Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ðại Ðội 4 -Tiểu Ðoàn 248 - Liên Đoàn 925 Ðịa Phương Quân

    Ðại Ðội 4 - Tiểu Ðoàn 248 - Liên Đoàn 925 Ðịa Phương Quân
    Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi



    Hình minh họa

    Tôi Nguyễn Tấn Hợi, cựu Trung úy, Đại đội trưởng Ðại Ðội 4/Tiểu Ðoàn 248/ÐP thuộc Liên Ðoàn 925 DP/BT, do Ðại Tá Lại Văn Khuy làm Liên đoàn trưởng, phụ trách an ninh lãnh thổ 4 quận miền Bắc tỉnh Bình Thuận. Liên đoàn có 3 tiểu đoàn DP tác chiến: TÐ 248 ở Tuy Phong, TÐ 212 đóng tại Lương Sơn và TÐ 229 phụ trách vùng Hải Ninh.

    Riêng TÐ 248/ÐP đóng tại Tuy Phong là quận cực Bắc Bình Thuận, từ Mũi Cà Ná vào đến Bầu Ðá giáp ranh quận Hòa Ða, trên một lãnh thổ phức tạp, đầy núi non, bãi biển, nhiều đảo và những cánh đồng mênh mông. TÐ có 4 đại đội tác chiến và 1 đại đội chỉ huy công vụ: ÐÐ1-Trung Úy Hàm, ÐÐ2-Trung Úy Quý, ÐÐ3-Trung Úy Ðức, và ÐÐ4 là tôi. ÐÐT/Chỉ Huy Công Vụ lúc bấy giờ là Trung Úy Thức, trưởng Ban 3 là Ðại Úy Tuân, phụ tá là Thiếu Úy Thiện, trưởng Ban Truyền Tin là Trung Úy Hải. BCH TÐ đóng tại cầu Ðại Hòa thuộc Quận Tuy Phong. Thiếu Tá Nguyễn Văn Xuân, thuộc binh chủng LLDB về thay thế Thiếu Tá Lê Văn Trung, là tiểu đoàn trưởng cuối cùng.

    Ngoài ra TÐ còn có Ðại Úy Nguyễn Văn Ngọc, nguyên trưởng Phòng 2/TK Bình Thuận, không biết sao bị thuyên chuyển tới chốn này để ngồi chơi xơi nước. Sau tháng 5,1975, Ðại Úy Ngọc bị tù tận miền Bắc và về Nam vẫn ở tù tại trại Z30 Hàm Tân gần 13 năm, giống như Phó Tỉnh Trưởng BT – Phạm Ngọc Cửu..

    Ngày 15 tháng 4 năm 1975, Ðại Ðội 4/248 ÐP nhận được lệnh trở về BCH/TÐ 248, trong lúc đang tăng phái hành quân cho TÐ 212 ở Lương Sơn, đóng tại đập Ðồng Mới, vì lý do áp lực địch tại khu vực này quá mạnh. Là một đơn vị tăng phái hành quân, Ðại đội của tôi lại đóng bên kia sông Lũy, nên chỉ tự lo lấy thân thôi, dù cách BCH của Liên Ðoàn 925 ÐP tại Lương Sơn khoảng vài cây số. Nói chung là không có được một sự tiếp viện nào ngoại trừ pháo binh và không quân yểm trợ khi cần thiết.

    Sáng hôm đó, tôi rút ÐÐ qua sông và ở trên quốc lộ 1 chờ phương tiện di chuyển. Chi khu Phan Lý Chàm có tăng cường cho 2 xe GMC chở quân. Tôi nghĩ cũng là chở một đại đội với quân số cùng trang bị đầy đủ mà chỉ có 2 xe thì làm sao chuyển hết? Tôi có hỏi thì được trả lời, ráng mà sắp xếp sẽ có xe thêm. Lúc này thì cuộc chiến đã nóng bỏng rồi. Lệnh mà thôi, có bao nhiêu sử dụng bấy nhiêu.

    Ðợt đầu tôi đem 2 trung đội và một tiểu đội viễn thám; Nói về tiểu đội viễn thám này tuy chỉ có 12 người nhưng có tầm vóc tác chiến bằng một trung đội. Chuyến đi phục kích và bảo vệ BCH/ÐÐ được trang bị súng đạn, truyền tin cũng như một trung đội, còn lại 2 trung đội tôi giao cho đại đội phó là Trung Úy Ðạt để chờ di chuyển về sau.

    Trên đường di chuyển về Tuy Phong tới Bầu Ðá ranh giới của Quận Hòa Ða và Quận Tuy Phong vắng vẻ thì bị phục kích. Tôi ở chiếc xe đầu và ngồi kế bên tài xế, khi súng nổ tôi thấy những trái B40 bay qua đầu xe, tài xế đạp thắng, tôi bèn rút cây Colt 45 ra và ra lệnh cho tài xế cứ chạy, cứ giữ vững tay lái, bằng một động tác cực nhanh tôi hất chân gas của tài xế để tự tôi đạp gas chạy hết tốc độ. Ðạn B40 vẫn tiếp tục băng qua đầu xe, tất cả binh sĩ trên xe đều nổ súng bắn trả; Nhờ ơn trên phù hộ, 2 chiếc GMC đã thoát được phục kích và chạy về BCH/TÐ, xe dừng tôi kiểm soát lại thì không có một ai chết hay bị thương, riêng cái bao đựng cây ăng ten bảy đoạn thì lủng hết không còn sử dụng được.

    Sau khi nhận bổ sung đạn dược và lương khô, ÐÐ tôi, lại được lệnh tiếp tục di chuyển ra Cà Ná. Ðiều này cũng lạ, tôi tự nhủ, như vậy 3 đại đội kia đâu? Tại sao phải chờ tôi về để đem ra Cà Ná trong lúc chiến trường Phan Rang, đang dầu sôi lửa bỏng ? Ðiều này đã làm cho tôi có suy nghĩ: “Ðã tăng phái ÐÐ tôi cho TÐ 212 đem tôi ra đóng quân tại đập Ðồng Mới, là một nơi đồng không mông quạnh chỉ có cây với những bãi đất khô cằn, không một ngọn cỏ mọc, rồi bây giờ họ chờ cho bằng được tôi về rồi thảy ra tuyến đầu. Còn 3 vị ÐÐT kia đâu rồi mà phải chờ tôi di chuyển ra Cà Ná?. Tuy nhiên lệnh là lệnh tôi phải thi hành, tôi tiếp tục thẳng tiến, nhìn lại những người lính thân yêu mà tội nghiệp cho họ, linh tính và sự suy nghĩ của một cấp chỉ huy chiến trường, tôi tự nhủ rằng có thể kỳ này ra đi là không có ngày trở lại. Nhưng thân phận của Người Lính VNCH là thế đó, không thế lực gửi gấm, không tiền bạc lo lót, thì tác chiến muôn năm là cái chắc, lon lá huy chương, chức vụ văn phòng, bốn bên liên hợp, này này nọ nọ, người lính nghèo đâu có bao giờ mơ ước, thậm chí trại gia binh cũng tước đoạt để cấp cho phe đảng… Nghĩ tới niềm đau và nước mắt như vậy, song vẫn cứ đi, tôi ra lệnh cho xe khởi hành.

    Trung Úy Thức ÐÐ/CHCV, hiện ở Texas-Hoa Kỳ, có kể cho tôi nghe qua điện thoại: Tại BCH/TÐ, Thiếu Tá Xuân và Trung Úy Hải Truyền Tin cho biết là phải đi họp ở Phan Rí hay tại BCH Tuy Phong, và đã đem tất cả máy truyền tin theo (?), cho nên Thức không có máy để liên lạc được với tôi đành chịu. Khi tình thế thật nguy ngập, Thức cùng với Thiếu Úy Thiện chạy về Chi Khu Tuy Phong vì nơi đây còn vợ và 3 đứa con của Thức. Thức cõng 1 đứa, Thiện cõng 1 đứa và vợ Thức dẫn 1 đứa chạy ra biển để tìm ghe di tản. Khi đến nơi thì chỉ có Thức và Thiện là quân nhân nên được cho ra tàu, còn vợ và 3 con ở lại; gạt nước mắt, vợ Thức dẫn 3 đứa con trở lại, kể từ đó mất liên lạc không còn biết tin tức gì nữa. Nghĩ cũng thật đau thương cho cuộc đời của những người lính, trong khi đó vợ và con của những quan quyền, thời nào, cũng hưởng được mọi sung sướng, cho tới lúc tàn cuộc cũng may mắn hạnh phúc như thuở nào.

    Trở lại trận chiến. Cà Ná là ranh giới của TK Bình Thuận và TK Ninh Thuận, qua khỏi bảng chia ranh giới chừng vài chục thước là có quán Cà Ná Quán, nơi đây xe chở hành khách từ Sài Gòn ra thường hay ghé vào quán này ăn cơm trưa. Sở dĩ tôi biết là vì đã từng đóng quân ở đây. Vùng này có một ngọn núi đối diện với Cà Ná Quán, kế bên là Dinh Cô, muốn lên phải leo 99 bậc thang xây bằng đá. Từ tấm bảng chia ranh giới về hướng Phan Thiết, một bên là núi, một bên là biển, mà hiểm trở nhất là cây cầu có tên là cầu Ðá Chẹt.

    Cầu này nằm trên quốc lộ 1, giữa một bên núi cao, một bên biển thấp, nối tiếp có thêm mấy cây cầu nhỏ, thật hiểm trở vô cùng. Nhiều lúc tôi đã có những suy nghĩ là phải triệt hạ mấy cây cầu này để làm chậm bớt sự di chuyển của quân CSBV, vì cầu sập muốn đi qua, Công Binh của quân CS phải cần có thời gian tái tạo, nhưng rồi còn người dân họ muốn đi tìm tự do thì sao?, nghĩ thì nghĩ vậy nhưng rồi mất đi như một ảo tưởng. Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, nên sau khi liên lạc nhận lệnh từ BCH/TÐ, Ðại đội tôi bỏ Cà Ná rút về xóm Vĩnh Hảo, nhưng nhận thấy đây không phải là vị trí phòng thủ, nên tôi lại di chuyển tiếp tới Sở Nước-Suối Vĩnh Hảo. Ðối diện về phía bên kia QL1, có một hòn núi không cao lắm, nguyên là căn cứ pháo binh của Mỹ. Tôi chọn đóng quân ở đây, vì nó là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng. Hơn nữa, nếu nguy cấp, DD có thể rút ra phía sau núi, gần sát bờ biển. Chuyện đã đến nước này rồi, thân phải lo thân, không những mình tôi mà toàn bộ số lính thân yêu đã theo tôi trong suốt đoạn đường gian khổ.

    Khoảng 10 giờ sáng ngày 16 tháng 4, 1975, tôi đang ở trên ngọn núi đối diện Sở Nước Suối Vĩnh Hảo, đặt ống dòm tôi thấy đoàn xe bụi mù mịt. Ngó lại mấy cây cầu, phải chi trước đó tôi đã có nói là phải tính toán nó đi, thì giờ đây, dĩ nhiên chận đứng được đoàn xe này rồi . Việc này chính tôi có đề nghị với BCH/TÐ và nơi đã trình lên Chi Khu cùng Tiểu Khu, nhưng không thẩm quyền nào quyết định nổi, vì lúc đó Mặt Trận Phan Rang còn đang tiếp diễn, làm sao có thể phá cầu, trên đường rút lui của đoàn quân?

    Rồi tới lúc nguy ngập, tôi lại xin lệnh phá Cầu Ðá Chẹt nhưng cũng không được chấp thuận. Sau này gặp lại cựu Trung Úy Thức, anh cho biết là BCH/TD có xuống BCH Tuy Phong để bàn thảo chuyện này, nhưng không thấy thực hiện gì hết. Tới khi tôi liên lạc về BCH/TÐ, báo cáo, là đã nhìn thấy xuất hiện đoàn xe bụi tung mù trời, gần xóm Vĩnh Hảo, cách chỗ tôi đóng quân chừng 5-6 cây số và cách BCH/TÐ khoảng hơn 10 cây số và xin phi vụ giội bom đoàn xe trên. Lúc đó, tuy đã được Trung Tâm Hỏa Lực chấp thuận, nhưng vì tình hình chiến trường đang sôi động khắp nơi, nhất là tại các mặt trận Phan Rang, Phan Thiết và Xuân Lộc. Hơn nữa, phi trường Phan Rang thì đã mất, chỉ còn phi trường Biên Hòa. Tôi cố liên lạc về BCH/TÐ, kể cả BCH Tùy Phong nhưng không nơi nào trả lời, vì đã di tản ra chiến hạm Hải Quân 503 trước khi đoàn xe CS tới, vì vậy mới gặp Thiếu tá Quận trưởng Tuy Phong là Hà Văn Thành ở trên tàu.

    Thật sự lúc đó, đơn vị của tôi chưa hề chạm địch, nên khi liên lạc được phi vụ, khoảng 10 giờ sáng. Tôi đã liên lạc với phi công và báo cáo mục tiêu xin oanh kích nhưng không hiểu vì lý do gì, hai chiếc F-5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của tôi, rồi bay mất về hướng Nam. Cũng may, bom lạc ra ngoài nên không có ai bị thương vong. Ðây có lẽ vì áp lực phòng không lúc đó rất nặng, nên phải bay cao ngoài tầm pháo của địch, vì tôi vẫn còn nghe họ gọi danh hiệu của tôi lúc đó là Bản Thế theo đặc lệnh truyền tin, song tôi không dám lên tiếng, vì sợ lại bị KQ thả bom lầm như trước.

    Lúc này ÐÐ chỉ còn 2/3 quân số, vì khi rời Lương Sơn, tôi đã giao cho ÐÐP chỉ huy 2 trung đội còn lại, trong lúc chờ phương tiện. Ðây cũng là điều may mắn đã xui khiến Chi Khu Phan Lý Chàm cung cấp không đủ xe để di chuyển toàn đại đội về Tuy Phong. Nếu không, tại trận phục kích ở Bầu Ðá, có nhiều xe thế nào cũng dính. Ngoài ra nếu đủ quân số, phải rải quân rộng, chắc chắn sẽ bị ăn bom của KQ bỏ lầm.

    Lúc này tại Tuy Phong chỉ còn có một mình ÐD4 (-) của TÐ248 ÐP mà thôi, chính tôi cũng không biết sẽ đi về đâu vì mọi liên lạc với BCH/TÐ và Chi Khu coi như bị cắt đứt. Ðứng trên núi cao, qua ống dòm tôi thấy trên quốc lộ 1, dân chúng chạy lánh nạn đầy đường, bằng đủ loại phương tiện, kể cả xe đạp.Thấy vậy, tôi xuống dọ hỏi, mới biết đó là dân chúng Vĩnh Hảo, khi thấy đoàn xe của VC tới, nên rủ nhau bỏ nhà di tản. Họ còn cho biết đoàn xe của bộ đội Cộng Sản rất dài, trong số này có nhiều xe GMC tịch thu của TK. Ninh Thuận bỏ lại, khi mặt trận Phan Rang tan vỡ, hiện đang ngừng ngay trước chợ.

    Tôi có nghĩ là sẽ rút về Phan Thiết nhưng làm sao được, vì phải di chuyển cả một chặng đường xa xôi, mà tôi là tuyến đầu. Bởi vậy, tôi đem 2 trung đội xuống nằm ở sát chân núi, trước mặt là 1 giao thông hào, dùng thoát nước mưa, để khỏi hư mặt lộ. Nhờ nó, mà đơn vị đã rút an toàn ra bờ biển, bởi vì xe hay chiến xa cũng không vượt qua được cái giao thông hào. Tôi để lại Tiểu Ðội Viễn Thám, nằm kích ở lưng chừng núi có gì yểm trợ, vì ở trên cao không sợ lạc đạn. Tới đường cùng rồi, những nghẹn ngào uất ức không làm sao giải tỏa được. Tôi xuống chận dân để hỏi tình hình tiếp, vì lúc đó đoàn xe còn đứng chưa di chuyển và được trả lời là có 1 chiếc xe Jeep sắp sửa chạy trước để đến đây, tôi nghĩ đoàn xe chưa đi, tôi đặt ống dòm nhìn thì thấy vẫn yên tĩnh, nếu 1 chiếc xe thì tôi lượm liền, chứ 1 đoàn quân thì vô vọng, tính cho cùng thì cũng chỉ trứng chọi với đá.

    Nói thực lính ÐPQ chúng tôi làm gì có kinh nghiệm đánh chiến xa, chính bản thân tôi là đại đội trưởng cũng chưa có kinh nghiệm đánh chiến xa ngoài lý thuyết, nhưng rất có kinh nghiệm về bộ chiến.

    Tôi ra lịnh 1 chính, 1 yểm trợ, dù tôi biết rằng sau lưng tôi không có ai, chỉ có cây cối, đồi núi chim muông và những loài thú lạc lõng trong tiếng bom nổ. Thân tự lo thân, tôi chuẩn bị để tiêu diệt chiếc xe Jeep này, nằm chờ, chờ đến khi trong tầm nhìn thì không có chiếc xe Jeep nào hết mà là 1 đoàn xe, chạy đầu là chiếc PT76 thì phải. Việc gì đến đã đến, không thèm sự đợi chờ một người yêu không đáng yêu. Súng nổ, vẫn cứ nổ, đoàn xe dừng lại, súng vẫn cứ nổ, tôi thấy chung quanh mình toàn là lửa với lửa.

    Tôi ra lệnh cho tất cả theo đường thông thủy, từ đó an toàn có cây cối và đá bảo vệ, che kín, lâu lâu dùng súng cối bắn ra quốc lộ, chúng cứ bắn vào, nhờ thế mà tôi đã hướng dẫn đơn vị ra tới bờ biển. Chính tôi ra lệnh bỏ tất cả quân trang mang theo cho nhẹ, chỉ súng đạn, lương khô, đi theo con đường thông thủy đâu phải chuyện dễ.

    Nói tới vùng biển từ Cửa Xuất tới Long Hương (Chi Khu Tuy Phong) tôi nằm ở giữa, đến khi ra được tới bờ biển thì đã gần tối rồi. Chạy dọc bờ biển có đủ loại cây mọc, nào cây Ma Vương thấp có gai nhưng trái ăn rất ngon, thêm những bụi rù rì mọc từng đám nhưng có khoảng cách, đây chính là sự an toàn cho cho đơn vị, tôi ra lệnh đào hầm trong những bụi rù rì và hy vọng Tàu Hải Quân chạy qua.

    Nhờ còn có máy và các loại đặc lệnh truyền tin, nên tôi đã gọi cầu cứu khắp nơi, nhưng chẳng một ai hồi đáp. Không lẽ số phận tôi sinh ra làm bia đỡ đạn, còn những lính tráng khác của mình nữa cũng chung số phận sao? Những người mà bao năm sương gió, khổ cực, đã theo tôi trong suốt đoạn đường chinh chiến.

    Trời càng về đêm, càng âm u thê lương không thể tả, những khuôn mặt lính mệt mỏi, cay đắng xen lẫn ngậm ngùi, cho số phận của con người VN bất hạnh, nhưng không một oán hờn gì cả, nếu có chỉ trong lòng. Tôi cảm nghĩ tất cả lính của tôi cũng có những cảm nghĩ gì đó, nhưng mà có một điều tôi cam đoan rằng là có tôi, tôi là cấp chỉ huy không bỏ họ, bằng mọi giá phải đưa họ đi dù chỉ là phương trời vô vọng. Họ thấy an tâm, dù sao ở giữa cõi trời đất mênh mông, thê lương còn có tôi. Tôi rất tự hào điều này. Tất cả như bất động giữa đồng vắng, trong lúc đó, biển cả vẫn phẫn nộ, nổi sóng, không biết biển cả nổi sóng phẫn nộ vì thương hại giùm cho những người lính bất hạnh, nên cùng hòa nhịp cho kẻ khốn cùng, đã tới được bờ biển và gọi cấp cứu, không biết bao nhiêu lần nhưng đếu vô vọng. Trong lúc đó, có nhiều toán du kích di chuyển về hướng Long Hương, quận Tuy Phong nhưng tôi ra lệnh không nổ súng. Xa xa vọng lại, những tiếng nổ long trời, tôi đoán là những kho hậu cứ của Chi Khu Tuy Phong bị nổ.

    Lúc đó không biết đã mấy giờ rồi nhưng trời tối đen như mực, sóng biển vẫn phẫn nộ, đập vào bãi cát như có vẻ tức giận một điều gì ? Cái đồng hồ của tôi trong lúc di chuyển theo đường thông thủy đã bị vướng mất, đó cũng là một kỷ niệm, bởi vì nó đã theo tôi suốt đoạn đường chinh chiến, mất một cái đồng hồ đã sử dụng tới 7 năm thì không tiếc, mà mất một vật kỷ niệm mới ngậm ngùi.

    Sau khi đào hầm hố xong, Tôi suy nghĩ đêm đã xuống rồi, rút băng qua QL1 để về Phan Thiết thì chỉ là vô vọng, không lương thực, mà đạn dược thì thiếu thốn, có đi thì cũng chả biết đi về đâu. Tôi vẫn gọi, đến nước này thì cũng bước đường cùng, nhưng có sự thân yêu, dầu sao cũng còn số lính của tôi, tới giờ chót vẫn nghe lệnh tôi, đó cũng là một an ủi cuối cùng.

    Giữa lúc tuyệt vọng não nề, thì gặp được tiếng trả lời, tôi không rõ tại vì tôi không có tần số đó, sau này tôi mới biết là họ đã rà vì nghe tôi gọi quá chừng. Xưng danh là Giang Ðoàn 27 từ Phan Rang vô, nhưng họ bảo tôi nếu có ai xác nhận anh là Bản Thể là tôi vô bốc anh liền. Kể cũng thật may, lúc đó tôi nhận được tiếng của Thiếu Tá Hà Văn Thành, đã xác nhận tôi là Bản Thể tức là danh hiệu của đại đội trưởng lúc đó theo đặc lệnh truyền tin. Nhờ vậy chúng tôi được cứu sống.

    Trong lúc đợi chờ tàu HQ vào vớt, tôi có dặn lính khi gác thì nằm xuống, đêm tối như mực, không thể nào đúng gác mà thấy được, tại vì ở bờ biển mà, chỉ có nằm xuống mới thấy dạng người ở ngoài biển vào thôi. Cùng lúc, nhìn về hướng Chi Khu Tuy Phong tiếng nổ vẫn không dứt. Mông lung suy tư và chờ đợi, lúc này phải nói là tâm tôi rối bời, không biết Hải Quân hứa vào “bốc” chúng tôi có hay không, hay là chờ chết, chỉ đến sáng mai thôi, bình minh vừa ló dạng đem bao nhiêu nguồn vui cho mọi người là lức tôi chỉ chờ chết. Chết với tôi lúc đó thì cũng không có một ý niệm nào, mà lúc đó tôi rất căng thẳng. Nói là hầm trú ẩn chứ đó chỉ là một cái hố đào sâu che cái poncho cho tôi ngồi ở dưới rọi đèn pin gọi các nơi. Gọi Hải Quân tôi chấm tọa độ và Hải Quân hứa sẽ vào bốc ra, chờ và chờ.

    Tôi không nhớ rõ thời gian chắc có lẽ là nửa đêm thì phải, sương biển đã thấm lạnh đôi vai người lính, thực ra đời lính chiến tôi có đụng chạm những chuyện như thế này tuy vậy còn có những đơn vị bạn yểm trợ, sương lạnh bờ vai cũng chỉ là những đêm đóng trên những ngọn đồi dọc theo QL1 có đủ thời gian ngồi nhìn trăng lên mà lòng cảm thấy một cái gì lý thú trong gian khổ. Còn cái này thì hết biết rồi. Tôi dặn lính gác rất là cẩn thận bởi vì từ ngoài biển khơi có người vào là phe ta.

    Có 1 người lính chạy tới báo tôi biết là có 2 người từ ngoài biển đi vô và yêu cầu gặp tôi. Tôi bước tới, 2 người mới tới trong đêm vắng của biển cả, tôi thấy họ mặc đồ gì lạ quá, 2 người hỏi tôi có phải anh là đại đội trưởng không thì tôi nói là tôi. Rồi 2 người 1 phải 1 trái xốc nách tôi nhảy xuống biển và đi luôn, tôi nghe 1 trong 2 người nói anh ngước mặt lên để khỏi bị nước vô mũi, miệng, tôi đưa anh đi, tôi độ chừng chắc cũng nửa tiếng đồng hồ thì bước lên trên một vùng đá san hô, lúc đó tôi mới hiểu là chiếc tàu họ đem vào vì đêm tối đã cỡi trên rặng san hô rồi. Họ bảo vì đêm tối không thấy rặng san hô. Họ báo cho biết là họ chỉ được lệnh “bốc” tôi ra thôi, tôi năn nỉ xin vui lòng cứu những đồng đội của tôi nữa, sau này khi vào Vũng Tàu tôi có gặp 2 vị trung úy đó nhưng đã quên tên, xin cảm ơn 2 vị.

    Cuối cùng 2 vị trung úy đồng ý cho lính tôi ra nhưng phải lội ra chứ không bốc được vì lúc đó tàu còn nằm trên rặng san hô. Tôi mượn máy truyền tin gọi vào bờ và ra lệnh cứ lội ra trước mặt gần lắm, tàu đã bị mắc rặng rồi, toàn bộ súng đạn, máy truyền tin cứ đội lên đầu đi ra đến khi nào bắt đầu lội là thả hết xuống biển, tuyệt nhiên không để lại một cái gì ở bờ biển hết. Lại một lần nữa, ơn trên phù hộ cuối cùng toàn bộ đơn vị tôi cũng ra được. Hóa ra đó là Duyên Ðoàn 27 đóng tại Phan Rang, và sau đó đưa chúng tôi ra chiếc Duyên Vận Hạm 503 đang nằm ở gần Vịnh Cà Ná.

    Mờ sáng là đơn vị tôi đã lên chiếc Duyên Hải Vận 503, lúc đó tôi có gặp Thiếu Tá Thành – quận trưởng Quận Tuy Phong, tôi có đôi lời cảm ơn cứu tử. Nếu không có Thiếu Tá Thành xác nhận thì tôi cũng không bao giờ ra được chiếc 503 mà mấy vị trung úy HQ đã phải lặn lội dưới nước biển trong đêm khuya để mang tôi ra ngoài tàu. Ðó cũng là một ý niệm tình huynh đệ chi binh. Trong khi tôi đã ở với các ông không biết bao nhiêu lâu, buồn có vui có, đủ mọi chuyện trên đời tuy tôi không kể ra đây. Nhưng với 2 vị trung úy HQ, tôi đâu có ở với 2 vị Hải Quân đó mà chỉ gặp nhau bằng liên lạc truyền tin mà họ đã “bốc” tôi rồi, như vậy LÐ 925/ÐP và TÐ 248/ÐP nghĩ coi thế nào?

    Ðứng trên chiếc Duyên Hải Vận 503, khoảng 10 giờ sáng, con tàu đang bấp bênh trên biển với những cuộn sóng thật dữ dội, tôi nhìn vào đất liền thấy những mảnh kiếng chiếu ra nhiều vô kể như sao lấp lánh trên giải Ngân Hà trong bầu trời đêm. Vì Cửa Xuất không phải là cảng cập bến cho loại tàu lớn như chiếc HQ. 503, nên tôi thấy các vị sĩ quan Hải Quân trên tàu, đã chận những chiếc ghe đánh cá lúc đó, cho họ dầu và nhờ chạy vào bờ bốc lính ra. Những hành động trân quý này, thật đúng tình huynh đệ chi binh của QLVNCH.

    Khi công tác cứu vớt lính còn đang tiếp diễn, thì những đạn pháo từ trong bờ bắn ra, bởi vì chiếc HQ-503 ở rất gần Vịnh Cà Ná. Ðó là đạn 130 ly bắn trực xạ của CS, những trái đầu tiên bay qua tàu và rớt ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo đài chỉ huy kêu cầu cứu, rồi những trái sau có lẽ là trúng pháo tháp chỉ huy đầu tiên và sau đó là trên boong, trên tàu lúc này thì ít người thôi, nếu lúc đó có vào khoảng vài trăm người thì thương vong rất là nhiều, dầu tôi là Bộ Binh nhưng không biết chỗ nào để ẩn núp, đành chịu trận, những tiếng nổ thật chát chúa như muốn bể tung đầu. Bỗng dưng tôi thấy 1 nắp hầm bật lên, tôi và số ít chạy xuống lòng tàu, lúc này tàu lắc dữ lắm. Tôi chạy ra trước mũi rồi lại chạy lên boong trong tư thế vừa đứng vừa ngã nghiêng, vì con tàu đã bị thương. Rồi nó lắc lư dữ dội, có lẽ tàu ở sóng ngang nên khi sóng đập vào mạn hông là tàu nghiêng, hết đập là tàu đứng, cứ thế tôi phải vịn vào lan can tàu để rồi cùng lắc lư với nó, nhìn ra ngoài khơi thấy có 5 cột khói bốc cao (lúc đó chiếc 503 gọi cấp cứu), cứ thế hải pháo bắn vào bờ như một bầy kên kên, quà quạ.

    Trong tình huống như the , mà lính của tôi còn lo lắng cho cấp chỉ huy của mình, khi đưa cho tôi 2 cái bi đông không, có dây đeo, để tôi tròng vào cổ làm phao khi tàu chìm. Nhưng “phước bất trùng lai,” đây là lần thứ 3, ơn trên phù hộ. Tiếng súng bắn từ bờ biển đã im bặt vì hải pháo bắn vào rất dữ dội, nên VC chịu không nổi đã rút hết.

    Tàu bị thủng ở bên hông nhưng nhờ có 5 chiến hạm khác tới cứu, hai chiếc dìu bên hông nên dần dần chiếc 503 trở lại bình thường và bơm nước ra và cột tàu để kè chiếc bị thương đi trong đêm tối. Mệt mỏi ê chề, tôi đã thiếp đi, đến khi tỉnh dậy đã thấy gần đất liền và tàu cập bến Vũng Tàu vào khoảng 10 giờ sáng.

    Ðầu tiên là 9 chiếc băng ca phủ drap trắng. Xin 1 phút mặc niệm cho hương hồn những vị đã vì Tổ quốc vong thân. Khi đơn vị chúng tôi lên bờ thì đã có Quân Cảnh túc trực tại chỗ để thu súng đạn.

    Súng đạn gì nữa, đã bỏ hết dưới biển rồi, duy nhất một kỷ vật luôn luôn mang theo trong người là tấm thẻ bài cũng đã yên vị trong lòng biển cả mênh mông, còn tấm kia đưa cho bà xã cất giữ, phòng khi có mệnh hệ gì còn có nó để nhận xác, và giờ đây tấm thẻ bài kỷ vật này tôi còn đang giữ khi đi định cư ở Mỹ.

    Quân Cảnh hướng dẫn đơn vị tôi lên chiếc GMC và chạy. Khi đến nơi họ cho biết đây là Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, nơi đây họ báo rằng TK Bình Thuận chưa mất và phải tìm đường trở về. Lạ quá, lúc đó là buổi sáng ngày 18 tháng 4, 1975 đúng là Bình Thuận chưa mất, mà mất vào ngày 19 tháng 4, 1975 trong khi tôi ở tuyến đầu. Tôi có trình bày là không thể nào về lại Bình Thuận được vì ngày tôi đi là Cà Ná đã mất rồi. Tôi ở lại trong TTHL Vạn Kiếp nhưng hình như là khu tiếp tân. Cuối cùng họ bảo tôi xem có ai để nhận dạng tôi hay không? Thật ra thì lúc ấy chưa có ai ở Bình Thuận vào cả mà chỉ có đơn vị của tôi và một số ít sĩ quan và binh sĩ của TÐ tôi và CK TuyPhong đã lên chiếc 503 ngày trước như đã kể trên thôi.

    Ðến đây thì tôi nhớ lại lúc trước nguyên tôi là đại đội phó của Ðại Úy Lộc khi tôi mới là thiếu úy, đến khi lên trung úy anh Lộc khuyên tôi còn trẻ nên đi học khóa đại đội trưởng và cũng chính anh Lộc đã lập văn thư cho tôi, sau đó anh Lộc cho tôi biết anh đổi về TTHL Vạn Kiếp, nhờ vậy nên tôi báo cho họ là trước kia đại đội trưởng của tôi là Ðại Úy Lộc, ở Sông Mao có vợ là chị Thu xin họ thông báo tên tôi và khoảng chừng nửa giờ sau anh Lộc chạy ra nhận, vậy là ơn trên phù hộ một lần nữa, mọi thủ tục giấy tờ, và lính tráng nhận phần ăn cũng đều do anh Lộc, rồi từ đó các đơn vị Bình Thuận cũng đến.

    Nhân đây, mặc dù anh đã là người thiên cổ ở trại tù ngoài Bắc, xin một chút hoài niệm về anh, vì anh đã giúp đỡ tôi tận tình, để nhớ đến người xưa là đại đội trưởng của tôi, xin chân thành cảm ơn anh, cầu nguyện hương hồn anh siêu thoát, xin ơn trên phù hộ cho chị và mấy cháu.

    Giờ đây đã hơn 30 năm, tuy không nhớ hết từng chi tiết, nhưng khúc phim trận đánh Sở Nước Suối Vĩnh Hảo vẫn như đang diễn ra từng khúc. Tôi không phải nhà văn, chỉ nhớ đâu viết đó, viết lách thì mông lung, không thứ tự thiếu đầu đuôi tuy nhiên có nhiều điều vẫn nhớ nhất là, khi nằm trong trại tù Quân Khu 7 ở Long Khánh vào khoảng trưa ngày 30 tháng 4, 1975, lính CS đem lại một cái radio bảo để nghe Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Nhớ lúc kho đạn nổ trước ngày bầu cử Quốc Hội của CS, nhớ nhà máy xay lúa bị cháy trơ xương, chỉ còn cái trục quay là không cháy nổi, nhớ những nhà tiền chế sau cơn nổ, sườn nhà cong như sợi dây kẽm, nhớ mặc bộ đồ tù có sọc y như tù binh Mỹ bị nhốt ở Hỏa Lò Hà Nội, nhớ những bao đựng quần áo phát cho những con người phải nói là “cá đã vào rọ ”mà tôi đọc được là “Nhân dân Trung Quốc thân tặng tù binh Việt Nam.”

    Không biết nhân dân Trung Quốc có biết điều này không, đó là anh tặng tôi để che thân thể, nhưng chắc gì nhân dân Trung Quốc đã đủ ấm no đâu, mà phải lo cho những người ở đâu đâu; Nhân đạo ư! Không. Cộng Sản làm gì có nhân đạo. Ðoạn hồi ký này tôi viết ra, song ở trong đây, tâm tư tôi không có gì là hằn học cả, mà chỉ muốn nói lên những suy tư đã ở trong tôi hơn 30 năm. Ðiều này không có nghĩa là tôi muốn khơi dậy một quá khứ. Mà tôi chỉ muốn cho mọi người biết rằng trong những giờ phút cuối cùng ở đầu phía Bắc tỉnh Bình Thuận, vẫn còn ít nhất 1 đơn vị đang chiến đấu chống lại đoàn xe CSBV và tìm đường triệt thoái để bảo toàn cho mạng sống của những người lính đã can trường chiến đấu cũng như cha ông và đồng đội tôi đã đổ nhiều xương máu, chống lại miền Bắc hiếu chiến để gìn giữ miền Nam Việt Nam tự do.

    Ðây là trận đánh có tên trong Quân Sử VNCH: Trận Sở Nước-Vĩnh Hảo (Bình Thuận).

    Ðây là trận đánh có Ðại Bàng Chỉ Huy, đó là tôi: Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi ÐÐT/ ÐÐ4/ TÐ248 ÐP thuộc Liên Ðoàn 925 ÐP/BBT. Ngoài ra còn có Ðại Bàng Lớn là Thiếu Tá Hà Văn Thành, quận trưởng kiêm CKT.Chi khu Tuy Phong-BT, không có xác nhận, được DÐ27 và HQ-503 cứu vớt, ngày nay chúng tôi không còn sống.


    Ðó là sự thật của lịch sử, không ai bóp méo được.
    Viết xong mùa Thu năm 2006
    Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi

    https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
    Last edited by BachMa; 09-15-2019, 08:54 PM.

    Comment


    • Tầng Địa Ngục

      Tầng Địa Ngục
      Uyên Nguyên



      Hình minh họa

      Nơi Gặp Gỡ Không Hẹn Mà Ðến:

      Ðiểm gặp gỡ không hẹn mà đến của nhóm “Ngụy Quân Ngụy Quyền Sài Gòn” thoạt tiên là Trại Cải Tạo Long Thành, tọa lạc tại Long Thành Tỉnh Ðồng Nai do Ủy Ban Quân Quản quản lý. Sau trở thành Trải Tạo 15 NV do Bộ Nội Vụ quản lý.

      Sáng ra, chúng tôi mới định thần và chuẩn bị tinh thần cho một sống đổi đời bắt đầu. Tôi được phân bổ ở nhà 6. Ðội trưởng Ðội 3 là Phạm Ngọc Cửu. Nhà Trưởng là Trần Tấn Toan.

      Ngày đầu đến trại chúng tôi nhận diện được những nhân vật có tên tuổi sau đây:

      Về phía đảng phái gồm có Nghị Sĩ , LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh...

      Về phía Nghị sĩ , có Trần Tấn Toan, nguyên trước là chủ tịch Hội Ðồng Tỉnh Gia Ðịnh.

      Về phía dân biểu có Ông Nguyễn Bá Lương, chủ tịch hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa, Dân biểu Lê Minh Ðăng, Khiếu Thiện Kế, Trần Ngọc Châu....

      Về phía toà án thì có rất nhiều Chánh Án, Biện Lý, Dự Thẩm các toà án ở Sài Gòn và các tỉnh ở Miền Nam Việt Nam. Trong đó có những ông chánh án mà người viết biết tên, biết mặt như ông Trần Ðại Khâm, Nguyễn Cần ( tức Tú Gàn), Ðào Minh Lượng, Nguyễn Ðắc Trọng, Ngô Văn Cân, Biện Lý Trần Thành Ðô, Dự Thẩm Nguyễn Thành Hương, Trần Cẩm Tựu, Phạm Minh Tâm, Hoàng Phùng Võ, Dương Lân, Ðặng Xuân Nhẫn, Nguyễn Công Ðàn ( tục là “Bò Ðàn” , tiếng chúng tôi hay gọi thân thiết vì anh ta phụ trách giữ mấy con bò cho trại), Trần Gia Tá, Cao Quãng Chơn....

      Về phía Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh : Phạm Ngọc Cửu ( Bình Thuận); Nguyễn Thanh Sử ( Bình Tuy, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn Văn Thích ( Bình Ðịnh); Nguyễn Chí Vy ( Quảng Ngãi ) Nguyền Văn Hoàng ( Phú Yên ) và còn nhiều phó tỉnh trưởng hành chánh khác nữa mà tôi quên tên và nơi phục vụ rồi.

      Về phía hành chánh cao cấp : Kỹ sư Dương Kích Nhưởng, Phó Thủ Tướng; Lê Văn Trường, Bộ Trưở ng Tài Chánh; Nguyễn Văn Chi, Tổng Giám Ðốc Trung Tâm Chuẩn Chi- Bộ Tài Chánh; Bùi Hữu Tiển, Tổng Giám Ðốc Ðiền Ðịa; Trần Huỳnh Châu, Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ; Nguyễn Văn Tương, Ðặc Ủy Trưởng Hành Chánh, Kỹ Sư Ngô Trọng Anh, Cưụ Tổng Trưởng Công Chánh Nội Các Nguyễn Cao Kỳ, Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ, Ông Phạm Trọng Nhân, cựu Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Lào và các Phó Tổng Giám Ðốc Thuế Vụ, Kế Hoạch thuộc các Bộ nữa mà tôi quên mất tên rồi. Ngoài ra còn có rất nhiều Giám Ðốc Nha Sở thuộc Hành Chánh Trung Ương, một số Quận Trưởng các Quận như Trung Tá Kiều Văn Út mà người viết biết mặt, biết tên và cũng như các Ty, Sở Trưởng, Phó Quận Hành Chánh thuộc hành chánh địa phương, các tỉnh thành cũng có mặt trong nhóm này.

      Về phía cảnh sát thì ngoài những cấp chỉ huy cảnh sát trung ương như Thiếu Tá Ðoàn Ðình Từ,Trung Tá Phấn Bộ Tư Lệnh Cách Sát Quốc Gia... còn có một số Trưởng Ty Cảnh Sát điạ phương mà người viết được biết như Trung Tá Phan Trần Bảo... và còn nhiều người nữa, lâu quá quên tên.

      Ngoài ra cũng có một số nhân viên thuộc Trung Ương Tình Báo, Thiên Nga...,

      Những nhân vật này lần lược được chuyển trại dưới hình thức mà chúng tôi gọi là Bao Bố . Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc để giải thích tại sao có tên là Bao Bố. Những đợt chuyển trại lớn, đông người thường xảy ra trong đêm khuya để dễ bề kiếm soát an ninh lộ trình , người ngoài không ai hay biết. Ðợt chuyển trại đầu tiên đi ra Bắc gọi là Bao Bố I vì sau khi có lệnh tập trung trong đêm khuya, và gọi tên từng người rồi sau đó trao cho mỗi người môt cái bao bố đựng gạo để bỏ hành trang đi tù vào. Ðợt chuyển trại nầy gồm những nhân vật cao cấp trong chính phủ cũng như trong hàng ngũ đảng phái, cảnh sát, trung ương tình Báo.... Ðợt di chuyến ra Bắc lần thứ hai được gọi là Bao bố II đa phần gồm những giám đốc, nha sở thuộc trung ương.

      Ðể trấn an các trại viên cũng như để bảo dảm an ninh lộ trình, Ban Chỉ Huy Trại đã động viên tất bằng cách nói láo rằng các anh được di chuyển đến những địa điểm học tập an toàn hơn. Nếu có người thắc mắc hỏi có phải chuyển đi Bắc không thì được cán bộ trấn an bằng cách trả lời không thật là các anh sẽ được đưa về miền Nam như Rừng Ðước, Năm Căn... Nhưng thật tình là xuống tàu ra Bắc cải tạo mút mùa lệ thủy.

      Sau hai đợt chuyển trại ra Bắc, Trại chỉ còn độ 250 trại viên. Chúng tôi được tái phân bổ lực lượng lao động và tôi đã được công tác trong tổ Vệ Sinh cho đế n ngày chuyển lên trại Xuyên Mộc Ðồng Nai và tiếp lao động cải tạo trong Ðội trồng trọt, rồi tiếp đến là Ðội Văn Nghệ cho đến khi “ học tập tiến bộ” đượ c trại xét tha về vào cuối tháng 8 năm 1989.

      Trong thời gian đầu học tập chính trị, chúng tôi có dịp học chung với những chịnh trị gia quen thuộc. Trong đó phải kể đến LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh . Không biết mấy ông này trình diện vì lý do gì . Chắc thuộc đảng phái thì phải. Nghe nói Luật Sư Tuyên vì liên hê đến bà vợ nhỏ nên bị kẹt lại và đi tù luôn. Nhiều chánh khách, nhà ngoại giao, hành chánh cao cấp cũng đã rơi vào trường hợp này, hối không kịp vì đã vào rọ rồi. Ngày trở về còn xa lắm nếu không muốn nói là bỏ thây nơi những trại giam nổi tiếng là hắc ám nhất ở miền Bắc. Ls Trần Văn Tuyên là một điển hình. Tôi còn nhớ khi lên lớp học chính trị, sau khi giảng xong bài , cán bộ giảng huấn kêu Ls Trần Văn Tuyên đứng dậy và dùng lời lẽ thô bạo để mắng chưởi ông ta. LS Tuyên đã nói một câu rất bất hủ: “Việc tôi làm chỉ có lịch sử phán xét chứ không ai có quyền phán xét tôi” . Sau bữa lên lớp đó, thì chúng tôi không thấy mặt của LS Tuyên nữa vì người ta đã dẫn ông ta đi đâu mất rồi.

      Làm ở đội rau xanh một thời gian tôi được xung vào Ðội Văn Nghệ Trại. Tôi nhớ không lầm đội Trưởng là nhạc sĩ Vũ Thành An. Vì chức vụ cuối cùng của anh ta là trưởng cơ sở Dân Vận & Chiêu Hồi Tỉnh Gia Ðịnh, cho nên anh phải đi trình diện học tập cải tạo theo diện “Ngụy Quân Ngụy Quyền” .

      Có một điều cũng nên nói ở đây mặc dù Vũ Thành An nổi tiếng với những ca khúc không tên trước 75 nhưng khi vào trại bên cạnh ca khúc anh viết nhân đêm giao thừa năm đầu tiên ở trại 1975 có đoạn rất hay và rất “ tiểu tư sản” và được mọi người chấp nhận : “Thắp nến hồng lên em, giao thừa về rồi đó. Ánh sáng bừng trong đêm. Như bình minh đã lên....” Nhưng khi anh viết theo nhu cầu chính trị tuyên truyền anh lại viết một ca khúc lạc lõng, không giống ai. Lời ca như một lời xưng tội và sặc màu “vô sản chuyên chính” . Tôi nghĩ rằng chỉnh những ngườ i bị rối loạn tâm thần, đánh mất bản ngã, lương tri thì mới viết một ca khúc tồi như thế. Vì vậy anh đã bị hết thảy trại viên chê trách và lên án dữ dội.. Ca khúc có đoạn: “ Nếu biết rõ đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Lũ ngụy quyền là bọn tay sai. Bao nhiêu năm cặm cụi miệt mài...”.

      Ðộc hại hơn nữa là các trại viên bị bắt buộc phải hát ca khúc này trong những lần sinh hoạt vă n nghệ. Nhưng dù anh có viết trăm ngàn bài ca tôn vinh chế độ đáng nguyền rủa kể trên thì cộng sản cũng không tha cho anh đâu và thực tế anh phải ra Bắc sau đó và cải tạo dài dài hơn mười năm mới được tha về vì anh thuộc diện “ác ôn” ( dân vận chiêu hồi bên hành chánh- chiến tranh chính trị hay chiến tranh tâm lý bên quân đội ) . Kịp đến khi Vũ Thành An bị chuyển ra Bắc thì người thay thế anh ta là anh Trần Thiên Ân. Anh nầy là một người còn rất trẻ, xuất thân từ học viện quốc gia hành chánh, chức vụ cuối cùng là phó quận trưởng ở đâu đó. Vì có một thời gian học ở chủng viện khi còn nhỏ, nên nhạc lý anh ta rất rành và rất vững. Anh viết hòa âm cho những bài hợp xướng rất dễ dàng và rất hay.

      Kịp đến khi nhóm hình sự di chuyển về đây thì Ðội Văn Nghệ có sự tăng cường nam và đặc biệt là nữ trại viên thì sinh hoạt văn nghệ trại khởi sắc hơn. Có những giọng ca trẻ tân nhạc cũng như cổ nhạc, kịch.. dưới sự dìu dắt và hướng dẫn của anh em trại viên thuộc diện chính trị chúng tôi. Trong đó có tôi dù sau này tôi không còn ờ trong Ðội Văn Nghệ nữa mà ở trong Tổ Vệ Sinh.

      Chuyện anh Nguyễn Văn Tri:
      Anh Tri là người cũng xuất từ học viên quốc gia hành chánh, làm giám đốc hành chánh Tổng Nha Ðiền Ðịa do kỹ sư Bùi Hữu Tiển làm Tổng Giám Ðốc. Sau khi học tập cải tạo ở trại một thời gian thì anh Tri có triệu chứng bất bình thường. Cứ vào lúc trời mưa, chúng tôi thấy anh ta ra ngồi ngoài mưa. Miệng thì lẩm bẩm những câu gì không ai hiểu cả. Một thời gian sau đó không biết sao anh ta được trại thả về.

      Không biết vì lý do bị bệnh tâm thần hay anh thuộc ngành mà cách mạng đang cần người hay không hay vì nguyên do khác không ai hay biết. Chỉ biết rằng sau khi được thả về một thời gian sau thì người ta thấy anh ở Sài Gòn và không có biểu hiện gì bất bình thường cả. Ðược thêm sau đó anh và gia đình qua Mỹ theo diện HO.

      Chuyện Cụ Nguyễn Bá Lương, cựu chủ tịch Hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhi Việt Nam Cộng Hòa:
      Cụ Nguyễn Bá Lương, vốn là một dân biểu. Người ta thường gọi cụ là “Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp”. Cụ có người con trai -thiếu Tá Nguyễn Bá Di. Khi cụ nhập trại thì tuổi của cụ khá cao, sức khỏe yếu kém nên chỉ có thể lao động nhẹ mà thôi. Ở tù được mấy năm trại xét tha cụ và cho cụ về. Trước đó Ban Giám Thị trại đã mời cụ lên dùng trà và mời thuốc đồng thời thông báo cho cụ hay là cụ đã được nhà nước cách mạng xét tha. Nhưng ói ăm thay về đâu chẳng thấy mà chỉ thấy bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc- trại Xuyên Mộc Ðồng Nai.

      Số là như vầy: sau khi mời cụ ra trại và thông báo quyết định tha cụ, Giám Thị trại dự tính là sáng hôm sau sẽ ký lệnh xuất trại .. Nhưng chưa kịp ký lệnh thì thành phố gọi giám thị về họp khẩn. Cho nên lệnh xuất trại chưa được ký và sẽ được ký khi họp xong. Nhưng than ôi, sau khi đi họp về thì lệnh xuất trại của cụ đã không được ký vì quyết định tha cụ đã bị đình hoãn lại trong một thời gian nữa cho đến khi có lệnh mới của trung ương. Thế là hy vọng được sớm trở về sum họp với gia đình tiêu tan theo mây khói. Kịp đến khi nhóm hình sự đã “đủ lông đủ cánh” để điều hành trại thì toàn bộ trại viên “khối chính trị” còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai.

      Một thời gian sau đó vì không chịu nổi thời tiết khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Xuyên Mộc, cụ đã ngã bệnh và qua đời.

      Sáng cụ ra đi vì tôi bị bệnh nên tôi đã có mặt nơi chỗ cụ nằm, vuốt mắt cho cụ và nguyện cầu hương linh cụ sớm về nơi chín suối chấm dứt những chuỗi ngày đen tối nhất của cuộc đời. Trong thời gian ở Trại Xuyên Mộc, tôi có dịp đàm đạo với cụ và được cụ kể nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” ít ai biết trong cuộc đời tình ái và sinh họat chính trị chính em của cụ. Rất sôi nổi vì theo diện tướng số cụ có khuôn mặt tướng hầu. Ngoài ra giới “thân cận” của cụ có nói cho tôi biết cụ có thêm một cái ẩn tướng khác là “gậy”, “của quý” của cụ chạm đất khi cụ ngồi chổm hổm. Không biêt có đúng không. Nếu đúng thì cụ từ một thư ký đồn điền rồi lên làm Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp , rồi đắc cử dân biểu Hạ Viện. Rồi đắc cử chủ tịch Hạ Viện cũng là lẽ thường tình dễ hiểu thôi. Như ông Thiệu có tướng hầu như cụ, làm đến chức cao nhất nước thì cũng không ngoa gì. Tướng số nhiều khi cũng đúng cho nhiều người lắm.

      Ăn mà cấm không được nói cho ai biết. Thế mới là lạ chứ.

      Những ngày bên Thành:
      Vào khoảng cuối năm 1978 trong khi các trại viên thuộc diện chính trị còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển trại lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai, tôi và Phạm Ngọc Thành được “may mắn” ở lại trại để tiếp tục gánh vác một số công việc mà chưa thể giao ngay cho nhóm hình sự vừa mới chuyển đến từ các trại như Bù Ðăng , Bù Gia Mập ....

      Nhóm này bị tù từ sau ngày Sài Gòn mất. Sau một thời gian dài bị giam trong các trại lao động khổ sai, thiếu đủ mọi thứ nên khi chúng nó về đây chúng nó chết như rạ. Do đó với nhu cầu “đột xuất”, tổ Vệ Sinh của chúng tôi phải làm một lúc hai công tác. Một là công tác đổ phân . Hai là công tác “khâm liệm” cũng như “di quan” người vừa mới chết ra nghĩa địa liền tù tì. Có ngày có đến hơn 5 đứa “mò- cua” ( tiếng lóng là chết ). Có khi cả chục đứa cho nên tổ Vệ Sinh của chúng tôi rất đắt khách . Chúng tôi phải “ khẩn trương” đem đi chôn mệt nghỉ cả ngày lẫn đêm.

      Nhiều khi phải đem đi chôn vào giữa ban đêm ngày rằm. Không có một chút ánh sáng gì ngoài ánh trăng chiếu vằng vặc. Vào những đêm như thế này, không biết các bạn của tôi nghĩ ra sao chứ riêng tôi tôi rất thích vì bản tính nghệ sĩ, ưa mơ mộng của tôi dù phải lao động cật lực để có thể về trại sớm để ngày mai có sức “đi cày” tiếp . Chuyện sợ ma thì không thể nào nghĩ đến vì làm việc bở hơi tai thì giờ đâu mà nghĩ chuyện vu vơ. Phải nói mệt nhất là việc đào huyệt vì nghĩa địa, nói cho oai chứ thực ra là một mô đất cao toàn là đá ong, cứng như đá nên đào huyệt không thể nào đào sâu được, khoảng chừng độ hơn nửa thước là cùng. Không có vật dụng gì khác ngoài mấy cái xẻn cùn.

      Sức người là chính. Sở dĩ tôi phải dông dài như vầy là vì có liên hệ đến việc đi chôn cất Thành sau này.

      Vì phải di chuyển khiêng phân hằng ngày hay phải khiêng quan tài đem đi chôn nên tôi thường gặp Thành trong bồ đồ lính được nhuộm đen và trên đầu đội một cái mũ “phở” không giống ai đi rảo trong trại. Chúng tôi chỉ chào nhau rồi ai làm phận sự người ấy. Thành vốn người dong dỏng cao, nước da tái tái . Nước da này vốn dĩ như vậy kể cả lúc còn làm Phó Quận Hàm Thuận rồi Hòa Ða. Ngoài ra không có biểu hiện gì là bệnh hoạn cả.

      Thời gian cứ trôi đi. Rồi đến kỳ thăm nuôi . Bà xã của tôi và bà xã của Thành đi thăm nuôi chúng tôi cùng một ngày vào dịp cuối năm 1978 . Tôi được Trại bố trí thăm nuôi trước, Thành thăm nuôi sau. Trước đó bà xã của tôi cũng đã gặp Thành ở nhà thăm gặp , có chào hỏi đôi điều và cũng không thấy Thành không có biểu hiện gì là bệnh hoạn trầm trọng cả.

      Một thời gian ngắn sau khi thăm nuôi nhất là gần Tết năm đó sức khỏe của Thành có triệu chứng giảm sút thấy rõ. Mắt và da trở nên vàng nhiều, triệu chứng của bệnh viêm gan. Mặc dù Thành được BS cán bộ tên Hùng cũng như BS trại viên Tùng giúp đỡ rất nhiều nhưng không có kết quả gì vì thiếu thuốc đặc chế. Vì vậy thể theo đề nghị của BS trại Viên Tùng và được đồng ý của BS Hùng, trưởng trạm xá đã ghi cho Thành một toa thuốc và xin cho người nhà của Thành đem lên cho Thành. Nhưng than ôi! chưa kịp đem lên thì Thành đã ra người thiên cổ. Tôi nhớ không lầm là Thành ra đi vào ngày mồng một Tết (nhằm ngày 28 tháng giêng) năm 1979 .

      Nghe tin Thành qua đời tôi tìm cách để viếng thăm anh. Ðược biết xác Thành được để ở bệnh xá Trại, trong một gian phòng tối như bưng.

      Tôi cứ nhớ mãi cây đèn cầy duy nhất mà tôi đã thắp lên quan tài của Thành. Cây đèn cầy này tôi đã cất kỹ trong gói “hành trang” khi đi tù vì nghĩ rằng sẽ có dịp để xử dụng nó. Nhưng chưa có dịp nào để xử dụng thì nay lại đem ra cắm trên quan tài của người bạn đồng môn hành chánh và cũng là người bạn thiết thân lúc còn làm việc chung với nhau ở tỉnh Bình Thuận. Dù cây đèn cầy đã bị gãy nhưng dù sao cũng là vật quý báu và rất cần thiết trong lúc này. Chắc Thành cũng thông cảm cho tôi vì cây đèn cầy không phải đơn thuần là một vật vô tri vô giác nhưng nó biểu tượng cho sự tiếc thương cũng như gói ghép một tình cảm thiết thân không thể phai nhòa.

      Một điều hy hữu là khi Thành mất tổ Vệ Sinh của chúng lo tẩm liệm và đem Thành ra nghĩa địa. Chúng tôi chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc cho người bạn xấu số đã ra đi quá sớm như vậy. Chúng tôi cố ngăn những dòng lệ nhưng không thể nào được. Những giọt nước mắt cứ tuông chảy, cứ lăn dài trên má . Khóc cho Thành một phần mà khóc cho số phận của kiếp đọa đày của những người tù còn lại như chúng tôi thì nhiều.

      Thành đã từ giã cõi đời bỏ lại vợ con và các bạn tù. Bây giờ Thành có thể yên phận về phần nơi chín suối, không bị ràng buộc với những hệ lụy khổ đau nơi trần thế nữa.
      Còn lại chúng tôi tiếp tục chịu đựng số kiếp đọa đày nơi chốn tù ngục. Còn lại gia đình với vợ và các con trong nỗi thương đau chất ngất...

      NHỮNG CHUYỆN BÊN LỀ:

      Chuyện Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn:

      Nhà văn Nguyễn mạnh Côn , nổi tiếng với tác phẩm “Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử” cũng được mọi người biết đến khi ông ta tuyệt thực để phản đối chính sách giam cầm của cộng sản. Rồi ông bệnh, ông chết ở đây.

      Chuyện ông Hồ Hữu Tường:
      Khi chúng tôi đến đây thì có gặp nhà văn Hồ Hữu Tường. Ông Tường nổi tiếng với “Phi Lạc SangTàu”.

      Hằng ngày, tập họp đi lao động thấy ông gánh đôi gánh. Nghe nói ông bị bệnh phù nên ông được bố trí làm công việc nhẹ là nấu nước cho đội uống. Ông Tường dáng người thấp lùn vả lại ông bị chứng phù thủng nên hai chân ông phù ra. Dáng đi chậm chạp uể oải. Biết ông là nhà văn, là người hiểu biết rộng nên trại đã trao giấy bút để ông viết “thu hoạch, hiến kế.” Nghe nói sau một thời gian sợ ông chết trong trại nên trại đã cho ông về nhà và một thời gian sau thì ông mất.

      Lại chuyện Ông Nguyễn Bá Lương, dân biểu quốc Hội, chủ tịch Hạ Viện:

      Sau khi ông mất một cơ hội trở về sum họp với gia đình ờ trại Cải Tạo Long Thành, ông phải theo chúng tôi lên Khu B Xuyên Mộc Ðồng Nai. Ông được bố trí ở cùng phòng với chúng tôi. Lúc này ông bị bệnh thường hay ở nhà. Khi có dịp rảnh rỗi tôi thường là cà đến nói chuyện với ông. Ông kể cho tôi rất nhiều chuyện thuộc diện “thâm cung bí sử”. Ðiển hình là gán ghép ông và Bà DS Nguyễn Cao Thăng.

      Không biết ông nói có thật không hay ông phịa ra nhưng chính tai tôi nghe được như vầy: Khi ông Nguyễn Cao Thăng qua đời, giới dân biểu thân chính quyền muốn gán ghép ông với Bà Thăng nhưng chuyện không thành.

      Ở Khu B một thời gian thì ông bị bệnh nặng và qua đời. Ngày ông mất tôi bệnh phải ở nhà và đã đến tại chỗ nằm của ông để vuốt mắt cho ông .

      Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Chúng tôi đã đi vào giấc ngủ với nhiều mộng đẹp và ước vọng tương lai khi đèn của trại tắt.

      Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đuợc lệnh trịệu tập, mang theo hành lý để di chuyển sang Khu B làm thủ tục xuất trại.

      Chúng tôi đã đến văn phòng làm việc của trại lúc 9 giờ sáng hôm đó. Lần lượt các trại viên ký tên nhận lệnh xuất trại, giấy ra trại và 10 đồng lộ phí đi đường.

      Khi đã xa cách trại một khoảng khá xa rồi thì tôi bắt đầu vẫy các xe đi qua để xin quá giang. Từng chiếc rồi từng chiếc xe đủ loại đủ cỡ đi qua nhưng không có chiếc xe nào dừng lại cả. May thay cuối cùng có một chiếc xe chở rạ còn ướt vì vừa mới gặt ngừng lại và cho tôi quá giang. Nhìn cách phục sức của tôi, Anh ta hỏi tôi có phải là dân tù cải tạo mới ra không và định về đâu. Tôi trả lời tôi về Sài Gòn. Anh ta bảo tôi chỉ về Biên hòa mà thôi. Tôi đồng ý .

      Trong khoang xe chất đầy người nên tôi phải ngồi, rồi nằm ngất ngưởng trên đống rạ. Ngước nhìn trời cao và hít thở không khí tự do mà từ lâu vắng bóng và nghĩ về một cuộc đoàn viên trùng phùng sắp đến.

      Ðến ngã ba Biên Hòa tôi xin anh tài xế cho tôi xuống xe và từ đó tôi lên xe để về Sài Gòn. Vì trong túi tôi chỉ có vỏn vẹn 10 đồng trại phát nên tôi đưa ra cho anh tài xế xe lam. Anh ta nhìn tôi rồi hỏi “dân tù cải tạo mới về hả? rồi anh ta nhận tiền và mời tôi lên xe và không nói thêm một lời nào nữa.

      Xe đến đường Ðinh Tiên Hoàng, tôi xin tụt xuống và không quên ngỏ lời cám ơn anh tài xế tốt bụng. Trên đường về tôi hình dung đến bài học thuộc lòng của Thanh Tịnh rồi lẩm bẩm trong miệng “cảnh vật xung quanh tôi hoàn toàn thay đổi như chính lòng tôi đang có một sự thay đổi lớn hôm nay tôi trở về lại mái nhà xưa”.

      Vì cha mẹ của tôi ở xa lắm tận Cam Ranh nên địa chỉ tôi về là nhà của Cha Mẹ vợ của tôi.

      Bước vào nhà người đầu tiên tôi gặp không phải là bà xã của tôi vì bà đi làm chưa về,mà là ông gia của tôi. Ông ôm tôi với ràng rụa nước mắt. Rồi đến mẹ vợ tôi, cũng với hai hàng nước mắt . Rồi đến con trai út của tôi. Hai đứa lớn đi học chưa về. Nhìn đứa con trai út của tôi thấy thân hình nó gầy ốm tôi không cầm được nước mắt.

      Trong đêm trước khi từ giã trại, tôi mường tượng cảnh đoàn viên và cứ tưởng người tôi gặp đầu tiên là vợ tôi và tôi sẽ ôm vợ tôi vào lòng hôn lên môi lên má cho vơi đi những nhớ thương. Nhưng tất cả những sự kiện vừa mới xảy ra ngoài sự tiên đoán của tôi. Nhưng tôi không ân hận điều gì vì trước sau gì tôi cũng sẽ gặp lại vợ con tôi dù hơi muộn màng, không như mình tưởng.

      Cuối cùng tôi đã gặp vợ con tôi trong sự xúc động đến nghẹn ngào. Tôi ôm hôn vợ tôi, các con tôi cùng với những giọt nước mắt trào dâng vì sung sướng. Hy vọng những ngày tiếp theo sẽ là những ngày hoan ca, hạnh phúc dù tôi biết sẽ rất ngắn ngủi vì sẽ phải đối đầu với những khó khăn, bất trắc, hiểm nguy chực chờ bủa vây trước mặt..


      SanDiego
      Uyên Nguyên

      https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
      Last edited by BachMa; 09-15-2019, 08:53 PM.

      Comment


      • Mẹ Tôi & Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

        Mẹ Tôi & Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
        Nguyễn Kiên


        Hình minh họa

        Mẹ tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia VNCH, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.

        Lúc đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:

        - «Biết bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».

        Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng; hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào kể hết.

        Ai nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.

        Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.

        Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mỗi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mỗi tháng. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…

        Như vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói. Chính sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.

        Ba tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù, vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.

        Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.

        Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.

        Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng phỉ đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!

        Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Hồi đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái hèn, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô, môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…

        Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:

        - «Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».

        Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:

        - «Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».

        À, thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo và vô nhân cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ làm tay sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà tên rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ !

        Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:

        - «Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp đó đi! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hỉ?».

        Thì ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!

        Khi bọn cộng phỉ mới xâm chiếm và ăn cướp miền Nam, nhiều người vẫn ngây thơ tưởng rằng bọn cộng phỉ cũng là "người" Việt, không lẽ chúng lại đày đoạ đồng bào.

        Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, chúng "tự sướng" và tự cho rằng chúng là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.

        Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:

        - «Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi!».

        Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Thời gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống.

        Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…»

        Câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.

        Một ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.

        Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ!

        Thật không sao kể xiết nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.

        Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.

        Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:

        - “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.

        Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.

        Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:

        - «Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»

        Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).

        Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.

        Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản).

        Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì… lạc đề!

        Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu của bọn cộng phỉ trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,

        Đồng bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi:

        - “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”

        Ý Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.

        Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:

        - “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”

        Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.

        Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.

        Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã khuất để bảo vệ Tự Do cho miền Nam Việt Nam. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

        Nguyễn Kiên

        https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
        Last edited by BachMa; 10-25-2019, 04:18 AM.

        Comment


        • Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy

          Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy
          Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga [Tình báo VNCH]



          Hình Thiếu Tá Thủy trước và sau khi ra tù.

          Chuyện kể rằng trước ngày di tản, Trung Tá KVP, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn Trực Thăng 215, là anh em bà con với Thiếu Tá Thủy đến mời Bà đi chung. Bà đã từ chối để rồi một ngày trước ngày mất nước, Bà đã về văn phòng của Biệt Đội và chính tay thiêu hủy tất cả giấy tờ, tài liệu của Biệt Đội nhằm bảo vệ các Thiên Nga và các cộng sự viên của Biệt Đội.

          Sau ngày mất nước, Thiếu Tá Thủy cùng Phu Quân, Đại Úy Lê Thành Long, đều phải đi tù, riêng Bà bị 13 năm qua các trại tù lớn nhỏ.
          Kính mời quý vị và quý bạn theo dõi về những năm tù đày của Bà.
          ==========
          Thiếu Tá Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng lòng.

          Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh khối Đặc Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”

          Trong suốt thời gian bị giam một mình, Bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,” Bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con vòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”

          Bà nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức 16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có, ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”

          Bà nhớ lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi bột ngàng phệt, hột bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ có nước thời kỳ chót. Tôi phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm. Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây đầu khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây nhiễm.”

          Trong hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ, nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi).

          Ăn uống, mỗi buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao, trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng rau muống.”

          Cảnh lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chải kinh niên. Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.

          Bà kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất, trồng rau lên.

          Tôi yếu sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống nước rồi lên giống như vịt rỉa lông. Những ngày mưa, nước suối đục ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại này trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”

          Nhưng sau đó, Bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung. Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà. Tuy nhiên, Bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát, bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên. Tôi muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác viên.

          Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập giật chân kinh và tự xoa nắn lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con nhiều nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”

          Thời gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, Thiếu Tá Thủy đã làm thế nào để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở.

          Trời tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi cấp cứu.

          Về ăn uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.

          Lúc mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn (quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.

          Về phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.

          Đưa tôi về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của họ, 6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời:
          Không, không bao giờ.

          Thế là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh, Bs y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát. Người ấy mới kể, trước là y tá Bv Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị thuốc.

          Họ giữ tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.

          Hai chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.

          Sáng hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỹ luật cho nữ, cái nhà kỹ luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt sắt.

          Mỗi phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến ngày ra không được tắm. Khôn được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.

          Tùy theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt tôi.”

          Chính thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể Bà nhất, từ việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc Bà bị trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt không được tắm, những ngày có kinh nguyệt Bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến Bà rụng gần hết răng và cơ thể Bà hoàn toàn kiệt sức, không đứng được.

          Tôi thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Bà có bao giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho Bà nhiều kinh nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền trên quê hương Bà. Và khi Bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến giây phút gia đình Bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện H.O.

          Bà kiên trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”

          Nhưng dù không biết tương lai mình ra sao, Thiếu Tá Thủy vẫn luôn nghĩ đến người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay từ đầu, Bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối cùng, Bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án, sau có tay nghề may.”

          Là người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Thiếu Tá Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái Bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”

          Tôi tự hỏi, đối với Bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại?
          Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?

          (Sưu tầm)

          ==========
          https://www.facebook.com/tymnVNCH/ph...type=3&theater

          Comment


          • Khu Rừng Yên Tỉnh

            Khu Rừng Yên Tỉnh
            Lôi Hổ Nguyễn Văn Hải
            Chiến Đoàn 1 Xung Kích



            Hình minh họa

            Canh bạc đã đến hồi quyết liệt. Chỉ mới vừa từ sáng nay thôi sau khi Toán lãnh tiền thưởng hành quân. Chúng tôi từ một bệnh viện của quân đội Mỹ về đến căn cứ CCN ngày hôm qua sau chuyến xâm nhập vùng hạ Lào (kết quả không giống ai!).

            Tự dưng bật cười, tôi quay mặt vào trong tránh hình ảnh những con người máu đen đỏ, mà phần đông đặt “ăn ké” Xập xám chướng. Trong cái trại Biệt kích này… tự do được đặt lên hàng đầu (âu cũng là một khuyến khích… mại dô…) Có những quyền mà bất cứ một quân đội nào cũng ngăn cấm nhất là trong những giờ làm việc… Nhậu, nổ súng, đánh bạc, đánh lộn thậm chí cả đến sử dụng chất ma túy v.v… Tôi bật cười thêm về chuyến công tác vừa qua…

            Sáng ngày thứ ba trong mục tiêu vừa leo lên con dốc suối toả hơi lạnh êm êm. Đưa tay vuốt giọt mồ hôi đang lăn xuống má. Một làn gió len lỏi đến chợt lạnh run da thịt nhưng trong áo lúc này tôi biết là đang đẫm mồ hôi. Gió lại đưa tiếp vào người “cái gai gai… giật mình…” mà tay chân hình như bủn rủn. Người đi đầu ngồi xuống nghỉ tuy chưa có lệnh của Trưởng Toán… nhưng hầu như cả mọi người đều đồng ý đặt phịch người xuống đất! Thời gian nặng nề trôi. Giò vẫn thỉnh thoảng và mặt trời trên ngọn cây toả ánh nắng xuyên lá. Thiếu Úy Điệp nhìn tôi như dò hỏi và quanh đây đã có tiếng rên run.

            Lượng tình hình tôi cho là nghiêm trọng trong khi tay chân mình nặng nề không còn hơi sức và tôi nói khẽ với Điệp “dù sao cũng phải chờ Covey” rồi dựa lưng hẳn vào gốc cây.

            Tiếng kêu rống và gầm gừ của hai con thú làm chợt tỉnh theo sau động cơ của chiếc Covey đang đến. Phản ứng mạnh trỗi dậy trong cơ thể khi tôi nghĩ đến triệt xuất và bãi đáp. Tôi gọi Covey báo tình hình và xin triệt xuất khẩn. Thế rồi sau bao cố gắng gượng sức tìm bãi đáp… Toán được cứu dưới ánh nắng đang ngả về tây với người y tá Mỹ dìu từng người lên trực thăng bay thẳng về một bệnh viện của quân đội Mỹ tại Quảng Trị… Điều trị bảy ngày với bồn nước đá và truyền dịch có thuốc. Hỏi ra bệnh án ghi “nhiễm vi rút”.

            Trung Úy Trần Đình Ngọc ào vào phòng như cơn gió lốc. Ông ta vừa thay thế Đại Úy Trấn Trung Ginh trong chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Thám sát “CCN Recon Company” theo sau vẫn là Trung Sĩ Lê Nam… Thường Vụ Đại Đội. Đến chỗ tôi ông bảo:

            - … hai giờ chiều lên Trung Tâm Hành Quân trình diện.

            Đám đánh bài cũng thoả thuận chơi ván chót để cơm trưa. Cô giúp việc của Toán tay ôm mớ quần áo mới khô váo phòng để ủi.

            Giấc ngủ trưa bị đánh thức sau những bước chân chạy rấm rập ngoài hành lang. Nhìn ra cửa phòng ba người tay súng mặt hầm hầm miệng chửi thề:

            - Đm. Xin cặp giò nó…

            Đã có người bao quanh hỏi chuyện. Tôi lắng nghe và được biết Toán Adder (Toán Mỹ) có người bị Sĩ Quan An Ninh Trại đánh mấy bạt tai ở nhà ăn, thế là cả Toán xách súng tìm Đại Úy… Xin cặp giò!

            Tôi chặc lưỡi xoay mặt vào trong ngủ tiếp… Nằm nhưng cũng nhún đôi vai vì nơi đây đó cũng chỉ là chuyện bình thường, chuyện cơm bữa và nhớ lại cách đây hai năm cả một xe GMC chở đầy Biệt Kích với súng ống đầy đủ ra đánh nhau với Cảnh Sát ngoài Thị xã Đà Nẵng… Tấn công hẳn vào đồn tìm địch thủ. Anh hùng tính được khuyến khích và nghiễm nhiên nẩy nở rất nhanh trong cuộc sống đầy nguy hiểm của nhiệm vụ.

            Nhận lãnh công tác tại Trung Tâm Hành Quân với thời gian hai tiếng chuẩn bị đồ đoàn. Nhiệm vụ thay thế người Thông ngôn Toán Hải Điểu bị bệnh bất thường. Người ta đẩy cho tôi xem bệnh án từ Căn cứ xuất phát ghi đậm những chữ… ”Hạ bộ sưng tấy… có dấu hiệu côn trùng cắn.” Rất bình tĩnh tôi nhân định… ”Mẹ kiếp, lại đút “chim” vào ổ kiến để tránh công tác? Cái trò này nhiều khi cũng hữu dụng nhưng hiển nhiên bị khinh khi… Miệng chửi thề, bụng tức lộn ruột lên được, chân bước lên nhà kho lãnh đồ hành quân.

            Chiếc xe Jeep đón tôi từ sau chiếc C130 của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Người Trung Sĩ da mầu đon đả trong lời mời thuốc hút… hỏi uống beer hay nước ngọt có trong thùng nước đá. Xe vụt đi vào khoảng mờ tối dưới ánh đèn lấp loáng trong tiếng gấm rú của động cơ máy bay vừa cất cánh. Ngang qua một Câu lạc bộ đêm nay có nhạc sống và xe chạy một đỗi nữa chiếc Jeep quẹo vào căn cứ. Vừa xuống xe tôi đã thấy Thiếu Úy Dứa đi nhanh ra đón rồi đưa vào phòng Toán. Trung Sĩ Kim Hoàng, Biệt Kích Cao văn Hoàng Biệt Kích La văn Vượng Biệt Kích Dương Bửng đưa tay chào và chỉ cho tôi chiếc giường bố.

            Mây trời thật thấp lững lờ theo làn gió Đông nhẹ. Mặt trời vừa lên đã hắt tia nắng đổ xoài người xuống sân trực thăng. Toán đã yên vị trên tầu chờ Phi Hành Đoàn và Toán Trưởng đự thuyết trình Không Quân. Trực thăng đầu có chỗ cho tôi và Trưởng Toán sẽ đổ bộ trước cùng ngay giữa chiếc chiếu pháo cuộn tròn nằm ngang. Toán còn lại bốn người xâm nhập từ chiếc tầu thứ hai. Hai trực thăng đậu tiếp nhau theo hàng dọc đang được hai người Mỹ gắn vào sáu Biệt Kích bằng hình nộm… chiếc hai, chiếc bốn. Dùng làm kế nghi binh. Sáng nay lúc 6 giờ Toán chúng tôi được thuyết trình mục tiêu và kế hoạch xâm nhập. Giờ đây đoàn người túa ra từ phòng hành quân và chúng tôi đeo ba lô vào vai sẵn sàng.


            Hình minh họa
            Đoàn trực thăng nhanh chóng bay theo đội hình và tôi chắc rằng ông mặt trời đang tà tà theo sau… Viên Trung Úy người Mỹ ngồi trong lòng trực thăng nhiệm vụ thả Toán đưa tay chỉ hai trực thăng chở hình nộm trông như thật.

            Rừng xanh bạt ngàn và dãy Trường Sơn bất tận chắn ngang chờ chúng tôi leo qua. Một đám mây ập vào tầu và tôi nghĩ ngay đến nhiệm vụ đầu tiên là kiểm chứng kết quả trận đánh của chiếc C130 mang theo trái bom 15.000 cân anh mới vừa được thả từ đêm qua để lấy chỗ cho bãi đáp trực thăng xâm nhập vì khu này đặc kín rừng rậm.

            Mặt trời đã ngang tầm như đuổi theo khi ẩn khi hiện bởi phải vật lộn với những đám mây dần trôi. Ngoái lại phía sau không còn thấy biển và giờ chỉ toàn mầu xanh núi rừng chen sương trắng. Tiếng máy trực thăng như gượng lại có tí đanh sắc hình như không muốn lao về phía trước. Và tôi đã nhìn rõ chiếc OV10 cùng hai chiếc Cobra với cánh chém gió loang loáng bên dưới.

            Sĩ quan thả Toán giơ tay mắt nhìn hai bên xem và ra thêm dấu chuẩn bị. Càm giác nao nao nơi bụng theo những tiếng o o rít lên từ bộ máy trực thăng và tôi biết rằng nó đang theo lệnh xuống bãi thả.

            Mầu xanh cây lá nhanh chóng dâng lên rõ dần rồi trực thăng như ồ lên đứng khựng theo tay vỗ của Trung Úy ra lệnh xuất phát. Tôi xoay người tay ghì sợi dây hãm cùng đôi chân vừa bung khỏi càng trực thăng tay xả dây hãm tụt ào xuống…

            Thời gian vừa đủ để siết dây hãm nhằm làm giảm sức rơi rồi đôi mắt đưa tìm mặt đất với cú siết dây thứ hai chân vừa chạm bãi.
            Tháo vội sợi dây khỏi bụng tôi lao ngay vào gốc cây đổ chuẩn bị tình thế tác chiến. Thiếu Úy Dứa cũng vừa xuống đang thực hiện nhiệm vụ tháo chốt từ cuộn chiếu pháo theo sau chúng tôi từ trực thăng thả xuống. Chiếc thứ hai lập tức đã đứng trên đầu thả bốn người còn lại, tích tắc họ đã tháo khỏi dây tụt và hợp đoàn.

            Trưởng Toán đã trải xong chiếu pháo và giật dây nổ chậm rồi khoác tay di chuyển. Tôi nhanh chóng làm bổn phận mình là ước lượng hiện trường… bao xa ngoài khu vực bị tàn phá rồi xoáy vào cái hố rộng khoảng gấn 50 mét có chiều sâu ước chừng 10 mét.

            Toán vội vã di chuyển cùng chui lòn qua những cây đổ dọc ngang trong 10 phút chờ chiếu pháo sẽ nổ… khởi đầu cho giai đoạn hai của kế hoạch…

            Thời gian trôi nhanh trong vội vã chóng mặt giờ đã nhìn thấy rừng và bên cánh phải một cây cổ thụ vụt lao vút lên cao như thách thức. Đúng lúc này tiếng nổ liên tục như một cuộc chạm súng. Tôi vội báo Covey xâm nhập an toàn vào chiếu pháo đang nổ. Xong gấp rút Toán tiếp tục di chuyển. Muỗi ở đâu kéo đến lăn xả váo mặt bất chấp làn thuốc trừ muỗi bóng lưỡng trên từng gương mặt.
            Tiềng trực thăng sau lưng lúc một rõ để rồi từ hố bom xâm nhập họ sẽ thả xuống và câu lên… sáu Biệt kích hình nộm bằng hai trực thăng thẳng về căn cứ để… cất vào kho.

            Đoàn trực thăng rời khỏi khu vực trả lại vẻ nguyên si của rừng. Chiếc OV10 cũng sau hết rời khu vực khi biết rõ cuộc xâm nhập thành công. Tôi bỗng cười trong bụng khi nghĩ tới trái bom 15,000 cân anh được thả từ đêm qua chỉ để tạo khoảng trống cho trực thăng đáp… Đánh giặc kiểu nhà giầu, kiểu này thật phí của! Và chỉ tạo cảnh cây rừng gẫy đổ chồng chéo bằng sức tàn phá ước chừng 200 mét đường kính tính bởi bước chân chúng tôi đi qua từ hố bom còn đỏ au mầu đất.

            Một quả hạt trước sức nóng mặt trời trên cao tầng cây nổ bỏ hạt tạo ấn tượng thời gian và bất giác bụng kêu đói… nhìn đồng hồ 11 giờ 20. Rừng cây cao liền lạc bóng cả che phủ gần hết ánh mặt trời tạo quang cảnh tối đường hầm cho cây chồi non mọc dầy khó di chuyển nhưng lại che chắn tốt cho hành tung của Toán.

            Hoàng đi đầu dừng lại bên gốc cây và Thiếu Úy Dứa ra lệnh ăn trưa. Đã có gió trên tầng cây cao lao xao rồi ào ạt hình như quanh quẩn rắc vội những lá rơi tới tấp chao đảo kèm theo tiếng đàn chim hốt hoảng kéo nhau ùa xà xuống tầng cây chồi quẩn quit. Gói cơm từ sáng giờ đã nguội ngắt nhưng hộp thit ba lát được hâm nóng bằng mẩu C4 loại chất nổ dạng bột dẻo có mầu trắng mà lính Biệt kích chúng tôi dùng để nấu nướng…

            Lại một sự phí của! Miếng cơm nhai và tiếng con chim đất từ phía sau gáy rúc lên não nuột âm vang một chặp như dục chúng tôi tiến bước… Rừng vẫn một mực im hơi lặng tiếng.

            Mặt trời đang chen xuống núi, vùng sáng mầu da cam dần nhoà trên biển xanh cây lá khi cái lạnh gờn gợn của rừng sâu dần bủa xuống. Bữa cơm chiều nhẩn nha chờ trời nhá nhem và chúng tôi có phần lạc quan… Khu vực không một tiếng súng truyền tin hay săn bắn thường gặp trong sinh hoạt vùng địch. Con đường mòn được phát hiện không dấu vết mới sử dụng.

            Một tiếng nổ lớn âm vang truyền sóng dào dạt như đứt quãng vẻ rất xa hoà cùng thú kêu hú thênh thang báo hiệu rừng trở mình vào đêm. Ngọn gió mang hơi lạnh như muốn đẩy lùi những bước chân đang đi theo địa thế lên cao tìm chỗ nghỉ đêm trong khi bóng tối ập đến rất nhanh phút chốc đã mờ mịt mặt nhau. Toán dừng lại. Thiếu Úy Dứa đến bên báo cho chúng tôi có một cái hang trước mặt có thể làm chỗ nghỉ đêm nhưng còn phải chờ động tĩnh. Muỗi quá nhiều ào vào mặt và xa xa tiếng sấm chợt nghe vang rền chạy từ đông sang tây. Hoàng vừa thám thính xong chỗ nghỉ đêm và thật tuyệt vời giữa đêm rừng giá lạnh một nơi nghỉ ấm áp được an toàn một nửa chỉ phòng thủ một mặt với hai trái mìn được gài.

            Đêm của những chập chờn giấc ngủ. Trong cái áo đi mưa ấm áp đã bao lần thu mình để chống lại cơn gió thốc vào hang mang theo những hạt mưa. Đã quá nửa đêm, giật mình thức giấc giữa tiếng gió hú và mưa ào ạt. Đồng hồ chỉ bốn giờ và thế là lũ gà rừng chết rét không cất nổi tiếng gáy. Nhìn ngoài hang màu đen kịt trong ánh chớp lan dài và tiếng sấm rền rền giờ ở trên mây trong khi mưa thì ấm ào như trút nước.

            Hoàng bên cạnh dựa hẳn vào người tôi chìm trong giấc ngủ… biết vậy tôi vẫn để yên chiều vì rõ rằng giấc ngủ rang hay nướng là cả một tuyệt vời… Thiếu Úy Dứa và Trung Sĩ Kim Hoàng hai khuôn mặt theo ngọn lửa từ đáy ca nước tuy rằng chất dẻo C4 đốt lên chẳng bao giờ loang xa. Cặp Dương Bửng với La Văn Vượng đang xoắn xuýt ca cà phê toả múi thật dễ chịu.

            Trời mờ sáng, bớt gió và mưa nhỏ. Nhìn ra tôi mới biết thêm về địa thế. Toán đang ở trên nơi cao mà trước mặt thoai thoải cánh rừng xa tít ít cây chồi phô toàn gốc lớn vươn thẳng tắp dễ chừng có đến cao khoảng 30 mét. Rừng im như tờ chỉ thấy gió và mưa.
            Mắt tôi vừa chạm ngoài xa mái nhà lá… tuy trong mưa nhưng nhìn rất rõ vì không bị những cây chồi án ngữ. Báo cho Toán biết tôi gọi Hoàng dậy. Mưa lại bắt đầu lớn ào ào và gió đi qua những tầng cây chạm ngả nghiêng vào rừng lá ken dầy tiếng hú.

            Con nước bất ngờ đổ xuống băng đi qua những mốc đá lúc vỡ oà lúc hoà nhập trong mưa gió nhưng vẫn tạo nên điệu đàn giao hưởng… ”mưa rừng…” Toán vào bữa sáng sau khi bàn định tình hình… Tuy bất ổn trước mái nhà lá và những cơn mưa cứ tuấn tự kéo đến, mưa trái mùa sao dai dẳng đến thế? Riêng tôi đang nghĩ đến một loại mưa… mưa nhân tạo!

            Để có thể khó dễ và làm ngưng trệ hệ thống chuyển vận của địch quân… Người Mỹ đang tận dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho chiến tranh. Một cành cây rắc ầm gẫy trước hang ào chụp xuống chặn ngang dòng nước làm nó tung lên sô đẩy cứ thế lật từng vòng chầm chậm trôi rồi tấp vào gốc cây. Tôi liên tưởng đến nếu không có cái hang trú ẩn này biết đâu cành cây gẫy cũng trở thành sát thương… to chuyện. Và tin có bàn tay Thượng đế luôn theo phù hộ bên mình. Cơn mưa chợt ngớt nhưng chưa tạnh, còn gió thì lúc này hung hãn bất ngờ… Nó làm ngả nghiêng cây lá để lộ tí bầu trời cơn đen.

            Đã qua đêm thứ hai trong mục tiêu. Tiếng gà gáy cất vang như là một thay đổi tất nhiên… ”Sau cơn mưa trời lại sáng”. Mưa cả ngày qua làm khựng lại bước chân. Toán chỉ tập trung vào phòng thủ và quan sát động tĩnh. Tất cả đều đồng ý với nhau… thời tiết như vầy ai mà đi ra khỏi nhà! Và an tâm tại nơi trú ẩn… Cái hang đá của trời ban. Thiếu Úy Dứa ra lệnh phải rời khỏi hang trước khi trời sáng.

            Mìn phòng thủ đã gỡ và trong bóng đêm âm thầm khởi hành.

            Biệt Kích Cao Văn Hoàng thỉnh thoảng dừng lại canh địa bàn để bảo đảm vào đúng mục tiêu. Lũ gà rừng gáy đua như bù lại cho ngày hôm qua. Sương lạnh đeo dính gương mặt may mà gió thì đứng im.

            Một gốc cổ thụ lờ mờ cùng làn sương trắng. Nhìn đồng hồ đã sáu giờ cũng vừa lúc Trưởng Toán chỉ cho Hoàng gốc cây có nhiều rễ bạnh để Toán ăn sáng. Công việc diễn tiến rất tuần tự giờ trên tay, ca cà phê nghe tiếng chim cháo ngày mới… Chóng vánh và đã no đủ quả đúng là… nhanh như lính. Tôi đã nghe tiếng Covey nhưng ở rất xa. Xem bản mật mã… bật lại tần số trong ngày và chờ đợi. Đàn khỉ trên cây vừa ném cái gì xuống chỗ chúng tôi rồi nhe răng cười. Rất nhanh đã liên lạc xong rồi Covey qua bao vùng khác. Trong bụng lấy làm lạ khu vực không một tiếng súng đi săn thường vào buổi sáng như những mục tiêu khác.

            Sáng ngày thứ năm trong vùng. Nhiệm vụ Reconnaissance Team gần hoàn tất sau Bomb Damage Assessment (Toán thàm sát khu vực và kiểm chứng kết quả trận đánh bom). Ngoài ra còn phải tìm cho ra hố bom thứ hai để triệt xuất theo đúng kế hoạch vì nơi đây không một chỗ trống để làm bãi đáp. Những phát hiện trong mấy ngày qua chỉ toàn là những con đường mòn bỏ không, những căn nhà lá ngồi cả tiếng quan sát chẳng có động tĩnh.

            Đặc biệt một khu cánh rừng cây rậm cao lớn che phủ, bên dưới trống trải vì cây chồi bị phá quang cạnh một con đường xe chạy nhưng vắng tanh cùng gió quẩn… chỉ có thể là địa điểm tập trung chuyển vận và được Toán lưu trong máy ảnh. Rừng ken dầy cây cao xum lá, không có chỗ cho nắng lọt xuống. Chiếc áo diệp lục rộng lớn nguyên sinh rập rớn xanh sóng biếc thật phiêu diêu và cũng thật sâu đắm lắng đọng những cảm thức nghiệm suy. Nắng trên tầng lớp ngàn xanh, tiếng Covey sau lưng như đuổi theo những bước chân đang dò dẫm di chuyển. Một cơn gió bất chợt ào ạt khi tôi nói với Trưởng toán kiếm chỗ nghỉ để liên lạc… Đúng lệnh tôi phải gọi Covey trước với tần số và mật mã trong ngày.

            - Whisky Oscar… Romeo Bravo… over.

            - Romeo Bravo đây Whisky Oscar… hãy chờ khi nào thi hành kế hoạch tôi sẽ báo cho bạn… sẵn sàng OK.

            Covey vừa ra khỏi khu rừng chồi phía trái… một chiếc O2 như treo trên bầu trời trong xanh. Thiếu Úy Dứa đang canh lại bản đồ theo đường di chuyển từng ngày qua và ước lượng khoảng cách phù hợp.

            Đàn khỉ tự dưng tụ tập trên cây lơ láo nhìn chúng tôi tay chỉ trỏ nhe răng khịt khịt.

            - Romeo Bravo đây… Whisky Oscar hãy chuẩn bị. Tôi bắt đầu đếm số và xuống bải thả xâm nhập. Khi đếm đến OK có nghĩa là mức khởi đầu để tới bãi triệt xuất.

            - Whisky Oscar rõ 5/5.

            Màn chỉ điểm bãi đáp đã được hoạch định trong kế hoạch hành quân và tiếng đếm số của Covey vang lên trong máy rồi OK để Toán chuẩn bị.

            - Whisky Oscar… bingo.

            Thiếu Úy Dứa dõi theo hướng bay để biết bãi triệt xuất và Bingo là tiếng tôi vừa báo cho Covey Toán đang ở trước mũi bên dưới máy bay… Nó vụt qua rồi nhanh chòng bốc lên.

            - Romeo Bravo… chỗ ở của bạn chỉ còn cách bãi đáp khoảng 10 km cứ thẳng hướng Tây… thoát.

            Mặt trời ửng lên những tia nắng hồng. Chim hót vang trên cành và lũ khỉ lô nhô trên cây. Ngày hôm qua Toán không phát hiện gì mới. Khu rừng càng lúc càng bí ẩn cùng vẻ nguyên sinh. Cao Văn Hoàng được lệnh chuẩn bị di chuyển sau khi Trung Sĩ Kim Hoàng gỡ xong trái mìn phòng thủ. Nắng đã lên chiếu ánh vàng choé trên cây, Thiếu Úy Dứa canh lại bản đồ và chỉ hướng đi cho Hoàng, còn tôi nhiệm vụ bảo đàm về tần số trong máy liên lạc và mật mã trong ngày…


            Hình minh họa
            Ngày hôm nay Toán xong nhiệm vụ và triệt xuất. Làn gió nhẹ khuấy động mảng sương mù bay bay bên hai tay áo tôi đã đẫm ướt lành lạnh. Covey lên bao vùng và tiếng động cơ như dội ấm lòng. Thiếu Úy Dứa luôn chỉ hướng đi cho Hoàng vì chúng tôi đều biết rằng bãi đáp chỉ ở đâu đây thôi. Một vách đá chắn ngang vẫn còn hơi sương bừng mở sắc mầu Phong lan. Rừng vẫn là một bí ẩn. Và cảm thức sự bé nhỏ của con người được lật mở, khơi gợi. Toán dừng lại để tôi liên lạc Covey. Vừa ngồi xuống tôi đã nhìn thấy nắng rõ hơn ngang tầm cây cao lao vút cành lá.

            - Kilo Hotel… Xray November gọi

            - Đây là Kilo Hotel… anh là ai?

            - Xray November… Xray November… Xray November.

            Ba lần xưng danh và mật mã trao đổi… nghĩa là liên lạc được nối kết. Thời gian này đơn vị chống Biệt kích của địch hoạt động rất hữu hiệu và nguy hiềm nhất là họ được trang bị máy dò làn sóng.

            - Kilo Hotel đây Xray November… tôi cần giai đoạn kế hoạch phụ… anh chỉ cho tôi.

            Covey vừa ngang và nó vòng lại bay mở một cánh rộng như quan sát.

            - Xray November… xin chú ý.

            Tôi báo cho Toán chuẩn bị thế rồi từ Covey trái rocket khói được bắn xuống chỉ điểm bãi đáp. Tiếng nổ không to lắm nhưng cũng đủ để chúng tôi xác định hướng đi cũng như khoảng cách. Trên địa bàn lần này đi về hướng Nam có nghĩa mục tiêu ở bên hông.
            Có một điều Toán chỉ nghe được tiếng nổ chứ không thấy khói đâu bởi cây cao rậm lá nhưng mừng thầm vì không phải leo qua vách đá kia thơm nức mùi hoa lan.

            Thời gian được đếm trên những đôi chân vội vã nhưng cẩn thận đề phòng. Ngọn gió trên tầng cây cao rắc vội những cánh hoa tim tím từ cây Bằng lăng dễ chừng phải hai người ôm mới hêt vòng nơi gốc.

            Muỗi trên mặt và vắt dưới chân ngọ ngoạy. Thiếu Úy Dứa và Hoàng dừng lại quan sát và đưa tay ra sau với dấu hiệu số 1… Tôi hiểu ngay bãi đáp được tìm thấy… Tiếng Covey bao vùng nơi xa và mặt trời xuất hiện ngang tấm đầu. Đảo mắt tôi thấy ngay vòng tròn cây rừng khoe gốc thân vút lên cao với dấu tích một hố sâu chính giữa… cây chồi mọc thấp chen cùng cây đổ sóng soài có cây gác lên nhau trơ gọng.

            - Kilo Hotel đây Xray November. Tôi đã ra được bãi đáp.

            - Xray November… tôi sẽ đến ngay.

            Thiếu Úy Dứa canh lo bố phòng… Trung Sĩ Kim Hoàng và Biệt kích Dương Bửng cũng gài xong hai trái mìn phòng thủ.

            - Xray November… mở cửa sổ khi anh thấy tôi… OK

            Trung Sĩ Kim Hoàng cầm gương nơi tay và lấy ánh sáng vào… chuẩn bị.

            - Kilo hotel… đã thấy anh và tôi sẽ mở cừa sổ…

            Gương được chớp liên tục… đó là mật hiệu Toán phải theo nếu không muốn bị cho là địch quân.

            - OK, Xray November Rõ 5/5 anh có thời gian 40 phút chuẩn bị triệt xuất… Dứt.

            Mặt trời như đếm thời gian nhích dần như kim đồng hồ. Đứng trên đỉnh đầu toả sáng khắp ngàn xanh và lũng sâu chạy dài bất tận. Non cao thật bí hiểm, thâm u và lạnh lùng. Bầu trời yên tĩnh cùng chiếc Covey đã ra khỏi vùng chắc chắn để đổi tua chiếc khác…
            Một con heo rừng to lớn đen trụi dẫn bầy theo sau dễ chừng có đến mười con be bé… Nó đứng lại hít hà chúng tôi rồi ụt ịt đi thẳng. Chim trên cành lanh chanh thưởng thức mồi ngon, có con thích thú hót véo von. Tiếng Covey tôi nghe rất rõ và tiếng gọi vang trong máy.

            - Xray November đây Kilo Hotel gọi.

            - Kilo Hotel đây Xray November… Xray November… Xray November…

            Mật hiệu được trao đồi và rồi Covey xuất hiện nhanh chóng gần tới.

            - Xray November… cho tôi cửa sổ nhà anh và panel mật hiệu.

            Toán đã đáp ứng lời yêu cầu của Covey và lúc này trên bầu trời hướng đông những hạt đậu vãi rõ dần theo cơn gió quẩn… muốn đẩy chúng tôi vào lại rừng… trong cái cười mỉm của hố bom như không có sự sống và nhạt dần mầu đất. Đoàn trực thăng nhanh chóng trên đầu và Kim Hoàng cùng Dương Bửng cũng gỡ xong mìn phòng thủ.

            - Xray November… bạn chuẩn bị triệt xuất 2 rồi 4 OK… Stabo.

            Yên tâm hơn vì hai Cobra đang dọn bãi bằng những loạt đại liên. Trung Sĩ Kim Hoàng và La Văn Vượng cũng đứng vào vị trí câu dây. Một trực thăng đứng bên trên rồi thả xuống hai dây câu rồi tích tắc sau cái ra hiệu của Kim Hoàng lên phía trên… trực thăng dần lên rồi bay đi. Loạt đạn 40 ly nổ dài ấm áp không đanh nhọn như đại liên sáu nòng theo sau là trực thăng thứ hai xuống đón… thả xuống bốn dây câu từ hai cửa. Bốn người còn lại móc khoá từ dây câu vào chốt ở hai vai. Thiếu Úy Dứa kiểm soát xong ra hiệu lên trực thăng.

            Chân vừa rời khỏi mặt đất bằng cái rút nhanh nhưng sao lại đưa hẳn chúng tôi vào gần phía cây rừng? Tôi chuẩn bị đưa tay che chắn đầu mắt nhìn quan sát phía trên và hoảng hốt bật thét lên “Hoàng ơi…ơi…” Nhành cây de hẳn ra bìa rừng như khoe với ánh nắng vừa vặn chạm vào cổ của Hoàng và kéo xuống… Đẩy người vào sát bên tôi bằng khuôn mặt tức khắc biến dạng dị thường… đầu cúi gập, mắt trợn trừng, bộ lưỡi đưa khỏi miệng có cùng chất giãi hoà máu… nhiễu cả vào tay và mặt tôi. Tôi lặng người qua phút giây giờ trực thăng đã ở trên cao đang bay về căn cứ. Gió vẫn thỉnh thoảng mang theo chất nước từ miệng Hoàng thoảng mùi tanh.

            Lòng tôi bỗng đau xót từ cái bấn loạn khởi đầu từ chân, mắt không dám nhìn lên trên thật gần gũi và có khuôn mặt của Hoàng… Biệt kích Cao Văn Hoàng. Một cái chết êm đềm, yên tịnh khi chiến trường không một tiếng súng địch và khu rừng… Thâm u giữa đại ngàn, lạnh lùng mang đầy bí ẩn có hai hố bom 15,000 cân anh. Cái chết của những người trẻ trong chiến tranh mà chưa hề một lần nắm tay thiếu nữ cũng như bao cô gái còn ngây thơ đi lãnh tiền tử của chồng vừa khóc vừa đếm tiền… ”Ông ơi, đổi cho tôi đồng này rách…”

            Lôi Hổ Nguyễn Văn Hải
            Chiến Đoàn 1 Xung Kích

            https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

            Comment


            • Chuyện Tình Của Một Phi Công

              Chuyện Tình Của Một Phi Công
              (Chuyện thật được viết lại)
              Nguyễn Trà


              Hình minh họa

              Biến cố Ba mươi tháng Tư năm một ngàn chín trăm Bảy mươi lăm, sau khi nghe Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, giống như trời sập, mất nước nhà tan, người lính đang chiến đấu hăng say ngoài tiền tuyến lại rã ngũ, mang súng đạn đầu hàng địch. Khi đất nước lâm vào cảnh màn trời chiếu đất vận nước đã đến mạnh ai nấy làm, nghe nói Cộng sản thì ai cũng khiếp sợ không muốn thấy mặt thật gian ác dã man của chúng, ai cũng hoảng hốt lật đật, không có thì giờ để từ giã vợ con, người thân, rời Việt Nam trong khoảnh khắc đầy hiểm nguy.

              Sau khi đã ra khỏi nước và được Chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ hầu hết các Hoa tiêu trực thăng trở về mái trường xưa, gặp Thầy cũ từng quen biết của thời Huấn luyện bay bổng tại Hoa Kỳ, một Căn cứ Bộ binh của Hoa Kỳ Hunter Air Field ở trong Thành phố cổ kính thuộc Tiểu bang Geogia ở Đông bắc Hoa Kỳ.

              Hơn năm trăm Phi công trực thăng của Việt Nam Cộng Hòa, người có vợ có con, kẻ độc thân, ai cũng xơ xác, thơ thẩn lang thang giống như người điên người khùng mất hồn, mất trí cố sống bám víu quây quần bên nhau, nhờ những người Sponsors cũ lui tới an ủi và giúp đỡ trong những ngày chân ướt, chân ráo mới đến Hoa Kỳ. Nước nhà đã rơi vào tay Cộng sản, không biết bao nhiêu chuyện nghiệt ngã ập đến dần dần ai cũng phải tìm công ăn việc làm để kiếm cơm manh áo cho qua ngày tháng, kẻ đi người ở phân tán khắp năm mươi Tiểu bang, cũng có một số đã gắn bó và mang nhiều kỷ niệm với căn cứ ở lại chọn nơi đây làm quê hương thứ hai cho đến ngày hôm nay.

              Anh bạn cùng khóa bay học tại Hoa Kỳ vào những năm cuối thập niên sáu mươi tên là Ánh, giống như nhiều người khác để vợ và một con lại Việt Nam, anh là người mà ở Việt Nam người ta thường đặt cho cái tên đào hoa phong nhã, người đã điều khiển con chim sắt trên không trung bay lượn ngang dọc một thời chinh chiến để bảo vệ không phận miền Nam nay bị sa cơ thất thế nên phải chịu nhục nhã, nhưng anh cố sống một cách gượng ép cho cuộc đời còn lại. Sau vài năm làm quen với thực tại và ngán ngẩm cuộc sống cô đơn, không còn hy vọng liên lạc với gia đình vợ con từ Việt Nam, nên anh tiếp tục tạo dựng hạnh phúc gia đình nơi xứ lạ quê người. Anh bạn vốn là người mang danh tài sắc đào hoa với chí trai khí phất khi sa cơ vấp phải nên phải khoanh tay mang đầy kinh nghiệm tuổi đời nên làm quen với con gái xứ người rất dễ dàng.

              Một cô gái thuộc dòng dõi qúy tộc Anh Quốc mang tên Linda thùy mị, nết na đôi mắt xanh, mũi cao nước da trắng toát tuyệt vời hình như thắm đượm hạnh phúc mà tạo hóa đã an bày cho đôi uyên ương xứng đôi vừa lứa, nàng đá lông nheo với chàng Phi công Việt Nam đã trải nghiệm trên chiến trường và đời sống gia đình. Đôi uyên ương cơ duyên lại đến, với lứa tuổi nữa đời người không còn yêu cuồng sống vội, tình yêu như một cơn gió thoảng, tựa một áng mây bay không khác một ánh hoa rơi, ngây ngất say sưa nồng nàn trao tặng cho nhau với nỗi niềm khao khát, giống như một vườn hoa thơm ngát rập rờn ông bướm trên cõi thiên đàng, tình yêu đến với nhau trong khoảnh khắc nhưng đã trở thành bổn phận trách nhiệm vợ chồng cùng nhau xây dựng tổ ấm, hai con tim xa lạ người từ phương Đông kẻ từ phương Tây không hẹn hò, giống như duyên nợ trùng phùng nơi xứ lạ quê người chứa chan tràn đầy hạnh phúc.

              Chuyện tình của kẻ thất thế bại trận đựơc chắp nối trong một hoàn cảnh éo le khắc nghiệt nghèo khó dù đã trải qua một thời anh dũng vinh hiển ngoài biên thùy suốt thời chinh chiến kéo dài hàng chục năm trên đất mẹ. Những chiến thắng vẻ vang vinh quang lẫy lừng một thời, đã mờ phai và quên lãng theo thời gian và cuối cùng trở thành kẻ chiến bại thua trận.

              Cặp vợ chồng Mỹ Việt sống hạnh phúc với công việc làm ăn nhàn nhã, chàng làm việc ở một Bệnh viện tại địa phương, nàng ở nhà nội trợ săn sóc con cái, hơn mười năm chung sống cơm lành canh ngọt hạnh phúc đầm ấm gia đình sum vầy, sinh được hai cháu một trai và một gái kháu khỉnh. Thời thế đổi thay, chuyển biến chính trị, thế cờ được xóa đi và sắp lại, chính phủ Hoa Kỳ lại gở bỏ cấm vận và chuẩn bị bang giao với Việt Nam từ những kẻ cựu thù chém giết nhau không gớm tay những thập niên trước, nay lại trở thành những người bạn.

              Vì thế vợ chồng anh Ánh liên lạc được với gia đình ở Việt nam và làm bảo lãnh cho chị Kim Hoa cùng cháu qua Hoa Kỳ đoàn tụ, đầu Thập niên chín mươi chị Kim Hoa cùng cháu trai qua Mỹ theo diện ODP.

              Trong thời chinh chiến chị Kim Hoa đi dạy học taị một trường Tiểu học ở Thị xã Cần Thơ, sau khi Việt cộng chiếm miền Nam không cho chị tiếp tục đi dạy học vì chị thuộc chế độ “Mỹ ngụy” trong những năm không biết tin tức về chồng chết hay sống lại bị đuổi việc thất nghiệp, đời sống kềm kẹp vô phương cứu chữa cho đời sống, chị quyết định bồng con về sống với gia đình quê ngoại, ở một vùng quê cách Thị xã Cần Thơ hàng chục dặm, cuộc sống vất vả hàng ngày chị ra chợ buôn thúng bán bưng chân lấm tay bùn để nuôi con qua ngày tháng, chị không phải đi nuôi chồng vất vả các trại tù cải tạo mà bao nhiêu người vợ lính phải làm, nhưng cũng bị chế độ xã hội chủ nghĩa trả thù đày đọa chui dũi cuộc sống hơn mười lăm năm giống như bị đọa đày, nô lệ.

              Rồi gặp ngày đoàn tụ chị hân hoan sung sướng đón nhận những ngày tươi đẹp, ngày đến Hoa kỳ được sửa soạn và trang điểm lại, gái một con sồn sồn trông mòn con mắt và quyến rũ như cô gái đương Xuân, khuôn mặt thanh tâm và mái tóc uốn lượn mượt mà, óng ả mềm mại như nhung phủ với đôi mắt long lanh ngời sáng xỏa xuống vai uốn éo thật duyên dáng. Khi bước xuống phi trường chị dang hai tay ôm chặt lấy người chồng vào than mình trong cảnh sung sướng nhẹ nhõm vô cùng như vừa trút xong một gánh nặng vô hình với nước mắt rơi ràn rụa trên đôi mắt quen thuộc đã xa cách hơn mười lăm năm.

              Chuyện tình nghiệt ngã và oái ăm vào một mùa xuân vùng Đông Nam Hoa Kỳ khi cảnh vật đang chen nhau đâm chồi trổ lá, khí hậu dịu mát mọi người đang hưởng thanh bình cuộc sống giàu sang phú qúy của dân bản xứ, chị Kim Hoa cùng cháu được hân hoan chào đón ngày hội ngộ và sum họp gia đình. Cuộc vui hội ngộ chưa tàn thì án mạng xảy ra khi biết chị kim Hoa cùng cháu đến Savannah để gặp lại người chồng, người cha, chị Linda muốn trả chồng lại cho chị Kim Hoa, chị Linda viết một bức thư định mệnh tuyệt mạng nhắn nhủ và khuyên răn chồng săn sóc các con và hưởng hạnh phúc gia đình. Chị thanh thản tự tại đến cầu Savannah thuộc Tiểu bang Geogia cầu cao gần 400 Ft vào một buổi sáng định mệnh khi sương mù đang bao phủ của màn đêm, trên cầu xe cộ qua lại lưa thưa, đèn điện vẫn còn sáng bên dưới dòng nước phẳng lặng lấp lánh phản chiếu bởi ánh đèn điện, chị an nhiên tự tại can đảm nhảy xuống cầu tự vẫn, chị đã chọn cái chết để kết liễu cuộc đời, để giải quyết vấn nạn gia đình, để lại hai con, một trai và một gái.

              Câu chuyện náo động gây xôn xao dư luận trong dân chúng các đài Truyền hình và báo chí địa phương đăng tải mấy ngày liền, dân bản xứ cả vùng Đông nam Hoa Kỳ bàng hoàng bàn tán xôn xao băn khoăn và tiếc nuối, rồi lại truyền khẩu nhau thương tiếc chị Linda, một người phụ nữ Hoa Kỳ có tinh thần cao thượng tự trọng và can đảm hy sinh cuộc đời mình để lại hạnh phúc cho chồng, cho con.

              Chị Linda đã tiêu diêu nơi miền cực lạc, kết thúc cuộc đời bởi chuyện tình cao thượng, bởi tình yêu chân thật chị đủ can đảm tự vẫn để nhường chồng cho người khác, cuộc đời mỏng manh vô thường cái sống, cái chết thay đổi từng sát na trong xã hội từ Đông sang Tây có ít người phụ nữ làm được. Chị đã mang thiện cảm nghĩa hiệp bao la vô bờ vô bến cho khối người tỵ nan Việt Nam lúc đó, vì ái tình mà phải hy sinh tính mạng để nhường chỗ cho một người khác, chị là người để lại cho chúng ta mến phục để lại một tiếng thơm vô giá, một tấm gương trong sáng cho người đời vì người chồng, người yêu, người thương mà phải hy sinh tính mạng làm cho người tỵ nạn băn khoan và quý mến, người bản xứ động lòng xót thương, từ dạo đó tên tuổi chị Linda được người đời nhắc nhở và thương tiếc chị đã ngang nhiên tự tại thanh thản bình yên về một thế giới vĩnh hằng vô hình.

              Chúng ta ít thấy một người phụ nữ Tây phương biểu lộ tình yêu và hạnh phúc vì quá yêu say sưa mê mệt và cuồng loạn, trái tim rỉ máu thắm đượm men ái tình nên đã hy sinh. Khi còn ở Việt Nam chúng ta thường nghe những vụ tự tử như lao mình vào xe hơi, treo cổ tuyệt mạng trong những căn nhà nơi xóm vắng, bởi tình yêu ngang trái, đôi khi trở thành khờ dại, điên cuồng thất vọng không có cách nào để tìm đời sống và hạnh phúc chính mình.

              Đấy là những chuyện bồng bột của tuổi trẻ, của những người thiếu tự tin và cảm thấy mất mát về tình yêu không thể tìm kiếm một hình ảnh, một bóng dáng giống như người mình yêu. Ở xã hội Việt Nam xưa cũng như nay cứ nghĩ rằng yêu đương của người Á Đông chúng ta thường xảy ra trong dân gian hay nhắc nhở trong tiểu thuyết là tình yêu sâu sắc, đậm tình đắm đuối hơn là người Tây phương.
              Nhưng khi chúng ta đã lăn lộn đi sâu vào xã hội Tây Phương mới thấy được sự thật và sức mạnh tình yêu của người Tây Phương.

              Chị Kim Hoa cùng cháu từ Việt Nam khi xuống phi phi trường được anh Ánh đón tiếp trong tinh thần chồng cha hơn mươi lăm năm xa cách ngày hội ngộ thật là ngậm ngùi thương mến anh ôm lấy vợ con vào lòng. Cuộc gặp gỡ tái ngộ tràn đầy nước mắt bởi những mong mỏi và ao ước chất chứa lâu ngày đến ngày đoàn viên xúc động để lộ ra không thể giấu giếm, che đậy được tình cảm và nước mắt của mình.

              Khi còn ở Việt Nam chúng ta thường nghĩ tình yêu lứa đôi, tình cảm có chiều sâu vô tận đặt nặng tình yêu về tình cảm bất chấp ngang trái, tuổi tác, nghề nghiệp, cần nhiều thời gian lui tới tìm hiểu nhau phải mất nhiều thời giờ, mất cả vài ba năm có khi vẫn chưa đủ, cho nên dân gian thường có câu tục ngữ “Một túp lều tranh hai quả tim vàng” chỉ cần thương yêu trăm năm hạnh phúc không quản ngại giàu nghèo sang hèn, chỉ biết thương nhau là đủ để xây dựng tổ ấm. Khi ra hải ngoại mới thấy tình yêu của người Tây Phương, chỉ quen nhau vài tháng có thể ăn ở chung đụng với nhau, mặc dù chưa chính thức hôn nhân nhưng sống với nhau xây dựng gia đình tình cảm còn sâu đậm gắn bó chẳng thua kém so với người Á Đông chúng ta.

              Trên đời này chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chẳng qua là một cảm xúc nhất thời, cảm giác này tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh và biến thiên thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời bỏ ta rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư từ từ lắng động, cái đau khổ từ từ nhạt nhòa đi, không nên cứ ôm ấp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình (Tôn Vận Tuyền thủ tướng Đài Loan thư để lại cho các con).

              Anh Ánh mất người vợ Linda còn lại hai cháu một trai và một gái, vợ chồng anh Ánh đã nuôi nấng săn sóc hai cháu, mãi đến năm 2012 cô con gái đầu đã tốt nghiệp Bác Sĩ còn người con trai tốt nghiệp ngành Kỹ sư Điện tử, công ăn việc làm bảo đảm, hai cháu vẫn còn độc thân.

              Anh Ánh cùng vợ là chị Kim Hoa chỉ có một cháu mang từ Việt Nam qua và gia đình hạnh phúc công việc làm ăn cũng khá giả.

              Chiến tranh Việt Nam giữa Nam và Bắc tang thương và đẫm máu đến hồi kết thúc, cuộc chinh chiến kéo dài hai mươi năm bom đạn đã tàn phá và dày xéo đất mẹ, hàng triệu chiến sĩ đã bỏ mình bảo vệ lý tưởng, hàng triệu người dân vô tội đã chết ngoài biển khơi tìm tự do, hàng chục ngàn Quân Cán Chính VNCH bị trả thù giam cầm tù tội, đất biển bị lấn chiếm, gia đình phân tán vợ chồng phân ly đồng bào đói khổ, thiếu cơm thiếu áo, nhà nước vẫn ngang nhiên độc tài cai trị ác nghiệt.

              Phe thắng cuộc phải có bổn phận với Tổ quốc phải chịu trách nhiệm với Lịch sử, bất hạnh thay chiến tranh vẫn không buông tha đất nước, quê hương vẫn tiếp tục chiến tranh không phải bằng súng đạn mà vẫn chiến tranh bắt bớ giam cầm, nhà nước cai trị độc tài Đảng trị bán đất, bán biển cho ngoại bang làm cho đời sống người dân lúc nào cũng hồi hộp, thấp thỏi, phập phồng, lo sợ.

              Tình yêu đối với Dân tộc, tình yêu đối với gia đình, con người cũng có lúc khi lên voi khi xuống chó là chuyện buồn vui khổ đau trong cõi ta bà, con người cố tạo dựng và mong ước cuộc sống hạnh phúc an lạc, tình yêu coi như duyên nợ, thuận duyên gặp diễm phúc, hạnh phúc, nghịch duyên sẽ mang đến khổ đau, dù có than van trách móc số phận vẫn an bài, thôi đành lấy cái nghiệp mà trời đất đã gắn cho mình.

              Đã mang lấy nghiệp vào thân.
              Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

              Truyện Kiều, Nguyễn Du.

              Chuyện tình của một Phi công được viết lại, câu chuyện thật đã xảy ra hơn ba mươi năm theo ký ức của người viết, chuyện đầy thương đau và bất hạnh không chỉ trong giới Không Quân mà ngay cả khối đồng bào tỵ nạn Cộng sản tại Hải ngoại khi nghe đến đều bàng hoàng xúc động thương xót và cảm mến một người phụ nữ Tây Phương đầy dũng cảm có sức mạnh tinh thần vô thường, tự chọn cái chết tự tử để nhường lại hạnh phúc cho người khác thật là câu chuyện hiếm hoi đã xảy ra.

              Câu chuyện oái ăm sau cuộc chiến Nam Bắc của Việt Nam đau thương chưa nguôi ngoai, chưa hàn gắn lại vết thương tất cả đều quy tội bởi chiến tranh. Nếu con người khi đạt được sự hòa bình tuyệt vời và chia sẻ lòng tự do với một tâm hồn quãng đại vị tha nhất, thì Xã hội này không còn ganh tỵ mà lại Hỷ Xả cho nhau bằng tâm hồn vị tha và thương yêu.

              Con người sẽ được tồn tại và phụ thuộc theo định luật vô thường của tạo hóa. Theo thuyết của đạo Phật tự tử cũng là phạm giới một trong năm giới cấm của đạo Phật là sát sanh. Chị Linda kiếp trước đã mắc nợ chị Kim Hoa nên kiếp này chị Linda đã phải trả. Mong rằng thế giới ngày nay mang lại hoà bình và an lạc cho tất cả nhân loại.


              Nguyễn Trà

              https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

              Comment


              • Merry Christmas & Happy New Year

                Merry Christmas & Happy New Year



                Comment


                • Đầu Năm Cười Chút Chơi..

                  Đầu Năm Cười Chút Chơi..






















                  Comment


                  • Hương Tràm Trà Tiên

                    Hương Tràm Trà Tiên
                    hoànglonghải


                    Hình minh họa

                    So với các vùng quê khác ở Miền Tây Nam Bộ, đời sống dân vùng Cái Sắn cao hơn thấy rõ, từ cách sinh hoạt, ngôn ngữ, tôn giáo v.v… tuy bên cạnh đó, có những sự việc, những nhân vật có những hành vi khá đặc biệt, làm cho người dân bất mãn không ít.

                    Sở dĩ họ có đời sống cao là nhờ ba yếu tố: Xã hội, tôn giáo, giáo dục.

                    Về miền Tây, ở những làng mới hình thành trong vài ba trăm năm trở lại đây, vì dân làng là dân lưu tán mới tụ lại, phong tục tập quán chưa định hình, hoàn chỉnh, đó là chưa nói tới cách sinh hoạt và tư tưởng còn hủ lậu, mê tín dị đoan nên có nhiều điều xấu xảy ra.

                    Cái Sắn thì khác. Dân Nam địa phương, có tính ưa cờ bạc là điều đáng chê trách. Tuy nhiên, vùng Cái Sắn trước kia cũng không phải là vùng hoang dã, dân cư thưa thớt, mà lại là vùng làng xã từng hình thành, từng tiếp xúc với hoàn cảnh sống văn hóa cao hơn, nhất là đạo Phật của dân chúng vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá. Dân chúng thờ phượng ông bà, tổ tiên, phật thánh và biết “tu hiền” (Tiếng thường dùng ở địa phương) nên không có gì gọi là hủ lậu. Bên cạnh đó, người di cư từ Bắc vào Nam, trong cuộc hành trình trốn chạy Cộng Sản, họ mang theo cả phong tục, tập quán, lề thói, do tổ tiên xây dựng lâu đời, nên trong đời sống tinh thần, họ có nhiều điểm đáng ca ngợi.

                    Điều đáng lưu ý ở đây là người Bắc biết trọng sự học hơn nên về mặt học vấn, nhìn chung con cái họ có nhiều người thành đạt.

                    Khi thành lập khu dinh điền chính quyền đã không quên mở trường để cho trẻ em được cắp sách đi học. Ban đầu, trường tiểu học được mở ra ở quận, ở xã. Trong mỗi kinh, tương đương với mỗi ấp chỉ có trường sơ cấp.

                    Nhờ dân chúng trong khu dinh điền biết trọng sự học, số lượng học sinh càng ngày càng đông, trường ốc không đủ, các linh mục ở mỗi kinh mở thêm trường tư dạy học. Công việc tiện lợi cả hai mặt. Học sinh không phải đi xa, thường bằng ghe xuồng nguy hiểm, nhà chung thâu học phí. Trẻ em học tiểu học ngay tại kinh, lên trung học mới học ở trường quận hay trường tư ở ngoài trục lộ.

                    Đến đầu thập niên 1970, trường trung học quận đã mở đến cấp ba (Đệ nhị cấp), nhưng chưa có lớp 12, và trong mỗi kinh, như đã nói, mỗi kinh tương đương với mỗi ấp, đã có trường trung học.

                    Trường trung học lâu đời nhất có lẽ là “trường của cha Uyển”, – Linh mục Nguyễn Thượng Uyển ở kinh 6 Rọc Bà Ke, bên cạnh trục lộ Long Xuyên – Rạch Giá. Những học sinh cũ của trường nầy, trước 1975, đã có người tốt nghiệp đại học, hoặc vào quân đội, lon lá lên tới cấp tá, một số là phi công. Sân bay ở quận, nhiều khi bỗng nhiên có máy bay trực thăng đáp xuống: Phi công về thăm nhà. Trước khi đáp xuống, họ cho máy bay lượn quanh nhà. Có nghĩa là họ sắp về thăm. Người nhà đem xuồng ra quận lỵ đón họ về nhà ở trong kinh.

                    Về giáo dục, việc tranh chấp tôi phải phân xử là giữa một người bạn học cũ của tôi, anh Khôi. Tôi biết anh ấy khi anh vào Đại Học Sư Phạm Huế, ban Cấp Tốc (1 năm học) năm 1958. Không rõ do đâu, anh ta được bổ nhiệm về làm hiệu trưởng trường Trung Học Đệ Nhị Cấp Kiên Tân. Một số giáo sư ở đây, nguyên là học sinh cũ của trường, nay tốt nghiệp đại học sư phạm, về dạy trường cũ, không chịu để cho một giáo sư trung học đệ nhất cấp (Sư phạm một năm) làm hiệu trưởng một trường cấp ba. Đó chỉ là lý do họ đưa ra, mục đích là tranh giành chức hiệu trưởng. Mặc dù ngạch trật là điều thiết yếu, nhưng trong ngành giáo dục, nhiều khi người ta trọng những vị lớn tuổi, tuy ngạch trật nhỏ hơn nhưng tuổi tác ngang hàng với thầy dạy của những người trẻ. Có lẽ đó là lý do người bạn tôi được cử giữ chức vụ hiệu trưởng trường nầy. Tuy nhiên, người bạn tôi tốt nghiệp ở Huế, mấy năm trước dạy học ở miền Trung, không phải là thầy dạy trực tiếp của họ nên họ muốn “đảo chánh” ông.

                    Người Nam, đất rộng dân thưa, đời sống dễ dàng, ít chăm lo tới việc học của con cái. Đến khi người Nam người Bắc ở chung, chịu ảnh hưởng lẫn nhau, xã hội càng ngày càng phát triển, học vấn trở thành nhu cầu cần thiết, lần lần ai ai cũng thấy không thể lơ là việc học, phải lo chăm sóc việc học của chúng. Do đó, nhìn chung, việc học ở vùng nầy phát triển nhanh, học sinh các cấp ngày càng đông, trường học ngày càng nhiều, nhất là trường tư, vì chính phủ không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục của dân địa phương.

                    Một điều không hay là các trường học của các cha ở trong kinh là các “ổ trốn quân dịch”. Nhiều thanh niên, không thấy cái trách nhiệm của mình đối với đồng bào, tổ quốc, lại hèn nhát nên thường không thi hành lệnh động viên. Không có công ăn việc làm, họ xin dạy ở các trường của các cha với giá lương rẻ mạt. Các cha thì ham rẻ, vả lại họ là con chiên trong họ đạo của các cha, các cha khó từ chối khi họ xin việc. Thứ nữa, trả lương cho thầy giáo rẻ thì thu học phí rẻ, học trò dễ theo học, chưa kể nhờ rẻ thì sĩ số càng thêm đông.

                    Một hôm, cuộc cảnh sát xã Tân Hiệp bắt một thanh niên tội trốn quân dịch. Anh chàng nầy gặp xui. Thông thường, thanh niên khi trốn quân dịch, họ chỉ quanh quẩn ở trong kinh. Các cơ quan chính quyền, kể cả Cảnh Sát, sợ đụng chạm với các cha nên ít khi “hành quân cảnh sát” trong đó. Từ đầu tới cuối kinh, hầu hết là người Bắc di cư cư ngụ, làm gì có Việt Cộng mà hành quân bắt giữ. Lợi dụng tình trạng đó, mấy ông trốn quân dịch cứ ở riết trong kinh, không ló mặt ra khỏi xã, khỏi ấp là an toàn. Anh chàng bị bắt nói trên vì ham chơi, đi theo một con nhỏ nào đó ra chợ Tân Hiệp uống cà phê.

                    Cha Toàn, chánh xứ họ đạo kinh 3, kiêm hiệu trưởng trường trung học kinh 3 của cha, ra gặp tôi xin trả tự do cho người bị bắt. Anh ta cũng là thầy giáo dạy ở trường của cha Toàn. Để tránh phiền phức, tôi đã cho giải giao anh ta về tiểu khu Kiên Giang. Cha Toàn giận tôi, ông ta bảo: “Thầy giáo của tôi đấy, ông làm sao thì làm.” Tôi thấy bực mình. Tôi chưa truy tố cha về tội “tán trợ bất phục tòng”. Anh ta trốn quân dịch, sao cha dám cho anh ta dạy học ở trường của cha. Vậy mà ông ta còn dọa tôi!?

                    Có điều đáng buồn, ra khỏi khu vực Dinh Điền Cái Sắn, tới xã Mông Thọ sát bên cạnh, việc giáo dục không được phát triển và chăm sóc như vậy.

                    Về tôn giáo, tình hình ở đây khá phức tạp. Đối với đạo Hòa Hảo, việc tu tập của quần chúng tín hữu không có gì đáng nói nhưng với hàng “chức sắc” là cả một vấn đề rắc rối. Tại quận lỵ, tín đồ Hòa Hảo có một ngôi chùa, dân chúng sinh hoạt bình thường, lui tới đông đảo. Những ngày vía lễ, chùa khói hương nghi ngút.

                    Nhưng chức sắc thì chia làm ba phe, phe nào cũng muốn giành ngôi chùa cho mình. Ba phe đó là: Phe ông Lương Trọng Tường, phe ông Lê Quang Liêm, phe ông Lê Trường Sanh. Mấy ông này lập phe ở trung ương của họ, – ở Long Xuyên – Ở Kiên Tân là những người theo phe của ba ông ấy, nổi tiếng nhất là ông Lê Minh Châu, người theo phe ông Lương Trọng Tường.

                    Lê Minh Châu có lần tụ tập phe nhóm của ông đông đảo, rồi “chiếm chùa.” Sợ các phe kia tới chiếm lại, ông cho đem lựu đạn vào chùa “phòng thủ”. Cũng may, việc quăng lựu đạn, giết nhau chưa xảy ra. Các phe kia bị lấy mất chùa, bèn thưa kiện lung tung. Nhờ thiếu tá quận trưởng Huỳnh Đầm Sắn cũng là người theo đạo Hòa Hảo nên ông mời mọi người vào quận đường để dàn xếp. Ba phe thỏa thuận thành lập một “Ban Tế tự”, coi việc thờ phượng trong chùa. Quyền lợi ba phe ngang nhau, không phe nào được chiếm chùa.

                    Tuy vậy, phe Lê Minh Châu thỉnh thoảng lại chiếm chùa để cho bọn trốn quân dịch vào ở trong đó. Dĩ nhiên, tấn công hay lục soát chùa là một vấn đề hết sức phức tạp và dễ bị thưa gởi, cấp trên khiển trách, nên không ai tính tới việc đem lực lượng an ninh kiểm soát chùa.

                    Trong chùa không có giếng nước nên các thanh niên trốn trong chùa phải ra khỏi chùa, băng qua đường cái để xuống kinh lấy nước hoặc tắm rửa. Các Cảnh Sát Đặc Biệt của tôi mặc đồ dân sự, núp ngoài chùa. Tên trốn quân dịch nào ra khỏi chùa đều bị tóm cổ. Bọn trẻ sợ hãi bèn bỏ đi. Việc chiếm chùa của Lê Minh Châu giải quyết xong.

                    Khoảng đầu năm 1974, Hai Ngoán, cánh tay mặt của Lương Trọng Tường thành lập cái gọi là “Tổng Đoàn Bảo An”, là một lực lượng quân sự và chính trị để chống Cộng Sản nhưng không dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của chính phủ trung ương. Người ta đồn phía sau việc thành lập lực lượng nầy có “bàn tay lông lá” – Cũng chỉ là lời đồn đãi.

                    Vài đơn vị Địa Phương Quân gốc giáo phái Hòa Hảo thuộc tiểu khu Long Xuyên, tăng cường hoạt động ở các tỉnh bên cạnh, có lần “đụng trận” báo cáo tổn thất 100%. Thực ra, vũ khí và máy móc truyền tin của các đại đội nầy lén đưa về Long Xuyên để trang bị cho các lực lượng thuộc Tổng Đoàn Bảo An.

                    Tại Kiên Tân, Lê Minh Châu tự ý dựng ngay một tấm bảng trước cổng chùa viết là “Quận Đoàn Bảo An Kiên Tân”. Chính quyền phải khuyến khích các phe phái khác, căn cứ vào bản cam kết việc thành lập ban tế tự để dẹp tấm bảng nầy.

                    Mặc dù có sự chia phe phái như vậy, tín đồ Hòa Hảo họ không theo hẳn phe phái nào.

                    Những người trước kia từng tham gia lực lượng quân đội Hòa Hảo của Ba Cụt, Năm Lửa… mỗi năm họ gặp nhau nhiều lần tại trụ sở Dân Xã Đảng, một ngôi nhà lá nhỏ, đơn sơ, nằm sâu trong một con hẽm kế quận lỵ, để làm lễ giỗ kỵ các vị tướng tá cũ của họ, nay đã qua đời như tướng Ba Cụt, Năm Lửa, Trương Lương Thiện, v.v….

                    Họ dựng tại trụ sở một tấm bảng lớn bằng cở tấm bảng đen ở lớp học, trên đó họ chưng đủ hình các vị chỉ huy cũ của họ trước kia. Bây giờ, hàng năm, họ họp mặt tưởng niệm cấp chỉ huy chứ chẳng có hoạt động quân sự, chính trị nào, không gây phiền nhiễu cho chính quyền. Nhìn họ, những người một thời cầm súng chiến đấu trong lực lượng giáo phái, người ta thấy họ chẳng khác gì những người dân chất phác bình thường của đất Nam Bộ, không một chút gì gọi là “dữ dằn” như báo chí thời Ngô Đình Diệm tuyên truyền về họ. Nói về lý tưởng và công trạng chiến đấu chống thực dân Pháp, chống Việt Minh, họ là những người đáng kính, đáng yêu.

                    Tôi không rõ việc bầu bán dân biểu thời Đệ Nhứt Cộng Hòa ra sao, nhưng thời Đệ Nhị Cộng Hòa, trước cũng như sau khi trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống thì có vẽ tự do đến … lung tung.

                    Trước hết xin nói tới sự ngưỡng mộ của dân chúng trong khu dinh điền đối với cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong số họ, không ít người tin “Ngô Tổng Thống còn sống”, cho rằng nhứt định “Ngài không chết” như dân chúng ở Tam Tòa (Đà Nẵng) đã tin chắc như thế hồi mới đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tuy nhiên, lòng tôn kính cua họ đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm thì còn sâu sắc lắm. Điều đó rất dễ hiểu. Dân chúng trong khu dinh điền bây giờ sung túc, khá giả, con cái được học hành đàng hoàng, .v.v… Công lao đó là của ai, nếu không phải là Tổng thống Ngô Đình Diệm? Ông đề ra chương trình Dinh Điền, Khu Trù Mật, đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng nó, giúp đỡ và giải quyết những khó khăn cho Dinh Điền, lại thường đích thân tới thăm viếng, khuyến khích dân chúng trong Dinh Điền.

                    Người ta có thể thấy việc “Nhớ ơn Ngô Tổng Thống” trong việc trồng hoa vạn thọ. Không hiểu do đâu, bỗng người ta đồn với nhau rằng Ngô Tổng Thống rất thích hoa vạn thọ. Có phải tổng thống thích câu biểu ngữ “Ngô Tổng Thống Muôn Năm”. Vạn thọ cũng có nghĩa là muôn năm. Thời ông Bảo Đại còn làm vua, – làm vua chớ không phải làm quốc trưởng – nhân một dịp “tứ tuần đại khánh” vua hay thái hậu gì đó, bọn học trò lớp đồng ấu chúng tôi được phát quà và tập nói câu “Vạn thọ Vô Cương”. Nghe câu đó, cậu (cha) tôi nói đùa là “Vạn Thọ Vô Cương: Trong xương ngoài nạc”. Vì câu chuyện cũ đó nên tôi bỗng chú ý thấy dân chúng trong kinh, trong sân nhà thờ, nhứt là nhà thờ linh mục Nguyễn Bá Lộc, kinh 1 Cái Sắn, trồng nhiều hoa vạn thọ. Có phải người ta trồng loài hoa nầy để “tưởng nhớ Ngô Tổng thống”? Tổng thống đã qua đời, nhưng hoa vạn thọ thì vẫn còn đó!

                    Không những hoa vạn thọ còn ngoài sân mà ngay trong phòng khách của cha Lộc. Ở đó, còn có một bức hình rất lớn, lồng kính, treo ngay chính giữa phòng. Hình màu, vẽ lại từ một bức hình chụp, chân dung Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tấm hình vẽ đẹp mà tổng thống, khi chụp bức hình nầy cũng còn trẻ và đẹp trai.

                    Lần đầu tiên thấy bức hình nầy, tôi nhớ lại một vài ngày sau khi đảo chánh lật đổ và giết anh em Tổng thống Diệm, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng của tướng Dương Văn Minh ra lệnh hạ hết hình ảnh, tượng đài tổng thống Ngô Đình Diệm ở công viên, trong công sở và ngay cả tại tư gia.

                    Hình như lệnh cấm đó không “phê” (effet) gì tới cứ địa của cha Lộc. Không những thế, tôi còn thấy cha chưng mấy bức hình ông chụp chung với hai ông Tướng Thiệu, Kỳ khi mấy ông nầy “bay” xuống Cái Sắn vận động tranh cử. Hình chụp cha Lộc đứng giữa. Hai ông tướng, một ông là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, một ông thì Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, ông nào cũng mặc đồ lính, lon lá đầy mình đeo sao tùm lum, (ông Kỳ mặc đồ bay), cười toe toét khi đứng bên cạnh cha Lộc. Đó là “Những nụ cười kiếm phiếu.”

                    Xin nhớ rằng đối với đồng bào trong kinh, và cả những đồng bào gốc miền Nam, không phải dân di cư, sống ở đầu kinh (1) hay dọc theo trục lộ, không phải tín đồ đạo Thiên Chúa, họ cũng kính trọng các cha, nói chung, và bỏ phiếu cho ai nếu cha yêu cầu, vận động cho người ấy, giống như con chiên các cha trong kinh vậy, nhứt là cha Lộc, người có uy tín lớn ở Kiên Tân, và thường hay giảng ở nhà thờ, có kèm thêm phần “phụ diễn” nên bỏ phiếu cho ai khi có bầu bán.

                    Thông thường, người đắc cử thường là con chiên của cha.

                    Khi chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa mới hình thành, bầu cử tổng thống, nghị sĩ, dân biểu, v.v… Hồi đó tôi chưa về Cái Sắn nên không biết trong các buổi lễ vào thứ bảy, chủ nhựt, mấy ông cha, sau khi giảng kinh, có “phụ diễn” phần bỏ phiếu cho ai hay không: Liên danh 9 (Thiệu Kỳ), hay Phan Khắc Sửu, Nguyễn Đình Quát… Về thượng viện thì bầu cho liên danh Sư Tử Cầm Bút, Bông Sen hay Bông Huệ… Nhưng ngay từ đó thì người đắc cử dân biểu ở đây là ông Mại, con chiên của cha Lộc nhà ở đầu kinh 2.

                    Thế rồi tới cuộc bầu cử năm 1971, ông Nguyễn Tấn Đời, ông chủ Thần Tài Tín Nghĩa Ngân Hàng thay chỗ ông Mại.

                    Sao kỳ vậy?

                    Có gì kỳ đâu!

                    Ông Nguyễn Tấn Đời đâu phải là tín đồ đạo Thiên Chúa như thông thường những người đắc cử ở đây. Ông Đời cũng không phải là dân địa phương. Hỏi thêm nữa, cha Lộc vận động cho ông Đời ghê lắm, bỏ nhiều công sức cho ông Đời đắc cử.

                    Nếu không có cha Lộc, dân chúng, nhất là đồng bào trong kinh biết ông Đời là ai! Họ làm ăn khá giả, có tiền thì… mua vàng đem cất, chẳng thèm biết ngân hàng là cái gì thì làm sao biết Tín Nghĩa Ngân Hàng hay ông Thần Tài Tín Nghĩa. Trong chiều hướng đó, chắc chắn đồng bào không biết ông Đời là cha căng chú kiết nào để mà bầu ông ta làm đại biểu cho họ ở quốc hội.

                    Tình cờ, một hôm đi công tác ngang nhà ông Mại, tôi vào thăm ông ta. Lúc ấy tôi vẫn không biết tại sao ông Mại, cựu dân biểu, tranh cử lại thua ông Đời, người không phải là dân địa phương.

                    Ông Mại không có một lời than phiền cha Lộc, chỉ nói với tôi một câu: “Thôi đừng nói tới cha Lộc nữa.” Tôi nghĩ ông ta oán cha Lộc lắm. Có gì đâu: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy” như tuc ngữ thường nói vậy thôi! Nhưng tôi biết một việc khá quan trọng: Lúc ấy cha Lộc đang xây lại nhà thờ kinh 1 của cha. Nhà thờ rất lớn. Dĩ nhiên, cha cần phải có tiền!

                    hoànglonghải
                    nguồn:
                    https://vantuyen.net/2014/09/24/hoan...ien-mot-chieu/

                    Comment


                    • Mái Trường Xưa

                      Mái Trường Xưa
                      Nguyễn Trung Nam


                      (Viết lại bài cũ, hy vọng các thế hệ sau biết được lịch sử
                      của một ngôi trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng ở Cần Thơ từ năm 1956).



                      Thiếu úy Nguyễn Văn Độ. Trước sân trại lính Nguyễn Huệ. Năm 1955.

                      Thuở còn cắp sách đến trường, ngôi trường như một mái ấm gia đình thứ hai của tôi. Trải qua bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ hoài đến một ngôi trường tiểu học nhỏ bé, khiêm tốn tại khu Tham Tướng, Cần Thơ.

                      Ngôi trường này đặc biệt trong cuộc đời tôi, vì cha tôi là người sáng lập ra ngôi trường này. Năm 1955, cha mẹ tôi về cư ngụ tại Cần Thơ, cha tôi là chỉ huy trưởng trại lính Nguyễn Huệ. Chức vụ của ông lúc đó là thiếu úy. Thiếu úy Nguyễn Văn Độ.

                      Cha tôi thuở nhỏ không có dịp đi học đến nơi đến chốn vì nhà nghèo giản dị. Nên ông rất trọng sự học. Ông thông minh, hiếu học, lúc ra trường sĩ quan Thủ Đức khóa 5, ông là “thủ khoa” của đại đội.

                      Năm 1956, ông sáng lập ra trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng. Gia đình cha mẹ tôi sống ở trong thành lính này. Khi tôi 5 tuổi, cha tôi dắt tôi đi học trường tiểu học Tham Tướng. Ngôi trường nằm phía sau thành lính, sau lưng nhà cha mẹ tôi. Tôi học từ lớp 5 đến lớp nhất. Ban đầu, ngôi trường chỉ gồm một dãy nhà ngang đơn sơ. Các lớp nằm theo thứ tự từ trái sang phải, lớp 5 đến lớp nhất.

                      Trong sân trường, có những cây bàng to lớn, cành lá xum xuê mát mẻ. Chung quanh trường, nhà cửa còn thưa thớt. Vùng đất bên hông trường còn hoang sơ với những con rạch với đám sậy mọc lên che lối. Có một lần vào ngày hè, tôi thơ thẩn đi trên con đường đất gần trường, khi tới cuối đường thì gặp một cái ao nước. Tôi ngớ ngẩn nhìn những cây cỏ dại mọc vươn lên trên mặt nước trong veo. Tôi nói với thằng bạn: “Chắc là ao cạn, không sâu đâu”.

                      Nói xong bước chân xuống, để rồi…té cái đùng! Ao sâu nên tôi chới với, đưa tay bám đám cỏ khô trên bờ. Cỏ khô đứt từng khúc, tay tôi tuột trôi, thân tôi càng chìm sâu.
                      Tôi la lớn kêu mấy tên bạn đi cùng kéo lên. May quá, tụi nó đưa tay lôi tôi lên bờ. Quần áo ướt nhẹp, tôi không dám về nhà, đành đi lòng vòng cho đến khi quần áo khô mới dám mò về. Một trong những thú vui ngày nhỏ, tôi cùng mấy đứa bạn lang thang trong đám lau sậy, đi tìm những con dế lửa hay dế than thật to, đem về cho các thi đá “dế” với nhau. Xem có con dế nào là “dế vô địch”.

                      Chúng tôi lục lạo trong các lùm cỏ, gốc cây, mong bắt cho bằng được những chú dế nào to nhất. Bắt được rồi, hí hửng đem về nuôi trong hộp quẹt giấy, rồi gặp nhau cho một cuộc chơi đầy hứng khởi. Thả 2 con dế vào trong hộp lớn, kích thích chúng để rồi hồi hộp xem con nào vô địch. Muốn cho khích tướng dế của mình, tôi dùng sợi tóc, xoay xoay vào mặt con dế. Lập tức, con dế dương cao hai cánh cọ xéo tạo ra tiếng kêu rít rít, 2 càng banh rộng, và xông vào đối thủ. Cả hai con chỉ cần một cú là đủ. Con nào thua thì cụp cánh, chạy de ra 1 góc. Kẻ chiến thắng la to vui sướng, kẻ chiến bại tức mình đem dế mình về, rồi lại kiếm con khác.

                      Ngày đó dế rất nhiều, đủ loại khắp nơi. Dĩ nhiên dế nhũi thì bị chê. Không phải là loại để chọi đá. Tết Trung Thu, tôi bắt chước các bạn hái những lá bàng to rồi dùng chính cành khô ghim vài nhánh lá thành một cái lồng đèn. Tùy theo sự khéo tay, chúng tôi có cái lồng đèn tinh xảo hay vụng về. Ở ngoài chợ thì những lồng đèn con cá, con thỏ, ngôi sao bằng giấy kiếng màu với đầy màu sắc treo lủng lẳng trông mà thấy mê nhưng không mấy đứa nào có tiền mà mua. Vì tôi sống biệt lập trong trại lính nên các bạn thân chỉ là những đứa trong các lớp. Năm lớp 4, thằng tôi thân nhất là thằng Tình. Nhà nó trong hẻm 2 trên đường Tạ Thu Thâu. Nó và tôi hay đi chơi với nhau trong những ngày hè.

                      Một hôm, hai đứa tôi vào trong hẻm nhà nó, gặp 3 đứa con gái học chung lớp đang đứng trước nhà lá của một đứa trong nhóm. Thấy 2 đứa tôi, một đứa ngoắc lại gần, rồi chỉ tay xuống đất, nói: “Tụi tao viết tên 2 đứa bây rồi chôn dưới đất nè”. Hồi đó, chúng tôi tin vào những dị đoan như bị “thư yếm”. Nếu tên mình mà bị người khác viết lên giấy xong rồi chôn xuống đất là kể như tiêu đời, chết sớm. Hoặc nếu các ngón tay mà vị nhiều nắp nhăn thì sẽ bị “xui xẻo”. 2 đứa tôi nghe xong hoảng hồn nhìn xuống đất.

                      Khoảng đất nhỏ ướt nhẹp dưới chân con nhỏ. Tôi và thằng Tình vội vã lấy một nhánh cây khô, ngồi xuống đào thật lẹ để tìm cho ra “miếng giấy sinh tử” ấy. Đào chưa được bao lâu, cây gẫy, không thấy gì. Tôi quăng nhánh cây, dùng tay đào và móc. Thằng Tình cũng bắt chước theo. Hai đứa dùng 2 tay móc từng miếng đất. Tự nhiên mấy đứa con gái cười ré lên xong chạy đi. Cái con nhỏ ngoắc tôi lúc đầu, nói lớn trước khi bỏ chạy. “Tụi tao mới đái lên trên chỗ đó, lêu lêu”. Tôi và thằng Tình dở khóc dở cười, vội chạy đi tìm cái lu nước để rửa tay cho sạch. Từ đó, hai đứa tôi sợ quá nên lánh mặt mấy con nhỏ đó.


                      Lớp nhất với thầy Sanh. Trung Nam ngồi hàng đầu thứ nhì từ trái sang. Niên khóa 1965.

                      Trong trí óc thơ ngây, tôi mơ hồ nghĩ về con gái, hình như trời sanh con gái ra để “ăn hiếp” con trai chúng tôi thì phải. Ở trường học, mỗi tháng các học sinh được nhà trường cho uống sữa tập thể. Sữa chỉ là sữa bột pha nước. Do hội Hồng Thập Tự cung cấp. Cả trăm đứa học sinh đứng ngoài sân, sắp hàng để được uống sữa. Tôi không thích sữa bột này tí nào. Ở nhà, khi nào bị cảm bệnh là má tôi không cho ăn cơm, chỉ uống sữa đặc pha nước sôi. Cứ khi nào bệnh là uống sữa cho đến khi lớn. Tôi ghét uống sữa từ dạo đó.

                      Ngày xưa đi học, mỗi đứa xách 1 bình mực vào lớp. Viết chữ bằng ngòi viết lá tre. Trên bàn gỗ có đục một vòng tròn, vừa vặn cho cái bình mực đặt vào. Mấy ngày đầu, còn vụng về khi viết chữ, mực văng ra tùm lum, dính trên tay trên áo, hay trên mặt. Hồi đó học sinh không được dùng viết nguyên tử hay viết bi, vì các các thầy cô quan niệm viết chữ bằng ngòi viết lá tre mới giúp học sinh viết nên chữ đẹp. nét đậm, nét nhạt, nét cứng cỏi hay dây thung. Tựa như viết thư pháp vỡ lòng với bút lông. Viết nguyên tử là thứ bị cấm dùng. Cái bình mực tím và ngòi viết lá tre là bạn thân với tuổi thơ chúng tôi.

                      Đi học tiểu học phải mặc đồng phục. Áo trắng bỏ vào trong quần cọc. Trên cổ quàn khăn quàn xanh. Lên trung học công lập thì thay bằng quần dài, bỏ khăn quàn, nhưng có thêm phù hiệu trường. Trước khi vào lớp, chúng tôi đứng sắp hàng hai trước cửa. Khi bước vào lớp phải trả bài cửu chương. Một tên trưởng lớp đứng trước cửa, chận từng đứa, bắt đọc thật to: “Hai lần một là hai Hai lần hai là bốn Hai lần ba là sáu Hai lần bốn là tám… Đọc cho thật lẹ, đến cuối câu thì kéo một hơi dài cho đúng vần điệu. Xong rồi mới được vào lớp. Đứa nào không thuộc, đứng lại mà ráng “rặn” cho ra.

                      Bắt đầu là số hai, từ từ học cho thuộc lòng bảng cửu chương này tới số 9, cũng theo vần điệu như thế. Cái màn học thuộc bảng cửu chương vậy mà có hiệu quả giúp chúng tôi rất nhiều và lâu dài. Vì khi lớn lên, bài học này đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi, nên mỗi khi làm bài tính nhẩm, giúp chúng tôi giải đáp nhanh chóng. Cuối tháng, học sinh phải kẽ trên 1 trang giấy một bảng khuyên điểm cho từng tháng. Một trang vẽ tùy theo khiếu thẩm mỹ của từng đứa. Có đứa thì cứ theo một kiểu mẩu từ sách vẽ một ô vuông rộng bằng khổ giấy, chính giữa để trống để ghi điểm hạng.

                      Tôi rất thích vẽ vời trang trí công phu. Niềm đam mê học vẽ bắt đầu từ các năm học này. Bắt đầu từ lớp 5, chúng tôi học môn quốc văn, công dân và đức dục (hay là công dân giáo dục), và toán cộng trừ. Lên lớp 4 trở đi, học thêm sử ký, địa lý và tập làm văn. Học quốc văn thì lúc đầu phải học thuộc lòng những bài thơ về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng yêu quê hương, dân tộc Việt. Một trong bài vỡ lòng của lớp 5 như sau:

                      “Hỡi các cậu bé con
                      Đang lúc tuổi còn non
                      Các cậu phải chăm học
                      Có học mới nên khôn”


                      Còn một bài tiêu biểu đạo làm người thì có:

                      “Thấy người hoạn nạn thì thương
                      Thấy người tàn tật lại càng trông nom
                      Thấy người già yếu ốm mòn
                      Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần
                      Trời nào phụ kẻ có nhân
                      Người mà có đức, muôn phần vinh hoa”.


                      Hay bài về lá cờ:

                      “Lá cờ là cờ của ta
                      Công khó ông cha làm ra
                      Cháu con ta gìn giữ lấy
                      Muôn năm nhớ nước non nhà”


                      Bài này về sau được chế ra như sau, cho “hợp tình hợp cảnh”:

                      “Lá cờ là cờ của ta
                      Công khó ông cha làm ra
                      Chúng em hay chào buổi sáng
                      Trong khi lớp nhất kéo cờ”.


                      Về thầy cô thì tôi còn nhớ có 2 cô giáo dạy lớp 3 và lớp nhì. Cô Xiếu Ngó và cô Hảo. Riêng cô Hảo thì tôi còn nhớ hoài về cô. Cô đẹp như một vị thiên thần dưới con mắt tên học trò 8 tuổi lúc bấy giờ. Thân hình cô mảnh khảnh. Gương mặt xinh tươi. Giọng cô trong vắt. Cô luôn tươi cười. Cô đối xử với đám học trò nhẹ nhàng êm dịu. Không thấy cô la mắng la rầy.

                      Tôi nhớ có một lần cô bảo tôi lên văn phòng lấy cho cô ly nước. Khi tôi đem về, cô hỏi tôi có rửa cái ly hay không. Tôi ấp úng nói không, cô chỉ cười nói: “Không rửa ly thì vi trùng vào người cô đó”. Tôi định bào chữa là có tráng ly nước nhưng vì mắc cở quá nên thôi. Khi lớp tổ chức tiệc tất niên vào năm lớp nhì, cô Hảo tuyên bố sẽ thưởng cho học sinh nào ca hay nhất trong lớp. Tôi đã mạnh dạn ra đứng trước lớp hát 1 bài. Bài hát mà tôi rất thích bấy giờ, đó là bài “Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn” của Văn Phụng. Kết quả tôi đoạt giải nhất. Phần thưởng là một viên kẹo mứt mãng cầu. Đó là phần thưởng đầu tiên trong đời học sinh của tôi. Lớp 5 cho đến lớp 3 có nam có nữ. Bên con gái ngồi bên trái. Bên con trai bên tay phải.

                      Ngồi đầu bàn bên con gái có một con bé tên Thúy. Học giỏi nhất bên con gái. Còn tôi học giỏi nhất nhì bên con trai. Tôi hay liếc nhìn con bé Thúy đôi lần. Con bé này đặc biệt lắm. Mái tóc ngang vai. Gương mặt trắng trẻo thông minh. Nhưng con nhỏ nghiêm trang như người lớn, không cười giỡn, không lớn tiếng. Không bao giờ thấy con bé quay xuống lớp để đùa giỡn với bạn. Tôi chú ý đến nó, tôi ganh tỵ nên thi đua ngầm. Lớp học có một cái điều lệ.

                      Cứ vào đầu tháng đứa nào bị điểm thấp thì bị phạt đánh vào bàn tay. Người đánh là đứa có điểm cao. Tôi và con Thúy thường được chọn đứng trên bảng, tay cầm cái thước đánh vào tay đứa bị điểm thấp hay hạnh kiểm xấu. Dĩ nhiên tôi đánh rất nhẹ vào tay bạn mình. Lòng tôi không vui tí nào. Con Thúy chắc cũng có tâm trạng như tôi. Có một ngày gần tới tết Trung Thu, thầy Thanh cầm một phần tư bánh trung thu, thầy đi xuống dưới bàn nói: “Đứa nào nhà nghèo đưa tay lên?”. Tự nhiên tôi nhảy đứng trên ghế, dơ tay thật cao, một điều ai cũng ngạc nhiên (ngay cả tôi cũng không hiểu động cơ nào tôi “mát” như vậy), tôi la lớn: “Dạ thưa thầy nhà con nghèo”. Thầy Thanh cười nói: “Nhà con mà nghèo hả? Thầy biết rành nhà con mà”. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống. Lòng ấm ức không dám nói gì. Những tháng hè, ba tôi cho tôi đi học ở nhà thầy Thanh, cũng là thầy giáo dạy chúng tôi trong trường.

                      Nhà thầy ở trong khu Rạch Bần. Mỗi buổi sáng trước khi đi học, má tôi bắt tôi ăn sáng bằng những củ khoai mì nóng hổi. Có hôm nào sang lắm thì được khúc bánh mì kẹp trứng. Rồi tôi đi bộ đến nhà thầy. Ngôi nhà tranh mộc mạc. Lớp học nằm phía sau căn nhà. Nhỏ xíu chỉ đủ chỗ cho 4, 5 học trò. Nhà nền đất với những bàn ghế gỗ đơn sơ.

                      Sau lưng lớp học là khu vườn cây ăn trái, vườn rau và các mương nước hoang sơ. Cô (vợ thầy Thanh) thường lấy bắp chuối non xắt ra trộn với cám nuôi con heo ục ịch ngoài sân. Giờ ra chơi, tôi cùng bạn ra sau vườn ngồi rình bắt mấy con còng từ trong các khe nước. Một thú vui “tao nhã” của chúng tôi lúc bấy giờ. Thầy Thanh người cao, ốm, hiền lành ít nói. Thầy thương tụi học trò. Hình ảnh thầy như các thầy giáo làng trong truyện “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”. Tận tâm, mẩu mực và thương yêu học trò như con.

                      Lần cuối cùng khi tôi gặp thầy. Thầy đi ngang qua nhà tôi trước trường tiểu học Tham Tướng, thầy đã già, tóc bạc. Tôi chào thầy. Thầy ân cần hỏi tôi đang học lớp mấy.
                      Tôi trả lời đang học lớp 11 Phan Thanh Giản. Thầy cười khen tôi giỏi. Nụ cười hiền lành trên gương mặt. Sau này, tôi ân hận hoài vì tôi không có đến thăm người thầy đã dạy tôi từ tấm bé.

                      Còn cô Xiếu Ngó, sau này cô là giám thị trường Đoàn Thị Điểm. Riêng cô Hảo thì ba tôi cho tôi biết thêm về cô. Cô Hảo có một người anh trai, khi lớn lên đi lính không quân. Anh trai cô khi đi học huấn luyện lái máy bay ở Algeria thì bị tử nạn khi thực tập. Xác được đưa về Việt Nam và quàn tại nhà. Ông được truy thăng thiếu úy. Lúc đó có cái lệ là quân đội thường cử 2 người thiếu úy đứng canh trước quan tài. Một trong hai người đó là ba tôi. Lúc đó ông mới biết và quen cô Hảo. Cô còn học trung học.

                      Sau khi ba tôi về làm việc tại khu Tham Tướng và lập trường tiểu học thì cô Hảo về dạy trường này và tôi là học trò của cô. Cô Hảo sau này trở thành hiệu trưởng trường Thọ Nhơn cho đến năm 75. Cô đã về hưu và hiện nay sống ở Cần Thơ. Cô vẫn sống độc thân.

                      Lên đến lớp nhất thì thầy Sanh dạy lớp tôi. Một lớp 44 đứa con trai. Thầy Sanh người to con mập mạp. Nhưng thầy hiền hòa vui tánh. Nhà thầy bên cạnh khu sân banh. Tôi có đến học tư nhà thầy để chuẩn bị thi vào trung học. Mỗi ngày đến học, khi có giờ nghỉ, tôi hay ra trước lớp học, nhìn ra căn nhà ở phía trước, xem người ta làm bún. Một cảnh tượng đầy thú vị. Trong lớp nhất tôi chú ý đến một tên to con cao lớn trong lớp. Gương mặt nó có nét của “Trư Bát Giới”. Sau này mới biết nhà nó chuyên giết và bán thịt heo.


                      Trường mới ngày nay, đổi tên thành Trường Tiểu Học Trần Quốc Toản.

                      Đứng đầu lớp 5 có tôi và Tuấn (gương mặt nó giống như tên, tuấn tú đỉnh ngộ), ba nó cũng là một sĩ quan. Cuối năm lãnh thưởng, tôi cùng các học sinh giỏi được đứng trong sân trường, trước mặt một bàn đầy phần thưởng, rồi chờ các thầy cô hiệu trưởng trao tận tay, phần đông là tự điển hay sách giáo khoa. Tôi nhớ lúc nhận quà, thầy hiệu trưởng ra lệnh đứng im, hai tay đưa ra nhận quà từ quý thầy cô nhưng phải giữ nguyên tại chỗ để chụp hình. Tôi cầm một lát mỏi tay, trời thì nóng, nắng lên cao, chói lói đỉnh đầu, nên tôi nói với thầy giáo đang trao quà: “Thầy cho con cầm về chỗ ngay nhe?”. Dĩ nhiên thầy từ chối. Tôi đành ấm ức đứng im chịu trận.

                      Vị hiệu trưởng đầu tiên của trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng là thầy Lai. Sau này ông về trường Phan Thanh Giản làm giám thị. Khi tôi học trường Phan, thằng bạn thân lớp 11B2 là Quang ốc tiêu, là con trai của thầy Lai. Chúng tôi thân nhau lắm. Tôi hay tới nhà nó học bài luyện thi Tú Tài 1. Ba má Quang thương tôi vô cùng.

                      (Năm tôi trở lại Cần Thơ năm 2013 để tìm Quang thì biết nó đã chết hơn 20 năm rồi. Quang chết trong sự thất chí, chán đời. Cuộc đời của nó sau năm 75 chỉ toàn là những chua cay thất bại. Thầy Lai cũng mất đã lâu).

                      Cái ngày tôi trở lại Cần Thơ sau 39 năm xa cách, ngẩn ngơ đứng trước căn nhà cũ trên đường Tạ Thu Thâu, nay là đường Mậu Thân. Căn nhà cũ nằm đối diện với trường tiểu học Tham Tướng, bây giờ là một khách sạn 4 tầng Phú Uy, hoàn toàn xa lạ. Còn ngôi trường xưa của tôi nay là trường Trần Quốc Toản. Kiến trúc đồ sộ nguy nga, nhưng không thấy sân trường. Mái trường xưa không còn dấu tích. Cây bàng chắc đã chết từ lâu. Dẫu biết cuộc đời dâu bể đổi thay, nhưng những kỷ niệm của thuở cắp sách đến trường, vẫn không bao giờ phai nhạt.

                      Khi tôi về, tôi đã già. Còn thầy cô ngày xưa ấy, không biết ai còn ai mất?
                      Tôi nhớ đến cô Hảo, cô Xiếu Ngó, thầy Sanh, thầy Thanh… với niềm thương kính khôn nguôi.


                      https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

                      Comment


                      • Mối Tình 30/4/75...

                        Mối Tình 30/4/75 Giữa Chàng Tây Đức Thân Cộng
                        và Nàng Xướng Ngôn Viên Đài Truyền Hình VNCH.



                        Hình minh họa

                        Chàng là một người cộng sản Tây Đức (CHLB Đức) và là một nhà quay phim trẻ, tên là Stephan Köster, 27 tuổi. Anh là thành viên của nhóm sinh viên cộng sản tại thành phố Cologne (Köln) thành lập ra “Ủy ban khởi xướng tăng cường ngành điện ảnh cách mạng Việt Nam” (Initiativkomitee für die Stärkung des revolutionären vietnamesischen Filmwesens), viết tắt là IK.

                        Nhờ thông thạo 6 ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Pháp, và từng có kinh nghiệm tiếp xúc với du kích Nam Mỹ khi sống ở Bolivia, nên Stephan Köster được IK cử sang Sài Gòn.

                        Stephan Köster kể lại: “Vào khoảng đầu tháng 4/1975, các đồng chí của IK từ Hà Nội trở về đã gặp tôi hỏi, liệu tôi có nhận nhiệm vụ đó không?

                        Tôi đồng ý ngay, thế là ngày 26/4/1975 tôi nói dối bố mẹ là đi Tây-Ban-Nha, rồi đáp máy bay đi Bangkok. Tại đây, tôi hầu như là hành khách duy nhất, chẳng còn ai muốn bay về thành phố Sài Gòn đang bị bộ đội Bắc Việt và du kích miền Nam bao vây.

                        Tôi đến miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ bí mật là quay phim cho đài truyền hình Bắc Việt cuộc rút lui của quân đội Mỹ khỏi thành phố Sài Gòn đang bị bao vây và được chứng kiến cuộc chiến. Không có nhà quay phim Bắc Việt nào có thể thực hiện một kế hoạch như vậy, họ sẽ bị bắt và bị tra tấn cho đến chết. Để không bị nghi ngờ, tôi đã ngụy trang như một nhà báo Tây Đức và không mang bất cứ một thứ gì có thể lộ ra rằng tôi là người của Việt Cộng”.

                        Nàng là Đào Thị Ngọc Xuân, xướng ngôn viên của đài truyền hình Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn. Bố mẹ Xuân là chủ một hãng bào chế thuốc Tây tại Sài Gòn. Stephan Köster đã mô tả Xuân bằng ngôn ngữ sặc mùi cộng sản:

                        “Xuân, nàng là người phía bên kia, làm xướng ngôn viên cho đài truyền hình phản động ở Sài Gòn, hình như có lần nàng khiêu vũ với Tướng Westmoreland của Hoa Kỳ.

                        Bố mẹ nàng đã đi di tản bằng trực thăng bay ra tàu sân bay Mỹ, và nghĩ rằng nàng sẽ cùng tôi xuất cảnh. Bà vú nuôi của Xuân kể như vậy qua điện thoại.

                        Dĩ nhiên nàng không hề biết tôi làm việc cho Mặt trận Giải phóng. Xuân hỏi:

                        – Anh làm việc cho ai?

                        Tôi nói dối:

                        – Cho truyền hình Tây Đức.

                        – Em hãy giúp anh!

                        Và tôi quyết tâm sẽ ở lại với nàng nơi đây”.

                        Ngày 28/4/1975 – Tiếng sét ái tình!

                        Ngày 28/4/1975 là ngày định mệnh, lần đầu tiên chàng cộng sản Tây Đức và nàng xướng ngôn viên đài truyền hình VNCH tình cờ gặp nhau tại một tiệm chụp ảnh trong thương xá TAX trên đường Nguyễn Huệ. Chàng Stephan Köster cần chụp ảnh vì khách sạn Caravelle, nơi chàng trú ngụ, đề nghị người nước ngoài phải nộp ảnh để làm giấy tạm trú theo lệnh thiết quân luật. Còn Xuân cần có ảnh để làm thủ tục xin xuất cảnh.

                        Tại tiệm chụp ảnh, Stephan Köster bị thôi miên bởi ánh mắt của một cô gái Việt đang nhìn mình. Xuân có cảm tình ngay với chàng trai Đức đang nói chuyện với chủ tiệm bằng giọng Pháp rất êm. Tiếng sét ái tình!

                        Stephan Köster kể lại: “Câu chuyện của tôi với Việt Nam và câu chuyện một cô gái Việt với tôi bắt đầu bắt đầu trong một tiệm chụp ảnh.

                        Nàng cần một tấm ảnh để xuất cảnh, còn tôi cần một tấm ảnh để ở lại đây. Nàng có một chiếc xe con cóc VW (xe ô tô Volkswagen của Tây Đức) màu trắng và có thời gian rảnh rỗi. Nàng thích giúp tôi quay phim và đồng ý để tôi tự lái xe”.

                        Tối hôm đó (28/4/1975) số ít ỏi phóng viên nước ngoài còn ở khách sạn Caravelle quyết định chuyển sang khách sạn Continental, nơi có đông người phương Tây hơn, để có thể bảo vệ lẫn nhau. Stephan Köster vẫn còn nhớ như in vào đầu đêm khuya hôm đó:

                        “Ngày 28 tháng Tư 1975. Khuya. Tôi đã ở Việt Nam được hai ngày. Vài tiếng súng lác đác ở những con đường Sài Gòn không đèn. Dẫu là lệnh giới nghiêm 24 tiếng đồng hồ. Chúng tôi nằm trong phòng tắm không có cửa sổ để tránh đạn lạc và những mảnh nổ sắc nhọn. Xuân ngồi dậy và dựa lưng vào bồn tắm. Khuôn mặt nàng sưng húp do khóc, không son phấn trông thật lạ. Nàng nói:

                        – Tụi Mỹ bỏ rơi chúng ta.

                        Tôi nghĩ nhưng không nói ra:

                        – Bọn chuột đang tháo chạy khỏi chiếc tàu sắp chìm.

                        Ở cửa phòng tắm tôi đã chuẩn bị sẵn trang bị thoát hiểm. Máy quay phim của tôi, đôi giầy bốt chắc chắn và một gói băng cứu thương. Và cả đôi giày cao gót nhỏ nhắn, cao 10 cm của Xuân. Khi ngủ thiếp đi, tôi thấy những vẻ mặt không tán thành của các đồng chí của tôi ở Tây Đức”.


                        Hình minh họa

                        Ngày 29/4/1975 cả thành phố Sài Gòn thức dậy trong căng thẳng và sợ hãi, những ngày cuối cùng của cuộc chiến ba mươi năm, những ngày đầu tiên của một cuộc cách mạng. “Ngày 30/04/1975 tôi chạy xuống đường kịp lúc việt cộng đang chiếm tòa nhà Hạ Nghị Viện VNCH và hạ lá cờ vàng sọc đỏ. Các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa đã buông súng. Tôi mới ở đây ba ngày rưỡi và cuộc chiến tranh Việt Nam 30 năm đã chấm dứt.

                        Khi đó tôi cũng quay phim Xuân thật ngắn chỉ 4 giây. Nàng là con gái của gia đình tư sản giầu có và bảo thủ phải đối mặt với chính quyền mới như thế nào?

                        Nàng quay sang tôi. Gương mặt cực kỳ hốt hoảng”, Stephan Köster kể.

                        Quay bộ phim “Giải phóng Sài Gòn”.

                        Từ cửa sổ khách sạn Caravelle, nơi trú ngụ đầu tiên khi đến Sài Gòn, Stephan Köster đã quay cảnh đầu tiên cho bộ phim tài liệu về trận đánh Sài Gòn tháng 4/1975.

                        Trong hai tháng ở Sài Gòn, anh ta đã phải cưỡng lại sự thất vọng ê chề về cái-gọi-là cuộc cách mạng của bọn MTGPMN và mối hoài nghi mới nẩy sinh, để quay bộ phim tuyên truyền “Giải phóng Sài Gòn” cho đài truyền hình Bắc Việt. Một phim tường thuật ngây ngô và ngớ ngẩn về cái thắng lợi may mắn của những kẻ xâm lược từ phương bắc, hoàn toàn không đúng với tình hình lịch sử và cũng không đúng với trải nghiệm riêng tư mà anh đã từ từ nhận thấy: “Giờ đây Việt Nam bị chia cắt, không phải về địa lý nữa, mà về tâm hồn và có lẽ sẽ không bao giờ có chuyện hòa hợp giữa hai miền”.

                        Xuân đã phụ giúp anh ta quay bộ phim này. Có lần, trong một bữa ăn sáng, Xuân nói với Stephan Köster:

                        – Em nghĩ rằng anh là một người cộng sản – cộng sản chính cống.

                        Anh ta trả lời:

                        – Đúng vậy, nhưng chỉ khi nào cách mạng Việt Nam hoàn toàn thành công.

                        Các đồng chí nôn nóng của Stephan Köster ở Tây Đức cũng trông chờ bài “tường thuật về thắng lợi” của anh ta. Họ đánh điện tín nói anh ta phải về ngay, họ đang cần tư liệu.

                        Sau khi từ Sài Gòn trở về Tây Đức vào đầu tháng 7 năm 1975, bộ phim tuyên truyền của Stephan Köster đã được hoàn thành đúng hạn.

                        Một bản gửi về Hà Nội, một bản giữ ở Đức. Ngày nay, xem lại phim này, anh ta có cảm giác như đang bị bịt mắt. Stephan Köstler cho biết một trong những nguyên do tại sao hồi đó sau ngày 30/4/1975 anh ta thất vọng não nề:

                        “Không chỉ bởi vì chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương đã không giữ đúng những gì mà chúng ta mong đợi, nên ngày nay tôi cảm thấy nhạt nhẽo vô vị khi nghĩ về công việc tuyên truyền của mình. Có phải đó là sự ảo tưởng chính trị của chúng ta? Người đàn ông với máy quay phim là ai? Điều gì đã xảy ra trong đầu anh ấy và trong tâm trí của những đồng chí của anh ấy? Về những câu hỏi này sẽ không bao giờ có một câu trả lời nhanh chóng. Chỉ nói cho tôi thôi: Tôi quan tâm đến sự ngây ngô của tôi, sự cống hiến của tôi, sự ngạo mạn của tôi và tính cơ hội của tôi. Tôi cảm thấy bất an khi tôi phải làm công việc tuyên truyền.

                        Những tên cán bộ này bỗng từ đâu kéo vào miền Nam VN nhỉ? Đó không phải là những việt cộng mà tôi vẫn yêu. Sự ngạo mạn của chúng sẽ làm hỏng cuộc cách mạng. Trong khi các bậc tiền bối không đeo quân hàm, thì con cháu của chúng phải lớn lên trong các bộ đồng phục với khăn quàng đỏ và đứng nghiêm khi hát. Vậy mà tôi vẫn quay cảnh đó và quyết dùng nó làm cảnh kết thúc hùng tráng cho cuốn phim “Giải phóng Sài Gòn” tường thuật về thắng lợi của cuộc cách mạng. Một nước Việt Nam mới, trẻ trung. HẾT PHIM”. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

                        Trở về lại Tây Đức – Chia ly

                        Stephan Köster và Xuân đã cố gắng làm thủ tục giấy tờ kết hôn tại Sài Gòn, nhưng không được. Xuân thất vọng nói:

                        – Họ sẽ không cho em theo anh về Đức, đó đúng là kiểu cộng sản mà.

                        Anh ta đáp lại:

                        – Họ còn bận nhiều việc khác hơn việc cưới xin cho người khác. Ngay sau cách mạng làm gì có người bình thường nào lại đòi cưới.

                        Stephan Köster còn nhớ lại không khí nặng nề trong thời gian cuối khi sắp rời khỏi Việt Nam:

                        “Việc tôi phải trở về Đức làm cho mọi thứ trở nên vô nghĩa, partir c’est mourir, ra đi là chết trong lòng. Sự bất lực của mọi cử chỉ của tôi, của mọi cố gắng giải thích của tôi. Sự thù nghịch trong lòng tin của nàng. Đôi mắt nàng cảm thấy tôi sẽ phụ bạc nàng.

                        Tôi rời Sài Gòn và Xuân sau hơn 2 tháng ở đó, vào ngày 01/07/1975. Sài Gòn – Vientiane – Bangkok – London”.

                        Các đồng chí cộng sản ở Tây Đức

                        Stephan Köster cảm thấy đầu óc trống rỗng khi nghĩ đến việc gặp lại các đồng chí của mình ở Tây Đức. Công việc chung mà đã gắn bó chúng tôi là cái gì nhỉ? Cái tổng thể bao trùm? Cái tổng thể bao trùm tất cả là sự lạnh lẽo của vũ trụ. Ngồi trên máy bay từ Sài Gòn về Đức, trên trời cao, anh ta nghĩ như vậy.

                        Tổ chức IK ở Colonge (Köln – Tây Đức), tức là “Ủy ban khởi xướng tăng cường nghành điện ảnh cách mạng Việt Nam”, được đảng cộng sản Tây Đức KDP thành lập từ mùa hè năm 1972, đã tổ chức nhiều cuộc quyên góp nhằm trang bị cho cách mạng Việt Nam những thiết bị như máy quay phim truyền hình v.v. Khoảng Tết ta đầu năm 1975 tổ chức IK đã tặng cho đài truyền hình Hà Nội 3 chiếc xe truyền hình lưu động. Sau đó Stephan Köster được IK cử sang Sài Gòn quay phim “Tường thuật về thắng lợi” như đã nêu trên.


                        Hình minh họa

                        “Khi trở lại Tây Đức, tôi bỗng thất đảm: Một kẻ nào đó đã mạo danh tôi viết các bài tường thuật. Trong thời gian tôi đang ở nơi xa xôi tại Sài Gòn, các đồng chí thiếu kiên nhẫn của tôi ở Cologne Tây Đức đã nghĩ ra các bài tường thuật nhân chứng giàu trí tượng tưởng. Họ đem ra đọc như những lá thư của tôi trong các buổi tổ chức lớn mà có cả bố mẹ tôi tham dự và sau đó họ còn đem đăng báo dưới tên của tôi.

                        Để không trừng phạt họ vì sự dối trá này và không làm hại cho tổ chức, tôi không dám kể câu chuyện rối rắm của mình ở Việt Nam nữa, cũng như những mâu thuẫn do sứ mạng của tôi mang tới cho tôi”, Stephan Köster cho biết nguyên do tại sao anh ta “lui về ở ẩn” không còn tích cực hoạt động cho cộng sản nữa.

                        Các "đồng chí" của anh ta ở cái-gọi-là Ủy ban đoàn kết Việt Nam đăng trên báo một bức ảnh hồi thời anh còn hoạt động chung với nhau; nhưng chúng lại đểu cáng xóa hình anh đứng ở ngoài cùng phía bên trái.

                        Rồi mấy tên "đồng chí" của anh cũng cho đăng trên báo bức ảnh về một cuộc hành quyết dã man của Khmer đỏ, kèm theo lời bình xảo trá và trơ trẽn: "Ảnh giả đểu cáng". Mặc dù cả thế giới đều biết rõ tội ác diệt chủng của bọn Polpot là có thật.

                        Với tâm trạng chán chường và thất vọng về lý tưởng mà đã theo đuổi bao năm nay, Stephan Köster băn khoăn tự vấn: “Tôi đã làm việc gì đó vì những lý do chính đáng, nhưng như thế nào đó rốt cuộc kết quả lại sai, tuy nhiên vẫn tốt hơn là chẳng làm gì cả. Nghiền ngẫm vấn đề này sẽ nẩy sinh ra hàng nghìn câu hỏi mới. Bởi vì chúng ta đã hình dung mọi việc quá đơn giản: Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác”. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

                        Phụ bạc – Phản bội

                        Sau khi trở về Tây Đức từ Sài Gòn, Stephan Köster vẫn giữ chặt lấy Xuân, anh ta muốn đón nàng sang châu Âu, đến tháp Eiffel. Anh ta muốn giữ lời hứa. Anh ta đã đến Đại sứ quán Việt Nam ở Đông Berlin xin kết hôn với nàng. “Đồng chí phải kiên nhẫn chờ 1 năm”, tay bí thư đại sứ quán cs nói và ghi chép tất cả.

                        “Tôi chẳng tin chút nào, mọi việc trở nên vô nghĩa. Nhưng tôi không buông tay. Những bức điện tín của tôi gửi đi Sài Gòn đầu tiên là thề thốt yêu đương, tôi khuyên nàng kiên nhẫn. Nàng không tin tôi, nhưng nàng không bỏ cuộc. Nhưng những bức điện tín sau này, lúc đầu là khuyên can và kết thúc bằng sự phản bội. Tôi yêu một người khác”, Stephan Köster thú nhận.

                        Stephan Köster nghĩ rằng Xuân sẽ không bao giờ được cho rời khỏi Việt Nam, và như thế sẽ tốt hơn cho cô ấy. Khi còn ở Sài Gòn, Xuân kể, lúc còn nhỏ nàng đã từng sang Paris và nàng là hậu duệ của vị vua cuối cùng Bảo Đại và muốn tìm hiểu thế giới, thì anh ta bảo nàng là một người mơ mộng và tốt hơn là nàng nên theo cách mạng và tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa.

                        Với một bức điện tín có dụng ý xấu xa là cắt đứt liên lạc với Xuân, Stephan Köster viết: “Từ trong tim, anh tôn trọng quyết định của em ở lại phụng sự tổ quốc. Anh ôm em”.

                        Ngày 28/4/1976 Xuân được cấp visa xuất cảnh sang Pháp

                        Trái với lời tiên tri trên của Stephan Köster, sau một năm Xuân bất ngờ được phép xuất cảnh. Khoảng tháng 5 năm 1976, tình cờ anh ta biết tin Xuân đã sang Paris. Điều đáng ngạc nhiên, Xuân ra phi trường Tân Sơn Nhất lên máy bay rời khỏi Việt Nam vào ngày 28/4/1976, đúng 1 năm sau ngày Xuân và Stephan Köster lần đầu tiên gặp nhau ở Sài gòn (28/4/1975). Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

                        Nhưng việc Xuân được phép xuất cảnh không phải là do đại sứ quán Việt Nam cs ở Đức giữ lời hứa, vì Xuân được xuất cảnh sang Pháp chứ không phải sang Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại Đức không có chút quyền hành hoặc thẩm quyền gì liên quan đến việc Xuân được phép rời Việt Nam để định cư ở nước Pháp.

                        Ngày 28/4/1981 tái ngộ sau 7 năm xa cách

                        Mặc dù biết tin Xuân xuất cảnh sang Paris hồi tháng 5 năm 1976 nhưng mãi đến 6 năm sau hai người mới gặp lại nhau. Stephan Köstler tự bạch:

                        “Ngày 28/4/1982 Việt Nam xa vợi bên kia thế giới, tôi sang Paris thăm Xuân. Nàng kể với tôi qua điện thoại rằng nàng đã trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Tôi chẳng tin chút nào. Hồi đó nàng chẳng phải là đã luôn sống trong một thế giới mộng mơ?


                        Hình minh họa

                        Đến Paris. Quả thật, Xuân có một cửa hàng quần áo mode. Trước ống kính, tôi và nàng đã có cuộc trò chuyện nghiêm túc đầu tiên từ bảy năm qua. Chúng tôi rất vui mừng gặp lại nhau. Và Xuân muốn được xem cuốn phim hai chúng tôi làm hồi đó. Trên màn hình chiếu phim tuyên truyền “Giải phóng Sài Gòn”, Xuân trông thật xinh đẹp trong cơn giận dữ của nàng. Xuân thấy bộ phim đó cũng chẳng hay ho gì. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

                        Xuân đọc cho tôi nghe một đoạn bằng tiếng Việt về cảm tưởng của nàng khi được xuất cảnh rời khỏi Việt Nam. Tôi nói:

                        – Anh chẳng hiểu một từ nào hết!

                        Nàng đáp:

                        – Hồi đó ở Sài Gòn anh cũng quay phim mà có "hiểu" chút gì đâu!

                        Đây là lần đầu tiên nàng chỉ trích tôi.

                        Tôi hỏi:

                        – Hồi đó ở Sài Gòn em có thực sự yêu tôi, hay em chỉ muốn kết hôn với tôi để được giấy phép xuất cảnh?

                        Nàng trả lời một cách nghiêm túc:

                        – Đó sẽ luôn là bí mật của em.”

                        Trường hợp Stephan Köster không phải là trường hợp đơn lẽ, mà là một trường hợp điển hình cho cả những kẻ theo phong trào phản chiến tại CHLB Đức, đươc gọi là “phong trào 68”.

                        Sau ngày 30/4/75 tương tự như Stephan Köster, hầu hết những kẻ phản chiến tại Tây Đức lúc đó đều đã vỡ mộng, tỉnh ngộ, chán chường, thất vọng về cái-gọi-là cuộc cách mạng Việt Nam sau khi nhận ra sự thật chỉ là một sự xâm lăng ăn cướp miền Nam của bọn cộng sản miền bắc, thực chất là bọn tay sai đánh thuê cho khối cộng sản quốc tế Tàu - Nga.

                        Kể từ đó họ giữ một khoảng cách đối với Việt Nam như Stephan Köster: “Sự cúi mình của tôi trước người Việt Nam đã không phải là một sự xích lại gần …Tôi hy vọng có thể nhìn lại Việt Nam, từ trên máy bay, tít trên cao, từ một khoảng cách xa”.


                        - Sài Gòn trong tôi/ netfile21/st
                        - Hiếu Bá Linh compiled
                        - Bài viết của Stephan Köster: https://www.arsenal-berlin.de/…/down...gsbericht.html
                        - “30.4.75- nhìn từ một góc khác” của Tho Nguyen


                        https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
                        Last edited by BachMa; 03-11-2020, 07:25 PM.

                        Comment


                        • 12 Tháng Anh Đi

                          12 Tháng Anh Đi
                          MX Giang Văn Nhân


                          Hình minh họa

                          Đoàn xe quân vận nối đuôi nhau trên quốc lộ 4, bỏ lại sau lưng thị xã Cà Mau với những tà áo dài trắng thướt tha vào lúc tan trường. Trên xe vài anh lính quân phục màu sóng biển dùng hai ngón tay đưa vào miệng làm còi trêu đùa, các cô gái miền Nam hồn nhiên nở nụ cười, cùng giơ tay vẫy chào. Trung tuần tháng 5 năm 1970, Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho quân Kiến Văn, hoạt động bảo vệ Liên Tỉnh Lộ 30 từ ngã ba Giáo Đức đi về Cao Lãnh. Cả bốn đại đội hàng ngày lưu động, lục soát rộng trong vùng trách nhiệm với nhiều mìn bẫy.

                          Tuần lễ sau thì được lệnh di chuyển về Cần Thơ, rồi Chương Thiện, tại đây cả tiểu đoàn được trực thăng vận xuống quận Cái Nước tỉnh Cà Mau. Tiểu đoàn chạm địch, Tiểu Đoàn Phó điều động hai đại đội tiếp ứng cho đơn vị bạn, tảo thanh truy lùng thành phần thuộc đơn vị chủ lực miền thì được lệnh tìm bãi đáp và trực thăng bốc toàn bộ về phi trường Quản Long. Tại đây các sĩ quan nhận bản đồ và lộ trình phải di chuyển gấp đến Châu Đốc. Đoàn xe qua thị xã Bạc Liêu khi thành phố đã lên đèn.

                          Đến Sóc Trăng, rồi ngã bảy Phụng Hiệp, gió đồng nội mát lạnh, sự mệt nhọc làm các anh ngủ gật gù trên xe. Trên khoảng đường từ Cầu Trắng qua Ngã Ba Cái Tắc, khu vực nhà máy xay lúa gần kinh So Đũa, mọi người được đánh thức, tỉnh táo, trong tư thế sẵn sàng tác chiến vì đây là khu vực cần phải cẩn thận. Ban đêm sự hoạt động cũng như tầm quan sát của các đơn vị bạn bị hạn chế, không có phi cơ bao vùng, chỉ khi nào lâm trận thì sẽ có Hỏa Long tiếp ứng. Tới Cần Thơ theo Liên Tỉnh Lộ 27 qua Ô Môn (Phong Phú) , Thốt Nốt rồi vào Long Xuyên. Đoàn xe tẽ qua Liên Tỉnh Lộ 10 rồi thẳng đường đến Châu Đốc vào lúc 8 giờ sáng. Đường lộ trên thế đất đắp cao, nhà sàn dọc hai bên, đất trũng thấp. Mùa khô, bên dưới là chuồng gia súc, vào mùa nước nổi từ Biển Hồ Cao Miên đổ xuống, nước sẽ ngập lấp xấp. Một tấm ván vững chắc bắc làm cầu từ mé đường vào nhà.

                          Hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc có cuộc sống an bình, không một ai theo Cộng Sản có thể được tồn tại trong vùng đất của đạo Hòa Hảo. Mọi người được một ngày rảnh rổi, giũ sạch bụi đường bên bờ sông Hậu Giang. Sông Mékong mang đất phù sa màu mỡ từ thượng nguồn Tây Tạng, xuyên qua Trung Quốc, Lào, Cam Bốt rồi vào Việt Nam. Mùa này người dân dùng cái vợt to (nhà nào cũng có) bằng kim loại để cào ốc gạo lẫn lộn trong cát dưới lòng sông. Đặc biệt là tháng này cá rô phi tập trung về Biển Hồ đẻ trứng, cá con mới nở theo dòng nước trôi về Châu Đốc.

                          Sau khi giỡ đáy, cá được chứa trong thùng và đem về nhà. Cá được san qua những chậu nước to, người dân dùng vợt vải, lựa cá rô phi để riêng ra rồi bán cho mối lái. Cá Rô Phi được bán cho các tỉnh khác của miền Nam và giá cả tùy theo kích thước của nó. Nếu cá con không được vớt bắt ở đây, thì sẽ trở thành nguồn thực phẩm cho các loài cá khác trong đồng bằng. Ở tạm trên căn nhà sàn, Thảo được chủ nhà cho biết là lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam vào mấy ngày hôm trước. Hàng năm cứ đến khoảng thời gian từ ngày 23 đến 27 Tháng Tư âm lịch là dân chúng tứ xứ đổ xô về Châu Đốc, đoạn đường dài năm cây số từ thị xã đến núi Sam chật cứng người và xe cộ đủ loại. Tương truyền Bà rất linh thiêng, những bạn hàng thường đến xin lộc, khi thành công họ trở lại cảm tạ thật hậu hỷ. Lễ Vía chính thức vào nửa đêm 25 rạng 26 âm lịch và lễ hội kết thúc vào chiều ngày 27. Tuy vậy thị xã Châu Đốc vẫn còn nhộn nhịp khách thập phương.

                          Thảo cùng một số anh em đến xem cho biết, mở rộng kiến thức, dù muộn màng nhưng đây là dịp may hiếm hoi, trùng hợp với sự hiện diện của đơn vị tổng trừ bị TQLC . Dọc theo bờ sông có bến đò mà bên kia bờ là xã Châu Giang. Sống ở thành phố nhất là Sàigòn thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, ít nhất ai cũng một lần trông thấy những người có nước da ngâm ngâm đen, đến từng nhà rao bán vải lụa “Satin”. Loại vải này bóng láng ở mặt trên và thô mờ mặt dưới,đặc biệt là “Lãnh Mỹ A” một loại satin được nhuộm từ vỏ cây mặc nưa trồng tại Tân Châu. Những người bán thường kéo căng vải ra thật mạnh, cho thấy độ bền chắc đôi khi co dãn do đặc tính của loại tơ tầm. Họ bằng lòng bán chịu, có nghĩa là họ sẽ trở lại nhận tiền vài tháng sau. Người dân thường cho rằng họ có tài ăn nói do “Ngải”, và bùa “Thư” nếu ai đó mua và quịt tiền không trả.

                          Với suy nghĩ đó, sau khi đồng ý giá cả, người mua trả tiền ngay. Hầu hết không ai muốn mắc nợ, nhất là dính líu đến người Chà Châu Giang xa lạ, tiềm ẩn nhiều nét thần bí. Đối diện với nhà lồng chợ lúc chập tối, một quán nhỏ có nhiều thực khách vây quanh, đến gần mới biết những người này đang chờ đợi ổ bánh mì nướng dòn thơm phức nhét đầy thịt jambon từ tay hai cô gái trắng trẻo và trẻ đẹp.

                          Có lẽ biết chúng tôi lần đầu tiên đến đây, hai cô nở nụ cười: - Mời các anh bánh mì đặc biệt ở đây. Lúc trao bánh, hai cô còn dặn dò: - Nếu có dịp, xin mời các anh ghé lại. Thảo và mấy anh em thưởng thức bánh mì, nhìn bảng hiệu Luyến Lưu, nhớ lại lời nói của hai cô gái mỹ miều, mà thầm hiểu ý nghĩa của tên quán. Ngày mai chúng mình lên đường qua Cam Bốt và biết bao giờ có dịp trở lại để được thưởng thức hương vị bánh mì thịt nguội này nữa. Người lính tổng trừ bị miệt mài nơi chiến trận, bước chân in dấu trên bốn vùng chiến thuật, đã chọn màu áo sóng biển, đội mũ beret xanh là chấp nhận tất cả. Có những mộng mơ mà đường hành quân đơm hoa kết trái, ngược lại có những mối tình tàn phai theo năm tháng đợi chờ.

                          Thảo nhớ đã có dịp đọc được trong tạp chí Khởi Hành bài thơ “Tường Trình Cho Em” của anh Phạm Văn Bình. Lời thơ đã diễn tả đúng tâm trạng và thể hiện hình ảnh cuộc sống của người lính TQLC. Hành trang chỉ vỏn vẹn cái ba lô, lúc trên rừng núi cao, khi thì vùng sình lầy nước đọng, khắp mọi nơi đâu cũng là nhà, lẽ sống là đem sự an bình cho người dân, tâm hồn vương vấn theo vạn nẻo đường. Năm 1959, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cắt băng khánh thành đường xe lửa Sàigòn thông suốt tới Đông Hà, sau bao năm bị VC phá hoại. Hướng Tây QL1 là đồi nhấp nhô nối liền với dãy Trường Sơn, đất khô cằn sỏi đá. Hướng Đông là cồn cát xen lẫn cánh đồng lúa trải rộng ra biển. Chính nơi đây anh Phạm Văn Bình đã mở mắt chào đời. Tuy hoàn cảnh khắc nghiệt, cuộc sống lam lũ nhưng tuổi thơ được đến trường, vì đó chính là niềm vui và mong ước của cha mẹ.

                          Thời gian đó Đông Hà là một thị trấn nhỏ, nên sau khi xong Tiểu Học phải vào học tiếp ở Quảng Trị. Hoàn cảnh gia đình không có đủ tài chánh cho việc ở trọ, mỗi ngày anh Bình phải đạp xe vô Quảng Trị cách nhau trên 15 cây số, và buổi chiều thì ngược lại.

                          Thật khó khăn với cơn gió Lào nóng rát khi mùa Hè đến, lúc sang Đông mưa rỉ rả không dứt hột, dai dẳng ngày này qua ngày khác, mưa phùn gió bấc, lạnh buốt từ trong cơ thể. Thức dậy thật sớm từ 5 giờ sáng, một giờ sau rời nhà mang theo mo cơm có cá khô và vài con tép do mẹ bới, hôm nào bán ế, mẹ cho cơm và gói muối mè nhỏ. Thương con Mẹ buôn bán tảo tần, dành dụm cho tương lai con trẻ, đến lớp đệ tam anh được Mẹ cho trọ học ở Quảng Trị, trường trung học Nguyễn Hoàng, sau đó trường Quốc Học và Đại Học Văn Khoa Huế. Cộng Sản phá tan cảnh thanh bình, mở rộng chiến tranh, bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản, bao nhiêu nhân lực cùng vũ khí ồ ạt đưa vào Nam, gieo đau thương tang tóc.

                          Cuối năm 1966, anh lên đường, rời xa hơn nữa nơi chôn nhau cắt rún, từ giã Mẹ hiền, gia nhập khóa 24 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Chín tháng mồ hôi hòa lẫn đất cát ở thao trường, bầu nhiệt huyết được nung sôi muốn vỡ tràn dưới nắng Hè đồi Tăng Nhơn Phú, anh chững chạc bước hiên ngang theo nhịp quân hành trong Thủy Quân Lục ChiếN VN buổi lễ tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1967.

                          Anh được bổ sung về binh chủng TQLC, phục vụ ở Phòng Tâm Lý Chiến, phụ trách thông tin và báo chí. Bên cạnh có anh Hoàng Đại Long (Khóa 23 đàn anh), hàng ngày theo dõi tình hình chiến sự của các đơn vị hành quân để phổ biến cho các hảng thông tấn, đặc biệt phụ trách chương trình phát thanh mỗi tuần của Sư Đoàn TQLC trên Đài Phát Thanh Quân Đội với thời lượng ba mươi phút.

                          Anh còn viết bài phóng sự về các đơn vị, phỏng vấn các chiến sĩ xuất sắc được đơn vị đề cử. Anh cũng là thư ký tòa soạn cho Đặc San Sóng Thần mà Tư Lệnh Sư Đoàn là Chủ Nhiệm, Trưởng Khối Chiến Tranh Chánh Trị là Chủ Bút. Thỉnh thoảng anh được đề cử tháp tùng theo các cuộc hành quân, làm phóng viên chiến trường tại các mặt trận nóng bỏng như Tết Mậu Thân ở Huế, cuộc hành quân ở Cà Mau gần cuối năm 1968, hay chiến trường Cam Bốt năm 1970.

                          Chính sau những lần tham dự này anh đã sáng tác bài thơ “Tường Trình Cho Em” . Khi có người tò mò hỏi động lực nào giúp anh có những vần thơ mà người đọc cảm giác thấy được những hình ảnh (Họa trung hữu Thi) sống thực đó trước mặt. Giọng từ tốn anh cho biết: - Bài thơ “Tường Trình Cho Em” đã được đăng trên tạp chí Khởi Hành, viết được bài thơ đó do tôi nghĩ và tôi đã tham dự.

                          Người lính Tổng Trừ Bị TQLC quanh năm từ tháng Giêng cho đến tháng Chạp khi nào cũng đi hành quân với ba lô, súng đạn ở trên vai, hết vùng này đến vùng khác, bốn vùng chiến thuật khi nào cũng có mặt TQLC cả, do đó tôi xúc động, và lấy hứng khởi làm bài thơ mà Phạm Duy đã phổ nhạc đổi lại là “Mười Hai Tháng Anh Đi”, và có cái tên nữa là “Hành Trình của anh TQLC” Sau cuộc hành quân Cam Bốt, Tiểu Đoàn 3 TQLC về dưỡng quân ở Vũng Tàu, rồi lên đường ra Quảng Trị. Từng tiểu đoàn, rồi lữ đoàn, kể từ đó vùng trách nhiệm giao các Lữ Đoàn TQLC bao gồm căn cứ hỏa lực A2 Dốc Miếu, A4 Cồn Thiên, C1, C2 từ sông Bến Hải và Động Toán, Ba Ho, Holcomb dọc theo thung lũng Ba Lòng. Năm 1971 Sư Đoàn TQLC tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua Hạ Lào,

                          Năm 1972 toàn bộ Sư Đoàn TQLC di chuyển ra Huế trong cuộc chiến phòng thủ bảo vệ phòng tuyến Mỹ Chánh, và phản công chiếm lại Quảng Trị. Sau Hiệp Định Ba Lê 1973, TQLC trở thành đơn vị diện địa, đóng chốt đối diện ngày đêm với địch. Những quân nhân bổ sung về Binh Chủng sau năm 1973 khi nghe bản nhạc “Mười Hai Tháng Anh Đi” tưởng chừng như một huyền thoại.

                          Còn đâu nữa bước chân ngang dọc của người lính Tổng Trừ Bị. Đôi khi chợt nghe giọng ca thánh thót của người ca sĩ, Thảo mường tượng những vùng đất đã đi qua từ cuối năm 1967: Bình Định, Sàigòn, Cần Thơ, Tây Ninh, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Gò Dầu Hạ, Kiến Phong, Kiến Hòa, Mỹ Tho, Rạch Giá Chương Thiện, Cà Mau, Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Biên Hòa, Bến Cỏ Phú Hòa Đông, Bến Lức Lương Hòa Thượng, Phước Tuy, Long Khánh Kế Sách Ba Xuyên, Châu Đốc, Cam Bốt, Hạ Lào, Cùng các mật khu, và cuối cùng chôn chân tại Quảng Trị, Thừa Thiên tới ngày bị bức tử.

                          Tình cờ gặp anh Bình trong ngày Đại Hội TQLC tại San Jose 2010, và Dallas 2011, được biết thêm thơ văn của anh đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Quần Chúng, Tuổi Ngọc và Ngàn Khơi. Anh đã cùng với Phạm Lê Phan xuất bản thơ “ Chiến Ca Mùa Hè” cũng do Phạm Duy phổ nhạc.

                          Xuất bản chung tập truyện ngắn ‘Dòng Sông Trước Mặt” với nhà văn Song Linh, Trần Ngọc Toàn và Huỳnh Văn Phú. Tuyển tập truyện ngắn “Lối Xưa Thiên Đường” đã được Tuổi Ngọc ấn loát và phát hành. Tháng 4/1975, anh bị đi tù 7 năm, 2 năm ở miền Nam và 5 cuốn lịch ở miền Bắc, Tháng Giêng năm 1997, được định cư tại Hoa Kỳ. Anh dự định sẽ xuất bản tập thơ “Lối Xưa Thiên Đường” và sau đó là tuyển tập thơ nhạc lấy tên là “Khi Hoa Xương Rồng Nở” gồm có 12 tình tự khúc, và những bài thơ đã đăng trước và sau năm 1975.

                          Trong ngày Tiền Đại Hội ở Dallas 2011, do lời yêu cầu một phu nhân của TQLC hát bản nhạc “Chuyện Tình Buồn” do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ của anh, quá bất ngờ không chuẩn bị trước, chị lúng túng trên sân khấu vì chỉ nhớ một ít lời ca. May mắn được anh Bình chép lại nguyên văn bài thơ đó. Các động tác và đối thoại rất tự nhiên của chị và anh Bình làm những người có mặt trong hội trường ngỡ rằng đây là hoạt kịch ngắn, tiếng ca vừa dứt, tiếng vổ tay tán thưởng nhiệt liệt.

                          Năm năm rồi không gặp
                          Từ khi em lấy chồng
                          Anh dặm trường mê mải
                          Ðời chia như nhánh sông
                          Năm năm rồi trở lại
                          Một màu tang ngút trời
                          Thương người em năm cũ
                          Thương góa phụ bên song...


                          Bài thơ gói ghém kỷ niệm mối tình đầu của anh, vì không cùng chung một tôn giáo, người con gái đã lên xe hoa về nhà chồng, một người bạn học cùng trường. Chuông giáo đường thánh thót giờ hôn lễ, Chúa kết hợp hai tâm hồn làm một (mà loài người không thể phân chia). Anh cuộn mình trong chăn như trốn chạy, mắt nhìn khoảng tối, tai chỉ còn nghe tiếng thở của chính mình cùng sự thổn thức con tim.

                          Nghe tin người bạn cùng trường đã hy sinh vì tổ quốc, anh tìm đến để tiễn biệt, nhìn những vành khăn tang trắng của gia quyến, anh bồi hồi cảm xúc qua vần thơ”Chuyện Tình Buồn”. Lời ca “Mười Hai Tháng Anh Đi” từ bài thơ “Tường Trình Cho Em” của anh làm sống lại hình ảnh người lính Tổng Trừ Bị TQLC, hy sinh tuổi đời trai trẻ và hạnh phúc riêng tư cho quê hương.

                          Trước mặt các anh là rừng sâu núi thẳm, sình lầy muỗi đỉa, từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau mà kẻ thù hung hãn giựt mìn, pháo kích, sát hại dân lành, phá hoại cảnh thanh bình. Các anh tiến tới, bảo vệ phía sau cuộc sống an vui, nhộn nhịp, ánh đèn tỏa sáng khắp phố thị. Thời chinh chiến, có mấy ai biết chắc chắn khi ra đi sẽ có ngày trở lại!

                          Cám ơn các anh, kính cẩn tri ân những chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương tự do, những Thuơng Phế Binh đã để lại máu và phần thân thể của mình trên khắp nẻo đường hành quân.

                          MX Giang Văn Nhân
                          Trích hồi ký “Người Lính Tổng Trừ Bị”

                          https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

                          Comment


                          • Những Anh Hùng Vô Danh

                            Những Anh Hùng Vô Danh
                            Trường Sơn Lê Xuân Nhị


                            Hình minh họa

                            “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.

                            Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 555, chiều đại yến với la-de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp khác thì hết một đời trai.

                            Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười. Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ. Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được”.

                            Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng,. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà. Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí. Hậu sinh…. chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. này nhé, ở nhà với vợ, có chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải “báo cáo” đầy đủ.

                            Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa… bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ… mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi.

                            Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú. Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v. Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.

                            – Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi. Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất…văn học chút nào hết.

                            Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
                            Đời hết vui khi đã vẹn câu thề


                            Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:

                            – Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.

                            Anh Ngọc dễ dãi:

                            – Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.

                            Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành…. Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích….., ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp.

                            Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ. Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.


                            Hình minh họa

                            Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn… bà xã cho được việc”, một giọng càu nhàu cất lên. Lại có giọng khác hăm dọa ” ngày mai tao phải “phản đấu”mới được.

                            Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon. Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm “Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết..”. Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi…

                            Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

                            Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết.

                            Mãnh lực nào. sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người linh bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo.

                            Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước.

                            Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu” yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả. Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.

                            Có Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:

                            – Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?

                            Nó đáp tỉnh queo:

                            – Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.

                            Tôi suýt bật cười. Đúng là lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu:

                            – Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.

                            Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, On chửi thề:

                            – Đ.. M.. mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.

                            Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người qủa thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không còn “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương.

                            Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… lì đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được.

                            Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết.

                            Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau “everybody loves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh ”Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày.”

                            Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột.

                            Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi ”duy trì khả năng” bắn rocket. “duy trì khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy trì khả năng” cho khỏi quên. Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó.

                            Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. “G” đâu mà lắm thế, mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn.

                            Nhiều khi anh còn nhìn “tác phẩm” của tôi phê bình “Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc”. Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc:

                            – Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó “duy trì khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.

                            Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:

                            – Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.

                            Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:

                            – Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?

                            Tôi chả biết gì, trả lời:

                            – Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?

                            – Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.

                            Tôi nói xuôi:

                            – Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.

                            Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.

                            – Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.

                            Chỉ một thoáng sau anh la lên:

                            – Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.

                            Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: ”15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy..” vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:

                            – Trên trời mà phòng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay. Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt,

                            Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời.

                            Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề “Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.” Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên “súng đâu mà chúng nó lắm thế” Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này.

                            Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn.

                            Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”. Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:

                            – Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Têt cũng huề.

                            – Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.

                            – Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ – Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn….

                            Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:

                            – Bạch Ưng, đây Thanh Trị.

                            – Nghe 5 bạn

                            – Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

                            Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào.

                            Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế…chết người.

                            – Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải “chiến tranh chính trị” mới được. – Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi…chiến tranh chính trị anh?

                            Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.

                            – Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là…có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.

                            – Xong rồi.

                            Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:

                            – Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.

                            Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:

                            – Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói ngay:

                            – Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi em.


                            Hình minh họa

                            Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”.

                            Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng?

                            Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:

                            – Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó…bỏ bomb thấy mẹ mày.

                            Tức quá mà không làm gì được thì…chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:

                            – Thạnh Trị, đây Bạch Ưng.

                            – Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.

                            – Có sao không bạn?

                            – Không, mấy * chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy * Tây đánh đẹp lắm.

                            – Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.

                            – Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.

                            – Tôi hiểu bạn.

                            Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc. – Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra…. – Ờ, may ra….

                            Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết * chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.

                            – Thạnh Trị, đây Bạch ưng.

                            – Nghe bạn 5.

                            – Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?

                            – Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.

                            – OK! Roll.

                            Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu.


                            Hình minh họa

                            Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:

                            – Bạch ưng, đây Thạnh Trị.

                            – Nghe 5 bạn
                            – Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.

                            – Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.

                            – Bạn…

                            Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:

                            – Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ “over run” Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.Tôi đổi tần số FM, anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:

                            – Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp…dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:

                            – Bạch ưng, đây Thạnh trị.

                            – Nghe bạn 5.

                            – Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang “à lát xô” lên.

                            Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.

                            – Tụi nó đông như kiến bạn ơi.

                            – Còn phải hỏi.

                            Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân “TTHQ” thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi: Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận. Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào..

                            Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ “briefing” một tí, mấy ông “Roger” và “Sir”lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:

                            – Bạch ưng, đây Thạnh trị.

                            Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.

                            Anh Ngọc bấm máy:

                            – Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.

                            – Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.

                            Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe…lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:

                            – Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.

                            – Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?

                            – Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.

                            – Bạn suy nghĩ kỹ chưa?

                            – Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:

                            – Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn…

                            Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa.

                            Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận. “Cẩn thận con C… ông” anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:

                            – Roger! Sir, Did you say…right on it? Over.

                            – Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over.

                            – Roger, sir, I understood, sir, Over.

                            Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hung này.

                            Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.

                            Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa ” Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc…

                            Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời?


                            Hình minh họa

                            Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, “Tử biệt sinh ly” câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.

                            Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:

                            – Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

                            Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:

                            – Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

                            Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.

                            – Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.

                            – Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.

                            Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng.

                            Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.

                            Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua.

                            Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.

                            Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính…âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không “truyền thống, binh chủng” không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người.

                            Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin “cho nó nổ trên đầu tôi”. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi” Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả….

                            Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc long tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:

                            Họ là kẻ khi quê hương chuyển động; Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng? Đã xông vào khói lửa quyết liều thân? Để bảo vệ tự do cho tổ quốc? Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc? Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan? Người thất cơ đành thịt nát xương tan? Những kẻ sống lòng son không biến chuyển? Tuy tên họ không ghi trong sử sách? Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên? Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên? Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật? Nhưng máu họ đã len vào mạch đất? Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông? Và linh hồn chung với tấm tình trung? Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

                            Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh. Các anh chính là những “Anh Hùng Vô Danh”. Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ!!!


                            Trường Sơn Lê Xuân Nhị

                            https://www.facebook.com/groups/6443...6119692507186/

                            Comment


                            • Ti Vi chạy đầy đường..

                              Chuyện dài sau 30 tháng 4/1975..



                              Sau 30/4/75, anh bộ đội đứng bên cạnh chiếc xe đạp thồ
                              (phương tiện vận chuyển thời Pháp thuộc) nói:

                              "..Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi Ti Vi chạy đầy đường,
                              cà rem ăn không hết phải đem phơi khô,
                              uống toàn sữa ngoại như sữa Honda, Suzuki.."
                              kinh chưa...


                              Last edited by BachMa; 05-21-2020, 09:27 PM.

                              Comment


                              • Tự Tử Đi Anh Em! Tao Không Đầu Hàng!

                                “Tự Tử Đi Anh Em! Tao Không Đầu Hàng!”
                                (Hào Kiệt Phương Nam) Những Chiến Sĩ Anh Hùng của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH
                                Tự sát chứ không đầu hàng giặc (30/ 04/ 1975)


                                Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
                                Song, ‘Hào Kiệt’ thời nào cũng có

                                (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi)

                                ---oo0oo---


                                Hình minh họa

                                Sáng sớm ngày 29 tháng 4, 1975, chúng tôi tiếp tục công việc như mọi ngày nhưng trong lòng nôn nao khôn tả. Từng đoàn dân chúng hoặc quân nhân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh ào ạt kéo về hướng Sài Gòn, chúng tôi kêu gọi họ ở lại tiếp sức trấn giữ cây cầu nầy nhưng họ nói là được lệnh về bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.

                                Còn căn cứ Giang Thuyền của Hải Quân tại bờ sông Đồng Nai cạnh cây cầu nầy ngày hôm qua còn có bóng người thấp thoáng, đến hôm nay sao im vắng như vậy? Dưới sông còn mấy chiếc giang đỉnh nằm yên trên sóng nước lăn tăn dưới làn gió nhẹ.

                                Anh em tôi kéo đến hỏi ý kiến Trung Sỹ Ngôn là người có cấp bậc cao nhất và cũng lớn tuổi nhất trong bọn tôi:

                                - Tính sao Trung Sỹ?

                                Trung Sỹ Ngôn đáp tỉnh bơ:

                                - Không tính gì cả, giặc đến thì đánh chớ còn tính gì nữa, lúc trước ta phải sang Campuchia, sang Lào, đi ra Vùng I, Vùng II tìm giặc mà đánh, nay chúng kéo đến đây thì ta phải đánh chứ còn nghĩ ngợi gì nữa.

                                Lời nói khẳng khái của TS Ngôn khiến anh em Nhảy Dù và các chiến sĩ Công Binh, Địa Phương Quân cũng lên tinh thần. Một vài người phát biểu ý kiến:

                                - Trung Sỹ Ngôn đúng là một chiến sĩ can đảm của quân đội, lẽ ra anh phải có cấp bậc khác hơn mới đúng, quân đội cần phải có những chiến sĩ đảm lược như vậy.

                                Trung Sỹ Ngôn khoát tay bảo đừng nói tiếp nữa, ông nói:

                                - Các bạn đừng cho tôi uống nước đường tưởng tượng nữa, đời binh nghiệp của tôi nếu có được kéo dài thì cũng thế thôi, một tên quân phạm được Bộ Tổng Tham Mưu cho tiếp tục phục vụ thì còn lên xuống gì nữa!!!

                                Ai nấy đều không tin câu nói của Trung Sỹ Ngôn, ông ta phải xác minh tới lui mấy lần mà chưa có ai tin.

                                ***

                                Riêng tôi thì tôi tin ông nói thật vì tôi là HSQ quân số của Tiểu đoàn, tôi nắm giữ hồ sơ lý lịch của quân nhân trong đơn vị nên tôi biết nhiều về quân nhân trong đơn vị.

                                Tôi xin mở dấu ngoặc nói về người Hạ sĩ quan nầy:

                                Sau những trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, vì nhu cầu bổ sung quân số cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt, Bộ Tổng Tham Mưu nghiên cứu và quyết định cho tiếp tục phục vụ các quân phạm được coi là thường phạm hiện đang bị giam giữ trong Quân Lao Gò Vấp. Ông Trung Sỹ Ngôn được xuất lao trong đợt đầu tiên và được bổ sung về Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.

                                Ngày tôi đến Khối Bổ Sung nhận về 30 quân phạm trong đó có Trung Sỹ Ngôn, vừa gặp ông là tôi có thiện cảm liền. Tôi đưa các quân nhân nay về Hậu cứ Tiểu đoàn ở cổng số 9 trong Căn cứ Long Bình, Biên Hòa, trang bị cho họ và chờ ngày tăng cường hành quân.

                                Trong những ngày chờ đợi tôi có dịp tiếp xúc với các quân nhân nầy để tìm hiểu và giúp đỡ chuyển thư từ, nhắn tin người nhà đến thăm, tiếp tế cho họ, phần các quân nhân ở xa hoặc ở trong vùng mất an ninh thì chỉ gởi thư theo đường bưu điện thôi.

                                Riêng Trung Sỹ Ngôn, quê ở Hốc Môn, tuy không xa lắm nhưng xã ấp ở vùng xôi đậu nên tôi không thể đem thư đến nhà cho ông được, tôi cố gắng đi đến chợ quận Hốc Môn, rồi hỏi thăm tìm những người cùng xã ấp với ông nhờ họ chuyển thư về gia đình ông.

                                Cuối cùng, thân nhân của ông cũng đã tìm đến thăm ông được. Và nhờ vậy ông mang ơn tôi, có tâm sự gì ông đều phun ra hết, và con đường tù tội của ông như sau:

                                “Sau Tết Mậu Thân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gần như thường xuyên có mặt tại Quân Khu I và Quân Khu II, các người lính Tổng Trừ Bị nầy hầu như là “Trấn thủ lưu đồn” của thời xa xưa, có khi hai ba năm chưa được về thăm gia đình một lần, Trung Sỹ Ngôn tuy là đã có gia đình, nhưng vì lính xa nhà trong lúc sức lực phương cường, nên thường lén rời đơn vị đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” cắm sào trên sông Hương.

                                Một lần, sau khi lãnh lương, anh đi lả lướt trên sông Hương, Đến sáng ngày tỉnh dậy mới hay bị mất ví cả giấy tờ tùy thân và tiền lương tháng mới lãnh chưa kịp gởi về cho vợ. Còn chiếc thuyền thì đã cập bến nhưng người lái không có ở đó.

                                Trên đường trở về vị trí đóng quân bị Quân Cảnh xét giấy tờ không có nên bị bắt giữ rồi giải giao về đơn vị thọ phạt. Quá uất ức, nên sau khi thọ phạt xong Trung Sỹ Ngôn cầm một quả lựu đạn tìm đến bờ sông thì rất may anh gặp lại cô lái đò hôm trước. Anh đòi lại cái ví và số tiền anh đã bị đánh cắp, cô lái chối cãi là không có lấy, anh đập trái lựu đạn vào đầu cô ta phun máu, cô ta mới chịu nhận là có lấy nhưng gã anh trai ma-cô của cô ta đã cất giữ rồi, theo lời cô lái đò nói lại là nếu anh có tiền chuộc mới được trả lại.

                                Quá tức giận, anh lại cầm trái lựu đạn đập vào đầu cô ta khá mạnh khiến cô ta kêu thét lên rồi ngất xỉu luôn. Các người trên thuyền bên cạnh tri hô lên là có án mạng nên lính Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội đến bắt anh, anh kháng cự đưa ra trái lựu đạn dọa nếu ai đến gần sẽ cùng chết với anh. Anh về đơn vị trình diện và bị An Ninh Quân Đội của đơn vị bắt giải về Sài Gòn đưa ra tòa án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu III.

                                Tôi hỏi chen vào:

                                - Anh có mướn luật sư bào chữa cho anh không? Tòa án xử anh có nặng lắm không?

                                Trung Sỹ Ngôn thở ra, chán nản nói:

                                - Tiền đâu mà mướn luật sư, tiền của mình nó lấy hết rồi nên mình mới gây nên tội. Tôi trình bày tất cả sự việc để ông Chánh Án quyết định chứ không thèm xin ân giảm gì hết.

                                Tôi tò mò hỏi anh về quang cảnh của phiên Tòa, anh đáp:

                                - Đầu tiên, họ điệu tôi ra giữa phòng xử, các viên chức trong tòa lần lượt đi ra, cuối cùng tới ông Chánh Án, là một vị Trung Tá trong QĐVNCH. Đầu tiên họ đọc cáo trạng về trường hợp phạm pháp của tôi, tiếp theo ông Ủy viên Chính Phủ tức là Công Tố lên án tôi, tôi bị khép vào 3 tội.

                                Tội thứ 1: Phạm vào điều Giáo lệnh thứ 5: Không được bê tha, rượu chè, cờ bạc, trai gái, và nghiện hút.

                                Tội thứ 2: Can tội sát nhân, đánh chết người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể tự vệ.

                                Tội thứ 3: Dùng vũ khí để chống lại nhân viên công lực làm nhiệm vụ. Cuối cùng Ủy viên Chính phủ xin ông Chánh Án lên án thật nặng đối với quân nhân vô kỷ luật để làm gương.

                                Đến phần luật sư biện hộ, vì không có luật sư của bị cáo nên Tòa chỉ định một luật sư tình nguyện giúp tôi, tôi nói là tôi không cần, tôi tự trả lời lấy.

                                Về tội thứ 1: Các điều bê tha, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút tôi không có, còn vấn đề trai gái thì tôi sống theo luật tự nhiên, giải quyết sinh lý, vì một người bình thường mà phải xa nhà cả hai, ba năm, thậm chí bốn năm năm thì bị mất quân bình, họ còn lo chiến đấu, sống chết bất ngờ, ăn uống thiếu thốn, nằm rừng ngủ bụi, thì làm sao chịu nổi.

                                Tôi đặt ví dụ: Một người công chức mỗi ngày làm việc 8 giờ, tan sở đã có công xa đưa đón, về nhà có vợ con săn sóc, họ được ba bữa ăn nóng. Còn giới quân nhân thì sao, có nhà mà cả mấy năm không được về, có vợ mà phải đi ngủ với gái điếm lại còn bị tội bê tha, trai gái.

                                Về tội thứ 2: Tôi nhìn nhận có nóng nảy, quá mạnh tay với cô đó. Nhưng thưa quan Tòa, tôi ăn bánh trả tiền sòng phẳng. Tại nó lấy tiền, lấy giấy tờ của tôi khiến tôi bị bắt, bị phạt kỷ luật, sau đó nó còn đòi tiền chuộc thì tôi không nóng sao được.

                                Về tội thứ 3: Tôi dùng lựu đạn để gây áp lực chứ không hề mở khóa an toàn, không gây thương tích hay nguy hiểm cho nhân viên công lực, tôi không để nhân viên công lực bắt tôi vì tôi không muốn để những người phè phỡn ở thành phố bắt những thằng đi tác chiến, tôi quyết về đơn vị để cấp chỉ huy định đoạt. Phần trình bày của tôi đã xong.

                                Tôi hỏi anh:

                                - Sau đó thì sao, Công tố viên còn nói gì không? Tòa tuyên bố thế nào? Có nặng lắm không?

                                - Khi tôi nói, Ủy viên Chính Phủ có vẻ bất bình, muốn ngăn lại, nhưng ông Chánh Án không tỏ thái độ gì nên ông ta cũng nín luôn, cuối cùng Ông Chánh Án thay vì kết án là tôi “cố sát” hay ít ra là kết tội “Cố ý đả thương, nhân thương trí mạng” gì gì đó, thì Ông Chánh Án đã lên án là “ngộ sát” và hình phạt là năm năm tù ở. Nhưng mới hai năm thì được cho ra ngoài tiếp tục phục vụ. Tôi nói thiệt, nếu có được đi ra ngoài đó nữa, tôi sẽ vẫn đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” đó nữa”.

                                ***

                                Vậy mà giờ đây, trước giây phút hấp hối của Thủ đô VNCH anh vẫn hiên ngang đóng tại cửa ngõ vào thành phố, vẫn cùng 6 người thương binh tự đặt dưới quyền điều khiển của anh, cạnh đó, các quân nhân Công Binh, Địa Phương Quân cũng lây cái hào khí của anh, họ hứa sẽ ở lại cùng chiến đấu với anh em Nhảy Dù.


                                Hình minh họa

                                Và bây giờ chúng ta hãy nghe Binh Nhất Hào Hoa của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù kể tiếp:

                                "Từ buổi trưa đến chiều ngày 29 tháng 4, 1975, các quân nhân của Sư Đoàn 18 BB đi về càng nhiều, có người thì đi lẻ tẻ, có tốp thì đi chung nhiều người. Tôi nghĩ đây là họ “di tản chiến thuật” để sẽ được “tái phối trí” ở một vùng nào đó". Nhiều người dân di chuyển trên đường giục chúng tôi:

                                - Mấy chú Nhảy Dù ơi, bọn Việt cộng tràn tới rồi kìa !

                                "Nghe họ nói, tôi cũng cảm thấy lo ngại, hàng đoàn quân còn chạy, thì mấy mươi người chúng tôi có nghĩa lý gì với cơn thác lũ của chiến cuộc. Tôi liếc nhìn các bạn Nhảy Dù tại đó, thấy họ vẫn bình tĩnh chứ không có vẻ lo sợ gì cả". Tôi nghĩ họ đã dày dạn phong sương, đã tôi luyện trong máu lửa nên lòng họ đã chai lì rồi chăng?

                                ***

                                "Từ ngày Tổng Thống Nixon lên chức, ông quyết định rút hết quân về nước trong “Danh dự”. Ông đưa ra áp dụng kế hoạch “Việt-Nam Hóa Chiến Tranh” là (bỏ của chạy lấy người). Quân Mỹ và Đồng Minh ào ạt đến rồi cũng ào ạt rút lui". Các căn cứ quân sự được chuyển giao lại cho QĐ VNCH, trong các căn cứ đó có căn cứ Long Bình là rộng lớn và ở gần thủ đô Sài Gòn nhất.

                                Trong khi đó Chính Phủ Việt-Nam Cộng Hòa cũng đã có kế hoạch chỉnh trang thành phố, mà hai doanh trại của Nhảy Dù là trại Nguyễn Trung Hiếu của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù nằm trên đường Lê Văn Duyệt đối diện với Nghĩa Trang Đô Thành Sài Gòn và doanh trại Phạm Công Quân của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù nằm trong vườn cao su của nhà thờ Chí Hòa tại ngã tư Bảy Hiền là bị ưu tiên chiếu cố để chuyển đi. Cả hai Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù đều được giao cho một số nhà tole tại Cổng số 9 trong căn cứ Long Bình để làm doanh trại cho đơn vị mình.

                                Vì doanh trại cũ của TĐ 3 ND sẽ được ưu tiên xây Bệnh Viện Vì Dân, nên toàn bộ trại nầy được chuyển về doanh trại mới gần cuối năm 73, còn TĐ 1 ND chưa kịp chuyển về căn cứ nầy, nên chỉ đưa một bán đội sáu người đến tiếp nhận và trông chừng doanh trại, và tôi là B.I “Hào Hoa” là một trong sáu quân nhân được phái đến giữ trại đó.

                                Sáu người anh em chúng tôi thường hay sang doanh trại của TĐ 3 ND chơi với các quân nhân phụ trách về các việc chuyên môn của đơn vị nầy.

                                Lý do tôi được đến giữ doanh trại mới nầy là trong lúc cùng đơn vị tham dự Hành quân tại Quảng Trị, tôi bị thương, được di tản về Bệnh Viện Đỗ Vinh để điều trị, khi vết thương đã bình phục, tôi chuẩn bị tăng cường HQ thì gặp lúc Tiểu đoàn cần một số quân nhân đến tiếp nhận và trông coi doanh trại mới vừa được chuyển giao và tôi được chọn cùng với 5 anh em khác.

                                ***

                                Vì vậy mà tuổi chiến trường, kinh nghiệm chiến trận của tôi còn kém cỏi, nên khi nghe dân chúng bảo chạy đi tôi cũng thực sự lo ngại lắm, các binh sĩ kia cũng có vài người dao động, lo lắng trước những việc diễn biến quá nhanh. Binh 2 Kha rụt rè hỏi TS Ngôn mà cũng có thể hỏi chung anh em Nhảy Dù.

                                - Làm sao bây giờ Trung Sỹ?

                                Trung Sỹ Ngôn đáp không do dự:

                                - Như tôi đã nói ngày hôm qua, lúc trước ta tìm giặc mà đánh, bây giờ chúng nó tới thì ta phải đánh chứ còn tính gì nữa, nếu anh em nào sợ thì chạy theo đoàn người di tản đó đi, tôi không cản trở, còn anh em nào không sợ thì ở lại chúng ta cùng nhau chiến đấu tới cùng.

                                Trước lời nói quyết liệt của Trung Sỹ Ngôn, anh em lên tinh thần trở lại, họ hứa sẽ ở lại chiến đấu tới cùng với TS Ngôn. Riêng tôi không có ý kiến, ai làm sao tôi làm vậy thôi.

                                Trọn đêm đó tiếng súng nổ từ xa đến gần, hướng Sài Gòn thỉnh thoảng có tiếng pháo kích rải rác đó đây tuy không nhiều lắm.

                                Chúng tôi cũng thay nhau ngủ gà ngủ gật trong các công sự bằng bao cát.

                                Trời vừa hừng sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Trung Sỹ Ngôn đốc thúc anh em tìm chỗ có thể vừa ẩn nấp vừa chiến đấu bên dưới gầm cầu, chứ mấy cái công sự bằng cát đó chẳng có nghĩa lý gì đối với xe thiết giáp T-54 của bọn cộng phỉ. Trung Sỹ Ngôn còn phái Hạ Sĩ Đắc và Binh Nhất Tân sang bên kia đầu cầu lấy thêm một ít súng chống chiến xa M.72 để tăng cường cho đầu cầu bên này, hai người đi một chập trở lại với mấy khẩu M.72.

                                Trung Sỹ Ngôn chưa kịp có ý kiến gì thì chợt có tiếng động cơ của xe thiết giáp chạy rần rần từ xa. Dân chúng chạy tán loạn vào vệ đường la hoảng lên:

                                - Bọn Việt cộng tới, nó có xe tăng nữa.

                                Chúng tôi thấy giữa đường có 2 chiếc xe thiết giáp treo lá cờ thổ phỉ xanh, đỏ và ngôi sao vàng ở giữa, hai bên đường, bọn cộng phỉ xâm lược hộc tốc chạy theo. Chợt chiếc xe chạy đầu dừng lại và bắn vào ụ cát làm công sự trên cầu, sau tiếng nổ lớn ụ cát đó biến mất, chúng lại bắn tiếp các ụ khác.

                                Chúng tôi nấp ở gầm cầu nên không bị thương tích gì, 3 người chúng tôi thủ M.72 bốn người kia thủ M.16 đồng loạt nhả đạn khiến lũ giặc xâm lược sợ hãi nằm rạp xuống vệ đường, chiếc xe chạy đầu sau khi bắn mấy phát liền chạy tới bị trúng đạn M.72 bị đứt xích đang xoay tròn trên xa lộ. Chiếc xe T.54 còn lại và lũ giặc cộng phỉ bắt đầu phản công, chúng đã biết chỗ ẩn nấp của chúng tôi nên tất cả đều nhắm bắn vào chỗ chúng tôi.

                                TS Ngôn vừa chiến đấu vừa bảo anh em tôi:

                                - Súng M.16 bắn vào bọn vc chớ đừng bắn vào xe thiết giáp chỉ gãi ngứa cho nó thôi, còn súng M.72 bắn vào xích của nó có kết quả hơn.

                                Chúng tôi bắn xong một loạt liền thay đổi vị trí mới nên bọn vc tuy đông người hơn nhưng chưa bắn trúng anh em chúng tôi một viên nào. TS Ngôn và HS Đắc bảo anh em tôi bắn phủ đầu bọn nó cho hai anh sử dụng súng M.72. Chúng tôi làm y lời họ và hai anh đã bắn cháy chiếc T.54 thứ 2.

                                Tuy áp lực trên 2 chiếc T.54 không còn, nhưng bọn giặc xâm lược tràn tới càng lúc càng đông, Trung Sỹ Ngôn căn dặn anh em:

                                - Các bạn hãy tiết kiệm đạn, chúng ta phải chiến đấu lâu dài đó, không có ai tiếp viện đâu!


                                Hình minh họa

                                Chúng tôi bắt đầu bắn dè sẻn từng loạt một cũng có thể chận đứng bọn cộng quân xâm lược được chốc lát. Nhưng kìa, hai chiếc PT.76 khác lại ào ào chạy đến, chúng tôi chỉ còn có hai khẩu M.72. TS Ngôn thủ một khẩu, HS Đắc thủ một khẩu, chúng tôi lại bắn ào ạt yểm trợ cho hai người bắn chiến xa, nhưng phía cộng quân cũng bắn rát quá nên hai anh bắn không trúng chỗ hiểm, hai chiếc thiết giáp liền chạy thẳng qua bên kia cầu, bọn bộ đội cũng nương đà đó chạy theo xe qua cầu, một số quây tại đầu cầu gọi chúng tôi đầu hàng, bọn tôi đáp lời lũ giặc xâm lược từ phương bắc bằng những phát đạn thật chính xác, vì thế chúng không dám xông vào chỗ ẩn nấp của chúng tôi.

                                Chúng tôi mong các quân nhân của đơn vị bạn giật sập cầu hoặc dùng súng M.72 bắn hạ mấy chiếc xe vừa thoát chạy sang bên đó, nếu để nó thoát được thì tai hại lắm.

                                Nhưng chờ mãi mà chẳng thấy động tịnh gì cả, chúng tôi nghĩ là họ đã bỏ trốn hết rồi. Quá thất vọng TS Ngôn nói:

                                - Chúng ta muốn góp sức để ngăn chận đường tiến của bọn cộng phỉ xâm lược, nhưng chúng ta cô đơn chiến đấu, sức chúng ta chỉ có hạn, đạn dược sắp hết rồi, bây giờ các bạn muốn tiếp tục chiến đấu hay muốn trốn đi đâu tùy ý. Riêng tôi quyết chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

                                Ai nấy lên tiếng quyết chiến đấu, không lùi bước, riêng tôi có hơi do dự. Thấy vậy, Trung Sỹ Ngôn nói với tôi:

                                - Em có thể chui vào đám lục bình trên mặt nước kia để rút đi, bây giờ còn kịp.

                                Tôi cảm thấy bị chạm tự ái nên quyết ở lại. Bây giờ, bọn cộng phỉ xâm lược trên cầu kêu lớn:

                                - Hàng sống, - chống chết!

                                - Hàng sống, - chống chết!

                                Chúng tôi trả lời bọn thổ phỉ xâm lược bằng mấy loạt đạn. Chống trả thêm một lúc, chúng tôi đã thực sự hết đạn.

                                Bây giờ đến quyết định cuối cùng, Trung Sỹ Ngôn nói:

                                - Anh em nào vì gánh nặng gia đình, muốn rút lui để giữ mạng sống thì cứ tự nhiên.

                                HS Đắc hỏi lại:

                                - Còn Trung sĩ thì sao?

                                TS Ngôn đáp:

                                - Tao không đầu hàng!

                                Đắc nói:

                                - Tôi cũng không đầu hàng!

                                Cả bốn anh Lương, Tân, Kim và Kha cũng đồng lên tiếng:

                                - Chúng tôi cũng vậy, không đầu hàng, còn mấy viên đạn bắn hết rồi tính.

                                Thế là chúng tôi lại tiếp tục bắn tỉa những tên nào ló đầu vào gầm cầu.

                                Rồi viên đạn cuối cùng cũng đã được bắn đi.

                                Trung Sỹ Ngôn tuyên bố:

                                - Chúng ta không đầu hàng giặc, cũng không để cho giặc bắt. Vậy chúng ta cùng nhau chia cái nầy.

                                - Tự tử đi anh em ! Chúng ta dứt khoát không đầu hàng !

                                Trung Sỹ Ngôn cầm trái lựu đạn M.26 đưa ra đoạn bắt tay từng người, xong tất cả ngồi quây vòng tròn quanh trái lựu đạn. Tôi cũng ngồi xuống như mọi người nhưng bất chợt Trung Sỹ Ngôn cầm cái ba-lô để trước mặt tôi và đẩy tôi ngã ngửa ra, tôi vội đưa tay ra dẹp cái ba-lô nhưng không còn kịp nữa...

                                ***

                                Khi tôi tỉnh dậy, cảm thấy mặt mũi tay chân đau buốt vì những vết thương, tôi khẽ rên lên, và một người thợ câu chèo thuyền nghe được đã ghé vào cứu giúp cho tôi. Từ đó đến nay tôi vẫn còn buồn anh em TĐ 3 ND đã chơi xấu với tôi, đã làm cái việc: “ăn đồng, chia... không đều” vì nhờ có cái ba lô Trung Sỹ Ngôn để trước mặt tôi mà tôi đã không chết cùng anh em.


                                (SGtt-MĐ. Nguyễn Văn Nơi)

                                https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                                Last edited by BachMa; 04-18-2020, 07:59 PM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X