị trí khác đã làm thương vong vài binh sỉ Nhảy Dù và 2 xạ thủ đại liên trong xe tôi, chỉ có tôi và người tài xế là còn nguyên vẹn, tôi liên lạc xin di tản thương binh nhưng được lịnh chờ đợi trực thăng tải thương từ Lử Đoàn III Kỵ Binh đồn trú tại Biên Hòa, Suốt ngày nầy trên không trung các trực thăng CH-47 Chinook tiếp tục bay về hướng biển đông, tôi hy vọng có lần nào đó họ sẻ xuống đây để bốc đơn vị mình về Biên Hòa, tôi mơ ước ngày phép về Sài Gòn, nhớ ngày lang thang trên đường Nguyển Du đợi chị Thể, chị Hội, chị Loan Anh giờ tan sở ở Bộ Phát Triển Sắc Tộc, ngồi uống ly cà phê ngọt ngào đếm lá me bay, giờ đây đếm từng chiếc trực thăng bay qua ngang đầu, không hề hay biết đây là lần di tản sau cùng của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

              Chiều hôm đó chiến trường lắng dịu, không có tiếng súng thù, không đạn pháo rơi nên cái im lặng của trận địa làm mọi người ngộp thở, có lẻ CSBV chờ đợi cuộc tấn công trong đêm nay. Khoảng 10 giờ đêm thì tôi được lịnh xử dụng một thiết vận xa di chuyển về phía đông QL 15 trên đường về Vủng Tàu, để thăm dò con đường có đủ an toàn khi đơn vị di tản, tôi một mình trong đêm đi được vài cây số dưới ánh trăng thì nhìn thấy QL 15 bị phong tỏa bằng các cuộn kẻm gai, tôi mở đèn pha và lội bộ trước đầu xe để xem tình hình, trong ánh sáng của đèn xe tôi thấy một người lính Thủy Quân Lục Chiến gở một đoạn kẻm gai để đến gần tôi, anh cho tôi biết là trên đường quốc lộ đã được gài mìn chống chiến xa và vị trí phòng thủ của đơn vị TQLC bao bọc 2 bên bằng kẻm gai và mìn Claymore để tử thủ đến cùng, tôi báo cáo về chi đoàn biết tin và nhận lịnh nằm tại chổ chờ đến sáng hôm sau, suốt đêm tôi lo lắng, bâng khuâng không biết ngày mai sẻ ra sao, sau lưng tôi cả chi đoàn nằm trong vòng hiểm nguy của hàng ngàn quân thù với xe tăng và đại pháo, trước mặt tôi là hàng rào phòng thủ của người lính mủ xanh, những người hùng của mùa hè đỏ lửa 1972 ngày tôi mới vào lính, ôm súng trên phòng tuyến đợi quân thù, nhìn về hướng tây trong ánh lữa bập bùng của hỏa châu và những cuộn khói lờ lững trôi ở cuối chân trời , tôi biết chiến trận vẩn còn trong cao độ giửa các cánh quân còn lại của quân lực VNCH và CSBV , dựa lưng vào pháo tháp để tìm giấc ngủ vội vàng tôi chờ đợi ngày mai, như chờ đợi và chấp nhận số phận nào đã đưa tôi vào con đường chinh chiến hiểm nguy mà không còn lối thoát .


              Trưa ngày 29 tháng 4 , chi đoàn di chuyển về hướng đông QL 15 , sau cuộc tiếp xúc của chi đoàn trưởng Đ/Úy Ngô duy Lượng và cấp chỉ huy của đơn vị TQLC , họ đã tháo gở mìn và chướng ngại vật trên đường quốc lộ cho đơn vị Thiết giáp và Nhảy dù vào Vũng Tàu, để lại sau lưng SĐ 3 CSBV trên đường truy đuổi, sau khi tu bổ cầu Cỏ May và đưa bộ binh vào xâm chiếm Vũng Tàu. Chi đội 2 đi trước, chi đội 1, kế đến BCH, chi đội 4 và chi đội 3 của tôi đi sau cùng, khi vào đến phố Vũng Tàu thì lực lượng đặc công và bộ binh của CSBV đã nằm phục kích, mở cuộc tấn công sau khi 1 thiết vận xa của chi đội 2 di chuyển qua khỏi đầu phố, hơn ba mươi mấy năm may mắn liên lạc được với Th/Úy Hường tôi mới biết xe Hường đi sau xe 26 bị một trái M79 vào pháo tháp, xe tấp lên lề ủi vào căn nhà bên đường, tài xế chết và Hường bị thương, được lính bỏ vào thuyền thúng đưa đến bịnh viện Gò Công, ngày 30/4 bị đuổi về nhà, tù cải tạo hơn 2 năm lại bị trái M79 oan nghiệt một lần nửa đưa Hường ra khỏi trại tù và kẹt ở VN cho đến ngày hôm nay, kế đến xe sửa chửa 06 của CĐ bị bắn cháy và cả đơn vị bị kẹt trên đường phố nhỏ hẹp không xoay trở được, tôi nhận lịnh mang 2 xe còn lại của chi đội 3 mở đường tấn công vào ổ phục kích của địch, khi di chuyển qua phần còn lại của chi đoàn ở đầu phố thì tôi thấy xe 06 nằm giửa đường vẩn còn bốc cháy, sau xe xác chết của Hạ sỉ Có, người lính kỵ binh thân quen của tôi ngày mới về đơn vị và xác 2 đồng đội khác nằm chết bên nhau, trên con đường chỉ còn máu lửa và nước mắt, tôi đi trước theo sau là xe số 36, khai hỏa tất cả vủ khí còn đủ đạn dược, từ đại liên 50 ly, 30 ly, súng phóng lựu M79, súng cá nhân M16 và Colt 45, vừa di chuyển vừa bắn hai bên đường, cả đơn vị di chuyển trong tiếng đạn mịt mù qua khoảng hơn cây số mới đến Bến Đá.

              CSBV tiếp tục pháo kích trên đường di tản của Thiết giáp và Nhảy dù bằng đại pháo trên đường ra biển, tôi nhận lịnh rời xe và phá hủy các thiết vận xa trước khi ra bờ biển, tuy nhiên trong lúc gom góp đồ đạc vào ba lô và trong cơn mưa pháo kinh hồn, tôi lội bộ ra bờ biển tìm kiếm đồng đội mà không có cơ hội làm được điều đó, một số kỵ binh và binh sỉ nhảy dù đã bị thương và chết trên chặng đường nầy, tôi xuống một chiếc xuồng máy đuôi tôm với Cần, Dũng và Thành của chi đội 2 cũ khi tôi về làm chi đội trưỡng chi đội nầy vài tháng, tuy nhiên sau vài lần tìm cách nổ máy mà vẩn không thành công, nhìn ra trước mặt tôi thấy một chiếc xuồng khác chạy qua với một số KB đồng đội gọi tôi , tôi quay lại dặn dò Cần nhớ tìm tôi khi về Sài Gòn rồi tôi nhảy xuống biển để bơi ra khi chiếc xuồng nầy quay lại để kéo tôi lên, không để ý rằng mình mang cả ba lô, súng đạn khi lội xuống biển, nên khi người lính kéo tôi lên phải cởi bỏ ba lô thả xuống biển cho dể dàng kéo tôi lên, tôi ngồi trên xuồng tiếc cái ba lô với cuốn nhật ký tôi viết từ ngày ra đơn vị, mấy lá thư hỏi thăm của người tôi yêu mà không yêu tôi nên chỉ giữ để làm kỹ niệm mà thôi, tôi tháo đôi giày bốt đờ sô xả nước cho khô và lau hai cây súng M16 và Cold 45, mỗi cây chỉ còn có 1 băng đạn mà thôi, khi trời vừa sập tối tất cả kỵ binh còn lại của chi đoàn dời qua một chiếc tàu đánh cá lớn hơn, con tàu trực chỉ về tỉnh Gò Công trong đêm tối, mổi người riêng một ý tưởng, không ai nói chuyện gì với nhau, ai cũng có những nổi buồn canh cánh bên lòng và âu lo của những ngày sắp đến .

              Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 , những kỵ binh còn sống sót sau trận chiến ở thị xã Bà Rịa của chi đoàn 2/15 TK ngồi trên chiếc tàu đánh cá đợi chờ tin tức từ trong đất liền , cho đến khi nghe tin T.T Dương văn Minh yêu cầu các binh sỉ bỏ súng và chấp nhận đầu hàng vô điều kiện , Đ/Úy Lượng họp mặt tất cả kỵ binh để thăm dò ý kiến và cho phép mọi người được lựa chọn một trong hai con đường còn lại , một là đi về vùng IV chiến thuật hay ra đảo Phú Quốc để tiếp tục cuộc kháng chiến chống cộng, hai là trở về để đầu hàng cộng sản và đoàn tụ với gia đình, khoảng 6 hay 8 người tôi không nhớ rỏ đã tình nguyện trở về với gia đình, đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi tiển đưa nhau, họ có an toàn trở lại với gia đình không ai biết, cũng như số phận của 36 người kỵ binh còn lại những tháng ngày sắp tới không biết về nơi đâu, Đ/Úy Lượng cho phép vài người vào bờ để mua sắm lương thực và chuẩn bị cho một cuộc hành trình về trên vùng vô định , tôi tình nguyện ở lại không biết có phải vì TỔ QUỐC , DANH DỰ và TRÁCH NHIỆM hay không , tổ quốc tôi với hơn 20 năm trưởng thành và 3 năm dài trong quân ngũ đã không còn , danh dự và trách nhiệm của một sỉ quan đã làm tôi ray rức nhiều hơn hết, có lẻ đó là động lực duy nhất thúc đẩy tôi vào quyết định chiến đấu đến cùng, hay kinh nghiệm của những ngày ấu thơ ở Đại Lộc, Quãng Nam nơi tôi sinh ra và lớn lên trong vùng cộng sản chiếm đóng, chứng kiến sự tàn ác của chế độ cộng sản và cuộc đời chinh chiến đã để cho tôi nhìn thấy những đổ vở trên quê hương, do kẻ thù từ phương Bắc gây ra, nên tôi quyết định ra đi.

              Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975 con tàu lên đường ra khơi, mang theo những kỵ binh còn sống sót trong trận chiến sau cùng của chi đoàn 2 số đỏ [biệt danh cho CĐ 2/15 TK], một thời oanh liệt trên chiến trường Tây Ninh, Hậu Nghỉa, Bình Dương, Biên Hòa và Long Khánh của vùng III chiến thuật, những con đường in vết xích qua chiến trường Kampuchia năm 1971 và 1974, nay chỉ còn là dấu chân của một thời trong dỉ vãng, con tàu trực chỉ về hướng Đông, trước mặt chỉ có màu biển xanh và bầu trời rộng mở, sau lưng là hướng Tây, đỏ rực màu nắng của bóng chiều lên khi mặt trời vừa xuống, đó cũng là hình ảnh sau cùng để tôi nhìn lại quê hương Việt Nam thân yêu, gia đình tôi không còn liên lạc từ ngày mất Đà Nẵng chắc không biết những gì xảy đến với tôi, tôi ra đi về một chốn lạ xa mà không biết có ngày trở lại, tương lai tôi như bóng tối đại dương mà con tàu đang dấn bước, trong bóng đêm mịt mùng chỉ còn nghe tiếng sóng vổ và từ phía chân trời xa có ánh đèn lấp lánh trong màn đêm, những ánh đèn trên chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ, cũng là ngọn hải đăng cho con tàu lưu lạc trong cơn bảo tố của quê hương, soi đường cho cuộc hành trình của 36 kỵ binh chi đoàn 2/15 TK về trên vùng đất mới, riêng tôi cuộc đời Kỵ Binh hơn một năm ngắn ngủi chỉ còn là nhớ thương và nuối tiếc, những ngày tháng vàng son và oai hùng của một thời làm lính mũ đen chỉ còn là kỹ niệm mà thôi.

              Chiến Lê

              Comment


              • Trận Địa Pháo

                Trận Địa Pháo
                (Truyện Đời Lính Chiến)
                Đinh Lâm Thanh

                Hôm nay, vừa nhận được nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa tháng 12/2013 từ Mỹ gởi qua, tình cờ tôi bắt gặp một truyện ngắn đã viết cách hơn 10 năm (2004). Đây là một truyện thật. Xin phép post ra để tưởng niệm các Chiến Sĩ thuộc Tiểu Đoàn 1/45 BB, Tiểu Đoàn 23 Tiếp Vận, Trung Đoàn 45 và Sư Đoàn 23 Bộ Binh… đã bỏ mình vì Tổ Quốc từ năm 1968 đến ngày 30.4.1975 tại các chiến trường Quảng Đức, Buôn Mê Thuột, Pleiku-KonTum cũng như những chiến sĩ và gia đình đã vĩnh viễn ra đi trên biển cả trong lúc vượt biên tìm Tự Do. Đặc biệt xin kính dâng Vong Linh Các Vị : Thiếu Tướng và Bà Trương Quang Ân, Thiếu Tướng Võ Văn Cảnh đã để lại nhiều kỷ niệm tiếc thương trong lòng tôi cũng như vợ tôi. (Paris, 28.12.2013)

                *****

                Sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Hòa phải trình diện lên đường nhập ngũ theo lệnh tổng động viên khóa 24 Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức là khóa tập trung đa số thanh niên còn sót lại từ nhiều đợt trước với những lý do khác nhau. Ngày ra trường, các tân Chuẩn úy trúng tuyển được gọi tên chọn đơn vị. Trên nguyên tắc, những ai trúng tuyển với số điểm cao sẽ được đi theo các ngành không tác chiến như quân nhu, quân cụ, truyền tin … Nhưng thực tế tổng số chọn không đáng bao nhiêu, hơn nữa, những chỗ tốt nầy đã dành riêng cho những gia đình tân sĩ quan đặt cọc từ trước.

                Ngày chọn đơn vị, Hòa không buồn đi xem, đậu được Chuẩn úy đã là may mắn. Hòa xuống khu gia binh nhậu với các hạ sĩ quan huấn luyện viên cho đến chiều mới quay lên hội trường.


                Bài vở thi ra trường Hòa đạt được điểm rất cao, từ lý thuyết đến thực hành, kể cả môn bắn súng. Nhưng chắc chắn sẽ đội sổ trong kỳ thi mãn khóa với mười lăm ngày phạt trọng cấm. Đây là một trường hợp động trời đối với một sinh viên sĩ quan, chưa bao giờ xảy ra tại trường Thủ Đức.

                Đúng như dự đoán, tên của Hòa bị xếp vào cuối danh sách không có gì lạ. Khi lên chọn đơn vị, nhìn từ trên xuống chỉ thấy các Sư đoàn bộ binh đang sẵn sàng chào đón, Hòa nghĩ đi đâu cũng vậy, chức vụ Trung đội trưởng tác chiến đã dành sẵn cho các tân sĩ quan mới ra trường. Hòa không ngần ngại điền tên mình vào Sư Đoàn 23 bộ binh đóng tại Buôn Mê thuột. Dù sao, từ đây về Nha Trang cũng gần hơn so với nơi đồn trú của các Sư Đoàn khác.

                Tám ngày trọng cấm đầu tiên bị phạt vì tội trể phép một tuần. Thực ra không phải trể, chính Hòa muốn ở lại Sàigòn chơi với bạn bè. Trong thời gian vắng mặt bất hợp pháp, Hòa điện thoại về Liên Đoàn Sinh Viên thông báo rằng, Hòa ở lại Sài Gòn cho đến chiều Chủ nhật sau sẽ về trình diện. Lần thứ hai, trong dịp thực tập hành quân chung quanh vùng Thủ Đức, khi đoàn quân vừa xuất phát, Hòa đã tách khỏi Đại đội, mang theo súng và balô rẽ vào nhà người quen chè cháo, uống rượu say rồi ngủ quên. Kiểm điểm quân số trước khi lên xe Sĩ quan Trung đội trưởng mới khám phá sự vắng mặt của Hòa. Cả đại đội náo động lên chia nhau đi tìm kiếm lục soát đến khuya. Lúc khám phá ra, Hòa chưa tỉnh rượu.

                Cầm sự vụ lệnh lên trình diện Trung đoàn 45 đóng tại cây số 5 gần thị xã Buôn Mê Thuột, vùng cao nguyên đất đỏ, tuy còn xa lạ nhưng trong lòng Hòa vẫn thấy bình thản. Vừa xuống xe đò Hòa vào ngay ban 1. Làm xong thủ tục, Đại úy Trưởng ban nhân viên dẫn Hòa lên trình điện Trung tá Cẩn Trung đoàn trưởng.

                Trung tá Cẩn nhìn từ đầu xuống chân:

                - Xem lý lịch, khả năng trình độ học vấn của anh cao lắm nhưng tại sao các ngành nghề chuyên môn không dùng anh mà đẩy lên đây ?

                - Thưa Trung tá, dạ con bà phước !

                Nhìn lại Hòa một lần nữa, trung tá trung đoàn trưởng hỏi lại Hòa :

                - Chắc trong quân trường anh ‘ba gai’ phải không ?

                Hòa líu ríu :

                - Dạ, không có. Thưa Trung tá.

                Đại úy ban nhân viên đứng bên cạnh trình :

                - Trình Trung tá, bị phạt mười lăm ngày trọng cấm.

                Trung tá Cẩn ngồi ngữa ra sau, dựa lưng vào ghế gật gật đầu :

                - Tôi cũng đoán như vậy !

                Vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào quân bạ. Hòa sợ Trung tá đọc hết chi tiết nên vội thưa vắn tắt :

                - Dạ trể phép và ngủ…quên.

                Trung tá Cẩn cho lệnh Đại úy ban nhân viên lui ra xong nói với Hòa :

                - Hiện giờ Trung đoàn đang thiếu một Sĩ quan Chính huấn, mặc dù anh chưa học qua khóa Chiến tranh Chính trị, nhưng tạm thời tôi bổ nhiệm anh vào chức vụ nầy. Trình diện Đại úy Túy trưởng ban 5, ông ta sẽ hướng dẫn công việc của một Sĩ quan chính huấn.

                Hòa đứng nghiêm chào trước khi lui ra :

                - Dạ, cám ơn Trung tá.

                Tưởng sẽ xách balô xuống Tiểu đoàn, không ngờ may mắn được ở lại bộ chỉ huy Trung đoàn. Hòa được cấp một phòng dành riêng cho Sĩ quan độc thân trong phạm vi doanh trại, nằm sát mấy phòng của các em nữ quân nhân. Như vậy cũng an ủi được phần nào !

                Nghe Đại úy Túy thuyết một hồi, Hòa hiểu đại khái nhiệm vụ của một Sĩ quan Chính huấn là huấn luyện chính trị cho binh sĩ và hạ sĩ quan của Trung Đoàn. Thú thực chẳng biết gì để lên lớp, Hòa mượn mấy quyển sách của Cục Chính huấn về đọc qua loa vài chương.

                Trung đoàn 45 tọa lạc tại một khu đất rộng cách trung tâm thành phố Buôn Mê Thuột 5 cây số trên quốc lộ 21 đường đi Ninh Hòa. Sau lưng Bộ chỉ huy còn có Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc và Trường Huấn Luyện Võ Thuật. Khu vực nầy thường hứng đạn súng cối do Việt Cộng câu đến với tầm súng 81 ly. Sân bắn thường được dùng để tổ chức lớp học chung những lúc các tiểu đoàn về dưỡng quân một lượt. Khi nào tổ chức lớp học cho từng đơn vị một, Hòa xử dụng sân cờ của từng tiểu đoàn cơ hữu. Ngày đầu tiên Hòa lên lớp với quân số của ba tiểu đoàn gom lại, lớp học tổ chức ngay trên sân bắn trung tâm huấn luyện. Vào bài, Hòa cố ra vẻ trịnh trọng nghiêm trang của một huấn luyện viên chính trị, trước mặt, anh em hạ sĩ quan binh sĩ tuy đang nghiêm chỉnh nhưng ai nấy đều ngủ ngồi một cách ngon lành. Trên bục, Hòa thao thao bất tuyệt, dưới đất, tất cả đều nhắm mắt bất động. Bổn phận Hòa vẫn phải nói nhưng thông cảm cho những người lính trận, suốt tuần suốt tháng lặn lội trong rừng, về hậu cứ nghỉ được vài ngày thì phải học chính trị ! Nếu không ngủ gật, đầu óc cũng đang hướng về vợ con, nghĩ đến bữa cơm nóng hay một vài ngày phép thường niên.

                Để chấm dứt buổi học và đánh thức anh em dậy ra về, Hòa kết thúc bằng những chuyện tiếu lâm. Nghe đến chuyện tiếu lâm anh em tỉnh táo ngay và đứng dậy vỗ tay hoan hô nồng nhiệt dành cho một buổi học chính trị thành công mỹ mãn.


                Vào dịp lễ Giáng sinh Trung tá Trung đoàn trưởng tổ chức buổi tiệc tại Trung đoàn. Quan khách quan trọng gồm Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn, Đức Giám Mục địa phận, Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Chánh Án. Hòa được kêu lên văn phòng Trung tá Trung đoàn trưởng :

                - Tôi giao trách nhiệm cho anh tổ chức tiếp tân, công việc nhà bếp và phục vụ ẩm thực cho quan khách.

                - Thưa Trung tá, tôi sợ không đủ khả năng.

                - Anh là một sĩ quan chiến tranh chính trị (!) hơn nữa trước khi vào lính đã có kinh nghiệm về ngoại giao, tiếp tân tổ chức tiệc tùng, tôi thấy anh có thể đảm trách được.

                - Thưa Trung tá, kinh nghiệm chẳng có gì nhưng tôi sẽ cố sức làm tròn nhiệm vụ.

                - Được, anh tính toán xem cần những gì để tổ chức một bữa tiệc với các món ăn theo phong tục tây phương. Tôi lưu ý anh tiệc mời gần 60 người, trong đó ông Tướng Tư lệnh Sư đoàn, Đức Giám Mục, Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Chánh Án… Anh phải làm thế nào khỏi mất mặt Trung đoàn. Hòa biết đây là lệnh của thượng cấp, chưa biết phải tính toán thế nào nhưng cũng đứng nghiêm :

                - Tuân lệnh.

                - Anh cần gì cứ trực tiếp gặp tôi.

                - Tuân lệnh.

                Hòa phát họa các món ăn chính gồm ngỗng, trừu và tôm hùm. Phần rượu gồm chát trắng và đỏ dùng riêng với từng loại tôm thịt khác nhau. Champagne uống với bánh sinh nhật. Scotch để sẵn, vị nào muốn dùng trước tạo ngon miệng hay sau cùng để giúp tiêu hóa dễ dàng các món ăn.

                Sau khi Trung đoàn trưởng vui vẻ thông qua các món ăn đến lượt Hòa vắt chân lên cổ để kiếm mua ngỗng đúng tuổi. Non thì hôi ngỗng, già thì dai thịt. Phần rượu phải vào tận Sài Gòn tìm đúng loại chính gốc nhập qua từ Châu Âu.

                Hòa chuẩn bị trước gần hai tuần cho ngày đãi khách. Mượn tạm ba anh quân dịch ở Tiểu đoàn tác chiến, gốc người Hoa trước kia nấu bếp tại Chợ Lớn để tăng cường bếp chính. Hướng dẫn cách phục vụ, bưng dĩa, rót rượu cho các nữ quân nhân. Riêng bàn danh dự, chính Hòa phải đảm trách. Một điều quan trọng, ngày nào Hòa cũng nhắc ông Thượng sĩ thường vụ và đầu bếp chánh, trong đám ngỗng mua về, chỉ có một con ở độ tuổi ngon nhất, khi làm thịt phải canh chừng đừng để lẫn lộn với thịt dai của các con khác. Nhưng sự việc xảy ra ngoài ý muốn của tất cả mọi người :

                Các cô nữ quân nhân đã bưng lầm lên bàn danh dự những dĩa thức ăn làm bằng thịt các con ngỗng quá tuổi.

                Đức Giám Mục dùng dao cắt miếng thịt đến ba lần, ngài quay qua nói đùa :

                - Anh Cẩn, con ngỗng nầy học thái cực đạo đã mấy năm rồi ?

                Ông Tướng Tư Lệnh còn phang thêm một câu :

                - Nó mang đai đen mấy đẳng anh Cẩn !

                Phía quan khách được dịp cười rần lên. Trung tá Trung đoàn trưởng đỏ mặt nhìn Hòa. Hòa chỉ còn trân người chịu đựng chẳng biết làm gì được bây giờ.

                Mất tinh thần vì các món thịt ngỗng, Hòa hơi run tay khi mở các chai champagne biểu diễn trước mắt quan khách. Mặc dù rượu chính Hòa tự tay lựa chọn từ các cửa hàng trên đường Tự do Sàigòn, nhưng vẫn thiếu bình tĩnh khi nắm nghiêng chai rượu vặn ngược khóa giây kẽm và dùng ngón cái đẩy nhẹ nút chai. May mắn, một tiếng nổ dòn, nút chai bay lên trần nhà và làn hơi khói bay ra…Hòa thở ra nhẹ nhỏm, đúng là rượu thật, người vui nhất có lẽ là Trung tá Trung đoàn trưởng. Cha Tâm, Tuyên úy Sư đoàn vớt vát cho Hòa sau vụ trục trặc thịt ngỗng :

                - Chuẩn úy, hôm nào rảnh tôi phải theo anh học khóa mở rượu champagne mới được.

                Ngay sáng hôm sau, Hòa được kêu lên trình diện :

                - Tôi không muốn nói với anh một câu gì nữa. Anh về chuẩn bị, xuống ban nhân viên lấy sự vụ lệnh lên trình diện Tiểu đoàn 1 trên Quảng Đức.

                Hòa cũng không còn gì trình bày trong lúc nầy, Hòa đứng nghiêm chào :

                - Tuân lệnh Trung tá.

                Hòa vừa quay gót, vị Trung tá gọi lại :

                - Không ai gởi gắm anh cho tôi khi anh đến đây. Thấy anh có khả năng muốn giữ anh lại Trung đoàn nhưng tối hôm qua anh đã làm tôi thất vọng.

                - Xin lỗi Trung tá chuyện xảy ra ngoài ý muốn của tôi.

                Chuyến bay C123 hai ngày sau đó đưa Hòa và một số quân nhân đi Quảng Đức. Ngọn đồi thấp và ngắn ở đầu tỉnh lỵ do Công Binh san bằng làm phi trường. Máy bay phải thắng gấp khi các bánh xe vừa chạm đất, nếu không phi cơ sẽ đâm đầu xuống thành phố. Mang danh tỉnh lỵ chứ thật sự chỉ là thị trấn quá nhỏ, đứng trên cao có thể nhìn thấy toàn diện thị trấn với con đường độc nhất chạy từ phi trường đến cổng ra vào tiểu khu. Vài chục tiệm ăn, cửa hàng tạp hóa xen kẽ với các cơ quan hành chính tỉnh tập trung chung quanh khu chợ.

                Thị trấn hẻo lánh của lính và của những bộ lạc người Thượng ở rải rác chung quanh. Mỗi tháng một chuyến mở đường tiếp tế đến từ Buôn Mê Thuột, do địa phương quân tiểu khu đãm trách từ quận Đức Lập trở lên. Quốc lộ 19 từ quận trở về Buôn Mê Thuột trách nhiệm bởi các lực lượng của Sư Đoàn. Về trình diện tiểu đoàn 1 do Đại úy Tình chỉ huy. Vị Đại úy nổi tiếng khắt khe nhất của Trung đoàn 45 từ trước đến nay. Một sĩ quan cùng chung chuyến máy bay cho Hòa biết :

                - Anh sẽ bị Đại úy Tình đày cho biết thân.

                - Tôi có làm gì đâu và cũng chẳng có liên hệ gì, tại sao ?

                Ông ta có thói quen, Trung đoàn đã đày về thì ông sẽ làm tới không nương tay.

                - Thì cũng Trung đội trưởng tác chiến là cùng, còn chỗ nào hơn nữa !

                - Rồi anh xem.

                Khi vào trình diện, gặp lúc Tiểu Đoàn đang họp, các Đại đội trưởng và ban tham mưu có mặt đông đủ. Đại úy Tình nhìn Hòa cười :

                - Thêm một thằng bị đày lên đây !

                Cầm chai bia uống một hơi xong quay qua hỏi Hòa :

                - Sao bị đưa lên đây vậy ?

                - Thưa đại úy tôi nghĩ không phải bị đày. Trường Bộ binh Thủ Đức đào tạo ra để làm Trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở Buôn Mê Thuột, Quảng Đức hay ở bất cứ nơi nào cũng vậy.

                Một Trung úy ngồi cạnh chen vào :

                - Nói đúng, không sao đâu, lên đây lội rừng bắt vắt với chúng tôi cho vui.

                Đại úy Tình hỏi :

                - Nghe nói đang giữ chức vụ Sĩ quan Chính huấn của Trung đoàn sao hôm nay balô khăn gói lên đây ?

                - Không phải nghề của tôi, thưa Đại úy.

                Một trung úy còn trẻ thưa :

                - Đại úy cho tôi xin Chuẩn úy nầy, đại đội tôi còn thiếu một sĩ quan.

                - Nếu anh muốn.

                Hòa theo xe về Đại đội đang đóng trên phi trường. Vừa bước xuống Trung úy trẻ cho biết :

                - Tôi tên Điệp, để gọi anh em ra giới thiệu với anh.

                Một Thiếu úy hai Chuẩn úy và một Thượng sĩ người Thượng bước vào lều :

                -Tôi vừa xin Chuẩn úy Hòa về với chúng ta. Như vậy đại đội đủ sĩ quan theo cấp số.

                Quay qua Thượng sĩ người Thượng :

                - Chuẩu úy Hòa sẽ thay anh trên nguyên tắc, nhưng tôi yêu cầu anh giúp đỡ anh Hòa, cứ chỉ huy trung đội 3 như thường lệ trong một thời gian ngắn.

                - Dạ, tuân lệnh.

                Hòa lên tiếng :

                - Trước hết cám ơn Trung úy đã xin tôi về đây, sau cám ơn Thượng sĩ đã nhận lời giúp tôi trong thời gian đầu và cuối cùng xin chào các anh.

                Xong mấy chai bia, tất cả lui ra, Trung úy Điệp nhắc Hòa :

                - Thượng sĩ Y Kloc rất giỏi, tôi muốn ông ta tiếp tục giúp anh trong lúc đầu. Hành quân anh sẽ đi sát với ban chỉ huy, có gì còn có tôi.

                - Không sao đâu, trường dạy sao thì làm vậy. Xin cám ơn Trung úy.

                Trung úy Điệp xuất thân khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, ra trường đã chọn Sư đoàn 23 Bộ binh. Sau một năm làm Trung đội trưởng, ngày lên Trung úy nhận ngay chức vụ Đại đội trưởng đại đội nầy. Trung úy Điệp là sĩ quan xuất sắc và có tài. Đại úy Tình trọng nể nhất trong số Đại đội trưởng khác của Tiểu đoàn. Chính điểm nầy, đại đội của Trung úy Điệp thường đảm trách nhiệm vụ nặng nề hơn những đại đội khác.

                Tiếp theo đó, Thượng sĩ Y Kloc đã tập họp anh em binh sĩ thuộc trung đội 3 để ra mắt Hòa. Hai trung sĩ, hai hạ sĩ và hai mươi hai binh sĩ nghiêm chỉnh chào Hòa trước cửa văn phòng đại đội. Hòa đã dành nhiều thời gian hỏi han vui đùa với anh em :

                - Mặc dù tôi là Trung đội trưởng, nhưng Thượng sĩ Kloc vẫn giúp tôi chỉ huy các anh trong một thời gian ngắn. Tôi sung sướng về trung đội 3 với các anh, khổ cực sống chết cùng có nhau.

                Nhìn đám anh em sẽ cùng sanh ra tử với mình, Hòa sót xa nhìn từng người, tất cả còn trẻ nhưng nỗi khắc khổ hiện rõ nét trên khuôn mặt.


                Hoàn cảnh họ cũng như Hòa, từ giã cha mẹ vợ con lên đường thi hành nhiệm vụ. Nhà cửa giờ đây là đồi núi, gia đình không ai hơn ngoài anh em đồng đội và tài sản chỉ vỏn vẹn chiếc balô. Hôm nay vui cười nhưng chưa biết ngày mai, sau cuộc hành quân trở về, sẽ rên rỉ trên chiếc băng ca hay nằm yên trong quan tài bằng gỗ ?

                Thượng sĩ Y Kloc trình diện Hòa một binh sĩ trẻ :

                - Binh nhì Xí tình nguyện theo giúp Chuẩu úy.

                Hòa nhìn người bạn mới, tuổi chừng hai chục, khỏe mạnh đẹp trai.

                - Anh đẹp trai sao lại mang tên Xí ?

                Xí cười đưa hàm răng trắng :

                - Hồi nhỏ khó nuôi, mẹ em phải đổi tên…

                - À, tôi biết. Chốc nữa nói chuyện nhiều.

                Hướng về phía Thượng sĩ Kloc, Hòa tiếp :

                - Cho tan hàng, tôi sẽ ở chung với anh em Trung đội.

                Xí theo Hòa vào căn nhà sát văn phòng đại đội, nơi dành riêng cho các sĩ quan trung đội trưởng, Xí hỏi :

                - Sao Chuẩn úy không ăn ngủ chung với các sĩ quan kia ?

                - Tôi muốn ăn ở chung với anh em.

                Xí kê chiếc giường xếp một góc trong phòng, cũng là nơi ăn uống nghỉ ngơi của trung đội, rồi hỏi Hòa :

                - Đồ đạc chỉ có chiếc balô ?

                - Ừ chỉ có vậy, tôi muốn từ nay ăn chung với anh em và chiều nay mình xuống quán mua cái gì về tất cả nhậu chung.

                - Đây chẳng có gì nhiều như ở Buôn Mê Thuột.

                - Thì mua vài chục chai bia, vài ký thịt bò xào củ hành.

                - Dạ, như vậy cũng nhất rồi Chuẩn úy.

                Trong buổi cơm tối, Hòa có dịp vui chơi với từng anh em một. Thượng sĩ Y Kloc là lính chuyên nghiệp, vợ bốn con ở tại quận Buôn Hô gần Buôn Mê Thuột. Chỉ biết đọc và viết nhưng có nhiều kinh nghiệm về trận mạc rừng rú. Tính tình ngay thẳng được lòng tất cả anh em. Trung sĩ nhất Vàng xuất thân trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, lanh lợi và gan dạ, có vợ hai con đang ở trong trại gia binh tiểu đoàn. Thượng sĩ Kloc nói nhỏ cho Hòa biết khi giới thiệu Tiểu đội trưởng tiểu đội 3, Trung sỉ Tâm, người ba gai nhất trung đội, nhất là sau khi vào vài chai rồi thì xem trời trăng chẳng ra gì nữa. Nhưng lại là một hạ sĩ quan gan dạ chuyên đi đầu mở đường rất giỏi. Tâm thường gọi mấy sĩ quan vừa ra trường là ‘chuẩn úy sữa’ mà phách lối, tuân hành mệnh lệnh nhưng không bao giờ chịu phục tùng ai.

                Hòa trấn an :

                - Nhưng là một Hạ sĩ quan giỏi, sẽ làm được nhiều việc. Nó đang bất mãn về vụ đi phép của nó.

                - Được để tôi xem lại.

                Vừa ăn xong có lệnh sáng mai lên đường sớm. Đối với anh em trung đội không có gì lạ, chuyện hành quân như cơm bữa, có thể lên đường ngay tức khắc không có gì thắc mắc. Xí vừa vội vã lo cho mình vừa lo cho Hòa :

                - Đồ đạc để em mang.

                - Không được, anh mang đồ của anh, tôi phải mang theo đồ dùng của tôi. Nếu anh vui lòng thì nấu ăn giùm cho tôi trong thời gian hành quân vì tôi không có nhiều thời giờ.

                - Bổn phận của em mà.

                - Không phải bổn phận của một người lính mà tình cảm cá nhân với nhau. Tôi tự lo cho tôi những gì có thể làm được.

                Vừa nói, Hòa vừa sắp balô cho mình, chiếc võng, cái mền, mấy gói cơm sấy, ký cá khô. Thấy còn rộng chỗ, Hòa bảo Xí:

                - Anh đưa hết mì gói của hai anh em mình qua cho tôi mang. Nhẹ mà.

                - Để em mang.

                - Anh còn cái soong và mấy lon guigoz nữa. Đừng để tôi nói nhiều !

                Hòa vừa để khẩu súng lục vào balô vừa giải thích với Xí :

                - Thứ nầy để làm kiểng cho vui, đụng trận chẳng có ích gì. Anh lấy thêm một cấp số đạn carabin cho tôi.

                Vừa sáu giờ sáng đại đội đã tập họp lên đường. Tất cả anh em trong đại đội ngạc nhiên khi thấy Hòa vai balô, súng carabin M2 cầm tay, trên người còn thêm hai trái lựu đạn, bi đông nước và hai cấp số đạn như một binh sĩ ra trận.

                Trung sĩ Tâm hỏi Hòa :

                - Thằng Xí đâu mà Chuẩn úy tay xách vai vác ?

                - Tôi cũng có tay có sức như các anh vậy.

                Trung sĩ Tâm đứng thẳng người lên đưa tay kính cẩn chào Hòa.

                Nhìn người lính bộ binh hành quân một tuần với năm bảy chục cây số rừng rậm núi cao, trên vai không dưới hai chục ký lô…nào súng với hai cấp số đạn cá nhân, một thùng đạn liên phụ trội, lương khô thực phẩm, võng mền, chén đũa, Hòa không thể nhẫn tâm nhờ một người nào mang gì thêm, tự mình lo liệu với khả năng.


                Nghe anh em kể lại bây giờ Hòa mới thấy những gì Thượng sĩ Kloc vừa nói về Xí. Vừa đi vừa nấu cơm, mì hoặc nấu canh, thậm chí còn làm gà trong lúc di chuyển dưới mưa. Bí quyết chỉ cần một nón sắt, móc giây kẽm xuyên qua khúc cây làm đòn cho hai người gánh, nấu nước sôi trong lon guigoz treo tòn teng phía trên nón. Một tô mì, nồi canh chỉ cần mười phút, nồi cơm mười lăm phút và nửa tiếng có thể nhậu bộ lòng gà. Chưa nhậu xong bộ lòng đã có ngay thịt gà bóp tiêu muối hay kho mặn.

                Những lúc dừng chân ngủ đêm, nằm sát bên nhau Xí có lần tâm sự :

                - Gia đình em chỉ có mẹ già và hai anh em, đứa em còn nhỏ. Em rớt Tú tài 1 liên tiếp hai năm, phải trình diện đi quân dịch.

                - Học đến đệ nhị, sao em không theo học khóa hạ sĩ quan ?

                - Em không muốn ở lâu trong quân đội, bỏ mẹ già một mình đơn chiếc không ai ngày đêm chăm sóc. Em hy vọng xong thời hạn quân dịch ra về sống với gia đình.

                - Sao không nghĩ đến chuyện lập gia đình để bà cụ có người bên cạnh trong lúc vui buồn ?

                Xí cười :

                - Ai thèm lấy lính, nói đúng hơn con gái bây giờ sợ góa chồng quá sớm.

                Hòa thầm nghĩ tội nghiệp cho tuổi trẻ cũng như tội nghiệp cho chính mình. Thời buổi chiến tranh càng ngày càng ác liệt, biết đến bao giờ có thể áp dụng đứng đắn thời hạn thi hành quân dịch :

                - Hoàn cảnh của em sao không xin phục vụ gần nhà ?

                - Khó lắm Chuẩn úy, làm lính kiểng phải chạy chọt một số tiền lớn, không được lãnh lương mà còn phải đóng thêm hụi chết hàng tháng. Xin vào tiểu khu làm những công việc vớ vẩn để được gần nhà thì không đủ tiền để mua một chỗ.

                Xí hỏi ngược lại Hòa :

                - Còn Chuẩn úy, sao lại lên đây ?

                - Học ra Thủ Đức để làm Trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở đâu cũng vậy. Sống chết đều có số mạng.

                - Thế Chuẩn úy có gia đình chưa ?

                - Mới cưới vợ cách đây gần một tháng !

                - Cô quê người gốc đâu ?

                - Sài Gòn và hiện đang ở tại cư xá Sĩ quan Trung đoàn.

                Không nghe hỏi tiếp, Hòa chỉ nghe tiếng thở nhè nhẹ của Xí và tiếng mưa rơi đều xuống tấm poncho.

                Tỉnh Quảng Đức thuộc khu 23 chiến thuật do Sư đoàn 23 Bộ binh trách nhiệm. Trong tình hình lãnh thổ Khu chiến thuật không sôi động, Sư đoàn thường tăng phái lên đây một Tiểu đoàn Bộ binh với nhiệm vụ hành quân lục soát và giữ gìn an ninh vùng rừng núi hiểm trở bao quanh tiểu khu. Tiểu đoàn 1 do Đại úy Tình chỉ huy đang tăng phái đến. Nhưng những cuộc hàng quân lục soát thường tổ chức ở cấp Đại đội.

                Trong thời gian Hòa phục vụ tại đây, chưa lần nào đụng độ lớn với địch đến cấp Tiểu đoàn, chỉ gặp từng nhóm nhỏ vài ba tên thường đặt mìn quấy phá chung quanh các trục lộ hoặc câu đạn cối vào thị trấn và bộ chỉ huy tiểu khu. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn lên tăng phái tiểu khu xem như đi dưỡng sức trong lúc các Đại đội phải trèo núi băng rừng lội suối. Cứ sáu ngày hành quân được một ngày nghỉ. Đặc biệt chưa có thứ bảy chủ nhật nào được về thị xã. Lý do đơn giản là những ngày cuối tuần địch thường pháo kích vào tiểu khu trong lúc các quan chức tổ chức đánh bạc nhảy đầm và ăn nhậu.

                Ba khu vực hành quân chung quanh thị trấn do kế hoạch của phòng 3 tiểu khu phối hợp với tiểu đoàn nghiên cứu. Các đại đội phải tiến quân theo hướng đã định, chiếm các ngọn đồi và lục soát những tọa độ đã được chấm sẵn.

                Rừng già chằng chịt tre và mây, những toán tiền phong phải khó khăn để mở đường cho các trung đội theo sau. Băng rừng lội suối chiếm mục tiêu nầy qua mục tiêu khác và nhất là phải chiếm những ngọn đồi để nghỉ đêm. Hình như địch không lập căn cứ lớn hay chuyển quân ngang qua các khu rừng núi quanh khu vực Quảng Đức. Những cuộc hành quân lục soát thường nhắm vào những toán nhỏ giao liên hậu cần, quấy phá bằng súng cối, chận các trục giao thông, đặt mìm trên các trục lộ và chận xe đò thu thuế.

                Sáu ngày trong tuần cơm sấy cá khô, vật lộn với đồi tre núi, mây hoang, muỗi sốt rét và vắt rừng, một loại đỉa rừng nhỏ con nhưng hút máu còn độc hơn đỉa sông. Anh em binh sĩ thường mong đụng trận lớn, sau đó còn được nghỉ xả hơi vài ngày còn hơn tuần nầy tháng nọ lặn lội lùng bắt mấy tên Việt cộng quấy rối. Chúng đợi quân ta đi qua, chui ra bắn vài ba tràng tiểu liên rồi vác súng chạy…

                Thị trấn không có gì vui ngoài vài quán nhậu. Năm ba chai bia vài tô phở làm nguồn vui độc nhất của anh em binh sĩ mỗi khi được về nghỉ một ngày trong tuần. Thị trấn nhỏ bé của lính, làm sao tránh khỏi ồn ào mỗi khi bia rượu đón tiếp người về từ các cuộc hành quân. Tiểu khu thường than phiền với đại úy Tình rằng, lính của tiểu đoàn gây ồn ào náo loại thị trấn. Cuối cùng Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng đưa cho Đại úy Tình cây gậy để tự đập mình bằng cách bổ nhiệm Đại úy Tình làm Quân trấn trưởng thị trấn Quảng Đức !

                Chức vụ nầy không có gì quan trọng hơn ngoài việc chỉ huy Quân Cảnh tiểu khu, tuần tiểu bắt lính gây ồ ào say sưa làm mất trật tự ngoài đường. Đại úy Tình họp anh em sĩ quan xỉ vả một trận :

                - Các anh không biết giáo dục binh sĩ để chúng ăn uống say sưa ngoài đường, bây giờ tiểu khu đưa cho cây gậy để tự đập mình…

                Trung úy Điệp trình bày :

                - Suốt tuần trong rừng, về nghỉ được một ngày cũng nên nhắm mắt để anh em vui chơi một chút.

                Đại úy Tình chưởi thề :

                - Đ.m. chúng nó đưa gậy để anh em mình đập nhau.

                Hòa đứng lên :

                - Xin phép Đại úy cho tôi có ý kiến.

                - Nói đi Hòa.

                - Thì mình dùng gậy đập chúng nó trước.

                Tất cả sĩ quan đồng ý :

                - Hay đó, nói đi Hòa.

                - Đề nghị ‘tân Quân trấn trưởng‘ ra một nhật lệnh phổ biến rằng, để duy trì quân phong quân kỷ, quân trấn sẽ áp dụng hình phạt tại chỗ đối với tất cả quân nhân các cấp về tội say sưa gây rối loạn, ăn mặc thiếu tác phong, tóc tai hớt không đúng tiêu chuẩn…

                Đại úy Tính hỏi :

                - Rồi sao ?

                - Đợi chiều Chủ nhật Đại úy chuyển nhật lệnh qua tiểu khu thông báo, để không ai kịp chuẩn bị đề phòng. Thứ hai anh em chúng ta đang lúc còn ở trong rừng, trước giờ chào cờ, Đại úy chỉ huy Quân cảnh đứng tại cổng ra vào tiểu khu cũng như giữa phố, chận tất cả sĩ quan tiểu khu, dùng tondeur xớt tóc ngay một đường từ trước ra sau, theo lệnh của Quân trấn trưởng vừa ban hành hôm qua. Nhật lệnh cần nhấn mạnh, tất cả quân nhân các cấp sĩ quan trong quân trấn phải làm gương trước cho anh em binh sĩ, tóc tai gọn gàng đúng tiêu chuẩn quân phong quân kỷ...

                Một Thiếu úy thêm vào :

                - Đám sĩ quan tiểu khu ông nào tóc cũng dài xuống tận vai, chỉ cần xớt một đường là đủ ăn tiền !

                Tiếng vỗ tay hoan hô của các sĩ quan cổ võ thối thúc Đại úy Tình phấn khởi. Ông ra lệnh Hòa thảo ngay một nhật lệnh, mỗi Đại đội cho trình diện Tiểu đoàn năm người với dao kéo và tondeur hớt tóc.

                Kết quả sau đó một tuần tiểu đoàn được lệnh rút về lại Buôn Mê Thuột ! Về hậu cứ, tiểu đoàn tạm thời đảm trách an ninh chung quanh Buôn Mê Thuột theo chương trình yểm trợ bình định nông thôn. Các Đại đội chia ra đóng quân ở ba khu vực dọc theo quốc lộ 14 nối liền Buôn Mê Thuột với Pleiku.


                Đại đội Hòa lãnh nhiệm vụ vùng Quảng Nhiêu, thuộc quận Buôn Hô, cách thị xã chừng 30 cây số về hướng Tây Bắc.Vùng đất xôi đậu nầy là địa bàn hoạt động của địch, vừa thu hoạch nông sản phẩm, hoạt động du kích và quấy phá quốc lộ 14 huyết mạch vùng cao nguyên. Đại đội trưởng gọi Hòa căn dặn :

                - Anh là sĩ quan tôi tin tưởng, tôi giao trung đội anh vào đóng trong xã Quảng Nhiêu, vùng xôi đậu chứa chấp, bao che địch nằm vùng như anh đã biết. Phải cẩn thận và khôn khéo trong việc tiếp xúc với dân.

                - Tôi sẽ kiểm soát và không để anh em tiếp xúc trực tiếp với dân.

                Xã Quảng Nhiêu đếm chừng vài trăm nóc nhà, dân từ xứ Quảng lên đây lập nghiệp. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đây là một ấp chiếc lược kiên cố, tổ chức chặt chẽ, nhưng từ lúc chương trình nầy bị hủy bỏ nơi đây trở thành địa bàn hoạt động nằm vùng. Ban đêm địch về thu gom lúa gạo, tổ chức tuyên truyền học tập. Sư đoàn và tiểu khu đã tổ chức nhiều cuộc hành quân truy lùng nhưng không kết quả. Nhà nào tại đây cũng có chồng, con hoặc anh em theo địch, ban ngày phân tán rút vào rừng ban đêm trở về với gia đình.

                Hiệp định Genève chia cắt Việt Nam làm đôi ở vĩ tuyến 17, Việt cộng đã ngon ngọt dụ dỗ và bắt cóc hàng chục ngàn người đưa ra Bắc. Một kế hoạch thâm độc dùng tình thân ruột thịt để trấn áp những gia đình còn lại trong Nam. Những người bị bắt đưa đi, khi huấn luyện xong, miền Bắc đưa trở lại vô Nam buộc gia đình phải bao che, hợp tác với địch. Mẹ không thể tố giác con, vợ không thể phản bội chồng, anh em tình máu mủ phải đùm bọc lấy nhau. Cộng sản biến những người nầy với gia đình họ thành những thành phần nằm vùng nòng cốt ở Miền Nam. Những địa bàn nổi tiếng xôi đậu Miền Trung, từ Quảng Nam Quảng Ngải, đến Miền Nam như Củ Chi, Bến Tre đã gây khó khăn và hao tổn cho quân đội Miền Nam.

                Thủ đoạn dùng máu mủ tình thân giữa cha mẹ vợ chồng con cái anh em là một hành động tàn bạo vô nhân đạo đã đem lại những khổ đau tận cùng đến hàng chục ngàn gia đình sống giữa gọng kìm của hai chế độ. Cộng sản lợi dụng liên hệ gia đình thao túng, buộc thân nhân phải phục tùng, làm địch vận, đóng thuế, nuôi dưỡng chứa chấp cán bộ nằm vùng. Phía Miền Nam nghi kỵ, kiểm soát cô lập và xếp loại những gia đình nầy thuộc thành phần tay sai của Cộng sản Miền Bắc.

                Rất nhiều trường hợp trớ trêu và đau lòng, trong gia đình. Nhiều cha con, anh em ruột thịt ở hai chiến tuyến gặp lại nhau trong đắng cay chua chát, đôi lúc còn thẳng tay bắn giết lẫn nhau nơi trận địa !

                Hòa cho trung đội đóng tại bìa rừng, bên hông chợ. Dân trong xã không có thiện cảm khi thấy quân đội vào trú đóng tại đây. Chợ tan sớm, dân chúng rút vào nhà, ngoài sân không thấy bóng trẻ con.

                Đến chiều, cùng đi với Xí và anh truyền tin, Hòa vào xóm tìm gặp trưởng làng thăm hỏi xã giao đồng thời cho họ biết việc đóng quân chỉ tạm thời với mục đích để giữ gìn an ninh cho xã. Nhưng dân chúng cửa đóng then cài, không muốn tiếp xúc với những người lạ mặt.

                Nhiệm vụ của trung đội nằm ngoài phạm vi xã, ban ngày tuần tiểu tảo thanh khu vực chung quanh, ban đêm tổ chức nhiều tổ kích đón bắt những tên nằm vùng thường lén lút về nhà. Những tổ kích ban đêm luôn di động và thay đổi vị trí liên tục nhưng vẫn không tóm được tên du kích nằm vùng nào. Có nhiều đêm nghe tiếng chó sủa mừng người quen, Hòa biết chúng đang có mặt bên trong xã, nhưng không phải nhiệm vụ của Trung đội. Hòa cho anh em bám sát những căn nhà nghi ngờ, nhưng chúng đã thoát một cách an toàn và bí mật.

                Hơn ba tuần lễ sau Đại đội được hoán chuyển về giữ an ninh trên trục lộ 21, yểm trợ các trợ toán bình định nông thôn đang hoạt động trong phạm vi quận Phước An.

                Thoải mái và sung sướng nhất trong thời gian làm Trung đội trưởng tác chiến của Hòa là lúc đóng chốt nằm tại đồi Chukuc, nhiệm vụ giữ an ninh khu vực chung quanh đồi và khoảng 10 cây số trên quốc lộ 21. Chung quanh Chukuc, một vùng đất đỏ phì nhiêu với những khu rừng thưa, nhiều buôn của người Thượng tập trung tại đây. Địch quân không thể len lỏi ẩn núp trong buôn, chúng đến đây mục đích lấy nông sản phẩm. Người thượng không theo Việt cộng, họ thẳng thắng nói rõ như vậy và thường cho Hòa biết tin tức mỗi khi chúng xuất hiện tại đây. Hòa và anh em trong trung đội thường vào buôn an toàn, uống rượu mua bán trao đổi với dân.

                Trước khi đến, Hòa đã xin người bạn Dược sĩ trong Tiểu đoàn Quân Y một số thuốc cảm, nhức đầu đau bụng…đồng thời gởi tiền xuống Nha Trang nhờ mua mấy tạ muối làm quà, trao đổi gà vịt rau cải với các buôn. Người Thượng rất sòng phẳng, họ không nhận của cho mà thích trao đổi. Nhờ vậy trong thời gian đóng ở khu vực nầy anh em trong Trung đội được ăn uống đầy đủ. Hòa rất khắt khe và nghiêm cấm nhiều vấn đề với anh em Trung đội trong việc tiếp xúc mua bán đổi chác với dân trong buôn. Hòa được dân trong buôn xem như người bạn và ông thầy thuốc giỏi, vì bệnh gì thầy thuốc cũng đều chữa khỏi với vài viên aspirine.

                Ban ngày Trung đội rải quân dài và tuần tiểu dọc theo quốc lộ, ban đêm chia thành ba tổ kích, nhưng may mắn trong thời gian đóng quân ở đây không xảy ra đụng độ nhỏ nào.

                Một đêm Hòa kiểm soát một tổ kích, khám phá hạ sĩ An và binh nhất Thái vắng mặt. Vừa hỏi xong, Hòa nghe anh em cười ồ lên :

                - Chút nữa Chuẩn úy sẽ biết !

                Hòa chất vấn Trung sĩ Tiểu đội trưởng :

                - Cho tôi biết hai người nầy đi đâu ?

                - Dạ vào rừng một chút, chúng nó sẽ về ngay.

                - Ban đêm vào rừng làm gì ?

                - Quanh quẩn gần đâu đây không đi xa đâu Chuẩn úy.

                - Tôi đang ở với tiểu đội Trung sĩ Tâm, nếu hai anh Thái và An về, cho qua trình diện tôi.

                - Dạ Chuẩn úy.

                Trung sĩ Vàng vừa dứt câu, Thái và An đã về đến, gặp Hòa, hai người đứng nghiêm đưa tay lên chào :

                Hòa hỏi ngay :

                - Đêm hôm các anh bỏ đơn vị đi đâu đến giờ ?

                Thái ấp úng :

                - Chúng em đi…

                - Đi đâu ?

                An gải đầu :

                - Dạ đi ‘bắt cái nước’.

                Thái tiếp :

                - Dạ ‘bắt cái nước’ với hai em thượng ở bụi cây gần phía sau.

                Hòa nghiêm giọng :

                - Bỏ đơn vị trong lúc thi hành phận sự, các anh biết có lỗi không ?

                - Dạ

                - Hơn nữa, lỡ có bầu tội nghiệp cho người ta, tôi làm sao ăn nói với tộc trưởng trong buôn ?

                Thái năn nỉ Hòa ngồi xuống đám cỏ, giải thích :

                - Chuẩn úy đừng lo chuyện đó, các em làm tình đã hay và tính toán cũng giỏi, không mang bầu đâu. Chuẩn úy có nghe bao giờ gái Thượng lén lút và có bầu với trai kinh bao giờ chưa ?

                Đến giờ trung sĩ Vàng lên tiếng :

                - Thượng theo chế độ mẫu hệ, con gái tự động tìm trai và khoái ‘bắt cái nước’ với người kinh.

                An hớn hở :

                - Các em khoái ‘bắt cái nước’ với trai kinh vì có ‘cái đi cái về’ thích hơn so với trai Thượng. Chính các em hẹn hò và tìm đến đây với em.

                Trung sĩ Vàng hỏi :

                - Tại sao không làm ban ngày ?

                - Các em không chịu làm ban ngày vì sợ ông Trời nhìn thấy !

                Hòa ngắt ngang :

                - Thôi đủ rồi.

                Hạ sĩ Hậu ngồi kế bên đùa với Hòa :

                - Chuẩn úy đẹp trai dễ thương. Các em trong mấy buôn đã chấm rồi, coi chừng sáng ngủ dậy sẽ thấy vài cô đứng trước lều dắt theo trâu bò xin cưới Chuẩn úy… hi.. hi..

                Sung sướng nhất của Hòa tại đây, hằng ngày rỗi rảnh, vai mang M16 cùng Xí và anh truyền tin ghé vào các buôn uống rượu chuyện trò với các trưởng tộc. Đối với người thượng những ai thực tình đều được quý mến, nhất là những người ăn cùng mâm uống (rượu) cùng ‘cần’ (ống hút) với những người trong buôn mà không lộ vẻ miễn cưỡng. Hòa uống rượu không bao giờ chùi cần hút trước khi ngậm vào miệng cũng như ăn một cách ngon lành những món thịt cá còn sống đựng trên miếng lá chuối… Trong vùng có nhiều bộ tộc Thái trắng. Con gái ở đây trắng và đẹp hơn gái kinh rất nhiều. Một tộc trưởng thương mến Hòa, ông nhiều lần ngỏ ý muốn cho Hòa con gái đầu của ông. Ông nói nếu Hòa muốn, ông cho con gái đi hỏi cưới Hòa ngay.

                Hòa vừa được lên Thiếu úy và có lệnh về trình diện phòng 1 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Chưa biết tương lai về đâu nhưng trước mắt phải từ giã hai mươi mấy anh em, những người đã cùng nhau chia sớt buồn vui cực khổ trong thời gian qua, Hòa thấy lòng mình thắt lại. Cầm sự vụ lệnh trong tay Hòa tìm Thượng sĩ Y Kloc :

                - Anh cầm số tiền nầy mua vài lít rượu, ít gà vịt và vài ký thịt bò, anh em mình nhậu chơi một bữa.

                Cầm số tiền thượng sĩ Y Kloc ngần ngại :

                - Sao nhiều vậy, mua hết hay sao Thiếu úy ?

                - Ừ mua hết, tôi vừa lãnh lương xong.

                Buổi khao anh em và cũng là bữa cơm chia tay đối anh em trong trung đội. Ăn xong, Hòa báo tin Hòa sẽ rời anh em về trình diện Sư đoàn nhận nhiệm vụ mới. Tất cả bỗng dưng im bặt không một ai nói được câu gì trước một mất mát lớn lao và bất ngờ đối với họ.

                Một hồi lâu Hạ sĩ An bật khóc :

                - Như vậy ông thầy bỏ tụi em rồi !

                Buồn nhất là Xí, người đã theo sát Hòa như hình với bóng từ ngày Hòa vừa lên Quảng Đức. Anh lấy trong túi áo cái hộp quẹt Zippo và tháo chiếc đồng hồ đang đeo tay trả lại cho Hòa. Hòa an ủi :

                - Em giữ lại làm kỷ niệm để nhớ anh mỗi khi nấu cơm và xem giờ. Xa em, anh thấy buồn…

                - Nếu làm việc tại Bộ Tư lệnh, ông thầy nhớ ghé thăm em.

                - Chưa biết đi đâu, làm gì, nhưng nếu ở gần sẽ đến thăm các anh em. Xin hứa.

                Về trình diện bộ Tư lệnh, Trung tá Trưởng phòng 1 cho Hòa biết Hòa được chọn về Tiểu đoàn 23 tiếp vận, một đơn vị mới đang được thành lập. Những ngày đầu tiên về tiểu đoàn chỉ có hai sĩ quan : Thiếu tá Trương làm Tiểu đoàn trưởng và Hòa phụ trách ban 4. Sau nầy Hòa được biết, do đề cử của Trung tá Tiến Trưởng phòng 4, Đại tá Cẩn, lúc nầy là Tư lệnh phó Sư đoàn đã chấp thuận khi thấy tên Hòa trên danh sách đề nghị.

                Để đáp ứng với tình hình chiến thuật mới, các Tiểu đoàn tiếp vận được thành lập bên cạnh các Sư đoàn. Đơn vị mới nầy kết hợp các đơn vị trực thuộc trước kia, ngoài hai đại đội quân nhu quân cụ làm nòng cốt, còn thêm một trung đội vận tải cơ hữu, một trung độ chung sự chuyên về hậu sự lo an táng chôn cất các chiến sĩ bỏ mình vì tổ quốc, một trung đội sữa chữa truyền tin và một trại nông mục nuôi heo, bò gà… Tiểu đoàn tiếp vận xem như một đơn vị trực thuộc và nằm bên cạnh Sư đoàn để yểm trợ hữu hiệu và đắc lực từ hậu cứ đến tiền phương.

                Sau khi trình diện Thiếu tá Trương, Hòa phóng xe xuống hậu cứ tiểu đoàn 1 báo tin vui cho anh em cũ, nhưng họ đã lên đường hành quân ngay trong đêm đó.

                Gần ba năm sau, khoảng đầu hè 1971 chiến trường Buôn Mê Thuột trở nên sôi động. Trung đoàn 45 thường đụng độ lớn với địch trong các cuộc hành quân chung quanh các khu rừng giữa hai quận Buôn Hô và Thuấn Mẫn. Các tiểu đoàn bộ binh bị tổn thất nặng trong những lần giao tranh với địch tại vùng nầy. Địch quân không nhiều, chừng vài tiểu đoàn bộ binh với sự yểm trợ của nhiều đơn vị pháo, vừa cầm chân vừa làm tiêu hao lực lượng trung đoàn 45 tại Buôn Mê Thuột bằng chiến thuật khiêu khích dụ quân ta vào trận địa đã dàn sẵn. Trong giai đoạn đầu địch dùng thế ‘thượng mộc hạ thổ’. Toán địch quan sát và chỉ huy trận địa ẩn núp trên các cây cao. Dưới đất vài toán nhỏ bộ đội xuất hiện chạm súng lẻ tẻ mục đích dụ quân ta đổi hướng truy kích. Khi các cách quân ta đã vào đúng ổ mai phục và tầm pháo, đạn cối 81 của chúng rót xuống như mưa, vừa sát hại vừa áp đảo tinh thần. Lúc dứt pháo, địch từ trong các hố chui lên đánh cận chiến. Sau trận nầy, Trung đoàn đổi chiến thuật, địch quân quay qua xử dụng chiến thuật ‘trận địa pháo’.

                Với chiến thuật mới, địch quân chỉ tấn công quân ta bằng đạn pháo. Rừng rậm, chúng hóa trang ẩn kín trên cây, theo dõi hướng tiến quân và điều chỉnh tầm pháo. Khi đoàn quân đã vào trọn trong mục tiêu, hàng chục họng súng nhả đạn rót xối xả xuống đầu. Đến chừng pháo binh ta bắn trả chấm đứt được các họng súng địch thì tổn thất quân ta đã khá nặng nề.

                Vào một chiều chủ nhật Hòa đang ngồi trong quán café ‘Tím’ trên đường Nơ Trang Long, Trung úy Linh phụ tá của Hòa cùng Thiếu úy Phan dừng xe trước cửa, vào hấp tấp cho biết :

                - Kiếm anh từ trưa đến giờ.

                - Chuyện khẩn cấp ?

                Phan tiếp lời :

                - Anh quen thân các chủ trại mộc, tôi nhờ anh làm gấp một số hòm, chỉ cần cưa bốn miếng ván lớn hai miếng nhỏ cho hai đầu. Gấp quá không cần phải bào láng.

                - Hôm qua anh đã lấy hết hòm tại các nhà cung cấp chưa đủ sao ?

                - Không thấm vào đâu, vì một số lớn xác của anh em Tiểu đoàn 1 vừa được trực thăng đưa về.

                Vừa nghe đến tên Hòa giật thót mình, Tiểu đoàn 1 là đơn vị chiến đấu, Hòa đã cùng đồng đội sát cánh bên nhau hơn một năm trời.

                Hòa trả lời vội Phan :

                - Được tôi sẽ lo chuyện anh trong chiều nay, bây giờ chạy gấp xuống trung đoàn. Xác đem về ở đâu ? Đi chung xe để khỏi mất thời giờ.

                Hòa để xe mình tại chỗ, lên chung với Phan chạy về hướng cây số 5. Khi ngang qua phi trường L19, Hòa thấy vẫn còn ba chiếc trực thăng đang lên xuống tải thương và tử thi. Mấy chiếc xe hồng thập tự của Tiểu đoàn Quân Y và Quân Y Viện Buôn Mê Thuột nối đuôi nhau liên tiếp chạy ra. Linh tính Hòa báo trước chuyện chẳng lành đã với những đồng đội cũ, với lối chiến thuật ác liệt nầy, khó ai giữ được tính mạng từ trận nầy qua trận khác.

                Xe chạy thẳng vào nhà xác tiểu đoàn nhưng chỉ tìm được đây hơn một chục tử thi. Hậu cứ cho dọn một phòng lớn nằm kế văn phòng ban chỉ huy Tiểu đoàn để chứa thêm gần bốn chục xác khác.

                Hòa bật khóc thành tiếng và chạy đến ôm lấy các xác chết những đồng đội cũ của mình. Xí đang nằm yên mặt nhợt nhạt đầy vết máu, một mảnh đạn súng cối xuyên qua ngực trên tay vẫn còn mang chiếc đồng hồ Seiko. Vàng không còn nguyên vẹn thân thể, trên áo vẫn còn bảng tên với cấp bậc Trung sĩ nhất. Kloc bị ngay một mảnh đạn ngang đầu. Tâm thân mình chỉ còn một nửa nằm cạnh những anh em khác : Nghĩa, Báu, Hùng…như vậy trung đội thân yêu ngày trước của Hòa đã hoàn toàn tan rã.

                Trung úy Linh bước đến ôm Hòa kéo ra vỗ về :

                - Đằng nào anh em đã chết rồi, anh khóc họ cũng không sống lại được. Bây giờ tôi đưa anh lên bệnh viện để tìm những người bị thương, xem có thể giúp gì được không.

                Trong Quân y viện những người bị thương đang nằm la liệt trên giường, trên băng ca, dưới đất. Không còn chỗ cho những anh em vừa đến. Hòa chạy thẳng vào phòng cấp cứu thấy Chín, Hoan đang được truyền máu. Ba binh sĩ Sâm, Trọng, Bá còn tỉnh, đã được băng tạm đang ngồi dựa vách tường.

                - Trung úy !

                Nghe tiếng gọi, Hòa quay lại, Đậu đang được chuyển vào phòng cấp cứu, còn tỉnh và nhận ra Hòa. Hòa vội hỏi :

                - Trung đội của mình…?

                - Dạ tiêu tùng hết. Chúng nó pháo tới tấp trên đầu không cách nào chống đỡ. Em được đưa về đây bằng trực thăng, không biết những người còn lại ra sao.

                Nắm tay anh em một hồi, Hòa phải ra khỏi cấp cứu theo yêu cầu của Y sĩ trưởng.

                Trước lúc lui ra Hòa đến cạnh bác sĩ Hoạt bạn học ngày trước, nói như van xin :

                - Lính cũ của tôi, anh lo liệu giùm.

                Bắt tay Hòa, bác sĩ Hoạt gật đầu :

                - Không sao, bổn phận của tôi, anh đừng nóng ruột.

                Từ giã quân y viện Hòa đến thẳng hai trại mộc, yêu cầu làm gấp năm chục hòm đơn giản để tẩm liệm vào sáng mai.

                Hôm sau Hòa có mặt trọn buổi sáng tại doanh trại tiểu đoàn 1 trong lúc trung đội chung sự tắm rửa, thay áo và liệm các binh sĩ cũ của mình. Linh cữu được sắp thành từng hàng trong một căn nhà dài để chờ thân nhân. Đứng từ xa đã nghe tiếng than van khóc lóc não nùng của những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng.. Hòa nước mắt đỏ hoe, bước nhẹ đến sau lưng mẹ của Xí, vợ Vàng, vợ Tâm, vợ con Kloc…ôm các bà vào lòng vỗ về sót xa như đang ôm những người thân yêu nhất trên đời. Không ai nói được tiếng nào, chỉ có nước mắt và những tiếng nấc nghẹn ngào giữa mùi khói hương nồng nặc, tiếng chuông mõ hòa lẫn tiếng cầu kinh. Suốt ngày hôm đó cho đến sáng hôm sau, Hòa ở lại bên cạnh các quan tài với thân nhân, Hòa không can tâm quay về đơn vị.


                Sáng hôm sau Hòa nhờ Trung úy Linh lấy một số tiền riêng và một bộ áo dân sự. Hòa nhờ Linh đưa tiền lại cho thân nhân từng gia đình để mua hương hoa và góp thêm lộ phí đưa linh cữu về nguyên quán. Hòa thay bộ áo dân sự, lên xe ngồi chung xe chở linh cữu Xí đến tận đồi Chukuc, nơi đã ghi dấu nhiều kỷ niệm, để tiển đưa một người lính, người bạn, người em một đoạn đường.

                Trung úy Linh nói với Hòa :

                - Anh cần tôi lái xe theo anh, hay tôi bảo tài xế đón anh?

                - Cám ơn Linh, tôi sẽ trở lại bằng xe đò. Đường không an ninh, anh đừng cho jeep chạy theo.

                Trên đường trở lại Buôn Mê Thuột, quá mệt mỏi nhưng Hòa không thể chợp mắt, hình ảnh của những người lính cũ chết không toàn thây, của các bà mẹ bà vợ nằm lăn bên hòm than khóc thảm thiết cứ ám ảnh trên suốt đoạn đường.

                Chia ly, đau khổ, tàn phế, chết chóc và mất mát là định luật của chiến tranh mà phần thiệt thòi lúc nào cũng giáng xuống đầu những gia đình nghèo khó, những binh sĩ vô tội đáng thương. Dù dưới chế độ nào cũng vậy, họ không đủ tiền để mua một chỗ núp bóng che thân. Họ đã nằm xuống hàng trăm hàng ngàn người ngoài mặt trận cho sự an toàn của một vài quan quyền trong bàn giấy.

                Những chiến sĩ đáng thương nầy đã thực sự hy sinh cho tự do và toàn vẹn của lãnh thổ, nhưng được gì ngoài vài chục ngàn tiền tử với chiếc hòm sáu miếng ván ? Xác chưa kịp chôn, vành tang chưa quấn chặt, nước mắt cha mẹ vợ con đang chảy… trong lúc các tướng tá hãnh diện nhận thêm sao, thêm hoa trên cổ, thêm những chéo vải xanh đỏ trước ngực. Hãy nhìn kỹ đằng sau những chiếc huy chương nầy, không gì hơn ngoài nước mắt đau thương của những người còn lại, máu và những xác chết của những anh em thuộc cấp đã hiến thân mình cho tổ quốc cũng như hàng ngàn trẻ con, thanh niên đáng thương vô tội phía bên kia chiến tuyến, đã hy sinh cho mưu đồ tham vọng xâm chiếm Miền Nam của cộng sản khát máu.

                Vùng rừng núi Pleiku-Kontum, một vị trí chiến lược quan trọng, địch cần khống chế để làm bàn đạp thôn tính Miền Nam. Ranh giới Việt-Miên-Lào là vùng lý tưởng để ẩn náu, dưỡng quân của bộ đội Miền Bắc. Nơi lập kho hậu cần lương thực vũ khí đạn dược để chuyển tiếp vào Nam xuyên qua đường mòn Hồ chí Minh. Làm chủ được vùng nầy, Miền Bắc có thể cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa thành hai, đẩy ranh giới từ Bến Hải vào tận Quy Nhơn.

                Mùa hè 1972 Miền Bắc đã tập trung trên ba sư đoàn chính quy với sự hổ trợ của những trung đoàn xe tăng và trọng pháo hạng nặng. Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku, Bộ Tư Lệnh tiên liệu trước khả năng địch nên điều động sư đoàn 23 bộ binh từ Buôn Mê Thuột lên làm đơn vị cơ bản, phối hợp với Sư đoàn 22 đóng tại Quy Nhơn, các Lữ đoàn trọng pháo, Thiết giáp cùng với nhiều Liên đoàn Nhảy dù và Biệt động quân tăng phái.

                Bộ chỉ huy tiền phương của chiến dịch đóng quân trên ngọn đồi về hướng tây cách thị xã chừng dưới mười cây số. Một cách quân được chỉ định đóng ở bìa rừng để bảo vệ thành phố Kontum. Tiểu đoàn 23 tiếp vận do Thiếu tá Nhất chỉ huy, đang theo sát bộ tư lệnh, Trung úy Linh tháp tùng ban chỉ huy, Hòa liên lạc đi về giữa tiền phương tại Kontum, Pleiku và hậu cứ Buôn Mê Thuộc.

                Chiến thuật đánh thành phố của địch, chúng thường dùng pháo trấn áp trước, chiếm lấy dân để cản đường phản công của quân ta. Sau một đêm địch pháo kích như điên vào thị xã, vùng cát trắng Kontum nhuộm thành đỏ bởi máu của dân lành vô tội. Thành phố trở thành đống gạch, người và gia súc chết nằm ngổn ngang trong nhà ra đến đường. Vừa dứt pháo, địch từ nhiều hướng ồ ạt vào chiếm các điểm trọng yếu nhưng đã gặp phản công kịp thời của quân ta, chúng buộc phải rút lui sau vài giờ giao tranh. Kế hoạch đánh chiếm thị xã Kontum hoàn toàn thất bại, địch đã để lại một thành phố hoang tàn đổ nát và tang thương.

                Đánh bạt địch ra khỏi thành phố Kontum, Bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn II chia lực lượng thành nhiều mủi tiến quân thẳng vào cơ sở hậu cần và sào huyệt của chúng. Chận đường tiếp viện vào từ Miền Bắc và giải vây các tiền đồn đang bị chúng cô lập. Bộ tư lệnh tiền phương đã san bằng sào huyệt các cơ sở hậu cần dễ dàng và mau chóng. Chỉ tiếc một hai tiền đồn đã lọt vào tay địch sau những loạt tấn công biển người, là một thủ đoạn thí quân không vô nhân đạo của Cộng sản.

                Chiến lợi phẩm do Trung đoàn 45 tịch thu đuợc ngoài vũ khí trang bị cá nhân đều xuất xứ từ Liên Sô và Trung cộng còn mấy chục tấn gạo ẩm ướt lên mốc, muối hột và cá khô các loại. Bên trái bãi đất trống nằm sát bộ chỉ huy tiền phương trung đoàn, các chiến lợi phẩm đã được phân ra từng loại, bên phải vẫn còn chất đống bừa bãi. Trong lúc tiểu đoàn làm thủ tục tiếp nhận, Hòa tách riêng đi về hướng các tù binh, trên trăm người đang bị bịt mắt ngồi thành từng hàng dưới bóng cây. Họ còn quá trẻ chừng 16 đến 18 tuổi là cùng. Nhiều khuôn mặt còn búng ra sữa, trên người chỉ chiếc áo rách và cái quần cụt. Hòa nhìn họ bỗng thấy xót xa trong lòng. Đám tù binh Miền Bắc trẻ nầy chào đời trong chiến tranh, áo không đủ mặc, ăn không đủ no, chữ nghĩa chỉ vài ba chữ. Đời chưa bao giờ biết đến miếng cá miếng thịt là gì ngoài những món ăn trường kỳ ngô khoai và rau cải. Đến lúc vừa đủ sức vác cây súng, chục quả súng cối và vài ký lương thực thì bị lùa vào Miền Nam rồi lần lượt bỏ thây vì bệnh tật và bom đạn sau khi vượt qua vĩ tuyến 17. Cấp chỉ huy lúc nào cũng hồ hỡi báo cáo, vận động dân chúng rằng chúng ta đã tiến mạnh tiến nhanh..

                Hòa tiến đến bên cạnh một tù binh trẻ :

                - Tôi mời anh điếu thuốc.

                Anh tù binh không trả lời, quay mặt qua hướng khác. Châm xong điếu thuốc Hòa ôn tồn :

                - Tôi không ở trong đơn vị đã bắt anh và cũng không phải sĩ quan an ninh điều tra đến thẩm vấn.

                Anh tù binh trẻ quay lại nhưng vẫn không có thái độ nào.

                - Anh hút điếu thuốc cho ấm. Tôi biếu anh vì tình cảm riêng của tôi.

                Đến đây anh tù binh gật đầu, Hòa cúi xuống gắn điếu thuốc vào miệng, anh ngập ngừng vài giây rồi hút bằng những hơi dài. Những tấm vải bịt mắt không cho phép Hòa thấy được phản ứng trên gương mặt các anh em tù binh nhưng Hòa cũng nhận biết tất cả đều muốn được một điếu thuốc.

                Vừa châm thuốc cho từng người Hòa vừa nói :

                - Các anh may mắn được chúng tôi bắt về đây, dĩ nhiên sẽ bị giam giữ một thời gian, được săn sóc chữa bệnh và nuôi ăn. Sau nầy các anh sẽ được trả về lại Miền Bắc trong chương trình trao đổi tù binh. Không ai giết hại, móc mắt mổ bụng để ăn thịt như các anh đã bị tuyên truyền. Đừng sợ !

                Nghe đến đây các tù binh đổi ngay thế ngồi, quay hẳn về hướng Hòa đang đứng, ngước mặt lên nghe ngóng. Chưa dứt câu, Hòa nghe tiếng người quen sau lưng :

                - Hòa lên đây hồi nào ? Làm sĩ quan chiến tranh chính trị hay lắm, nhưng không nên. Mấy ông ban 2 sẽ báo cáo bậy lên Trung đoàn càng thêm lắm chuyện. Lui vào trong làm ly café nói chuyện hay hơn.

                Đại úy Điệp, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 choàng tay qua vai kéo Hòa vào trong lều bên cạnh bộ chỉ huy.

                - Có thường lên đây không Hòa ?

                - Dạ thường nhưng ở ngoài thị xã, hôm nay có dịp đi theo vào kiếm thăm anh em cũ.

                - Báo Hòa tin buồn, trong đại đội chỉ còn một mình tôi, các anh em trung đội truởng khác cùng thời với Hòa đã ra đi. Hòa ngồi yên một lúc hỏi lại :

                - Sao em không hay biết gì ?

                - Xác đưa thẳng về hậu cứ. Lúc nầy anh thường có mặt ở Pleiku-Kontum ?

                - Dạ lâu lâu cũng về Buôn Mê Thuột, nhưng quá bận rộn không liên lạc thường xuyên với hậu cứ tiểu đoàn.

                Anh em uống xong tách café, Đại úy Điệp bắt tay đứng dậy :

                - Tôi phải về Tiểu đoàn bây giờ.

                Hòa nước mắt lưng tròng :

                - Bảo trọng nghe anh .

                Đại úy Điệp gượng cười :

                - Cám ơn, số mạng do Trời định làm sao biết được Hòa !

                Trực thăng vừa ra khỏi thị xã Kontum, đạn từ dưới bắn lên tới tấp, hai xạ thủ đại liên vừa bắn trả xuống vừa trấn an :

                - Chúng nó bắn bằng AK không sao đâu, sẽ bay lên trên tầm đạn.

                Hai tay nắm chặt vào thành ghế, Hoà nhìn ra ngoài, những viên đạn lửa chỉnh hướng bay ngang trước mặt. Máy bay phải bốc ngược lên vượt qua tầm bắn. Lúc trực thăng vào hẳn trong đám mây, xạ thủ đại liên ngồi ở cánh cửa nói vào tai Hòa :

                - Chỉ ngại khi chúng nó bắn bằng hỏa tiễn hay súng phòng không, đạn AK nếu không trúng thùng xăng thì không sao.

                Hai lần suýt chết vì máy bay nhưng Hòa không lo lắng mỗi khi bước lên trực thăng. Hòa nghĩ rằng Trời chưa kêu đến tên mình, mặc dù đã hai lần lọt ngay vào ổ phục kích trên đèo Chư Pao và giữa quốc lộ 14 nối liền Kontum và Pleiku.

                Bạn bè đồng đội và anh em dưới quyền đã vĩnh viễn ra đi để lại những nỗi buồn thương tiếc trong lòng người ở lại. Hòa tự nghĩ, không biết bao giờ sẽ đến lượt mình. Bom đạn vô tình đâu biết phân biệt được ai, kẻ hứng chịu trước nhất là những người lính đáng thương, những cấp sĩ quan nhỏ bé như Hòa. Năm 1954 ngưng chiến và chia đôi đất nước để hai miền Nam Bắc sống yên lành trong hòa bình hạnh phúc. Nhưng chính đây là cơ hội để miền Bắc dưỡng quân, huấn luyện binh sĩ, trang bị vũ khí tối tân rồi vượt ranh giới, xâm lược gây thương đau chết chóc cho Miền Nam.

                Ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đâu ? Pháp, Mỹ, Anh…. đâu ? Chính các người đã nhân danh hòa bình công lý đạo đức và dựa vào sức mạnh súng đạn để buộc dân tôi ký vào hiệp định Genève. Ngày nay địch quân đã đạp lên chữ ký của các người, kéo hàng vạn binh lính vượt biên giới vào Nam gây tang thương cho hàng triệu người vô tội.

                Miền Nam không có người bộ đội nào gọi là quân giải phóng. Danh từ mặt trận nghe thật vĩ đại nhưng thực chất là những tên trí thức tay sai của miền Bắc nằm vùng phá hoại, núp bóng giật giây. Địch quân có mặt tại miền Nam chính là hàng chục sư đoàn chính quy hùng hậu của miền Bắc, đã vượt qua biên giới với những dụng cụ giết người tối tân trang bị từ Liên sô và Trung cộng !

                Dân hai miền Nam Bắc đều là người Việt nhưng sống trong hai quốc gia riêng biệt và dưới hai chế độ hoàn toàn trái nghịch nhau. Các ông đừng ngây thơ và cũng đừng đánh lừa dư luận cho rằng chiến tranh Việt Nam đơn thuần là một nội chiến tại của Việt Nam Cộng Hòa, mà thực sự là cuộc xâm lược vĩ đại của cộng sản Miền Bắc, chính chúng đã vi phạm trắng trợn các nguyên tắc căn bản giữa hai quốc gia độc lập và có chủ quyền.

                Các người nghĩ thế nào khi cùng nhau đặt bút ký kết các điều khoảng kiểm soát đình chiến và bảo đảm tự do hòa bình cho hai quốc gia độc lập theo công pháp quốc tế ? Hãy can đảm nhận lấy trách nhiệm để thực thi các điều khoảng do chính các người đẻ ra, đừng để lịch sử phê phán và chính con cháu các người ngày sau sẽ lên án buộc tội.


                Đinh Lâm Thanh
                nguồn: http://nsvietnam.blogspot.com/2013/1...chien-inh.html

                Comment


                • Hạnh Phúc Đầu Xuân ♥

                  Hạnh Phúc Đầu Xuân
                  sáng tác: Minh Kỳ & Lê Dinh
                  trình bày: Trung Chỉnh & Hoàng Oanh


                  Last edited by BachMa; 06-04-2017, 06:31 PM.

                  Comment


                  • Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước ♠

                    Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước
                    sáng tác: Song Ngọc
                    trình bày: Vũ Khanh


                    (Chúa Giê-su nói : "Ai trong các ngươi cảm thấy mình trong sạch thì hãy lấy đá ném người đàn bà ngoại tình đó trước đi ")

                    Last edited by BachMa; 06-04-2017, 06:34 PM.

                    Comment


                    • Chuyện Vui Cuối Tuần

                      Máy Dò Nói Dối
                      Anh chàng John rất chuộng các lọai máy móc, hàng hóa vừa được tung ra thị trường, nhiều khi anh ta chưa biết rõ lợi ích, hiệu quả của món hàng.
                      Một hôm anh ta vác về nhà một món hàng lạ, có hình dáng như một “robot” và bảo với vợ con đây là một cái máy dò nói dối.
                      Sẵn dịp cậu con Tommy vừa đi học về… muộn 2 giờ. Để biểu diễn máy nói dối, John hỏi:
                      - Con đi đâu mà giờ này mới về?
                      Cậu con trả lời:
                      - Mấy đứa con đi thư viện làm bài chung.
                      Người máy bèn đến gần Tommy tát cho nó một cái như trời giáng, làm nó bổ chửng.
                      - Tommy, robot này là máy dò nói dối đó con à. Con nói dối là nó đánh đau lắm. Nói thật đi, con đi đâu?
                      Tommy cúi đầu khai thật:
                      - Con đến nhà bạn coi phim.
                      - Vậy tụi con xem phim gì?
                      Tommy trả lời:
                      - Dạ tụi con coi phim “The Ten Commandments.”
                      Người máy đến tát cho Tommy một cái nữa.
                      Nó vội vàng chữa lại:
                      - Tụi con xem phim “The Sex Queen.” Con xin lỗi đã nói dối.
                      John nghiêm mặt nhìn con:
                      - Con thật đáng xấu hổ, hồi bằng tuổi con, không bao giờ bố dám nói dối cha mẹ.
                      Người máy lẳng lặng đến tát cho John một cái đích đáng.
                      Marie, vợ anh John, ôm bụng cười ngặt ngoẽo, chảy cả nước mắt nước mũi:
                      - Đáng đời anh chưa? Thằng Tommy thật đúng con anh.
                      Ngay lập tức người máy cho Marie một cái tát... bật ngửa!



                      Ba Xác Chết
                      Ba xác chết có bộ mặt mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự ở Arkansas (Mỹ). Ông quản lý đang trả lời thám tử về nguyên nhân của những cái chết.
                      - Đây là Celtus. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 20 triệu USD.
                      Ông ta bước đến xác thứ hai:
                      - Đây là Bob. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản.
                      Đến cái xác thứ ba:
                      - Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
                      - Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười gì? - Thám tử hỏi.
                      - Ồ, ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình!



                      Vợ Mới Cưới
                      Tạp chí “Phụ nữ tân thời” phỏng vấn một anh chàng mới cưới vợ, vợ anh ta là một nữ cảnh sát giao thông:
                      - Xin anh cho biết cảm tưởng khi có một người vợ như vậy?
                      - Thấy không thoải mái chút nào!
                      - Anh có thể nói rõ hơn?.
                      - Vâng, ngay đêm tân hôn tôi đã bị cô ấy phạt tới 3 lỗi cùng lúc: Tốc độ quá nhanh, đậu sai… nơi quy định và không đội mũ an toàn!


                      Comment


                      • Tôi Thi Quốc Tịch

                        Tôi Thi Quốc Tịch
                        Tôn Nữ Thu Dung



                        Bảo Huân

                        Sau gần 5 năm bước chân đến Mỹ, tôi bắt tay vào việc điền đơn xin nhập tịch. Chứ sao, một lưu dân gương mẫu như tôi xứng đáng làm điều đó hơn ai hết. Ðúng 5 năm, Sở Di Trú gởi thư mời đi lăn tay để chứng minh “nhân thân” trong sáng như tờ giấy trắng, lý lịch không hề có “tiền án tiền sự” gì ráo! Ðiều đó dĩ nhiên rồi, một dân nhập cư lương thiện cần cù như tôi suốt 5 năm nay chỉ biết vùi đầu vào đi học, đi làm, đi bệnh viện và đi Las Vegas… không kể một lần đi nếm rượu nho ở Napal Valley mà chỉ vài tuần sau là ông chủ vựa rượu nho ấy lăn đùng ra chết (chắc không phải là quá đau khổ vì những lời phê bình góp ý vô cùng thẳng thắn của tôi!!!)

                        Ðừng coi thường tôi nghen! Tôi có những người bạn (mà tôi không dám và không thể nói tên công khai ở đây), họ luôn tự hào họ là những tay SÁT CÁ, SÁT GÁI, SÁT THỦ, SÁT NHÂN, SÁT…THÁT v.v… Tôi khiêm tốn hơn, tôi chỉ có một niềm hãnh diện nhỏ bé (nhưng vô tận) là SÁT PHẠT… Tôi chơi bài luôn luôn thắng, từ bầu cua, xì lát, tiến lên, xập xám cho đến những… ván bài lật ngửa, tôi cũng đều nắm được những quy luật để không thể nào thua!!! Tôi chơi nhỏ thắng nhỏ, chơi lớn thắng lớn, không chơi thì không thắng! Kể cả đứng gần ai người đó cũng thắng luôn!!!

                        Khi chụp hình lăn tay xong, nhân viên Sở Di Trú phát cho tôi một cuốn cẩm nang Luyện Thi Quốc Tịch LEARN ABOUT THE UNITED STATES và một Video Clip để luyện nghe và nói. Làm bất cứ việc gì tôi cũng là người ham chơi mau chán, nhưng những gì liên quan tới chữ nghĩa là tôi say mê cùng cực, đời tôi gắn liền với chữ nghĩa, tôi học như điên vì càng học càng thấy mình ngu kinh khủng.

                        Thấy tôi cứ chúi đầu vào học, Chief tò mò gạn hỏi:

                        “Ủa chớ cô quan tâm đến ba cái quái này làm gì? Ai cần biết Hoa Kỳ có bao nhiêu Senator? Ai cần nhớ ông nào làm Tổng Thống suốt Thế Chiến I? Ai cần hiểu khi cả Tổng Thống lẫn Phó Tổng Thống lăn đùng ra chết mẹ nó hết cùng một lúc thì thằng quỷ nào sẽ lên thay nắm quyền sinh sát?”

                        Rồi nheo mắt rất thập phần đểu cáng:

                        “Hay cô chán săn sóc người tàn tật rồi nên muốn ứng cử vô DÒNG CHÍNH?”

                        Chief là dân Trắng cao sang quyền quý, xuất thân từ một danh gia vọng tộc đâu đó ở một trong 13 tiểu bang từ thời lập quốc… (nghe khoe vậy chớ tôi đâu có biết thật hay xạo!!!) nay về CALI điều khiển cái Nursing Home sang trọng này. Chief cũng không nghĩ tôi chưa phải là công dân Hoa Kỳ khi thấy tôi hơn khá xa các dân nhập cư đến từ các nước… chậm tiêu khác!

                        Chief còn có dòng máu kỳ thị chủng tộc chảy ào ào trong huyết quản dù bề ngoài vẫn rất thân thiện dễ thương (hay tôi nhạy cảm quá chăng?). Chief không thích Tổng Thống Obama chút nào, cứ mong mỏi đến tháng 11 đi bầu cho người khác. Chief còn vận động hành lang, muốn xâm phạm bí mật đời tư của tôi bằng cách cứ cà rà theo hỏi tôi sẽ bỏ phiếu cho ai trong đợt này. Chief thuộc Ðảng Cộng Hòa nhưng không hiếu chiến kiểu Trump… Nghe tôi trả lời tôi học “ba cái quái này” để thi Quốc Tịch, Chief rất bất ngờ và ngạc nhiên khi biết tôi mới qua Mỹ 5 năm và chưa có Quốc Tịch Hoa Kỳ.

                        Nhưng cũng phải nói Chief rất dễ thương khi thỉnh thoảng lại ôn cùng tôi vài câu lịch sử, chính trị, địa lý và uốn nắn giùm tôi những chữ phát âm không đúng… cho đến ngày tôi thuộc lòng như cháo chảy đủ cả 100 câu thì cũng là lúc tôi lên đường ứng thi.

                        Chief tuyên bố:

                        “Cô mà không đậu thì chẳng ai đáng đậu.”

                        Rất nhiều lần Chief bày tỏ lòng ngưỡng mộ tôi nhưng không nói gì tới chuyện tăng lương. Nhưng dù sao Chief cũng biết cách ngăn chận lòng tự cao tự đại của tôi bằng một câu an ủi chí lý vô song:

                        “Hơn nữa, đợt này nhằm kỳ bầu cử nên bọn nó sẽ cho đậu ráo hết để kiếm cử tri!”

                        Mẹ kiếp, tôi muốn chửi thề ghê gớm nhưng không dám vì sợ mất đi hình tượng sang trọng, lịch sự, rất Lady trong mắt Chief, đúng là bản chất của bọn thực dân đế quốc, lúc nào cũng muốn ra vẻ ban ơn và không công nhận người khác giỏi hơn mình… Nói thật, Chief mà biết độ 20% những câu cần học thì tôi sẵn sàng bỏ việc!

                        Tôi tự nhủ với lòng mình sẽ có một lúc nào đó phanh phui hết những tội lỗi trong từng lời nói của Chief khi nào Chief sa cơ thất thế hoặc là khi nào tôi thật giỏi tiếng Anh. Cứ chờ đó đi.

                        Ngày đi thi: Một sáng cuối tuần đẹp trời, sương hồng phủ mờ phố núi, đẹp như thơ, như tranh.

                        Giờ thi: 7:55 am yêu cầu tới trước 30’ để kiểm tra giấy tờ.

                        Ðịa điểm thi: San Bernardino… Chúa ơi, cái thành phố vừa bị khủng bố tấn công dã man vào mấy tháng trước.

                        Xe vừa vào Free Way 210 East thì mặt trời nhô lên màu đỏ vàng rực rỡ như nửa trái cam CALI ngọt ngào xinh đẹp. Con gái nói:

                        “Mặt trời lên đẹp ghê chưa má, đó là điềm hanh thông đại cát”

                        (Con gái là dân làm báo chuyên nghiệp, lương cao bổng lộc hậu chớ không phải dân báo đời như má nó, nó có liên quan đến ngành địa ốc như ba nó nên đi học thêm phong thủy và nói năng pha lẫn tiếng tàu như sư phụ nó cho sang!)
                        Nó xin nghỉ nửa ngày để chở tôi đi thi vì biết tôi luôn luôn đi lạc, không cách nào phân biệt được đâu là hướng South, hướng West, hướng North, hướng East khi đến một thành phố khác.

                        Thường tôi tới San Bernardino là tới những khu vực nghèo khổ, phát thức ăn, áo quần cho những người Homeless. Thật sự San Bernardino cũng có những thành phố xinh đẹp, sang trọng như những nơi tôi vừa đi qua … những ngôi nhà mới sáng trưng trong nắng, những con đường hoa đào trắng đẹp mê hồn soi bóng xuống cỏ xanh, những biệt thự cổ kính nép bên sườn đồi. Tôi nói:

                        “Nhà đẹp quá, hay mình tới đây mua nhà đi con.”

                        Nó la lớn:

                        “Má, làm ơn tĩnh tâm mà nhớ lại rằng là má đang trên đường đi thi quốc tịch chớ không phải là đi coi nhà hay mua nhà. Làm ơn rơi khỏi chân mây chút!!!”
                        Tôi cười, tôi rút ra một kinh nghiệm xương máu sau rất nhiều nỗi đoạn trường cay đắng rằng thì là nếu tôi đang bị ai giận dữ la mắng, hay tôi dại dột làm điều chi lầm lỗi thì đừng có mà gân cổ lên cãi vã làm gì cho mệt,…Tôi chỉ cần cười thôi là mọi điều đều được hóa giải hết trọi hết trơn… Hơi vô duyên lãng nhách một chút, nhưng tôi phải công nhận tôi cười … dễ thương thiệt đó!

                        Nó hạ giọng liền:

                        “Ðể con ghé vô mua cho má một ly starbucks”

                        Ðúng là đứa con có hiếu.

                        Tôi vào nộp giấy, nó gọi tôi lại gần, nói nhỏ:

                        “Má, nếu má thi rớt con sẽ để má đi bộ về, chỉ có 3,4 chục miles chớ mấy!”

                        Ðúng là đứa con bất hiếu. Bộ mày chưa từng nghe ai nói câu “học tài thi phận” bao giờ sao?

                        “Nhưng nếu má đậu con sẽ cho má $100”

                        Tôi không thèm trả lời, mặc kệ nó xếp hàng đứng sau lưng.

                        Cởi giày, đi chân không qua cổng an ninh… Bóp, điện thoại, áo lạnh chạy qua máy dò. Ly cà phê mới uống một hớp bị quăng vô thùng rác cùng chung số phận với chai nước suối. Không sao, tôi sẽ có $100 đồng cá cược của nó để mua lại vài chục ly cà phê khác.

                        Vào sảnh lớn ngồi chờ gọi tên phỏng vấn tôi bắt đầu run… đã nói tôi là con thỏ nhưng luôn phải khoác cho mình cái lốt con sư tử… Không ai biết tôi run trừ nó khi thấy tôi kéo cái khăn quàng lên cổ, nó nheo mắt hết sức đểu cáng:

                        “Sợ rồi phải không? Can đảm lên, my Great Mom”

                        Bao nhiêu người được gọi vào, bao nhiêu khuôn mặt méo xẹo trở ra. Ai dám nói:”Mùa bầu cử nó cho đậu ráo” là nói tầm bậy tầm bạ. Bởi những lời đồn đãi vô căn cứ như vậy nên cứ đến mùa bầu cử là dân nhập cư tấp nập nộp đơn đi thi để ảnh hưởng không nhỏ đến… tôi. Thôi thì cùng lắm là… gọi taxi về nhà, tốn năm bảy chục!

                        Một vị giám khảo ra gọi tên ông thầy tu ngồi hàng ghế sau tôi… vài phút trước, tôi đã kịp hỏi và biết ông thầy tu đó người Bangladesh, dân Hồi Giáo, tên Hosain Rahman, di dân theo diện tu sĩ…(Ai nói tôi không có dòng máu ngoại giao chảy tràn huyết quản?) đi cùng ông là 3 đồng nghiệp, ủa quên 3 đồng đạo cho vui chớ chỉ một mình ông thi.

                        Vị giám khảo mập, lùn, đầu không có tóc, mặt mày hiền lành phúc hậu… tôi ước chi ông này phỏng vấn thì mình đỡ sợ… vì nãy giờ ngồi đây, tôi toàn chứng kiến những giám khảo mặt mày đằng đằng sát khí, làm như dân nhập cư vô ăn hết gia tài hương hỏa không bằng…. Họ giả vờ làm như không hề biết rằng chúng tôi đã cống hiến cho đất nước này đôi khi nhiều hơn cả họ.

                        Ông thầy tu vào và ra rất nhanh, không biết vì thiếu giấy tờ hay sao sao đó, khuôn mặt ông đã đen thì chớ bây giờ tối thui luôn… Tôi chưa kịp định thần thì vị giám khảo ấy đọc rất rõ tên người tiếp theo từng tiếng một DUNG NU THU TON.

                        Tôi không nghĩ đó là tên tôi, tôi không nghĩ Chúa, Phật, Alah và các đấng linh thiêng đã nhận lời tôi cầu khẩn là cho tôi được phỏng vấn bởi vị giám khảo này! Nếu biết các ngài rộng lòng bao dung đến vậy tôi đã xin thêm một điều nhỏ bé khác là được song suốt qua truông qua ải!!! Dịp may đâu đến 2 lần, tôi chắc lưỡi:
                        Cùng lắm là chết!

                        Tôi đứng lên:

                        “I’m here”

                        “Good Morning”

                        “Good Morning, How are you today?”

                        “Good, and you?”

                        “Good”

                        “Follow Me, Please.”

                        Cuộc tra tấn bắt đầu, tôi thầm nghĩ, rất kiên cường, tôi hít một hơi dài trấn tĩnh.

                        Giám khảo hỏi trên con đường đi qua mấy dãy hành lang sao mà dài lê thê (bắt đầu từ đây tôi sẽ dịch ra tiếng Việt)

                        “Cô đi với ai đến đây?”

                        “Con gái tôi”

                        “Cô không thể đi một mình sao?”

                        “Nói thật, tôi hơi sợ…”

                        “Sợ? Sợ điều gì?”

                        Tôi liền chơi trò vận động hành lang:

                        “Ðây là một ngày rất quan trọng của tôi, tôi sợ đi lạc, sợ trễ giờ, sợ tai nạn xe cộ và kể cả sợ thi rớt nữa!”

                        Ông ta cười:

                        “Ðừng lo, mọi sự sẽ tốt đẹp thôi!”

                        Vào phòng phỏng vấn, tôi chuẩn bị tư thế đưa tay phải lên thề theo đúng như sách vở là nói tất cả sự thật và chỉ là sự thật mà thôi như trong cả ngàn trường hợp phỏng vấn mà tôi coi trong Video clip đến mòn cả cái đầu đĩa. Ngạc nhiên chưa, ông ta lại bảo tôi ngồi xuống, đưa passport, thẻ xanh, thẻ Social, bằng lái xe.

                        Ổng cầm, coi sơ, xong ôm xấp hồ sơ của tôi đi ra sau khi biểu tôi ngồi chờ vài phút và không được move chỗ khác (Wait me few minutes and don’t move… please). Move đi đâu trời hỡi? Tôi đang run cầm cập như con cầy sấy đây !

                        Chừng 5’ sau ông trở lại, chắc đi điều tra nghiên cứu gì thêm ở các cấp cao hơn. Ông ngồi xuống, bắt đầu hỏi, bỏ qua phần thề thốt… chắc ổng quên, tưởng tôi đã thề hồi nãy rồi… không lẽ tôi nhắc là tôi chưa được thề… Tôi chắc lưỡi: “ngu sao nhắc, ai lại đi mua thêm cái dây để tự trói mình!!!”

                        Hay ổng thấy mặt tôi rất lương thiện ngây thơ trong sáng nên không hề biết nói dối và nếu bắt tôi thề sẽ là một xúc phạm nặng nề???

                        Ai biết ổng nghĩ gì làm gì với cái thái độ nhởn nhơ  như vậy.

                        Chỉ biết được một điều lạ lùng duy nhất là tôi không được thề thốt gì cả như mấy chục triệu dân nhập cư từ mấy trăm năm nay!!!

                        Tôi thấy mình đặc biệt và hãnh diện vì điều này cho đến khi kể lại cho một số người nghe điều bí ẩn ấy, thì ai cũng tức cười và nói ổng quên tại tôi cứ xí xô xí xà làm ổng líu quíu, chỉ có một người bi quan yếm thế làm tôi lo sợ mất ngủ mấy đêm: “Vậy là kỳ thi của bạn hổng có giá trị gì ráo. Bạn chuẩn bị thi lại đi chớ ở đó mà huênh hoang những là hãnh diện với là đặc biệt!!!”

                        Kệ, chuyện này để sau tính.

                        Còn bây giờ kể tiếp chuyện phỏng vấn, khi cầm Passport của tôi cẩn thận lật từng trang rất kỹ, ổng hỏi:

                        “Cô về Việt Nam 1 lần?”

                        “Vâng”

                        “Ai là người trả tiền cho chuyến đi này?”

                        Câu hỏi không có trong bất cứ bài học nào của Sở Di Trú như thế này thực sự xúc phạm đến tôi, tôi cáu kỉnh, Hắn nghĩ mình là ai vậy chứ?

                        Nhưng một tia chớp nhanh chóng hiện ra trong đầu, à, hắn đang gài độ, thử coi mình có nhận tiền hay ân huệ gì của bọn ISIS không chứ gì? Chắc hồi nãy Camera có quay tôi chuyện trò thân thiết với ông thầy tu Hồi Giáo!

                        Tôi nghiêm trang trả lời:

                        “Tự tôi trả tiền cho tôi, tôi đã và đang làm việc, cần gì tiền của ai!”

                        Hắn (tôi bực mình lắm rồi, không thèm lịch sự gọi là Vị hay Ông gì nữa) ôn tồn giải thích:

                        “Ồ không, tôi hỏi vì hơi ngạc nhiên khi thấy cô Low Income (thu nhập thấp) mà có tiền về Việt Nam. Mọi thứ ở đó đắt hơn ở đây rất nhiều.”

                        Ðúng là tráo trở như dân ngoại giao, miệng trơn tru còn hơn bôi mỡ.

                        “Cô sinh ở NhaTrang?”

                        “Không, tôi sinh ở Huế”

                        “Thừa Thiên Huế?”

                        Cách phát âm chữ Thừa Thiên Huế của hắn chuẩn không chê vào đâu được. Tôi đâm nghi ngờ hắn thuộc dạng CIA hoặc FBI gì đây nên vô cùng cảnh giác.

                        “Vâng”

                        “Ðó là một nơi rất buồn, Cô có biết chuyện gì xảy ra ở đó vào năm 1968 không?”

                        Tôi lại cáu, hắn đâu có ngờ tôi chỉ có một nhúm chữ tiếng Anh ít ỏi làm vốn mà hắn đã moi ra gần hết rồi… Hỏi tiếp nữa chắc dồn tôi vào thế phải sử dụng ngôn ngữ thứ ba là TO QUƠ! Nhưng đã nói, tôi là một kịch sĩ tài ba như lời thầy Bửu Ý khen hồi nhỏ, tôi điềm tĩnh trả lời:

                        ” Biến cố Mậu Thân”

                        ” Very Good”

                        Nhắc tới Huế là tôi ngứa miệng, bèn hỏi:

                        “Ông có ở đó vào ngày ấy?”

                        “Tôi ở gần Ðàn Nam Giao, lúc bấy giờ  tôi là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ”

                        “Lúc ấy ông còn rất trẻ, và đẹp trai, tôi nghĩ vậy!”

                        Hắn cười, đỏ mặt lúng túng, im lặng vài giây và nói thật buồn:

                        “Tôi chỉ là một chàng trai trẻ thôi. Tôi yêu một cô gái Huế, nhưng cô biết đó. Người Huế không muốn gả con cho người nước khác. Chúng tôi chia tay, và cô ấy… lên núi!”

                        Tôi ngớ người trước chữ “lên núi” của hắn. Tưởng trong biến cố Mậu Thân hắn phát giác cô là việt cộng, nhưng không phải, cô  bị chết vì đạn lạc… được mang về chôn trên đỉnh Ngự Bình.

                        Bỗng dưng tôi trở thành người phỏng vấn, hắn chìm vào cơn hoài cảm nào đó dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua.

                        Im lặng hồi lâu, tôi hỏi :

                        “Có phải vì vậy mà ông nhận phỏng vấn tôi khi thấy tôi mang họ TÔN NỮ?”

                        “Tôi không thể nói có hay không, cô thông cảm. Cô  hãy nói cho tôi biết: Ai là người có tội trong cái chết ấy?”

                        Tôi tự giận mình đã không giỏi tiếng Anh để hỏi và nghe câu chuyện với nhiều tình  tiết ly kỳ có thể khai thác ở hắn, cái máu làm báo nghiệp dư đang muốn nổi lên nhưng vốn biết người biết ta, tôi thấy vốn liếng ngôn ngữ của mình tới đây là cạn kiệt, bèn lôi hắn ra khỏi cơn trầm cảm cuối tuần:

                        “Rất nhiều cái chết vào năm ấy,  nhưng tôi không nghĩ câu này nằm trong phần 100 câu hỏi tôi được học để biết về nước Mỹ?”

                        Hơi giật mình, hắn rời khỏi cơn hoài niệm, cười xởi lởi:

                        “Ồ không, tôi chỉ trắc nghiệm tiếng Anh của cô thôi. Bây giờ tôi mới bắt đầu hỏi về những điều cô cần biết về nước Mỹ!”

                        Câu 1: Có bao nhiêu chánh án trong tòa án tối cao?

                        – 9 người (tôi lanh chanh thêm: mới chết 1 người á.) Hắn cười khen tôi giỏi

                        Câu 2: Tên 3 tiểu bang nguyên thủy của Hoa Kỳ ?

                        – Virginia (tôi nghĩ tới thầy Trương Vũ)

                        – Maryland (tôi nghĩ tới nhà thơ Phạm Khánh Vũ)

                        – Georgia (tôi nghĩ tới quê hương của tác giả Cuốn Theo Chiều Gió)

                        Câu 3: Ai là Thượng Nghị Sĩ của California?

                        (tôi định nói Janet Nguyễn cho oai, nhưng hơi sợ rằng sách vở chưa in kịp, cô chỉ là Thượng Nghị Sĩ của Tiểu Bang, hắn không biết lại cho rằng tôi sai nên tôi đành cay đắng nói theo sách vở)

                        – Diane  Feinstein
                        Câu 4: Ai là nghị viên của California?

                        ( bà này vẫn ký thường xuyên vào các giấy khen thưởng này nọ của tôi nên tôi trả lời không suy nghĩ luôn)

                        – Lorreta Sanchez

                        Câu 5: Ai là Tổng Thống trong suốt Thế Chiến 1?

                        (cái này tôi học mẹo cho dễ nhớ tên cái ông đọc ra là trẹo bản họng: WW1 Tên ổng cũng bắt đầu bằng WW)

                        – Woodrow Wilson

                        Câu 6: Tên một tiểu bang giáp ranh Mễ Tây Cơ?

                        (tôi  trả lời nhanh như chớp)

                        – Texas

                        Câu 7: Tên bài Quốc Ca Hoa Kỳ?

                        (tôi biết bài này rõ, nhưng nhỡ may trả lời xong hắn biểu hát cho hắn nghe thì tiêu tán đường, nên từ chối ngay lập tức)

                        – Xin lỗi, tôi không nhớ rõ lắm, cái tên thật khó nhớ, nhưng tôi đã trả lời đúng cả 6 câu rồi, đâu cần trả lời thêm .

                        Hắn lại cười,  lẩm nhẩm đếm coi thử đủ 6 câu chưa:

                        “Ồ, xin lỗi, cô nói đúng, bây giờ cô đọc và viết cho tôi những câu này”

                        Hắn đưa 2 tờ giấy,

                        Tôi đọc: “Why does the flag have 50 stars?”

                        Và viết theo lời hắn đọc : “Because there is one star for each state.”

                        Chưa điều gì dễ hơn 2 điều hắn vừa bảo tôi làm… Hắn khen tôi chữ đẹp.

                        “Congratulations! cô chờ 2 tuần sẽ có thư mời đi tuyên thệ.”

                        Tôi đậu, tôi đứng lên, không cảm thấy vui mừng chi lắm như vẫn tưởng tượng xưa nay, cảm ơn, chào tử tế… đi ra cửa.

                        Cảm thấy mình là một công dân hạng hai vừa được đặc cách lên hạng nhất như một ân huệ được ban bố… mà tôi thì chúa ghét nhận ân huệ từ ai!

                        Tôi muốn khóc, không phải vì vui mừng mà chỉ cảm thấy mất mát một điều gì vô hình mà to tát xiết bao! Ðiều gì? Tôi khắc khoải mất ngủ nhiều đêm.

                        “Má, sao lâu vậy má? Mấy người vô sau má đều rớt hết trơn hà! Con biết thi càng ngày càng khó, Cali đất chật người đông… Nếu má rớt con cũng chở má về chớ không bắt má đi bộ đâu! Con chỉ nói giỡn thôi mà, má đừng giận!”

                        Mặt tôi buồn thiu nên con nhóc tưởng tôi rớt liền an ủi hỏi han. Tôi đưa tờ giấy có chữ ký giám khảo đóng dấu xác nhận YOU PASSED THE TESTS OF ENGLISH AND U.S HISTORY AND GOVERNMENT cho nó cầm. Nó hớn hở:

                        “Má giỏi quá, má đúng là GREATTTTTT…… MOM của tụi con!”

                        Sau khi thi, rất nhiều người hỏi tôi thi Nhập Tịch dễ hay khó thì tôi chẳng biết trả lời sao, tôi ngần ngừ nói nhỏ: tôi không biết. Mọi người rất ngạc nhiên, nhưng tôi nói thật mà… tôi kể hết rồi đó, tùy bạn nhận định thôi!



                        Tôn Nữ Thu Dung - July 13, 2016
                        nguồn:
                        http://baotreonline.com/toi-thi-quoc-tich/

                        Comment


                        • Chuyện Người Tóc Bạc Sớm

                          Chuyện Người Tóc Bạc Sớm
                          Tiên Sha - Lê Luyến
                          (Tặng bạn tôi, Biệt kích Nguyễn Thanh Châu)


                          "Phong trần xuôi một bước lưu lạc
                          Đầu xanh theo một chuyến Xuân tàn"

                          Tản Đà



                          I

                          Sống ở xứ người buồn nên cuối tuần anh em thường tụ họp uống trà tán gẫu; Ôi thôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, toàn thiên hạ sự. Nhưng lần nào cũng vậy, chu du khắp năm châu bốn bể rồi sau rốt họ cũng trở về với câu chuyện của mảnh đất quê hương hình chữ S xa xôi ngàn dặm.

                          Lớp trẻ ngạc nhiên khi nghe người lớn luôn nhắc đến đề tài chiến tranh và ngục tù cũ rích mà không bao giờ biết chán. Họ nói với chút ngậm ngùi cay đắng; Có kẻ ủ ê thở dài nhưng cũng có người bộc phát lòng căm ghét và khinh miệt. Làm sao giải thích cho lớp trẻ hiểu rằng đó là hoài niệm, là sự tìm kiếm quá khứ, là vốn liếng cuộc đời của cả một cuộc bể dâu tang thương mà thời đó những người trong cuộc bị cuốn hút, có khi không còn nhận ra được ngay cả chính bản thân mình. Làm sao cho lớp người trẻ biết rằng sau những năm tháng tăm tối của định mệnh, sau thời gian đăng đẳng đầy rẫy tai ương gai góc, những con người ngày xưa may mắn còn sống sót, quây quần cố nhóm lên đóm lửa tưởng chừng đã bị vùi lấp, chìm khuất trong bão giông quên lãng. Hiện tại họ đã già, vết thương bom đạn đục khoét làm bạc nhược thân xác. Cái đầu thì cằn cỗi lão hóa thiếu chất xám, họ chấp nhận làm bất cứ công việc gì để giải quyết cấp thời chuyện cơm áo qua ngày. Quá khứ đối với họ như món đồ cổ trân quý dẫu rằng có bị sứt mẻ, méo mó vì thời gian tàn nhẫn nhưng vẫn luôn được săm soi, nhìn ngắm bằng tấc dạ bồi hồi lẫn xót xa. Họ nâng niu trau chuốt như tìm kiếm đời mình ở trong đó, như để gạn lọc chuyện đúng sai, phải trái cuộc đời.

                          Chúng ta hãy lắng nghe lời tâm sự của một người lính già còn sống sót sau cuộc chiến...

                          II

                          Anh người miền Trung. Tuổi mới năm mươi mà thoạt nhìn cứ tưởng đã ngoài sáu chục. Anh vào lính rất sớm, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.

                          Anh bảo là không thể bình thản tiếp tục con đường học vấn khi chiến tranh bùng phát như ngọn lửa táp ngang mày, khi bạn bè lần lượt lên đường và xã hội miền Nam như bị nén chặt trong không khí bức bối, lo sợ với những cuộc xuống đường biểu tình của bọn tả khuynh đội lốt tôn giáo, của bọn hoạt đầu chính trị đang xâu xé, tranh dành quyền lực. Tuổi trẻ sống với nhiều thắc thỏm, ưu tư, hoài nghi và đau khổ. Chiến tranh, bạo loạn và suy đồi đã đưa họ đến cùng cực chán nản. Anh gia nhập quân đội, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan thông dịch, anh tình nguyện về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Một năm hành quân bình an khắp mặt trận vùng I chiến thuật. Năm sau - 1967, anh xin chuyển về binh chủng Biệt Kích Lôi Hổ.


                          Người lính trẻ đầu đội beret đỏ, vai áo mang phù hiệu cọp trắng và cánh dù đó tên là Nguyễn thanh Châu, vỏn vẹn chỉ nhảy được ba chuyến công tác thì kết thúc cuộc đời binh nghiệp. Trong lần hành quân hiểm nghèo tại vùng biên giới Hạ Lào cùng với ba chiến binh VN và hai lính Mỹ, anh không may sa vào tay giặc. Cuộc đọ sức quá chênh lệch giữa các tay súng trong cuộc chơi sinh tử và tất nhiên phần thua sẽ thuộc về phe nào có tay súng ít hơn. Địch đông gấp nhiều lần, do vậy số phần những người lính cảm tử lẻ loi đã được an bày. Hai người lính Mỹ và một quân nhân truyền tin VN bị bắn hạ ngay từ loạt đạn đầu tiên. Toán ba người còn lại vất bỏ ba lô tháo chạy về phía rừng sâu biên giới.

                          Sau nhiều ngày chiến đấu cam go đơn độc, đói khát và căng thẳng, cuối cùng kiệt sức họ bị bắt. Người sĩ quan trưởng toán không chịu khai ra mật lệnh truyền tin bị địch xử bắn ngay tại chỗ. Còn lại anh và một người bạn bị trói dong về nơi chạm súng lúc ban đầu, chỗ có xác hai quân nhân Mỹ và người lính truyền tin VN. Đến nơi họ phát hoảng khi nhìn thấy hình hài các bạn bị xé banh tan nát nhầy nhụa đầy máu, ruột gan tim phổi bị tha đi mất, cái đầu bị liếm gần như trọc lóc, chỉ còn lơ thơ vài mảng tóc dính bết vào xương sọ. Ba người lính xấu số đã bị hùm beo móc ruột tan nát. Số phận không cho họ được tiếp tục làm “cọp sấm sét” ngược lại bị “cọp ăn thịt” đúng nghĩa. Thân xác họ bị rỉa rói tàn nhẫn bởi thú dữ, kên kên ở trên rừng và cả lũ diều hâu ở trong phòng điều hòa, có đầy đô la và quyền sinh sát trong tay. Chúng nhân danh nhiều thứ chủ nghĩa, học thuyết, nhiều danh từ hoa mỹ để đưa người lính VNCH vào tử lộ, chết chẳng toàn thây. Riêng Châu thì may mắn hơn. Sau ba tháng mỏi mòn không tin tức, cha mẹ anh được lãnh tiền tử tuất và đành lấy ngày ra đi công tác làm ngày kỵ cơm anh hàng năm. Không ai biết là Châu vẫn còn sống lây lất trên trần gian để trả nợ thua trận.

                          III

                          17 năm sau

                          Năm 1985, trên đường phố quen thuộc của thành phố Đà Nẵng bỗng xuất hiện một quán nhậu bình dân. Thực khách đa số là dân mánh mung, chợ trời. Đứng tên đăng ký ngôi quán là một bà già ngoài diện tuổi lao động, đủ điều kiện hợp pháp để nhà cầm quyền Cộng sản cấp giấy phép mở quán, nhưng thật tế chủ nhân điều hành lại chính là đôi vợ chồng trung niên, con trai của bà lão. Vợ là người đảm đang, nấu ăn giỏi, tính tình hòa ái. Chồng là mẫu đàn ông lịch lãm, tháo vát, vừa ở tù về.

                          Công an địa phương quản lý người chặt chẻ, nhất là thành phần chế độ cũ. Vô phương làm ăn, túng cùng bạn bè bày kế để cho bà già đăng ký tên chủ quán, còn vợ chồng anh là người giúp việc kiếm cơm. Dần dà khi vỡ lẽ ra thì chuyện đã rồi nên cũng phải làm ngơ bỏ qua.

                          Quán nhờ món nhậu ngon, giá bình dân, chủ yếu lấy công làm lời nên chẳng bao lâu khách đến viếng mỗi ngày một đông. Gia đình chủ quán năm người, vợ đứng bếp có cô con gái lớn phụ giúp. Chồng lo tiếp khách, bán bia rượu, ghi sổ, thu tiền. Đứa con trai cả và bé út 13 tuổi chạy bàn phục vụ. Những hôm đông khách quá, người ta thấy có vài dân nhậu tự động bỏ bàn đứng dậy, giúp cha con chủ quán một tay như người trong nhà. Cũng có hôm quán ồn ào vì có kẻ say sưa quậy phá hay muốn nhậu chạy làng, thì lập tức xuất hiện ngay vài tay giang hồ tứ chiếng, kịp thời giải quyết ổn thỏa mọi việc. Trước sau, người chủ quán vẫn giữ thái độ bàng quang của kẻ ngoại cuộc, thản nhiên đứng nhìn như chẳng hề mảy may dính dáng đến mình.

                          Riêng mấy tay anh chị nầy thì dân giang hồ Đà Nẵng không ai là không biết đến. Ngày trước họ đã một thời lừng lẫy như Phước Mèo nổi danh giỏi võ, với cây dao “tàng chiêu quái đao” đã từng đụng độ lính Đại Hàn có đai đen Taekwondo; hay Hoàng Rouleau, trắng trẻo đẹp trai giống thư sinh nhưng quay súng và bắn nhanh như phim cao bồi Django, đã có lần thử súng với tài xế Mỹ lái xe ẩu đụng người bỏ chạy. Một Đề “đầu bạc” gan to bằng trời, một thân một mình tung hoành nhiều năm ở thành phố lớn miền Trung nầy. Ngoài ra còn có Khiếu râu, Sang què, hai sĩ quan BĐQ độc thân, thường ngâm nga thơ phú mỗi khi tửu hứng. Sau 75, họ bị nhốt tại địa phương vì bị thương tật và các trại tù chứa đầy người quá. Các anh làm đủ nghề, chạy áp-phe, buôn bán. Riêng Đề “đầu bạc” thì hành nghề xe ôm, nhưng không chở người, chở hàng mà chỉ chuyên chở những thứ lậu thuế, quốc cấm.

                          Những người bạn nầy tuy mang tiếng giang hồ nhưng họ sống như những “hảo hớn thảo dã Lương sơn Bạc” đầy khát vọng công lý, phóng khoáng và nhất mực thủy chung với bạn. Thời gian người chủ quán còn ở trong tù, thỉnh thoảng họ xúm nhau giúp gạo, giúp củi cho vợ bạn nuôi con chờ chồng. Những lúc gia đình bạn gặp cơn khốn đốn đều có mặt họ bên cạnh. Ngày bạn ra tù, họ rủ đến vầy cuộc nhậu, chén tạc chén thù, say túy lúy càn khôn suốt một ngày. Biết hoàn cảnh bạn khó khăn, họ gợi ý giúp mở quán nhậu rồi phân công người mua xốp về làm thùng đựng nước đá, người giúp gỗ đóng bàn ghế, sau đó dẫn bạn đến giới thiệu các đề-pô bia, rượu, thuốc lá mua trả gối đầu với giá đặc biệt. Sau cùng họ góp tiền lại cho bạn mượn vốn làm ăn. Vợ người chủ quán nhìn họ bằng ánh mắt cảm động, biết ơn. Riêng với họ chẳng bao giờ nhọc lòng bận tâm. Họ làm nghĩa cử giúp bạn một cách thản nhiên như uống một ly rượu, hút một điếu thuốc.

                          IV

                          Một buổi sáng mùa hè năm 1986, trong ngôi quán bất đắc dĩ được cải biến từ căn nhà ở nằm trên đường Huỳnh thúc Kháng, một người đàn ông cao gầy, đội nón lá rách toe vành, mặc chiếc áo bạc màu sờn vai đẫm ướt mồ hôi, có những quầng muối trắng loang lổ còn in lại trên lưng - Người đi bán củi dạo. Thấy chủ quán bước ra, ông khẻ chào. Bà vợ chủ quán nói:
                          - Củi ông nầy bán đượm lửa mà giá lại rẻ hơn mấy mối trước. Anh vào lấy tiền trả giúp em. Khi người chủ quán trở ra ngồi đếm tiền trả ông bán củi mà trong lòng anh cứ ngờ ngợ, hình như quen thuộc với ông nầy lắm. Khuôn mặt xương xương, cái miệng hay cười toét, vầng trán rộng hơi vồ đầy vẻ bướng bỉnh với mái tóc lờm xờm biếng chải, muối nhiều hơn tiêu... Tất cả dường như gần gũi lắm nhưng người chủ quán cố nhớ mãi vẫn không ra. Chợt nghĩ ra được một điều. Chủ quán bước đến chổ quầy hàng, vói tay lấy chai rượu và hai chiếc ly nhỏ. Anh rót mời người bán củi và nói:

                          - Rượu gạo 100%, uống không bị nhức đầu. Anh dùng thử một ly nhé.

                          Đón ly rượu, ông bán củi không khách sáo chiêu thử một ngụm. Cái miệng bỗng nở toét ra vẻ khoái trá. Người chủ rót thêm và gợi chuyện:

                          - Anh ở đâu? Sao ít thấy qua lại đường nầy.

                          - Tôi ở Nại Hiên. Mới hành nghề bán củi dạo, kiếm cơm qua ngày.

                          Giọng nói dửng dưng, khuôn mặt bình thản, ông tiếp tục uống rượu đốt thuốc. Chủ quán lại nói tiếp:

                          - Tôi cũng có vài người bạn nhà ở Nại Hiên, trước đây học cùng trường Tây Hồ.

                          - Tôi cũng học Tây Hồ. Bạn anh tên chi?

                          - Tên Châu... Nhưng đã chết lâu rồi.

                          - Tôi cũng tên Châu, Nguyễn thanh Châu.

                          Chủ quán mở to mắt nhìn chăm chăm người đàn ông ngồi đối diện, miệng hỏi dồn dập:

                          - Châu “Lôi Hổ”?

                          Khuôn mặt ông bán củi chợt thoáng buồn:

                          - Hổ lôi thì có, chứ làm gì còn hổ sấm sét nữa.

                          Người chủ quán xô ghế đứng bật dậy, dang hai tay chụp vào vai ông bán củi lay mạnh, giọng thảng thốt, ướt sũng xúc động:

                          - Đúng là Châu, Châu điên đây rồi. Mi còn sống hả? Tau là Luyến, Luyến lồi đây.

                          Nghe tiếng la lớn, vợ người chủ quán bỏ bếp chạy vội lên nhà trên. Đôi bạn ngày xưa đang ôm choàng nhau cảm động, thổn thức trước cặp mắt ngơ ngác của bà.

                          * * *

                          Chín giờ sáng hôm sau. Trong ngôi quán bất đắc dĩ đã diễn ra một khung cảnh tình nghĩa, ấm cúng. Bảy người đàn ông trung niên thuộc đủ mọi thành phần buôn bán, làm thuê, mánh mung hay mới ra tù, ngồi quây quần quanh chiếu nhậu, bên những chai rượu, chai bia và một mâm thức nhắm thịnh soạn do chính tay bà chủ nấu ra để chồng chiêu đãi người bạn thưở xưa, mang bản án 17 năm lưu đày mà cứ ngỡ đã chết mất xác từ lâu. Họ là những tay giang hồ anh em thường xuyên có mặt ở quán nầy như: Phước mèo, Đề đầu bạc, Hoàng rouleau, Sang què, Khiếu râu. Trong ngày hội trùng phùng, họ nâng ly với tấm lòng dạt dào nỗi nhớ niềm thương của những kẻ may mắn còn sống sót sau chiến tranh và tù ngục.

                          Rượu đầy rồi cạn, men thấm dần, họ thúc hối người bạn Biệt kích vào chuyện. Ánh mắt mênh mang, một thoáng buồn suy tư, chậm rãi nhả những vòng khói thuốc mờ nhạt, Châu bắt đầu câu chuyện 17 năm về trước ...

                          V

                          Trên cõi đời nầy ngoài tôi ra, chắc chắn không còn ai biết câu chuyện định mệnh năm xưa. Sẽ không bao giờ có ai nhớ đến cái tên Mỹ Missouri của toán chúng tôi.

                          Sau trận chạm súng bất ngờ, ba bị cọp ăn, một tử hình, toán sáu người chúng tôi chỉ còn sống sót lại hai đứa. Tôi và Lô viết Cầu bị bắt trói quặt cánh khuỷu, rời khỏi vùng tử địa có bốn xác chiến hữu chết không toàn thây. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi phải gồng mình chịu cái nóng ngột ngạt, khô cháy của gió Lào ban ngày và cái rét kinh khủng, buốt xương của núi rừng Trường Sơn ban đêm. Cuộc hành trình về nơi lưu đày tưởng chừng bất tận. Ban đầu còn khỏe, ý nghĩ đào thoát cứ lởn vởn trong suốt đoạn đường đi qua. Dần dà bị đói khát, gian khổ, bệnh tật hành hạ, cái chết không còn là nỗi ám ảnh ghê gớm nữa. Tôi nghĩ, đôi khi cái chết đòi hỏi phải có ý nghĩa, nhưng trong tình thế hiện tại thì cái chết chẳng còn nghĩa lý gì nữa khi phải sống với hoàn cảnh nhục nhã, tồi tệ như thế nầy. Có thể cái chết sẽ làm chúng tôi bớt đau khổ hơn là sống hèn, sống nhục. Nhưng kẻ địch không để chúng tôi có cơ hội. Hiếm lắm chúng mới bắt được một người lính quốc gia chứ đừng nói chi là thứ Biệt Kích đặc biệt. Do vậy không những chúng canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm, mà còn tỏ thái độ thù hằn căm ghét đến thậm tệ nữa là khác.

                          Một tháng sau chúng tôi đến Quảng Bình, vùng đất khô cằn sỏi đá của địa đầu “Xã hội chủ nghĩa”. Tôi thấy người dân ở đây cũng thiếu thốn, khổ cực như người tù, chỉ khác là họ không bị trói thúc ké như chúng tôi. Kế tiếp, xe bộ đội chở hai đứa về Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông. Ngày xưa, nơi đây đã một thời nổi tiếng bánh cuốn Thanh Trì và bài thơ “Áo lụa Hà Đông” được Ngô thụy Miên phổ thành nhạc, đã thâm nhập sâu sắc vào lòng mọi người và dòng văn học nước nhà. Tất cả những ấn tượng đẹp đẽ của xứ sở nhiều giai thoại nầy bỗng chốc tiêu tan trong lòng người tù binh trẻ khi nhìn thấy hàng chữ “Xà lim Bộ Công an” đập vào mắt. Đó là khởi đầu của năm tháng lưu đày kinh hoàng, là thời gian của cùm gông đọa đày, là triền miên trong đói rét nhục hình.

                          Từ đó, cuộc đời hai đứa tôi hầu như có mặt cùng khắp ở các địa ngục trần gian như: Nhà tù Vỉnh Quang, Tân Lập, Hồng Thắng, Thanh Phong. Những nơi đi qua, tôi đã thấy hàng ngàn bộ xương còn thở, còn đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống. Những thây ma biết cử động, những cái bóng im lìm mỗi ngày một gày gò tiêu hao, từ thể xác đến tâm hồn. Cứ thế cho đến một lúc, những kẻ bất hạnh bỗng biến mất vĩnh viễn trên cõi đời. Họ ra đi lặng lẽ cũng như họ đã sống cuộc đời lặng lẽ. Tất cả bình thường, tự nhiên từ cái chết đến cả sự mơ ước một ngày được trả tự do, dần dần rồi cũng dửng dưng, bình thản chẳng hề bận tâm suy nghĩ.

                          Ngày tháng tù, những người lính chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, không cho phép ai nghĩ điều gì khác ngoài tình đồng đội, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ nhau để sinh tồn. Nếu địch muốn chúng tôi chết thì phải cố mà sống. Nếu họ muốn chúng tôi sống hèn thì phải bảo ban, nhắc nhở nhau sống cho dũng cảm, hiên ngang để xứng đáng với tinh thần bất khuất của người lính từng xem nhẹ sinh tử và thấu đáo lẽ sống chết vô thường. Những khi chập chờn nửa mê, nửa tỉnh, phiêu hốt trôi nỗi trong các phòng biệt giam khủng khiếp của nhà tù, chúng tôi đã kiên trì vận dụng nghị lực để chế ngự bất hạnh, cố tập trung suy nghĩ, mài giũa ý chí bằng hùng khí và lý tưởng. Đó là phương pháp tự rèn để tồn tại. Chính nhờ vậy nên đã nuôi dưỡng mạng sống cho hàng chục chiến hữu chịu cùm gông suốt hai mươi năm, hăm lăm năm như Quách Rạng, Nguyễn văn Hợp, Hà văn Chấp, Lê văn Tụng, Đinh Anh, Bùi văn Tư... được tồn sinh để có ngày trở về. Phải chăng đó là phép lạ nhiệm màu, là sự phấn đấu bền bỉ kiên cường của những con người yêu chuộng lẽ sống thiêng liêng.

                          Sự độc ác, dối trá và ngu xuẩn của kẻ thù chỉ có thể làm nung nấu lòng người tù càng sống khí phách, quật cường hơn nữa với năm tháng lưu đày vô hạn định.

                          Bọn cán bộ làm sao hiểu được điều đó. Đầu óc chúng rỗng tuếch, đần độn như hình nhân Rôbô thì làm sao có thể cải hóa được những con người thừa nhiệt huyết, dũng cảm và cứng đầu, dẫu rằng chúng có thể dày xéo cả tinh thần lẫn thể xác chúng tôi. Người Cộng sản ngây thơ cứ nghĩ rằng khi đã hành hạ người ta bằng đủ thứ nhục hình là đã khuất phục được. Họ nhầm lẫn khi thấy chúng tôi im lặng. Họ đâu biết rằng những điều nói ra với chúng tôi chỉ là nước đổ lá môn, có khi còn bị ép-phê ngược lại là đằng khác. Điển hình như câu chuyện ngốc nghếch sau đây:

                          “Năm 1973, Cục quản lý Trung ương Hà Nội đến trại. Buổi chiều, lúc xếp hàng điểm danh vào phòng, chợt thấy một người từ Ban chỉ huy đi xuống, vừa đi vừa nghe phát thanh từ chiếc radio nhỏ mang trên vai. Cán bộ trực trại ngẩn mặt nhìn ra vẻ ngưỡng mộ lắm rồi quay sang chúng tôi, anh ta vênh váo nói: chỉ cán bộ cao cấp cách mạng mới có được tiêu chuẩn ưu đãi những thứ quý hiếm như 3Đ đó, chứ ngụy các anh thì cả đời cũng không có được. Thoạt nghe qua chúng tôi ngẩn ngơ không hiểu, nhưng khi được tên cán bộ giải thích thì mới bật ngửa ra, không nhịn được phải phát cười rộ lên. Thì ra 3Đ đó là: đạp, đồng, đài. Thời điểm đó, xe đạp, đồng hồ và radio là niềm mơ ước to lớn của cán bộ và nhân dân miền Bắc, trong khi đối với miền Nam thì những thứ đó thật quá tầm thường, nhỏ nhoi làm sao”.

                          Còn khối chuyện ngu dốt của bọn cai tù làm chúng tôi khinh bỉ và nực cười đến chảy nước mắt. Cứ thế chúng tôi lần lữa cố sống, kéo lê chuỗi năm tháng đoạn trường để chờ đợi một ngày vận nước, mệnh đời thay đổi.

                          Thế nhưng, ngày tang thương tháng Tư năm bảy lăm đã bóp chết tất cả mọi niềm tin mà chúng tôi ôm ấp, nuôi dưỡng hàng chục năm qua. Ngày miền Nam thất thủ đã nổ ra như một quả bom có sức hủy diệt mọi hy vọng trong lòng người bị lưu đày biệt xứ. Ngày hôm đó trời đất như cũng đồng cảm với tù, trở nên u ám ảm đạm như lòng người sầu thảm, héo hắt. Câu thơ thuộc nằm lòng của Thi hào Nguyễn Du hồi còn đi học “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đến nay tôi mới cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu của nó. Đêm nằm thao thức, nghe tiếng thở dài vang lên từng chập. Người bạn tù bên cạnh cũng trằn trọc, thao láo đôi mắt, buồn bã nhìn ra dãy núi Tam Đảo chập chùng sương khói trắng đục, câm nín chẳng thốt nửa lời. Đất trời đêm ba mươi tháng Tư nầy sao mà ảm đạm, thê lương lạ lùng. Gió khuya trở giấc vọng về tiếng rít gào, mây đen kịt từ đâu kéo đến che lấp cả vầng trăng hạ tuần, mờ mờ ảo ảo, le lói những ánh ma trơi. Cảnh vật xao xác cũng giống lòng người đòi đoạn như bốn câu thơ:

                          "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
                          Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
                          Chinh phu tử sĩ mấy người,
                          Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ..."


                          Quê hương chúng ta chiến tranh ròng rã, hết đời ông đến đời cha rồi đến đời con cháu. Hết đánh giặc ngoài lại xâu xé với thù trong. Người chết lên đến con số triệu. Xương cao thành núi, máu chảy tựa sông. Nơi đâu cũng đầy rẫy tiếng kêu gào của oan hồn uổng tử.

                          Sau bảy lăm, kẻ thù lại có thêm cơ hội lên mặt huênh hoang, đắc chí của kẻ vừa chiến thắng. Miền Nam thất trận, chúng tôi tắt đi tất cả niềm hy vọng còn sót lại. Thêm tám năm tù nữa, tôi sống quằn quại trong nỗi đau thua trận mới nhưng đồng thời cũng có cơ hội để kiểm chứng thật kỹ những sai lầm của kẻ chiến thắng. Trình độ dân trí và sự ngu dốt không thể tưởng tượng nỗi của kẻ thù chính là sự sai lầm của chế độ Xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Thế mà đau đớn thay, kẻ bại trận lại là chúng ta.


                          Cuối năm 1984 tôi được ra tù. Tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng. Con đường ngày xưa vào đất địch gian nguy chẳng hẹn ngày trở lại. Con đường hôm nay cũng chẳng khác gì mấy, hun hút trời mây, mịt mờ vô định. Có khác chăng là mái tóc xanh ngày xưa bây giờ đã lốm đốm bạc mầu, thân hình ốm o già cỗi. Bao nhiêu năm lê lết trong những trại tù khổ sai không thấy mặt trời, sống với một bầy lang sói hóa thân thành bọn cai ngục. Không sách báo, không ánh sáng văn minh, không phố phường đô thị ... vô vàn cái không khiến con người tôi trở thành đần độn.

                          Hai ngày hai đêm thao thức, vài lần đổi tàu xe, tôi mới đặt chân về tới quê nhà. Phố xá nhiệt náo xô bồ. Nhịp sống chuyển động hối hả, bon chen khác xưa, con người thì lạnh nhạt và xa lạ hơn. Chỉ riêng dòng sông Hàn vẫn thủy chung như ngày nào, êm ả hiền hòa trôi ra cửa biển Tiên Sa. Kỷ niệm học trò đầy ắp chợt hiện về. Một góc trời quê hương, một bến sông tuổi thơ và tháng ngày vô tư ngụp lặn thỏa thích trong dòng sông mộng mị. Cái ngổ ngáo pha chút lãng mạn của người lính năm xưa bỗng chốc sống lại. Tôi tìm chỗ vắng trên Bến Mía, nhảy ùm xuống làn nước ngọt ngào tình quê, đắm mình trong thứ hạnh phúc vay mượn mong manh nhưng rất thật. Đầu óc vẩn vơ ý nghĩ là để gọt rửa sạch sẽ những cát bụi bẩn thỉu của cuộc đời phong trần đã áp đặt lên số phận tồi tệ, bất hạnh của mình. Tôi muốn tìm lại cho tâm hồn đôi chút bình an và hơi hướm một thoáng hạnh phúc thần tiên của thiên đường tuổi thơ vô tư yêu đời, đầy ước mơ với trang giấy trắng tinh khôi có hoa và bướm của thưở học trò.

                          Con đường ngắn ngang qua Cổ Viện Chàm dẫn về làng Nại Hiên nay không còn nhận ra được nữa. Nhiều người đi qua, họ nhìn kẻ mặc áo tù với vẻ hững hờ pha chút tội nghiệp. Tất cả đã đổi thay xa lạ, không còn ai nhớ ra tôi nữa. Tôi bật cười chua chát. Quả thế, chuyện đời đổi thay, có đôi khi mình còn không nhận ra chính mình nữa thì làm sao cuộc đời có thể dung chứa được hết thảy mọi con người trong cuộc bể dâu.

                          Đêm hôm đó tôi có mặt trong ngôi từ đường của tộc Nguyễn thanh. Bên cạnh, cha tôi đứng trầm ngâm như mặc niệm trước di ảnh tổ tiên. Mẹ tôi thì sụt sùi mãi từ lúc tôi mới bước về. Chỉ có mỗi hai Người là không xa lạ với tôi. Nhìn thằng con trai từ cõi chết bao nhiêu năm bỗng hiện về, rồi nhìn tấm ảnh của tôi đặt trên bàn thờ nhang đèn hoa trái đầy đủ, mẹ tôi cứ khóc ngon khóc lành. Bà vuốt ve, sờ nắn tôi như ngày còn bé dại. Mẹ nói nhìn thấy tôi còn sống như nằm mộng gặp chiêm bao. Lối xóm nghe tin ùn ùn kéo đến thăm hỏi chật nhà. Vài thằng bạn thua trận may mắn còn sống sót, nay thất cơ lỡ vận đi làm thuê làm mướn, đạp xích lô xe thồ, hùn tiền kéo tôi vào quán nhậu bình dân, chén đầy chén vơi, chén mầy chén tau, cạn đến mềm môi. Vài tuần sau tôi theo chúng nó, rồi cùng một kiếp cu li lê lết kiếm sống, đoạn tháng qua ngày.

                          Châu ngửa cổ tợp một hớp rượu lớn, đặt ly không xuống chiếu rồi thở dài. Anh trầm ngâm đốt thuốc rít vài hơi rồi tiếp tục câu chuyện cuộc đời:

                          - Đã nhiều năm kẻ thù đặt ách cai trị độc tài, bạo ngược lên đầu lương dân miền Nam. Ngẫm cho cùng, tôi nghĩ đến nay chắc họ cũng đã hiểu ra một điều: họ chẳng bao giờ là kẻ chiến thắng. Giờ đây họ đã tận mắt nhìn rõ bộ mặt thật đẹp đẽ của miền Nam. Cuộc sống ấm no tiến bộ, nhà cửa tiện nghi và xã hội văn minh khác xa những lời tuyên truyền bịp bợm, dối trá của bọn đầu gấu cộng sản. Sự thật oái oăm khiến họ thức tỉnh, mới biết mình bị đảng lừa một cú cay độc. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật chiến đấu gian khổ, đến lúc chiến thắng mới bật ngửa ra là họ còn thua cả người dân nghèo miền Nam từ vật chất lẫn tri thức và nhiều phương diện khác. Hàng ngũ lãnh đạo vô học, dốt nát nhan nhản trong các cấp đảng bộ cầm quyền làm gì họ không biết.

                          Té ra kẻ chiến bại không phải ai khác lại chính là họ. Những người “đồng chí lớn” đểu giả của họ cộng thêm sự bịp bợm của chế độ đã dồn đuổi họ vào con đường phẩn nộ và đến một lúc mất hết niềm tin, họ bắt đầu quay trở lại chống đối kịch liệt. Lần nầy thì những con người cách mạng, ngày xưa chỉ biết tiến lên bằng mũi súng, ngày nay đã bị một vết nội thương trí mạng như tâm chưởng mà không hề thấy máu chảy ra bên ngoài cơ thể. Những kẻ huênh hoang chiến thắng trong Bắc bộ Phủ lại có thêm những kẻ thù mới, xuất phát từ trong hàng ngũ của họ như: Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng minh Chính, Đặng kiên Giang, Phạm quế Dương, Nguyễn thanh Giang...

                          Riêng tôi, sau ngày trở về đã trở thành cái gai nhọn đáng ghét trước mắt công an. Họ bắt lên đồn viết báo cáo, răn đe rồi trình diện hàng ngày. Mặc, tôi vẫn thản nhiên sống. Mắt luôn luôn nhìn thẳng vào họ khi đối diện. Nhiều lần quá họ đâm nhợn, lâu dần rồi cũng lửng lơ con cá vàng... họ lảng đi. Họ ngây thơ quá, làm sao hiểu được những điều suy nghĩ trong cái đầu chai sạn của người tù lưu đày biệt xứ mới trở về. Tôi không muốn trở thành địch thủ của những kẻ háo thắng, vừa ngu xuẩn lại vừa ấu trĩ như những đứa bé chưa ráo máu đầu, mới bước chân chập chững vào cuộc đã may mắn có sẵn chiến thắng trong tay. Miền Nam thua trận vì có nhiều sai lầm nhưng chắc gì những kẻ chiến thắng miền Bắc đã không mắc phải sai lầm lớn hơn? Điều bất hạnh nhất là quê hương sau cuộc chiến được xếp vào hàng nghèo đói, lạc hậu và tham nhũng nhất thế giới. Đời sống người dân lao động muôn vàn cơ cực nhưng vẫn không đủ ăn mặc. Trẻ con thất học. Xã hội suy đồi. Lỗi ấy thuộc về ai? Câu hỏi xin dành lại cho lịch sử luận tội và phán xét những người có trách nhiệm từ cả hai phía đối nghịch. Có điều tôi biết chắc chắn rằng Việt Nam chỉ là một canh bài được sắp sẵn trên chiếu bạc quốc tế. Chiến thắng của kẻ thù không phải vì thiện chiến hơn chúng ta, nhưng họ có chổ tựa vững chắc cộng thêm sự may mắn và dã tâm tráo trở, phản bội của cả hai khối Quốc Cộng.

                          Trận chiến đã tàn. Cuộc thư hùng đã kết thúc. Cho đến nay toán chúng tôi chỉ còn sót lại mỗi mình tôi. Lô viết Cầu rồi cũng đã chết vì bị sốt ác tính vào năm 1984.

                          Hôm nay tôi không là cái gì hết, đơn giản chỉ là một người lính muốn nói lên những suy nghĩ của đời người vận nước; Chỉ là kẻ đứng chông chênh ngoài xã hội, bên lề cuộc đời, là chứng nhân của một cuộc bể dâu tang thương để ghi nhận thêm cho lịch sử quốc gia, dân tộc sự chuyển mình sang một trang mới với nhiều nỗi bẻ bàng, đau xót và phiền muộn. Thời gian rồi cũng dần phôi phai đi. Tôi rồi cũng sẽ một ngày trở về với cát bụi, nơi chốn cội nguồn, một thứ quê hương cuối cùng trong tâm linh người sống. Nhưng, lịch sử sẽ là vỉnh viễn, là bất tử với thời gian. Tốt, xấu, đúng, sai rồi phải có một ngày được vạch trần hẳn hoi ra ánh sáng. Sự thật lịch sử sẽ được hoàn nguyên và chúng ta hãy vững tin chờ đợi ngày ấy ắt đến không xa.

                          Với các bạn, lời tâm tình thân thiết của tôi là mãi mãi chỉ muốn làm một người lính trọn trung, trọn nghĩa, trọn tình với quốc gia, dân tộc. Và tôi dám xác quyết với các bạn rằng, tôi không có điều gì phải ân hận, hối tiếc khi đã chọn làm một người lính quốc gia chân chính như đã từng chọn trước đây.

                          VI

                          Phải đến năm 1995 gia đình anh mới đặt chân được đến Mỹ. Nghe anh kể thì suýt chút nữa lại bị Mỹ chơi đểu, bỏ rơi thêm lần thứ hai.

                          Lần thứ nhất vào năm 1973 tại hòa đàm Paris, trong điều khoản cam kết về việc trao trả tù binh, các anh bị gạt ra khỏi danh sách vì Mỹ không thừa nhận BK là người được họ huấn luyện, trả lương và thực hiện các kế hoạch hành quân trong cuộc chiến bí mật. Các anh đã sớm bị người bạn Mỹ gian trá phản bội, trước khi hiện rõ bộ mặt trơ tráo bán đứng miền Nam, trắng trợn bỏ rơi chiến hữu.

                          Hồ sơ bí mật BK nằm kín trong văn khố Ngũ giác Đài chưa hề một lần được giải mật. Phải đợi nhiều năm sau, đến lúc chương trình H.O ra đời và những người lính Việt Nam hoạt động bí mật bên kia bức màn sắt còn sống sót được thả về, lần lượt ra đi tỵ nạn và có mặt trên đất Mỹ thì nội vụ mới được một số người Mỹ chân chính đưa ra ánh sáng. Tác phẩm”Secret Army, Secret War” của Segwich Tourison, cựu nhân viên tình báo lục quân Mỹ được ra đời ngay vào thời điểm đó đã phơi trần tất cả sự thật bỉ ổi của chính quyền Nixon. Đồng thời trong dịp Đại Hội ra mắt Gia Đình Biệt Kích VN tại tiểu bang Georgia vào tháng 10 năm 1995, S. Tourison là diễn giả người Mỹ duy nhất đã thuyết trình và trả lời bằng ngôn ngữ tiếng Việt, thông suốt tất cả các câu hỏi có liên quan đến những hoạt động vượt tuyến trong cuộc chiến tranh ngoại lệ VN.

                          Cùng thời gian đó, một tập thể luật sư hùng hậu của ông John Mattes đã phát đơn kiện chính phủ Hoa Kỳ bội tín, bỏ rơi các quân nhân BKVN. Hội đồng lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định giải mật các hồ sơ có liên quan đến vấn đề nầy. Sau đó các quân nhân BKVN hiện đang sống trên đất mỹ được mời đến điều trần tại quốc hội vào ngày 19 tháng 6 năm 1996 và tất cả sự thật dấu diếm từ lâu đã được phơi bày ra ánh sáng. Giới truyền thông, báo chí Hoa Kỳ đồng thanh ủng hộ. Họ đưa tin, viết bài, lên tiếng công kích sự gian trá của chính quyền Mỹ thời đó và đòi hỏi chính phủ phải hoàn trả tiền lương 20 năm cho những BK bị họ bỏ rơi. Những chiến sĩ Kinh Kha thời đại VNCH được hồi sinh như những anh hùng. Đó chính là giá trị đích thực của lòng yêu nước, của sự hy sinh cao cả không hề tiếc máu xương của những chàng trai đất Việt yêu chuộng tự do, công lý và dân chủ. Đó chính là lòng dũng cảm, sự cao thượng của trai trẻ VN, sẵn sàng sống cho tha nhân và chết cho dân tộc.

                          Số tiền bốn mươi ngàn mỹ kim bồi thường cho một người lính BK so ra chẳng nghĩa lý vào đâu đối với sinh mạng quý giá của con người. Cái may mắn to lớn nhất đối với họ là còn sống trở về với cha mẹ, vợ con, những người thân yêu đã hàng bao nhiêu năm mỏi mắt chờ trông. Phần thưởng tinh thần mới chính là những cái thật sự họ cần thiết. Bốn mươi ngàn đô la đối với họ, những người lính kiêu hùng, chỉ là bãi nước bọt nhổ vào mặt những tên điếm đàng buôn bán chiến tranh như Nixon, Kissinger ... bắt chúng phải cúi đầu nhận tội phản bội. Bốn mươi ngàn đô la là cái đấm thôi sơn vào những bộ mặt trơ tráo đã một thời mật ngọt, giả nhân giả nghĩa, là sự vạch trần cho thế giới biết rõ về bản chất gian manh của những tên hoạt đầu chính trị trên một xứ sở dư thừa bơ sữa nhưng thiếu thốn tình người. Những người lính BK đã tự hào sống xứng đáng là một con người Việt Nam chân chính.

                          VII

                          Đến nay chiến tranh đã đi qua, thiên hạ gặp nhau, nhìn nhau, tất cả đều bình thường như nhau. Duy chỉ có những người trong cuộc mới hiểu được mình. Do vậy, chẳng lấy chi làm lạ khi bầy con trẻ vẫn thường nghe cha chú nhắc đi nhắc lại hoài chuyện ngày xưa. Chỉ những giây phút đó họ mới thật sự sống trọn vẹn cho chính mình.

                          Hôm nay, trên những nẻo đường luân lạc của kiếp người lưu vong, họ xóa sổ làm lại từ đầu, bôn ba tần tảo kiếm sống. Thời gian rỗi rảnh họ dành cho mớ hoài niệm quá khứ với nhiều vết tích đau thương còn hằn sâu trên da thịt quê hương, dân tộc và chính bản thân mình. Trong lòng họ không hề hối tiếc hay oán trách những lần ra đi sống chết trong nguy nan cuộc đời, dù họ đã bị phản bội, dù họ đã từng chết đi sống lại.

                          Trăng ở đây không sáng bằng những đêm trăng ở quê nhà. Đã bao nhiêu lần họ nhìn thấy lại hình bóng của chính mình. Ở đó có hạnh phúc, thương đau ... khởi đầu từ một thời son trẻ cho đến cuối chặng đường trăng khuất. Đời người rồi cũng đã trôi qua mau như ánh đèn, như gió thổi, như mây bay, như chiêm bao. Tất cả đều là phù vân.



                          Tiên Sha - Lê Luyến
                          Atlanta, tháng Bảy năm 2004.
                          nguồn:
                          http://www.bietdongquan.com/baochi/m...itocbacsom.htm
                          Last edited by BachMa; 03-03-2017, 03:30 AM.

                          Comment


                          • Tuyết Trắng & Em Còn Nhớ Mùa Xuân - Sĩ Phú

                            Tuyết Trắng
                            sáng tác : Anh Chương
                            trình bày: Sĩ Phú





                            Em Còn Nhớ Mùa Xuân
                            sáng tác: Ngô Thụy Miên
                            trình bày: Sĩ Phú



                            Last edited by BachMa; 06-04-2017, 06:33 PM.

                            Comment


                            • Sài Gòn Ngày Tháng Cuối

                              Sài Gòn Ngày Tháng Cuối


                              tác giã

                              Thế là sau năm năm làm việc với Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, tôi lại chuyển qua một nhiệm sở mới là Toà Đại Sứ Mỹ cũng tại thủ đô Sài Gòn. Những tay sĩ quan và hạ sĩ quan trẻ của đơn vị gọi là Phân Đội Alpha của Đệ Thất Không Đoàn là những người lính thật là vui vẻ cởi mở và rất là thân thiện mà tôi không bao giờ quên được nhất là sau bao nhiêu chuyến công tác, bao nhiêu chuyến bay trên vận tải cơ khổng lồ Hercules C-130 ra Vùng I và Vùng II Chiến Thuật.

                              Thời gian vẫn không ngừng trôi và con người cũng phải thích ứng với không gian mới. Tôi được điều về Đoàn Liên Lạc Hoa Kỳ để yểm trợ một Phụ Bộ thuộc Phủ Tổng Thống. Nội dung công việc cũng không có gì thay đổi nhiều, cũng vẫn là tóm tắt và tổng kết những tin tức về quân sự mà hai bên Việt Mỹ đã thâu lượm được để tường trình lên cấp trên.

                              Nhờ vào thời gian làm việc cho Không Quân Mỹ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mà tôi ý thức được rằng người Mỹ nắm rất vững về những tình hình biến chuyển trên chiến trường, tương quan lực lượng đôi bên và cũng biết rất rõ về đối phương tức là Cộng quân Bắc Việt và đám Việt Cộng trong Nam; và Hoa Kỳ có một sức mạnh quân sự phải nói là khủng khiếp thừa sức đè bẹp Cộng quân bất cứ lúc nào.

                              Chính vì thế mà niềm tin của tôi vào đồng minh Hoa Kỳ đã từ từ thuyên giảm một cách rõ rệt khi thấy người Mỹ khoanh tay để cho Cộng Sản tràn vào các đô thị kể cả Sài Gòn và Chợ Lớn ngày Tết Mậu Thân. Họ cũng chấp nhận những sự di tản chiến thuật rút khỏi tỉnh Phước Long, rồi sau nầy khỏi Kông Tum Plei Ku, Vùng II để xẩy ra Đại Lộ Kinh Hoàng là dịp cho Cộng quân pháo kích giết hại hơn hai chục ngàn dân lành dọc theo Quốc Lộ này. Họ đã đem B-52 ra Miền bắc để rải thảm 12 ngày đêm kể cả thủ đô của Công Sản là Hà Nội và phong tỏa cảng Hải Phòng nhưng lại ngừng ngay cuộc ném bom đó khi Hà Nội đồng ý quay trở lại bàn đàm phán.

                              Hiệp Định Paris được ký kết một cách đơn phương giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt dù rằng phía VNCH chúng ta cực lực phản đối. Hoa Kỳ vẫn ký để đơn phương rút quân kể cả các cố vấn ra khỏi Miền Nam trong khi họ biết chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định và vẫn bám chặt vào các căn cứ địa của nó tại Miền Nam. Những năm '60, khi họ đến với chúng ta trên danh nghĩa Đồng Minh thì họ cam kết với chúng ta để chống lại sự bành trướng của Cộng Sản trong vùng Đông Nam Á. Khi họ muốn rút đi những năm đầu của thập niên '70, thì họ lại ký kết với kẻ thù chứ không cần đến ý kiến và chữ ký của chúng ta nữa. Hiệp Định Paris chính là con dao mà đồng minh Hoa Kỳ đã ngầm đưa cho Cộng Sản Việt Nam và quan thầy của chúng để thanh toán chế độ VNCH chúng ta nhanh chóng hơn.

                              Quả thật là làm đối thủ của Hoa Kỳ dễ hơn rất nhiều so với làm đồng minh của họ bởi vì hầu như người Mỹ kể cả Tổng Thống của họ nhiều khi công khai hoá luôn cả những kế hoạch mà họ dự tính.

                              Sau khi ký kết được như ý muốn Hiệp Định Paris thì đồng minh Hoa Kỳ lại thi hành một chiến thuật cắt giảm viện trợ cả về quân sự lẫn kinh tế trong chiến lược bỏ rơi đồng minh VNCH đơn độc chiến đấu trong tình trạng thiếu súng ống đạn dược và nhiên liệu để chống lại cả một khối Cộng Sản Quốc Tế đầy gian manh và hiểm độc đang yểm trợ mạnh mẽ cho Cộng Sản Bắc việt và đám VC trong Nam "đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng".

                              Trong lịch sử loài người tự cổ chí kim có lẽ không có một cuộc chiến đấu nào can trường anh dũng và oai hùng hơn cuộc chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà - chiến đấu trong đơn độc nhưng với một chính nghĩa sáng ngời và một lòng quả cảm vô biên đến viên đạn và hơi thở cuối cùng.

                              Một mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam chống lại cả một khối Cộng Sản bao gồm Nga Sô, Trung Cộng, Khối CS Đông Âu, Bắc Hàn, Cuba và CS Việt Nam, dù rằng Mỹ và đồng minh đã bỏ mình ra đi - chứ không chịu đầu hàng giặc phiến Cộng cõng rắn Trung Cộng và Nga Sô vào cắn gà nhà.


                              Thế rồi cái gì phải đến đã xảy ra, Miền Nam bị lui dần vào thế bị động dù rằng tinh thần quân dân cán chính vẫn vững vàng nhưng súng thì thiếu đạn dược và chiến đấu cơ thiếu nhiên liệu thì không thể chống lại được quân xâm lược Cộng Sản đã càng lúc càng mạnh hơn kể từ khi Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh khác như Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn, v.v., lần lượt rút lui khỏi Miền Nam ngay sau khi Hiệp Định Paris ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973.

                              Qua đầu năm 1975 thì tình hình càng lúc càng tồi tệ hơn và VNCH lúc đó giống y như vị anh hùng Samson, trong truyện phim Samson & Dalilah, mắt đã không còn nhìn thấy gì và với bộ tóc đã bị cắt ngắn, tượng trưng cho sức mạnh không còn nữa của Samson, và tay chân thì bị xiềng xích, đang bị một bọn người lùn khả ố đang dùng những chiếc kìm sắt dứt ra từng miếng thịt trên thân thể của mình.

                              Ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì Miền Nam mà trái tim là Sài Gòn trút hơi thở cuối cùng.

                              Trong thời gian bị tập trung trong trại giam ở Miền Bắc tôi có một dịp may được chuyền tay đọc một tạp chí Reader's Digest là cuốn nguyệt san mà tôi thích nhất trước kia, trong đó có một bài viết mà tôi không sao quên được của một vị luật sư người Cuba về sự thất bại của cuộc đổ bộ tại Vịnh Con Heo. Sau khi cuộc đổ bộ thất bại và chế độ Fidel Castro đang khủng bố, đàn áp và trả thù tàn bạo những người Cách Mạng Cuba Tự Do thì vị luật sư này đã trốn thoát được qua Hoa Kỳ và ông ta thề rằng nếu phải bỏ ra hai mươi năm để tìm hiểu tại sao cuộc đổ bộ hoàn hảo như vậy để tái chiếm lại Cuba và lật đổ chế độ của Fidel Castro mà cuối cùng lại thất bại thì ông ta cũng phải đi tìm.

                              Cuộc đổ bộ này đã được tập dượt và coi như là toàn hảo với sự yểm trợ của không quân Mỹ để làm cỏ những chiếc máy bay cũ kỹ của Cuba trong lúc lực lượng Cách Mạng Cuba lưu vong đang đổ bộ lên Vịnh Con Heo để tiến vào tái chiếm Cuba. Câu trả lời mà ông ta tìm ra được là kế hoạch đã được chu toàn vào thời gian cuối của nhiệm kỳ Tổng Thống Eisenhower; nhưng lúc thi hành thì giờ phút chót TT John Kennedy đã ra lệnh hủy bỏ toàn bộ kế hoạch và không quân Mỹ đã không xuất hiện như mong đợi, và kết quả là lực lượng đổ bộ nằm phơi mình trên bãi biển cho từng đoàn máy bay của Fidel Castro đến dội bom và oanh kích. Cuộc nổi dậy và tái chiếm Cuba bị dập tắt trong uất hận và ngậm ngùi. Chúng ta có thể hình dung ra được sự trả thù tàn bạo của Fidel Castro đối với những chiến sỹ Cuba Tự Do còn sống sót sau lần đổ bộ ấy như thế nào rồi.

                              Đầu tháng Tư năm 1975, tình hình rất là xáo trộn bất lợi cho chế độ VNCH vì Hoa Kỳ đã để lộ rõ cho cả đồng minh VNCH và cả kẻ thù là CS Bắc Việt thấy rằng Mỹ đang di tản nhân viên Sứ Quán của họ ra khỏi Miền Nam. Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự (Defense Attache's Office: D.A.O) được lệnh di tản trước.

                              Tôi vào họp với các cố vấn Mỹ thuộc Toà Đại Sứ vào đầu tháng Tư thì nhận được chỉ thị rằng tất cả những nhân viên nào mà không thiết yếu (non-essential) thì sẽ được ưu tiên di tản trước với gia đình của họ, và những nhân viên nào thiết yếu (essential) thì phải ở lại để yểm trợ cho các Phủ Bộ, các cơ quan, Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, v.v. của VNCH đến giờ phút cuối cùng.

                              Tôi và một số bạn đồng nghiệp được lệnh ở lại và được các cố vấn cam kết là sẽ có trực thăng đến tận nhà để đón chúng tôi vào giờ phút cuối cùng của Sàigòn.

                              Lần lượt một số bạn đồng nghiệp của tôi đã ra đi theo gia đình làm việc cho cơ quan D.A.O. và chúng tôi vẫn ở lại.
                              Đến ngày 27 tháng Tư năm 1975 tôi được triệu tập vào Tòa Đại Sứ họp một lần nữa và không ngờ rằng đó là lần họp cuối cùng khi các cố vấn Mỹ tuyên bố rằng bây giờ thì về nhà để chờ đợi di tản vì mọi công việc thường nhật đã không còn cần thiết nữa và tình hình không còn cứu vãn được.

                              Tôi ra về trong lòng nặng trĩu vì người anh Cả của tôi lúc đó là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã mất tích. Chỉ có độc nhất một gia đình người anh thứ ba là Thiếu Tá Hải Quân nhờ đi du học tại Rhode Island đầu năm 1975 nên đã may mắn đoàn tụ được trên đất Mỹ với vợ con đi theo cơ quan D.A.O di tản qua được giữa tháng Tư.

                              Vì gia đình tôi lúc đó cư ngụ tại vùng ngoại ô của Sàigòn, nên tôi đưa vợ và hai đứa con nhỏ lên bên Nội tại Quận Ba một thời gian xem sao vì ngày 28 một tên phi công nội tuyến VC đã dội bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất và kế hoạch di tản bằng đường hàng không đã phải hủy bỏ.

                              Tối ngày 29 tháng Tư, tôi quyết định cho vợ con vào Tòa Đại Sứ chứ không ngồi chờ đợi nữa. Sau khi giã từ Mẹ và các em, tôi lái chiếc xe kiểu Taxi đã được sửa lại làm xe nhà đến cổng sau của Toà Đại Sứ thì thấy thiên hạ đen nghịt và nhốn nháo đầy những người nhưng chiếc cổng sắt đã đóng và trên bức tường bao quanh khu vực thì Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang gườm súng không cho ai ra hay vào nếu không có lệnh. Họ chỉ nhận những người nào trình ra được thẻ của Toà Đại Sứ thì mới nhấc những người đó vào bên trong mà thôi.

                              Tôi đưa vợ con đến sát chân tường và tuy có thẻ nhân viên tòa đại sứ trong túi nhưng không biết rằng có thuyết phục được các tay lính TQLC này cho vợ con tôi đi theo hay không.

                              Nếu tôi vào được bên trong mà vợ con bị bỏ rơi lại thì có thể sẽ bị VC trả thù, ý nghĩ đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi một lúc rồi đột nhiên trong một giây tôi quyết định, một quyết định đã làm thay đổi hẳn cả một đời người.

                              Tôi quyết định ở lại cũng vợ con và đưa vợ con tôi về lại nhà bên Nội.

                              Khi Mẹ tôi nhìn thấy tôi thì chỉ hỏi được một câu là tại sao con không đi? Tôi trả lời rằng tôi không thể ra đi một mình được trong khi Mẹ và tất cả gia đình đều ở lại và ông anh Cả thì chưa có tin tức gì. Lúc đó thì ông anh thứ Hai của tôi nghe tin đồn ở đâu không biết thì tỏ ra lạc quan và nói rằng thế nào cũng có chính phủ Liên Hiệp và chắc mình không sao đâu. Ông ấy là người may mắn nhất vì sau đó đi "cải tạo" chưa đến ba cuốn lịch nhờ làm việc cho ngành Quân Y.

                              Tối hôm đó tôi ngủ không được và chỉ có một điều an hận là mình mới 29 và chết quá trẻ.

                              Sáng ngày hôm sau 30 tháng Tư lúc khoảng 10 giờ thì đài phát thanh loan báo lệnh đầu hàng của Tổng Thống mới lên là Dương Văn Minh. Tôi nghe như một phát súng nổ bên tai vậy, bèn lên trên lầu của nhà Mẹ tôi trên đường Trương Minh Giảng để thu xếp quần áo trở về nhà trong Phú Lâm.

                              Một lúc sau thì nghe thấy tiếng xe tăng chạy một cách nặng nề vào trong thành phố, tôi đẩy nhẹ cửa sổ ra nhìn xuống đường thì thấy hai ba chiếc tăng T-54 đang lăn bánh từ hướng Ngã Ba Ông Tạ chạy qua nhà Mẹ tôi về hướng chiếc cầu và tôi thấy như toàn thể bầu trời đang sụp đổ trước mặt mình.

                              Chiều hôm đó thì tôi lái xe đưa vợ con về lại căn nhà cũ. Tôi đã mua sẵn một hộp thuốc ngủ loại mạnh và định cùng với cả gia đình quyên sinh chứ không thể sống nổi với Cộng Sản được. Nhưng nhìn hai đứa con đang say ngủ ngây thơ vô tội, lòng tôi chùng xuống, tôi lại bỏ ý nghĩ đó và quyết định là sẽ ở nhà và chờ họ đến bắt mình rồi phó mặc cho số mệnh.

                              Mấy ngày sau, một chiếc xe díp chạy vào trong sân nhà tôi, với ba tay mặc sắc phục như của công an trong đó có một tay có vẻ là tên chỉ huy, ngừng trước nhà và hỏi tìm tôi. Họ đưa tôi đến một căn nhà ba từng tại ngã Ba Ông Tạ bên ngoài là Tiệm Thợ May nhưng không ngờ trên lầu trước kia là VC nằm vùng trong đó. Sau ba ngày thẩm vẫn liên tục, tên chỉ huy tự giới thiệu là Trung Tá có lẽ thuộc cơ quan Phản Gián từ Miền bắc vào vì nói giọng Bắc bảo tôi về sửa soạn để đi "tập trung cải tạo". Lúc đó tôi vẫn chưa để ý đến hai chữ "tập trung". Sau này tôi mới thấu hiểu được cách dùng chữ của VC vì ở tù tập trung có nghĩa là bị giam giữ không hạn định và không có án lệnh. Thế rồi lệnh của Ủy ban Quân Quản ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị một tháng đi "học tập cải tạo", "để thành công dân tốt", để được hưởng "chính sách khoan hồng nhân đạo" của Đảng và Nhà Nước.

                              Những người đi "cải tạo" mười ngày thì kéo dài ra vài năm. Những người đi một tháng thì trở thành sáu tháng, vài năm, mười năm, mười lăm năm; và hai mươi người cuối cùng thì bị giam giữ đến năm thứ mười bẩy.

                              "Hãy nhìn những gì Cộng Sản làm, đừng nghe những gì Cộng Sản nói", câu nói ấy chưa bao giờ đúng và đầy ý nghĩa như vậy.

                              Khi tôi bước chân vào chốn ngục tù thì hai đứa con gái và con trai của tôi mới lên bốn và lên năm, lúc tôi trở về thì chúng đã bước vào lứa tuổi đôi mươi.

                              Bây giờ cả hai cháu đều đã có gia đình riêng và mỗi khi có dịp gặp lại con gái và con trai của tôi trên San Jose hay khi hai cháu xuống đây thăm tôi, tôi lại nghĩ rằng có lẽ tôi đã quyết định đúng vào cái buổi tối đêm 29 tháng Tư năm ấy tại cổng sau của Toà Đại Sứ Mỹ Sàigòn.

                              Con người ta quả là có số mệnh dù là đôi lúc số mệnh quá nghiệt ngã với mình.


                              Viết xong ngày Rằm Thượng Nguyên năm Canh Dần


                              nguồn:
                              http://phamgiadai.blogspot.com/searc...&max-results=7
                              Last edited by BachMa; 03-26-2017, 04:03 AM.

                              Comment


                              • Giã Biệt Sài Gòn - Tuấn Vũ & Anh Đi Chiến Dịch - Thanh Tuyền

                                Giã Biệt Sài Gòn
                                sáng tác: Nam Lộc
                                trình bày: Tuấn Vũ





                                Anh Đi Chiến Dịch
                                sáng tác: Phạm Đình Chương
                                trình bày: Thanh Tuyền


                                Last edited by BachMa; 06-04-2017, 06:37 PM. Lý do: remove cái Italic font

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X