Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hồi Ký 30-4-75: Tháng Ngày Tao Loạn

    Hồi Ký 30-4-75: Tháng Ngày Tao Loạn

    Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” ông góp cho, viết về nước Mỹ gần 3 tháng trước hiện đã có gần 20,000 lượt người đọc. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sài Gòn ngày 30 tháng Tư. Bài mới của ông là một hồi ký sống động và xúc động về những ngày cuối của cuộc chiến.


    Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào, nhục lụy, chết chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào cảnh sụp đổ.

    Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng Ba, 1975, thảm họa lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đã sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Ngày 30 Tháng 4,1975.

    Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1 ND) với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức/ Đại Lộc, Y Sĩ Thiếu Tá Nhẩy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ1 ND.

    Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng ngày, trước Tết 1975, vào Sài Gòn lãnh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15 ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.

    Trên chuyến bay về Sài Gòn, lòng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1 ND trong 6 tháng kể từ ngày trình diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1 ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/ Thường Đức, tôi đã có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn ND.

    Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải mìn, luôn đội nón sắt  và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.

    Làm sao quên được những tiếng la hét, ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công, cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng hoặc trong sương mù. Vì làm gì có giới hạn thời gian trong trận chiến. Vì làm gì có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm gì có được sự công bằng khi địch nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh để dành lại từng tất đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền đất tự do.

    Qua nhiều ngày với TĐ1 ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nhìn lên thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ phía . Đã bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá đưa vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc thôi bay. Và cũng bao lần tôi đã cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên bãi đáp chờ được bốc đi.

    Nhớ và nhớ hình ảnh uy nghiêm đầy khí phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường, nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những lần trò chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những dừng quân ngắn trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đã yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi từng chê là sến. Với họ, tôi đã tìm thấy tình đồng đội qua thử thách trong máu lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4 chữ “Nhảy Dù Cố Gắng”. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đằng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.

    Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó của TĐ1 ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 15 ND tân lập và trước khi rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân lập của ông. TTá Phú và tôi đã có những giao hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho TTá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi còn có cơ duyên giúp cho TTá Phú về thăm vợ ở Sài Gòn đúng lúc, vì nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.

    Nếu được thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng vì không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà còn là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà mình ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa với Măng của tôi, mà đây còn là một cơ hội quý báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở. Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.

    Tôi đến trình diện TTá Phú tại bộ chỉ huy TĐ 15 ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của mình trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược.

    Vì Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đã có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa phòng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sỉ của tiểu đoàn.

    Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến 100%, TTá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc tình 9 năm trời lận đận dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối tình đầu đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện Đại Học Đà Lạt.

     
    Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục ráo riết chinh phục nàng qua những lá thư đậm đà tình thương nhớ viết từ trại quân hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài miệng lưỡi chiếm được cảm tình của gia đình họ hàng. Mối tình của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.

    Đó cũng là thời gian TĐ15 ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở vòng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đã mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những rã ngủ không chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lý, những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quân và dân.

    Ở Sài Gòn, tình hình chính trị lẫn quân sự càng lúc càng  đen tối dần. Sài Gòn với giới nghiêm sau 12 giờ đêm. Sài Gòn với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Dòng đời chao đảo, đầy gian khó.  Người đời hoang mang vì mất lòng tin ở chính quyền. Có tin nhiều nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn, ai nấy bước đi vội vả, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đình ngồi triền miên trước đài truyền hình hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện to nhỏ.

    Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Sài Gòn, TĐ15 được lệnh về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi TTá Phú và tôi đi tìm gặp nói chuyện với vị Giám Đốc của hãng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15 ND đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của Dì ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi có dịp gặp trước đây.

    Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dã chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đã e thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS còn nhỏ con hơn, chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!”

    Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa mất. Một trận chiến kinh hồn đã diễn ra suốt 13 ngày đêm tại đây. Quân đoàn 4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa đại bác dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ của LĐ 1 ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không Quân lần đầu sử dụng những quả bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đã chận đứng bước tiến của chúng, gây thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đã gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ quanh tôi và chính tôi lên tinh thần và tìm lại được khí thế hào hùng.

    Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đã quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang còn đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ đến lượt mình vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15 ND bám chốt với lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.

    Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi chứng kiến hàng trăm hàng ngàn xe đủ loại, từ xe đạp cho đến các xe Honda, Lambretta… xe quân đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh chủng và thường dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Hòa về Sài Gòn, ngang qua cầu Bình Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao biết được trong đám người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ý len lỏi theo đám đông vào nội thành để hoạt động nội tuyến!?

    TĐ15 ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên lưng loại rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả cản bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của mình để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.

    Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất. Tiếng nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao thức tới gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.

    Sáng ngày 29, tôi nhìn thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả cặp phi cơ phản lực bay vòng vòng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện gì đang xẩy ra ở Sài Gòn, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra ta cũng còn cơ hội củng cố lại, tình hình rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi ngây thơ mơ tưởng hay tự dối lòng?!

    Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu Bình Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một bóng người. Một mình, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đình Măng tôi và gia đình nàng được bình an và nàng đừng rời nước để chúng tôi còn gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nhìn thấychiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ý liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi tìm ra số điện thoại của Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đình nàng còn nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, bình yên và đang đóng quân ở cầu Bình Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, lòng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự trong tay Chúa an bài.

    Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Nhẩy Dù. Tín hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ 4 ND hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15 ND với bộ Tư Lệnh SĐ ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 ND và Lữ Đoàn Phó vẫn còn giữ liên lạc với nhau.

     
    Trong cùng đêm, TĐ15 ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào trong đầu cũng đầy những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.

    Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15 ND, tôi đón nhận 4 người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản thương, Ban 3 TĐ cho biết không thể tản thương vì không liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với TTá Phú ý định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn Văn Học.

    Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn kịp để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, đi vào cõi chết.

    Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính.

    Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến, TTá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng TTá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.

    Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. TTá Phú đến bên tôi nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!”, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong tòa tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy TTá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhẩy Dù. Tôi cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghỉ đến.

    Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cởi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cởi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một chút do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…

    Tôi cởi áo giáp, dây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cởi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn, nhà nàng.
     
    Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75: lễ cưới được Cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi,  đây là “đám cưới chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới.
     
    Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nhìn lên trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.

    Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể tôi rã rời và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về được đến nhà an toàn.

    Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hòa cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá Sĩ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.

    Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng còn khả năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã được quyết định tự lúc nào.

    Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được Cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cưới chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi đi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho  đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.

    Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng rã ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đã vĩnh viển ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.

    Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn 1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đã chết trong bão tố khói lửa hay còn sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở trong nhà tù lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến không thể quên.

    “Cho tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ
    Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
    Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đã khuất
    Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi”

    Viết trong tháng Tư, 2013, tại California, U.S.A.
    Vĩnh Chánh

    (*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:
    1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
    2. Battle of Xuan Loc, by Phillip B. Davision
    3. Fighting is an art, by George J. Weight
    4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q. Khôi
    5. vietnamwar.net
    6. sudoan18bobinh.com


    Tân Sơn Hòa chuyển
    nguồn:
    http://nhaydu.com/index_83hg_files/l.../HoiKy30-4.htm

     
    Last edited by BachMa; 04-30-2017, 04:44 AM.

    Comment


    • Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè

      Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè
      Bác-sĩ Vĩnh Chánh


      Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật.

      Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Long Mã của Không Quân VNCH, trực thuộc Phòng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào lòng địch… Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đã nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đã chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.


      Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố tình quên cái đau răng đã hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ vì nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định tìm đến văn phòng nha sĩ cầu cứu.

      Vì không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn phòng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà mình vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rõ bệnh tình với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào phòng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện vì đứng sát cửa phòng chờ khách.

      Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào phòng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh tình, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết mình phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Hòa, Nguyễn Đại Hòa, người rất hiền hòa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.

      Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Hòa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”

      Như một tia chớp, bao nhiêu hình ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đã xẩy ra cả mươi năm qua.

      “Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”

      Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy mình, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.

      “Mấy lâu nay gia đình chúng tôi muốn biết về cái chết của nó vì nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một mình nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người còn lại đều bị bắt làm tù binh”

      Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua phòng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại bình tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.

      Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ tìm đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.

      Trời lúc đó đã về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên dòng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một vòng để quan sát tình hình chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.

      Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đã bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới lòng suối.

      Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nhìn ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nhìn vào phòng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.

      Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở phì phò của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.

      Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương còn bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân hình anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay mình.



      Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của mình khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đã đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của mình làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến mình lên sau.

      Chiếc H34 bay quành một vòng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại bình tĩnh, nhìn đọc bảng tên HÒA trên áo bay của người phi công xấu số.

      Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uý Phi Công Hòa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn còn run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.

      Dù đau buồn vì 3 người phi hành đoàn còn lại đã bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hãnh diện riêng vì ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đã thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè”.

      Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn còn thoảng mùi máu của đồng đội dù đã được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Hòa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với hình ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đã từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đã để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.

      Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tròng, người Nha Sĩ lên tiếng:

      “Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn phòng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Hòa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đình Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rõ về cái chết đau thương của Hòa trong vòng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đình chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đình, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đã đem xác em tôi về…”.

      Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn phòng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đã cất giữ trong lòng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn mình thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.



      Vĩnh Chánh
      nguồn:
      http://rangdongphila.org/khong-bo-an...si-vinh-chanh/

      Comment


      • Súng M16 đã có lúc đảo chánh năm 1963

        Binh chủng Nhảy Dù đã có M16 lúc đảo chánh năm 1963!!

        Comment


        • Bảy Tay Súng Oai Hùng

          Bảy Tay Súng Oai Hùng
          (A20 Xuân-Phước)


          Trại tù A.20 Xuân Phước của Việt Cộng toạ lạc tại một địa điểm cách ga xe lửa Lahaye khoảng 15 cây số thuộc tỉnh Phú Yên (Trung phần). Đây chính là nơi mà trong thời chiến tranh trước 1975 VC dùng làm Mật Khu an dưỡng cho các cán binh CS của chúng. Sau khi chiếm được miền Nam tháng Tư 1975, chúng biến nơi này thành trại tù lớn, chia làm hai khu, Khu A và Khu B. Và mỗi Khu còn chia ra thành nhiều Phân trại. Phân trại E giam giữ các anh em Sĩ quan QLVNCH.

          Bọn VC đã đưa toàn bộ số đàn ông di tản qua Mỹ trở về từ con tàu Việt Nam Thương Tín nhốt tại đây, rồi sau biến các tù nhân này thành những phu hồ để xây dựng những ngôi nhà ở và nhà giam bằng xi măng cốt sắt. Đồng thời chúng áp dụng một quy chế đối xử với tù nhân vô cùng khắt khe. Bọn cai tù tuyên bố rằng, nơi đây chúng sẽ "biến sắt thành bùn", bất cứ tù nhân nào dù ngoan cố tới đâu cũng phải bị khuất phục. Nhưng ngược lại, chúng đã luyện cho các tù nhân trở thành Gang Thép ! Các anh em tù gọi đây là "Trại Kiên Giam".


          Ở đây chúng tôi không nói về các sinh hoạt của trại tù, vì đã có 2 quyển sách nói về Trại tù A.20 Xuân Phước rồi. Một, là quyển "Trại Kiên Giam" của nhà văn Nguyễn Chí Thiệp, cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, hiện ở Texas . Và hai, là quyển "Cuối Tầng Địa Ngục" của nhà văn Đỗ Văn Phúc, cựu đại úy CTCT, hiện cũng ở Texas.

          Hôm nay chúng tôi chỉ xin tường thuật lại vụ cướp súng công an rồi đào thoát của 7 cựu Sĩ quan QLVNCH, đó là:

          1.- Đại úy Đặng Ly Thông (Trường Anh Ngữ QĐ)
          2.- Tr/úy Nguyễn Duy Đức (Biệt Động Quân)
          3.- Tr/úy Nguyễn Ngọc Bửu (TQLC Khoá 25VBĐL)
          4.- Tr/úy Nguyễn Lưu Úy (Phi công F5E)
          5.- Tr/uý Nguyễn Hồng Quân (Phóng viên Chiêu Hồi)
          6.- Tr/uý Nguyễn Văn Minh (TQLC)
          7.- Đại úy Lê Thái Chân (Pháo binh Dù)

          Tại trại A-20 Xuân Phước, Phân trại A, các tù nhân được chia ra thành từng đội, mỗi đội có khoảng trên dưới 30 người. Hàng ngày các đội được hướng dẫn đi ra ngoài trại để làm việc lao động nặng nhọc như đào ao nuôi cá, cuốc đất trồng hoa màu, v.v... Mỗi lần dẫn tù từ trại đi "lao động" luôn luôn có 1 quản giáo mang súng ngắn và 2 vệ binh mang súng
          dài đi kèm.

          Nhưng vào ngày 13 tháng 11 năm 1980, đội của các anh em 7 Sĩ quan trên chỉ có một quản giáo và 1 vệ binh đi kèm. Vì đã có chuẩn bị từ trước, cho nên thấy đây là cơ hội tốt. Bởi vậy, thừa lúc giải lao, chỉ có một tên vệ binh đứng gần, một anh bèn dùng xẻng đập vào đầu tên vệ binh lăn ra bất tỉnh. Các anh em cướp súng rồi hè nhau tẩu thoát về phía
          chân núi. Tên quản giáo ở đàng xa thấy động định chạy lại... thì anh em liền nổ một phát súng chỉ thiên, tên quản giáo hoảng sợ quay đầu hướng về trại chạy thục mạng.

          Thực ra, trong toán tổ chức trốn trại lần này chỉ có 6 anh em thôi, không có Đại úy Đặng Ly Thông. Nhưng khi anh em bỏ chạy thì Đại úy Thông chạy theo luôn miệng la ơi ới... đợi tui với ! Những anh em trong đội còn lại thì ngồi yên tại chỗ. Mấy tiếng đồng hồ sau, trong trại mới báo động, bọn công an trong trại kéo ra mở cuộc truy lùng có dẫn theo cả chó, đồng thời đưa những anh em trong đội còn lại trở về trại.

          Hơn tuần lễ trôi qua, anh em trong trại rất vui mừng tưởng đâu vụ trốn trại trên đã thành công. Nào hay mấy tuần sau có điện từ Tuy Hoà gọi trại cho người tới nhận diện 6 cái xác chết của tù nhân trốn trại. Một anh tù hình sự đi theo đám công an có nhiệm vụ chôn cất đã kể lại rằng, một toán du kích người Thượng phát hiện có 6 người, một người đang ngồi trên bờ, bên cạnh để 2 khẩu súng, một CKC và một AK, còn 5 người thì đang tắm dưới suối. Toán Du kích này đoán ngay là tù trốn từ trại A.20 Xuân Phước vì chúng đã được báo động từ vụ cướp súng tên du kích người Thượng mấy hôm trước. Lập tức chúng liền nổ súng bất ngờ vào anh đang ngồi giữ súng, và bắn vào các anh đang tắm dưới suối làm không ai kịp trở tay.

          Toán công an trại tới nhận xác, nhận diện từng người, thấy Đại úy Lê Thái Chân lọt sổ. Nhưng một thời gian sau Đại úy Lê Thái Chân cũng bị bắt trở lại và bị kêu án 18 năm tù. Sau đó Chân được thả ra năm 1995 và qua Mỹ năm 1999, định cư tại thành phố Utica, tiểu bang New York, là một nơi hẻo lánh ít có người Việt.

          Khi hay tin Lê Thái Chân tới Mỹ, chúng tôi liền liên lạc với anh ngay. Chân bèn kể vắn tắt câu chuyện như sau:

          Sau khi chạy được vào chân núi, anh em không dám đi đường lộ mà phải vượt đường rừng, men gần các buôn Thượng để kiếm thực phẩm như đào trộm khoai để mưu sinh. Dọc đường anh em cướp được thêm một khẩu AK của một tên du kích người Thượng tên Ma Lan. Chính vì nhân đạo không giết tên Ma Lan mà lộ trình đào tẩu của anh em bị lộ, bọn du kích bám sát.

          Toán của anh đi hơn 1 tuần lễ thì giáp với biên giới Cam Bốt. Có đêm anh em đứng trên ngọn núi Buôn Mê Thuột nhìn qua phía Cam Bốt thấy lửa đỏ trời và tiếng súng đại bác vang rền. Trong thời gian này quân VC tràn qua Cam Bốt. Vì anh Chân nguyên là Sĩ quan đề-lô pháo binh, anh có nhiệm vụ đi trước thám sát địa hình. Một hôm, anh vừa đi thám sát được một lúc thì bỗng nghe có nhiều loạt súng nhỏ nổ, anh nghĩ rằng có biến động. Anh liền tìm chỗ ẩn núp. Độ tiếng đồng hồ sau, thấy mọi sự yên tỉnh, anh liền thận trọng từng bước quay trở lại chỗ anh em đợi khi nảy… thì không thấy ai cả. Anh bị lạc từ đó không biết chuyện gì đã xẩy ra cho các bạn đồng đội?


          Cho đến mấy ngày sau, ngày 18-12-1980 anh chạm trán với một toán bộ đội VC, chúng chận hỏi giấy tờ. Anh chối quanh, chúng làm dữ đòi bắn bỏ. Sau anh đành nhận đại là tìm đường vượt biên. Chúng đưa anh về đồn tạm giam. Qua hôm sau chúng điều tra ra anh trốn trại, nên đánh anh một trận suýt chết, rồi giải giao anh trở về trại Xuân Phước. Tới lúc
          đó, anh mới được anh em đồng tù thuật lại về cái chết của 6 đồng đội. Tất cả 6 cái xác được chôn chung một cái huyệt, san bằng, không để lại chút dấu vết gì!

          Sau khi Chân vắn tắt kể cho nghe câu chuyện, chúng tôi còn muốn biết thêm nhiều chi tiết nữa, nhưng Chân hẹn lại dịp khác. Lần khác gọi lại thì Chân lại bận. Chúng tôi yêu cầu Chân viết ra giấy, hoặc thâu vào băng gởi cho chúng tôi cũng được. Chân đồng ý. Một mặt chúng tôi viết bài "Bảy Tay Súng Oai Hùng" này gởi cho Chân xem. Chân có đính chính vài chỗ, nhứt là tên họ và cấp bậc của 6 người bạn. Đồng thời kèm theo mấy dòng:

          - Anh Sáu, chuyện vượt ngục của em dài dòng và chi tiết nhiều lắm. Thuận tiện em sẽ thâu băng và nhờ anh góp ý. OK nhé ! Bây giờ chỉ gởi thêm một ít chi tiết và tùy anh định liệu. Mất liên lạc một thời gian, chúng tôi bắt lại liên lạc và cho Chân xem lại bài viết sau khi đã hoàn chỉnh. Chân cho biết như vậy đã tạm đủ, chúng tôi liền đưa lên các diễn đàn hôm 30-12-2008.

          Và rồi sau đó ít lâu, một bạn đọc ở Pháp có liên lạc cho chúng tôi biết, có một gia đình ở Pháp đã trở về VN mấy lần và lên tận Trại A.20, xin Ban Giám Thị trại giúp đỡ để tìm đến địa điểm chôn cất 6 thi hài của tù nhân quá cố. Nhưng vì thời gian đã quá lâu, những cán bộ công an phụ trách trong thời gian đó không còn ai, lớp giải ngũ, lớp thuyên chuyển đi đơn vị khác. Các thân nhân nầy vẫn không nản chí, họ thuê người dò tìm một thời gian rồi cũng không tìm ra. Như đã nói, 6 người được chôn chung một cái huyệt và san bằng không để lại dấu vết gì, cây cỏ đã mọc phủ mất dấu. Ngay chính anh Chân cũng không thể xác định được vị trí anh em dừng chân lúc đó…

          Chúng tôi có gợi ý với quý vị ấy, trong số 2 tù hình sự phụ trách đào mộ lúc đó có một anh tên là Quý, cựu “Hạ sĩ Nhảy Dù” đóng tại Trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhứt, Sàigòn. Hạ sĩ Quý, thường gọi là Quý Đen, có cha là lính Pháp gốc Phi Châu, người cao lớn, da đen nhánh và tóc quăn… rất dễ nhận diện. Nếu tìm được Hạ sĩ Quý Đen thì chắc chắn là sẽ tìm ra nơi chôn cất 6 di hài Chiến sĩ QLVNCH.

          Đầu mối để tìm ra Hạ sĩ Quý Đen là các Sĩ Quan, HSQ hoặc binh sĩ Nhảy Dù thuộc đơn vị cuối cùng trại Hoàng Hoa Thám năm 1975… Chúng tôi hy vọng bài viết nầy sẽ được quý vị cựu quân nhân các cấp thuộc trại Hoàng Hoa Thám năm xưa đọc. Nhờ ơn trên may ra sẽ có vị biết rõ quê quán và địa chỉ của Hạ sĩ Quý Đen, xin hãy lên tiếng hầu giúp cho gia đình của “Bảy Tay Súng Oai Hùng” tìm ra mộ huyệt các người thân để cải táng…

          Đó chính là một niềm an ủi vô biên cho các Chiến Sĩ quá cố!


          Lynnwood, 15-12-2013
          Quang Phục Võ Văn Sáu


          Tái bút: Xin quý bạn đọc vui lòng phổ biến thật rộng bài viết nầy hầu
          giúp cho thân nhân của 6 Anh Em Chiến sĩ VNCH đã hy sinh… tìm ra Hạ sĩ Quý Đen.
          Đa tạ.


          nguồn:
          http://nhaydu.com/index_83hg_files/l.../7-taySung.htm
           

          Comment


          • 50 Năm Ngày Quân Lực 19 Tháng 6

            50 Năm Ngày Quân Lực 19 Tháng 6
            Giao Chỉ San Jose



            Nửa thế kỷ đã trôi qua, cựu quân nhân VNCH vẫn còn nhớ mãi ngày quân lực. Khắp mọi nơi đều tổ chức họp mặt... bởi vì.. "Hồn lính còn vương trên tóc bạc, anh nhớ sa trường, em có hay..."

            Ý nghĩa và lịch sử

            Lịch sử miền Nam Việt Nam của chúng ta ngoài bất hạnh to lớn là ngày mất nước tan hàng 30 tháng 4-1975 còn có những bất hạnh nhỏ cũng khá đau thương.

            Nếu chúng ta có những ngày ghi dấu rõ ràng như giỗ Tổ Hùng Vương, Hai bà Trưng, rồi trải qua các triều đại anh hùng chiến đấu chống Bắc phương của thời xưa thì ngày tháng lịch sử của một trăm năm qua có nhiều điều phiền muộn.

            Không thể kể đến các ngày tháng mà phe cộng sản ồn ào tưởng niệm, riêng miền Nam chúng ta vẫn còn nhớ ngày 20 tháng 7-1954 chia đôi đất nước. Rồi đến 30 tháng 4-1975 mất nốt miền Nam. Đó là hai ngày quốc hận. Chúng ta có đến 2 ngày Quốc Khánh nhưng chẳng ngày nào được coi là toàn quân toàn dân đồng thuận. Ngày 26 tháng 10 của nền đệ nhất Cộng Hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm cũng phải trả giá mở đầu bằng cuộc truất phế ông vua cuối cùng của triều Nguyễn trong chức vụ quốc trưởng và chấm dứt bằng cái chết của chính vị tổng thống đầu tiên. Qua nền đệ nhị Cộng Hòa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra đời bắt đầu bằng một ngày Quốc Khánh mới 1 tháng 11. Ở giữa 2 nền Cộng Hòa có ngày 19-6-1965. Ngày mà ông thủ tướng Kỳ gọi là ngày quân đội lên cầm quyền. Đó là ngày được chọn là ngày Quân Lực, chúng ta vẫn tưởng nhớ và kỷ niệm cho đến nay. Tại hải ngoại đây là ngày quân lực lần thứ 50.

            Mặc dù không thích cái ý nghĩa nguồn gồc lịch sử của ngày Quân Lực, nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi không tôn trọng nó. Đây chính là điều hẹn ước, đây chính là một sự thỏa hiệp. Đây là cái cây của tình chiến hữu, phải chăm sóc mới tồn tại và phải tưới nước bón phân mới sống được. Sau cùng, khi nói chuyện cũ vẫn có anh em trẻ hỏi rằng tại sao ngày xưa không lựa chọn một ngày nào khác có ý nghĩa và không hệ lụy với biến chuyển thời sự cuả các triều đại. Bèn kể lại chuyện lịch sử ngày Quân lực như sau:

            50 lần Quân Lực, viết cho đời lính.

            Tôi đã từng đọc biết bao lần về lịch sử Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi lần đọc là một lần khắc khoải, nhưng rồi bụng lại bảo dạ, thôi không than thở nữa. Lần này vào dịp Quân Lực 19 tháng 6 năm 2015, lại xin gửi đến các chiến hữu một chút tâm sự.

            Cũng như quý vị, chúng tôi không thích cái ý nghĩa nguyên thủy của Ngày Quân Lực mà ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khoe rằng, ông là cha đẻ. Chẳng phải bây giờ mới nói ra cái chuyện cũ kỹ đó, chúng tôi đã từng viết ra cảm nghĩ ray rứt ngay từ 50 năm về trước. Ngay từ ngày đó Giao Chỉ cũng đã vất vả về cây bút. Số là ngay sau khi đảo chính ông Diệm, tôi là sĩ quan đại diện Quân Khu I từ miền Đông lên họp Tổng Tham Mưu về đề tài đi tìm một ngày ghi dấu cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh em trong ủy ban các cấp ngồi bàn thảo. Lấy biết bao nhiêu ngày tháng lịch sử từ Bắc vào Nam, từ 1950 đến 1965 để đưa ra lựa chọn. Suốt cả chiều dài của lịch sử đều là những ngày tháng có liên quan đến việc hình thành quân đội quốc gia, nhưng chẳng chọn được ngày nào cho trọn vẹn ý nghĩa. Cái đắng cay của vấn đề là giai đoạn trước di cư 54, nghị định văn thư và hồ sơ thành lập đơn vị Việt Nam đều bằng tiếng Pháp và từ bộ tư lệnh quân đội Viễn Chinh đưa xuống. Lệnh cho thành lập BVN gọi là các tiểu đoàn Việt Nam cũng bằng Pháp văn. Lệnh cho tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam vào Điện Biên Phủ cũng do tướng Pháp ký. Tiểu đoàn trưởng cũng là người Pháp. Đọc lịch sử quân đội quốc gia trước thời 1954, bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn chưa tìm được một ngày cho đủ ý nghĩa của Quân Lực. Sau 1954 thì cũng có một số ngày tháng được trình lên để duyệt xét. Bản phúc trình có ghi lại một số dữ kiện mà ký ức mòn mỏi của tôi còn hình dung được một vài chi tiết như sau: Thời kỳ 46 – 47, quân đội Liên Hiệp Pháp bắt đầu tuyển mộ tân binh Việt Nam, các đơn vị bổ túc ra đời, các đại đội nhảy dù lính Việt do sĩ quan Pháp chỉ huy. Hiệp ước Hạ Long ngày 6 tháng 6-1948, vua Bảo Đại nhân danh Quốc Trưởng ký với Pháp có điều khoản thành lập Quân Đội Quốc Gia. Ngày 1 tháng 6-1949, khóa sĩ quan Việt Nam đầu tiên mở ra tại Huế. Bốn tiểu đoàn Việt Nam thành lập. Trong Nam là tiểu đoàn 1 Bạc Liêu và tiểu đoàn 3 Rạch Giá. Ngoài Bắc, tiểu đoàn 2 Thái Bình và tiểu đoàn 4 Hưng Yên. Tiểu khu Hưng Yên ngày đó là thời kỳ các sĩ quan trẻ gặp nhau. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, trung úy Cao Văn Viên và đại úy Trần Thiện Khiêm. Cao cấp nhất là đại úy Nguyễn Khánh sau thăng cấp thiếu tá. Sau này các sĩ quan ngày xưa trở thành quốc trưởng, tổng thống, thủ tướng và đại tướng tổng tham mưu trưởng. Đến khi tập hợp vào miền Nam. Quân Đội Quốc Gia gia tăng dần lên 60,000 quân nhưng chưa có được một ngày quân lực mang ý nghĩa rõ ràng. Phía chính phủ trước đó thì đã có ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 tổ chức duyệt binh hàng năm ghi dấu Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó là đến thời kỳ đảo chính và những năm xáo trộn giữa các tướng lãnh với cả chục lần binh biến. Tuy nhiên, sau cùng miền Nam đã gượng gạo nhận ngày cách mạng 1 tháng 11 làm ngày Quốc Khánh mới.


            Tiếp theo, với sức ép của Hoa Kỳ và đòi hỏi của dân chúng, các vị tướng lãnh của thời kỳ hỗn loạn chính trị ở miền Nam đã miễn cưỡng lập ra một chính phủ dân sự tạm thời với cụ Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và ông Phan Huy Quát làm thủ tướng. Tuy nhiên, các vị chính khách dân sự này không đủ bản lãnh để lãnh đạo đất nước trong một hoàn cảnh rất đen tối và phức tạp. Biết bao nhiêu tranh chấp giữa các đảng phái, các tôn giáo và rất nhiều khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh ngày một gia tăng và Mỹ ào ạt đổ quân vào Việt Nam để chặn đứng làn sóng đỏ. Thêm vào đó, quốc trưởng và thủ tướng lại bất đồng ý kiến nên nội các dân sự bèn tuyên bố bỏ cuộc, trao quyền lại cho các tướng lãnh. Các tướng lãnh niên trưởng của chúng tôi rất vui mừng họp bàn để nhảy ra chính trường gọi là nhận trách nhiệm lịch sử. Một cách hết sức khách sáo, các xếp vẫn nói là muốn rửa tay chính trị, không ham quyền lực nhưng tình thế bắt buộc phải ra nhận lãnh. Nhân danh quân đội, các đàn anh chúng tôi vẫn đeo sao trên cổ áo, họp hội nghị tranh cãi suốt ba ngày, đưa ông Thiệu, ông Kỳ ra cai trị đất nước gọi là ngày quân đội đứng lên làm lịch sử 19 tháng 6-1965. Không bao giờ tôi quên được ngày 19 tháng 6 đó. Tình cảm chân thành với quân đội thì luôn luôn gắn bó, nhưng bảo cái ngày đó là ngày toàn quân đứng lên làm lịch sử thì việc này chỉ có các xếp làm với nhau chứ đâu có ăn nhập gì đến toàn quân. Với bút hiệu Lính Chiến, tôi viết báo Chính Luận cho tổng thư ký Từ Chung qua mục “Một tuần vòng chân trời quân sự”. Tôi đã đưa ra quan điểm như trên. An Ninh Quân Đội của Quân Khu I ở Thủ Đức đã mời lên hỏi thăm sức khỏe. Gặp anh bạn quen nói rằng, “Thôi ông ơi, ông làm ơn nghỉ viết lách cho chúng tôi nhờ. Thời ông Diệm lên thì có 26 tháng 10. Đến thời ông Minh thì 1 tháng 11. Bây giờ ông Kỳ thì chọn 19 tháng 6.

            Tuy nhiên, ngày đó các xếp đã chọn thì cứ coi như một hẹn ước giữa anh em mình. Bàn làm gì chuyện xa xôi cho thêm phiền. Viết lách làm gì cho rắc rối.” Đó là anh bạn đại úy an ninh quân đội đã nói chuyện với tôi đầu năm 1966. Năm đầu tiên có Ngày Quân Lực. Cho đến năm nay là 50 năm. Đúng như vậy, anh bạn cũ nhân danh An Ninh Quân Đội ngày xưa tra vấn tôi, nay đã qua đời. Đó là đại tá Trần Duy Bính. Nhưng lời chiến hữu nói ra vẫn còn ở lại. Quả thật, 19 tháng 6 hàng năm đối với chúng tôi chỉ là một ngày hẹn ước để gặp nhau. Người tự nhận là khai sinh cho 19 tháng 6 là ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nay đã ra đi. Vị chủ tịch ký giấy ban hành nghị định 19 tháng 6 là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, cũng trở thành người thiên cổ. Vậy thì, nếu đã nhìn thấy những cay đắng của lịch sử như thế thì cái ý nghĩa của ngày 19 tháng 6 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm ở chỗ nào. Nghĩ như thế mà sao mỗi năm đến 19 tháng 6 vẫn thấy lòng rung động. Kỷ niệm 19 tháng 6 lần thứ nhất vào năm 1966 làm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Năm sau 1967, duyệt binh lớn ở đường Trần Hưng Đạo. Rồi từ đó mỗi năm là có Ngày Quân Lực. Lúc làm quy mô, lúc thì thu hẹp. Cho đến năm 1973, sau khi vừa ký hiệp định Paris thì Tổng Tham Mưu tổ chức một cuộc duyệt binh vĩ đại đã được ghi vào bộ phim lịch sử ngày nay vẫn còn có dịp coi lại trên DVD. Năm đó chúng tôi tham dự trong ủy ban tổ chức tại Bộ Tổng Tham Mưu. Xin nhắc lại một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ. Trước đó một tuần, anh hùng quân đội từ các đơn vị được chào đón tại thủ đô, dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh, các công xưởng quân đội, sau cùng còn du ngoạn Đài Loan. Ngày nay, tại San Jose chúng ta vẫn còn các bạn anh hùng quân đội đại diện không quân trung tá Nguyễn quan Vĩnh và đại tá Ngô Văn Định của TQLC. Thời đó các đoàn thể và thương gia khoản đãi đại tiệc suốt tuần. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ lên làm lễ tại Nghĩa Trang Biên Hòa. Khu Nghĩa Trang Quân Đội vào đầu tháng 6-1973 đã là nơi yên nghỉ gần 15 ngàn chiến sĩ, chiếm một nửa toàn thể khu vực dự trù cho 30 ngàn phần mộ. Các trận đánh khốc liệt từ 1968 Mậu Thân đến 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa đều có đại diện Hải Lục Không Quân về nằm dưới lòng đất lạnh. Tiếp theo ngày 19 tháng 6-1973, các đơn vị Hải Lục, Không Quân, các quân đoàn, các binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ, xây dựng nông thôn, thiếu sinh quân và nữ quân nhân đều có mặt tham dự một cuộc diễn hành lịch sử được coi là xuất sắc nhất. Và cũng thật đau thương, đây là cuộc diễn hành cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


            Đoạn phim được dân Hà Nội coi lén sau 1975 hết sức trầm trồ là đoàn diễn hành nữ quân nhân. Nhịp bước quân hành của các thiếu nữ trong quân phục đã làm cho rung động cô sinh viên văn khoa Nông Thị Thanh Nga. Sau khi xem diễn hành ở đường Trần Hưng Đạo, cô ghi tên vào học niên khóa 1973-1974 để về sau ra trường trở thành thiếu úy huấn luyện viên cho đến lúc tan hàng tháng 4-1975. Ngày nay cô thiếu úy của quân đội Sài Gòn trở thành quả phụ bán hàng rong ở vỉa hè chợ Tân Định. Hàng năm đem vàng hương lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nhớ về ngày 19 tháng 6. Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với Ngày Quân Lực năm 1973. Sau buổi diễn hành, tổng thống đãi tiệc buổi trưa các anh hùng quân đội tại Dinh Độc Lập. Buổi chiều thủ tướng khánh thành khu triển lãm của Hải Lục Không Quân và các công xưởng tiếp vận. Buổi tối là cuộc rước đuốc và xe hoa. Hàng ngàn ngọn đuốc sáng rực đô thành Sài Gòn hoa lệ tưởng chừng như hòn ngọc viễn đông sẽ vĩnh viễn sống mãi với Việt Nam Cộng Hòa. Cùng buổi tối, đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng tiếp tân tại Bộ Tổng Tham Mưu.

            Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm, toàn thể nội các, ngoại giao đoàn, phái đoàn quốc hội và các anh hùng quân đội tham dự đêm văn nghệ của biệt đoàn trung ương. Ngày vui quân lực của cả một thời xưa xa cách 50 năm tưởng chừng như mới hôm qua. Bây giờ năm 2015 đã trải qua 50 năm quân lực. Nếu ngày 19 tháng 6-1975, đất nước mà còn giữ được thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sẽ có lễ khánh thành đợt sau cùng với Nghĩa Dũng Đài hoàn tất cao ngất từng không, rực rỡ hàng đèn hai bên lối đi. Khu mộ chí tướng lãnh nằm ở vòng trong, rồi đến sĩ quan các cấp và hàng binh sĩ. Nhưng rồi ngày 30 tháng tư 2015 chợt đến, ai là người còn nhớ về thắp hương tại nghĩa trang Biên Hòa.

            Khu nghĩa trang xưa trên 120 mẫu năm 1975 tính đến năm 2015 diện tích nghĩa trang thu hẹp lại chỉ còn trên 50 mẫu. Các gia đình đă cải táng di chuyển 5,000 và vẫn còn 11000 ngôi mộ với cỏ gai lấp đầy lối vào. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 2015 vừa qua, phong trào hải ngoại về trùng tu nghĩa trang đã hoàn tất được tổng cộng gần 2000 ngôi mộ, Khu Nghĩa dũng đài đã được dọn sạch. Cây cối được chính đốn lại và các con đường đuợc tu sửa. Các tổ chức hoàn toàn tự nguyện và hoạt động riêng biệt nhưng rất hữu hiệu. Không phối hợp nhưng cùng chung mục đích. Anh em đã về từ Úc ch âu, từ Pháp quốc và từ Hoa Kỳ. Hồ sơ nghĩa trang quân đội Biên Hòa đã có mặt tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam. Có mặt tại tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nói và Sài Gòn. Tại văn phòng huyện ủy Bình Đường và thủ tướng Hà Nội. Đặc biệt hơn nữa hồ sơ cũng luôn luôn trong tay vị đại tá Hoa Kỳ gốc Việt tùy viên quân sự Mỹ tại Hà Nội. Trong khi đó các Việt Kiều về thăm quê hương cũng đã có chương trình thăm nghia trạng Biên Hòa.Như vậy,trên phương diện chính thức, dù hoang phế điêu tàn nhưng Nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa vẫn còn tồn tại như một chứng tích của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Với những biến chuyển thời sự hiện nay, tuy muộn màng nhưng chắc chắn nghĩa trang sẽ trở thành vĩnh cửu cũng như lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa. Các di vật của Liên Đội Chung Sự và của quân lực đã thu về Viện Bảo Tàng tại San Jose. Ngày quân lực năm nay, Việt Museum sẽ đón chào các cựu chiến sĩ ghé lại thăm. Đặc biệt các vị từ nơi xa về thăm sẽ có dịp ghi dấu hình ảnh ý nghĩa tại San Jose với tượng đài anh hùng và hàng ngàn di tích lịch sử. Các hội đoàn quân đội họp mặt xin liên lạc với chúng tôi để thu xếp thăm viếng chung và có thể tổ chức Picnic cho từng khóa anh em trong tinh thần thực sự huynh đệ chi binh.


            Giao Chỉ San Jose
            nguồn:
            https://vietbao.com/a239190/50-nam-n...luc-19-thang-6

            Comment


            • Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng

              Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng
              Nguyễn Duy-An



              Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi. Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia, cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời.


                   Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình... Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi! Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo. Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.
                
              Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:

                   - Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ.  Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?

                   - Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?

                   - Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.

                   - Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm... Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.
                   - Tùy con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.

              * * *

                Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden, thầy tôi hỏi lớn:

                   - Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?

                   - Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “Saigon Boulevard” song song với tên đường chính thức là “ Wilson Boulevard ”.
              Còn bên trong khu Eden , tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.

                   - Người Việt mình bên này hay thật!

                   - Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.

                   Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:

                   - Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.

                   - Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao?  Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…

                   - Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.

                   - Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.

                   - Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ.  Ôi! Mấy chục năm rồi!
                   Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…

                   Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:

                   - Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.

                   - Dạ.


                   Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:

                   - Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.

                   - Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?

                   - Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.

                   - Dạ.

                   Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy.  Tôi biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:

                   - Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.

                   - Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.

                   Thầy cầm tay tôi giặc giặc:

                   - Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.

                   - Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.

                   - Ồ. Quý hóa quá!

                   Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:

                   - Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.

                   - Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…

                   Tôi đỡ lời:

                   - Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.

                   Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:

                   - Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.

                   Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:

                   - Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.

                   - Dạ.

                   Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người. Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

              * * *

                   Thầy kính yêu,

                   Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden, và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói — “không thầy đố mầy làm nên” — con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt. Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.



              Nguyễn Duy-An
              nguồn:
              http://www.quocgiahanhchanh.com/thaygiaocu.htm

              Comment


              • Bến Cũ Chiều Xuân

                Bến Cũ Chiều Xuân
                Trần Bạch Thu




                Ga Phủ Lý chiều 28 tết, một đoàn người ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hủ nhựa lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám đông hơn hai trăm người đang ngồi duổi chân trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẳm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực. Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.

                Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay tráí nên muốn được còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Tôi quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành tổ đội để chuẩn bị về Nam. Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi Trung quốc tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo mới được di dời về một số tỉnh miền Trung du mạn phía tây bắc Hà Nội và các thành phần cải tạo được sát nhập lại với nhau không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các trại chiếm đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp ở riêng còn tất cả cấp bậc còn lại đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với thành phần dân sự.

                Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn. Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người đồng cảnh tù.

                Trong suốt mấy ngày trên tàu tôi mới biết thật gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại cải tạo Long Giao, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằng lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi. Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt được cán bộ gát cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.

                Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ, thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ. Về phần anh em tổ đội trưởng, trừ một số bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ (Nam Hà) có anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân số để nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.

                - Thưa vâng.

                Khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em.

                - Tự do.

                Thế là cả buồng mọi người cười che miệng, lục đục lên lò tự chế bằng lon guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng ny lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì anh cũng nghe, bảo gì anh cũng vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết trong trại giam ngoài miền Bắc.

                Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi ga Thanh Hóa … đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản tháng 3 năm 1975, càng đi xa vào trong Nam bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu, mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi phưong tiện để về tới Sài gòn, nhưng than ôi … vận nước đã đến hồi mạt vận, chỉ chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong tới ga Bình Triệu nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại.

                Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân). Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được … vì tay bị còng. Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn quanh, lòng vui khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát ...

                Anh và tôi được xếp chung vào đội lao đông nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bửa ăn chinh chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên võ, chứ làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn là có tiền. Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, anh em giỏi và có sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện như bầu, bí, mướp, cải xanh... Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về Nam nay đã trở thành người hùng ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động, cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.

                Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với “Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” vẫn còn ở mãi. Mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả là theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.

                Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, láng gỗ ở trên, sạp dưới đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau thành nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung, “Tiếu Ngạo Giang Hồ” hay “Cô Gái Đồ Long.” Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu được thăm nuôi chuyển qua tin tức thời sự: Phục quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.

                Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng giam. Nhớ hồi còn ở trại Hà Nam Ninh, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghĩ lao động, anh em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rãi rác từng nhóm nhỏ, nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử” của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.

                “Bố già” không tham gia vào các “bàn đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho toàn đội giải lao. Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt phờ râu, ngũ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm, anh em cũng đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình nguyện chọn trong góc khuất, tối thui ờ cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mủi nên tắt sớm, về ngũ, anh em mới phát hiện ra là anh vẫn còn thức.

                “Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giởn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm, mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”

                - Bố xem các con còn ngon lành không? Khi về bố chọn đứa nào?

                - Tau gả hết rồi.

                “Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng, lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vả sau cùng nên có nghe được gì đâu.

                - Bố định làm mai cho anh đấy.

                Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi …

                “Phương trời mình đi xa thêm xa.
                Nghe vàng mùa thu sau lưng ta.
                Em ơi, em ơi thu thiết tha…
                Ôi người vì ta qua phong ba.
                Có còn gì sâu trong tâm tư. Mắt lệ, mờ hoen, dư âm xưa…”

                                                                                                (Tình Lỡ)

                Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ miền Bắc chuyển vào thì trại đã có đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn sáu, bảy năm rồi còn gì, mà lại không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nên không khí trong tù cũng khác hẳn.

                Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn là bảo lãnh không thôi, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hảng nước tương nỗi tiếng hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hảng sản xuất xe đạp cũng vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp Trung quốc. Có cả sư thầy ờ các chùa chiền địa phương. Đặc biệt nhất là có Giáo sư hội trưởng Hội Khổng học Sài gòn vào tù chỉ vì biết xem Tử vi, bốc quẻ như thần. Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy. Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích: Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước hay kiếp nầy. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.

                Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi, nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.

                Anh tốt nghiệp khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quãng Ngãi và trở thành sĩ quan tác chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già” gọi là thôn Bình An mà không Bình An. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut, Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền nhờ người mai mối và tổ chức đám cưới ngay trong năm.

                Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê… “Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo vào cho có bạn, rồi sẵn dịp coi ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi. Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lững, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.

                Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghĩ không lao động, anh em tụ tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lầy chồng chưa được bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó sanh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:

                - Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?

                - Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ trước tới giờ.

                Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.

                - Võ thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?
                       
                - Ừ, sao mi biết?
                       
                Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi, anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm môt ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rễ và anh em cùng đơn vị tại hậu cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch bắt, đơn vị báo cáo mất tích nhưng anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Sau đó, anh sống sót về trình diện An ninh quân đội và theo lời khuyên ngầm gần như bắt buộc của sĩ quan an ninh là không nên quan hệ với đơn vị cũ để bịt tất cả các đầu mối truy tầm của địch. Anh chấp hành lệnh trên và được chuyển đi nơi khác, không còn môt mối quan hệ nào ờ Quảng Ngãi nữa. Ra đi không một lời từ giả với người vợ trẻ. Rồi biền biệt qua bao năm tháng, theo đời quân ngủ anh chưa một lần nào trở lại chốn xưa…

                * * *
                      
                Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trể hẹn là chuyện thường. “Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất ngạc nhiên và vui khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố già.”
                       
                Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được thăm nuôi, anh em nhường cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà, khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống, anh bạn thuận tay trái đã nhủn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.
                       
                - Anh Mai, anh còn sống.
                       
                Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…
                       
                Tối hôm đó, “bàn đèn” của đội lao động nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi. Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quảng vì không quen kể và cảm động. “Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào:
                       
                - Cái tưởng là của mình có khi không phải là của mình. Còn cái mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại là của mình.
                       
                - Con rơi con rớt hả Bố?
                       
                - Già rồi mới thấm.
                       
                Tới khuya, anh em trong ban “cổ nhạc nam phần” của Thầy Lai phụ họa thêm vài câu vọng cổ…
                       
                “Tôi đứng đây mà tưởng chừng như đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, khi mình quay xuồng tách bến để trở lại với hai con. Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn, con nước lớn lục bình trôi rời rạc … Chiều đã xuống mặt trường giang bát ngát, mà bóng người thương cũng khuất dạng giữa … sông đầy …” (Tuyệt Tình Ca)
                       
                Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt, đường đi Quảng Ngãi – Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng. Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy năm qua tường đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy…
                       
                Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng mấy trăm người, gần hết láng trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về. Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ. 
                       
                Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều, anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng anh chị Mai Lan từ giả sớm để về Sông Vệ cho kịp Tết.    
                       
                Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng lên tiếng.
                       
                - Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được. Tình yêu đâu cần trái phải.
                       
                Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió xuân đang về.

                         
                Trọng đông, 2016

                Trần Bạch Thu
                nguồn:
                http://www.quocgiahanhchanh.com/bencuchieuxuan.htm
                 

                Comment


                • Cười cuối tuần

                  Cuối Tuần Thả Dê
                  Có anh chàng nọ lang thang ở chợ cuối tuần chợt gặp một cô gái trẻ, bèn trêu:
                  "Cô kia, cô kỉa, cô kìa,
                  Mặt mũi xinh xắn, cái kia thế nào?"


                  Cô gái không phải tay vừa, đáp:
                  "Cũng xinh, cũng xỉnh, cũng xình,
                  Cũng như chúng mình có tóc, có lông"


                  Rồi hỏi lại chàng ta:
                  "Anh kia, anh kỉa, anh kìa,
                  Dáng dấp chững chạc, cái kia thế nào?"


                  Chàng ta trả lời:
                  "Cũng cưng, cũng cứng, cũng cừng,
                  Cũng nhảy tưng bừng khi thấy cái kia"....



                  Nhờ cô láng giềng
                  Một người đàn ông đến than phiền với bác sĩ:
                  - Dạo này tôi chán lắm, chẳng có hứng thú gì với vợ.
                  - Anh uống liều thuốc này, sau ba ngày sẽ công hiệu.
                  - Nhưng vợ tôi sắp đi xa cả tháng, làm sao biết được tác dụng của thuốc?
                  Bác sĩ mỉm cười và đùa rằng:
                  - Nếu vậy, anh có thể nhờ cô láng giềng xem sao.
                  - Thôi bác sĩ ơi, cô láng giềng của tôi mà đồng ý thì tôi cần quái gì thuốc của ông!



                  E thẹn
                  Một thiếu nữ vào phòng mạch bác sĩ xin khám tổng quát. Bác sĩ yêu cầu cô cởi bỏ quần áo.
                  Vốn tính hay e thẹn cô yêu cầu bác sĩ đóng cữa phòng và tắt đèn để cô cởi quần áo trong bóng tối. Vị bác sĩ làm theo và cũng khám nghiệm trong bóng tối.
                  Một lát khám xét xong, cô gái sờ mò hoài tìm không ra quần áo của mình bèn hỏi:
                  - Quần áo của em đâu hả bác sĩ?
                  - Thì ở dưới đống quần áo của tôi ấy mà..



                  Ai lăng nhăng
                  Một đôi nam nữ đang ngủ như hai đứa trẻ vô tội. Tới ba giờ sáng, đột nhiên một tiếng động lớn vang lên ở phía ngoài. Người phụ nữ nhảy ra khỏi giường và la lên với người đàn ông:
                  “Chết rồi! Chồng em về đấy!”
                  Thế là người đàn ông nhanh chóng nhảy ra khỏi giường trong trạng thái trần như nhộng và nhảy ra khỏi cửa sổ như một người điên. Anh ta rơi bịch xuống đất, chạy qua một bụi gai, rồi chạy rất nhanh về phía xe ô tô.
                  Vài phút sau, anh ta quay lại và la lên với người phụ nữ: “Tôi là chồng cô đây, đồ hư hỏng!”
                  Người phụ nữ hét lại: “Ờ? Thế sao anh lại chạy? Đồ lăng nhăng!”


                  Comment


                  • Duyên Kiếp

                    Duyên Kiếp
                    (một câu chuyện thật 100%)
                    Sơn Trung


                    Tôi tên là Đào Duy Kỳ, dòng​ dõi Đào Duy Từ, là một Trung úy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, ra đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975 xảy đến. Cũng như mọi Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và ngồi tù qua các trại Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn...

                    Tôi vốn sinh trưởng trên sông nước Cửu Long giang, khí hậu an lành và trong mát cho nên khi ra Bắc, tôi rất khốn khổ. Tại Lạng Sơn, Thái Nguyên, mùa hè nóng ghê gớm, đến nỗi ban ngày không dám nằm giường chiếu hoặc dựa cột, ngồi ghế hay gốc cây. Mùa hè, dân nơi đây phải chui xuống gậm giường mà nằm. Mùa đông thì rét như cắt thịt, nhất là cơn gió bấc và mưa phùn đã cộng tác chặt chẽ làm tội chúng tôi, những tù nhân thiếu áo, thiếu cơm. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng đã quen thuộc với khí hậu Lạng Sơn, Thái Nguyên.



                    Những ngày ra Bắc đầu tiên, chúng tôi rất khổ sở. Chúng tôi bị bọn công an ngu dốt chửi mắng, đánh dập và hành hạ. Chúng dốt nhưng lại có nhiều tự hào. Tư hào chiến thắng. Tự hào yêu nước. Tự hào thông minh và tự hào giàu mạnh. Chúng thực thà tin rằng chúng là người trí tuệ, còn tất cả nhân dân miền Nam là ngu dốt nên đã theo Mỹ và thất bại. Chúng tự hào là chúng yêu nước nhất còn phe quốc gia là bán nước cho nên chúng đề cao khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”, hàm ý chỉ có người cộng sản là yêu nước. Chúng không biết Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và đàn em sau này của Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã ký tên bán Việt Nam cho Trung Quốc. Họ khinh người Nam ngu dốt, không có tình yêu quê hương, tổ quốc cho nên khi có người xuất cảnh, họ mở nhạc cho nghe bài “ Quê hương là chùm khế ngọt” để dạy người xuất ngoại lòng yêu nước. Họ không biết những người bỏ nước ra đi cũng rất yêu nước, yêu nhà, yêu mẹ già, em dại và yêu tự do nhưng vì cộng sản tàn ác nên phải bỏ tất cả mà ra đi! Họ coi họ là bậc thầy, còn chúng tôi là kẻ ngu dốt phải nhờ họ dạy dỗ cho nên người. Danh từ “ học tập cải tạo” ý nghĩa là thế! Dưới mắt cộng sản, nhân dân miền Nam là cầm thú, chỉ có cộng sản là con người, con người trí tuệ, bách chiến bách thắng! Sự khinh bỉ cộng với lòng căm thù cho nên một số người Bắc đã chạy sang Hongkong mà còn làm lễ mừng chiến thắng 30-4 và đánh đập người Nam tại đây!Bọn công an, bộ đội đa số nhiễm độc cộng sản, học đường lối tàn ác từ Liên Xô, Trung Quốc,lại muốn tỏ ra hăng hái tích cực để lập công cho nên chúng đày đọa chúng tôi đủ điều. Hể một tù nhân có lỗi gì là cả lũ công an, bộ đội xúm lại đánh hôi. Đánh hội chợ coi như là một đặc tính của con người xã hội chủ nghĩa. Nếu không xúm vào mà cứ đứng trơ mắt nhìn, có lẽ họ sẽ bị phê bình là không có tinh thần đồng đội, không có ý thức căm thù quân địch. Chúng lại dùng khí hậu khắc nghiệt, và cái đói và rét để đọa đày chúng tôi. Chúng bắt chúng tôi lao động cực nhọc để trả thù chúng tôi. Nhất là những ngày đầu tiên ra đất Bắc, chúng tôi thường bị dân chúng, nhất là đàn bà và trẻ con ném đá, ném đất và chửi bới thô bỉ nặng nề. Có khi họ đã tập trung đông đảo trên đường chúng tôi đi lao động để ném đá, hô đả đảo và chửi bới. Có thể là do dân chúng đã bị nhiễm nọc độc cộng sản. Có thể địa phượng bắt dân đả đảo để trấn áp chúng tôi, mong lập thành tích kia nọ. Có đôi khi chúng tôi đột nhiên gặp vài đồng bào thì họ ngại ngùng, tránh né. Có lẽ họ sợ liên lụy, sợ bị công an bắt bỏ tù vì liên lạc với tù nhân!Sống trong chế độ ác ôn, con người phải đeo mặt nạ, nếu không thì dễ bị quỷ tha, ma bắt. Tất cả đều là nạn nhân!

                    Ban đầu thì chúng tôi chao động, có người sợ hãi, nhưng rồi thì cũng quen đi vì mình đã ngồi xuống đất đen thì còn gì để mất và để sợ hãi. Chúng tôi cho rằng cuộc đời chúng tôi đã chấm dứt vì ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam trước đây, những tù binh hay phản động là ngồi tù rục xương mà thôi. Chúng tôi im lặng để mặc cho họ ném đá và chửi bới. Nếu ai bị thưong thì chúng tôi săn sóc, băng bó. Nếu dân chúng quá dữ tợn thì chúng tôi dừng lại, để quản giáo giải quyết rồi mới tiếp tục đi. Tôi hiểu dân chúng miền Bắc đa số tin theo lời tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản, và tin những lời cộng sản nói. Họ tin vào ông Hồ, họ cất giấu cán bộ, và góp lương thực ủng hộ cộng sản. Nhiều bà bảo rằng đảng lúc nào cũng đúng. Công an không bắt oan ai bao giờ. Con cháu bà nếu bị giam giữ thì bà bảo chúng nó cố gắng hoc tập tốt để sớm trở về. Nhiều ông bố thấy con ngỗ ngáo, bèn đem con cho bộ đội hay giao con cho công an để họ giáo dục thành người tốt. Ngay tại miền Nam trước 1975, nhiều người tin Nguyễn Hữu Thọ là người quốc gia, không phải cộng sản. Ông Hồ là người yêu nước, là bậc đạị nhân, đại nghĩa. Khi dân Bắc di cư vào Nam, đồng bào Nam kỳ thắc mắc: “Ngoài Bắc đã độc lập tự do, sao còn bỏ xứ mà đi?” Tất cả đã nhiễm độc quá nặng nên tôi cũng không oán trách họ. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi nhận thấy có sự biến đổi trong dân chúng. Mấy năm sau, họ không chửi bới hay ném đá, ném đất vào chúng tôi nữa. Trái lại , có những đôi mắt lặng nhìn chúng tôi như biểu lộ một niềm thông cảm.

                    Sau ngày 30-4-1975, nhiều đồng bào và cán bộ miền Bắc đã vào Nam. Khi vào thì họ ốm yếu xanh xao, khi trở ra thì béo tốt, áo quần sang trọng, lại mang cả vải vóc, xe đạp, xe Honda, TV, tủ lạnh, radio, casette là những thứ mà chỉ có cán bộ cao cấp đi Liên Xô là có thể mua về được. Họ cũng nghe những câu chuyện về Miền Nam thanh bình thịnh vương, khác với hình ảnh ghê tởm, hãi hùng do cán bộ nhà nước đã tuyên truyền trước đây như lính ngụy “xé xác, uống máu, moi gan quân thù”. Họ nhìn kỹ những tù nhân thì thấy những tù nhân này tuy bị đày đọa khổ sở nhưng vẫn toát ra sự thông minh, hiền lành. Họ nghe nói sĩ quan miền Nam phần lớn có bằng đại học, ít nhất cũng tốt nghiệp trung học phổ thông chứ không phải là hạng cán bộ i tờ như ở miền Bắc sau cuộc Cải cách ruộng đất.

                    Khoảng 1980, tù nhân đã được gia đình thăm nuôi. Lúc này thì dân chúng miền Bắc đã tới gần dân chúng miền Nam hơn khi họ gặp những bà mẹ, người vợ sĩ quan miền Nam ra thăm nuôi. Họ thấy miền Nam nhiều tình cảm, đầy tình chồng nghĩa vợ, và có tài nguyên phong phú mà thăm nuôi chồng con trong bao nhiêu năm. Vì thế, họ thấy miền Nam có một cái gì đó khác với miền Bắc nghèo khổ, cằn cỗi về vật chất và tinh thần. Những sĩ quan miền Nam trung hậu đã trở thành đầu đề cho các câu chuyện đầu môi của dân Bắc.

                    Một hôm, ông giáo Thào qua sông Gianh, là một sông rất rộng ở miền Trung. Trên đò chật ních người. Thuyền chở nặng không đi nổi. Ông giáo Thào thường qua lại sông Gianh cho nên quen biết ông lái đò. Ông lái đò kêu to lên: “Ông giáo ơi, xin giúp một tay”. Ông giáo Thào bèn đứng dậy cầm chèo. Mấy bà đi chợ cười to mà nói:

                    “Ông giáo giỏi quá!”

                    Lúc bấy giờ trên đò có mấy người trẻ, to cao, mập mạp nhưng đen đúa đồng loạt đứng dậy nói với ông giáo:

                    “Thầy để chúng em chèo cho!”.

                    Việc này làm cho dân Bắc vĩ tuyến đã hiểu biết đôi phần về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, và “ nhân nghĩa lễ trí tín” của sĩ quan miền Nam trong khi miền Bắc đã mất hẳn từ khi cờ đỏ xuất hiện trên thủ đô Hà Nội!.

                    Kỷ luật trại giam rất khắc nghiệt và tàn bạo. Tù nhân không được hái trộm khoai, sắn, rau trong trại. Tù nhân nam không được liên hệ tình dục với nữ phái, nếu bị bắt quả tang thì bị biệt giam ở hầm kín. Ai trốn trại thì bị giết chết không tha... Ngoài ra còn nhiều điều lệ lạ lùng khác nữa. Giữa trại tù thực dân và cộng sản có nhiều khác biệt, nhưng điều khác biệt rõ nhất là cái đói.Trong trại tù cộng sản, tù nhân luôn luôn đói. Lúc đi lao động, lúc nằm ngủ, chúng tôi đếu bị cái đói dày vò. Chúng tôi đa số không vi phạm điều thứ nhất là vì lúc nào cộng sản cũng canh chừng tù nhân rất ngặt. Ban đêm chúng khóa cửa lại, không ai ra ngoài để đào khoai, nhổ sắn. Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề dạ dày bằng nhiều cách.Khi đi lao động, chúng tôi có thể hái rau rừng, đào khoai rừng, hoặc bắt những con vật như rắn, cắc kè, kỳ nhông, hay đào bắt bò cạp, và những côn trùng trong lòng đất. Đôi khi chúng tôi cũng giăng bẫy bắt chồn cáo, mễn và thỏ rừng. Chúng tôi vừa lao động vừa nấu ăn rất nhanh và rất gọn cho nên cũng đỡ đói ít nhiều. Điều chẳng may là không phải lúc nào chúng tôi cũng thu hoạch kết quả vì tù nhân thì quá đông. Không những tù nhân mà bọn bộ đội, công an cũng đói phải kiếm thêm lương thực. Tuy nhiên, từ khi được gia đình tiếp tế, đời sống vật chất của chúng tôi tạm đủ. Điều khoản thứ hai thì miễn bàn, vì trại tù của chúng tôi giam toàn đàn ông, Cán bộ, công an, văn phòng và y tế cũng đều là nam nhân, không có một bóng nữ. Còn việc trốn trại thì cũng hiếm.

                    Trong trại tôi có hai công an trẻ, tên là Hoạt và Liêm rất hiền lành. Hai anh thường dẫn chúng tôi đi lao động. Các anh rất dễ dãi, không quát nạt, bắt khoan, bắt nhặt như các công an khác. Hai anh hỏi tôi nhiều điều:

                    -Nghe nói sĩ quan các anh đều tốt nghiệp đại học Sài Gòn?

                    -Đa số sĩ quan tốt nghiệp đại học, là giáo sư, kỹ sư, bác sĩ. Một số là sinh viên.

                    Như tôi là sinh viên khoa học phải đi lính vì lệnh động viên.

                    -Trong Nam phải chăng con nhà giàu và quyền thế tay sai Mỹ ngụy mới được học đại học phải không?

                    -Trong Nam ai cũng được học. Con cái của Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng... theo cộng sản nhưng chính phủ miền Nam vẫn cho con cái họ học hành, không ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm và trả thù vợ con họ. Mọi người đều được học trung học, đại học nếu có học lực khá...Học trung học xong thì các học sinh có thể xin học các đại học. Có hai loại đại học tại miền Nam: Một là học tự do nghĩa là vào học khỏi cần thi tuyển như Y khoa, Duợc khoa, Văn Khoa, Luật khoa. Một loại là phải thi vào là đại học Sư Phạm, Đại học Hành chánh... Nói chung là ai học giỏi đều có thể học đại học. Có nhiều bà buôn thúng bán mẹt cũng nuôi con học kỹ sư, bác sĩ.

                    Sau đó, cả hai công an xin tôi dạy Anh ngữ, riêng anh Liêm còn xin học nhạc với đại úy Thêm. Tôi nói:

                    Chúng tôi rất sẵn sàng giúp các anh học hành, nhưng không biết cấp trên có chấp thuận, và việc này có trái nội quy trại hay không.

                    Hai anh cho biết việc này đã được cấp trên thông qua. Sau hai năm chúng tôi chuyển trại thì việc học của hai anh công an trẻ tạm ngưng. Có lẽ các anh sẽ tìm thầy khác. Trong xã hội cộng sản, ngay cả tại Trung Quốc lục địa, hầu hết cán bộ không thích học tiếng Nga, mà thích học tiếng Anh để mong có cơ hội làm việc tại các nước tư bản. Có lẽ hai anh công an kia có dự tính xin chuyển sang ngành ngoại giao hay xin đi lao động xã hội chủ nghĩa, hay hoạt động gián điệp tại các nước tư bản. Tại Sài gòn, sau 1975, con em đảng đua nhau học tiếng Anh, còn con em “ngụy” yếu thế nên bị bắt học tiếng Nga. Sự đời tréo cẳng ngỗng là thế!

                    Tôi vốn là một sinh viên trường Đại Học Khoa học Sài gòn, bị động viên mà vào trường võ bị Thủ Đức. Tôi có người yêu là Bạch Yến, người Huế, sinh viên Dược Khoa, dòng dõi tôn thất. Hai chúng tôi gặp nhau tại một “bal de famille” nhân sinh nhật của một người bạn, và từ đó chúng tôi thường gặp nhau rồi yêu nhau. Những khi rảnh rỗi tôi thường đến nhà nàng. Ba nàng đi làm việc ở bộ Giáo dục, còn mẹ nàng lo việc buôn bán ở chợ Bến Thành, chị nàng dạy học ở trường tiểu học Bàn Cờ. Tôi thường đến thăm nàng vào trưa thứ năm vì ngày đó, thời khắc biểu của hai chúng tôi đều trống. Thỉnh thoảng chúng tôi đi xem ciné với nhau. Khi tôi đến thăm nàng tại nhà hay khi chúng tôi đi xem ciné, nàng thường mang hai ba lớp quần, nhất là nàng thường mang quần tây, hay quần jean để bảo vệ an toàn cá nhân. Và khi tôi đến thăm nàng, nàng cẩn thận đóng các cửa sổ lại kẻo xóm giềng xoi mói mà sinh ra điều nọ, tiếng kia. Tôi được phép cầm tay nàng, ôm nàng và hôn nàng mà thôi. Nàng hay khóc. Mỗi khi xúc động thì nàng chạy vào buồng khóc và lau nước mắt sau đó mới trở ra chuyện trò với tôi. Cuộc tình duyên của tôi đứt đoạn vì tôi phải đi động viên, rồi ra tiền đồn. Rồi biến cố 30-4-1975, tôi đi tù còn nàng thì đã theo gia đình ra đi trong ngày 29-4-1975 và chúng tôi xa nhau mà không một lời từ giã. Và cũng từ đó về sau, tôi không được tin tức gì về nàng và gia đình nàng.

                    Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện”. Bỗng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước lại thì một người con gái hiện ra ôm lấy tôi và kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch:

                    “Em yêu anh! Anh hãy yêu em đi”

                    Tôi không kịp phân biệt, như một cái máy, tôi ôm nàng và cởi y phục nàng. Tôi không suy nghĩ, do dự. Tôi như con hổ đói vồ mồi. Tôi như con trai mới lớn lần đầu yêu một cô gái trắng trinh. Nàng còn là một con gái và thân thể thơm mùi con gái. Tôi như đi vào một thế giới mới mẻ đầy cảm xúc tuyệt vời. Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:

                    “Anh hãy đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan”.

                    Tôi vội chỉnh đốn y phục và nói:

                    “Cảm ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời”.

                    Tôi ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai trong đời vì việc này rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa.

                    Trước khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai theo dõi, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không hề thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can dảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị bắt về nhiều tội.

                    Nàng có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng hành động như thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng thế nào đi nữa, tôi vẫn yêu nàng, trân quý nàng. Nàng là một vị tiên đã hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân sũng một lần thôi! Tôi nhớ nhung nàng.

                    Tôi nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật!

                    Tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan.

                    Năm 1985, tôi được phóng thích.

                    Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan cộng hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa thì bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này từ Hà nội đến Quảng Bình , chúng tôi không thấy có trở ngại nào. Khi về Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, chúng tôi bước xuống tàu cho giản gân cốt, thì đồng bào bu lại hỏi han, nắm tay, sờ đầu, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi!

                    Sang năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên và may mắn đến Poulo Bidong, sau đó, năm 1987, tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh người Mỹ Tho và chúng tôi kết hôn. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, nàng đã đến rồi đi như giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ giờ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai sọ, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Đà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn,vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc.Hay cao hơn nữa là một nữ đảng viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu, vai mang săc-cốt, tay đeo đồng hồ,thân gầy ốm, dáng lom khom bước trong cơ quan. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm.

                    Cuộc hôn nhân của chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, mối tình tôi. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa!

                    Các bạn bè khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi du lịch Đức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rủ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Đức. Chị tôi có con du học tại Tây Đức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến Tây Đức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi la cà trong thành phố. Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi liền đứng dậy, kéo nàng ra một bên, rồi hỏi nhỏ:

                    - Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?

                    Sau một phút ngỡ ngàng, nàng cũng nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng. Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:

                    - Bà chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về trước, cậu sẽ về sau”. Dặn dò các cháu xong, tôi theo nàng ra xe.

                    Nhà nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các anh em thì đã có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể lể sự tình. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm chức quan nhỏ ở triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản trong tay nải, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú.

                    Gia đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt đều theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ khéo giao thiệp, gia đỉnh nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, dược họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng là cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “không chồng mà chữa” còn hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp tôi, và đã toại nguyện.

                    Sau buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng đã có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người kinh it khi lên đây Gia đình nàng cũng theo nếp “du canh” của người thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong.

                    Tại đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian, gia đình nàng được phái đoàn Tây Đức nhận định cư tại Tây Đức. Anh em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam đã đành mà người Đức, Pháp, Mỹ cũng thích dùng phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương.

                    Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, và chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:

                    - Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang và gặp mẹ.

                    Tôi nhìn thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, và trắng trẻo hơn. Tôi ôm con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa con trai khôn lớn.

                    Tối hôm đó, chúng tôi sống trong đêm tân hôn. Đêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo rất xinh đẹp.

                    Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Đức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn nhân và bảo lãnh. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Đức, gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ và sống một đời tự do và hạnh phúc.


                    Sơn Trung
                    nguồn:
                    http://www.quehuongngaymai.com/forum...00-rất-hay-!
                    Last edited by BachMa; 09-03-2017, 03:55 AM.

                    Comment


                    • Chiến Thắng Đầu Xuân 1971

                      Chiến Thắng Đầu Xuân 1971
                      Đỗ Văn Phúc


                      Ưu ái tặng tất cả chiến sĩ Sư đoàn 5 Bộ binh. Đỗ Văn Phúc
                      Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong VIETNAM trước lúc hừng sáng.




                      Trên các tờ báo lớn Saigon vào một ngày đầu xuân Tân Hợi (1971), người ta đọc một giòng chữ lớn đậm nét chạy 6 cột: “Một quyết định táo bạo tại chiến trường ngoại biên: Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong Vietnam trước lúc hừng sáng” ca tụng chiến thắng lẫy lừng đầu xuân của các chiến sĩ Tiểu đoàn 4/8, Sư đoàn 5 Bộ binh trên mặt trận Snuol, Kampuchea. Các ông nhà báo quen nghề thi vị hoá; chứ thực sự thì trận đánh bắt đầu lúc hừng đông và kết thúc nhanh gọn vào lúc xế trưa. Tuy ngắn ngủi, nhưng đây là một trận đánh lớn và ngoạn mục, có ý nghĩa lớn vì đó là chiến thắng mở đầu của cuộc hành quân Toàn thắng 71 NB do Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tổ chức đánh thọc sâu vào lãnh thổ Kampuchea trên địa bàn tỉnh Kratie nhằm phá nốt căn cứ hậu cần của cái gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam, con đẻ của ngụy quyền Hà Nội nhằm xâm lược và xích hóa miền Nam ta.Sau chiến thắng Mậu thân 1968, tiêu diệt toàn bộ hạ tầng cơ sở của Việt cộng tại các tỉnh thành đô thị miền nam, cho bọn con cháu bác Hồ toại nguyện “sinh bắc tử nam”, quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường trên khắp 4 vùng chiến thuật, mở rộng thêm các khu bình định, đẩy bọn cộng quân còn sống sót chạy qua bên kia biên giới Việt Miên. Sư đoàn tôi trấn giữ ba tỉnh phía Bắc Sai gòn: Bình Dương, Bình Long và Phuớc Long. Những địa danh nổi tiếng như Bời Lời, Hố Bò, Tam giác sắt, Long Nguyên, Bù Na… nơi mới đây thôi, từng diễn ra bao trận chiến kinh hoàng, chôn thây hàng ngàn quân sĩ đôi bên. Ngày nay chỉ còn là những vùng đất đầy hố bom. Cây chồi đã mọc lên chằng chịt, thay thế cho những cây già bị bom và pháo ta đốn gục. Quân ta hành quân hàng tháng trời không gặp địch. Hoạ chăng vài ba đứa du kích còn sót lại trốn chui trốn nhũi dưới những căn hầm ẩm mốc, chờ đêm đêm mò ra ven đường xe bò nhận chút lương thực do thân nhân từ các làng cạnh lén lút tiếp tế cho để sống cầm hơi. Lính tác chiến lâu ngày không đánh nhau cũng chán. Nhất là lúc tuổi trai đang hăng, đang mơ ước chiến công để có thêm vài tấm huy chương cài đỏ ngực hoặc nở thêm một bông mai vàng trên ve áo trận, để thấy đường binh nghiệp thênh thang hơn. Tôi xuất thân khoá đầu tiên của trường Ðại học Chiến tranh Chính trị Ðà lạt, ra trường nhằm lúc chiến dịch Chân Trời Mới được phát động trong toàn quân mà sư đoàn 5 là thí điểm. Anh em chúng tôi có 39 tân sĩ quan chia nhau về 39 đại đội tác chiến của sư đoàn. Lẽ ra chấp nhận làm đại đội phó rồi lên trưởng ban 5 tiểu đoàn, trung đoàn, đa số anh em chúng tôi tình nguyện xuất nghành CTCT để nắm các chức vụ chỉ huy chiến đấu. Người đầu tiên làm đại đội trưởng là Dương Quang Bồi rất được tìn nhiệm. Tiểu đoàn tôi có 4 đại đội, thì dân CTCT nắm hết ba: Bồi, đại đội 16, Nhơn, đại đội Chỉ huy và tôi, đại đội 15. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là Ðại úy Nguyễn Chí Hiền, khoá 17 Thủ Ðức, dân nhà giáo động viên, nhưng chịu đánh đấm và đã chuyển qua hiện dịch. Anh Hiền từ đại đội Trinh sát Sư đoàn về, là con chủ bài của Sư đoàn trong nhiều năm qua lối đánh táo báo, mưu trí và óc tổ chức tuyệt vời. Ðại uý Hiền đưa tiểu đoàn 4/8 từ hỗn danh “anh Tám né” lên hàng đơn vị thiện chiến nhất sư đoàn. Nhưng cũng vì thế mà chúng tôi khổ cực hơn hết, vì được Sư đoàn sử dụng tận tình, giao cho những nhiệm vụ hóc búa nhất, chịu trách nhiệm những vùng căng thẳng nhất. Ðặc biệt, năm 1970, tiểu đoàn đã đặt chân vào trung tâm mật khu Long nguyên, xuyên qua một khu rừng đầy rẫy mìn bẫy, bình định một yếu điểm mà từ hàng chục năm trước chưa có đơn vị nào dù Việt hay Mỹ trấn ngự được.


                      Chiến trường lắng dần trong năm 1970. Cuối năm, tiểu đoàn được lệnh về trấn đóng ven đô giữ an ninh cho đồng bào Saigon ăn tết. Ðêm đêm ngủ đứng trên bờ mương vùng sông lạch sình lầy Giồng Ông Tố, nhìn qua đô thành với hàng ngàn ánh đèn màu lấp lánh, với tiếng nhạc xuân văng vẳng, lòng chợt rộn lên ước mơ một hạnh phúc sum vầy ngắn ngủi bên bếp lửa nồng ngày xuân. Gần mà rất xa, chỉ vài cây số đường chim bay thôi, nhưng nhiệm vụ và hiểm nguy từng giây ngăn trở, người lính trấn ven đô đành chế ngự ước muốn để tỉnh táo lắng nghe ngóng trong từng bụi dừa nước kia có động tịnh gì của bọn du kích ranh mãnh không.

                      Trước chúng tôi, Tiểu đoàn 38 Biệt động quân đã mất vài sĩ quan chỉ vì ngứa chân, đêm mò về Saigon nhảy nhót; khi trở ra bằng xuồng, bị Việt cộng phục kích bắn sẻ. Tết ven đô xong, trên đường về hậu cứ ở Lai khê, tưởng sẽ có dăm ba ngày nghỉ dưỡng quân, tôi viết thư về nhắn vợ con lên ở chơi, ra lệnh cho thường vụ mua sắm cho anh em binh sĩ ăn tết. Tới Lai Khê chưa kịp thở, áo quần vừa cởi ra, sửa soạn đi tắm đã nghe lệnh từ ban 3 gọi về Trung đoàn bộ họp gấp. Tôi chỉ cằn nhằn vài tiếng rồi lái xe đi.

                      Ðến nơi, vào thẳng văn phòng Trung đoàn trưởng, đã thấy đủ mặt sĩ quan tiểu đoàn và các ban của Trung đoàn. Ðại tá Bùi Trạch Dần khui hai chai Hennessy rót ra mời tận tay từng anh em chúng tôi. trong khi ban 2 phân phát những tấm bản đồ với những địa danh lạ, viết bằng thứ chữ Miên ngoằng nghèo như những con giun. Vượt biên! Thế là vượt biên rồi. Ðiều này chúng tôi đã nghe đồn từ lâu. Tiểu đoàn cũng đã từng được lệnh hành quân thực tập trong các rừng cao su Lộc Ninh từ mấy tháng trước. Nhưng giây phút này thì quá bất ngờ. Ðơn vị đã hành quân liên tục hàng nửa năm, chưa được nghỉ dưỡng quân một ngày. Ðại tá Dần tận tay mời từng người cốc rượu và nói: “Quân đoàn mở cuộc hành quân Toàn thắng, trong đó Trung đoàn 9 làm nỗ lực chính. Tiểu đoàn 4 được chọn tăng phái để bảo đảm thắng lợi cho trung đoàn ta. Sau giai đoạn 1 hoàn tất, toàn bộ trung đoàn ta sẽ thay thế họ. Ngay đêm nay các anh lên đường, chúc các anh chiến thắng lớn, đem vinh quang về cho đơn vị.”

                      Chúng tôi lục tục ra về. Chưa đến nơi đã nghe tiếng gầm rú của đoàn chiến xa đủ loại của Thiết đoàn 1. Quân sĩ thì theo điều động của thường vụ, đang tập họp lãnh thêm đạn dược, lương thực, sửa soạn lên đường.

                      Giã nhà đeo bức chiến bào,
                      Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.


                      Ngày nay, người chiến sĩ ra đi không kịp từ giã gia đình, khoác lên người áo giáp, nón sắt, súng đạn và ba lô hành trang nặng hàng chục ký, giữa tiếng gầm của những chiến xa khổng lồ thay con chiến mã; lại chẳng có gió thu ào ào mà là hơi lạnh se người của một đêm đầu xuân. Lạnh ở ngoài trời và lạnh tận đáy tâm hồn. Ðoàn xe chuyển bánh lúc nửa đêm về sáng, mang theo đoàn trai trẻ trực chỉ hướng Bắc dọc theo quốc lộ 13, tiến về biên giới Việt Miên.

                      Ðến trưa hôm sau, đoàn xe dừng ở Lộc Ninh, quận lỵ địa đầu của tổ quốc ở phiá Bắc Nam phần. Quân sĩ tấp nập bày binh bố trận; mũ nâu Biệt động, mũ đen Thiết giáp, mũ xanh Lực lượng Ðặc biệt và mũ sắt bọc vải ngụy trang hoa rừng của Bộ binh. Chúng tôi trao nhau những ánh mắt cảm thông và lời thầm chúc an bình. Tư lệnh Quân đoàn, Trung tướng Ðỗ Cao Trí, chắc nịch trong bộ chiến phục Dù đang cùng các chỉ huy cao cấp bàn bạc, tấm bản đồ trải rộng trên mui xe Jeep. Tôi được lệnh, cho quân chuyển sâu về phía trái quốc lộ đến nơi sẽ là vị trí xuất phát. Hậu trạm báo tin vợ con tôi đang có mặt tại Lai khê, xin ý kiến. Tôi bồi hồi gửi lời chào và bảo quay về, hẹn sau hành quân sẽ gặp lại.

                      Rừng biên giới cây cao và thưa thớt. Trên đất cỏ mọc xanh rì, điểm những cụm hoa cúc vàng rải rác. Quân đi sâu vào lòng đất khách đầy trắc trở. Con sông Chlong uốn mình giữa hai hàng cây bằng lăng đang ra hoa màu tím nhạt. Phía bên kia sông, chiến đoàn 333 Biệt động của Ðại tá Nguyễn Văn Phúc cũng đang di chuyển. Tiếng người nói cười xen lẫn tiếng khô khan của vũ khí va chạm nhau. Trời cao, nắng vàng ấm áp. Trên vai là chiếc ba lô đựng 25 kí quân dụng: bảy ngày lương khô, ba cấp số hỏa lực, một mìn claymore, một chiếc xẻng, năm quả lựu đạn M26… Mìn claymore bấy giờ là vũ khí đắc dụng để chống tấn công biển người. Mỗi người binh sĩ còn mang theo năm bao cát không để phòng thủ dã ngoại tránh mưa pháo. Ðạn pháo, hoả tiển thường chạm nổ từ những ngọn cây trong rừng, toả hàng trăm miểng đạn sắc bén xuống như pháo hoa. Ðơn vị tôi ít thương vong nhất vì tiểu đoàn trưởng đã dự trù đầy đủ phương tiện phòng thủ.

                      Những ngày đầu vô sự. Chỉ chạm địch lẻ tẻ khi bắt đầu vào sâu đất khách, đến gần quận lỵ Snuol. Ðọc trong nhật ký hành quân:

                      Ngày 4 tháng 2: đã bắt đầu tiến vào lãnh thổ Kampuchea. Trung đội 3 đi tiền phong. Hạ sĩ Nguyễn văn Bô bắn chết một giao liên, thu một xe đạp, một AK-47 và nhiều tài liệu quan trọng chuyển cho ban 2 khai thác.

                      Ngày 6 tháng 2: đánh chiếm một căn nhà do địch đang chuẩn bị ăn liên hoan. Giết hai tên tại trận. Thu 1 K54, 1 AK và hai dãy bàn đầy thức ăn, rượu đế….

                      Ngày 8 tháng 2: Trong lúc đóng quân ở khu nhà phía nam quận lỵ Snuol, địch từ trong khu nhà dân bắn sẻ gây tử thương hạ sĩ Nghĩa và hạ sĩ Rô. Trung đội 2 truy kích tận làng Miên, bắt giữ tất cả thanh niên gom về cho Trung đoàn khai thác.

                      Ngày 9 tháng 2: đại quân vào chiếm quận lỵ Snuol, lập căn cứ yểm trợ hỏa lực.

                      Tiểu đoàn được lệnh tiến về Tây Bắc, vượt qua đồn điền cao su bạt ngàn. Bảy giờ sáng, có một tiếng đạn AK vọng ra từ hướng trước mặt. Có lẽ địch bắn báo động. Tám giờ, tiếp cận mục tiêu. Ðây là hai khu nhà trong đồn điền, ngăn cách bởi một con đường đất đỏ. Khu bên trái là làng Thpong Cham gồm hàng chục nhà sàn bằng gạch, khu bên phải là Thpong Vietnam, đơn sơ nhà tranh vách đất. Tên làng nói lên sự phân biệt cư dân Chàm và Việt nam làm phu đồn điền tại đây. Tin tình báo cho hay địch đang đóng quân cấp trung đoàn thuộc công trường (Sư đoàn) 5 Cộng sản Bắc Việt. Ðại đội tôi chịu mặt phải, Ðại đội 16 của Bồi mặt trái, cùng tiến song song. Khi vừa nhìn thấy những mái nhà ngói đỏ làng Cham, địch khai hỏa bằng trọng liên và AK. Tiếng đạn chát chúa vang dội như uy hiếp tinh thần và làm cho ta khó phân biệt được nơi xuất phát. Quân ta đã chiếm hàng cây cao su trước mặt làng, bên kia con đường là hầm hố giao thông hào địch. Ở hai góc làng, hai lô cốt kiên cố có những cây đại liên bắn không ngừng vào đội hình quân ta. Lá cao su rụng từ mùa thu năm trước nay đã khô dòn, trải một lớp dày trên mặt đất. Ðịch nắm được điều này nên dùng kế hỏa công, bắn trái sáng đốt rừng. Lửa bắt cháy dữ dội, nhất là nương theo cơn gió thổi mạnh làm cả khu rừng ngập trong bão lửa. Quân ta núng thế phải rút chạy tránh bị thiêu sống. Nhưng chẳng lẽ chạy hoài sao? Vì rừng thì bạt ngàn. Thế là lệnh ban ra: “Phải nhảy qua màn lửa tiếp tục tiến quân bao vây địch.” Chúng tôi trở lại chiến tuyến khi mặt đất còn rát bỏng, những chiếc lá còn chút than hồng thỉnh thoảng cháy bùng lên sau mỗi cơn gió. Ðến gần trưa, tình hình như dậm chân tại chỗ. Hoả lực địch càng ráo riết. Quân ta chẳng nhúc nhích bước nào. Trung tướng Trí nóng ruột, bay trực thăng lên trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi mở thêm tần số để nghe đích thân ông ra lệnh. Giọng nói uy quyền của ông vang lên trong ống nghe: “Tôi cho lệnh phải chiếm mục tiêu trước khi trời tối; liệu không làm được thì rút ra, cho đơn vị khác thay thế. Ðơn vị nào vào trước, cắm cờ, tôi cho chỉ huy thăng một cấp.”

                      Hai giờ chiều, Bồi bị thương cánh tay phải, được băng bó và tải thương ngay. Hùng Ðầu lâu lên thay, nghe tiếng y oang oang vọng đến. Tôi bổng nghĩ ra một biện pháp táo bạo và trình ngay lên tiểu đoàn. Ðó là việc xin pháo binh yểm trợ tiếp cận, bắn từng tràng 10 trái từ phía cuối làng, kéo ngắn lại cho đến hệ thống giao thông hào trước mặt chúng tôi; quân sĩ ta sẽ xung phong ngay khi trái đạn chót vừa nổ. Pháo binh chiến đoàn từ chối, vì vấn đề an ninh cho đơn vị bạn. Thông thường, pháo chỉ bắn khi quân ta rút ra khỏi một tầm an toàn tối thiểu, vì pháo không hoàn toàn chính xác đến phạm vi từng thước trong khi quân ta chỉ cách địch chừng mươi thuớc là cùng. Lại xin ý kiến Tư lệnh; Tướng Trí O.K. với điều kiện quân ta phải tận dụng các đường thoát nước để ẩn mình. Thế là lệnh ban ra. Các trung đôi nằm dán mình xuống, nón sắt, áo giáp phủ kín những điểm trọng yếu trên thân thể; lưỡi lê cắm lên đầu súng trong vị thế sẵn sàng xung phong. Ðạn bắt đầu ra khỏi nòng từ căn cứ hoả lực. Từng tràng mười trái. Tiếng nổ nghe gần lại dần dần cho đến tràng cuối cùng nổ ngay trên hầm hố địch đối diện chúng tôi. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tưởng chừng thân thể bị bật tung lên, lục phủ ngũ tạng bị sức ép như vỡ ra, hai tai ù điếc. Nhưng vẫn cố gắng tỉnh táo đếm chính xác từng trái đạn ra khỏi nòng và nổ tung trên chiến hào địch. 96, 97, 98, 99 và …100, ầm, ầm. Trái thứ 100 vừa nổ, nhào lên các bạn, chĩa mũi súng căm thù vào giặc..

                      X U N G P H O N G…

                      Bất kể bất trắc là pháo binh có thể bắn nhầm thêm trái nữa hay không, cả trăm binh sĩ vùng lên, chạy vượt qua con đường đất đỏ, nhảy thẳng vào tuyến địch. Chúng tôi đứng trên những miệng hầm khi bọn cộng quân còn che tai cúi đầu chờ những trái đạn tưởng sẽ nổ sau đó. Bắn, đâm, lựu đạn tung xuống. Xương thịt người nhầy nhụa từng đống trong các giao thông hào. Phiá bên trong, bọn còn sống sót tháo chạy về hướng bắc. Bên làng Thpong Cham, đại đội 16 cũng làm chủ trận địa. Phải treo cờ lên ngay, xác nhận chiến tích. Lấy đâu có cờ? quân ta đi hành quân cấp tiểu đoàn chẳng bao giờ mang theo quốc kỳ, quân kỳ; chẳng có kèn đồng dù trong cấp số, mỗi đại đội có một lính kèn. Tôi tháo chiếc khăn quàng cổ nửa đỏ nửa tím trao cho Hạ sĩ Quí: “ Kiếm cái gì treo lên cho ông tướng thấy.”

                      Xác cộng quân nằm la liệt khắp nơi. Những đứa trong hầm thì thịt xương trộn lẫn, máu óc văng tung toé, khó đếm được bao nhiêu. Những đứa nằm phơi trên đất thì mình găm đầy lỗ đạn. Chúng nó là bộ đội chính quy miền Bắc, trắng trẻo, mập mạp trong bộ áo quần màu xanh lá mạ còn mới nguyên, rộng thùng thình. Những cây súng tiểu liên AK 47 còn mới, báng gỗ bóng loáng đỏ tươi chưa kịp gây tội ác với đồng bào miền Nam. Thương thay, cũng con em đồng bào miền Bắc bị phỉnh phờ đem thây làm bia đở đạn cho giấc mộng xâm lược của bọn bạo quyền. Chín mươi bảy xác để lại trên chiến trường. Khai thác tài liệu tịch thu, chúng tôi nhận diện đây là Trung đoàn 174 và một đơn vị đặc công Z27. Về sau, khi ở tù trại cải tạo Suối Máu, tôi gặp một thiếu úy cộng sản từng có mặt và sống sót trong trận này. Lúc tham chiến tại Snuol, anh ta chỉ là một hạ sĩ. Anh ta thú nhận quân ta đánh quá ác liệt và mưu trí.

                      Năm giờ chiều cùng ngày, thiết giáp chở Tiểu đoàn 2/9 vào tiếp tế thêm đạn dược và tải thương binh. Tôi gặp lại Nguyễn Văn Duyến bạn cùng khoá, đang làm đại đội trưởng. Anh em gặp nhau vài phút ngắn ngủi, trao đổi tin tức bạn bè rồi đường ai nấy đi. Chúng tôi trú phòng qua đêm. Mỗi đại đội cho một trung đội ra nằm tuyến cách đó chừng cây số. Bốn giờ sáng, Ðại Úy Hiền cho lệnh báo động; chưa kịp nhảy xuống hố cá nhân thì pháo địch nhả tới tấp. Ðịch tung đợt tấn công đầu tiên vào tuyến của Quân báo tiểu đoàn. Cả tiểu đội chín người hy sinh tại chỗ nhưng địch cũng khựng lại vì hàng rào mìn claymore. Phiá sườn đại đội tôi, địch cũng tấn công mạnh. Một số binh sĩ vì quá mệt mỏi lúc ban ngày nên không đào kịp hầm hố. Họ cứ chạy quanh gốc cao su nép mình chống trả. Thế mà không ai bị thương hay bỏ mạng. Tiểu doàn bị tấn công cả thảy năm đợt, có lúc tưởng bị tràn ngập. Tôi phải nhảy ra khỏi hố, trực tiếp bắn súng cối 81 ly yểm trợ cho bạn. Hết đạn, quăng súng vào hồ nước rồi nhảy ra phụ trợ cho trung 2 đang chịu áp lực nặng nề nhất. Nhờ có 3 cấp số đạn, nhờ có mìn claymore, chúng tôi cầm cự cho đến khi trời lờ mờ sáng thì địch bắt đầu rút. Qua làn sương mỏng, chúng tôi thấy chúng dùng móc câu kéo xác đồng bọn và vũ khí. Lại có màn thi nhau bắn bia như lúc tập ở quân trường. Lệnh truy kích được ban ra. Tôi lầu bầu: “đạn còn đâu nữa mà truy với kích.” Mặc, cứ tiến lên, địch đang rối trí bỏ chạy thì chúng có hơi đâu mà chống trả. Tiến về phía cuối rừng cao su, cách đó chừng trăm mét, chúng tôi phát hiện được vị trí chỉ huy hành quân của địch với hệ thống tổng đài và dây điện thoại chằng chịt tỏa ra như lưới nhện xung quanh trận liệt. Thì ra huyền thoại Ðiện biên là đây, binh sĩ Bắc việt, quân đội nhân dân anh hùng, con cháu Hồ Chí Minh vĩ đại dùng mười đánh một mà cũng phải chém vè. Cả trung đoàn quân Bắc không đánh nổi một tiểu đoàn quân Nam.

                      Tướng Trí và bộ Chỉ huy hành quân đón chúng tôi ở chợ Snuol điêu tàn. Ông bắt tay tôi khen ngợi và lệnh cho sĩ quan tùy viên lấy tên tuổi, số quân tôi và các chiến sĩ do tôi đề nghị. Chiếc bông mai ông hứa hẹn đem cho tôi vinh dự, nhưng không mấy hài lòng, vì tôi sắp đến ngày thăng cấp đương nhiên theo quy chế hiện dịch. Sau này, Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho tôi tấm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

                      Nghỉ ngơi vài hôm, chúng tôi lên đường hành quân sâu về hướng Bắc, đánh thêm vài trận cũng kinh hồn không kém. Có lần, chúng tôi vào tận nơi gọi là trường Huấn luyện của cục R, tứ bề thọ địch, trên vai còn cõng theo thương binh và một số vũ khí tịch thu chưa có phương tiện chuyển vận về Chiến đoàn. Nhờ phi cơ yểm trợ đắc lực, chúng tôi đã an toàn rút ra sau khi giết hết bọn lính hậu cần và đốt cháy rụi toàn bộ cơ sở địch.

                      Trận đánh ngày 27 tháng 2 là trận đại phục thù. Chúng cho trinh sát theo dõi đường tiến quân ta từ cả tuần lễ, và chờ khi tiểu đoàn đi vào địa điểm bất lợi do chúng dự liệu trước. Trung đoàn 174 được tăng cường thêm đơn vị của Trung đoàn 165, pháo lớn và đặc công từ mạn rừng tấn công ồ ạt ngay khi quân ta vừa dừng bên suối nước tạm nghỉ quân chuẩn bị ăn uống. Ðại đội Chỉ huy đóng trong làng Trapeang Lak bị tràn ngập ngay. Binh sĩ tan tác chạy về chiến đoàn, nhưng tổn thất nhẹ. Hùng Ðầu lâu đang cởi trần tắm rửa, không kịp mặc áo, ôm bản đồn dọt về phía tôi. Nhìn lui thấy cả một rừng nón cối và áo quần xanh lá mạ, ôi người đâu là người. Chúng vừa chạy vừa hô to đòi bắt sống chúng tôi: “Cái thằng cao cao, cầm bản đồ kia, chỉ huy đấy, bắt sống nó.” Ðạn cối và pháo binh địch bắn chặn đường phía nam. Một đơn vị phía Tây án ngữ lối ra. Tiểu đoàn trưởng kêu gọi ở lại cầm cự. Có một điều là đêm trước, Chiến đoàn đã bị pháo kích trúng kho đạn, thông báo đến các đơn vị nếu có chạm địch sẽ không có pháo yểm trợ. Nhờ những gốc cao su lớn, chúng tôi có điểm tựa, cầm cự đến trưa và mở được đường máu rút về phía nam, tập trung quân số phản công trở lại. Thiếu tá Nguyễn Ða dẫn tiểu đoàn 2/9 lên tiếp trợ chiếm lại mục tiêu, thu nhặt chiến trường. Tiểu đoàn tổn thất ở mức trung bình. Riêng đại đội tôi chỉ có thương binh mà không có tử sĩ. Ai cũng bảo tôi cầm quân mát tay.

                      Tướng Trí tử nạn phi cơ một tháng sau đó. Tướng Minh từ vùng 4 về thế, không có những phương lược chính xác và táo bạo, đưa chiến đoàn 8 (thay thế Chiến đoàn 9 về nước vào giữa tháng 3-71) vào thế nan giải, một mình chịu áp lực 3 công trường (sư đoàn) địch. Và thảm họa Snuol đã xảy ra. Sư đoàn 5 phải mất một thời gian dài mới khôi phục lại khí thế. Trận Bình Long mùa hè đỏ lửa 1972, với Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ anh hùng, với hàng ngàn chiến sĩ quả cảm, Sư đoàn đã ghi một chiến tích lẫy lừng vào quân sử. Giờ đây Tướng Hưng, Tướng Vỹ đã lấy cái chết dũng liệt để đền nợ nước, bảo toàn khí tiết, chiếm một chỗ đứng cao quý trong lòng tiếc thương của đồng bào, chiến sĩ. Quách Kế Nhơn, Ðèo Chính Tường, Nguyễn Trọng Thủy, Nguyễn Văn Mâu và bao người đã về lòng đất mẹ. Bồi trở về nếp sống dân thường sau chuyến du ngoạn Ðài Loan do được chọn là chiến sĩ xuất sắc nhất Quân đoàn 3. Anh may mắn không đi cải tạo, nhưng lại rủi không đủ điều kiện xuất cảnh HO. Mai Thanh Tòng (ban 5) nay ở New Jersey; nhớ lúc đem quân trở lại, cứu anh từ cái hố cá nhân đã lọt trong sự kiểm soát của địch, anh méo cả mặt: “Trời ơi, thấy cái ống quần của nó ngay trên miệng hố!” Nguyễn Chí Hiền thì ở Pháp, lâu lâu thư từ thăm nhau gắn bó như ngày xưa. Còn Hùng Ðầu lâu, còn bao nhiêu anh em khác, như bầy nghé tan đàn, kẻ tha phương, người ở lại âm thầm chịu cảnh sống đắng cay tủi nhục; có còn nhớ đến nhau không, có còn ngồi bên tách cà phê ôn lại quá khứ anh hùng, những ngày cơm sấy cá khô, chia sẻ gian lao sinh tử… và tình đồng đội thắm thiết… và niềm tự hào của người chiến binh.


                      Đỗ Văn Phúc
                      nguồn:
                      https://buonvuidoilinh.wordpress.com...dau-xuan-1971/
                      Last edited by BachMa; 10-06-2017, 05:42 AM.

                      Comment


                      • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 1

                        Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
                        Trương Dưỡng - K20



                        Lời Nói Đầu

                         
                        Một Cánh Hoa Dù nhằm mục đích nói lên tinh thần bất khuất của toàn thể quân nhân trong binh chủng Nhảy Dù nói chung và ý chí phấn đấu không ngừng của tác giả nói riêng.
                            Sau ngày mất nước, toàn thể chiến sĩ QLVNCH đều uất nghẹn, nhất là chiến sĩ Nhảy Dù; thật sự không ai muốn bỏ súng chịu thua trước một đối thủ mà trong các lần chạm trán, quân thù nghe danh đều khiếp sợ. Gần hai mươi trận chiến viết trong quyển sách nầy là bằng chứng hùng hồn, nói lên sự chiến đấu anh dũng, tài giỏi và kiên cường của những Hoa Dù ngay cả trong các trận địa chiến với quân số tập trung hùng hậu của địch như trận Tổng Phản Công Tết Mậu Thân, trận Hạ Lào, và Bình Long Anh Dũng,
                            Riêng tác giả cũng là Một Cánh Hoa Dù nhỏ nhoi, lúc đương thời từng cùng với anh em binh sĩ đã xông pha trận mạc và gặt hái vài thành quả tốt đẹp. Lúc bị thương tật, vẫn phấn đấu vươn lên; dù 9 năm sống dưới chế độ hà khắc Cộng Sản, dù bôn ba nơi xứ lạ quê người, và dù 25 năm bị hãm mình trên xe lăn, lúc nào cũng hướng về phía trước để Tự Thắng, để Nhảy Dù Cố Gắng !  
                             Mục đích của quyển sách nầy cũng muốn kể lại các cuộc hành quân mà tác giả đã trực tiếp hay gián tiếp tham dự, để cho độc giả biết qua các trận chiến nổi tiếng mà các chiến sĩ Dù đã góp một phần nào xương máu, để các chiến hữu khi đọc sẽ hồi tưởng lại những ngày mình đã xông pha vào đường tên mũi đạn tại quê nhà. Và cũng muốn để cho thế hệ con cháu biết về sự gian lao khổ cực của ông cha, chiến đấu đến cùng để bảo vệ sự Tự Do cho đồng bào Miền Nam.
                            Chương I, nói về sự huấn nhục tại quân trường, nơi đó có truyền thống huynh đệ chi binh và sự rèn luyện gian khổ để trở thành cấp chỉ huy tương lai.
                            Chương II nói về các khóa học sau khi ra trường, ngoài ra tác giả cũng muốn nói sơ về người bạn trăm năm, mà đã suốt đời hy sinh cho chồng con.
                            Chương III cũng là chương chính trong quyển sách nầy, kể lại các trận đánh oai hùng của các cuộc hành quân Dù và những chuyện buồn vui đời lính. 
                            Chương IV nói sự phấn đấu về thể xác lẫn tinh thần của tác giả khi mới bị thương tật, và ý chí vươn lên để chứng tỏ mình vẫn còn hữu dụng, chín năm kẹt lại ở VN, tác giả cùng gia đình đã cố gắng vượt qua được những cơn khó khăn, khổ cực.
                            Chương V : những ngày ở nơi đất khách quê người, tác giả đã được sự giúp đỡ của đồng hương và sự khuyến khích của người bạn đời cố gắng dìu dắt các con học hành.
                            Tác giả rất cám ơn sự khuyến khích, giúp đỡ, và nhắc nhở các điều thiếu sót về các trận chiến, về các ý kiến quý báu làm cho cuốn sách nầy thêm hoàn mỹ. Cám ơn tướng Lê Quang Lưỡng, cựu Tư lệnh SĐND; Đại Tá Nguyễn Thu Lương, cựu Lữ Đoàn Trưởng/Trưởng Phòng Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù; và các bạn  Hòa, Lạc, Tường, Mẫn, An, Chiến, Chờ, Cơ, Triết, Nguyên, Cần, Hùng, Triệu, Huệ, Bảo, Thạnh, Thành, Tâm, Nhẫn,....
                            Ngoài ra tác giả cũng có tham khảo các bài đăng trên báo Đa Hiệu, báo Mũ Đỏ, và báo KBC cùng nhiều sách báo khác để cho các bài viết có tầm rộng và xúc tích hơn, cám ơn các vị tác giả nầy. Cuối cùng xin nhấn mạnh có vài tên trong câu chuyện đã được sửa đổi vì sợ va chạm đến cá nhân. Tác giả không phải là một nhà văn, nên sách nầy coi như là “Kể chuyện”, nhớ đâu viết đó, mong quí vị thông cảm.


                        *****


                        Chương 1
                         
                        Vào Quân Trường
                         
                        1. Xếp Bút Nghiên Theo Việc Đao Cung


                             Tôi đang ăn ở Phạn xá, tưởng không ai để ý, nên kéo ghế ngồi sâu vào trong gầm bàn, hòng cho đôi chân được thoải mái đôi chút. Vì suốt cả ngày bị các cán bộ khoá đàn anh, thay phiên nhau quần phạt đủ mọi cách!
                         Bỗng có tiếng quát to từ đằng sau lưng :
                            - Anh kia!
                            Và một cây gậy dí vào lưng, vì anh cán bộ nầy đã để ý theo dõi từ lâu, mà tôi nào có hay biết trời trăng gì đâu ?
                            Anh sinh viên sĩ quan cán bộ nói tiếp:
                            - Anh có biết Tân Khoá Sinh chỉ được ngồi một phần ba ghế, và mọi động tác đều phải giữ vuông góc hay không ?
                            Chờ cho tôi biết ngồi đúng thế xong, anh ta nói tiếp:
                            - Gắp thức ăn cũng phải vuông góc. Anh đã ngồi uể oải mà còn banh chân ra nữa. Như vậy mất tư cách lắm, có biết không?
                            - Dạ thưa cán bộ biết.
                            Anh sinh viên cán bộ chỉnh xong, rồi quát to:
                            - Anh biết lỗi thì làm 20 cái nhảy xổm, vừa làm vừa đếm thật to cho cả tiểu đoàn nghe coi.
                            Như người ăn vụng bị bắt gặp, tôi vừa sợ vừa xấu hổ, liền đứng ra phía sau ghế vừa làm vừa đếm thật to . Khi nhảy được hơn 10 cái thì anh bảo ngưng:                      - Thôi đủ rồì, thấy anh làm mệt, tôi
                         thưởng anh trái “Chuối Võ Bị” nè. Anh
                        có từng thấy chuối võ bị chưa?
                            - Dạ ...thưa chưa !
                            Anh cán bộ chìa nắm tay tới trước, rồi mở rộng bàn tay, bày ra một nắm ớt đỏ tươi và nói:
                            - Chuối võ bị đây anh, ăn thử một trái coi có ngon không?
                            Tôi ngó nắm ớt, chần chừ chưa biết phải làm gì, hết dòm sinh viên cán bộ, rồi lại nhìn vào nắm ớt! Cuối cùng đành phải nhặt một trái bỏ nhanh vô miệng định nuốt trôi cho xong.                                  - Không được nuốt, phải nhai từ từ để thưởng thức chuối võ bị chứ anh! SVSQ cán bộ quát.
                            Thế là tôi bắt buộc phải nhai nhòm nhoàm trái ớt, rồi nuốt vội, ớt cay quá làm nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Tôi phải há miệng hít hà lia lịa. Vậy mà anh cán bộ vẫn không động lòng chút nào, còn hỏi một cách vô lương tâm:
                            - Ăn có ngon không anh ?
                            Tôi bấm bụng trả lời:
                            - Dạ...dạ...ngon!
                            Miệng thì nói ngon mà lòng lại cay đắng trăm chiều. Tôi cứ để mặc cho hai dòng lệ tiếp tục trôi chảy theo niềm cay đắng vì quá khổ cực và xót xa! Có lẽ vì cả hai. Bây giờ tôi mới thấy cái thấm thía, cái gian truân khốn khổ của đời lính! Vì đây chỉ là bước đầu của đời binh nghiệp mà thôi.
                          Trong phòng ăn, tiếng hát Hoàng Oanh vang lên :
                        Xếp áo thư sinh, mười sáu trăng tròn....
                        Lênh đênh báng súng,lời thề chinh nhân
                           Lời nhạc rất đúng với hoàn cảnh hiện tại, khiến lòng tôi lâng lâng bồi hồi nghĩ lại, lý do tại sao mình quyết định tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam nầy.
                            Cuối năm 1963, sau khi cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm thành công, không khí chánh trị ở Saigòn vẫn còn sôi động. Tại các phân khoa đại học, một số giảng sư chẳng hạn như gs Chu Phạm Ngọc Sơn cứ lên diễn đàn tuyên truyền toàn chánh trị, vì thế việc học của sinh viên gần như bế tắc.
                           Tôi là một sinh viên nghèo, mong sớm thành đạt để giúp đỡ gia đình. Nhưng gặp tình trạng như thế nầy thì nếu cứ tiếp tục học sẽ không đạt kết quả như ý. Do đó tôi quyết định nộp đơn tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoá 20 Nguyễn Công Trứ.
                            Thực ra còn một động cơ mạnh mẽ khác đã thúc đẩy tôi vào trường Võ Bị nầy. Số là dịp lễ Quốc Khánh vừa rồi, tôi có đi dạo phố với anh bạn cùng trường trung học Trần Trung Tiên ở tỉnh Vĩnh Bình. Anh Lâm Văn Rớt, so với tôi trước kia, thì ốm yếu lờ khờ rất nhiều. Chẳng ngờ, mới có một năm thụ huấn tại quân trường, mà anh đã thay đổi không thể nào tưởng tượng nổi. Người anh bây giờ thật hiên ngang quắc thước, trong khi Rớt chỉ đi rảo bước một cách khoan thai hùng dũng; bên cạnh nghe như có tiếng gió sột soạt, còn tôi thì phải chạy lúp súp, mới kịp theo ngang hàng với anh, làm mệt thở hổn hển gần muốn đứt hơi! Lúc đó tôi cảm thấy mình cũng là thân nam nhi mà sao quá yếu ớt. Mặc dù tôi cũng thường xuyên trau giồi sức khỏe, sáng nào cũng thức sớm trước sáu giờ, đạp xe từ Phú Nhuận đến lò Nguyễn Bình ở đường Chi Lăng để tập nhu đạo. Rồi đúng 7 giờ rưởi, phải đạp xe tới trường Petrus Ký học lớp Đệ Nhứt ban toán với các thầy Phạm văn Lược, thầy Binh, thầy Đảnh,…
                        Nói tới Nhu đạo, tôi nhớ đến một chuyện hiểu lầm nực cười: số là khi học lớp Đệ Nhị tại trường Âu Lạc do nhà văn Chu Tử làm giám hiệu. Ngồi cạnh bàn có thằng bạn tên Đặng Thông Phong, thấy nó lùn và nhỏ con nên tôi thường hay chọc: “Mầy mà lộn xộn tao quăng ra cửa sổ”. Phong chỉ mỉm cười một cách hiền lành chớ không nói năng gì hết. Nhưng có lần tôi gặp Phong ở trường dạy Nhu Đạo của võ sư Nguyễn-Bình cùng với ông võ sư Đệ Thất Đẳng Hiệp Khí Đạo người Nhựt. Thấy Phong đeo tới đai nâu, tôi giật mình vì lúc đó mình chỉ mới có đai vàng. Phong tới bảo cứ quật mạnh đi, hắn sẽ không trả đòn. Tôi nghĩ anh ta nhỏ con nên cũng còn coi thường, nhưng khi nạp đủ mọi đòn hông, đòn vai, và kể cả đòn chân mà cũng không thể nào quật ngã được, lúc đó tôi hết sức phục tư cách của Phong, một người võ giỏi mà lúc nào cũng khiêm nhượng. Vị võ sư đệ ngũ đẳng nhu đạo người Nhật nầy rất tài ba, từ ngày ông tới phụ chỉ thêm thì ai nấy đều tiến bộ thấy rõ. Ông bảo ngày nào võ sinh cũng nên cố gắng vô đòn hông vài trăm lần. Có lẽ Phong được chân truyền của ông nên võ nghệ rất xuất sắc. Có lần tôi thấy anh thi lên đai đen ở đường Phan thanh Giãn, Đa-Kao, thân hình anh mềm dịu như con mèo. Những người đai đen lớn con mà không thể nào quật cho lưng anh xuống nệm được. Còn Phong tuy thấp nhỏ mà cũng có thể hạ những tay đẳng cấp cao hơn, anh đúng là một kỳ tài. Sau nầy anh làm huấn luyện viên nhu đạo ở trường bộ binh Thủ-Đức, lúc ấy anh đã có đệ tam hoặc đệ ngũ đẳng gì rồi. Nghe nói hiện anh là Võ sư rất nổi tiếng ở California.
                         Chúng tôi tập trung ở một địa điểm gần Ngã Sáu để chờ đưa ra phi trường. 
                           Cùng đi khóa nầy có Phan Thanh Miên, bạn cùng lớp Đệ Nhứt B1 ở Petrus Ký. Má tôi có đưa tiễn, bà sắm đủ thứ đồ mang theo không hết, phải nhờ Miên xách phụ dùm giỏ cam. Bà gởi gấm đủ điều và nhờ Miên coi sóc dùm, làm như tôi còn con nít vậy! Đúng là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình.
                            Chiếc máy bay dân sự chở đám thanh niên, trong đó có tôi, xuống phi trường Liên Khương Đà Lạt. Từ cánh cửa bước ra, mọi người lần lượt rời phi cơ một cách mệt mỏi, đến tập trung tại nơi hai chiếc GMC và một chiếc xe Jeep đang đậu. Đám thanh niên ngơ ngác ngó ngang ngó dọc như sợ bỏ sót một thứ gì. Tất cả khoảng ba mươi người, tuổi từ 18 tới 25. Y phục gọn gàng, cùng với túi hành trang nhẹ đeo vai. Những người tuổi trẻ nầy trông có vẻ bơ phờ vì họ chưa quen đi phi cơ.  Bấy giờ là khoảng cuối tháng 12, thời tiết mùa đông ở Đà Lạt đã lạnh giờ lại càng lạnh thêm, những luồng gió cắt da thổi vào người khiến ai cũng bị nổi ốc, rùng mình! Xung quanh phi trường là đồi thông bát ngát, lá thông reo lên như những bản nhạc buồn làm se lòng những chàng trai đầy nhựa sống, vừa rời bỏ thành phố thân yêu. Đứng cạnh chiếc xe Jeep là 4 SVSQ khoá 19, họ mặc quân phục dạo phố mùa Đông bằng nỉ xám đen. Trên đầu đội mũ Casquette có huy hiệu Tự Thắng Để Chỉ Huy. Hai vai gắn alpha vàng trên nền đỏ thẩm, cánh tay trái có đeo giây biểu chương màu anh dũng, giày bóng loáng, kèm theo khuôn mặt nghiêm trang, trông rất oai nghi hùng dũng. Rồi chợt cả bốn người cùng tiến về phía đám thanh niên trẻ; nhìn dáng đi của họ như toát ra một cung cách hiên ngang, sắt đá, và uy lực thể hiện sau một năm tôi luyện ở quân trường. Họ và những chàng trai trẻ vừa mới đến, tuy mỗi người một vẻ nhưng cùng chung một hoài bão là đem tài trai để phục vụ non sông, tổ quốc. Đó là hoài bão oai hùng của người chiến sĩ.
                         
                        2. Giai Đoạn Tân Khóa Sinh


                          Cũng nên lược sơ qua về trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, đây là một nơi chuyên đào tạo cho chiến trường những sĩ quan hiện dịch, có trình độ văn hoá bậc đại học. Trường có thể liệt vào tầm cỡ nhứt, nhì trong vùng Đông Nam Á, nó được đỡ đầu bởi trường Võ Bị West Point ở Mỹ. Hằng năm vào ngày mãn khoá đều có sự tham dự của vị Chỉ huy trưởng trường nầy. Trường được xây cất trên một sườn thoai thoải ở độ cao 1515 mét, dưới chân Đồi Bắc, chảy dài kề cận bên ấp Thái Phiên trù phú, với vô số rau cải tươi xanh, cung cấp cho thành phố của xứ hoa anh đào. Chính tại đây đã tạo ra nhiều cuộc tình thơ mộng giữa các chàng trai Võ Bị và các nàng thôn nữ ngọt ngào diễm lệ. Nhờ khí hậu mát mẻ nên mỗi Chủ nhật, thành phố được làm đẹp thêm bởi những chàng trai Võ bị trong các bộ đồ dạo phố mùa Đông, mùa Hè, với những màu sắc hài hoà tạo cho họ vừa rực rỡ vừa hiên ngang, làm đẹp lòng các nàng nữ sinh của trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt.
                            Theo tổ chức của trường thì đứng đầu là Chỉ Huy Trưởng, đặc biệt Khoá 20 của chúng tôi có đến năm vị CHT: Đại tá Trần Ngọc Huyến, Chuẩn tướng Nguyễn-Văn-Kiểm, Đại tá Trần-Văn-Trung, Thiếu-tướng Trần-Tử-Oai, và Đại-tá thiết giáp Lâm-Quang-Thơ, người đã chủ tọa lễ gắn cấp bậc Tân Thiếu úy cho chúng tôi.
                              Trường gồm có Văn Hoá Vụ, Quân Sự Vụ, và Ban Yểm Trợ. Văn Hóa Vụ lo giảng dạy chương trình văn hóa bậc Đại học; Quân Sự Vụ huấn luyện hành binh chiến thuật, vũ khí, và tác xạ; Ban Yểm Trợ lo tổng quát các nhiệm vụ huấn luyện và còn cung cấp các lính giả địch, xe cộ vật liệu, và đạn dược,...
                             Liên Đoàn Sinh Viên chia thành 2 tiểu-đoàn, mỗi tiểu-đoàn có 4 đại đội (thời kỳ Tướng Oai nhập lại còn 4 đại đội và đại đội cờ đỏ được khen thưởng, còn đại đội nhận cờ đen thì bị cúp phép).
                            Có hai hệ thống: Tự-Chỉ-Huy và Tuần-Sự. HT Tự Chỉ Huy do sĩ quan cán bộ liên đoàn trưỡng đề cử, dựa theo thành tích điểm văn-hóa và quân-sự trong năm thứ nhứt để chọn. Hệ thống Tuần Sự do các sinh viên sĩ quan cán bộ thuộc hệ thống Tự Chỉ Huy cắt cử, hệ thống nầy điều hành công việc hằng ngày, luân phiên mỗi tuần thay đổi để trực tiếp chỉ huy các tân  khoá sinh.
                           Khí hậu Đà Lạt thật tốt, lúc ở trong máy bay tôi mệt mỏi buồn nôn, nhưng vừa bước ra cửa phi cơ là cảm thấy khoẻ ngay! Sau khi tự giới thiệu, bốn sinh viên sĩ quan cho chúng tôi biết rằng họ có nhiệm vụ tiếp đón những anh em Tân Khoá Sinh, tức là những tân sinh viên sĩ quan tạm thời. Các thanh niên chia ra làm hai, mỗi nhóm lên một xe GMC.
                            Chiếc Jeep dẫn đầu chạy phăng phăng, đoàn xe chạy vòng qua các thắng cảnh nổi tiếng của thị xã Đà Lạt, nào thác Prenn, thác Cam Ly, hồ Hồ xuân Hương, khu chợ Hoà-Bình; gần đến trường có hồ Than-Thở, ấp Thái-Phiên. Ôi Đà Lạt sao có nhiều cảnh đẹp và thơ mộng quá! Khi xe chạy ngang qua phố chợ, nhiều người vẫy tay như chào mừng, nhất là các cô gái Đà Lạt với đôi má đỏ hồng trông thật dễ thương. Họ gật gật cái đầu tỏ dấu như nhắn nhủ một điều gì. Chúng tôi ai nấy đều cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Mãi đang ngắm nhìn cảnh đẹp hai bên, bỗng chiếc xe quẹo gắt và ngừng lại trước cổng tam quan, bên hông có treo một bảng lớn đề những dòng chữ to đập vào mắt mọi người:
                        Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
                        Nơi Qui Tụ Những Chàng Trai Có Lý Tưởng
                            Nhìn dòng chữ nầy tự nhiên tôi cảm thấy tự hào, liên tưởng đến hình ảnh một Thiếu úy tuổi trẻ, hiên ngang, mang danh dự về cho gia đình và họ hàng, nhất là bà mẹ hiền, lúc nào cũng ủng hộ và khuyến khích tinh thần của con mình.
                            Chiếc cổng trường rất lớn, xây bằng gạch đỏ Đồng Nai, có nhà kiếng làm trạm kiểm soát ở ngay chính giữa, chia cổng làm hai lối, bên phải để đi vào, bên trái là lối ra. Trước nhà gương có gắn những chữ nổi bằng đồng bóng loáng:               
                        Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
                        Tự Thắng Để Chỉ Huy
                             Khi xuống xe tôi thấy một số người từ các địa phương khác đến. Có người đi bằng xe lửa, cũng có một số người đi bằng máy bay như nhóm ở Sàigòn chúng tôi. Tất cả được các SVSQ cán bộ mời ra câu lạc bộ ở trên sườn đồi thấp, xây bên ngoài cổng trường. Các thanh niên ai cũng háo ăn vì đói bụng đã lâu. Họ ngồi ngã nghiên thoải mái, cười cười nói nói huyên thiên, có gã còn liếc mắt đưa tình với mấy cô hầu bàn người Hoa duyên dáng.
                            Anh sinh viên cán bộ hỏi:
                           -  Tình hình bên ngoài ra sao, các anh?
                            Một thanh niên nói giọng Huế trả lời:
                           -  Chán lắm anh ơi! Đâu có học hành gì được, chính trị lồng vào khuôn viên đại học, làm mất hết ý nghĩa của sinh viên thuần tuý, hơn nữa lúc nào cũng đe dọa tổng động viên. Tui đi con bồ tui nó khóc quá chừng, nhưng tui nói với nó là hai năm sau ra Thiếu úy mặc sức em hãnh diện!
                            Sau khi ăn uống no nê rồi thì họ mời chúng tôi ra xếp hàng tập họp trước cổng. Từ khi xuống máy bay tới giờ, tôi thấy các sinh siên sĩ quan Khoá 19 nầy thật là lịch sự dễ thương. Các anh cán bộ bây giờ mặc quân phục kaki vàng, quần túm ống bỏ vào giày Map được đánh bóng như gương soi. Đầu họ đội nón nhựa thoa dầu láng bóng, lưng đeo dây nịt trắng to bản. Tất cả đều cầm chiếc gậy ngắn trên tay trông như những tướng Patton của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến, vừa oai hùng vừa hung dữ, sẵn sàng gõ vào đầu những chú nào ba gai. Họ còn mang lên cổ áo những cấp bậc hai gạch, ba gạch màu đỏ, trông giống như các cấp bậc của sĩ quan SS thời Đức-Quốc-Xã. Những cặp mắt ngó trừng trừng che khuất dưới vành nón nhựa, như xoi mói vào tim của từng chàng trai được gọi danh hiệu mới là Tân Khóa Sinh. Một anh đứng trước chúng tôi, cổ đeo hoa mai viền đỏ trên nền trắng, nói một cách nhỏ nhẹ lịch sự:
                            - Tôi, sinh viên sĩ quan Cán bộ tiểu đoàn trưởng, Tiểu Đoàn Tân Khoá Sinh, hân hoan chào mừng và đón nhận các anh là những Tân Khoá Sinh của khoá 20 Trường Võ Bị Quốc Gia VN.
                             Đảo mắt một vòng, anh nhìn thẳng vào các tân khoá sinh, rồi nói tiếp:
                            - Các bạn là những người đã nộp đơn tình nguyện vào quân trường nầy, để rèn luyện thành những sĩ quan hiện dịch, hầu cung cấp cho chiến trường những cán bộ thao lược. Khi vào quân trường các anh cần phải giữ đúng nội quy, và thi hành kỷ luật như các khoá đã đi trước. Ngay từ bây giờ nếu ai muốn đổi ý vẫn còn kịp, chúng tôi sẵn sàng mua vé máy bay đưa về nguyên quán ?
                             Nói như vậy chớ đâu có ai muốn trở về; mọi người trước khi ra đi đều đã bịn rịn từ giã bà con, bạn bè, và nhiều lời hứa hẹn hùng hồn với bồ bịch.
                            Anh sinh viên sĩ quan cán bộ lập lại ba lần:
                            - Có anh nào muốn đổi ý không ?
                             Chúng tôi đồng loạt trả lời:
                            - Không! không! không!
                            - Tất cả theo lệnh tôi: Bên phải..quay!
                             - Đàng trước...bước!
                            Một ấn tượng về đời lính đã bắt đầu len lỏi vào tâm tư của những chàng trai trẻ. Mọi người thi hành theo như phản xạ, họ sửa lại điệu bộ cho có vẻ nghiêm chỉnh. Do đó tiếng giày của họ cũng nện mạnh từ từ bước theo như cán bộ.
                            Trong khi nộp đơn ở Saigòn, tôi đã được hướng dẫn đầy đủ về nếp sinh hoạt trong Võ Bị. Vì nhu cầu chiến tranh, khoá 20  phải học cấp tốc hai năm, thay vì 3, 4 năm như các khoá khác, về văn hóa thì tương đương với 2 năm ngành đại học. Còn chương trình quân sự thì sẽ học như các khoá khác: về cá nhân chiến đấu, hành quân tác chiến từ cấp tiểu đội, trung đội, và đại đội. Ngoài ra cũng học về địa hình, vũ khí, tác xạ, cùng lãnh đạo chỉ huy.
                            Nhưng mọi người đều hoang mang nhất về Tám Tuần Sơ Khởi. Có người gọi đó là tám tuần địa ngục trần gian, có người gọi đó là tám tuần lột xác, sẽ lột bỏ hết những cá tính dân sự để trở thành một một quân nhân thuần tuý.
                            Giai đoạn nầy chỉ biết có tuân lệnh tuyệt đối, không được thắc mắc phân trần gì hết! Thật là giai đoạn trăm cay ngàn đắng,giống như sắt bị trui rèn trong lò luyện thép vậy.   
                            Thế rồi kèn trống nổi lên như chào đón, như mời mọc, và cũng như thúc giục chúng tôi đi vào. Nghe tiếng nhạc vui tươi chẳng khác nào khi còn ở ngoài dân chính trong những đêm liên hoan nhảy nhót ở các Phân khoa Đại học, ai cũng có cảm giác oai phong, hớn hở!
                            Nhưng!!!..
                            Người cuối cùng vừa bước qua khỏi cổng thì hỡi ơi! Tiếng quân nhạc cũng vừa chấm dứt. Mọi sự đều trái ngược, họ trở mặt một cách trắng trợn! SVSQ cán bộ ùa ra đông như kiến!
                            Một người kèm một tân khoá sinh; họ bắt đầu nạt nộ, la hét. Một anh cán bộ chạy tới quát vào mặt tôi và bảo :
                             - Anh nầy, chạy theo tôi coi, anh thấy toà nhà ngang phía trước không? Ráng chạy cho qua mặt tôi.
                             - Chạy nhanh lên, bộ tà tà muốn ba gai hả ? 
                            Đoàn quân hàng một khi nãy như bị tan loãng ra từng cặp một. Rồi mỗi người chạy đua với một sinh viên cán bộ, nhưng chắc chắn phần thua cuộc phải là những anh chàng lính mới nầy. Họ không biết, cứ ráng chạy qua mặt sinh viên cán bộ để về phạn xá (dãy nhà ngang là phạn xá) phía trước để thi hành đúng lệnh của đàn anh, mong rằng làm xong sẽ được nghỉ sớm, vì đi suốt ngày mệt mỏi quá chừng.
                            Nhưng than ôi, giống như các tân khóa sinh khác, tôi đã lầm. Lúc đang chạy ngon trớn giữa đường thì bị một cán bộ khác chận lại và quát to:
                             - Anh chạy giỏi lắm, giờ chạy ngược cho tôi coi.
                            Như chiếc xe bị giật lùi, tôi bị vấp té ngã, vì hai chân chẹn vào nhau.
                            Tức thì đàng sau, một tiếng hét như sấm nổ bên tai:
                            - Yếu đuối như vậy sao ? Làm mười cái nhảy xổm coi.
                            Tôi chưa từng biết thế nào là nhảy xổm, vì thế anh ta làm trước một cái biểu diễn, rồi bắt tôi thi hành theo lệnh. Lúc nãy chạy nước rút làm tôi mệt thở hổn hển, tim đập mạnh quá nên mặt tái xanh. Đầu óc choáng váng mà cũng ráng nhảy 10 cái xổm. Nhưng thiện chí đã như vậy mà vẫn chưa được yên thân.
                             - Nhảy thêm 10 cái hít đất !
                            Tôi tự nhủ mẹ kiếp, 10 cái nầy rồi 10 cái khác, cứ như thế thì chỉ có thác thôi! Chẳng lẽ hình phạt nầy vô tận hay sao?
                            Đang nghĩ vẫn vơ, bỗng nghe tiếng quát:
                            - Tiếp tục chạy 1 vòng sân cho tôi coi.
                            Lại tiếp tục như cái máy, tôi lúc đó vừa chạy vừa tức, vì mình đã chấp hành đúng lệnh, có ba gai gì đâu. Hồi  nào tới giờ ở ngoài đời chỉ được chiều chuộng, chứ chưa từng bị ai nạt nộ hành hạ như thế nầy. Rồi họ hai ba người kèm, bắt tôi chạy và bò qua ống cống làm áo quần bị ướt nhẹp dính đầy bùn sình, thật là dã man hết sức. Tôi quá tức giận định chạy thẳng ra cổng luôn, nhưng không hiểu sao hai chân cứ bẻ quanh vô theo những người chạy trước!
                             Từ bốn sinh viên sĩ quan tại phi trường, rồi lên bốn chục người, bây giờ thì tứ bề bị vây kín bởi những sinh viên cán bộ. Một vòng rồi một vòng, tôi cứ tiếp tục chạy cho đến khi bị ngã té xuống đất lúc nào mà cũng không hay, nhưng lỗ tai thì vẫn nghe rõ tiếng quát:
                             - Ai chỉ anh vô Võ Bị mà biết mang giày Bata vậy?
                            Tôi vừa thở vừa trả lời:
                             - Thưa có người mách tôi là vào đây sẽ bị phạt. Mang giày tốt, sợ bỏ uổng!
                             - Bộ anh khinh dễ Võ Bị phải không? Vô Võ Bị mà mang giày không đứng đắn vậy sao ?
                            Đang ấm ớ không biết trả lời ra sao, bỗng lúc đó tôi lại nghe một cán bộ quây một thanh niên khác đang đứng ủ rũ như con gà chết:
                             - Anh tưởng vô Võ Bị để nhảy đầm hay sao mà mang giày đẹp vậy, lại còn mũi nhọn hoắc nữa chứ.
                             Tôi chửi thầm trong bụng, đúng là “Quan thì to miệng, dân thì ngậm tăm”!
                              Làm quan trên thì muốn phát ngôn thế nào cũng được, mang giày xấu cũng bị phạt, còn mang giày tốt thì bảo là đi nhảy đầm. Mẹ ơi! sao con khổ thế nầy ?
                            Tôi thắc mắc là tại sao khi ở câu lạc bộ, và ngay cả ở trên xe GMC, họ đã tử tế chở vòng vòng để cho ngắm cảnh. Lúc đó các anh quả thật là những chàng sinh viên sĩ quan bặt thiệp dễ thương. Thế mà sao bây giờ họ dữ tợn quá vậy? Nghĩ như thế chừng một thoáng rồi bỗng mắt tôi nhòa dần, đầu chúi ngã về phía trước. Mắt nhìn một anh cán bộ thành hai người, thành ba, bốn, năm,...rồi mờ dần. Trong giây phút đó, tôi mơ hồ nhớ lại hình ảnh khuôn mặt của những người dân ở chợ Đà Lạt, những cái cười vẫy tay ấy như hàm ý là: “Bây giờ cười vui đi các cậu trẻ, chút nữa đây rồi sẽ biết”. Còn những nụ cười của các cô nữ sinh xứ hoa đào, tôi đã hiểu những nụ cười ấy ngầm chứa một ẩn ý như nhắn nhủ, như dặn dò: “Hãy ráng lên, cố gắng vượt qua những thử thách đầy gian khổ, rồi đây các anh sẽ là những chàng trai hùng, những người yêu lý tưởng của chúng em ”!
                             Các thức ăn mà tôi cho vào bụng một cách thoải mái ở câu lạc bộ, bây giờ ọc ra hết trọi, con người lờ đờ không tự chủ, nghe họ bảo sao thì cứ làm như cái máy.
                             Một lúc sau đó, nhờ không khí lạnh của Đà Lạt làm tôi tỉnh lại, vừa mở mắt ra thì thấy một anh cán bộ đã đứng sẵn đó từ bao giờ, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì anh ta quát lớn:
                            - Giả bộ xỉu phải không anh? Tưởng tôi thương tiếc cái mạng của anh lắm sao? Mạng của anh chỉ bằng một tờ giấy thôi. Anh hãy đứng lên trình diện tôi coi.
                            Như con ngựa đua bị thằng nài thúc hối bởi roi giọt, cứ nhắm mắt lao tới. Tôi gắng gượng đứng dậy, chân trước đá chân sau; khệnh khạng bước đến trước mặt anh ta, chưa kịp đứng vững thì bị quát:
                            - Anh có biết đứng nghiêm không? Hãy chào tay và xưng danh tôi coi?
                            - Thưa anh, tôi tên là Trương Dưỡng.
                            - Quân đội không có anh em gì cả. Dân chính lắm, phải nói là thưa Niên Trưởng.
                            Nhắc tới chữ anh em tôi chợt nhớ tới một trường hợp tức cười là chuyện hai anh em ruột phạt nhau. Người anh tên Long ở ĐĐA (sau nầy ra trường vài tháng thì bị hy sinh) quát:
                            - Anh là gì của tôi?
                            - Dạ là em của anh. Người em là Nguyễn Bảo Sơn trả lời!
                            - Quân đội không có anh em gì hết, xưng danh lại.
                            - Dạ ... mình cùng máu mủ!
                            Theo lời Sơn kể lại: Long tức giận em không nghe lời ở nhà săn sóc bà mẹ yếu, mà cứ nộp đơn đi Võ Bị! Nên hôm đó Long đã phạt Sơn tơi bời!  
                            Có lẽ thấy tôi quá mệt mỏi, anh cán bộ giả lãng, thay vì tiếp tục hành xác, anh lại chỉ vẽ cho cách chào, cách gập càm ba ngấn, thế nghiêm, thế nghỉ, cách xưng hô, trình diện.
                            Anh sinh viên cán bộ bảo tôi lập lại theo:
                            - Tân khoá sinh T.D, danh số...., trình diện niên trưởng. Tôi lập lại...nhưng đến hai chữ “Niên trưởng” thì bị khựng, vì nghe nó ngờ ngợ làm sao. Niên trưởng? Sao lại là niên trưởng? Niên trưởng là cấp bậc gì trong quân đội? Thôi thì tìm hiểu cái quái gì, lệnh ra thì cứ làm cái đã, tôi cứ lập lại như con vẹt. Nhưng nghĩ hai chữ niên trưởng nó mới lạ khó nói chẳng khác nào anh chàng vừa cưới vợ, phải sửa đổi gọi nhạc gia là bố mẹ, thay vì mọi lần kêu là hai bác.
                            Hơn mấy giờ bị quần thảo, đám tân khoá sinh được dẫn đi hớt tóc và lãnh quân trang. Phòng hớt tóc gồm 5 ghế, đặt trước gương dài, từng 5 người được gọi lên ..... “Bàn cạo”. Ai nấy như nhẹ nhõm vì từ khi bước chân vào cổng trường tới giờ chỉ có dịp nầy mới được tự do ngồi nghỉ ngơi đôi chút, họ chẳng còn thì giờ để ý tóc sẽ được cắt theo kiểu nào. Khi hớt xong, thấy đầu bị cạo trọc còn ba phân, mặt mày ai nấy đều méo xẹo!
                             Sau đó họ đưa chúng tôi vào phạn điếm để ăn cơm. Cứ bốn người ngồi một bàn, họ chỉ tôi cách ngồi thẳng lưng, hai tay buông thòng xuống, cầm gập và mặt ngó thẳng, lúc ăn phải giữ vuông góc, trông giống như người máy “Rô bô”â vậy. Bỗng tôi nghe tiếng hét trước mặt:
                             -  Anh kia! Xưng danh coi.
                            Tôi đứng bật dậy chợt thấy đó là bạn Lâm Văn Rớt, định lên tiếng bảo cứu mạng, tao bị tụi nó hành quá trời mầy ơi, nhưng Rớt làm mặt lạ quát:
                            - Xưng danh nhanh lên.
                            Tôi tưởng hắn nói chơi ai dè hắn trở mặt thiệt. Tức quá tôi hét lớn:
                            - Tân khoá sinh Trương Dưỡng trình diện.
                            - Anh đã ăn được mấy chén?
                            - Thưa 5 chén (trời ơi bạn bè mà phải dạ với thưa!!)
                            - Anh ăn thêm 2 chén nữa cho tôi coi.
                            - Tuân lệnh!
                            Nhưng đồ ăn đã hết rồi, đành phải ăn cơm với xì dầu.
                            Sau khi cơm nước xong, họ dẫn đi lãnh quân trang và quân dụng, hành trang đầu đời quân ngũ gồm: một túi đựng quân trang, một cái balô, 2 đôi giày trận, hai bộ đồ tác chiến, một cái mũ sắt hai lớp nặng chình chịch, một nón lưỡi trai và một số đồ cá nhân lỉnh kỉnh. Mọi người thay đồ tại chỗ, với bộ đồ mới rộng thùng thình, trông ngơ ngáo thật nực cười .   
                            Rồi họ đưa chúng tôi về phòng, trên lầu ba. Các tân khoá sinh bắt đầu xả nước nóng tắm rửa thật là thoải mái, mọi gian lao suốt ngày như được trút đi theo dòng nước.
                            Phòng tắm ở đây xung quanh tường lót toàn gạch men, và dưới nền toàn là gạch bông. Hằng ngày sinh viên phải quét dọn lao chùi bằng bột Nap bóng loáng trông rất sạch sẽ. Lúc đó trời đã tối đen, bỗng nghe tiếng kèn thổi báo ngủ. Tất cả tân khoá sinh mọi phòng đều phải lên giường và tắt đèn đi ngủ.
                            Đây chỉ mới ngày đầu trong 8 tuần lễ sơ khởi, còn lại năm mươi lăm ngày thử lửa nữa, với nhiều trò phạt hành xác mới mẽ, khi nhớ tới cảm thấy rùng mình, thật là đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
                            Suốt 8 tuần, tân khoá sinh bị phạt tập thể hoặc phạt dạ chiến cho cá nhân nào bê bối, từ sáng đến tối chỉ toàn là cực hình, nhiều hình phạt thật là vô lý không thể tưởng. Có lần cả tiểu đoàn tân khoá sinh bị sinh viên Phạm Hiệp Sĩ, Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, phạt tập hợp kiểu “ Nhanh như lá vàng rơi ”. Tất cả tân khóa sinh đều ở  trên lầu ba, khi nghe tiếng còi, một cán bộ thả chiếc lá, cũng từ lầu ba, mọi người phải chen nhau chạy xuống tập họp. Làm thế nào mà hơn 400 người có thể thi hành kịp với một chiếc lá rơi, có thể nếu biết bay thì may ra. Thế là lên lầu làm lại, chạy lên chạy xuống cho tới gần xỉu thì vị tiểu đoàn trưởng lên bục xỉ vả nào là ba gai, nào là tránh né, rồi bắt bò, hít đất, nhảy xổm,...
                            Có hình phạt bắt lấy cây tăm đo chiều dài của sân trại, hoặc ăn trái ớt và bảo nó là trái chuối, hoặc bảo đổ đầy bình bi-đông bằng chai dầu gió. Có anh tân khóa sinh nhận thư tình dài tới 7 trang giấy! Sinh viên cán bộ bảo anh lấy keo dán lại thành tờ giấy dài lê thê giống như sớ Táo Quân, rồi bắt anh ta đứng lên bục gỗ, đọc to cho tất cả cùng nghe! Nhiều đoạn trong thơ thật ướt át, mùi không thể tả! Nghe anh đọc lên ai cũng muốn cười bể bụng,... nhưng nếu anh nào cười thì sẽ bị phạt ngay.
                            Mỗi lần ra sân bắn, tân khoá sinh thường thi đua với nhau “chầu tê liệt”, hễ ai thua điểm thi tác xạ thì tối về đãi một chầu bao bụng cho người thắng cuộc, ăn no nê mệt nghỉ! Nhiều tân khoá sinh trong khi học môn địa hình, tìm cọc và điểm đứng. Khi đi qua khu vực trồng cà rốt trong ấp Thái Phiên, có anh muốn thưởng thức món cà rốt tươi ướp lạnh, đã nhổ lén một củ ăn rất ngon lành, xong nhét đồng tiền chì vào lỗ vừa mới nhổ trống, coi như mua vậy. Có toán vì lo kiếm anh chàng nào đó đang lén tìm lùm cây chui vô ngủ, vì đêm qua gác nên thiếu giấc. Do đó cả toán về trễ giờ quy định nên bị phạt tập thể.
                             Mọi sự di chuyển trong doanh trại của tân khoá sinh đều đi đúng nhịp hoặc chạy lúp súp, chớ không được đi rảo bộ khơi khơi. Mỗi buỗi sáng thức dậy lúc 5 giờ chạy sáng, rồi dùng bột Nap để lau chùi phòng ngủ, phòng vệ sinh cho bóng. Lúc nào tân khoá sinh cũng phải đi nhón gót, vì nếu cán bộ thấy dấu chân dính trên nền các phòng thì tối đó sẽ bị phạt dạ chiến.
                            Ngoài ra giày phải đánh bóng, áo quần để trong tủ cá nhân và mền drap đều phải xếp vuông thẳng, sinh viên cán bộ mỗi Thứ Bảy đều đeo găng tay trắng, rồi họ cố tình rờ dưới tủ, dưới giường, ở kệ sách, và các bộ phận tháo rời của súng cá nhân.
                            Trong khi thi hành lệnh phạt thường bị xỉ vả:
                           - Anh thích cười ruồi với thợ giặt hả ?
                           - Tà tà hả, tránh né hả, anh nào ba gai sẽ bị ra trung sĩ đó.
                           - Anh yếu xìu như vậy mà đòi ra trường chỉ huy binh sĩ hả?
                           - Anh uể oải, chán nản, không hiểu thế nào là Tự Thắng để chỉ huy sao ?
                           Vài chuyện đáng kể là trường hợp tân khoá sinh Đỗ Quang Xuân có người anh họ là Đại tá Quân Sự Vụ Trưởng. Ông ta sắp đổi đi ra đơn vị tác chiến nên bảo với sinh viên cán bộ tuần sự đại đội cho gặp Xuân, nhưng sinh viên cán bộ nói :
                            - Theo qui chế tân khoá sinh không được gặp bất cứ sĩ quan nào trong suốt 8 tuần sơ khởi, nếu đại tá gặp xong tôi sẽ phạt anh Xuân.
                            Vì muốn nhắn chuyện gấp nên ông ta đành gật đầu ưng chịu. Tối hôm đó Xuân bị phạt dạ chiến trước đại đội.
                            Đại uý Đại đội trưởng Đại đội A là một sĩ quan rất khắc khe và cứng rắn, nên hôm cháu ông nhập trường, khi đang thọ phạt, anh xưng là cháu của Đại úy Di để may ra họ nể mặt mà phạt nhẹ. Nhưng anh sinh viên cán bộ nghe được càng phạt nhiều thêm. Tội nghiệp anh bị xỉu lên xỉu xuống, lúc đó tôi là sinh viên sĩ quan đại đội trưởng hệ thống tự chỉ huy, trong khi anh đang xỉu, tôi lén thoa dầu cho anh. Có lần khi tân khoá sinh khoá 21 tên Lê hữu Khiêm đang thọ phạt, tôi thấy trung uý Lê hữu Khái, sĩ quan Đại đội trưởng Đại đội B, đi tới đi lui, hai tay cứ xoa với nhau, như muốn tìm cách giúp đỡ em mình, mà không thể làm được! Khoá tôi có một đứa em ruột của một vị trung tướng mà cũng bị ra trung sĩ vì thiếu điểm.
                            Những thí dụ trên chứng tỏ sự chí công vô tư, không sợ quyền thế. Đó là tinh thần đặc biệt của những sĩ quan xuất thân từ quân trường mẹ nầy.  
                            Vì tập quá vất vả và phải chạy hoài nên toán nào cũng có những tân khoá sinh bị bong chân, cứ đi cà nhắc theo sau hàng quân, chúng tôi đặt tên cho họ là “ Phái Đoàn Thiện Chí ”.
                            Đối với tân khoá sinh, thợ giặt lúc bấy giờ có thể được coi như người thân tốt bụng duy nhất. Với tiền lương trung sĩ cho năm thứ nhứt, tôi có thể nhờ thợ giặt mua dùm thuốc bổ calcium B1, sữa hộp, kẹo,.. Mỗi buổi chiều thợ giặt cũng bán  gà rôti, hột vịt lộn, bánh mì nem, chả chiên,...  Sau khi học quân sự về, TKS sợ nhứt là lúc tập họp đi ăn, vì đây là dịp để các sinh viên sĩ quan cán bộ phạt tập thể, họ nêu nhiều lý do rồi phạt chạy, bò, hít đất, nhảy xổm,...Những người nào có cử chỉ không thi hành tích cực thì bị cán bộ đại đội gọi trình diện phạt dạ chiến vào ngay tối hôm đó, với balô chất đầy quân trang, nón sắt và vũ khí cá nhân, rồi bị hành xác từ 8 tới gần 10 giờ đêm. Vì vậy mỗi lần tập họp đi ăn, tôi thường uống 2 ống calcium B1, húp một ít sữa đặc, để có thể thi hành hình phạt đàng hoàng, hầu tránh bị xỉu hoặc bị gọi phạt dạ chiến phụ trội.
                            Vì bị phạt tập thể mỗi lần gần hai tiếng đồng hồ, nên khi vào phạn xá, ai nấy đều đói meo, người nào cũng ăn trên năm chén cơm. Khóa tôi đặc biệt có anh Nguyễn hiền Triết, cao 1.85 m, tiêu chuẩn tối thiểu của nó là 7 chén. Triết thủ cờ Liên Đoàn trong năm thứ hai, sau nầy ra Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, rồi  về làm sĩ quan cận vệ phủ Tổng Thống.
                            Tánh Triết rất tếu và tốt với bạn bè, có lần vào đêm cuối năm, Nghiêm đang chỉ huy Đại đội Nhảy dù đóng ở vườn Tao Đàn với nhiệm vụ phòng thủ vòng ngoài phủ tổng thống, Triết qua rủ người bạn đồng khoá nầy, lợi dụng giờ giới nghiêm, lấy xe đi đến các khu nhà giàu, nơi nào có để các chậu bông ngoài cửa, Triết, Thành, và Nghiêm đều bợ hết. Khi tới một biệt thự nọ, có chậu bông thật to, cả ba đang hì hụt lăn lên xe, bỗng có một cảnh sát viên từ trong hẻm đi ra. Ba đứa đang lúng túng, nhanh trí Thành chồm tới kéo cổ áo ra hù:
                            - Đại úy nè, sao còn đứng đó, không tới đây lăn phụ.
                            Thấy tới ba ông Đại úy Nhảy Dù vừa trẻ tuổi vừa cao lớn oai nghi, anh cảnh sát đâu dám chần chừ:
                            - Dạ! Dạ! Đại úy.
                            Rồi anh săn tay áo, phụ khiên chậu bông lên xe!
                            Nghiêm và Triết vừa làm vừa cười thằng quỉ Thành nầy ma le lanh trí quá! Sáng hôm sau, Triết chở mấy chậu bông đem phân phát cho những thằng bạn cùng khoá, trong đó có phần của tôi là một chậu bông giấy.
                            Triết chẳng những to con mà mũi lại cao, nước da hơi ngâm đen, trông giống người Mỹ gốc Mễ lắm. Có lần chúng tôi cùng Triết đi ăn chè, chị bán hàng hỏi:
                            - Ông Mỹ nầy cũng biết ăn chè sao ?
                            Tôi sẵn dịp nói đùa:
                            - Hắn là Mỹ mà biết nói tiếng Việt đó.
                            Chị ta không tin, tôi làm bộ nói với Triết:
                            - Can you speak Vietnamese ?
                            Triết cười hô hố giọng như Mỹ rặc:
                            - Oh yeah ! Of course !!!
                            Chúng tôi bảo cá nồi chè, chị ta cười cười bảo cứ làm thử.
                            Triết làm bộ nói bập bẹ:
                            - Cộ...thu..ơng t..ui  kh...ôn ?
                            Cô bán chè nghe nói mặt đỏ như e thẹn, trố mắt nhìn Triết một cách ngạc nhiên, cuối cùng cô tặng cho ông Mỹ da vàng chén chè khỏi trả tiền. Nhưng bụng của Triết ăn một chén đâu thấm tháp gì, sẵn trớn hắn làm thêm chục chén, khiến chị bán chè hôm đó trúng mối dẹp gánh về nghỉ sớm.
                            Cũng tại cái bao tử to ấy mà khiến Triết phải vô cùng điêu đứng khổ sở, vì suốt mười năm trong trại tù tập trung, mỗi buổi ăn chỉ có một chén cơm trộn củ sắn với nước muối, thì làm sao mà chịu cho thấu. Đã vậy lúc ra tù, sáng nào với bụng rỗng, đôi chân run rẩy, Triết cũng ráng chạy xích lô vòng vòng kiếm khách, mong tìm chút tiền mua cơm ăn dằn bụng trước đã.
                            Lúc đó dưới chế độ kiểm soát bằng lý lịch, các sĩ quan ra tù về chỉ có nước đi vá xe đạp ngoài đường, hoặc khá lắm thì mướn được xe xích lô để sống lê lết qua ngày. Nhưng xích lô thì nhiều mà người thì nghèo, Triết kiếm ăn rất khó, đã khổ lại càng khổ thêm, lu gạo nhà Triết lúc nào cũng trống rỗng. Mặc dù chị Triết cũng hết sức chịu khó, nhưng kiếm tiền không ra, vì thế các con anh (đứa nào cũng nặng hơn 4 ký khi chào đời, sức ăn mạnh như cha) bị đói dài dài. Đôi khi Triết cứ chạy lang thang ngoài đường hoài vì sợ về nhà thấy cảnh vợ con nheo nhóc! Đúng là anh hùng mạt lộ chỉ có trời ngó thôi!
                                 Có lần chở khách ở khu Bà Quẹo, sẵn dịp Triết ghé thăm tôi. Thấy anh ốm nhom, mặt mày xanh lét, tôi hết sức xúc động, hơn mười năm gặp lại mà đã suy tàn như thế nầy. Tôi vội nói bà xã nấu một nồi cơm to, để hai đứa vừa ăn vừa hàn huyên lại những kỷ niệm vui buồn ở quân trường. Hiện nay Triết đang sống bằng nghề sửa áo quần ở tiểu bang Arkansas, với bản chất của người trai Đa Hiệu, anh ta từ tay ngang bây giờ đã là thợ sửa đồ vét, đồ cưới được khách hàng hết sức ưa chuộng, còn Thành tuy đẹp trai giống Châu Nhuận Phát nhưng đã hy sinh năm 1971!
                            Bây giờ xin trở lại chuyện dài về tân khoá sinh; sau 8 tuần huấn nhục, Khoá 20 có khoảng 7, 8 người bị trả về dân chính vì lý do sức khỏe, không chịu đựng nỗi, mọi người đều như thay da đổi lớp, dáng dấp yểu điệu thư sinh không còn nữa. Bây giờ tôi cân lên thêm được tám ký, người dẻo dai hơn trước, mọi thứ đều tiến bộ cả về thể xác cũng như tinh thần. Chúng tôi ai nấy đều hiểu rằng mục đích của những hình phạt cực hình đó không ngoài việc tạo cho sinh viên sĩ quan một cơ thể chắc chắn, một tinh thần chịu đựng có thể thích ứng với mọi khó khăn dù gian nan tới đâu cũng biết tự thắng để chỉ huy. Nhất là những hình phạt gọi là vô lý đó, cũng không ngoài mục đích tạo cho chúng tôi thích ứng, làm quen với kỷ luật sắt trong quân đội. Đó chính là: “Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.
                            Mọi người đã dần dà có cảm tình với các niên trưởng, mến phục thái độ đàn anh của họ. Những hành động đáng nhớ như khi kèn ngủ đã thổi lên, mọi đèn phòng tắt, các sinh viên niên trưởng đã lặng lẽ đi từng phòng kéo chăn mền đắp lên người khoá đàn em, vì sợ họ mệt quá ngủ quên sẽ bị trúng gió. Cũng có những lần các sinh viên cán bộ biết các tân khoá sinh chờ tắt đèn im lìm đâu đó, rồi mới lặng lẽ tu những hộp sữa đặc đã dấu sẵn dưới mền, nhưng họ đã lờ đi vì các niên trưởng biết những đàn em hết sức tội nghiệp nầy cần phải bồi dưỡng thêm cho cơ thể sau mấy ngày học tập và chịu hình phạt hết sức vất vả.
                            Những hành động đó tuy âm thầm, nhưng thể hiện biết bao nhiêu tình đồng đội của những người cùng chung mái trường mẹ thân yêu! Bằng chứng là sau 30 năm gặp lại các đồng môn ở xứ người, lòng tôi tràn đầy hân hoan, lúc nào cũng cảm thấy ấm cúng như gợi nhớ lại những kỷ niệm vui buồn, nhớ nhứt là các niên trưởng cán bộ thời kỳ Tám Tuần Sơ Khởi Tân Khoá Sinh.
                             Riêng anh Lâm văn Rớt, sau khi tốt nghiệp về Tiểu đoàn 7 Nhảy dù, đã bị thương nặng ở trận Bình-Giã. Rồi về làm sĩ quan chính huấn ở Đại đội Tổng hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1975, anh bị tù gần mười năm, khi về nhà thì vợ đã mất. Anh phải ngồi bán thuốc lá dạo ở chợ Vĩnh Bình để nuôi các con lúc ấy còn thơ dại. Hiện tại anh đang ở Pháp .
                         
                        3. Chinh Phục Lâm Viên
                         

                            Rồi Tám Tuần Sơ Khởi cũng trôi qua, các Tân khoá sinh được thử thách lần chót. Đó là chinh phục đỉnh Lâm-Viên: cả khoá chia làm hơn 40 toán, mỗi toán khoảng 10 người. Tất cả chuẩn bị đầy đủ hành trang tác chiến chứa đầy trong ba lô, súng cá nhân địa bàn, bản đồ quân sự. Mọi người đều phát xuất từ vũ đình trường và trên đường đi đến đỉnh Lâm Viên phải tìm cho được một số cọc trên đó có ghi các ước hiệu địa hình quân sự chỉ định.
                             Toán chúng tôi vượt thung lũng ở sân bắn, xuyên qua đồi yên ngựa, vừa tới chân núi Lapbé North thì trời đã mờ tối, theo bản đồ thì cọc thứ nhứt ở trên lưng chừng một đường đỉnh của rặng núi nầy. Khi tới đúng tọa độ, tất cả phân tán chia nhau ra tìm, tôi mãi lo nhìn theo lằn lân tinh trên địa bàn để định tọa độ lại cho chính xác thì bị hụt chân rơi xuống hố sâu, tôi la lớn để mấy đứa cùng toán tới phụ kéo lên, vì vai mang ba lô nặng chỉu.. Bỗng có đứa kêu lớn :
                            - Thấy cọc rồi tụi bây ơi!
                            Chúng tôi mừng rỡ vội chạy tới, soi đèn lên thì thấy trên cọc có vẽ ước hiệu trung đoàn bộ binh, lúc ấy khoảng 11 giờ đêm; chúng tôi lại lấy bản đồ tiếp tục định hướng để tìm các cọc kế tiếp. Đến một giờ khuya lại tìm được thêm được hai cọc nữa, và khi trời mờ sáng thì đã qua đủ số cọc chỉ định và cọc cuối cùng nằm ngay ở chân núi Lâm Viên. Toán chúng tôi được thưởng mỗi người một lá cờ Lâm Viên vì đến trước nhất và tìm đúng hết các cọc.
                            Đêm đó có tổ chức đốt lửa trại và ca hát rất vui vẻ. Đặc biệt có anh Chu văn Thiệp, thổi khẩu cầm qua nòng súng và nhảy múa rất lả lướt. Tiếng hỏa châu nổ tưng bừng như ngày hội lớn trên đỉnh Lâm Viên. Niềm hãnh diện của những chàng tân khóa sinh vì họ đã vượt qua giai đoạn thử thách đầy cam go, khổ cực đầu tiên trong đời binh nghiệp nầy.
                            Tối hôm sau, tại trường Võ Bị, trong mỗi phòng, dưới ánh đèn cầy mờ ảo, các sinh viên sĩ quan khoá đàn anh đến làm lễ trao găng tay theo truyền thống. Tiếp theo đó là lễ gắn Alfa. Từ đó trở đi, tôi và anh em cùng khoá 20 VBĐL chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tất cả rất hãnh diện cất tiếng ca bài “ Võ Bị Hành Khúc”, mỗi khi di chuyển đều bước trong hàng quân:
                        Ta đoàn sinh viên Võ Bị Việt Nam
                        Đồng hát khúc ca quân hành
                        Đoàn sinh viên ta xiết chặc dây thân ái
                        Gieo  khắp đó đây những mầm sống vui
                        Đồng thanh ca ta vui hát lên
                        Dù gian nan qua bao khó khăn
                        Đoàn Sinh Viên ta vui bước lên
                        Đi lên,....đi lên.....đi
                        Ta đoàn Sinh Viên họp đoàn vui sống
                        Gieo khắp đó đây khúc ca thanh bình
                            Trong giai đoạn tân khoá sinh, chúng tôi chỉ được học phần quân sự, gồm các môn: tháo ráp và lao chùi vũ khí, cơ bản thao diễn, đoạn đường chiến binh, tác xạ các loại súng trường M1, Colt, Tiểu liên, Trung liên, Đại liên,....Ngoài ra còn học về địa hình, tìm cọc và tìm điểm đứng. Cũng học về cá nhân chiến đấu, thoát hiểm mưu sinh, lính gác giặc. Chiến thuật tiểu đội tuần tiểu phục kích, tiểu đội đột kích đêm,..
                         
                        4. Giai Đoạn Sinh Viên Sĩ Quan


                          Giai đoạn nầy, khi chánh thức trở thành Sinh viên Sĩ quan,  chúng tôi học cả Quân Sự lẫn Văn Hoá. Học Văn hoá thường vào mùa mưa; mỗi lớp học chứa khoảng 25 sinh viên sĩ quan, vì thế các đại đội phải chia thành hai toán A1, A2, B1, B2,.. Lúc đi học thường mặc kaki vàng ủi thẳng nếp, chúng tôi không dám ngồi chồm hổm, sợ nhăn nếp sẽ bị khóa đàn anh phạt. Trường được trang bị các phòng thí nghiệm rất tối tân: Phòng Thực Nghiệm Vật Lý, Hoá Học, Kỷ Nghệ Nặng, và Điện Tử,...
                            Ngày đầu tiên khi vào học lớp Anh Văn, tôi giật mình vì sau 8 tuần lột xác, đầu óc bây giờ trống trơn, ngay cả chia động từ “To Be” mà cũng quên, đúng là 8 tuần “Tẩy não”. Rồi thời gian trôi qua, chúng tôi dần dần nhớ lại, nực cười nhất là giỏ cam mà má tôi gởi cho thằng Miên xách dùm tại điểm tập trung ở Sàigòn, cách nay đã hai tháng, mãi tới giờ nầy mới nhớ thì nó đã nằm trong bụng của Phan thanh Miên hết rồi !
                            Thời gian Thiếu tướng Trần Tử Oai về làm chỉ huy trưởng, ông thấy các sinh viên sĩ quan có vẻ cứng ngắc, thực hành kỷ luật một cách tuyệt đối, việc gì cũng lý tưởng quá mức. Ông đã phạt lia lịa, toàn tội trọng cấm (nhưng không lưu hồ sơ cá nhân). Mục đích muốn các sinh viên nếm chút bụi đời, chớ thật ra ông rất thương chúng tôi, vì thỉnh thoảng ông tự lấy xe qua nhà tù rước các sinh viên bị phạt về.
                            Tôi cũng là một nạn nhân trong đó. Một hôm nọ, lúc liên đội F, H đi ngang qua phòng Chỉ huy trưởng, tôi và Thái Văn Huyện, là đồng trưởng toán, đang vừa chào Tướng kỳ vừa đếm nhịp bước thì  nghe tiếng gọi :
                            - Dừng lại.
                            Huyện vội hô :
                            - Đứng lại .....đứng .
                            Tôi quay đầu nhìn, thấy một người có khuôn mặt đầy oai vệ; tay ông cầm cây “Can”, trên nón có hai ngôi sao sáng chói; đang cùng sĩ quan cận vệ đi tới, chúng tôi ai nấy đều hồi hộp, thiếu uý đã ghê lắm rồi huống chi đây lại là thiếu tướng!
                            Ông ta cất tiếng rổn rảng :
                            - Các anh đi học ở đâu về ?
                            Huyện run rẩy trả lời :- Dạ thưa .... Thiếu .... uý, đại đội học tác xạ về.
                            Chúng tôi ai nấy đều giật mình cười thầm, thằng nầy gan trời, dám kêu Thiếu tướng bằng thiếu uý! Ông ta gõ khẻ lên đầu Huyện và nói:
                            - Sinh viên Sĩ quan gì mà nhát gan vậy .
                            Thế là ông phạt 2 trưởng toán 10 ngày trọng cấm. Tôi bị vạ lây thật là oan uổng, khi về tới doanh trại vội tắm rửa thu xếp hành trang lên xe qua nhà tù ở bên khu Quan Trung.
                            Đây là khu trường cũ, nhà cửa xập xệ, trong tù đầy nhóc sinh viên sĩ quan Khoá 19 và Khoá 20, quang cảnh thật hỗn độn, không còn thể thống, đàn anh nghiêm trang đáng kính sợ nữa. 
                             Các niên trưởng ở đây thật là xuề xoà dễ chịu, nói chuyện vui vẻ thật cởi mở; tiêu chuẩn tù phải ăn cơm muối, nhưng câu lạc bộ kế bên, anh lính trực đâu có khóa cửa tù, vì “Ở trong đó toàn mấy ổng không”! Đó cũng là dịp để nghỉ ngơi thoải mái, hết qua câu lạc bộ ăn thì về nằm luyện chưởng : Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long, Lệnh Xé Xác,...Riêng tôi chỉ thích cỡi con ngựa chiến to lớn số 75 (của bà Ngô Đình Nhu trước kia), ngựa nầy to lớn và phi rất nhanh, có lần tôi cỡi nó phi nước đại, chạy qua mặt xe hơi “Con Cóc” ở gần Lò Nguyên Tử. Khi tôi cỡi ra tới phố Đà Lạt, trên bờ Hồ Xuân Hương, con 75 thấy mấy ngựa cái (để cho du khách thuê), nó nổi chứng hất tôi rớt nguyên con xuống đất làm ê cả xương mông!
                            Khoá tôi có Phan thanh Miên cỡi ngựa chì nhất, hắn làm Hội trưởng Hội Kỵ Mã. Vào ngày Lễ Mãn Khoá, Miên đóng vai tên quân cấp báo trong kịch Trận Đống Đa. Khởi đầu tuồng kịch, Miên phi ngựa nước rút từ bên nầy sân Vũ Đình Trường chạy qua tới bên kia sân, nơi vua Quang Trung đang ngồi trên mình voi, Miên gò ngựa cái rụp, phóng nhanh xuống, tới quỳ trước đầu voi hô to:
                            - Dạ cấp báo, giặc Thanh đang  tiến đánh nước ta !
                            Miên cũng đá banh rất giỏi, là tuyển thủ giành cúp vô địch tỉnh Lâm Đồng cho nhà trường, nhờ vậy nên được thêm 1 điểm trung bình, cuối năm thứ nhứt xếp hạng cao và được làm sinh viên cán bộ Liên đoàn. Miên được tuyển về Sư đoàn Nhảy dù, cùng Tiểu Đoàn 9 với tôi. Sau 1975 anh bị tù hơn 8 năm, tội nghiệp chị Miên ở nhà tảo tần nuôi con, ráng sức gom góp và vay mượn để có tiền ra tiếp tế chồng ở ngoài Bắc. Rồi chị cố làm để trả nợ, nuôi con, đến nổi phải bị ho ra máu. Khi ra Miên tù, chị lo cho 2 cha con vượt biên, chị đúng là một người vợ đức hạnh, một người mẹ hiền đáng khâm phục. Mong rằng bạn Miên, bây giờ đang ở California, phải bù đắp cho chị thật nhiều.
                             Đại đội F có TKS Đặng Quốc Thông hát rất hay, những buổi sinh hoạt đại đội, mọi người thường đề nghị anh hát bản “Màu Hoa Trắng”:
                          “Màu hoa trắng....ngày xưa anh đã trao ân tình lần cưới em!”
                            Lời nhạc trầm buồn làm mọi người đều tưởng nhớ tới người yêu của mình!!!
                            Thời gian trôi qua thật mau, mới ngày nào mà nay Khóa 20 đã gần xong năm thứ nhứt. Vào một buổi sáng cuối năm 1964, Thiếu uý Hoàng công Trúc, Sĩ quan Cán bộ Đại đội F, gọi Nguyễn văn Măng, Nguyễn thành Nhu, Đoàn kim Sơn, và tôi tới văn phòng đại đội trình diện. Ông chỉ cho chúng tôi đống kiếm dựng ở vách và bảo mỗi đứa lấy một cây, rồi nói:
                            - Các anh được nhà trường chọn làm Sinh Viên Sĩ Quan Cán Bộ Hệ Thống Tự Chỉ Huy thay thế Cán bộ Khoá 19 vì họ đi Dục Mỹ học lớp “Rừng Núi Sình Lầy” để chuẩn bị ra trường.
                            Nhìn qua một vòng ông nói tiếp:
                            - Anh Dưỡng sẽ là SVSQ cán bộ Đại đội trưởng Đại đội F;   Măng, Trung đội 16; Nhu, Trung đội 17; và Sơn là Trung đội trưởng Trung đội 18. Võ văn Hết là sinh viên Tham mưu, Nguyễn anh Thư là Thủ Kho đại đội.
                            Ngừng một chút, Thiếu uý Trúc nói :
                            - Việc chọn lựa nầy căn cứ vào thành tích điểm Năm Thứ Nhứt, vậy ai có gì thắc mắc không ? Mọi người đều trả lời :
                            - Không.
                            Sau đó ông dẫn 4 đứa ra sân tập dượt các thế: chào kiếm, trình kiếm, thế nghỉ, thế nghiêm,...Thiếu úy Trúc bảo đây là kiếm của Pháp nên rất nhẹ, ông đã lựa trước vì các thứ khác nặng và cồng kềnh hơn. Dù sao nó cũng nhẹ hơn súng cá nhân nhiều; thế là từ đây đỡ khổ, khỏi phải lo khi chùi súng dơ sẽ bị cúp phép dạo phố vào cuối tuần; nhất là làm cán bộ sẽ được miễn canh gác hoặc ứng chiến.
                            Nhắc đến việc canh gác thì có nhiều chuyện để kể, nhất là những ngày Tết mà ngồi gác và nghe bài “Phiên Gác Đêm Xuân” thì thật là buồn :
                        “Đón Giao thừa một phiên gác đêm”! ...
                            Khí hậu Đà Lạt đã lạnh mà về mùa Đông lại càng lạnh thấu xương. Mỗi khi đứng gác, chúng tôi phải mặc nhiều lớp và choàng bên ngoài thêm cái áo dạ mà cũng còn thấy lạnh, tôi thường trùm kín hết chỉ chừa lỗ mũi, miệng, và cặp mắt để quan sát, chờ toán tuần tiểu đến khoảng 6 thước thì chận để hỏi Mật khẩu:
                             - Ai đó đứng lại,...
                             - Mật khẩu :....
                                Không khí đại đội F bấy giờ vô cùng vui tươi, phóng khoáng, nhờ đó đã tạo nên những thành tích nổi bật về thể thao, như bóng chuyền, bóng tròn, bóng rổ, cũng có nhiều bạn rất hiền như Trần phi Cơ, Nguyễn hữu Phước, Phạm v Khóa, Nguyễn v Khoa.
                            Đặc biệt anh Đoàn kim Sơn, Trung đội trưởng Trung đội 18, thì hết sức đạo mạo, nghiêm trang. Anh nghiêm khắc với mọi người và cũng nghiêm khắc với ngay cả bản thân! Chính tôi lúc ấy là đại đội trưởng của anh, mà vẫn phải kiêng nể phần nào. Mỗi lần tôi theo Măng, Tài, Minh,..trốn đêm ra khu Tôn Thất Lễ nhậu tại nhà Mai hòa Đơ. Sáng ra thấy gương mặt đạo mạo của anh là tôi cảm thấy thèn thẹn làm sao đó, cảm thấy mình đã phạm sai lầm, đã nêu gương xấu cho đại đội.
                            Sơn ra trường vừa đi hành quân vừa học tốt nghiệp Luật và được làm Biện Lý tòa án quân sự (thiết diện vô tư giống như Bao Công đời xưa). Anh là người tỉnh Bến tre, lại nhỏ con, sống khắc khổ, nên bạn bè thường gọi anh là “Ông Đạo Dừa”!
                              Lúc ban đầu các SVSQ cùng khóa thường phản đối việc cắt gác của Võ văn Hết, vì ai cũng ngán về việc canh gác, nhất là khí hậu vào mùa Đông mà phải lên Đồi Bắc đứng chịu trận 2 giờ và 45 phút thì thật là khổ sở, gác ca đầu hoặc ca chót thì đỡ, còn gặp 2 ca giữa từ 11 giờ tới 3:45 thì hôm đó coi như thức trắng đêm và sáng ra sẽ ngủ gục trong buổi học.
                            Làm cán bộ đại đội trưởng nhiều khi phải cố gắng dàn xếp cho yên, đối với khóa đàn em thì thật là dễ chỉ huy, lệnh ra là họ thi hành ngay không một do dự. Nhiều bạn đồng khóa thường chuồn đi phố đêm, tôi chỉ nhắc nhỡ nhưng lúc nào cũng  bao che, dấu nhẹm những lỗi lầm, không báo cáo Sĩ quan Cán bộ Đại đội. 
                            Có lần đang ở phòng Thiếu uý Trúc, thấy kẹp hồ sơ sinh viên sĩ quan “Tự phê bình, tự đánh giá”. Tôi tò mò lật coi, trong đó hầu hết các bạn Đại đội F phê bình tôi là: trực tính, cương nghị, tốt với bạn và đa số đều cho hạng nhất. Tôi thấy rất mừng, không phải mừng vì được bạn bè đồng đội cho hạng cao; mà mừng vì mình không bị họ cho là làm “Ăng-ten” lấy điểm Sĩ quan Cán Bộ.
                            Lớp Văn Hóa có thầy dạy toán rất giỏi tên Nguyễn Ngộ, người Huế, gia đình toàn trí thức. Lúc còn trẻ, thường dùng thuốc ngủ, vì ông hay thức khuya để học bài, đọc sách. Rồi do lạm dụng thuốc nên bấy giờ không ngủ được, khiến ông như người lẫn trí, và tánh tình kỳ hoặc. Hễ mỗi lần vô lớp, ông bỏ tập lên bàn rồi gọi to:
                            - SVSQ nào tên là Trương Dưỡng đâu, lên trình diện coi?
                            Khi tôi lên thì ông đưa bài vở bảo giảng cho anh em trong lớp, nhưng đây là môn Tân Đại Số tôi chỉ biết chút đỉnh và đã quên hết rồi, nên nói:
                            - Thưa thầy, tôi không biết thì làm sao giảng được!
                            Vậy mà ông cũng chỉ sơ rồi bảo cứ giảng thử! Không ngờ ông có tài đặc biệt, nói qua loa mà tôi có thể lãnh ngộ, vì thế ông rất hài lòng. Thường gọi Khóa 20 là khóa của trò Trương Dưỡng, ông nói nhiều lần trong lớp, làm tôi mắc cỡ vô cùng! Mỗi lần tới giờ học của ông tôi thường trốn ra sau cuối lớp, úp mặt xuống bàn, giả đò ngủ gục, vậy mà ông vẫn kêu lên bảng, khiến các bạn đồng lớp thường hay chọc quê! 
                             Dù sao tôi cũng kính nể sự thông minh đặc biệt của thầy Ngộ, hơn nữa ông đã thưởng thức sở trường toán học của tôi, nghe nói sau nầy ông phải về bệnh viện điều trị, vì chứng mất ngủ trở nên trầm trong, khiến người ông hơi “Mát”!
                            Sinh viên sĩ quan rất dễ bị ngủ gục, nhất là trong giờ văn hoá; vì ngoài việc canh gác, ứng chiến ra, chúng tôi thường di hành và dạ hành suốt ngày đêm. Với quân trang trên người nặng gần 20 ký, Tướng Oai thường ra lệnh chúng tôi di hành dưới những cơn nắng gắt. Bắt đầu từ trường đi bộ đến thác Gouga gần phi trường Tùng Nghĩa, Liên Khương. Đoạn đường đi và về trên 50 cây số, nên ai nấy đều than mệt quá chừng.
                            Có hôm đoàn dạ hành vượt hồ Than Thở, leo lên đỉnh Lapbé Sud (cao nhất vùng nầy), chúng tôi đi suốt đêm, đoàn quân thường bị đứt khúc vì thỉnh thoảng có người vừa ngồi xuống nghỉ chân rồi do mệt quá nên ngủ gục luôn, riêng tôi đêm đó cũng đánh giấc được 2, 3 lần, mỗi lần chừng 5,10 phút.
                            Khoảng gần 5 giờ sáng, từ trên đỉnh núi cao, chúng tôi mới nhìn thấy được đèn ở trường; mọi người mừng rỡ hấp tấp tuột dốc về đến trường, vừa tắm rửa làm vệ sinh xong thì kèn đã thổi tập hợp ăn sáng, để còn kịp đến lớp học văn hoá vào 7:30! Thử hỏi như vậy mà không ngủ gục trong lớp sao được ?
                            Chỉ có tôi là hơi đặc biệt một chút, có lẽ vì sợ ra Trung sĩ hay sao? Mà lúc nào cũng tỉnh ngủ trong lớp học, dù cả đêm thức giấc mệt mỏi. Các bài vở phát về tôi đều đọc không bỏ sót trang nào, nhiều khi tranh thủ ngồi trong cầu mà cũng lấy theo đọc. Có lẽ nhờ vậy nên điểm tổng kết của tôi rất cao .
                            Theo thiếu uý Hoàng Công Trúc cho biết, tôi được hạng ba (trong hơn 450 SVSQ) năm thứ nhứt, lẽ ra phải làm chức vụ cấp Liên đoàn, nhưng người thứ nhì trong đại đội, không đủ điểm tiêu chuẩn, nên tôi phải ở lại làm đại đội trưởng. Dù được ở một mình một phòng, không bị khám xét, nhưng tôi vẫn lau chùi ngăn nắp, vì lúc đi học, thường có nhiều phái đoàn đến thăm. Họ thích coi nếp sinh hoạt thực tại của sinh viên sĩ  quan lắm.
                            Việc thích thú nhất của chúng tôi là được về Thủ Đô diễn hành. Vì cả năm trường đâu có ai được phép về thăm nhà;  khi đến Sàigòn, vào ở trong trại Tổng Tham Mưu, sĩ quan hướng dẫn không thông cảm gì hết, họ ra lệnh cấm trại 100%. Nhưng sinh viên sĩ quan như những con khỉ được sút chuồng, lệnh thì cứ lệnh đi thì cứ đi. Tôi trốn trại tới Phú Nhuận thăm nhà trọ cũ một chút, rồi phóng ra phố, đi vòng đường Nguyễn Huệ, Lê-Lợi, ăn bún suông ở nhà hàng Thanh-Thế, gỏi khô bò, nước mía Viễn Đông, đi lung tung thưởng thức Thủ đô yêu dấu vì:
                        “Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi ! Sàigòn ơi!”
                            Trong lúc đang diễn hành, tôi rất vui vẻ và hãnh diện vì được cầm kiếm đi hàng đầu, trong óc cứ nghĩ đến câu hát “Trở về Thành đô có anh đi hàng đầu” mà tự mỉm cười hoài, đúng là tuổi trẻ háo thắng. Nhưng khi về trường, các sĩ quan cán bộ phạt cả khoá bò lên chạy xuống thung lũng khu Vũ-đình-trường mệt gần toé phở, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo vì được lả lướt khắp Thủ đô, mà tôi và các bạn cùng khóa, hằng nhớ nhung suốt cả năm trường.
                           Thời gian trôi qua thật nhanh, mới ngày nào là tân khoá sinh đã dự lễ “Quỳ xuống Tân Khoá Sinh, đứng dậy Sinh Viên Sĩ Quan”, nay Khoá 20 đã hoàn tất năm Thứ Nhất và đang thụ huấn giai đoạn chót của năm Thứ Hai. Chúng tôi được thong thả đôi chút trong thời gian chờ ngày mãn khoá. Cơn lo sợ bị ra Trung sĩ trong năm thứ nhứt và Thượng sĩ trong năm thứ hai đã trôi qua. Sinh viên Sĩ quan Khoá 20 bây giờ có thể tụ năm tụ bảy để uống cà phê, tán gẫu; hoặc khơi lại những kỹ niệm học tập đầy gian lao khổ cực. Cùng ôn lại những buổi dạ hành, những trận độn thổ phục kích. Những lần thao dượt hành quân cấp Trung đội, Đại đội Tấn công, Phục kích hoặc vượt sông băng qua hồ Than Thở, lái ca nô ở hồ Xuân Hương. Hoặc học Chỉ huy Tham mưu cấp Tiểu đoàn với những nguyên tắc chiến thuật rút kinh nghiệm các trận chiến ngoài vùng hành quân.
                            Lúc thực tập thường chia hai phe, bên mầy địch bên tao bạn, bắn nhau tơi bời bằng đạn mã tử; có nhiều lúc đánh xáp lá cà, cận chiến thật là vui vẻ. Khi tập xong về doanh trại, tắm rửa sạch sẽ, rồi rủ nhau ra câu lạc bộ hả hê đánh chén, nếu hết tiền thì ghi sổ. Nhưng tôi lúc nào cũng thuộc nằm lòng câu “Sáu đồng bỏ túi trái” của Đại uý Lưu-Vĩnh-Lữ; đánh giặc cũng như ở ngoài đời, lúc nào cũng có trừ bị: lúc nhậu say thì cũng phải có $6 dằn túi để xích lô đưa về tới nhà.
                            Ở Đại đội F có anh Nguyễn tấn Kiệt, bản tánh kỹ lưỡng, mặt mày trắng trẻo đẹp trai, đứa nào cẩu thả bê bối ưa bị Kiệt cằn nhằn; chúng tôi thường gọi đùa anh là “Ni cô Diệu Kiệt”. Anh ta thấy tôi lãnh lương ra là xả láng, nên thường giữ dùm vài trăm, nhờ vậy cuối tháng tôi vẫn có tiền xài, cám ơn bạn nhiều lắm, bạn hiện đang ở Cali có nghe không Kiệt? Cũng chỉ vì xài phóng khoáng nên sau nầy đi hành quân xa, tôi cứ thường nhắn bà xã gởi tiền tiếp tế, đôi khi phải vay mượn của bà Thượng sĩ Bạc, nhưng bà nầy không chịu lấy tiền lời. Sau ngày mất nước bà sa sút, chúng tôi có chút đỉnh thỉnh thoảng cũng giúp đỡ lại cho bà.
                             Để trau giồi tài đa năng đa hiệu, các sinh viên còn học các môn cỡi ngựa, đánh kiếm, ăn cơm Tây. Ngoài ra cũng học Nhu Đạo, Kiếm Thuật, và Thái Cực Đạo. Khóa tôi có anh Hoàng như Liêm đã được huấn luyện viên người Đại Hàn khen thưởng tài nghệ xuất sắc, nhất là cặp chân của anh, đá rất cao, mạnh mẽ và thật chính xác. Nhưng khi anh ra trường thì bị thương, phải cưa một chân, thật là đáng tiếc cho một tài năng trẻ tuổi nầy!
                            Ngoài các môn thể thao xuất sắc, đội nhà trường lúc nào cũng đoạt giải vô địch tỉnh Lâm Đồng như: bóng tròn, bóng chuyền, và bóng rổ. Sinh viên còn chơi baseball, bóng bàn, tennis, đánh cờ tướng, mà chược, domino,...và cả nhảy đầm nữa. Mỗi tháng được ăn cơm Tây để học cách xử dụng dao, muỗng, nĩa cho thuần thục. Thường thường có mấy sĩ quan khoá đàn anh về thăm trường kể lại những trận đánh bằng đạn thật ngoài chiến địa, họ nói mấy anh Thiếu uý mới ra trường nghe tiếng súng nổ cứ tưởng là đạn mã tử (một loại đạn tập không có đầu), nên họ cứ xung phong tiến lên làm cho binh lính ở đơn vị hết sức khâm phục sự gan dạ của sĩ quan trường Võ Bị, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng !
                            Những ngày sắp cuối khoá, nhà trường thường mời các nhân vật tên tuổi đến thuyết trình. Một hôm Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, đến thuyết trình, lúc ấy năm mươi Sinh Viên đã được chọn về đơn vị Nhảy Dù, vì muốn tránh né đi thụ huấn tại Dục Mỹ (khoá 19 năm rồi chết mấy người vì đạp nhầm bãi mìn tại khoá Rừng Núi Sình Lầy nầy), nên trình với ông cho về học Khóa Nhảy Dù để sớm tham dự chiến trường. Trung tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, thấy mấy chàng trai trẻ nầy quá hăng hái (hay quá ma lanh?) nên rất hài lòng và chấp thuận cho miễn đi Dục Mỹ, đợi về Sàigòn học Khóa huấn luyện nhảy dù. Trong khi các bạn đồng khoá về Nha Trang lội rừng, vượt núi, thì 50 trự Nhảy Dù tương lai được ra phố rong chơi ngày đêm thật là thỏa thích.
                         
                        5. Lễ Mãn Khoá


                              Mọi người đã thật sự yêu đời binh nghiệp, yêu Võ Bị, kể cả yêu những cô gái má đỏ hồng hồng đầy quyến rũ của xứ hoa đào. Khoá tôi có anh Phương, người hơi lùn nhưng chạy nước rút 100 thước không ai sánh bằng. Phương xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, là cầu thủ bóng tròn xuất sắc của trường, anh quen với một nữ sinh trường Bùi Thị Xuân do tình cờ gặp nhau ở phố trong những ngày đi phép đầu tiên.
                            Mối tình lớn mạnh trong những buổi cuối tuần, và cả hai đã yêu nhau thật sự. Phương cảm thấy cám ơn Lệ, vì có Lệ mà đời anh thấy vui hơn, có ý nghĩa hơn; đường phố Đà Lạt như trải hoa gấm theo bước chân mỗi khi cặp tình nhân sánh vai nhau dưới trời phủ đầy sương mù, giống như cảnh thiên thai thơ mộng. Cứ mỗi lần sắp chia tay về trường, Phương cảm thấy thời gian sao như trôi qua thật nhanh. Ngày ra trường đã đến, các Thiếu uý tương lai có mời thân nhân, bạn bè đến dự Đêm Truy Điệu và Lễ Mãn Khoá kế tiếp ngày hôm sau. Phương cũng có mời Lệ đến chung vui.
                            Trong Đêm Truy Điệu, trời mùa Đông đầy sương mù bao phủ, ngoại cảnh âm u như làm tăng thêm ý nghĩa của buổi lễ chiến sĩ trận vong nầy. Giờ hành lễ đã đến, tất cả đèn khu Vũ Đình Trường đều tắt, chỉ còn lại ánh sáng của hai ngọn đuốc lập loè đặt trước Đài Tử Sĩ .
                            Quan khách ở trên khán đài, còn tất cả sinh viên sĩ quan đều đứng xếp hàng ngay ngắn trên sân vũ đình trường để hành lễ. Gió thổi qua rừng thông nghe ríu rít như tiếng than của những oan hồn còn vất vưởng đâu đây, sương mù từng đợt bay qua mau, tạo nên một quang cảnh âm u im lìm như bãi tha ma !
                        Cảnh vật đã diễn đạt đầy đủ ý nghĩa của đêm truy điệu “Chiến sĩ trận vong”, để mọi người cầu xin anh linh các bậc đàn anh về chứng giám cho những chàng trai Võ Bị, để mai đây họ sẽ lên đường phục vụ quê hương, lý tưởng, và Tổ Quốc.
                            Từ đây các Đàn Em sẽ bước chân trên khắp nẻo đường đất nước, từ những con rạch nhỏ Đồng Nai, đến những cánh đồng chiêm Bắc Việt, hoặc trong đám rừng già của dãy Trường Sơn Trung Việt. Các em sẽ chấp nhận hy sinh để nối gót đàn anh viết nên những trang sử oai hùng hầu lưu truyền hậu thế.
                            Mọi người cùng lắng nghe trên khán đài giọng trầm buồn của sinh viên sĩ quan xướng ngôn viên đọc bài văn tế  “Chiêu Hồn Tử Sĩ” (bài mà các cựu sinh viên sĩ quan VB,dù lâu cách mấy mà khi đọc đến đều thấy lòng bồi hồi cảm xúc):
                            Cả Vũ Đình Trường như lắng đọng, rồi tiếng gió thổi ù ù qua micro nghe như xé rách cả màn nhĩ mọi người, như báo cho họ biết các oan hồn của tử sĩ ở đâu đây đang kéo về để chứng kiến.
                           Tiếng xướng ngôn viên trổi lên :
                         
                        Lúc bấy giờ,
                        Trên cánh đồng chiêm Bắc Việt,
                        Bên con rạch nhỏ Đồng Nai,
                        Trong đám rừng sâu Trung Việt,
                        Phút chốc!
                        Liệt vị đã trở nên người thiên cổ!
                        Sự nghiệp đang công đeo đuổi,
                        Thôi cũng đành gián đoạn giữa đường.
                        Chí tang bồng hằng mong thực hiện,
                        Thôi cũng đành ôm hận nghìn thu!
                        Vì đâu ?...Bởi đâu ?...
                        Thân chiên sĩ đắp xây nền nợ nước,
                        Đám sương mù tàn tạ mảnh chiến y,
                        Trên chốn trần gian ... nào ai sống mãi,
                        Nhưng...
                        Lúc Quốc thù chưa gột rửa!
                        Chí làm trai chưa toại mộng hải hồ!
                        Thì hận tuyền đài làm sao ngăn được dòng huyết lệ?
                        Rồi còn người thân kẻ thuộc !
                        Ơn cù lao, nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ
                        Bao tình cảm sao nỡ dứt cho đành ?
                        Mộ chiến sĩ đấp xây nền thế hệ
                        Giòng Lạc-Hồng còn tồn tại với thời gian
                        Chiến sĩ ...trận vong !!!
                        Chiến sĩ ... trận vong!!!
                        Đêm nay gió lạnh trên đồi thông đang trổi dậy!
                        Ánh lửa hồng đang thức tỉnh từng hồi,
                        Chiến sĩ trận vong có linh thiêng hãy về đây  chứng giám
                        Dẫn dắt và nung nấu tâm cang chúng tôi,
                        Bằng ngọn lửa thiên truyền thống.
                        Ngày mai đây một đoàn trai sẽ hăm hở lên đường.
                        Nối chí tiền nhân làm Tổ quốc non sông thêm phần tỏ rạng.
                        “ Chúng tôi không tìm an lạc dễ dàng”,
                        “ Mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”
                        Cũng có lúc chí tuy còn mong tiến bước,
                        Nhưng sức không kham nổi đoạn đường !!
                        Chúng tôi cần được dắt dìu.
                        Chiến sĩ trận vong!!!
                        Chiến sĩ trận vong!!!

                           
                        Tối hôm đó từng cặp Sinh viên Sĩ Quan thay phiên nhau mang súng chỉ địa (mũi súng hướng xuống đất) để đứng canh gác Đài-Tử-Sĩ.
                            Sáng hôm sau là lễ Mãn khoá, có sự tham dự của Tổng Thống và các vị lãnh đạo cao cấp; Các sinh viên sĩ quan mặc quân phục Đại Lễ, đi diễn hành từ doanh trại tới Vũ-Đình-Trường. Chúng tôi biểu diễn, theo nhịp trống, các động tác cơ bản thao diễn như Thiếu úy Nguyễn Văn Trân đã hướng dẫn: “Phải, phải, đôi, quay, tung, vuông, chào” có nghĩa là bắt súng vai phải hai lần, đôi súng, quay súng trước mặt, rồi tung thẳng súng lên cao, đưa súng vuông góc ra trước ngực, rồi thế chào súng. Các động tác cơ bản cứ lập lại theo nhịp kèn và trống. Rồi cuối cùng các sinh viên đi đều bước và xếp thành chữ  “V,B,Q,G”  tức Võ Bị Quốc Gia.
                          Sau đó sinh viên Thủ Khoa Quách Tinh Cần bắn tên về bốn hướng tượng trưng cho chí Tang Bồng Hồ Thỉ. Bắn cung xong, Cần quay lại hàng quân hô to:
                            - Quỳ xuống  “Sinh Viên Sĩ Quan” !
                            Các SVSQ Khóa 20 đều đồng loạt quỳ chân phải xuống đất, chân trái co vuông góc phía trước. Ngay khi đó các Sĩ quan Cán bộ tới gắn cấp bậc Thiếu uý trên cầu vai mỗi người.
                            Khi các Sĩ Quan Cán Bộ trở về tới khán đài, Cần hô :
                            - Đứng dậy  “Tân Sĩ Quan” !
                            Các Quan Khách cùng Thân Nhân đồng vỗ tay chúc mừng vang vội khắp Vũ Đình Trường, còn các Tân Thiếu uý khoá 20 chạy cấp tốc về phòng thay đổi y phục để trở lại Vũ Đình Trường diễn kịch tập thể Truyền thống “Trận Đống Đa”. Trên 400 diễn viên, người khiêng võng, kẻ cầm cờ, kia có đồn Hạ-Hồi, nọ có thành Thăng-Long; trông cũng rất xôm tụ.   Ngày mai đây một đoàn trai sẽ hăm hở lên đường; Hoa Mai nở đầy trong sân trường. Hơn 400 Tân Sĩ Quan mang cấp bậc Thiếu uý sáng chói trên cầu vai mà họ đã gặt hái được sau một thời gian dài trải qua chương trình huấn luyện hết sức cực nhọc.
                            Cha mẹ bắt đầu ôm choàng lấy con trai, anh em xiết chặt tay nhau, người yêu ôm chặt người tình, để cùng chia xẻ niềm hân hoan và hãnh diện .
                            Lệ chạy đến ôm chặt lấy Phương, nàng vui mừng khôn xiết; những giọt nước mắt nóng bỏng đã trào ra từ đôi mắt bồ câu, trước sự chứng kiến của cha mẹ và anh em Phương, chàng nhẹ nhàng hôn lên mái tóc thề của người yêu xứ hoa đào, rồi dẫn nàng đến giới thiệu với mẹ cha. Mọi người đều vui vẻ trò chuyện tíu tít với nhau!
                             Về Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù được vài tháng, khi Tiểu đoàn tân lập nầy sẵn sàng, thì Phương đã nhập cuộc ngay với những trận đánh nẫy lửa. Cuộc thử lửa thực sự trong đời chàng giờ đây mới bắt đầu. Phương vẫn tiếp tục liên lạc với Lệ; hai người trao đổi thơ tình thường xuyên với nhau, coi đó như nguồn an ủi yêu thương, với những lời hứa hẹn thật tốt đẹp.
                            Bỗng một thời gian khá lâu Lệ không nhận được thư hồi đáp, nàng vội hỏi thăm bạn bè của Phương thì nghe phong phanh anh đang tham dự một cuộc Hành quân lớn cấp Lữ Đoàn tại Vùng II Chiến thuật. Lệ nửa an tâm, nửa bồn chồn, nàng vẫn cố mong nhận được thư của Phương.
                            Nhưng !!!
                            Như xét đánh ngang tai! Lệ được tin Phương đã tử trận trong cuộc tiến quân vào Núi Lồi thuộc quận Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Khi trung đội của Trạch và cánh quân của Phương sắp sữa bắt tay nhau tại mục tiêu chỉ định, bỗng nghe tiếng “Ầm” ! Một binh sĩ đạp nhầm mìn, Phương đứng gần nên bị hai mảnh ghim vào phổi và cuốn họng, mặc dù máy bay tới tản thương nhanh lẹ, nhưng không cứu nổi một người tuổi trẻ, tài hoa, và hào hùng như Phương. Trung úy Phan Nhật Nam ôm xác Phương, khóc nức nỡ! Lệ ré lên khóc nghẹn ngào, miệng không ngừng kêu tên người yêu “Anh Phương ! Anh Phương” ! Rồi nàng ngất lịm đi trong đau khổ cùng cực. Đầu óc quay cuồng nghe như đâu đây văng vẵng bài thơ truy điệu:
                        “Lúc bấy giờ trên cánh đồng chiêm Bắc Việt .........
                        “Phút chốc liệt vị đã ra người thiên cổ!
                        “Sự nghiệp đang công đeo đuổi,
                        “Thôi cũng đành gián đoạn giữa đường!.
                            Phương là sĩ quan hy sinh đầu tiên của Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù. Để tưởng nhớ, đơn vị lấy tên anh đặt cho doanh trại. Đó là “Trại Trần Thanh Phương”.

                        Trương Dưỡng. K20
                        nguồn:
                        http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm
                        Last edited by BachMa; 10-07-2017, 04:15 AM.

                        Comment


                        • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 2

                          Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
                          Trương Dưỡng - K20

                          Chương 2
                           
                          Về Sư Đoàn Nhảy Dù
                           
                          1. Tập Nhảy Dù
                           

                              Tôi và bốn mươi chín bạn đồng khoá, trong đó có anh Thủ-khoa, được chọn để đưa về Sàigòn học Khoá Dù 76 ở Trung tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù, trong trại Hoàng-Hoa-Thám. Khoá nầy hơi đặc biệt hơn các khoá khác, vì có 10 cô nữ quân nhân học chung với năm mươi tân thiếu úy chúng tôi.
                              Khoá 76 Dù có nhiều chuyện đáng chú ý. Điều muốn kể đầu tiên là buổi tiệc tổ chức Tiếp Tân của Tướng Dư quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn, tại phòng Khánh Tiết, để khoản đãi các Đơn-vị-trưởng cấp Lữ đoàn, cấp Tiểu-đoàn, các Trưởng phòng, và 50 tân sĩ quan. Đây là cơ hội để cho các đơn vị trưởng có dịp gặp những cán bộ trung đội trưởng tương lai của họ. Gương mặt các vị nầy đều vui tươi hớn hở, có vẻ như sẵn sàng thu nạp những con gà nòi, tuy tuổi đời còn trẻ mà người nào cũng có vóc dáng “Kiêu hùng điểm chút phong sương” của các chiến sĩ Dù tương lai.
                              Khuôn mặt đáng chú ý nhất trong số khách dự dạ tiệc là Tướng Dư-quốc-Đống, ông có vóc dáng uy nghi, mày rậm, mắt to, cử chỉ hiên ngang. Ông là một sĩ quan can đảm, tài ba, đã từng trải qua nhiều trận chiến ác liệt trên khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Ngoài tài hành quân tác chiến, Tướng Đống còn là một người rất nghĩa khí. Có lần trong cuộc họp Hội-Đồng Tướng-Lãnh để bầu phiếu buộc tội Trung-tướng Nguyễn-Chánh-Thi về việc a tòng và dung túng những phật tử ở Vùng I Chiến Thuật, họ biểu tình quấy rối trị an và phản kháng lại Chính Phủ Trung Ương. Hầu hết tướng lãnh đều bỏ phiếu thuận, chỉ có hai phiếu trắng; một vị tướng nói:
                                - Tội của Tướng Thi đã quá rõ ràng, tại sao lại có người bỏ phiếu trắng là nghĩa lý gì đây ?
                              Tướng Đống đứng lên nói: ‘Tôi đã bỏ phiếu trắng đó; Trung-tướng Thi là thầy tôi, Tr/tướng Viên cũng là thầy tôi, nếu bảo tôi chống lại thầy mình, thì tôi không làm. Vậy quí vị muốn xử thế nào thì tôi sẵn sàng thi hành.”
                              Các tướng lãnh trong đó có Trung-tướng Nguyễn-văn-Thiệu, Trung-tướng Cao-văn-Viên,...nghe lời nói khí-khái hùng hồn của ông, ai nấy đều mến phục. (Tướng Thi, tướng Viên nguyên là hai vị Tư-lệnh tiền nhiệm của Sư-Đoàn Nhảy-Dù).
                              Tướng Đống rất thương yêu binh-sĩ, nhưng ông lại rất khắc khe đối với các sĩ-quan cao-cấp. Các vị Tư lệnh phó, Lữ đoàn trưởng, Trưởng phòng, Tiểu đoàn trưởng đều rất nể sợ ông. Đại-tá Nguyễn-khoa-Nam, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù, đã từng bị quở trách khi đang hành quân ở mặt trận Bến Gò-Nổi. Lúc ấy Tiểu đoàn 9 Nhảy dù có một đại đội bị địch độn thổ phục kích ở bãi sậy cao quá đầu người. Đại-đội tôi đang đóng quân cùng với các đại đội khác bảo vệ bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Trung tá Nhã, tiểu đoàn trưởng, lệnh cho tôi dẫn Đại đội 91 ra tiếp ứng Đại-đội 92 của bạn Nguyễn tống Hiến.
                              Trên đường toàn là rừng cây, đi khoảng 20 phút gặp một bãi lau sậy rộng mênh mông bát ngát, tôi cho đại đội đi đến một khoảng trống trước mặt, rồi dàn quân chờ liên lạc coi đơn vị của Hiến đang ở đâu. Bỗng từ phía bên bụi sậy trước mặt, cách Đại đội tôi khoảng 100 thước, vài tên địch đầu đội nón cối, trong đó có một người vác băng ca giống như y tá của ta. Có lẽ chưa thấy chúng tôi, vì mặt họ đang nhìn về hướng Đại đội 92.
                               Các binh sĩ thấy địch, vội phản ứng bắn xối xả; nhưng tiếng của Hiến la oé lên trên máy: “Lính mầy đang bắn vào tụi tao, ngưng ngay!”
                          Tôi bảo binh sĩ thôi tác xạ, nhưng Hiến vẫn tiếp tục la: “Sao tụi mầy còn bắn dữ vậy?”  Tôi cầm ống liên hợp của máy PCR25 nói:
                                  -  Tụi tao đâu có bắn.
                              Bỗng nhiều loạt đạn nổ về hướng chúng tôi, vài binh sĩ bị thương ngay loạt đạn đầu tiên. Thiếu úy Trứ vội điều động cả trung đội xung phong lên định bắt sống đám bộ đội trước mặt. Nhưng các chiến sĩ vừa nhóm lên thì địch từ trong rừng ào ra đông như kiến! Anh và chuẩn úy Phan Văn Phúc đành khựng lại, và dựa vào mô đất hoặc gốc cây để khai triễn các hỏa lực cơ hữu. Bỗng một một viên đạn trúng xuyên qua chân Trứ, máu chảy ra lênh láng. Khinh binh Đông cố kéo thầy mình về phía sau, Phúc điều khiển trung đội hợp cùng hai trung đội của Chuẩn úy Trọng và Phấn chống trả mãnh liệt.
                               Địch quân đành nằm liều tại chỗ bắn vào Đại đội 91, chúng tôi chống trả mãnh liệt, mặc cho Hiến cứ la, vì rõ ràng mọi người đều thấy địch mặc sắc phục của lính chính qui Bắc Việt, và chúng đã bắn thẳng vào đơn vị tôi nữa. Giằng co nhau qua lại hơn một tiếng đồng hồ thì đối phương biết mình bị lưỡng đầu thọ địch.
                               Lính của Hiến cũng đang bắn xả vào họ, nên chúng phải chém vè, rút vào đám lau sậy trốn mất để lại nhiều thương binh và nhả Đại đội 92 ra, tiếng súng ngưng dần rồi dứt hẳn. Thế là đơn vị tôi vô tình áp dụng được kế “Vây Ngụy cứu Triệu” mà đón được đơn vị bạn về.
                              Điều đặc biệt là Tướng Đống thường bay trực thăng trên đầu các đơn vị Nhảy Dù khi họ đang chạm địch, có lẽ ông đã vô tần số và nghe chúng tôi oé nhau. Nên ngay sáng hôm sau, ông đã cùng Đại tá Nguyễn khoa Nam đáp xuống chỗ đóng quân của Tiểu đoàn 9 Nhảy dù. Tôi được lệnh chỉ huy đội giàn chào để nghênh đón ông (vì nước da của tôi ngâm đen giống Tướng Đống, nên Tiểu đoàn cố tình cho tôi làm giàn chào tới hai lần, lần trước ở TTHL Vạn Kiếp, Bà Rịa). Khi trực thăng đáp xuống, thấy ông xồng xộc đi nhanh tới, tôi hết hồn vội hô to: “Vào hàng ....phắc!”
                              Có thể vừa xuống trực thăng, ông đã được Đại tá Nam cho biết tôi là một trong hai đại đội trưởng đã trực tiếp chạm địch hôm qua, ông hỏi:
                            - Anh đụng địch ra sao ?
                              Tôi đứng thế nghiêm, tóm tắt kể lại tình hình đánh nhau ở chiến địa; nghe xong ông không nói gì, chỉ đi thẳng vào bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Đứng từ xa tôi thấy ông hình như đang khiển trách Đại tá Nam và Trung tá Nhã. Ông tức giận vì chiến đoàn không cho truy kích, để địch vượt thoát. Mỗi lần các đơn vị đi hành quân mà không chạm địch, ông thường nói từ trực thăng xuống :
                             - Bộ các anh né tụi nó hả ?
                              Các sĩ quan cấp “Tá” trở lên mới bị Tướng Đống nạt nộ, quở trách, đối với cấp “Úy” thì ông không nói gì. Nhưng với anh em Binh sĩ, ông hết sức nhỏ nhẹ, cặp mắt luôn nhìn họ một cách hiền từ, trìu mến. Ông nghĩ họ là thành phần cực khổ và chịu nhiều nguy hiểm nhất; ông muốn yểm trợ cùng giúp đỡ thật nhiều cho binh sĩ và gia đình của họ; giống như người cha lo lắng cho những đứa con thân yêu của mình vậy.
                              Tướng Đống là Tư lệnh thứ tư của SĐND (từ 1964 đến 1972, sau Đại tướng Đỗ cao Trí, Trung tướng Nguyễn chánh Thi, Đại tướng Cao văn Viên). Trong binh chủng Dù, ông phục vụ lâu năm nhất, chỉ huy từ cấp Trung đội trưởng và không hề có thời gian gián đoạn chỉ huy so với các Tư lệnh khác. Thời gian ông chỉ huy là lúc chiến tranh Việt Nam lên tới cao điểm khốc liệt nhất, những trận đánh dữ dội không giản dị như thời còn trực thuộc quân đội Pháp. Nhiều trận giao tranh ở cấp sư đoàn và phối hợp hành quân tác chiến với các quân binh chủng khác. Dưới quyền lãnh đạo của tướng Đống, lực lượng Nhảy Dù đã không những mang lại nhiều chiến thắng mà còn làm cho quân lực Đồng Minh phải ngưỡng mộ.
                               Đại tướng Lindsay, nguyên là cựu cố vấn TĐ8ND đã nói: “Những chiến thắng gần đây ở Grenada và kinh đào Panama do Nhảy Dù Mỹ đem lại chính là chúng tôi đã học hỏi nhiều về kinh nghiệm tác chiến của Nhảy Dù VN...”.
                              Tướng Schwarzkopf, nguyên Tư Lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Vịnh, trong cuộc chiến với Iraq tại Kuwait trước đây, đã viết cuốn hồi ký tựa đề là “It Doesn’t Take A Hero”.
                              Trong phần nói về những ngày tham chiến tại Việt Nam khi còn là Thiếu Tá Cố vấn cho TĐ7ND, ông viết: “Không giống như một vài đơn vị khác của QĐVNCH, các đơn vị Nhảy Dù, bằng mọi giá, bao giờ cũng tìm cách đưa thi hài đồng đội trở về với gia đình của họ”. Ông kể lại một hôm, tại chiến trường Cao Nguyên Trung Phần, sau một trận chiến, có 3 binh sĩ Dù tử thương. Trực thăng tiếp tế Mỹ từ chối chở 3 xác chết. Thiếu tá Schwarzkopf đã bổ nhào ra ôm càng phi cơ và nói với viên Phi công: “Tôi sẽ không rời chiếc càng nầy, tôi sẽ bị ngã chết, ông có muốn chịu nhận trách nhiệm xảy ra như vậy không? Hơn nữa nếu ông cất cánh, tôi sẽ bắn phi cơ”. Cuối cùng 3 thi hài được trực thăng nầy chịu chở đi.
                              Dưới quyền tướng Đống, binh chủng Dù từ cấp Lữ Đoàn đã trở thành cấp Sư Đoàn, với quân số lên đến 12.700 gồm 9 Tiểu đoàn Tác chiến, ba Tiểu đoàn Pháo binh, và ba Đại đội Trinh Sát. Cũng như vị tiền nhiệm là Đại tướng Đỗ cao Trí, người đã chỉ huy Dù dẹp loạn Bình Xuyên, lập uy tín cho Thủ Tướng Diệm lúc mới cầm quyền thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tướng Đống đã chỉ huy SĐND lập nhiều công lớn trong kỳ Tết Mậu Thân, trận Pleime, Đồi 1416 ở Dakto, cuộc tiến quân sang Campuchia, trận Hạ Lào, Trận An Lộc, Bình Long,...
                              Trong Khoá học Dù, các môn khó học nhứt là nhảy “Chuồng cu” và “Dây kinh dị”. Khi nhảy chuồng cu, Khoá sinh đứng trong một cái chòi cao 11 thước, lưng móc vào một dây cáp (kéo dài ra xa, rồi thấp dần xuống tới mô đất cao). Họ phóng mình giống như từ trong phi cơ nhảy ra (có một số tân binh bị loại vì không dám nhảy chuồng cu). Còn dây kinh dị cũng hơi giống như chuồng cu, chỉ khác là dùng hai tay nắm chặt vào cái rõ rẽ (ròng rọc), rồi từ độ cao 12 thước cầm rõ rẽ tuột theo dây cáp tới khi chân gần chạm bãi cát, thì buông dây nhào lộn, sao cho té theo đà một cách nhẹ nhàng. Đầu lúc nào cũng phải cúi cho càm đụng vào ngực, để tránh bị tổn thương não bộ.
                              Ngoài ra khóa sinh còn học cách té, cách chạy tránh dù lôi. Huấn luyện viên dùng một cái quạt thật lớn, đường kính khoảng 3 thước, gắn trên xe Dodge. Sức gió thổi mạnh vào khoá sinh, làm dù bung ra, kéo lôi cả người và thổi đi xa. Nếu muốn tránh bị dù lôi, họ phải nhanh chân chạy bọc ra phía sau, ngay đỉnh của cây dù đang phùng to đó, như vậy dù sẽ xẹp xuống, không còn bị ảnh hưởng sức thổi của cây quạt khổng lồ nữa.
                              Khóa sinh cũng được học cách lái dù để tránh không xáp lại gần dù bạn, học cách điều khiển cho dù xuống chậm và lái cho dù xuống đúng bãi đáp an toàn. Kế đó học xuống dù trên mặt đất, trên ngọn cây, hoặc rơi xuống nước.
                              Khoá Dù 76 chúng tôi đã bị Trung uý Nguyễn Văn Vinh, Chỉ huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện, đích thân ra phạt tập thể thật là oan. Lý do là “Cố ý coi thường và khiêu khích các hạ sĩ quan huấn luyện viên”.
                              Thật ra thì cũng do các tân thiếu uý đã quen chạy sáng trong suốt hai năm ở quân trường, lại còn tập chạy trường lực khoảng 30 cây số mỗi ngày, trong 3 tháng cuối khoá để chuẩn bị tâm tư cho lớp Rừng Núi Sình Lầy tại Dục Mỹ, vì vậy ai nấy đều có sức khỏe như voi. Khi chạy sáng, các Huấn Luyện Viên, vừa vợ con đùm đề, vừa tuổi tác cao, thì làm sao chạy theo kịp hàng quân. Các ông phải cố gắng chạy theo tới mệt thở hổn hển. Vừa nổi sùng, vừa mắc cở, chẳng biết họ báo cáo thế nào đó, để đến nổi Trung uý Vinh phải đích thân ra xử phạt tập thể. Điều đáng giận là trong khi chúng tôi thi hành lệnh phạt thì các cô nữ khoá sinh lại đứng cười chế nhạo, thật là quá đáng! Càng giận hơn, vì họ còn dám đếm theo nhịp khi chúng tôi đang hít đất nữa chứ!!.
                             Tức quá tối đó có vài cậu xung phong đi “Đột kích đêm”, kết quả thành công rực rỡ, vì những chàng trẻ tuổi độc thân nầy đúng là “Rightman” của các cô. Từ đó đã tạo ra những mối tình đầy thơ mộng và có những cặp đã được đơm hoa kết trái tới ngày nay, họ vẫn còn cùng nhau vui đùa với các cháu nội, ngoại ở nơi xứ lạ quê người nầy .
                              Trung-tá Vinh (cấp bậc sau cùng), trước năm 1975, ở gần nhà tôi. Khi sắp trình diện đi tù tập trung, có nói với vợ rằng: “Chắc anh tự vận trong tù quá, sợ không chịu đựng được sự hành hạ nhục nhã của chúng nó đâu!”
                              Quả thật vậy, một thời gian sau, gia đình chị Vinh nhận được thư báo tử! Lý do chết vì bịnh(?).
                              Tất cả 7 sô nhảy của Khoá Dù 76, đều có mặt Trung-tá Ngô-Quang-Trưởng, tham mưu trưởng sư đoàn, và Đại-tá Cố Vấn. Trung tá Trưởng, người nhỏ con, khuôn mặt khắc khổ, nhảy bằng dù điều khiển; còn khóa sinh chúng tôi thì nhảy bằng dù tự động. Ông và viên đại tá từ độ cao trên hai ngàn thước, ở vị thế rơi tự do, hai người bơi gần lại để trao gậy cho nhau. Nhìn họ lúc ấy giống như hai con dơi, đang bay lơ lửng trên không trung, trông thật ngoạn mục!
                               Khi tới cách mặt đất khoảng 500 thước, họ mới cho bung dù, rơi là đà, hai chân chạm xuống mặt đất một cách nhẹ nhàng. Còn phần tôi thì hởi ơi! Nhảy lần đầu thật là quờ quạng, lúng túng. Lúc phóng mình ra khỏi chiếc C-47, miệng đếm lẩm bẩm:
                             - 331, 332, 333, 334 !
                              Vừa dứt tiếng thứ tư thì dù bật tung ra, người tôi bị ghì giật lại. Cánh dù bung rộng lớn, làm cản gió khiến tôi như bị treo lơ lửng trên không. Lấy lại sự bình tình, tôi đảo mắt nhìn khắp nơi, thấy toàn là mây với mây! Nhìn xuống, tôi giật mình kinh hãi, lúc ở lầu năm tầng ngó xuống còn chóng mặt, bây giờ nó lại cao khiếp quá chừng, thật là đáng sợ! Rồi mặt đất như cứ dâng lên dần dần, các thửa ruộng giống như những bàn cờ càng lúc càng lớn ra.
                               Kìa sắp tới mặt đất mà mắt vẫn ngó trời mây bao la, bỗng thoáng thấy trước mặt hiện ra một tàng cây to tướng, tôi giật mình phân vân! Biết phải làm sao đây? Chân sắp chạm ngọn cây rồi? Tôi mất bình tỉnh quên hết các lời đã chỉ dạy trong khoá học! Bỗng tai nghe văng vẳng:
                            - Kéo dây Thượng thăng bên trái!
                              Tôi làm theo như phản ứng tự nhiên, thoáng nhìn ngang qua, thấy bên cạnh là một cây cổ thụ có tàng rộng đang từ từ dâng lên; nếu không điều chỉnh dù kịp lúc, thì cả người tôi và cánh dù đều dính trên ngọn cây! (hôm đó vì gió hơi mạnh nên Trí “Khệu” bị dính ngọn cây và một đứa rớt thủng mái “Tôn” trường học).
                               Khi đáp xuống đất, thay vì lo chạy tránh dù lôi, tôi vẫn còn đứng ngơ ngáo, để mặc cho em bé chăn trâu giúp xếp dù gọn vô bao tải lúc nào rồi mà vẫn còn không hay.
                              Mới hơn 10 tuổi mà đã biết điều khiển và xếp gọn dù thật là giỏi; sau khi xong, em đứng nhìn tôi, chợt thấy bông mai trên bâu áo, em la lên:
                          - Ông nầy là Thiếu uý mà lờ quờ quá tụi bây ơi! Tôi móc túi cho em chút tiền quà, vừa vác dù vào điểm tập trung vừa tự cười thầm, lớn đầu mà bị em nhỏ chê, thật là xấu hổ quá trời! Lòng tự nhủ kỳ sau không được quá bê bối như vậy nữa, để không bị các em chăn trâu chê quờ quạng!
                           
                          2. Về Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù
                           

                             Sau khi mãn Khóa Dù, tôi và 15 bạn Khóa 20 Võ Bị, được bổ sung về Tiểu đoàn 9 Nhảy dù. Giống như Tiểu đoàn 2 ND, đây là một đơn vị tân lập, trong kế hoạch mở rộng Sư Đoàn Nhảy Dù. Vì thế thành phần cán bộ nòng cốt lấy ra từ những sĩ quan xuất sắc của các Tiểu Đoàn Dù nổi tiếng:
                               Tiểu-đoàn-trưởng: Thiếu-tá Lê-Văn-Huệ, Khóa 1 Thủ Đức
                               Tiểu-đoàn-phó : Đại-uý Trương V. Phước, Khóa 4 Thủ Đức
                               Sĩ quan Ban Ba : Đại uý Liêm, K12ĐL, SQ Pháo Binh Dù
                               Đại-đội-trưởng ĐĐ90ND: Đại-uý Phú, K4 Phụ Thủ Đức
                               Đại-đội-trưởng ĐĐ91ND: Đại-uý Đỉnh, K15 Đà Lạt
                               Đại-đội-trưởng ĐĐ92ND: Đại-uý Võ-Tín, K14 Đà Lạt 
                               Đại đội trưởng ĐĐ93ND: Đ/U Nguyễn Đình Bảo, K14ĐL
                               Đại-đội-trưởng ĐĐ94ND: Đại-uý Thừa, Khóa 9 Thủ Đức
                               Các Đại-uý Bảo, Thừa, Tín, và Đỉnh là những anh hùng vừa chiến thắng và được thăng cấp tại mặt trận trong chiến dịch hành quân nổi tiếng có tên là “Đại Bàng 800” ở Vùng II chiến Thuật (ĐĐ91 có nhiều thay đổi chức vụ đại đội trưởng nhất: từ 1966-67 là Đại úy Quân, Trung úy Trang, Đại úy Đỉnh, Mể; từ 68-70 là Đại úy Dưỡng; từ 71-75 là Đại úy Bảo, Tâm, Trọng, Tường,...).
                          Các vị sĩ quan đại đội trưởng đã có một thời gian ngắn, từng ở Tiểu đoàn trong thời kỳ phôi thai tân lập là:
                                    Trung úy Nguyễn Hữu Cang: ĐĐT/Đại đội 94
                                    Trung úy Ngô Tùng Châu:      ĐĐT/Đại đội 90
                                    Trung úy Phan Nhật Nam:      ĐĐT/Đại đội 93
                                    Trung úy Lã quý Trang:          ĐĐT/Đại đội 91
                                    Trung úy Đức:                         ĐĐT/Đại đội 92
                               Mười sáu đứa chúng tôi chia nhau về làm Xử Lý Thường Vụ Trung Đội Trưởng:
                                   ĐĐ90ND : Dưỡng, Đại
                                   ĐĐ91ND : Bảo, Hiến, Miên, Thành
                                   ĐĐ92ND : Nuôi, Trụ, Chàng, Toàn
                                   ĐĐ93ND : Phương, Chí, Hổ
                                   ĐĐ94ND : Lộc, Trạch, Lân
                              Lúc đó các đơn vị nhảy dù thường chạm trán với quân chánh-qui địch tại những nơi hung hiểm, chẳng hạn như giải vây cho các căn cứ biên phòng: Pleime, Katum, Bến-Sỏi,...
                              Việc bổ nhiệm các chức vụ hết sức cân nhắc. Thiếu-uý mới ra trường, chưa kinh nghiệm thì chỉ được làm “Xử lý” Trung đội, vài tháng sau mới làm “Quyền” Trung-đội-trưởng (lúc nầy được ăn thêm tiền chức vụ). Sau đó một thời gian có kinh nghiệm vững chắc mới được chức Trung đội trưởng “Thực thụ”.  Vì vậy các chức vụ của Sư Đoàn Nhảy Dù đều được mọi người xem quí trọng.
                              Lúc bấy giờ là đầu năm 1966, tiểu đoàn đang chờ đợi tân binh học xong khoá dù, rồi toàn bộ sẽ đi học bổ túc quân sự tại Trung tâm huấn luyện Vạn-Kiếp ở Bà Rịa. Một hôm tôi và Trần Hữu Bảo có nhiệm vụ dẫn tân binh học khóa dù; mọi người đều đi đường bộ, vì doanh trại tiểu đoàn cũng nằm trong khu vực Hoàng Hoa Thám. Trong khi binh lính đang học tập, tôi và Bảo ngồi ở mái hiên nghỉ mát; lúc ấy Đại uý Liêm “Bô” cùng với Đại uý Phước ngồi trên xe Jeep chạy ngang qua. Chúng tôi đang ở trong bóng mát tối mờ nên họ không nhìn thấy. Khi dẫn lính về thì nghe tin Đại úy Liêm đề nghị với tiểu đoàn trưởng phạt hai đứa mười ngày trọng cấm.
                              Tôi và Bảo vội chạy tới trình diện Tiểu Đoàn Trưởng và nói:
                              - Thưa Thiếu tá chúng tôi đâu có vắng mặt tại bãi tập.
                              Thiếu tá Huệ hỏi :
                              - Vậy lúc đó hai anh đang ở đâu mà Đại uý Liêm không nhìn thấy?
                              - Chúng tôi đang ngồi trong mái hiên và có thấy Đại uý Liêm lái xe chở Đại uý Tiểu đoàn phó. Họ đã đi ngang qua nhưng không nhìn vào hướng chúng tôi.
                              Thiếu tá Huệ thấy hai đứa tôi trả lời hợp lý, ông lúc nào cũng có thiện cảm với 16 con gà mới ra lò nầy. Hơn nữa biết Đại uý Liêm chỉ muốn hù mấy chàng trai trẻ mới ra trường nầy thôi, nên ông giả bộ nói:
                              - Kỳ sau ráng cẩn thận nghe, thôi các anh về đi.
                              Rồi không nói năng gì đến lệnh phạt nữa.
                              Bảo là người xứ Huế, còn tôi là dân miền Lục Tỉnh (Vĩnh Bình), hai đứa không có nhà ở Sàigòn nên ngủ thường trực ở trong doanh trại tiểu đoàn. Hằng ngày chúng tôi hay lấy xe Vélo Solex đèo nhau chạy từ Bà Quẹo xuống tận tới tiệm cơm Thanh Xuân ở bến xe Nguyễån Cư Trinh, để thưởng thức món rau ghém chấm mắm kho, cùng món gỏi gà ngon tuyệt!
                              Không phải tự nhiên muốn đi ăn cơm xa xôi như vậy đâu, thực ra tôi đã từng có mối tình thơ mộng ở đây, nên đi đoạn đường dài hơn 5 cây số để ăn trưa vì còn một dụng ý khác! Cách quán cơm Thanh Xuân khoảng 100 thước, có ngôi nhà giàu, cao ba tầng lầu, trong nhà đó có hai cô gái đẹp, tuổi độ cập kê. Có thể nhái theo Nguyễn Du để tả:
                                            Hương xem trang trọng khác vời,
                                            Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
                                            Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
                                            Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
                                            Lan càng sắc sảo mặn mà,
                                            So bề tài sắc lại là phần hơn.
                              Tuy hai chị em không thể sánh với sắc đẹp hai nàng Kiều của Nguyễn Du, nhưng trong lòng tôi lúc đó cảm thấy Lan quả thật là tuyệt vời. Tôi quen biết Lan từ năm học Đệ Nhị, chỉ vì mặc cảm mình xuất thân ở vùng tỉnh lẻ quê mùa; so với nếp sống sang trọng xe hơi, nhà lầu của nàng, tôi cảm thấy quả thật không xứng. Mỗi lần tới nhà, thấy ba má nàng cởi mở như người Tây phương, cho phép các con tiếp xúc với bạn trai một cách tự nhiên, khiến lòng tôi hết sức mến mộ. Hương thì vui vẻ ngây thơ, còn Lan thì tế nhị biết chìu lòng người, tôi mến Lan ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Nhưng vì bản tính nhút nhát, tự ty mặc cảm, nên chẳng những không dám thố lộ tâm tình mà còn tự làm cho khoảng cách giữa hai người càng lúc càng xa thêm! Do đó, thay vì gặp nàng thường xuyên, tôi chỉ có thể làm bộ thích ăn món mắm kho để có cớ rủ Trần Hữu Bảo cùng đi Nguyễn Cư Trinh, mong được nhìn thấy hình bóng nàng từ xa, hầu khuây khỏa phần nào nỗi thương nhớ! Trong thâm tâm tôi nghĩ, đời nào một người giàu có lại chịu lấy chồng nghèo quê mùa như mình!
                              Rồi mấy tháng sau, trong dịp đám cưới của đứa em gái, tôi xin phép về quê, sẵn dịp thăm nhà luôn. Khi tới Vĩnh Bình, mấy đứa bạn học cũ như Lộc, Chánh, Hiền, Bá,...rủ nhau lại nhà thằng bạn thân tên Song ở xã Phước Hưng. Chúng tôi đuổi vịt, bắt cá, đem nướng trui ăn với mắm cá sặt xé, trộn với gừng non và trái bần chín ngon vô cùng.
                              Từ nhỏ tôi đã rất thích cảnh đồng quê, trong những năm trung học Đệ Nhất Cấp, ở trường Trần Trung Tiên. Mỗi cuối tuần tôi thường chạy xe đạp tới nhà các đứa bạn như Trần Đức Nhuận ở Đầu Bờ để uống nước dừa xiêm thiệt, và lội sông, ra đồng bắt ốc bưu ăn với cơm mẽ; vô nhà Văn Tường ăn tàu hủ, uống sữa đậu nành; hoặc vô xóm người khmer, như nhà của bạn Tô Savong, để ăn món canh xiêm lo, nấu bằng cá lóc, đu đủ sống, nêm mắm bồ hóc mùi thơm đậm đà, thật hết sức đặc sắc.    
                              Sau khi no nê, Song và Chánh dẫn tôi tới nhà bà dì họ ở cạnh bên đường đất đỏ, cách nhà Song độ 100 thước, mà trước khi vào nhà nó, tôi đã từng đi ngang qua.
                              Ngôi nhà nầy rất rộng, phía trước có trồng mấy cây vú sữa, cành mang đầy trái chín đỏ ửng. Bên sân phải nhà, có một cây táo ta, trái vị chua chua chát chát ăn rất ngon. Sau nhà có chuồng nuôi bồ câu, chúng bay lượn khắp nơi, nhiều con đậu đầy trên nóc. Gian trước là phòng khách rộng rãi, bộ ván gỗ để gần cửa sổ, ở giữa đặt một cái bàn hình chữ nhựt, cùng 8 chiếc ghế gỗ vây xung quanh. Gian phía sau cũng rất lớn, có nhà bếp, nhà tắm, và kho chứa lúa đầy bồ.
                              Vừa bước vào nhà, tôi thấy một người đàn bà tuổi trung niên, đôi mắt sáng, mũi dọc dừa, mặc đồ bà ba mà tướng vóc có vẻ sang trọng.
                              Chánh chỉ tôi rồi nói:
                              - Thằng nầy là bạn học cũ, ở Sàigòn về chơi, sẵn dịp con dẫn nó ghé thăm dì luôn.
                              Tôi gật đầu khẻ chào, bà mời mọi người vô nhà. Sau khi đãi trà bánh một lát, thì Song đi theo bà chủ ra nhà sau rồi nói:
                              - Sao, Cô Tư coi thằng Dưỡng, bạn con, có được không? Nó là thiếu úy Nhảy Dù, hiện đang làm việc ở Sàigòn. Con định giới thiệu con Nhi cho nó đó.
                              Hai cô, cháu đang thì thầm những điều gì đó chẳng biết. Một hồi sau, trong lúc tôi đang ngồi uống trà với Hiền, Chánh và Bá, bỗng thấy một cô gái bưng một dĩa dưa hấu ra mời. Vừa nhìn thấy cô, tôi giật mình, tim run động mạnh. Không ngờ ở nhà quê mà có một cô gái dễ coi và duyên dáng thế nầy hay sao?
                               Cô có nước da bánh mật, tóc dài phủ lên bờ vai thon, đôi mắt đen huyền và sắc sảo, môi cô đỏ mọng tự nhiên, khi nàng cười bày ra hai hàm răng trắng xinh xinh, lại có má núm đồng tiền làm tăng thêm phần mỹ miều dễ thương. Nếu đem so với Lan thì “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, một đàng thì sắc sảo mặn mà của người thành phố, còn đàng khác thì ngây thơ duyên dáng, hiền hoà của gái đồng quê.
                              Như đã nói ở trên, tôi đã bị ảnh hưởng cảnh đồng quê từ nhỏ, nên khi thấy nàng thôn nữ, như cá gặp nước, như bị mất hồn. Rồi nàng lại còn đích thân mời thêm một miếng dưa nữa chứ, làm tôi đã điên đảo, bây giờ lại càng đảo điên hơn! Thấy tôi ngó nàng chăm chú, Chánh thúc cùi chõ hỏi:
                              - Sao, coi được không mậy ?
                              Tôi giật mình bẽn lẽn, như kẻ trộm bị bắt gặp quả tang! Mới vừa thấy cô thôn nữ, mà đã si tình, y như mèo thấy mỡ, thật không đàng hoàng chút nào. Cũng có thể đó là “Tiền duyên” kiếp trước; vì không hiểu sao, tôi mới gặp nàng lần đầu mà đã cảm thấy như có một sức thu hút, in sâu hình bóng thùy mị đoan trang của cô gái miền quê vào tim! Trong lúc trò chuyện với mẹ nàng, thấy bà là người ăn nói thẳng thắn, có tài quyết đoán, tánh tình cương trực, làm tôi vô cùng ngưỡng mộ.
                              Trên đường đi, Song và Chánh còn nói, bà là người đảm đang, lòng dạ rất tốt, thường hay giúp đỡ mọi người, cô Nhi giống mẹ nhiều nhứt. Khi từ giã bà mà tôi cảm thấy như còn quyến luyến một điều gì, cố nhìn vói ra sau, bỗng bất chợt bắt gặp khuôn mặt của người đẹp đang núp ở nhà sau, ló đầu ra nhìn theo, khiến lòng tôi xao xuyến lâng lâng, có lẽ tôi đã bị tiếng sét ái tình rồi!
                              Trở về nhà Song, má của hắn hỏi:
                             - Mầy có chịu con Nhi không, Mợ Tư sẽ làm mai cho?
                              Bụng tôi thì rất thích cô thôn nữ nầy, nhưng chỉ mỉm cười vì nghĩ còn phải tìm hiểu thêm đôi chút về người bạn trăm năm tương lai, nhất là cần phải hỏi ý của má tôi nữa chứ. Tôi rất thương mẹ, vì bà đã ở goá, lo tảo tần nuôi tôi ăn học thành tài, mà không một lời than thở. Nhớ nhứt là hai giỏ quà, khi bà lên thăm ở trường Võ Bị, tôi là thanh niên mà khiêng vô không nổi, vậy mà bà đã chịu khó mang nó từ Trà Vinh lên; đoạn đường dài hơn 500 cây số và phải sang xe đò tới mấy chuyến.
                              Thấy tôi chần chừ chưa trả lời Mợ Tư, Chánh nói:
                              - Nếu mầy không chịu, tao sẽ giới thiệu em gái tao cho.
                              Tôi chỉ mỉm cười, vì mình đã có chủ kiến rồi.
                              Chánh, Song, Hiền, Bá, là những thằng bạn nối khố của tôi, họ rất tốt bụng. Song tốt nghiệp Sư Phạm dạy học gần nhà, còn Chánh và Hiền vừa có giấy gọi vào trường Võ khoa Thủ Đức, chúng nó thấy tôi đã gần 25 tuổi mà vẫn còn độc thân, nên hết lòng muốn tôi cưới vợ ở Vĩnh Bình, để sau nầy thỉnh thoảng còn trở về quê ra đồng bắt cua, cá, ốc bưu với họ nữa chứ. Chánh cũng có dẫn tôi tới gặp em gái của nó, cô nầy cũng đẹp dễ thương như cô Nhi, nhưng đầu óc đã có chủ định riêng, không muốn nghĩ điều gì nhiều nữa.
                              Sau khi trở về tỉnh, tôi có để tâm tìm tòi về gia thế của cô Nhi. Rồi đầu óc cứ suy nghĩ vẫn vơ, nghĩ đến Lan và các bạn gái mà tôi đã quen biết. Nghĩ đến nếp sống thanh bình, khi hết giặc, về quê đào ao nuôi cá, trồng cây lập vườn, sống an nhàn thơ thới, không phải bon chen cạnh tranh với ai hết. Ôi cảnh đồng quê sao mà thần tiên, lý tưởng quá!
                              Cuối cùng tôi quyết định đến gặp mẹ và trình bày mọi việc. Bà hết sức vui mừng, không cần nói lôi thôi gì hết, lúc nào bà cũng ủng hộ con, giống như lần tôi xin phép bà để theo học trường Võ Bị Đà Lạt lúc trước. Bà bảo thu xếp làm đám cưới sớm, mọi việc dưới tỉnh sẽ có anh hai Sang lo dùm.
                               Hôm sau biết nàng lên tỉnh mua sắm (hay muốn cho gặp mặt lần nữa đó cô nàng?), Chánh vội tới rủ tôi vô Tri Tân, nhà của người chị thứ ba, để gặp nàng thêm. Tôi cùng Chánh chạy xe vô Tri Tân, vừa tới thì thấy Nhi cũng mới bước ra khỏi cửa, nghe nói dẫn mấy đứa em tên Hồng Sơn, Hồng Giang ra chợ sắm áo quần gì đó. Gặp mặt nhau bất ngờ trước cửa, hai bên chỉ khẽ gật đầu chào xã giao. Chánh lén chỉ sau lưng tôi như ngụ ý:
                              - Nó đó, mầy có chịu không Nhi ?
                              Tôi nhìn nàng cười có má núm đồng tiền thật duyên dáng, cảm thấy hài lòng hết sức! Gương mặt cả hai đều đỏ ửng như e lệ thẹn thùa, nửa phần mắc cỡ, nửa phần vui tươi! Đó có nghĩa là “Tình trong như đã mặt ngoài còn e” vậy mà !
                              Hai tháng sau, trước khi về quê cưới vợ, tôi viết vài bức thơ gởi cho các bạn gái cũ (chỉ là bạn thôi vì tôi chưa dám, hoặc vì bản tính nhút nhát, thốt những lời yêu đương hứa hẹn). Trong đó có nêu lý do là đã bị các nàng chê, nên đành vâng lệnh gia đình về quê cưới vợ, để nối dõi tông đường, mong các nàng tha lỗi và vẫn còn được giữ liên hệ tình bạn thuần túy tốt đẹp  như thuở nào.
                              Nhận được thơ, Lan tức giận tại sao tôi lại quyết định quá đột ngột như vậy? Nàng bảo Đại (bạn trai của Hương, do tôi giới thiệu) tổ chức một bữa cơm, rồi nói tài xế chở Lan và Hương đích thân đến rước hai vợ chồng tôi, đưa tới nhà của Đại! Thử coi “Người ta” đẹp tới đâu? Mà khiến tôi xiêu lòng đến nổi phải làm đám cưới một cách vội vã? Thật ra cũng tại hoàn cảnh giàu nghèo chênh lệch, cũng tại đầu óc tôi lúc đó còn quá cổ lỗ sĩ, tự ty mặc cảm, và cũng tại tôi quá thích nếp sống yên tỉnh hồn nhiên của đồng quê,......
                              Trong khi ăn, Lan thì ngó trừng trừng, còn Nhi vô tình cứ tỉnh bơ như là tới nhà bạn ăn cơm vậy. Lúc đó tôi có nhiều lời muốn phân trần với Lan lắm nhưng không có dịp! Thật là có lỗi với nàng vô cùng, tôi không ngờ Lan là một tiểu thơ đài các mà lại để mắt xanh đến anh chàng cù lần, nhà quê nầy. Sau đó để lương tâm khỏi cắn rứt, tôi định làm môi giới Lan cho Bảo, kẹt là nó đang có bạn gái ở xóm Kỳ Đồng, nên cuối cùng giới thiệu Lộc cho Lan. Nhưng trong trận chiến năm Mậu Thân, Lộc và Đại đã anh dũng hy sinh! Điều thật đáng buồn vì Đại là con trai độc nhất trong  gia đình. Ôi chiến tranh thật là tàn nhẫn!!!
                              Lúc về nhà, tôi có kể chuyện về Lan cho Nhi biết, nàng chỉ mỉm cười. Sẵn dịp, tôi cũng nói luôn cho nàng biết tất cả mối tình thời còn tuổi học trò. Tôi nói nếu đã cưới nàng thì phải có trách nhiệm che chở cho nàng suốt đời, những cô gái đó vẫn còn là những người bạn tốt của tôi. Nhi thật hiền lành, không thắc mắc, không than van, đã ủng hộ tinh thần tôi rất nhiều trong những năm chinh chiến đầy gian lao, nguy hiểm.
                              Lúc mới lên Sàigòn, Nhi thường nhớ nhà, nhất là những đêm mưa tầm tã thì lại càng buồn hơn; lúc đó nàng thường khóc thầm, làm ướt đẫm cả vai áo tôi. Mỗi lần nàng khóc tôi liền hát bài “Tám Điệp Khúc” để chọc nàng cười:
                                .......“Nhi.....làm cho mưa bay giăng giăng......mây tím dệt.... thành sầu!”......
                              Mỗi khi tôi đi hành quân, lòng nàng rất lo âu, nhưng không bao giờ thố lộ cho biết, sợ tôi buồn. Trong 4 ngày phép hành quân, thực sự chỉ có 2 ngày được trọn vẹn. Còn ngày đầu thì đi xa ngàn dậm nôn nóng gặp mặt, nhưng ngày chót thì cứ suốt đêm nằm bịn rịn lo buồn cảnh sắp chia ly, có thể là một đi không trở lại, vì chỗ nào chiến trường thật sự sôi động và hung hiểm mới cần đến các đơn vị Nhảy Dù.
                              Nhi thích nghe bài hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Trong đó có những câu rất đúng với tâm trạng của người chinh phụ như nàng:
                                     ... “Nghĩ tới một điều em không rõ”
                                        “Nghĩ tới một điều em sợ, không dám nghĩ”
                                        “Đến một người đi giữa chiến tranh”
                                        “Lại nghĩ tới anh”!
                                        “Lại nghĩ tới anh”!.....
                              Mỗi lần bên trại gia đình binh sĩ nghe tiếng khóc than vì có người vừa nhận tin báo tử, suốt đêm đó Nhi lo âu hồi hộp. Thật là tội nghiệp cho các chinh phụ, lúc nào cũng sống với cảnh lo âu sợ sệt, trong cuộc chiến tranh đầy máu lửa nầy!
                              Vì đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, hầu hết các phụ nữ đều lấy chồng lính. Dù hậu phương hay tiền tuyến đều có muôn ngàn nguy hiểm. Trong lòng chinh phụ lúc nào cũng lo cho sự an nguy của chồng, lo cho chính mình, và lo cho tương lai con cái. Họ sống vợ chồng với nhau rất là khiêm nhường. Họ sống với nhau bằng:
                                              Những “24 giờ phép!”
                                              Những “7 ngày đợi mong!”
                                              Hoặc có người: “Cưới nhau xong là đi!”
                              Tuổi thanh xuân của các chiến sĩ hầu như cống hiến toàn phần cho tổ quốc, và tuổi thanh xuân của chinh phụ đã cống hiến toàn phần cho chinh phu:
                                            Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
                                            Dạ chàng xa ngoài cõi thiên san.
                              Chinh phụ lúc nào cũng:
                                            Sầu lên ngọn ãi, oán ra cửa phòng!
                              Hoặc là:
                                            Ngàn dâu xanh ngát một màu
                                            Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
                              Thế nhưng để cho các chiến sĩ an tâm chiến đấu, an tâm phục vụ, làm tròn bổn phận và trách nhiệm, chinh phụ còn phải đảm trách việc nhà:
                                               Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
                                        Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
                              Khi nhắc đến phụ nữ, có lẽ chúng ta không thể không ghi nhận và ca ngợi đức tính cao quí của người đàn bà Việt Nam. Không phải chỉ ở những thế kỷ xa xưa trước đây, mà ngay cả thời Cận đại, cũng như thời Hiện đại bây giờ; chúng ta cũng tìm thấy những bóng hình người đàn bà cao quí trong xã hội. Một trong những đức tính đáng khen ngợi là sự kiên trì và sự thủy chung của một người vợ Việt Nam. Chẳng hạn như một người vợ lính, thường ngày ở nhà phải lo toan việc gia đình, nuôi con ăn học, và thậm chí đôi khi còn phải lo cho gia đình của chồng nữa. Khi chồng bị đi tù gọi là cải tạo, thì người vợ lại phải lo tiếp tế thăm nuôi; và vẫn phải lo toan cuộc sống khó khăn hằng ngày trong gia đình dưới dưới chế độ hà khắc Cộng sản. Khi người chồng trở về thì người vợ phải lo tìm đường vượt biên, và nhiều khi không đủ tiền người vợ lại phải hy sinh để cho người chồng dẫn theo một vài con đi trước. Đó là những đức tính rất cao quí, rất đáng ca ngợi, và rất hiếm thấy ở tất cả những người đàn bà ngoại quốc nào trên thế giới.
                              Nỗi đau khổ cùng cực nhất của người chinh phụ là khi trở thành quả phụ !!!
                                              Thăm chồng mà chẳng gặp chồng
                                         Bao nhiêu hy vọng theo giòng mây tan!
                              Hoặc:
                                             Ngày mai đi lượm xác chồng
                                        Say đi để muốn mình không là mình..!
                              Người đàn bà Việt Nam không phải như Phạm Duy đã nói:
                                             Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân
                                             Bên người yêu tật nguyền chai đá
                               Họ đã khắc khoải trong vai trò chinh phụ thì càng trọn vẹn trong vai trò “Tù phụ”. Sau ngày Quốc Hận 30/4/75, tất cả gia đình chiến sĩ, gia đình công chức miền Nam đều bị Cộng Sản bao vây chặt chẽ:
                                             Tứ phía quân thù lưới bủa vây
                                             Áo cơm pha với lệ vơi đầy
                                             Nửa khuya thức giấc lo rồi sợ!
                                        ... Tù ở bên ngoài đâu khác trong
                              Hoặc khi đi thăm nuôi chồng thì:
                                             Bên cầu em đứng, đợi, chờ, trông
                                             Đông quá mà sao thiếu bóng chồng
                                             Anh hỡi ! Anh ơi ngày hai buổi
                                             Đi về anh có nhọc nhằn không?...
                              Khi ngồi trên xe đò thấy:   
                                       ......Đoàn người lao động về ngang đó
                                             Cuối mặt thương chồng lệ ướt mi!
                             Rồi nhắn nhủ:
                                            Kiên nhẫn nghe anh em sẽ chờ
                                            Anh về em sẽ hết bơ vơ!
                                 Hoặc:    
                                        ....Gặp nhau trong cảnh đoạn trường
                                            Tuy trong gang tấc xa đường quan san ...   
                                
                              Bây giờ trở lại chuyện ở Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng là một người rất tốt bụng, có lần Đô Thành bị địch pháo kích; ban đêm nghe tiếng đạn nổ vang rền, nhiều khu vực đông dân bị pháo trúng, gây ra những đám cháy sáng rực cả một vùng trời. Lúc ấy vào khoảng nửa đêm, ông lái xe vào doanh trại tiểu đoàn, thấy tôi đang cùng binh sĩ ở các hố chiến đấu ứng chiến, phòng địch lợi dụng pháo kích mà xâm nhập (nếu ông chạy vô trong thì sẽ thấy bạn Trần Hữu Bảo và anh Thành “Râu” Khoá 19 ĐL, cũng không thân nhân ở Sàigòn như tôi). Thành là sĩ quan An Ninh Tiểu Đoàn rất được Thiếu Tá Huệ thương. Phần đông các sĩ quan khác đều có nhà ở đây, nên mỗi đêm họ về chung vui với gia đình, chỉ có ba đứa tôi là lúc nào cũng nằm chèo queo trong hậu cứ.
                               Có lẽ nhờ vậy mà ông thương nên sau đó vài tháng ông cho tôi và Bảo đi học lớp Điều không Tiền tuyến ở Dục Mỹ, Nha Trang. Rồi vài tháng sau lại đề cử cho tôi đi học lớp Tác Chiến Trong Rừng tại Mã-Lai.
                           
                          3. Tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp
                           

                              Sau khi đầy đủ quân số, toàn bộ Tiểu Đoàn 9 được xe chở đến Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở tỉnh Bà Rịa. Hằng ngày tôi và Đại có nhiệm vụ đưa binh sĩ Đại đội 90 đến các bãi tập, để các Huấn luyện viên của trung tâm dạy họ về cá nhân chiến đấu, riêng Đại Đội Chỉ Huy của chúng tôi cần phải học thêm về vũ khí nặng như Đại bác 75 ly và Súng cối 81 ly.
                              Ở Trung tâm nầy, tôi gặp 2 vị khoá đàn anh là trung úy Thọ, khóa 16, và thiếu úy Nguyễn Văn Tỵ, khoá 19. Họ thường dẫn tôi ra phía sau doanh trại nhậu món Rựa Mận ăn với củ riềng, mắm tôm, và lá mơ thật ngon và vui vẻ!
                              Cuối khoá học, toán súng cối sẽ có nhiệm vụ bắn đạn khói để làm màn che cho tiểu đoàn tấn công mục tiêu trên các ngọn núi ở phía Tây bắc thị xã Bà Rịa. Từ nào tới giờ chỉ học toàn lý thuyết và bắn bập bẹ vài quả đạn súng cối khi còn ở quân trường, mà lúc đó tôi đâu có chú tâm mấy về loại súng nầy. Vì nghĩ mình sau nầy ra trường chỉ xử dụng súng Colt, súng trường, chớ đâu phải là sĩ quan pháo binh mà cần biết về biểu xích, cân bằng bọt nước của súng cối.
                              Một hôm khoảng 8 giờ tối, sau khi ăn cơm chiều xong, tôi mò qua chỗ vị trí trực súng cối của Trung Tâm. Lúc vừa định bước vào vòng rào thì gặp vị Thiếu uý Huấn Luyện Viên đang ngồi chơi cờ tướng với một Thượng sĩ già. Thấy tôi đến, hai vị hơi ngạc nhiên, vì đã huấn luyện nhiều Tiểu Đoàn Dù, nhưng chưa từng có ai tới nhờ chỉ dạy về Súng cối 81 ly như tôi. Hai người rất vui vẻ dẫn tôi đến chỗ vị trí đặt khẩu súng cối 81 ly. Súng được để ở trong hố tròn khoét sâu dưới đất khoảng một thước, đường kính khoảng 2 thước. Xung quanh được viền bằng những vỏ đạn 105 ly, trông rất mỹ thuật, trên đường viền đó có cắm những tiêu mốc đánh dấu A, B, C, D,...
                              Tôi được hai người chỉ về xạ biểu, cân bằng bọt nước, và cách đặt tiêu mốc chuẩn bị cho những hỏa tập cận phòng. Họ chỉ thật tận tâm và lần nầy tôi hấp thụ rất nhanh vì bây giờ thực sự cần biết nó để sắp sửa áp dụng vào thực tế trong cuộc thao dượt, và cho chiến trường trong những ngày sắp tới. Sau cùng tôi hỏi đến cách làm màn khói để chuẩn bị cho cuối tuần nầy.
                              Sáng sớm Thứ Bảy, đơn vị tôi đựợc đưa đến vị trí cách chân núi Bà Rịa khoảng một ngàn thước, tôi cho đặt hai khẩu súng cối 81 ly hướng về đỉnh núi, các đại đội tác chiến đang dàn quân bố trí chờ đợi màn khói sẽ xung phong tấn công mục tiêu, là đỉnh núi cao phía trước mặt. Tôi lấy bản đồ kẻ vị trí điểm đứng của súng và vị trí dưới chân đồi, đo khoảng cách, đọc xạ biểu, và cân bằng bọt nước. Xong rồi hô to:
                              - Khẩu đội chuẩn bị....bắn.
                              Sau khi đạn chạm đất gây 2 cụm khói bay lên, tôi thấy hơi dài, nên điều chỉnh tiếp.
                              - Phương giác 120, về phải 50, gần lại 100....chuẩn bị!
                              Sau khi hai khẩu đội trưởng điều chỉnh xong, tôi tới kiểm soát, rồi cho lệnh bắn tiếp. Lần nầy thì đúng như ý định, tôi báo cáo là màn khói sẵn sàng.
                              Đúng 8 giờ các đại đội đều bố trí xong, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh:
                              - Các đơn vị chuẩn bị khi có màn khói, lập tức tấn công, nghe rõ trả lời?
                              - 90 nghe rõ
                              - 91 nghe 5/5
                              - 92 nghe rõ
                              - 93 nghe rõ
                              - 94 nghe 5 trên 5
                              Tôi cho các khẩu đội di chuyển nòng súng trái, phải, và bắn hằng loạt đạn khói làm một màn trắng như sương mù bao trùm cả chân núi rồi ngưng bắn, để các đơn vị tác chiến bắt đầu tấn công chiếm mục tiêu.
                             Sau buổi thao dượt, Thiếu uý Vinh, người chỉ tôi về súng cối, đến khen bắn màn khói rất đẹp và chính xác. Đại úy Phú và Tiểu Đoàn Trưởng tưởng tôi là người xuất thân Võ Bị, có tài đa năng, đa hiệu, thì việc gì cũng biết, nên rất hài lòng. Nhưng họ đâu có ngờ trước đó mấy ngày, tôi mù tịt về bắn súng cối, nói chi đến việc biết cách làm màn khói đẹp mắt như thế nầy đâu!
                              Lúc ở Bà Rịa, thấy các tân binh nhớ nhà trốn về Sàigòn nhiều quá, Thiếu ta Huệ ra lệnh cạo trọc tất cả binh sĩ tiểu đoàn, rồi cho Quân Cảnh làm trạm kiểm soát. Vì thế không còn nạn trốn trại nữa. Tôi thấy các anh binh nhì như Tám Lọ, Mai Lực, Võ Lục, Châu Non, Năm, Hồi, Nghinh, Phạm văn Chơi,... ưa lấy đũa gõ trên chén cơm, miệng râm râm mấy câu nam mô, trông giống các nhà sư, thật là tếu.
                             
                           4. Khóa Huấn Luyện Điều Không Tiền Tuyến


                             Mùng bốn Tết ta, khoảng tháng hai năm 1966, tôi và Bảo được Tiểu đoàn đề cử đi học khoá Điều Không Tiền Tuyến tại Dục Mỹ, Nha Trang. Trong khi chờ đợi nhập học (vào ngày Mùng 8), tôi và Bảo tới ở nhà Nguyễn văn Táo, bạn cùng khoá, và được má Táo cho ăn món tôm chua thịt luộc truyền thống của người xứ Huế, giống như dưa giá thịt kho của Miền Nam thường ăn trong ba ngày Tết.
                              Để giải khuây trong dịp đầu năm nầy, Táo đưa Bảo và tôi tới nhà cô em họ tên B. Võ, ở một hiệu sách trên đường Độc Lập, để đánh bài trong gia đình cho qua ba ngày Tết tha hương buồn tẻ nầy.
                              Bài bạc là thứ đỏ đen, dễ bị tán gia bại sản, do đó tôi chỉ chơi giải khuây trong những ngày tết, với gia đình hoặc bạn bè chòm xóm thôi. Bốn chúng tôi (Táo, B. Võ, Bảo, và tôi) chỉ chơi xì dách 21 điểm và đặt nhỏ vì đâu có vốn nhiều. Vậy mà cũng kéo dài thâu canh, tới sáng mới chịu nghỉ. Lúc đầu tôi gom sòng, một đống tiền ở trước mặt, còn Bảo thì cạn dần, có lẽ nó cứ lo nhìn lén cô em họ của Táo, một hoa khôi của thành phố Nha Trang, nên tới nửa đêm thì sạch túi. Rồi Bảo lấy tiền của tôi để chơi tiếp. Bàn tay của Bảo lúc đó sao mà xui quá, đến hừng sáng thì cô em họ của Táo quơ sạch hết!
                              Tới ngày đi trình diện trường Pháo Binh, Táo nói má nó cho mỗi đứa mượn hai ngàn để đóng tiền cơm. Khoá nầy chỉ có toàn sĩ quan Nhảy Dù của 8 Tiểu đoàn, gồm 16 người, trong đó có các anh Hồ Lệ, Nhỏ, và Nam Râu là khoá 19 ĐL, đàn anh của tôi. Ngoài ra còn có Ngạc lùn, Cương Củ Đậu (không phải tên thật) là những tay khuấy nước chọc trời trong Sư đoàn Dù.
                              Giường ở đây có rất nhiều rệp, ai nấy đều thức suốt đêm, không ngủ được. Tôi và Bảo vì đóng tiền ăn, nên không còn đồng xu dính túi định cứ nằm lỳ ở trại chịu trận cho đàn rệp hút máu. Anh Nhỏ, Nam, và Hồ Lệ thấy tội nghiệp, cứ mỗi lần đi đâu ba người thường rủ tụi nầy theo và họ dành trả tiền, đúng là tình anh em Võ Bị vô cùng gắn bó. Đàn anh lúc nào cũng muốn che chở cho đàn em. Bảo và tôi hết sức cảm động trước tấm thạnh tình nầy.
                              Nhưng Cương và Ngạc (không phải tên thật) uống say thì ít khi tự chủ được bản thân. Có lần nhậu say ở câu lạc bộ Biệt Động Quân (bên cạnh trường pháo binh), Ngạc nổi hứng đòi đánh anh Đại úy Quản lý Câu Lạc Bộ. Anh nầy thấy Ngạc say nên chịu lép nhịn nhục; vì uống quá nhiều, nên Ngạc quậy tùm lum, khiến một anh Trung sĩ BĐQ để tâm trả hận.
                              Một buổi chiều nọ, khi chúng tôi đang đứng ở đầu chợ Dục Mỹ, chờ đón xe về trại. Bỗng từ ngoài xa, anh Trung sĩ cầm dao phóng tới định đâm anh Ngạc, thật là may mắn, lúc đó tôi nhìn thấy kịp nên nhanh nhẹn chụp cổ tay và tướt được con dao ra. Chỉ có mười sáu sĩ quan Dù mà dám quậy ổ Biệt Động thì thật là gan trời, có lần Cương nhậu say quá, tối hôm đó đang ngủ trên giường, bỗng anh ngồi dậy khóc hu! hu! rồi đập đầu làm bể cánh cửa của tủ đựng áo quần, may là tủ bằng gỗ, nếu bằng sắt thì đầu anh chắc tiêu luôn. Sáng thức dậy, Cương thấy đầu bị băng bó thì hỏi sao vậy, làm ai nấy nghe anh hỏi đều ôm bụng cười. Thì ra cả một đêm phá làng phá xóm, khiến trời gần sập mà anh vẫn không biết gì.
                              Có lẽ thấy những sĩ quan Dù nầy ba gai quá, nên anh phi công L-19 thay vì bay bình phi để cho khoá sinh quan sát điều chỉnh pháo binh. Nhưng muốn chơi Nhảy Dù, anh điều khiển máy bay lượn lên lượn xuống, làm mặt chúng tôi bị kéo dài ra như mặt ngựa, tối về anh nào cũng ói lia, ói lịa, ói ra tới mật xanh, ói tới ruột lộn xà ngầu, hết còn “Nhảy Dù cố gắng” nổi. Đặc biệt có anh Tài, mặt đã dài, khi phi cơ vút mạnh lên, trông mặt anh lúc đó càng thấy buồn cười hơn. Đã vậy mà mỗi lần máy bay lượn qua lượn lại, anh cứ oé lên la làng la xóm, khiến mấy tay phi công càng làm già thêm. 
                              Khoá nầy dạy về điều chỉnh pháo binh, phần đầu học điều chỉnh dưới đất, phần chót ngồi trên máy bay L-19 để tập xác định tọa độ và điều chỉnh đạn pháo bằng tầm nhìn từ trên cao.  Những điều học được rất bổ ích, có thể áp dụng trực tiếp trong các đơn vị Dù khi bị chạm địch.
                           
                           5. Khóa Du Kích Chiến, Mã Lai

                           
                            Vài tháng sau, trong lúc Tiểu đoàn đang tham dự cuộc hành quân tại thung lũng Iadrang, thuộc quận Lệ Thanh, tỉnh Pleiku; tôi nhận được công điện, gọi về Sàigòn để đo may quần áo và làm thủ tục xuất ngoại đi Mã Lai học khoá 32 Tác Chiến Trong Rừng (Jungle Warfare School).
                              Lúc ấy vào khoảng tháng 9 năm 1966, Sư Đoàn Dù có bốn sĩ-quan được đề cử đi học: Chuẩn uý Nguyễn Văn Thu của TĐ2ND, Nguyễn văn Khen thuộc TĐ3ND, Nguyễn văn Phương, TĐ8ND, và tôi thuộc TĐ9ND.  Khoá nầy có 4 sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, trong đó có anh Sĩ, sau về TĐ9ND.
                              Theo những người đi trước kể lại là ở Singapore hàng hóa rất rẻ vì thuế nhẹ, nếu đem về nước bán sẽ có lời nhiều. Sẵn mới cưới vợ, tôi định làm một cú buôn bán nhỏ để có tiền mua sắm cho cặp vợ chồng mới mẻ nầy. Nhưng vào giờ chót, tôi đem tiền trả lại cho ông anh họ bên vợ ở Chợ Lớn!
                              Khi máy bay loại C123 chở các khoá sinh đến phi trường Singapore, tôi thấy cảnh vật ở đây thật đẹp và vô cùng yên tỉnh. Không giống như Tân Sơn Nhứt, lúc nào cũng có máy bay chiến đấu lên xuống thường xuyên (khi chúng tôi ở Đà Lạt mới về học nhảy dù, tiếng động cơ của các máy bay phản lực, gầm thét vang rền suốt đêm, vì không quen, nên mấy đêm đầu tiên, không ai có thể chợp mắt ngủ yên được!)
                              Chúng tôi vừa vào trong nhà kiếng của phi trường, cảnh sát Singapore tới chận lại xét kỹ từng người coi có giấy chứng nhận đã chích ngừa đầy đủ chưa. Họ sợ các sĩ quan khoá sinh đem bịnh truyền nhiễm từ nước ngoài vào.
                              Tiếp đón chúng tôi tại đây là Đại uý Châu, Sĩ quan Liên Lạc kiêm Thông Dịch của nhà trường. Ông đưa khoá sinh bằng xe bus, chạy tới cầu biên giới hai nước rồi dừng lại, mọi người phải xuống xe để nhân viên hải quan kiểm soát hành lý và giấy passport. Họ khám từ cái áo thung đến trái cây, vì một ký trái lê ở Singapore là một đồng tiền Mã, trong khi ở bên kia cầu, thì giá mắc hơn gắp ba lần.
                              Do đó, trước khi qua cầu biên giới, đại úy Châu có cho xe ghé lại tiệm buôn của anh Tuấn và anh Nghĩa trong khu phố Chinatown ở Singapore. Hai anh chủ tiệm người Việt có đưa cho chúng tôi danh sách ghi giá biểu các món hàng, mà họ biết sĩ quan khoá sinh nào qua đây, cũng thường mua sắm những loại đó. Họ bảo cứ so sánh các tiệm khác, dù mua ở đâu, hai anh cũng sẵn lòng cho gởi đồ trong kho. Ngày về nước, chỉ cần tới đem thẳng từ đó ra phi trường Singapore, như vậy sẽ khỏi bị đóng quan thuế từ phía Mã Lai.
                              Mỗi chiều thứ sáu chúng tôi thường gọi taxi vô tận phòng ngủ của trường, từng ba người cùng đi một chiếc, thẳng qua Singapore để du ngoạn và mua sắm. Chúng tôi đã thử so sánh giá cả, thấy chỗ anh Tuấn, anh Nghĩa rẻ hơn nên cứ yên chí order thẳng với anh, để còn tranh thủ đi dạo các nơi.
                              Khóa nầy có đại úy Giàu, tham mưu trưởng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh tuổi gần tứ tuần, mỗi lần tới khách sạn, anh thích gọi thợ đấm bóp người Hoa có nghề rất điêu luyện, họ bấm huyệt và kéo giản xương gân kêu nghe “Rốp rốp”. Hầu hết chúng tôi còn thanh niên, nên không có mỏi lưng, chỉ thích đi khu phố Tàu để mua sắm và ăn món vịt Bắc Kinh và dưa cải xào ruột già, ngon vô cùng. Lúc kêu đồ ăn, vì không rành tiếng Tàu, nên nhiều khi bị đưa lộn món mà vẫn phải ráng ăn. Khi tính tiền thường nói bặp bẹ vài tiếng (sấu lúi, tẩy xu,..!) để họ không tính giá đập đổ như những người ngoại quốc khác!
                              Quân trường nầy có diện tích rộng gần bằng trường Bộ Binh Thủ Đức, nhưng số học viên chỉ có 2 toán khoảng 80 người, gồm 40 sĩ quan Việt Nam và 40 sĩ quan Đồng minh. Cổng ra vô không có lính gác như ở các căn cứ quân sự của nước mình. Chỉ có một nhân viên an ninh đứng trực phòng vũ khí với cây “Can” cầm nơi tay. Hầu như cảnh sát ở khắp các thành phố của hai nước Mã Lai và Singspore đều không mang súng.
                              Điều đáng chú ý là ở đây họ rất quan tâm đến đạn dược, mỗi khóa sinh chỉ được nhận 9 viên đạn thật để phòng thân, hầu lúc vô rừng đối phó khi gặp thú dữ. Ai lỡ bị mất một viên đạn thì phải có lý do, cần làm phúc trình báo cáo chi tiết. Nếu không chính đáng có thể bị trục xuất về nước!
                               Từ những yếu tố trên, mọi người đều cảm thấy quyến luyến cảnh sống yên ổn an vui trong một đất nước thanh bình. Khác với đời sống loạn lạc, lúc nào cũng như bị đe dọa về sinh mạng và không khí nghẹt thở bao trùm toàn chiến tranh đầy chết chóc của quê hương ta.
                              Khoá sinh được ở từng phòng riêng biệt, có đầy đủ tiện nghi, mỗi buổi sáng người bồi đến từng phòng gõ cửa gọi:
                              - Tea sir!           
                              Sau khi uống trà sữa nóng xong, trong khi khóa sinh rửa mặt, người bồi phòng lo xếp gọn ba lô và trải giường ngay ngắn, xong anh ta đích thân máng ba lô lên vai cho chúng tôi. Họ lễ phép coi các sĩ quan khoá sinh nầy như khách quý vậy.
                              Những người bồi phòng rất tử tế một phần vì đã được chỉ thị cách đối xử lịch sự với người ngoại quốc, một phần khác Đại uý Châu có căn dặn khoá sinh cho tiền tip khá để giữ thể diện Quốc gia. Toán khoá sinh Đồng Minh, trong đó đa số là sĩ quan Hoa kỳ, vì bản tính tự nhiên kiểu Mỹ của họ, mặc dù giàu có nhưng keo kiệt nên bị các bồi phòng chê.
                              Các lớp học thường là ở trong đồn điền cao su, hoặc ở trong rừng, mỗi buổi cơm trưa có xe chở đồ ăn nóng tới; với nước cam, bưởi hoặc nước ngọt, cà phê, đồ tráng miệng thật vô cùng đầy đủ. Trường nầy do Hoàng gia Anh đài thọ, nên bữa ăn chiều rất trang nghiêm, trong phòng ăn hết sức yên lặng, mọi người (khoá sinh và sĩ quan huấn luyện người Anh) đều phải thắt cà vạt. Trên bàn ăn bày đầy dao, muỗng, nĩa,.. đặc biệt ở các bàn người Việt Nam mình đều có các tô nước tương, trong đó có đầy ớt xắt lát đỏ tươi!
                              Thỉnh thoảng họ tổ chức party đãi khoá sinh, đặc biệt bốn đứa sĩ quan Dù chúng tôi rất được Thiếu tá Trưởng khối Huấn luyện ưa thích vì ông cũng thuộc Binh chủng Nhảy dù của Hoàng Gia Anh. Ông ta cũng đội mũ đỏ như chúng tôi và có tửu lượng rất cao, bốn tên nhập lại mà cũng không hạ nổi, vì không quen uống rượu Tây nên dễ bị say. Rượu Jean, Rum có vị vừa thơm vừa ngọt dễ uống nên bị say ngầm. Khác với rượu đế của ta, nó gắt và nặng cần phải dằn bụng rồi mới dám uống. Đêm đó tôi bị say quá chừng, mà trong bụng thì xẹp lép, không có chút đồ ăn nào hết !
                              Trường nầy chú trọng dạy về cách chiến đấu trong rừng, thoát hiểm mưu sinh, phản phục kích trên bộ và trên sông rạch, cách xác định điểm đứng, và cách phân biệt trên bản đồ quân sự các loại rừng già (loại rừng số 1), rừng rậm toàn lau sậy, ô rô, và dương xỉ (rừng số 2),...
                              Lúc thực tập cần phải chú ý để tâm, chớ không được học hời hợt, cẩu thả. Khi hai bên đánh tập với nhau, dù là bằng đạn mã tử, nhưng muốn bắn thì phải nhắm mục tiêu cho kỹ. Nếu ria bắn bậy bạ thì phải tập lại cho đúng mới thôi. Có lần tôi được đề cử làm chỉ huy cả toán, để tiến đánh một mục tiêu đã chỉ định. Do không chuẩn bị sẵn, phần vì cấp bách và phần vì lơ đễnh, nên khi đứng trước toán để ban lệnh hành quân; tôi nói thiếu sót phần tình hình địch và bạn. May nhờ Đại uý Châu thông dịch thêm bớt nên được thiếu tá huấn luyện viên khen đáo để, làm trong bụng tôi mắc cỡ gần chết!
                              Không phải tự nhiên tôi được ông thiếu-tá Nhảy Dù người Anh, chỉ định làm người chỉ huy cho buổi thao dượt cuối cùng của khoá 32 nầy đâu. Nguyên do tuần rồi, toán tôi được về nhất trong cuộc đi địa hình tìm cọc.
                              Cả lớp 40 người chia ra thành 10 toán nhỏ, được xe chở đến các địa điểm khác nhau trong khu rừng rậm. Từ đó các toán phát xuất đi địa hình tìm cọc và trong hai ngày phải tập trung đến một địa điểm gần trường. Toán tôi có anh Lương Huỳnh Hương, khoá 16 Đà Lạt, một Thiếu uý Bộ binh, và một Chuẩn uý Địa phương quân. Chúng tôi khởi hành di chuyển trong khu rừng già, loại rừng số một, đi tới trưa thì dừng lại lấy lương khô ra ăn vội, rồi tiếp tục lên đường, vì phía trước là rừng số 2, loại rừng toàn cây ô rô, dương xỉ, rất khó đi. Lúc đầu chúng tôi thay phiên nhau lấy dao rừng, chặt cây dọn đường làm lối đi, nhưng rị mọ hơn một tiếng đồng hồ mà chỉ được 100 thước! Như vậy 16 cây số còn lại thì biết bao giờ mới tới nơi? Anh Hương, đại niên trưởng của tôi, đề nghị mỗi người thay phiên nằm xuống, lấy thân đè lên cây ô rô làm cầu cho người kế tiếp bước qua. Mọi người làm theo chừng một giờ mà chỉ được 500 thước, ai nấy đều vất vả và mỏi mệt vô cùng. Trung uý Hương, mọi khi rất bình tỉnh và bản tính rất hiền lành (mỗi cuối tuần, tôi thường cùng đi với anh qua Singapore để du ngoạn và mua sắm), nhưng hôm nay anh gặp phải đoạn đường đầy chướng ngại vật, và còn khoảng 4, 5 tiếng nữa là trời sụp tối rồi mà chưa đi tới đâu, nên rất bồn chồn nóng ruột. Vì anh là con chim đầu đàn, có trách nhiệm về tinh thần trong việc hướng dẫn chúng tôi ra khỏi chướng ngại vật nầy!
                              Đi được một đoạn nữa, thấy có một con đường đất đỏ băng ngang qua hướng đi. Tôi đề nghị đi theo con đường nầy, đến khi hết rừng dương xỉ thì sẽ đổi phương giác ngược lại, rồi đi tiếp theo hướng đã định để tìm các cột tiêu mốc do nhà trường chỉ định các toạ độ trên bản đồ. Giống như trên hướng đi mà gặp hồ nước (hoặc sông rạch) trước mặt thì thay vì phải lội băng ngang, ta chỉ cần đi vòng theo ven bờ (hoặc kiếm cầu) để qua tới bên kia rồi tiếp tục bẻ góc, đi theo hướng cũ.
                              Mọi người đều đồng ý, vừa ngầm đếm bước đôi vừa thoải mái đi phom phom theo đường xe bò. Đi một khoảng thì đường mòn uốn cong về hướng Đông, đúng y như hướng chúng tôi dự định, ai nấy đều hết sức mừng rỡ, tiếp tục nhanh chân tiến bước. Bỗng anh Chuẩn uý Địa Phương Quân kêu rú lên, chúng tôi quay lại nhìn thì thấy mặt mày hắn xanh lét, tay chân run rẩy, miệng mếu máo, môi run lập bập, như muốn nói gì nhưng thốt không ra tiếng. Tôi hỏi:
                              - Mầy làm gì vậy Tân ?
                              - Ông ....thầy!!!
                              - Cái gì ? Ông thầy hả?
                              Tân không trả lời, bước nhanh vượt qua trước, mà mặt cứ lấm lét ngó về phía sau. Anh người nhỏ con, nãy giờ cứ than mệt, đi lẹt đẹt phía sau, nhưng bây giờ lại cố chen lên phía trước. Tôi hỏi gì, Tân cứ lắc đầu, không nói năng chi hết.
                              Nhờ theo đường mòn, nên đi khoảng hai tiếng thì đã vượt qua khỏi rừng cây dương xỉ. Chúng tôi kiểm soát lại tọa độ điểm đứng, rồi tiếp tục đi nhanh tới phía trước; một chập sau, thì ra khỏi đám rừng, phía trước mặt là một bãi đất trống mà người ta đã ủi để khai hoang trồng trọt. Bây giờ Tân thấy đã đi rất xa chỗ hồi nãy, nên mới dám nói cho chúng tôi biết là anh đã gặp cọp. Thì ra anh không dám kêu thẳng tên cọp mà gọi là “Ông thầy”!  (Cọp ở Mã Lai đâu có biết tiếng Việt?) 
                             Nhà trường đã phát cho mỗi người 9 viên đạn thật, mục đích để  đề phòng thú dữ như trường hợp nầy. Tối đó chúng tôi lượm cây khô, đốt lửa suốt đêm để phòng muỗi và cọp. Trời hừng sáng, trong khi ai nấy đang chìm đắm trong giấc ngủ say sưa vì suốt hôm qua quá mỏi mệt, bỗng tiếng động cơ nổ làm mọi người đều giật mình thức giấc. Nhìn từ hướng Bắc, có một xe “Ben” đang chạy về phía chúng tôi. Anh Hương gọi:
                              - Các anh mau ra chận xe lại để đi ké một đoạn.
                              Con đường xe sắp chạy tới là đúng hướng Đông, vì chiều hôm qua, trước lúc đi ngủ, chúng tôi đã chấm tọa độ sẵn sàng hết rồi. Mọi người đều lẹ làng cuốn gọn ba-lô chạy nhanh ra đón. Khi xe chạy được một đoạn chừng 10 cây số thì chúng tôi nói tài xế ngừng lại, vì nếu tiếp tục đi thêm vài cây số nữa thì sẽ đến đúng điểm tập trung, như vậy thì bị lộ tẩy, có thể huấn luyện viên sẽ nhìn thấy!
                              Chúng tôi xuống xe, lấy bản đồ định phương giác, rồi tiếp tục đi về điểm tập trung, đó là một cơ sở đồn điền cao su. Đi chừng hai tiếng đồng hồ thì bắt đầu đặt chân vô đồn điền.
                              Từ xa tôi thấy mấy ông huấn luyện viên, đang đứng cạnh một căn lều vải lớn. Họ đang chỉ về hướng chúng tôi; khi tới nơi, họ mừng rỡ và khen ngợi rối rít, vì toán nầy tới sớm nhất!
                              Thật ra nếu không nhờ có đường mòn và xe Ben thì còn kẹt trong rừng, chưa biết chừng nào mới đến đây nữa? Họ tưởng thưởng bằng cách cho xe chở thẳng về trường và chúng tôi được phép đi phố lần chót vào ngay chiều Thứ Năm đó. Vì cuối tuần sau, chúng tôi bắt đầu lên máy bay về nước, từ phi trường Singapore !
                              Ngày về nước, tôi có mua vài cái đồng hồ Seiko để cho bà con, và đặc biệt có mấy cây thuốc thơm để chia cho binh sĩ thuộc cấp, vì tôi không biết hút thuốc. Không hiểu trong người tôi có máu nhà binh hay sao, mà khi đi xa nhà, mặc dù mới cưới vợ, nhưng trong đầu tôi lúc nào cũng chia đều: 
                                         “Nửa phần nhớ lính, nửa phần nhớ em”.
                              Nàng dâu mới xinh xinh của tôi, thì lẽ đương nhiên là nhớ nhiều, nhưng các chú lính trẻ như Mai Lực, Tám Lọ, Thạch Sên, Dương Phen,...lúc nào cũng chí chóe, líu lo trông họ ngây thơ vô tội, thật là dễ thương.
                              Dương Phen thì cao ráo, có thân hình lực lưỡng, là xạ thủ súng cối tài giỏi, Châu Non thì khi di chuyển trước ngực mang ba lô, sau lưng mang bàn tiếp hậu súng cối 81 ly, nhưng miệng cứ lẩm bẩm cười chọc:
                              - Sắc Muội Nực...bol (Tiếng Khmer là: Thiếu úy nhớ vợ)!
                              Còn Thạch Sên là người có sức mạnh vô cùng, anh có thể một mình khiên toàn bộ khẩu súng cối, nặng gần một tạ, mà đi phom phom trong rừng núi gập gềnh, mỗi ngày khi dừng quân, ba người đều đào hố súng cối rất sâu và rộng, Sên là người có bùa Miên cao tay nhất Tiểu đoàn, có lần anh trung sĩ Thạch Sanh bị bùa hành, Sanh tự nhiên như người say rượu, chạy lên Ban chỉ huy đại đội của Trung úy Ngô Tùng Châu chửi bới la hét bậy bạ, Thạch Sên tới trấn áp, rồi ném anh ta xuống vũng nước sình, để đại đội trưởng đả nư, khỏi cần phạt tù nữa.
                              Tiểu đoàn có rất nhiều lính người Việt gốc Miên, họ thường rất tin bùa ngãi. Tôi thấy Thượng Sĩ Nhứt Sơn Dum, đêm nào cũng đốt nhang thờ cúng, ông ta sau nầy qua Nam Vang đeo quân hàm đại úy của xứ chùa Tháp.
                              Nghe nói bùa của họ rất linh nghiệm, nhưng cũng phải kiêng cữ rất nhiều, không được để bùa gần chỗ dơ, không được chui qua sào phơi áo quần, không được lấy vợ người ta, không được để đàn bà rờ đầu,.... Điều tôi được chính mắt thấy, tai nghe về sự linh nghiệm của bùa ngải nầy rất nhiều:
                               Châu Non sau nầy bị xe đụng chết ở Ngã Tư Bảy Hiền, nghe nói trước đó anh bị tai tiếng bê bối trong trại gia binh. Trung sĩ Sơn Dương, thuộc Đại đội 91, đã đi lính lâu năm chưa từng bị thương. Một hôm, trong cuộc hành quân ở Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, anh đi vệ sinh nên cổi bùa máng ở một nhánh cây. Khi anh (không còn bùa hộ mạng trong mình) vừa bước tới gò đất chừng 10 thước thì bị đạp phải mìn, nổ chết không kịp trối. Tôi đã đi hành quân, có năm bị thương tới ba lần, còn Đại tá Đặng, người Việt lai Miên, ở cạnh nhà, khi đụng trận, hai tay ông cứ quơ khăn bùa phất phất, nhào lên phía trước, mà suốt 20 năm xông pha, ông chưa từng bị thương tích lần nào. Dương Phanh có cho tôi cái nanh heo rừng, nhưng về nhà cứ bị bà xã rờ đầu hoài, nên phải đem trả lại, sợ phạm bùa giống như Thạch Sanh, thì nguy hiểm vô cùng.


                          Trương Dưỡng. K20
                          nguồn:
                          http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm
                          Last edited by BachMa; 10-06-2017, 05:42 AM.

                          Comment


                          • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 3

                            Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
                            Trương Dưỡng - K20

                            Chương  3
                             
                            Kể Chuyện Hành Quân (hay Buồn Vui Đời Lính)
                             
                            Ba mươi năm qua, bao đổi thay, bao thống khổ chồng chất; giờ đây trên đất khách tha hương kẻ còn người mất !
                            Ngồi ôn cố tri tân nhớ đến bạn bè và chiến hữu thân thương, nhớ lại những trận chiến khi còn ở các đơn vị Nhảy Dù, tưởng chừng như mới hôm qua”!!!

                             
                            1. Hành Quân Tân Quí

                             
                               Cuộc hành quân đầu tiên của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù tân lập nầy là tổ chức đóng đồn tuần tiểu lục soát nhằm ngăn chận địch xâm nhập Thủ Đô từ chiến khu Lê minh Xuân. Tiểu đoàn phân phối các đại đội bố trí xung quanh ấp Tân Quí thuộc về hướng Tây của phi trường Tân Sơn Nhứt.
                                Sau khi làm đám cưới xong, tôi đưa Nhi lên Sàigòn. Đến tạm trú tại nhà Bác Sáu, má của Lê huỳnh Đức, bạn học Petrus Ký, thuộc cư xá sở chăn nuôi cạnh Ngã Tư Bảy Hiền. Bác Sáu giới thiệu cho vợ chồng tôi ở trọ tại Tân Việt chung với Bà Bảy, má của chú Hai, nhân viên làm nghề mộc tại sở thú y.
                            Căn nhà của Chú Hai khá rộng rãi, chỉ có bà Bảy và vợ chồng tôi ở. Giá tiền trọ là $800/tháng. Bà Bảy là người rất tử tế, khi nào đi hành quân xa, vợ tôi về quê, bà chỉ lấy giá tượng trưng mỗi tháng có $600 thôi (lúc đó lương tháng của tôi, kể cả tiền không vụ là khoản $30.000).
                            Vừa có chỗ ở chưa được nửa tháng, tôi đã phải theo tiểu đoàn ra đóng quân ở Tân Quí!
                            Làm thân trai thời loạn, không biết thế nào là tuần trăng mật!!  “..Cưới nhau xong rồi đi ...”. Để những ngày hành quân xa em, chỉ còn biết hết nhớ nhung rồi nhung nhớ thôi !
                                Hành quân tại Tân Quí, thật ra chỉ để cho tiểu đoàn tân lập nầy làm quen với chiến trận, chứ chưa phải là cuộc thử lửa thực sự. Lúc đó Đại uý Phú đi TĐ8ND và Thiếu úy Đại thuyên chuyển qua TĐ6ND (Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù), Trung úy Ngô tùng Châu được bổ sung về coi Đại đội Chỉ huy. Tôi kiêm nhiệm luôn trung đội đại bác, tức Liên đội trưởng Vũ Khí Nặng, Trung sĩ Tình là Khẩu đội trưởng súng cối, Trung sĩ Nghị làm Khẩu đội trưởng đại bác 75 ly Không Giật. 
                                Bắt chước Thiếu uý Vinh ở Trung tâm Vạn kiếp, tôi làm các tiêu mốc, hỏa tập cận phòng và chỉ cho trung sĩ Tình, Thạch Sên, Dương Phen, và Châu Non cách đọc bản xạ biểu, cân bằng bọt nước của súng cối, và cách coi tiêu mốc để xác định các hoả tập. Lúc rảnh rang tôi chỉ binh sĩ coi địa bàn và ôn lại các cách bắn súng cối, đại bác 75 ly, và đại liên.
                                Hôm đó tôi lại chỗ đóng quân của Thuận văn Chàng, thấy anh đang dạy khinh binh Quảng và Cứ coi bản đồ và địa bàn. Chàng là người gốc Chàm, lúc ở quân trường có điểm năm thứ nhứt rất cao nên được đề cử làm SV Cán bộ Tiểu Đoàn. Anh rất hiền lành nói chuyện hòa nhã, bạn bè ai cũng thương. Nhưng thật vắn số, chỉ vài tháng sau, anh bị hy sinh tại mặt trận Đồng Xuyên Mỹ Xá thuộc tỉnh Thừa Thiên, Vùng I Chiến Thuật!
                                Ghé qua trung đội của Lê Phát Lộc, thấy anh nấu chè đậu xanh đãi cả trung đội, nhìn mọi người ăn uống vui vẻ với nhau, tôi thấy tinh thần huynh đệ chi binh của họ thật là khắng khít.
                                Một hôm, khoảng hai giờ khuya, bên hướng ấp Ông Cha, nằm giáp ranh ấp Tân Quí, có nhiều tiếng súng nổ, tin tức cho biết,   địch từ chiến khu Lê Minh Xuân, đang định tấn công khuấy phá nhà thờ.  Họ gọi nhờ đơn vị chúng tôi để xin yểm trợ, tiểu đoàn bảo bắn súng cối 81 ly về hướng Tây của nhà thờ, tôi cho bắn thử vài quả trước coi họ phản ứng ra sao? Thật sự tôi không tin vào tài bắn súng cối của mình và của khẩu đội mấy, vì đây là lần đầu tiên bắn đạn nổ.
                                May quá! Nhà thờ bảo như vậy rất hiệu quả, và xin bắn tiếp. Tôi cho tác xạ thêm 50 quả đạn nổ, rồi bắn kéo dài xa về hướng Tây để truy sát địch. Sau cùng bên Ấp Ông Cha xin soi sáng xung quanh nhà thờ để quan sát coi mấy anh du kích có còn muốn xâm phạm nhà thờ nữa không? Sáng sớm hôm sau, tiểu đoàn cho một đại đội bung ra lục soát, thấy có nhiều dấu vết địch để rơi rớt lại như nón cối và vỏ đạn loại súng AK-47 và súng trường CKC.
                             
                            2. Mặt Trận Thung Lũng Iadrang

                             
                               Từ Tân Quí về hậu cứ, tiểu đoàn được nghỉ dưỡng quân 3 tuần để chuẩn bị cho cuộc hành quân xa tại Vùng II Chiến Thuật. Cặp vợ chồng son lại được tái ngộ, Chúng tôi rất vui mừng, ngày đêm khắng khít bên nhau như không muốn rời xa nửa bước.
                            Mỗi đêm tôi chở Nhi ra bến tàu hứng gió, vừa nhìn những tàu chiến khổng lồ vừa ăn phá lấu hoặc mía ghim hấp cũng rất thú vị. Thỉnh thoảng tôi đưa nàng đi ăn bò bía ở Công viên Duy Tân, ăn mì vịt tiềm ở La kai, hoặc vô nhà bà chị họ để được anh Sây nấu mấy món ăn Tàu rất ngon.
                            Những ngày ở Sàigon, Nhi rất muốn được đến đây chơi với người chị nầy.  Nhờ vậy việc nhớ nhà cũng được giảm bớt phần nào .     
                                Nhưng thời gian đoàn tụ thật ngắn ngủi, một tháng trôi qua thật nhanh, tôi lại phải cùng tiểu đoàn ra Pleiku để tham dự cuộc hành quân tại thung lũng Iadrang.
                                Theo tin tức thì một trung đoàn lính Hoa Kỳ đã bị phục kích và tổn thất nặng tại thung lũng xa xăm, núi rừng chằng chịt trong miền biên cảnh của tỉnh Pleiku nầy (phim We Are The Solders nói về trận nầy).
                            Iadrang là khu rừng rậm hiểm trở, phía Bắc giáp Đức Cơ, phía Nam là rặng Chu Prong, hướng Đông là QL 14, hướng Tây là biên giới Việt Miên. Quân chánh qui Bắc Việt thường xâm nhập theo đường mòn Hồ chí Minh, rồi dấu quân lập chiến khu tại đây, để chỉ đạo các đội quân phá rối Vùng II Chiến thuật. Vì vậy muốn cho dân chúng trong khu vực nầy được sống yên ổn, Quân đoàn đã xin Bộ Tổng Tham Mưu tăng phái một chiến đoàn Dù để chống cự lại đám quân chủ lực của Cộng Sản miền Bắc tại mặt trận mà đã từng gây nhiều tổn thất cho quân đội bạn. Trung tá Nguyễn Khoa Nam, Chiến đoàn trưởng, chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân nầy .
                                TD9ND được máy bay chở ra phi trường Pleiku, rồi từ đó xe vận tải đưa đến Biển Hồ, để chờ đợi tiếp tế lương thực và kiểm điểm vũ khí, đạn dược. Trong ba ngày, bốn tiểu đoàn đã trang bị hoàn tất, họ báo cáo sẵn sàng đợi lịnh xuất phát. Tại Trung Tâm Hành Quân Chiến đoàn, Trung tá Nguyễn Khoa Nam họp ban tham mưu thảo kế hoạch tiến quân. Ông đã khoanh tròn định rõ các mục tiêu, và phân chia ranh giới khu vực hành quân trong thung lũng Iadrang cho từng tiểu đoàn.           
                                Chúng tôi đổ bộ bằng trực thăng vận xuống một bãi trống trong vùng hành quân. Tiểu đoàn chia quân hai cánh, Đại uý Trương Vĩnh Phước chỉ huy hai Đại đội 91 và 92 tấn công mục tiêu bên cánh trái. Tiểu đoàn trưởng đích thân chỉ huy cánh bên phải.
                            Đại đội 94 đi đầu, tiếp theo là Đại đội 90, bọc hậu có Đại đội 93, tiến chiếm mục tiêu đã chỉ định.
                                Thiếu tá Huệ ra lệnh Đại đội 94 phải dàn mỏng và đi theo đội hình chân vạc từ từ tiến vào mục tiêu là thung lũng rậm rạp trước mặt, để nếu chạm địch thì Đại uý Phước từ trên sườn núi sẽ đổ quân đánh bọc xuống.
                                Cánh Thiếu tá Huệ đi khoảng một cây số thì gặp vài tổ kháng cự nhỏ, ĐĐT/ ĐĐ 94 cho lệnh dàn hàng ngang bố trí tại chỗ. Ông điều chỉnh pháo binh bắn vào các ổ địch. Sau khi pháo binh ngưng tác xạ, Trung đội trưởng Trung đội 1 cho binh sĩ đồng loạt bắn xả vào. Rồi 3 khinh binh chạy theo đội hình chân vạc, người nầy bắn yểm trợ cho người kia, chiếm từng gốc cây, và vào tới bờ rừng làm đầu cầu cho cả trung đội tiến vô. Sau đó, Trung đội 1 lại bắn yểm trợ cho Trung đội 2 xung phong chiếm ổ chốt địch kế tiếp. Những chốt nhỏ nầy lần lượt bị tiêu diệt dễ dàng bởi tài điều khiển linh động của các trung đội thiện chiến Dù.
                                Trong khi đó, bên Đại uý Phước gặp sự kháng cự mạnh mẽ, có lẽ là đài quan sát hay tiền đồn, địch dựa lợi thế từ trên cao, đã bắn một cách dữ dội vào cánh quân trên sườn đồi. Thấy đơn vị mình đang ở trong vị thế hơi bất lợi, Đại úy Phước ra lệnh dàn quân phân tán mỏng, rồi điều chỉnh pháo binh bắn vào ổ địch. Sau khi đạn pháo chấm dứt, ông nói Cố vấn Mỹ xin khu trục và gunship yểm trợ.
                            Một chập sau thì ba phi tuần gunship được điều động tới nã các đại liên và phi đạn phóng lựu vào mục tiêu. Tiếp theo, 3 chiếc khu trục bay tới bồi thêm những loạt bom nổ và bom napal, khiến địch không thể bắn vào toán quân của Đại uý Phước nữa .
                                Trong khi đó Đại uý Phước đã cho một đại đội lén bọc lên đỉnh cao, chờ khi chấm dứt phi pháo thì nhào xuống tấn công vào ổ chốt địch. Trung úy Trang, Đại đội trưởng 91 cho đơn vị dàn sẵn, khi khu trục vừa ngưng oanh tạc, anh lập tức ra lệnh tấn công. Toàn bộ đại đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh vào ổ chốt địch. Khi chiếm được mục tiêu, có vài binh sĩ bị thương vì sự chống trả yếu ớt tự vệ của những cán binh ngoan cố đã bị thương kẹt lại, còn phần đông thì đã trốn vì không chịu nổi phi pháo, đã nổ tới tấp vào vị trí của họ.
                                   Sau khi thu dọn chiến trường, đại đội tịch thu được một thượng liên, nhiều súng cá nhân, và bắt sống được 3 tù binh. Tiểu đoàn tiếp tục lên đường tấn chiếm các mục tiêu kế tiếp.
                                 Ngày hôm sau, các tiểu đoàn bạn chạm địch mạnh, chúng tôi được lệnh dừng quân tại chỗ, sẵn sàng tiếp ứng. Đến chiều thì tiếng súng đã ngưng, có lẽ địch thấy các đơn vị Dù quá kiên cường, không thể làm cho chúng tôi bị sa lầy như đơn vị Đồng Minh, nên họ rút êm ra khỏi thung lũng. Vì thế suốt một tuần lễ cả chiến đoàn đều không còn chạm địch.
                                Mặc dù ngày nào cũng lội trong khu vực rừng rậm âm u, lau sậy cao ngập đầu. Mỗi sáng phải ăn uống nấu nướng xong trước 7 giờ để chuẩn bị sẵn sàng đợi lịnh xuất phát. Các khinh binh dùng dao rừng, dẹp đường cho đơn vị phía sau có lối đi. Việc phá rừng vượt núi nhiều lúc rất gian nan, nhất là mỗi khi gặp rừng lao sậy, ô rô, hay dương xỉ, những khinh binh dẫn đầu đoàn quân phải chịu vất vả vô cùng! Nếu không chạm địch, thì cứ tiếp tục dùng bản đồ, địa bàn, xác định mục tiêu rồi đi mãi cho tới 6 giờ chiều mới dừng quân. Rồi kẻ thì lo kiếm nước nấu cơm, người thì lo đào hầm hố, căng mìn bẫy, đặt lính gác giặc. Còn các “Đề Lô” thì lo điều chỉnh các quả tập cận phòng, lỡ khi địch giữa đêm tấn công bất ngờ, thì pháo đội yểm trợ chỉ dựa vào các hoả tập đó mà tác xạ.
                                Suốt 7 ngày đi trong rừng rậm, đầy lau sậy cao ngập lút đầu, ít khi thấy được ánh sáng mặt trời, đến nỗi binh nhì Võ Lục phát điên nói tục tỉu bậy bạ :
                                - Đi cả tuần mà không thấy “L. đ.” của đàn bà.
                                Ai nấy nghe anh vi von đều cười ngất. Ở đây không có giếng, nên khi đi ngang suối, mọi người đều lo lấy nước đựng đầy bình bi đông và phải dự trữ để buổi chiều khi dừng quân sẽ có nước nấu cơm. Tôi thì lúc nào cũng uống thuốc ngừa sốt rét và nước đun sôi.
                                Nước ở đây không tốt, có người bảo tại rừng thiêng nước độc, có người bảo tại lính Mỹ giận thua trận nên bỏ vi trùng sốt rét vào nguồn nước. Vì sau khi các tiểu đoàn Dù rút ra ngoài, thì có gần 50% chiến sĩ bị sốt rét rừng, một số người bị chết vì trúng nước quá nặng. Trung sĩ nhứt Cao Ngâm của đại đội chỉ huy đã bị chết vì bịnh nầy. Chàng, Bảo, Lộc, Thành “Râu”..cũng mắc bịnh sốt rét rừng, và bị hậu hoạn sanh biến chứng nhiều năm!
                                Sau 7 ngày hành quân trong rừng, lương thực dự trữ đã cạn, chúng tôi được lịnh đi ra quận Lệ Thanh để nhận tái tiếp tế.  Còn hơn 10 cây số mới tới quận lỵ, nhưng binh sĩ thì đã nhịn đói suốt đêm, nên đi một cách uể oải. Trên đoạn đường dài lê thê, mà đôi vai thì súng đạn ba lô nặng chĩu.
                                Thỉnh thoảng có anh nổi chứng, đưa súng lên trời, bóp cò bắn loạn xà ngầu. Họ đâu có hiểu tại vì rừng núi chằng chịt làm chậm bước tiến như đã tiên liệu, cho nên việc tiếp tế phải bị trễ nải. Lúc ấy thật là vô kỷ luật, hỗn quan, hỗn quân, không ai dám la rầy binh sĩ hết.
                                 Tôi cũng đang bị đói meo, tinh thần hết sức mệt mỏi. Bỗng anh đệ tử đem đến cho một trái bắp còn nhỏ, trong đó chỉ le que vài hột non xèo. Vậy mà mừng như lượm được vàng, cầm trái bắp từ từ thưởng thức, tôi ăn từ cùi bắp, râu bắp, và luôn cả vỏ bắp, thật là ngọt tuyệt. Các thứ lần lượt trôi vào bao tử, làm giảm bớt cuộc biểu tình của cái dạ dầy, vì nó cứ sôi lình bình, làm suốt đêm không ngủ được! Nếu lúc đó có luôn cây bắp, chắc tôi cũng làm sạch. Đây là lần đầu tiên trong đời bị nếm mùi đói, may mà chỉ có một ngày, một đêm. Tới chiều mọi người đều được tiếp tế đầy đủ.
                                Ngay tối hôm đó, tôi nhận được công điện về Sàigòn để chuẩn bị đi học Mã Lai. Lúc đang ở phi trường Pleiku chờ phi cơ dân sự về Sàigòn, tôi rất hồi hộp vì tối hôm qua đã phát hiện có rất nhiều người bị bịnh sốt rét rừng. Tôi vừa từ trong đó ra, chẳng biết có sao không nữa? Sợ khi khám sức khỏe, nếu phát hiện có vi trùng sốt rét sẽ bị loại!
                                Về tới Sàigòn, tôi vội đi khám sức khoẻ, thấy mọi thứ đều tốt, nên rất mừng. Có lẽ tôi nhờ vào nước đã đun sôi và đã uống thuốc ký ninh đều đặn. Tôi yên chí đi chích ngừa, vào ngân khố lãnh Traveler Check, xong mọi thủ tục như giấy thông hành, đo may quân phục dạo phố mùa hè.
                                Rồi thì cứ tà tà chở bà xã đi đó đây, chờ đến ngày lên đường xuất ngoại. Tội nghiệp các bạn Tiểu đoàn 9 Dù, nhiều người đã bị sốt rét, mà vẫn phải ở lại Vùng II dưỡng bệnh, chỉ có những người nặng mới được đưa về bệnh xá Đỗ Vinh trong trại Hoàng Hoa Thám.
                                Quân nhân khoẻ mạnh thì vẫn tiếp tục được trực thăng vận, vô rừng Pleime để tìm và tiêu diệt địch. Chờ trên hai tháng mới được về Sàigòn nghỉ quân và tham dự diễn hành ngày Quốc Khánh. 
                             
                            3. Hành Quân Vùng Phù Cát, Sa Huỳnh

                             
                               Học Mã Lại về nghỉ được 4 ngày phép để chuẩn bị theo tiểu đoàn đi hành quân ở Phù Cát, Bình Định. Lợi dụng dịp nầy, tôi chở Nhi đi chơi khắp phố. Tôi đưa nàng tới Tân Định để thăm người anh, rồi vô Chợ Lớn, nhà Chế Ký, là chị họ của bà xã. Sáng đi ăn phở Tàu Bay, chiều vô Chợ Cũ ăn cháo cá, thỉnh thoảng ra bến tàu hứng mát.
                                Bốn ngày phép trôi qua rất nhanh, cặp vợ chồng son đành phải đau lòng, đứt ruột chia tay, để mai đây mỗi người đi một ngã. Tôi thì theo tiểu đoàn viễn chinh tận Vùng II Chiến Thuật, còn Nhi thì về Vĩnh Bình để đỡ phần lẻ loi hiu quạnh.  Ôi chiến tranh thật là buồn nản, tôi vừa cưới vợ mới vài tháng, hương chưa ấm lửa chưa nồng, mà đã phải lao đầu vào lằn tên mũi đạn, suốt ngày cứ bôn ba trong rừng thiên nước độc, coi sống chết nhẹ tựa lông hồng.
                                 Tiểu Đoàn 9 Dù được máy bay C-130 chở tới phi trường Qui Nhơn, từ đó xe vận tải GMC đưa chúng tôi đến cầu Bà Gi để đóng quân tạm nghỉ đêm. Trong ba ngày ở tại đây, mọi người lo trang bị đầy đủ lương thực đạn dược, để chuẩn bị cho ngày lên đường vào vùng hành quân.
                                Theo tin tức, khu vực sắp đến là vùng xôi đậu, nơi đây Mặt trận Du Kích Chín Xã đã thao túng hoành hành, trong suốt mấy năm trường, và những ngày vừa qua, có sự xuất hiện của bộ đội chính qui. Khiến Quân đoàn II phải gởi điện khẩn, xin tăng cường đơn vị Tổng Trừ Bị để tảo thanh quân địch.
                                Ngày 12 tháng 11 năm 1966, năm giờ sáng Tiểu Đoàn 9 được xe GMC chở về ngã Bồng Sơn, qua quận Phù Mỹ, đèo Nhông, đèo Phù Củ ; gần xế trưa xuống xe dàn đội hình băng qua QL1, Tiểu đoàn bắt đầu tiến quân về phía Đông, bên trái có núi Chóp Chài, sườn phải có TĐ6ND và Thiết Vận Xa .
                                Chúng tôi dừng quân tại làng Bình Dương Đông để đợi tiếp tế 7 ngày lương, chuẩn bị tiến vào vùng hành quân. Tại đây có cô Năm thợ may tánh tình vui vẻ, đã sửa quần áo cho một số binh sĩ. Chợ búa toàn rau cải và củ kiệu tươi, giá cả rất rẻ; binh sĩ mua sắm để đem vào vùng hành quân. Sáng sớm chúng tôi đi lục soát ngôi làng bên cạnh, ngày hôm sau trở về Bình Dương Đông thì hay tin cô Năm thợ may bị Việt Cộng tối về bắt ra chặt đầu xử tử! Với bản án thông đồng với ngụy!?? Tiểu đoàn trưởng nổi giận hỏi sao tụi CS máu lạnh lại có thể nhẫn tâm giết hại dân lành một cách dã man như vậy? Ông cho lệnh an ninh điều tra ai đã chỉ điểm và quyết tâm tiêu diệt toàn bộ đám du kích hèn mạt, chuyên hãm hại những người dân vô tội bằng những ngụy biện chủ thuyết ngoại lai đáng ghét!
                                Hai ngày sau, chúng tôi xuất phát từ thôn Dương Liễu, thuộc huyện Phù Cát. Dùng cách giống như lùa tôm xúc tép (Tấn công bao vây), Tiểu đoàn cho hai đại đội tiến thẳng vào Đầm Trà Ổ, cạnh bờ biển, để lục soát dọc theo bờ biển từ Vạn Phú qua nhà thờ Chánh Khoan; rồi dàn quân làm tuyến ngăn chận.  
                                Tiểu đoàn trừ chia quân hai ngã, tiến thẳng vào mục tiêu là ngọn Núi Lồi. Các đại đội tiến quân thần tốc, khiến du kích Mặt Trận Chín Xã rối loạn, không kịp trở tay, một phần bị bắt, một phần chém vè chạy ra biển rồi bị túm gọn bởi các đơn vị ở Đầm Trà Ổ.
                                Khi đi ngang qua thôn Dương Liễu thuộc quận Phù Cát, tôi thấy trong một ngôi nhà tranh, có một thiếu nữ đẹp tuyệt vời: mắt phượng, mày ngài, mũi dọc dừa; tóc cô để dài che phủ đôi bờ vai thon, da trắng bóc, như là đã được tắm bằng nước dừa xiêm hằng ngày (vì thôn nầy trồng dừa nhiều như ở Bến Tre); cô đẹp y như tiên giáng trần. Với cảnh hoang tàn trong thôn xóm vắng vẻ, chung quanh đều âm u tâm tối, khiến tôi liên tưởng tới những hồ ly ngàn năm hóa thân trong truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh.
                                Thiếu tá Huệ, Tiểu đoàn trưởng, đã gần bốn mươi mà vẫn còn độc thân, lúc đi ngang qua, cũng đứng ngó ngẩn người một hồi lâu, có lẽ ông đã xúc động trước sắc đẹp dị thường đó.  Rồi sợ binh sĩ có người không tự chủ làm bậy hoặc vào nói la cà làm liên lụy như trường nhợp cô Năm thợ may. Ông hạ lệnh các đơn vị trưởng phải đích thân coi chừng bảo vệ cho người trong nhà đó. Đêm ấy, ai cũng mơ tưởng đến nàng tiên giáng trần nầy. Nếu suy nghĩ kỹ lại cũng nên thắc mắc, tại sao trong vùng xôi đậu, dân cư ly tán hết, mà chỉ có một mình cô ta ở lại đây? Tại sao lại ngồi khơi khơi ở trên tấm phản mà không núp vô buồng? Có thể nào cô nàng đã lấy dung nhan mỹ miều để che chở cho một cán bộ gộc (có thể là cấp bộ chính trị trung ương), hay chính cô là nữ hộ lý loại chuyên phục vụ cho cán bộ Cộng Sản cao cấp?  Đối với một người hiền từ như Thiếu tá Huệ, ông cho rằng thà tha lầm còn hơn là bắt lầm, nhất là người đẹp, càng phải “Ga lăng”, nhẹ nhàng hơn.
                                Các dân làng ở dưới chân Núi Lồi đã di tản đi gần hết, chỉ còn lại những người già cả yếu đuối, nhiều người ở đây bị một chứng bịnh kỳ lạ, giống như dịch hạch, có từng chùm mụt nổi ở cổ và háng. Ai nấy đều sợ truyền nhiễm trong các giếng nước, nên phải đun sôi kỹ lưỡng và đôi khi dùng nước dừa để giải lao.  Tiểu đoàn trưởng bảo bác sĩ và y tá cố gắng cứu chữa cho những người dân đau khổ nầy!
                                Một hôm nọ, binh nhì Huy, thuộc khẩu đội đại bác 75 ly, đang đào hố nhỏ ở gần bờ biển để đi đồng. Bỗng có một cậu bé tuổi chừng 15, đang lấp ló nhìn trộm trong một cái chòi nhỏ, Huy tay cầm sẻng, vai mang  súng chạy tới hỏi :
                                - Em nhỏ làm gì mà núp ló ở đây ?
                                - Em đói quá, mấy ngày không có gì trong bụng, anh cho em xin chút cơm ăn đi !
                                Huy thấy em mặc áo quần rách rưới, tay chân run rẩy, mặt mày xanh lét, anh tội nghiệp, nhưng trong nồi chỉ còn toàn cơm cháy khét. Huy thấy chú bé ăn ngấu nghiến, không bỏ sót một hột cơm cháy nào hết.
                                Ăn xong, cậu bé vừa liếm những hạt cơm còn dính trên mấy ngón tay, vừa nói:
                                - Anh muốn bắt mấy ông du kích không, em chỉ cho?
                                Mặt Huy sáng lên:
                                - Thiệt hả ? Để anh dẫn em đi gặp Thiếu uý.
                                Huy vội đưa em bé đến gặp tôi và nói:
                                - Thiếu uý, em bé nầy nói sẽ đưa mình đi bắt du kích nằm vùng.
                                - Đúng không? Sao nó chịu chỉ cho mình vậy ?
                                - Tại nó đói quá, em đã cho ăn một chén cơm cháy.
                                Tôi thấy em có vẻ còn đói, nên bảo binh sĩ lấy cơm thêm cho em. Trong khi ăn, tôi hỏi tại sao em đang ở trong vùng nầy mà sao dám chỉ chỗ trú ẩn của họ?
                                - Nẫu (chúng nó) bắt ba em, lấy búa đập đầu đến chết, em chạy trốn ngoài đồng, bữa đói bữa no, không dám về nhà.
                                Thì ra vì gia đình em là điền chủ giàu có trong làng, ba em bị đấu tố, và do chính tay tên Chủ tịch Mặt Trận Chín Xã đứng ra tuyên án. Tiểu đoàn trưởng được tin, vội ra lệnh cho Đại đội 92 dẫn ban An ninh đi lùng bắt được tên Chủ tịch và một số du kích địa phương. Điều hú vía là có một tên du kích đã trốn trong hang đá trên đỉnh Núi Lồi, chính nơi đây đêm qua đã đặt Ban chỉ huy Đại đội. Tôi và tổ súng cối đã nằm ngay trên hang đó. Rất may là lúc nào tôi cũng cảnh giác, luôn luôn phân phối người trực gác khẩu súng cối, nên tên du kích không thể hó hé chui ra làm bậy.
                                Được tin nầy, Trung tá Đào Văn Hùng, Chiến đoàn trưởng, bảo trực thăng chở tên Chủ tịch Mặt trận Chín Xã về Bộ chỉ huy Chiến đoàn. Nhưng giữa đường, hắn ta nhào ra khỏi máy bay tự vận. Trung tá Hùng đem em bé về Sàigòn nhận làm con nuôi, sau nầy em đi lính Dù và là hạ sĩ nhứt trong Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử của tôi. 
                                Trung tá Hùng là một sĩ quan nổi tiếng trong Binh chủng Nhảy Dù, ông ta đã từng tham dự các mặt trận Cao Bằng, Điện Biên Phủ,..ở ngoài Bắc; và rất nhiều trận ác chiến ở khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Trong khi ai cũng khiếp oai tướng Đống, chỉ có Trung tá Hùng là dám chọc phá ông thôi.
                                Có lần khi Tướng Đống đang ở trong lều, Trung tá Hùng dám ném lựu đạn khói vô và hô to:
                                - Sao tối hù, không thấy ai hết vậy ?
                                Vì tướng Đống nước da hơi đen ngâm, nên ông mới chọc. Nhưng Tướng Đống rất thưởng thức tài đánh giặc (và ba trợn) của ông, nên cũng thương tình bỏ qua!
                                Trong một cuộc hành quân cấp chiến đoàn, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, cùng 2 tiểu đoàn Dù khác, đang hoạt động trong vùng đồi núi mù mịt của dãy Trường sơn.  Một buổi tối nọ, các đơn vị đang dừng quân trên các đỉnh đồi cheo leo. Trong khi mọi người đang chập chờn giấc ngủ, vì cả ngày vượt rừng băng núi và chạm địch lẻ tẻ, bỗng ai nấy đều giật mình tỉnh giấc vì tiếng la hét vang rền của ông:
                                - Tiên sư tụi bây, cứ trốn chui lén lút như con chuột. Các con có giỏi thì hãy ra mặt đánh với các bố nè!
                                Tiếng nói của ông phát ra, bị các ngọn núi xung quanh làm dội ngược lại, gây nên những luồng âm thanh vang truyền khắp nơi. Nguyên nhân là vì buổi chiều, khi ông được tiếp tế 2 chai rượu Martell, liền ra lệnh dừng quân. Ông ngồi nhâm nhi một hơi hết luôn hai chai, rồi đứng lên chửi bới lung tung. Làm chúng tôi, đang đóng ngoài tiền đồn, sợ địch biết rõ vị trí, pháo kích hoặc tấn công bất ngờ! Chiến thuật kiểu nầy của ông thật là táo bạo, có thể gây tổn thiệt cho thuộc cấp.
                                Nhưng có lẽ ông biết cả ruột gan của địch, nên đã chiến thắng rất nhiều. Chẳng hạn như trận Mậu Thân Đợt II ở vùng Ven Đô, ông cho lệnh Tiểu Đoàn 7 Dù, dàn hàng ngang lục soát từ Đông qua Tây toàn bộ khu vườn trầu và đồng ruộng mênh mông vùng Nhị Bình, Tân Thới Hiệp; khiến địch thấy lực lượng hùng hậu đi qua thì lo chém vè, dấu mình trong các hầm ngầm hoặc ngậm ống sậy lặn dưới nước. Khi Tiểu đoàn 7 đi qua hết thì họ trồi ra. Nhưng ông đã cho Tiểu Đoàn 2 lục soát ngay từ Nam lên Bắc, Tiểu đoàn 7 đi ngược lại Từ hướng Tây trở lại hướng Đông (kiểu hồi mã thương). Cứ thế cày qua cày lại, mỗi lần bắt được gần chục tên, tới chiều thì hầu như tiểu đoàn chính qui địch hoàn toàn tan rã. Tôi nghe ông vừa nghiến răng vừa nói trong máy:
                                 - Ông nhai, ông nghiền, ông cày nát chúng mầy ra!
                                 Càn quét trong Đầm Trà Ổ hơn một tuần, tiểu đoàn được trực thăng vận qua quận Hoài Nhơn. Ở đây cũng chạm địch lẻ tẻ, nhưng phải băng rừng vượt núi thật là vất vả! Đứng ngọn núi bên đây, tôi vẫn nghe rõ tiếng Đại đội trưởng Nguyễn Đình Bảo đang thúc hối binh sĩ Đại đội 93 từ ngọn núi bên kia:
                                - Các cậu bảo họ leo nhanh lên, trời sắp tối rồi !
                                Tối hôm đó bộ chỉ huy tiểu đoàn và một đại đội đóng quân trên một sườn đồi thoai thoải. Còn 3 đại đội khác chiếm các đỉnh xung quanh làm thế ỷ giốc để yểm trợ cho nhau.
                                Sáng ra Đại uý Phước, Tiểu đoàn phó, vừa chữa bệnh gan từ Sàigòn ra bổ sung đơn vị, mặt ông vàng như nghệ, môi đen thâm, nhưng người ông rất hiền từ, các sĩ quan tiểu đoàn đều mến thương. Mấy hôm liên tiếp tôi thấy anh Bao, phục dịch của ông, đang đi kiếm mót rau rừng chẳng hạn như lá tàu bay, rau má,..cho thầy mình. Sẵn có dư một ít măng non và lá tàu bay, tôi bảo anh Bao đem nấu cho đại úy ăn và căn dặn đừng nói ông biết để tránh tiếng nầy nọ. Đối với thượng cấp, tôi luôn luôn tôn trọng, nhưng không thích nịnh bợ.
                                Khi tiểu đoàn đóng quân tại một xóm nhỏ gần chân núi huyện Hoài Nhơn. Một buổi chiều nọ, tôi nghe tin một binh sĩ đang bị Trung úy Thành, sĩ quan An Ninh, phạt đánh đòn. Chưa biết lý do gì, nhưng vì nóng ruột lính mình bị người ta đánh, nên tôi tức tốc chạy tới lều của Thiếu tá Huệ phản đối:
                                - Thưa Thiếu tá tại sao Trung úy Thành đánh lính của tôi?
                                Ông ta cười hô hố, bước ra khỏi võng và kéo tay tôi vừa dẫn tới chỗ Ban An Ninh vừa nói:
                                - Dưỡng đi lại đây coi đàn anh dạy lính,
                                Thành thuộc Khóa 19 ĐL, người xứ Huế, được Thiếu tá Huệ cưng và tín nhiệm nhứt Tiểu đoàn, vì anh ăn nói đàng hoàng, tư cách chững chạc, thường hay bàn chuyện về binh pháp, hành quân tác chiến một cách mạch lạc nên được vị Tiểu đoàn trưởng thương, và đã cho đi học khoá Mã Lai đầu tiên trong tiểu đoàn tân lập nầy.
                                Thì ra Dũng bị đòn do tội xâm phạm tài sản của dân chúng, nên tôi cứng miệng vì tội lỗi quá đành rành. Thiếu tá Huệ thấy tôi dung túng và dễ dãi với binh sĩ thuộc cấp quá, nên đưa cây roi bảo tập đánh đòn họ, ông nói: “Lính Nhảy Dù thường xuất thân từ những tay anh chị, họ dũng cảm thiện chiến, không sợ tù tội, nhưng chỉ sợ bị hổ ngươi mắc cỡ vì bị phạt đòn”! (giống như em bé ngây thơ chơn chất!).
                                Quả thật vậy, sau nầy ở Đại đội 92, đơn vị đang đóng quân trong khuôn viên chùa Từ Đàm, gần dốc Nam Giao, dưới chân núi Ngự Bình ở Huế. Binh nhứt Cứ là một khinh binh xuất sắc của tôi, nhưng phải tội ưa trốn ra phố, dọa phạt tù nhiều lần mà cậu ta cũng không sợ. Sau cùng tôi bắt anh đứng vịn gốc cây, chổng mông cho tôi cầm roi đánh đòn giữa ngoài sân nhà của dân chúng. Anh nói:
                                - Vô nhà hãy đánh Trung uý ơi, ở đây mắc cỡ lắm!
                                - Anh chỉ mắc cỡ chứ đâu sợ tù, vậy có còn trốn đi phố nữa không? 
                                 Cứ lắc đầu, tôi quất anh 5 roi, lẽ dĩ nhiên chỉ dơ cao rồi đánh khẽ. Anh là khinh binh gan lỳ, xuất sắc nhất, được nhiều huy chương và thăng cấp rất nhanh vì lập rất nhiều thành tích.  Quả thật sau nầy Cứ chỉ đi phố khi có phép thôi.
                                Nhiều lần tôi xin ra trung đội tác chiến, nhưng Thiếu tá Huệ bảo mới ra trường còn hăng máu, chưa kinh nghiệm, chờ một thời gian nữa sẽ tính. Tôi với ông không bà con thân thuộc, nhưng đã được quan tâm giúp đỡ nhiều phen. Có lần đang ngồi nói chuyện với anh Thành, bỗng thấy ông sắp đi đến, tôi vội chuồn êm, vì sợ mang tiếng nịnh bợ thượng cấp. Chắc ông nghĩ tôi là người ngay thẳng thật thà không biết nịnh bợ, nên cứ giữ ở lại Đại đội Chỉ Huy và đề nghị cho đi học Mã Lai (sau Thành một khoá) tới hai lần (vì sợ bị lọt sổ). Mãi tới gần một năm sau, khi ông vừa nằm xuống trong một trận đụng độ ác liệt ở vùng Phi Quân Sự, gần cầu Hiền Lương, tôi mới chuyển về Đại đội 92. Tôi lúc nào cũng tưởng nhớ ơn tri ngộ của ông, đã hết lòng nâng đỡ, ngay từ những ngày đầu trong quân ngũ.
                                Hơn một tháng rưởi, tiểu đoàn đã dẫm nát hết khu rừng núi sình lầy của Đầm Trà Ổ, Núi Lồi, và mật khu Hoài Nhơn. Quân Đoàn II lại cho chúng tôi đổ bộ trực thăng vận xuống vùng nhiều VC ở Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Địch tại đây thật gan lỳ và hung hăng, chúng tôi chưa kịp nhảy xuống đất là đã bị họ bắn trả xối xả vào các trực thăng chở quân.
                                Dùng chiến thuật thần tốc, các chiến sĩ Dù vừa nhảy xuống đất đã vội dàn quân vừa bắn vừa la “Xung phong” vang rền cả chiến địa. Vì hỏa lực và sức chiến đấu quá dũng mãnh của các Đại đội Dù, nên địch thấy chống cự không lại, xúm nhau cong lưng chém vè (tháo chạy). Bỏ lại các Cán bộ Chỉ Huy trong hầm Trung Tâm Hành Quân của họ.
                                Hầm nầy rất lớn, bề ngang 3 thước, bề dài độ 6 thước. Các binh sĩ bao vây xung quanh, kêu gọi đầu hàng. Nhưng họ ngoan cố mở lựu đạn tự tử (Cán bộ cao cấp Cộng Sản ở khu Bình Định, Qui Nhơn đã bị nhồi sọ quá nhiều nên rất cứng đầu). Khi lục soát dưới hầm thì thấy có xác cố vấn Trung Cộng và tên Huyện ủy vùng Bồng Sơn, Tam Quan, cùng nhiều tài liệu chứng tỏ họ là những Cán bộ Chính trị Cao cấp. Chiều hôm đó, sau khi thu dọn chiến trường, toàn bộ tiểu đoàn đóng quân ngay trong làng sôi đậu nầy.
                                Trong nhà tôi ở, binh sĩ tìm thấy dưới cái lu nước đầy, có một hầm bí mật, trong đó, anh chủ nhà đang ẩn núp. Binh sĩ định bắt hắn, nhưng bà vợ mang bụng bầu vừa khóc vừa van xin nói thấy lính sợ quá nên mới trốn. Tôi vừa nhận được tin bà xã đã có bầu. Có lẽ vì đồng cảnh tương lân, và anh nầy cũng không có súng ống gì làm bằng chứng là du kích, nên tôi cũng bắt chước thiếu tá Huệ là tha lầm hơn bắt lầm. Các binh sĩ thấy bà vợ xanh xao bụng mang dạ chửa nên bảo anh chồng đón xe ra tỉnh ở, đợi cuộc hành quân chấm dứt hãy về cày cấy nuôi vợ con đừng nghe lời đường mật của tụi Tàu Cộng. Sau một tuần hành quân lục soát trong vùng Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, chúng tôi được xe đưa về Tam Quan. Trong khi chờ đợi máy bay vận tải tới phi trường Đệ Đức để chở về Sàigòn.
                                Lúc đó trung úy Phan Nhật Nam từ đại đội tác chiến, chuyển qua làm quyền Đại đội trưởng Đại đội 90. Anh Nam là người rất vui tánh, thích nói tếu với giọng oang oang khiến mọi người đều cười bể bụng, làm quên hết nỗi vất vả trong mấy tháng hành quân. Nghe nói anh vừa bị thương nặng ở trận Bình Giả, nên phải thay mấy thước ruột non bằng nilon, do đó các bạn bè thường gọi là “Nam Nilon”. Anh Nam có tài ăn nói, hùng biện chinh phục được người nghe, từ ngày anh về, các sĩ quan trong tiểu đoàn rất là vui vẻ, và thường tổ chức những buổi nhậu dã chiến để nghe anh kể chuyện.
                                Tôi không thích hút thuốc, có lần dừng quân tại một làng, gần chân cầu An Lỗ, anh Lê Văn Mễ gọi sĩ quan các đại đội tới nhậu, sau khi mọi người đều gần ngây ngất, thì anh Mễ bắt đầu ngâm thơ bài “Mòn Mỏi”, rượu vào làm hồn thơ trong lòng trổi dậy, khiến anh ngâm một cách say mê đến đổ lệ. Anh đã xúc động vì ý thơ, mà cũng có thể xúc động vì quá mòn mỏi trong chờ ngày thanh bình, để mọi người trai trẻ như chúng tôi khỏi phải sống cảnh trôi nổi lênh đênh đây đó. Xa vợ, xa con, xa người thân, quyến thuộc, xa bạn bè và nhất là xa Thành phố thân yêu với những ánh đèn màu rực rỡ. Nơi đó có “Đêm Màu Hồng” với tiếng hát cao vút của Thái Thanh, nhà hàng Bồng Lai có ban tam ca Thanh Phong, Duy Mỹ, Phương Đại. Hoặc ở đường Trần Hưng Đạo có vũ trường Ritz với những ca sĩ tài ba như Jo Marcel, Nhật Trường,..
                                Khi anh Nhật (không phải tên thật) đã thấm rượu đế hơi nhiều, bất chợt đứng lên, rút súng ra chĩa vào đầu tôi, bảo phải hút thuốc, nếu không hút thì nhấp một cái cũng được. Từ nào tới giờ rất sợ mùi thuốc lá, nhất là thấy tàn thuốc trong vũng nước là tôi muốn buồn nôn. Biết anh đã say nên tôi không cự tuyệt thẳng, chỉ đứng dậy từ từ rút lui.
                                Anh bực tức, nhưng chẳng lẽ ăn hiếp đàn em (anh là niên trưởng của tôi), nên trút cơn giận (của rượu) lên đầu anh bạn cùng khoá 18 ĐL là Mê Linh. Anh Nhật vừa bắn chỉ thiên dọa, vừa rượt anh Mê Linh chạy dọc theo bờ sông An Lỗ! Khiến mọi người đều lo. May là nhờ Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn phó, là khoá đàn anh nói giúp, nếu không thì đã bị Trung tá Nhã phạt củ rồi. 
                                Tiểu đoàn đã hành quân trên hai tháng nên được cho về Sàigòn dưỡng quân một tháng. Khi tới nhà thì Nhi cũng từ tỉnh lên (do nhắn tin trước). Mới hai tháng mà tôi coi như hai năm, vì những đêm dài thao thức ngoài chiến địa, lúc nào cũng tưởng nhớ tới nàng. Bây giờ Nhi đã đầy đặn hơn trước, trong bụng đã có mang cục máu chung của hai người. Tôi thầm cám ơn vì nàng sắp cho một đứa con đầu lòng, để nưng niu bồng bế, để nghe tiếng líu lo ríu rít của đứa trẻ, hòng giảm bớt sự căng thẳng, bớt lo nghĩ đến những ngày hành quân đầy gian nan nguy hiểm nầy.
                                
                            4. Hành Quân Vùng Bà Hom

                             
                                Sau 3 tháng ở Vùng II về, tiểu đoàn được điều động ra đóng ở vùng Ven đô, trong ấp Bà Hom, để làm tuyến phòng thủ vòng đai, ngăn ngừa địch xâm nhập từ mật khu Lý Văn Mạnh vào Thủ Đô quấy phá dân chúng trong những ngày xuân.
                                 Chung quang Thủ đô Sàigòn có Trung Đoàn 165A gồm những đơn vị đặc công quyết tử, chuyên môn quấy rối thành phố. Trong đó Tiểu Đoàn 6 Đặc Công phụ trách vùng Bà Quẹo, Bà Hom. Chúng phối hợp với du kích ở các xã Phú Thọ Hòa, Phú Lâm, Bình Trị Đông để điều nghiên, bám sát, và phá rối trị an. Nhưng Du kích từ đâu ra? Chính là dân chúng trong vùng trốn ra bưng học tập; rồi trở về sinh sống như những người dân thường. Chúng cung cấp tin tức về các đơn vị đóng vùng ven Đô, dẫn đường cho các đơn vị chính qui tấn công vào Sàigòn và cầm chân cho các đơn vị nầy rút đi. Những vụ pháo kích vào Thủ Đô và các căn cứ quân sự như Phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Hoa Kỳ tại VN cũng đều do họ gây ra.
                                Để đối phó với loại du kích đặc công nầy, cần phải nhờ đến các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân (dẫn đưỡng, nhận diện, và chỉ điểm các du kích địa phương, các gia đình có người trốn ra bưng) phối hợp với các đơn vị chủ lực như Biệt Động Quân, Bộ Binh, và Tổng Trừ Bị có nhiệm vụ trấn giữ vùng cửa ngõ vào Đô Thành (TĐ2ND do Đại úy Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã tiêu diệt phần lớn Tiểu đoàn 6 Đặc Công nầy, vào đầu năm 1967 tại ấp Vĩnh Hạnh. Thọ, bạn cùng khóa 20, đã hy sinh trong những ngày còn chân ướt chân ráo mới ra trường!)    
                                Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù khi tới Bà Hom liền phân chia từng khu vực trách nhiệm cho các đại đội. Mỗi sáng các đơn vị bung ra tuần tiểu lục soát, tối thì đặt tiền đồn và mấy tổ phục kích. Nhân dịp nầy các đại đội trưởng cho các quân nhân thay phiên về phép thăm gia đình. Tôi cũng được 4 ngày phép về Vĩnh Bình để thăm bà xã, vừa hạ sanh đứa con trai đầu lòng! Đặt cháu tên Tâm, vì lúc đó tôi đang nghĩ đến các từ ngữ tốt lành như: lương tâm, thành tâm, thiện tâm,và cũng có nghĩ đến tên của anh Nguyễn Đức Tâm, khóa 18, vừa về tiểu đoàn! Sau nầy, có lần anh đến nhà chơi, vừa nhìn thấy tức thì tôi gọi lớn:
                                - Tâm à! Ra ba biểu, chào bác đi con.
                                Anh Tâm la lên:
                                - Chu cha! Thằng nầy dám lấy tên tao đặt cho con nó!
                                Lúc đó hai vợ chồng tôi ôm bụng cười một cách khoái chí, trong khi anh Tâm thì đang tức tối! Hai đứa kế tôi cũng lấy tên Thành, đại đội trưởng Đại đội 92, và Thiện là bác sĩ tiểu đoàn. Thật ra suốt mấy năm cùng vào sanh ra tử ở tiểu đoàn, chúng tôi rất thương mến lẫn nhau. Mỗi khi dừng quân ở một xóm làng nào, thường gọi nhau tới vừa nhậu vừa tán dốc. Tức cười anh Thiện lúc mới ra trường Quân Y, uống một ly bia đã đỏ mặt; nhưng sau nầy, anh chỉ đòi uống rượu đế.
                                Có một trùng hợp thật đặc biệt là cả ba người Tâm, Thiện và tôi, cùng được đứng đầu sổ trong danh sách thăng cấp Đại úy đặc cách tại mặt trận vào dịp lễ Quốc Khánh năm 1968. Chính Đại tá Trần Quốc Lịch đã nhảy dù xuống gắn cấp bậc tân thăng và Tiểu đoàn trưởng cho mở tiệc “Rửa Lon” ngay tại bãi nhảy Ấp Đồn. Lúc đó tôi mang Trung uý mới một năm mà được đứng thứ nhì toàn quốc (anh Thiện đứng nhứt vì đã mang hàm Trung úy ngay từ khi còn là sinh viên Quân Y), đó là nhờ có 2 chiến thương, 3 nhành dương liễu và mấy cái sao vàng (một huy chương bằng một năm thâm niên quân vụ).
                                Bấy giờ TĐ9NDø có nhiều anh khóa 18 Đà Lạt như: Mễ, Trang, Tâm, và Nam. Đại úy Quân, Võ Tín, và Trung úy Cang đổi đi tiểu đoàn khác. Mấy ngày Tết, trong khi dân chúng thì thư thã mừng Xuân, còn chúng tôi thì lúc nào cũng ứng trực nơi đơn vị, hoặc nằm chèo queo trên võng để tưởng nhớ đến người thân đang làm gì trong những ngày xuân?
                             
                            5.  Vùng Phi Quân Sự

                             
                              Sau khi ăn Tết ở Bà Hom xong, cả Tiểu đoàn được C130 chở tới phi trường Phú Bài của thành phố Huế. Rồi từ đó các xe GMC đưa Tiểu đoàn đến đóng quân tạm thời tại xã An Hoà, nằm phía Tây, bên cạnh Cổ Thành Huế.
                                Đây là lần đầu tiên tôi được ra đất Thần Kinh, xứ “Ngàn năm văn vật”, và nhà của Trung úy Thành ở ngay tại xã An Hoà nầy. Tôi có đến thăm gia đình anh, thấy ngôi nhà thật rộng rãi, sân trước có trồng cây vả ăn chát chát, kèm với tôm chua thịt luộc thì ngon tuyệt diệu! Cạnh nhà có “O” Hoa rất đẹp, Thành nói phải chi còn độc thân thì giới thiệu cho tôi.
                                Sẵn dịp tiểu đoàn chờ tiếp tế lương thực, tôi và mấy đứa bạn rủ nhau ra chợ Đông Ba ăn bánh khoái ở cửa Thượng Tứ. Vào Thành Nội coi cung điện cổ xưa của triều đại nhà Nguyễn. Nhìn thấy ngai vàng chạm trổ bằng ốc xa cừ, cùng các bệ chầu của quan lại thời xưa, tôi thấy nó chỉ là những di tích bảo tàng, chứ không nguy nga tráng lệ tân kỳ như dinh Độc lập ở Sàigòn ngày nay. Chúng tôi cũng có đi viếng các lăng vua Tự Đức, Thiệu Trị, Minh Mạng,...ở bên Nam Hoà. Ăn cơm hến, cơm âm phủ ở gần Đập Đá, rồi tới chân núi Ngự Bình ăn bánh bèo. Mỗi buổi sáng, mọi người thường qua cầu Gia Hội thưởng thức món bún bò nổi tiếng của Mụ Rớt.
                                 Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho tiểu đoàn an dưỡng được 3 ngày, thì bắt đầu khoanh các vòng tròn chỉ định mục tiêu trên các đỉnh núi, thuộc dãy Trường sơn.
                                Đúng 7 giờ sáng, tiểu đoàn bắt đầu xuất phát từ cầu An Lỗ, ở gần cây số 17. Các đại đội tiến dọc theo bờ sông, trực chỉ về hướng Tây. Đi xuyên qua chòm nhà chừng 2 tiếng đồng hồ thì đến chân núi. Mọi người đều sẵn sàng chuẩn bị tâm tư cho 4 ngày ròng rã leo dốc và phá rừng dầy đặc của dãy Trường sơn trùng trùng điệp điệp nầy! Các anh em binh sĩ thấy dưới chân núi có nhiều cây rau má mọc giữa bãi đất hoang, họ nhanh tay hái mỗi người một bó, nhét vào ba lô. Đợi buổi chiều dừng quân sẽ nấu canh tôm khô, rau má ăn cho có chất tươi.
                                Tôi có anh đệ tử tên Thương, trước kia làm nghề đánh cá ở miệt Vũng Tàu, anh kể chuyện mỗi khi ra biển, thường đem đầy đủ gia vị, tối đến soi đèn vớt mực rồi nhúng dấm ăn tươi tại chỗ rất ngon. Mỗi lần chuẩn bị vào khu vực hành quân vùng rừng núi, anh thường mua sẵn nhiều đồ gia vị, để vô rừng nếu tìm được măng tươi, lá tàu bay, hay rau má,...thì thầy trò sẽ có bữa cơm ngon miệng. Thiếu tá Huệ chia tiểu đoàn ra hai cánh, ông đích thân dẫn 3 đại đội đi trục chính, lần lượt lục soát các đỉnh núi phía Nam. Đại uý Phước chỉ huy hai đại đội đi bên phải, phía Bắc của trục chính.
                                Đoàn quân lục soát được 4 ngọn núi thì trời đã sắp sụp tối. Cả tiểu đoàn đừng quân tại 2 đỉnh cao. Đại đội 90 đóng quân ở giữa, còn hai Đại đội 92, 94, thì bao vòng ngoài. Tất cả đều lo đào hố chiến đấu, căng mìn định hướng (Claymore), mìn chiếu sáng, và gài những bẫy lựu đạn. Sĩ quan Tiền sát viên pháo binh lo điều chỉnh hỏa tập cận phòng, bằng đạn khói.
                                Đi suốt cả ngày và vượt qua mấy ngọn núi cao, tôi thấy thấm mệt, nhưng còn phải lo kiểm soát các hố súng cối 81 ly, đại bác 75 ly Không giật, và coi binh sĩ hai khẩu đội đào hố chiến đấu bảo vệ vòng trong cho bộ chỉ huy tiểu đoàn. Sau khi cổi giày để chuẩn bị ăn cơm nóng thì trời đã bắt đầu tối om. Mỗi buổi trưa thường vừa đi (hoặc lợi dụng lúc dừng quân vài phút) vừa đem cơm vắt ra ăn một cách vội vã. Có hôm phải dừng quân vào lúc 9 giờ đêm, vì bị các chướng ngại vật. Gặp những lúc đơn vị chạm địch thì thật là vừa nguy hiểm và vừa cực nhọc vô cùng!
                                Hôm sau tiểu đoàn chiếm được các mục tiêu chỉ định sớm hơn, nên được dừng quân trước 5 giờ chiều, lúc ấy tôi đang ngồi xem bản đồ, thì bác sĩ Nghị lại chơi. Anh hỏi cách xác định điểm đứng, trong khu rừng núi trùng điệp nầy. Tôi chỉ trong bản đồ, các đường đỉnh, đường thông thủy, các vòng cao độ, các loại đồi yên ngựa, đồi trọc, các khe suối, và các độ cao của từng đỉnh núi. Những yếu tố trên cộng với việc dùng địa bàn để đo phương giác từ, thì có thể xác định tọa độ trong rừng núi dễ dàng. Ngoài ra cũng cần biết phân biệt loại rừng số 1 (rừng già) và rừng số 2 (rừng dương xỉ, ô rô).
                                Bác sĩ Nghị thì trắng trẻo, vóc dáng như thư sinh, nhưng rất thích học hỏi về quân sự, tôi có đến nhà anh một lần, ở một vila rộng lớn nằm trên đường Hồng thập Tự, gần trường Petrus Ký.
                                Ngày thứ 3 của cuộc hành quân, Đại đội 94 đã phát hiện một kho lúa khổng lồ, nằm dấu kín trong một khe núi để tránh phi cơ quan sát của ta. Có lẽ đây là kho chứa mà họ đã thu thuế từ các quận Quảng Điền, Phong Điền, Hương Điền, An Lỗ,...Tội nghiệp dân chúng thời chiến phải thắt lưng buộc bụng để đóng thuế nuôi quân địch, những kẻ mà lúc nào cũng tìm cách gây hại con cháu và thôn làng của họ.
                                Tiểu đoàn đã được lệnh cho đốt kho lúa (và kho muối) cháy suốt đêm (vì địa thế hiểm trở, không thể dùng trực thăng bốc ra được, hơn nữa lúa để ở vùng ẩm thấp lâu ngày, nên bắt đầu trở mốc, nếu đem về chỉ có thể cho heo ăn thôi).
                                Sau đó tiểu đoàn ra ngoài Quốc lộ I, nghỉ quân 3 ngày lãnh lương thực, rồi được trực thăng vận bỏ vô một khu vực khác. Chúng tôi lại bắt đầu Tây chinh, lục soát tìm và tiêu diệt địch ở các mục tiêu khác, trong dãy Trường sơn núi rừng trung điệp. Hành quân trong rừng núi 1 tháng thì được xe chở ra Quảng Trị và đóng quân tại nhà thờ La Vang. Tiểu đoàn đang chờ đợi cả chiến đoàn ra đầy đủ, để chuẩn bị cho một cuộc hành quân lớn tên Lam Sơn 54, nhằm tấn công xua đuổi trung đoàn chính quy Bắc Việt vừa xâm nhập vào phía Nam vĩ tuyến 17, ngay trong vùng Phi Quân Sự (DMZ).
                                Lúc đó Đại uý Linh về làm Tiểu đoàn phó thay thế Thiếu tá Phước (vừa thăng cấp) để ông ra Vũng Tàu làm Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND. Mấy ngày đóng quân ở La Vang, tiểu đoàn thường cho các đại đội đi tuần tiểu lục soát ở khu rừng rậm, phía sau nhà thờ, dọc theo bờ sông Thạch Hản. Chúng tôi chỉ chạm du kích lẻ tẻ, không đáng kể. Nhưng có điềm đặc biệt là Thiếu tá Huệ đã bị con ve bám vào trong lỗ rún, gỡ hoài không ra. Bác sĩ Thiện phải lấy kềm giải phẫu đặc biệt mới lấy ra được! Người ta dị đoan cho đó là một điềm, vì tuần lễ sau vị Tiểu đoàn trưởng đáng kính, người sáng lập Tiểu đoàn 9 Nhảy dù, đã anh dũng hy sinh trong trận ác chiến, đẩm máu tại đèo Ba Dốc, gần cầu Hiền Lương, mà tôi sắp kể sau đây:
                                Bốn tiểu đoàn dù, dưới sự chỉ huy của Chiến đoàn trưởng Trần Quốc Lịch. Đúng ngày N, đồng loạt xuất phát từ Gio Linh. Đoàn quân chia 4 mũi dùi, tấn công vào vùng phi quân sự. Địa thế vùng phi quân sự chia thành hai khu vực khác nhau: từ đường rầy xe lửa về phía Đông thì trống trải, bên phải Quốc lộ 1 là những động cát. Từ Quốc lộ 1 tới đường rầy cách khoảng 1 cây số là đồng ruộng bỏ hoang. Phía Tây đường rầy là đám rừng rậm, chính nơi đây, theo tin tức tình báo, Trung đoàn Chính qui của địch đã lập căn cứ bám trụ. Vì họ cho đây là vùng yên ổn, không sợ bị oanh tạc và pháo kích. Việt Cộng nghĩ rằng chỉ có chúng mới dám vi phạm quy ước về vùng phi quân sự, không giữ  chữ tín ma lanh như cáo Hồ!
                                Mục đích của cuộc hành quân nầy, ngoài việc xua đuổi địch trở về Bắc, mà còn phải yểm trợ cho việc thiết lập “Hàng rào điện tử Mac Namara”. Trong đó chuyên viên Hoa Kỳ sẽ đặt những thiết bị phát hiện địch bằng điện tử như: Minisid, Asid, và Microsid,...Mọi sự di chuyển của địch gây âm ba chấn động, nhiễu loạn từ trường, hoặc âm thanh,...
                                Tiểu đoàn 9 Dù được chỉ định đi cánh phải, lấy đường rầy xuyên Việt làm chuẩn. Trong khi chờ các đại đội dàn quân băng qua bờ cao quá đầu của đường rầy, tôi cùng ban chỉ huy của Thiếu tá Huệ đi dọc theo quốc lộ, bước lên cầu Hiền Lương, nhìn qua bờ Bắc thấy ngọn cờ đỏ sao vàng được treo lơ lửng ở bên kia cầu, đối chiếu với cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta đang bay phất phới ngạo nghễ ở bên nây cầu.
                                Mỗi khi tấn công những mục tiêu khó khăn, các đơn vị Dù thường cho phi pháo dập nát rồi mới vô, để đỡ hao sinh mạng binh sĩ. Nhưng vì đây là vùng Phi Quân Sự, không biết tin tức tình báo có thực sự chính xác hay không? Chúng ta làm quá rầm rộ, nếu không chạm địch, thì chúng sẽ rêu rao quốc tế là Miền Nam hiếu chiến, vi phạm hiệp ước. Như vậy có cớ cho bọn phản chiến Mỹ, kêu gọi quốc hội cúp viện trợ!
                                Khi các mũi dùi vừa tiến vào bìa rừng thì địch đồng loạt nổ súng; cũng may là các toán đi đầu đã thận trọng dàn mỏng và cho các khinh binh một cách linh động từng người vừa chạy vừa bắn yểm trợ với nhau, để chiếm bìa rừng làm đầu cầu cho cánh quân đi đầu. Các khinh binh nghe phát súng địch đầu tiên, đã vội nhảy vào các bờ ruộng hoặc gốc cây, họ bắn cầm chừng, để chờ đơn vị dàn quân lên đồng loạt bắn trả bằng những hỏa lực vô cùng hùng hậu cơ hữu như: súng Trường AR-15, Đại liên 30, Trung liên, M-79, Đại bác 75 ly, súng Cối 60 ly, và 81 ly,...Đợi tiếng súng địch thưa dần và pháo binh Dù bắn dập vào tuyến án ngữ của địch, toàn bộ các trung đội dàn hàng ngang, vừa hô to “Xung phong”, vừa bắn vừa chạy nhanh vào mục tiêu .
                                Nhưng! Mọi sự ngoài sức tưởng tượng, địch ở đây như đã chuẩn bị sẵn sàng nghênh chiến, chúng chống trả thật mãnh liệt, làm các trục tiến quân đều phải khựng lại .
                                Tôi nghe tiếng bạn Đỗ Ngọc Nuôi la to trong máy:
                                __ Tụi nó đông quá, xin pháo binh gấp, mấy đứa nhỏ bị kẹt hết rồi!
                                Đề lô tiểu đoàn vội xin hải pháo và pháo binh cơ hữu bắn thêm vào khu rừng trước mặt, Thiếu tá Huệ bảo không trợ gọi phi cơ khu trục lên. Đại đội 92 từ bên trái dàn lên dùng hết các hỏa lực cơ hữu để làm tê liệt những ổ kháng cự của địch, cố gắng chiếm mục tiêu trước khi trời tối. Nhưng một loạt đạn AK làm Trung úy Đức, đại đội trưởng, bị thương. Thiếu úy Trần Hữu Bảo cùng trung đội xung phong lên tiếp ứng, nhưng anh cũng bị bắn bể xương vai!
                                Trận chiến càng lúc càng ác liệt! Thấy giằng co suốt cả ngày mà không vô được bìa rừng, Thiếu tá Huệ nóng ruột la hét đốc thúc nhiều phen. Trời bắt đầu ngả bóng về chiều, bỗng như thần xui quỷ khiến, ông móc súng Colt và đứng thẳng lên bờ cao của đường rầy tại Đèo Ba Dốc, vừa bắn vừa la “Xung phong”. Ngay lập tức ông bị hai viên đạn ghim trúng vào đầu và bụng, chết không kịp một lời trăn trối!
                                Lúc đó tôi đang ngồi ở kế bên, nhìn thấy thảm cảnh như vậy, trong lòng xúc động bồi hồi! Nước mắt rưng rưng chảy ra lúc nào không biết! Một nỗi buồn man mác đang dấy lên trong lòng. Tôi rất kính phục và thương mến người anh cả của tiểu đoàn nầy, ông lúc nào cũng giúp đỡ và che chở tôi, trong những ngày đầu của đời binh nghiệp.
                                Trời bỗng kéo mây đen u ám, giông gió bắt đầu nổi lên ào ào, cảnh vật lúc ấy như buồn lây với kẻ bạc phần! Rồi cơn mưa giông trút xuống ầm ầm. Và chính nhờ cơn mưa bất chợt nầy, làm tầm quan sát bị giới hạn. Lợi dụng mây mù che phủ, các khinh binh của Thuận Văn Chàng nhào lên dùng lựu đạn ném vào tiêu diệt ổ thượng liên, anh hô xung phong, cả Trung đội vừa bắn vừa la vang rền bãi chiến địa.
                                Tuyến đầu của họ hoảng sợ chạy lui, làm cả cánh quân địch tưởng bị tràn ngập, nên ùa nhau chạy tán loạn. Các trung đội của Lộc, Nuôi, Bảo, Thành... cùng xông lên truy sát địch. Rồi cả tiểu đoàn ào lên vừa bắn vừa đuổi địch tới bên kia bờ sông Bến Hải, các tiểu đoàn bạn cũng lần lượt nhào vô thanh toán chiến trường. Tất cả đều thu lượm rất nhiều chiến lợi phẩm. 
                                 Chiến đoàn đại thắng nhờ cơn mưa giông nầy, hay là nhờ hương hồn của cố Trung tá Huệ, đã phò trợ cho các đơn vị, tránh bị sa lầy trong trận chiến ác liệt ở vùng Phi Quân Sự nầy? Đêm đó chúng tôi đóng quân lại trong vùng DMZ, pháo địch như muốn trả đũa cuộc bại trận, nên họ bắn liên hồi vào vị trí đóng quân đêm của các đơn vị Dù. Các pháo đội ta cũng không thua kém gì, với đạn dược hùng hậu, cộng với tài điều khiển xuất sắc của những sĩ quan pháo binh Dù như anh Lạc, Triệu, Lước,... Chẳng bao lâu làm im mồm các con gà cồ của địch. Chúng tôi ai nấy đều buồn vì mất người anh cả, giống như rắn không đầu.
                                Mọi người lo sợ đạn pháo, trước khi đi ngủ, đều đào lỗ sâu, rồi trải poncho, nằm giữa màn trời, chiếu đất. Pháo địch bắn từ bên kia bờ Bắc, cứ 5 phút thì rơi vài quả sát gần chỗ đóng quân. Suốt đêm không ai tài nào chợp mắt được!
                                Vừa nhìn sao đêm, vừa hồi tưởng lại: lúc tôi và Bảo chạy lên gặp Thiếu tá Huệ vì bị quan ba Liêm dọa phạt hai anh Thiếu uý mới ra trường. Lúc tôi lên xin ra đại đội tác chiến, ông nói đợi có kinh nghiệm và bớt hăng máu rồi mới cho đi. Nhớ lúc ông kéo tôi tới coi trung uý Nguyễn Văn Thành trừng phạt binh sĩ phá phách dân chúng trong khu vực hành quân. Và nhất là hình ảnh ông đứng thẳng trên đường rầy, đốc thúc đơn vị xung phong lên xua đuổi giặc ra miền Bắc. Ông tức họ nói một đường làm một nẻo, không coi trọng chữ ký trong bàn hội nghị. Hình ảnh ông lúc đó thật oai hùng, thật khí phách, nói lên tinh thần xả thân vì nước, bảo vệ cho lý tưởng, mong cho nhân dân miền Nam được luôn luôn ấm no, tự do, và hạnh phúc.
                             
                            6. Trận Lam Sơn 60

                             
                                 Từ vùng Phi Quân Sự, tiểu đoàn được xe chở về làng An Hoà, nằm cạnh bờ thành phía Tây của cổ thành Huế, các đại đội bố trí dọc theo các nhà dân từ An Hoà tới cầu Bạch Hổ.
                                Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhã về làm Tiểu đoàn trưởng, Đại úy Nguyễn Đình Bảo lên Tiểu đoàn phó, Trung úy Mễ làm Đại đội trưởng Đại đội 91, Trung úy Thành là ĐĐT/ĐĐ92ND (thay thế Trung úy Đức bị thương trận DMZ vừa rồi). Các tân binh từ Sài gòn ra để bổ sung cho những tổn thất trong mặt trận ở vùng giới tuyến. Đạn dược, vũ khí, và quân dụng được tái trang bị đầy đủ. Mọi người đều lãnh 1 ngày lương khô và 3 ngày đồ ăn tươi gồm thịt heo, rau cải,...để chuẩn bị ra quân. Tiểu đoàn được lệnh sẽ tấn công vào mật khu Đồng Xuyên Mỹ Xá (quê của tướng VC Nguyễn Chí Thanh). Hành quân nầy tên là Lam Sơn 60.
                                Tiểu đoàn phát xuất từ cửa Đông Ba, băng qua thôn La Vân Thượng, đi theo đội hình quả trám. Đại đội 91 dẫn đầu, tiếp đến là Đại Đội 90, theo sau là ĐĐ 92. Bên cánh trái có ĐĐ 93, và sườn phải là Đại đội 94.  Khoảng 10 giờ sáng, đại đội đi đầu đã đến Mục Tiêu A (xin xem sơ đồ hành quân Lam Sơn 60 đính kèm). Đây là một cái làng bề ngang khoảng 500 thước, bề dài khoảng 1500 thước, trải rộng tới sát bờ sông. Trung uý Mễ cho Trung đội 1 của Thiếu uý Miên làm mũi nhọn để tấn kích. Trách nhiệm chiếm bờ làng làm đầu cầu là Trung sĩ Của, một hạ sĩ quan tài giỏi nhất tiểu đoàn, anh đã lập nhiều chiến công trong các cuộc hành quân ở Vùng II và vùng DMZ vừa qua. Trung sĩ Của đích thân điều động 3 khinh binh đi đội hình chân vạc, bắn yểm trợ cho nhau để tiến vào mục tiêu.
                                 Khi khinh binh đầu tiên tới gần cách bờ làng chừng 10 thước, anh nhìn thoáng thấy không có ai, nên vội vã ngoắc tay gọi toàn bộ trung đội vào. Miên không ngờ địch đã núp kỹ dưới giao thông hào, nên cứ cho trung đội tiến vô làng. Khi cách bờ làng chừng 10 thước, bỗng địch từ giao thông hào chồm lên, đồng loạt ria vào đội hình của anh. Chỉ một loạt đạn đầu mà đã gây cho trung đội Miên tổn thất gần phân nửa!
                                 Trung sĩ Của và hai chiến sĩ khác đã hy sinh, còn Miên thì bị bắn rách tả tơi áo quần và luôn cả bao đựng băng đạn cũng bị bay mất tiêu! Anh hú hồn vội nhảy vào bờ ruộng, vừa bắn trả vừa coi mình có bị thương chỗ nào không? Quả thật mỗi người đều có số mạng riêng, nhìn anh giống như trưởng lão cái bang, vậy mà chỉ bị rách một mảnh da nhỏ ở khuỷu tay, thật là tốt số! 
                                Vì thấy đây là một chòm nhà, nên Tr úy Mễ mới không dùng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Nhưng bây giờ thì kẹt cứng, anh vội điều động đơn vị dàn quân lên bờ ruộng, bắn cầm chừng để yểm trợ cho trung đội của Miên. Mặt khác anh điều chỉnh súng cối 81 ly và pháo binh bắn vào mục tiêu. Thiếu tá Nhã cho lệnh ĐĐ 93 tiến lên bắn yểm trợ sườn trái cho ĐĐ 91. Địch bị hỏa lực hùng hậu từ hai mặt và bị cả pháo binh lẫn súng cối; rồi ba phi tuần khu trục và gunship nhào tới bắn ào ào. Họ không ngờ gặp phải hỏa lực hùng hậu quá sức tưởng tượng. Mới đó mà mục tiêu A muốn thành bình địa, giống như gặp phải ổ kiến lửa. Chúng vội cuốn vó chạy bán mạng về mục tiêu C và D.
                                Trung úy Mễ thấy tiếng súng địch đã thưa, anh bảo Trung đội của Phạm Văn Thành xung phong tiến vào bờ làng. Cả trung đội của Thành đồng loạt vừa bắn vừa hô “Xung phong” vang trời, làm những tên thương binh còn kẹt lại hoảng sợ, dơ hai tay lên cao hàng phục. Tr sĩ Trường, Tr sĩ Lương dẫn tiểu đội nhào lên chiếm lấy bờ làng, làm đầu cầu cho toàn bộ đơn vị vào thu dọn nốt mục tiêu. Th tá Nhã điều động ĐĐ 93 lên chiếm Mục Tiêu B, trong khi đó thì ĐĐ91 bố trí hướng về Mục Tiêu D chờ lệnh.
                                Đại đội 93 vào mục tiêu B dễ dàng, vì địch đã bị đuổi về dựa lưng ở bờ sông để gượng gạo chống cự “Ổ kiến lửa” nầy. Lúc ấy đã hơn 4 giờ chiều, phép hành binh thì kỵ nhất là “Giặc cùng chớ đuổi”, nhưng đã thấy địch mà chẳng lẽ bỏ cho chúng rút yên. Tiểu đoàn trưởng quyết định dùng pháo binh (Thiếu tá Nhã xuất thân từ pháo binh Dù) đập nát 2 mục tiêu cuối cùng, rồi cho Đại đội 91 thanh toán Mục tiêu D và Đại đội 92 đánh chiếm Mục tiêu C. Tưởng rằng pháo đã dập nát, thì có thể dễ dàng thanh toán các mục tiêu còn lại, nhưng không ngờ địch lại vẫn còn gan lỳ chống trả (có thể nào tiểu đoàn cứng đầu nầy đang liều chết bảo vệ cho Tướng VC về quê thăm thân nhân?).
                                Hai ĐĐ 91 và ĐĐ 92 đã nhiều lần xung phong, nhưng gặp sự kháng cự quá mạnh! Thấy trời đã ngả bóng rồi mà các binh sĩ vẫn không lên nổi, Phạm Văn Thành tức giận nói:
                                - Tụi bây không dám vô thì để tao!
                                Rồi anh nhào lên vừa bắn vừa hô “Xung phong”, binh sĩ thấy thầy mình dũng cảm quá cũng đứng lên xung phong tiến nhanh vào mục tiêu. Nhưng khi mục tiêu đã được thanh toán thì đại đội phải trả một giá quá đắt: Thiếu uý Phạm Văn Thành và một Chuẩn uý đã bị hy sinh! Tại Mục tiêu C càng thảm thiết hơn! Cũng giống như Thành, vì nóng lòng thanh toán địch cho xong trước tối. Thiếu uý Thuận Văn Chàng đã mở sẵn chốt lựu đạn, định nhào tới phóng vào giao thông hào của địch, để dọn đường cho binh sĩ chiếm vào bờ làng.  Nhưng!!! Than ôi! Chàng chưa kịp tung quả lựu đạn, thì bị một viên CKC bắn trúng đầu, khiến anh chết mà tay còn nắm chặc quả lựu đạn đã tháo chốt an toàn. Cả thân hình anh đè lên trái lựu đạn vẫn còn chưa nổ!
                                Buồn ơi là buồn! Hai đứa bạn đồng khóa của tôi đã cùng hy sinh trong một một buổi chiều ảm đạm!!! Chàng và Thành là hai đứa hiền lành nhất trong 16 thiếu úy cùng khóa 20 ở Tiểu Đoàn 9 Dù nầy. Có lần Thành dẫn tôi lại nhà ba má nó, ở cư xá nằm trong khuôn viên dinh Độc Lập (có lẽ ba của Thành làm nhân viên hoặc quân nhân gác Phủ Tổng Thống). Ba má Thành là người Bắc di cư và rất hiền từ, ông bà rất sốt sắng, đối xử với bạn của con mình thật tử tế và cởi mở.
                                Còn Thuận Văn Chàng, như đã nói, là một người rất thông minh, hiền lành, ăn nói nhẹ nhàng giống ca sĩ Chế Linh vậy, chúng tôi ai cũng mến anh vì đức tính hết sức hòa nhã đó. Nhưng không ngờ khi ra trận mạc, anh thật là dũng mãnh, lúc nào cũng tiến lên như để che chở cho thuộc cấp, sợ họ xung phong trước sẽ gặp nguy hiểm.
                                  Chàng có một hoài bảo rất lớn, theo lời người yêu duy nhất của anh, nử sĩ Trần Thị Bông Giấy kể (trong quyển Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau II) qua chuyện đối thoại giữa người anh cả và Thuận Văn Chàng như sau:
                                 - Tại sao mầy bỏ học đi lính?
                                 - Thứ nhất, nhà tao nghèo quá. Thứ hai, có một lẽ quan trọng như một mối tâm huyết từ bé tao đã cưu mang: “Khôi phục lại đất Chàm”.
                                - Mầy có nghĩ đó là một điều khó thực hiện?
                                Chàng suy nghĩ một lúc, rồi nói:
                                - Tao biết! Nhưng tao quyết không thay đổi. Giờ đây, chỉ gia nhập binh chủng Nhảy Dù mới mong lên Tướng. Nếu không có quân trong tay, làm sao thi hành được ước vọng riêng ?
                                 Tiếng đàn guitare lại vang lên một đoạn nhạc buồn, Chàng ngưng tay đàn nói giọng trầm trầm:
                                - Đúng! Tao vẫn biết khôi phục đất Chàm không phải là điều dễ dàng thực hiện. Nhưng, từ hàng trăm năm qua, dân tộc tao chìm đắm quá sâu trong khốn khổ. Người dân xứ tao phải chịu sống kiếp tha hương ngay chính cái nơi đã chôn nhau cắt rốn. Tao may mắn được ăn học đàng hoàng, kiếm ra đồng tiền bằng sự hiểu biết của mình. Nhưng còn vô số những người mù chữ, bao người lớn, con nít hằng ngày không biết lấy gì mà ăn, hằng đêm không đủ tấm chăng đấp cho ấ bụng?
                                Qua giọng nói anh, nghe ra một nỗi u trầm đặc biệt, cát u trầm trong các điệu nhạc người Hời, mà trong tiếng hát lúc nào cũng pha niềm thống hận hoài cố hương của dân tộc Chàm.
                                Anh tiếp:
                                - Mầy là bạn chí cốt của tao, hẳn cũng hiểu sở dĩ tao đạt được thành quả dẫn đầu trong suốt nhiều năm còn đi học là bởi tao có con đường riêng, không dám chút nào xao lãng. Bây giờ việc lao vào Nhảy Dù cũng không ra ngoài cái chí ấy. Nay chí chưa tròn, công danh chưa đạt, Thuận Văn Chàng (đọc trại như Chàm chăng?) đã chôn vùi hoài bảo lớn lao của mình tại đây!!! 
                                 Trên đường rút quân về, lòng tôi buồn rười rượi, miệng cứ lẩm bẩm ca khẻ bài hát buồn :
                                 “ Một ngày, ngày đã qua! Ôi một ngày, ngày chóng qua!”
                                 “ Một chiều,.... một ngày ..... không còn nữa, đã trôi qua 
                                    ...... không còn gì!”
                                 “ Ôi chinh chiến .... đã mang đi .... bạn bè!!!”
                                 “ Ngựa hồng đã mỏi gót, chết trên đồi quê hương!!”
                                Bạn bè trong thời buổi chinh chiến là chuyện bạn bè sát cánh bên nhau, sớm còn chiều mất! Sắt đá cũng đổ lệ! Núi rừng cũng để tang! Mười sáu thiếu úy khóa 20 Đà Lạt về TĐ9ND tính từ ngày ra trường đến Tết Mậu Thân thì đúng 2 năm 2 tháng, mà hy sinh hết 6 bạn (Phương, Thành, Lộc, Đại, Chàng, và Hổ)!!!
                                Trận Lam Sơn 60 nầy thật là thảm thiết nhất trong các trận mà tôi đã tham dự từ ngày trình diện bổ sung cho tiểu đoàn. Mặc dù đơn vị tịch thu hằng trăm súng và được tặng thưởng rất nhiều huy chương và cấp bậc, nhưng phải trả một giá rất đắt: có tới 4 sĩ quan và một số binh sĩ hy sinh!!! Cuộc hành trình của Tiểu đoàn 9 Dù kỳ nầy, chưa đầy hai tháng mà đã tham gia tới hai trận đánh lớn và tổn thất quá nhiều sĩ quan. Trong đó có cố Trung tá Lê Văn Huệ, vị tiểu đoàn trưởng khả kính, hai người bạn đồng khoá thân thương của tôi!  Mới một năm rưởi mà đã xảy ra rất nhiều chuyện buồn thảm.
                                Tôi ra trường vào thời kỳ cuộc chiến bắt đầu sôi động, mỗi ngày mỗi thêm ác liệt. Vì vậy những trận chiến sau mà tôi sắp kể sẽ còn hung hiểm và gay go hơn nhiều!
                             
                            7. Trở Lại Vùng Phi Quân Sự (1967)

                               Khi về Sài gòn thì Tiểu đoàn xả trại 1 tuần lễ, riêng các sĩ quan trong đó có Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Đại úy Mễ,...(vừa được thăng cấp đặc cách mặt trận trong cuộc hành quân Lam Sơn 60 vừa rồi) được Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mời đi ăn tiệc ở nhà hàng Bồng Lai nằm trên đường Lê Lợi, gần chợ Bến Thành. Tại đây có ban tam ca Sao Băng, và ai nấy đều thích thú khi nghe giọng trầm ấm trong các bài hát về lính của ca sĩ Thanh Phong .
                                Sau khi hết phép, các đại đội lo báo cáo phúc trình tổn thất và được bổ sung kịp thời, để chuẩn bị cho cuộc hành quân tới.  Lúc nầy tôi được chuyển qua làm trung đội trưởng ở Đại đội 92, dưới quyền của Trung uý Nguyễn Văn Thành.
                                Lợi dụng mấy ngày rảnh rỗi, tôi tập họp binh sĩ để huấn luyện bổ túc về cá nhân chiến đấu, và phản ứng cấp thời khi bị địch tấn công hay phục kích bất ngờ. Tôi cũng đem những lý thuyết học tại quân trường và kinh nghiệm đã học hỏi hơn một năm rưởi ở tiểu đoàn, chỉ cho các hạ sĩ quan và khinh binh thêm về bản đồ, kỷ thuật hành quân cấp tiểu đội, trung đội. Một tháng trôi qua thật nhanh, chúng tôi lại được bốc ra Huế và đóng quân tạm tại làng An Hoà để chờ nhận tiếp tế lương thực. Sau đó tiểu đoàn được đưa vào khu vực hành quân tại quận Quảng Điền, còn được gọi là Sịa (nhứt Huế nhì Sịa). Quận nầy ở gần biển và rất trù phú, nhưng du kích địa phương ưa gài mìn ở dưới ruộng nước, nếu không may đạp nhầm thì nhẹ nhất cũng bị cưa chân.
                                Mục đích của cuộc hành quân là làm chỗ an toàn cho bãi nhảy dù dã chiến. Vì mỗi năm ai cũng phải nhảy dù bồi dưỡng đủ 4 “Sô” mới được tiếp tục ăn lương không vụ (tương đương tiền bay của phi công bên không quân). Vì đa số ai cũng bận đi hành quân triền miên, nên sư đoàn chở dù ra để giúp cho những người còn thiếu Saut được nhảy dù bổ túc từ trên phi cơ trực thăng, vì bãi nhảy hơi chật hẹp. 
                                Khoảng hai tuần sau, xe GMC chở tiểu đoàn đến Đông Hà, một quận nằm phía Nam Gio Linh, ở gần cực Bắc tỉnh Quảng Trị, để chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn cấp chiến đoàn, vào vùng Phi Quân Sự một lần nữa!
                                Chúng tôi vừa tới chỗ đóng quân vào lúc trời mờ tối, thì được địch pháo hỏa tiễn 122 ly chào đón. Có lẽ bọn nằm vùng thấy chuyển quân rầm rộ quá, nên gọi pháo kích cảnh cáo. Vì ở đây cũng gần sông Bến Hải, có thể trong tầm của loại pháo binh nòng dài. Mặc dù trời đã tối, chưa kịp tắm rửa, nấu nướng, ai cũng lo ưu tiên đào hố chiến đấu, để có nơi trú ẩn vì địch thường pháo khuấy rối để mọi người bị mất ngủ.
                                Cuộc hành quân kỳ nầy cũng nhằm yểm trợ cho việc thiết lập hàng rào Mac Namara về phía Đông của Quốc Lộ 1. Đây là vùng trống trải, toàn động cát và đám rừng thông già trồng dọc theo bờ biển, do đó địch ở bên kia bờ sông Bến Hải, có thể nhìn thấy cuộc tiến quân một cách dễ dàng.
                                Tiểu đoàn định lừa địch, bằng cách chọn điểm xuất phát từ chợ Đông Hà, thay vì đi bờ Bắc, chúng tôi đi dọc theo bờ Nam của sông Đông Hà, để vào căn cứ hải quân ở Cửa Việt.
                                 Đúng 1 giờ khuya (phải đi trong bóng đêm để tránh đài quan sát và pháo binh địch), chúng tôi được tàu lội nước của hải quân Mỹ (gọi là M. Track) đưa qua bờ Bắc của Cửa Việt.
                                Vậy mà cũng không dấu được hành tung, địch vẫn rải pháo đều đều, làm cuộc tiến quân thỉnh thoảng phải dừng lại, mỗi khi nghe tiếng pháo đề ba (départ) từ bên kia bờ Bắc.
                                Dù bị pháo liên tục vào đội hình, nhưng đơn vị vẫn cố gắng tiếp tục tiến tới bờ sông Bến Hải để yểm trợ cho nhân viên gài các dụng cụ khám phá địch bằng các cơ phận điện tử.
                                Tôi thấy các anh Phan Nhật Nam, Lê Văn Mễ, và đa số anh em binh sĩ, mỗi khi dừng quân 5, 10 phút là vội lấy nón sắt ra đào cát lên để ngồi trốn đạn pháo. Còn tôi thì nhờ đi theo hàng cây thông, nên khi nào nghe pháo thì nhảy vô gốc cây núp, nếu đạn pháo trúng ngọn cây sẽ nổ tung ra nhiều mảnh, tôi có nón sắt và áo giáp hy vọng sẽ bớt phần nào nguy hiểm! Thà đánh bằng đạn thẳng ít sợ hơn, chứ pháo rải rác kiểu nầy hoài thì khó mà tránh, đúng là trời bảo ai nấy dạ!
                               Khoảng 7 giờ sáng thì chúng tôi đã thấy bờ sông Bến Hải, nhìn về hướng Mục tiêu 4, là cái đồi cát cao nhất trong vùng (Căn cứ A1 sau nầy và còn có tên là Ocean view), tôi thấy các bóng đen của binh sĩ Tiểu Đoàn 6 Dù, mỗi lần bị pháo kích là họ vội nằm xuống; Rồi lo đào vội hố cá nhân. Cử động của họ hấp tấp vội vàng dưới làng mưa pháo của địch quân, họ lúc ấy thật tội nghiệp, như những con thú bị săn đuổi!
                                Sau khi dứt tiếng pháo họ lại đứng lên và tiếp tục tiến về hướng sông Bến Hải. Hình bóng họ hiện rõ trên đồi cát, di động giống như xem cinéma sống thực vậy!
                                Nghe giọng nói của Trung úy Tèo trong máy:
                                __ Bây giờ nó đã vượt lằn ranh khu phi quân sự, trình Sơn Thủy tôi bị ...(Xếp bấm chặt combiné im lặng)..Tèo hiểu ý nói tiếp :
                                __ Trình đích thân, nó ném đá trước mặt tôi 3 thước .
                                Có lẽ Việt Cộng đang theo dõi máy nên tưởng là trúng đích; và từ đó trở đi đạn đại bác từ bờ Bắc cứ nả đều trước mặt đoàn quân khoảng 3 cây số (mà Tèo đã ngụy tạo là 3 thước).
                                Vì tiểu đoàn đi sát bờ biển, nên tôi thấy có một chiếc phản lực quây lảo đảo như bị trúng đạn phòng không, nó từ miền Bắc bay trở về và rớt đâm đầu xuống biển. Cuộc hành quân nầy nhờ hải pháo từ các tuần dương hạm yểm trợ mạnh mẽ vào các ổ pháo địch; nếu không, có thể chúng tôi phải bị tổn thất rất nhiều. Sau khi xong nhiệm vụ, mọi đơn vị vội vã rút nhanh về hướng Nam, càng xa càng đỡ thiệt hại!
                                Khi về tới Đông Hà, tiểu đoàn được xe chở tới đóng quân tại bờ sông Thạch Hản, gần thị xã Quảng Trị. Trong mấy ngày nghỉ quân chờ bổ sung và tiếp tế lương thực, tôi đi thăm phố và cổ thành Đinh Công Tráng, ở ngay cạnh chợ. Cổ thành nầy rất kiên cố, xung quanh có hào sâu bao bọc, các bờ thành cao chừng 5 thước, dầy 5 thước, được xây bằng gạch rất kiên cố. Diện tích của thành nầy thì nhỏ bằng Hoàng cung Đại Nội ở Huế (hình vuông mỗi cạnh khoảng 500 thước).
                                Mấy ngày sau, tiểu đoàn được lệnh đi lục soát tìm và tiêu diệt địch (nếu có), ở dọc theo bờ biển phía Đông của thành phố. Sau 4 ngày lại được nghỉ quân 3 hôm, rồi tiếp tục cuộc hành quân kế tiếp, vào khu rừng núi, nằm phía Tây của thị trấn Quảng Trị. Khi đã càn quét xong 4 hướng trong đó có các quận Triều Phong, Hải Lăng của tỉnh lỵ Quảng Trị, đơn vị lại được điều động đi xuống phía Nam, ranh giới giữa 2 thành phố Huế và Quảng Trị.    
                               Chúng tôi cứ đi dọc theo sông Mỹ Chánh về hướng Tây, vào sâu trong dãy Trường sơn, trèo đèo vượt suối, đủ 4 ngày ra lãnh lương thực, rồi trực thăng vận trở vô và tiếp tục leo những ngọn núi khác để tìm và diệt địch.
                               Sau đó tiểu đoàn trở về An Lỗ chờ tiếp tế và coi như được nghỉ dưỡng quân 4 ngày. Tại đây đại uý Mễ đã gọi các sĩ quan cấp đại đội trưởng và trung đội trưởng tới nhậu lai rai, rồi nghe anh ngâm bài thơ ruột tựa đề là Mòn Mỏi, như tôi đã kể ở phần trước.
                                Hôm sau trung đội tôi được chỉ định mở cuộc đột kích đêm, tại một làng xôi đậu, nằm trong khu vực xa xôi, ngoài tầm kiểm soát của địa phương quân. Ngôi làng ở về hướng Đông Bắc, cách chỗ tiểu đoàn đóng quân khoảng 5 cây số.
                                Chiều hôm đó tôi chỉ rõ cho binh sỉ trung đội về các chi tiết của cuộc hành quân đột kích đêm, và phân phối nhiệm vụ cho từng tổ một. Đúng 4 giờ khuya, trung đội bắt đầu xuất phát.  Chúng tôi lặng lẽ và thận trọng đi xuyên qua đồng ruộng trống trải, dưới ánh trăng mờ ảo. Dạ hành mãi tới gần 5 giờ mới thấy ngôi làng hiện ra phía trước (tôi chọn giờ nầy vì đó là lúc gần hết phiên gác của địch, nếu có, và lúc ai cũng đang say sưa chập chờn trong giấc ngủ).
                                Đến cách bờ làng chừng 100 thước, trung đội dàn ngang theo bờ ruộng để yểm trợ cho 3 khinh binh, chạy zít zắt theo đội hình chân vạc, tiến vào bờ làng làm đầu cầu. Khi thấy các khinh binh vô được bờ làng, cả trung đội cùng tiến vào một cách lặng lẽ. Mọi người nhẹ nhàng đi qua từng căn nhà, xem có động tịnh gì không? Rồi trung đội tiếp tục lần lượt lục soát hết ngôi làng. Nhưng chúng tôi không thấy dấu vết gì về địch, nên lặng lẽ rút lui, trả lại sự yên tỉnh cho thôn xóm. Họ vẫn tiếp tục say sưa trong giấc điệp, để rồi sáng ra, không ngờ trong đêm có một đoàn quân Dù đã từng rình mò từng căn nhà của họ. Sau vụ đột kích đêm, Tiểu đoàn trưởng thưởng cho chai rượu Black & White, tôi tập họp trung đội và chia cho mỗi người uống một nắp, để thưởng công vất vả, và để họ được nếm mùi rượu ngoại quốc tuy thơm ngon, nhưng không đậm đà bằng rượu đế mà họ quen dùng. Riêng các khinh binh thì được uống gấp đôi, vì họ vừa cực khổ vừa lãnh phần nguy hiểm hơn đồng đội.
                                Có lần trung đội được lệnh đi đầu mở đường cho đoàn quân hơn 500 người, trong dãy Trường sơn, đầy những cây rừng rậm rạp cản đường tiến quân. Lúc đó tôi phải đích thân lên đi đầu để vừa đôn đốc các khinh binh Quảng, Cứ,.. phá đường vượt rừng băng suối, vừa để định đúng hướng mục tiêu bằng bản đồ và địa bàn. Đây là một trách nhiệm nặng nề, vì nếu tính sai tọa độ, pháo binh có thể bắn lầm lên đầu quân bạn. Tôi thấy các khinh binh người nào cũng mồ hôi chảy ướt đẫm cả áo, tay chân và cổ họ bị những gai và lá sậy sắc bén khứa đứt nhiều lằng rướm máu, nhìn họ mà tôi ứa nước mắt. 
                                Khinh binh Cứ ngồi bẹp xuống và nói:
                                - Mệt quá Thiếu uý ơi, cho em nghỉ một chút đi!
                                Tôi quay ra sau quẹt vội nước mắt, sợ họ thấy rồi làm nư, sẽ làm chậm bước tiến của  đoàn quân:
                               - Ráng chút nữa đi, tiểu đoàn đang trông cậy vào chúng ta đó.
                                Cứ và các khinh binh cũng ý thức trách nhiệm nặng nề, nên đứng lên tiếp tục dùng dao đi rừng dẹp các chướng ngại vật. Tôi rất thương mến họ, nên thường dành mọi ưu tiên về thăng cấp, huy chương, và đi phép thăm nhà cho họ (các khinh binh: Cứ, Quảng, Võ, Học,... quí mến của tôi)
                                 Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (các Tiểu đoàn Dù khi tăng phái thường được đặt dưới quyền điều động của vị Tư lênh Sư đoàn địa phương) thấy chúng tôi leo núi đã chán, lại điều động tiểu đoàn xuống hành quân tìm địch trong vùng bờ biển nổi tiếng nhiều du kích, thuộc huyện Phú Thứ, nằm ở phía Nam thành phố Huế. Tại đây tiểu đoàn chạm địch nhiều phen và bắt được một số du kích.
                                Xong miệt đồng bằng lại đổi qua vùng đồi hoa sim Nam Hoà, nơi đây tiểu đoàn lần đầu tiên tổ chức hành quân đột kích đêm với sự tham chiến của toàn đơn vị. Lúc ấy là đêm trăng rằm, toàn bộ tiểu đoàn chia quân làm hai cánh. Thiếu tá Bảo chỉ huy 2 đại đội đi theo đường đất đỏ tiến sâu vào hướng Tây chừng 3 cây số, rồi rải hàng ngang, bọc về hướng Nam chừng 1 cây số, làm tuyến án ngữ trong một làng thuộc quận Nam Hoà.
                                Tiểu đoàn trừ do Thiếu tá Nhã chỉ huy, cho hai đại đội dàn quân xuất phát từ chân núi Ngự Bình, tiến dọc về hướng Tây, thẳng vào các ngọn đồi trọc, nơi có tin tức tình báo là địch sẽ về đây tiếp thu lúa ruộng do các du kích địa phương từ các thôn xóm đưa ra. Khoảng một giờ khuya, các du kích địch như những con chuột, bắt đầu ló mặt ra, chúng không ngờ, toán quân Dù đã phục sẵn, cứ nghênh ngang đi giữa đường nên bị bắt gọn. Một số chạy ra hướng khu đồi trọc, định báo động cho toán bên ngoài. Nhưng ở đây chúng bị cùng chung số phận, vì đại đội của trung uý Tèo đã tóm sạch hết. Giữa đêm khuya tiếng nói của Tèo vang rền trong quảng không vô tận:
                                - Trình Sơn Thủy (mật hiệu truyền tin của tiểu đoàn trưởng), tôi tóm được khá nhiều chuột.
                                Thiếu tá Nhã nói giọng hớn hỡ:   
                                - Anh giỏi lắm, bên Bắc Bình (Thiếu tá Bảo) cũng thu hoạch khá lắm.
                                - Tư Tưởng đây Thành Thái(Thành, Đại đội trưởng ĐĐ92).
                                - Tư Tưởng (Tèo, đại đội trưởng Đại Đội 93) tôi nghe!
                                - Có vài con chạy về hướng của bạn đó, trả lời.
                                - Tôi sẽ ân cần tiếp đón chúng nó, trả lời.
                                (ước hiệu truyền tin của Tướng Đống là Bạch Long, Trưởng Phòng Ba là Hắc Long, Đại tá Nguyễn Khoa Nam là 601,...)
                                Sáng hôm sau, chúng tôi vào nghỉ quân tại các xóm gần dốc Nam Giao, cạnh chùa Từ Đàm, để chuẩn bị đợi máy bay đưa về Sàigòn. Chuyến ra Vùng I kỳ nầy thiệt là vô cùng cực khổ!  Vì mọi người đã đi gần hết các nơi rừng núi đồng lầy: từ miền giới tuyến ở khu Phi Quân Sự, tới các khu vực xung quanh hai thị xã Quảng Trị và Huế.
                               Thấm thoát đã hơn 3 tháng rồi, mà vẫn chưa được gặp mặt vợ con. Do đó ai cũng mong ngày về Sàigòn, mọi người đều chuẩn bị mua sắm quà xứ Huế cho thân nhân. Tôi có mua mấy nón lá bài thơ, mè xửng, và kẹo gương để đem về Vĩnh Bình cho Nhi và bà con hai họ. Khi ra phi trường Phú Bài, có binh sĩ vì mua quà nhiều quá, nên đập bỏ hết các nồi niêu, son chảo để có chỗ chứa trong ba lô. Họ mừng quá vì sắp gặp được thân nhân, cần phải đem quà về thật nhiều cho vợ con, để bù đắp lại chuyến hành quân kỳ nầy quá lâu.
                                Mỗi lần đi xa về, tôi thường hát khẻ bên tai cho Nhi nghe bài “Sau Ngày Hành Quân” như để vuốt ve an ủi và như để xin lỗi vì bắt nàng phải đợi chờ quá lâu:
                                *  Sau ngày hành quân, anh về mang theo chiến thắng....
                                *  Súng còn đeo vai, đã viết thư cho người yêu!
                                *... Hay thôi anh đền em,..đền em anh dũng bội tinh, hay
                                    anh đền em, bằng chữ yêu....... Mình....
                                Chiếc C-130 (loại bán phản lực, chở trên 100 người) bay được gần nửa giờ, thì đáp xuống phi trường, đa số binh sĩ đều tưởng đã tới SàiGòn nên hớn hở chờ cửa hậu mở để nhanh chân đi ra, tôi đang thắc mắc tại sao kỳ nầy bay mau quá vậy?
                                Nhưng khi ra khỏi máy bay thì ai cũng bật ngửa! Vì đây không phải là Thủ đô yêu dấu, mà là phi trường Phượng Hoàng ở Tân Cảnh, thuộc quận Dakto, tỉnh Kontum. Nhìn xung quanh toàn núi cao bao bọc.
                                Thì ra Tổng Tham Mưu vừa nhận được công điện khẩn của Quân Khu II, báo cáo Sư đoàn Chính qui (Công trường 320 ?) địch vừa xuất hiện đêm qua trong vùng núi Ngọc Long (Ngok Wan hay đỉnh cao nhứt vùng 1416) và dự định tấn công vào Dakto, Tân Cảnh, và tỉnh lỵ Kontum. Trong khi chờ đợi các Tiểu đoàn Dù ra nghênh chiến, chúng tôi được lệnh đáp xuống đây để kịp thời ngăn chặn ý đồ xâm lược của địch.
                                Đêm đó cả tiểu đoàn tạm trú quân trên đồi cao trong phi trường Tân Cảnh. Thấy các quân nhân tức giận vì bị lừa dối, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng bảo Đại uý Mễ tập hợp binh sĩ giải thích và nói rõ là chỉ hành quân 1 tuần rồi sẽ về Sàigòn.
                                Sáng hôm sau, tiểu đoàn xuất phát từ quận Dakto, chia quân làm hai cánh, tiến vào lục soát các đỉnh núi cao. Đây là khu rừng rậm, đầy muỗi và đỉa vắt cựa quậy giống như đỉa trâu, trông thật là kinh khiếp! Tôi vừa làm rớt địa bàn và lượm lên thì thấy mấy con vắt ngọ ngoậy đeo dính trên địa bàn, làm sợ hết hồn!
                                Tôi vội lấy lọ thuốc muỗi ra, thoa khắp tay chân và đầu cổ. Vì chỗ nào có da thịt, vắt sẽ bám vào để hút máu! Ở nơi rừng thiên nước độc nầy chẳng những có nhiều muỗi, vắt, mà còn lạnh kinh khủng, lạnh nhất là trên đỉnh núi Ngọc Long, cao 1416 thước. Đêm đó mọi người phải đốt lửa ở dưới hố cá nhân để sưởi, mà cũng không thể chợp mắt được, vì trên đỉnh cao thấu mây xanh nầy có nhiều sương mù lạnh lẽo bao phủ!
                                Chúng tôi đi vòng vòng tìm địch trong các khu rừng rậm, núi non trùng điệp được 1 tuần thì rút về Tân Cảnh, đợi sáng mai phi cơ đưa các tiểu đoàn khác ra thay thế.
                                Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, anh Nhật, anh Phan Nhật Nam, Nguyễn Đức Tâm, Đỗ Ngọc Nuôi, Nguyễn Tống Hiến và tôi cùng rủ nhau đi xin tiền ông quận trưởng Dakto để mua rượu nhậu. Lúc đó tình hình tuy hơi căng thẳng, nhưng địch chắc chưa chuẩn bị đầy đủ, nên không động tĩnh gì.
                                Anh Tâm làm tài xế lái xe Jeep, các người còn lại thì súng AR-15 lên đạn cầm tay sẵn sàng tư thế chiến đấu. Tâm nhấn hết ga, khoảng 20 phút thì đến quận đường. Chúng tôi vào gặp vị Quận trưởng khoá đàn anh (khoá 10 ĐL), và ca bài “Con cá sống nhờ nước”. Anh Quận trưởng thấy mấy thằng đàn em nầy quá gan lỳ, dám xách xe chạy cà rỡn trên đoạn đường đầy nguy hiểm, chỉ vì ham vui. Anh vội móc túi đưa 10 ngàn và hối chúng tôi ra về sớm, kẻo trời tối, địch phát giác rồi phục binh chận đường, thì thập phần nguy hiểm.
                                Có tiền rồi, mọi người hớn hở chạy một mạch từ Dakto về tới Tân Cảnh, nhìn lại đồng hồ thì đã quá 7 giờ rưởi tối. Tất cả vội tìm một quán bar, rồi gọi rượu thịt ra nhậu tới hết tiền thì trời cũng đã khuya. Tôi và mọi người ra về, nhưng chỉ có Nhật vì đã nhậu quá say nên muốn ở lại lê la “Làm thơ con cóc”. Sáng hôm sau trong khi ai nấy đều chuẩn bị ra phi trường thì Nhật mới lót tót leo dốc về, thấy anh thở hổn hển, mặt mày xanh lét vì “Trèo đèo leo dốc”, Tâm và Mễ ôm bụng cười lăn lóc!
                                Trước khi lên phi cơ, Thiếu tá Nhã tổ chức lễ gắn cấp bậc Trung úy đặc cách cho Nuôi, Hiến, Miên,....và tôi ngay tại phi đạo. Chiếc C-130 chở tôi vừa cất cánh, thì địch bắt đầu khai chiến, chúng pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly (để chào mừng mấy Trung úy vừa tân thăng chăng?) vào phi trường, khiến một số binh sĩ, chưa lên kịp máy bay, bị trúng mảnh đạn rocket. Thiếu tá Nhã cũng bị một mảnh xuyên qua gan, phải giải phẫu cấp tốc mới bảo tồn được sinh mạng, lúc đó Thiếu tá Phạm Hy Mai về tạm thay thế. Mấy ngày sau cả chiến đoàn Dù đều đụng trận ác liệt tại đỉnh 1416 (có bài ca nói về trận nổi tiếng nầy), hai bên đều tổn thất rất nhiều!
                                Về tới Sàigòn, sau khi dự tiệc ở nhà hàng Bồng Lai xong, tôi vội cấp tốc ra bến xe đò Miền Tây, mua vé về Vĩnh Bình thăm vợ con, vì kỳ nầy đi quá lâu nên tôi sốt ruột, nóng lòng ước chi mình có cánh, để bay mau về gặp Nhi. Ở Vĩnh Bình 4 ngày, tôi đi thăm mấy thằng bạn học cũ. Chiến tổ chức tiệc mời tôi, Lộc, Chánh, và Hiền tới nhậu vui vẻ. Anh em lâu ngày gặp nhau nên uống thật nhiều vì “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu”, uống rượu với những thằng bạn tốt nầy thì:
                                                     Đồ ăn ngon
                                                     Người ngồi ăn ngon
                                                     Chỗ ngồi ăn ngon             
                                                     .....................Ngon!
                                                                   (Tản Đà)
                                Sau khi Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân 1 tháng, chúng tôi lại chuẩn bị khăn gói lên 5 chiếc C-130 ra Huế, để bảo vệ cho đồng bào ăn tết Mậu Thân. Lúc đó tôi được thăng cấp Trung uý đặc cách mặt trận, nhân dịp lễ Quốc Khánh 1 tháng 11 năm 1967. Và vẫn là Trung đội Trưởng Trung đội 1, Đại đội 92, của Trung uý Đại đội trưởng Nguyễn Văn Thành (Khoá19).
                             
                            8. Trận Tết Mậu Thân Tại Vùng I Năm 1968
                             
                            A). Mặt trận tại Quảng Trị.

                             
                                Sau nhiều ngày Đơn vị hành quân tìm và tiêu diệt địch dọc theo dãy Trường Sơn, phía Bắc sông Thạch Hãn, từ Đông Hà đến Đèo Ba Dốc thuộc tỉnh Quảng Trị, rồi vào Huế ở Nam Hoà, Phú Thứ, La Vân, Đồng Xuyên Mỹ Xá.
                                Chiến Đoàn Nhảy Dù được ngừng hành quân nghỉ ngơi ăn Tết tại những điểm quan yếu trong các Thị trấn. Tiểu Đoàn 2 và TĐ7ND đóng ở An Lỗ và Quảng Điền; Tiểu Đoàn 5 ND được điều động về Đà Nẳng. Tiểu đoàn 9 chúng tôi bố trí quân chung quanh thị trấn bảo vệ thành phố Quảng Trị.
                                Đại đội 92 ở phía Đông Nam, Đại đội 94 bảo vệ làng Tri Bưu. Dọc bờ sông Thạch Hãn, phía Tây thành phố là Đại đội 93. Riêng Đại đội 91 của Đại uý Mễ, đóng chung với Đại đội Chỉ Huy Tiểu đoàn, làm thành phần trừ bị.
                                Ngay ngày 30 Tết, Tiểu đoàn được “Mật lệnh” của Chiến đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng, nghi ngờ rằng địch sẽ tấn công.  Nên mặc dù hưu chiến, các đại đội cũng bung ra tuần tiểu, lục soát. Ban đêm lo đặt mìn định hướng Claymore, mìn chiếu sáng, và đào hầm hố chiến đấu phòng thủ cẩn thận. Trong khi Địa Phương quân, Nghĩa quân, Sư Đoàn 1 Bộ binh, hầu như xả trại (hoặc trốn trại) về nhà ăn Tết, chúng tôi được lệnh cấm trại chặc chẻ, đề phòng địch tấn công bất ngờ vào thị xã.
                                Mồng Một Tết, khoảng 3 giờ khuya, nhằm lúc mọi người đang ngon giấc vì mệt mỏi bởi đêm qua say sưa chè chén trong các buổi tiệc dã chiến, đón Giao Thừa truyền thống đầu năm. Bỗng nhiên mọi người đều tỉnh giấc, vì súng địch đồng loạt khai hỏa khắp mọi nơi.
                                Chúng tôi vội nhào ra hố chiến đấu và bắn trả mãnh liệt. Đại đội 92 phòng thủ dọc theo bờ làng, lúc đó sương mù dầy đặc, binh sĩ cứ bắn bừa ra ngoài đồng ruộng phía trước mặt.
                                Qua máy truyền tin, tôi vô cùng sững sờ xúc động: Đại đội 94 đang bị địch tràn ngập. Ban Chỉ Huy Đại đội, trong khuôn viên nhà thờ Tri Bưu, bị tấn chiếm. Đại uý Thừa, Đại đội trưởng, viên Cố vấn Mỹ, Trung uý Lê Phát Lộc, và Nguyễn Văn Hổ, bạn đồng khoá 20 ĐL của tôi, đều bị hy sinh ngay từ đợt tấn công tràn ngập nầy! Chuẩn úy Trần Ngọc Chỉ thấy địch quân quá đông, nên vừa chống trả vừa tìm cách hướng dẫn binh sĩ còn lại rút lui, tránh sự truy kích của địch quân.
                                Đại uý Thừa, tốt nghiệp khoá 9 Võ Khoa Thủ Đức, là một sĩ quan trẻ tuổi dũng cảm của sư đoàn Dù, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách. Đặc biệt trong trận Đại Bàng 800 ở Vùng II Chiến Thuật, anh đã chỉ huy đại đội tấn công và truy sát địch, tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, vì thế Tướng tư lệnh Vùng đáp trực thăng tới gắn cấp bậc Đại úy đặc cách cho anh ngay tại chiến trường. Nguyễn văn Hổ rất tốt với bạn bè, chính anh lúc ở quân trường đã dạy tôi đờn vọng cổ bằng Tây Ban Cầm. Còn bạn Lê Phát Lộc thì rất hiền lành, tướng phúc hậu, hai trái tai dài thòng xuống như lỗ tai Phật, bạn bè ai cũng nghĩ anh có phúc tướng, sẽ sống rất thọ, không ngờ chiến tranh thật tàn nhẫn, nó không nể vì một ai!
                                Thấy Đại đội 94 như vậy, chúng tôi hết sức cẩn trọng, dùng hỏa lực cá nhân và chỉ được yểm trợ bằng súng cối 60 ly cơ hữu. Không có pháo binh, hải pháo, hoặc không trợ hùng hậu, mà bất cứ cuộc hành quân thường lệ của các đơn vị nhảy dù nào cũng phải có.
                                Sau nầy tôi mới biết, lúc đó anh Đồng Minh Mỹ định giả vờ làm ngơ, để xem tài hai con gà chọi nhau. Thử coi Miền Nam có đủ sức tự lực tự cường, cho đàn anh dễ bề rút tay ra khỏi cuộc chiến đầy tốn kém. Tiện thể vồ anh Việt Cộng một vố lớn, chẳng biết mấy anh Bộ Chính Trị ngoài Bắc và Cục R trong Nam có biết không?
                                Hừng Đông vừa ló dạng, các trung đội tung ra lục soát và bắt sống hơn 10 tù binh. Chúng toàn trẻ măng, khoảng 16, 17 tuổi; nói giọng Quảng Bình, mặt mày đỏ ngây, ngơ ngơ ngác ngác, thì ra họ đã dùng thuốc “Hùng Binh” của Trung Cộng chế. Thuốc nầy là loại kích thích; khi uống vào thì hăng máu và không hề sợ chết.
                                Đến 8 giờ sáng, tại Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đang bị địch đe dọa tấn công, tôi nghe tiếng the thé của Đại úy Đỉnh, sĩ quan ban 3, gọi Thành “Râu” kéo binh về tiếp viện.
                                Thành Râu ra lệnh tôi dẫn nhanh trung đội, dọc theo Quốc Lộ I, từ Ngã Ba Long Hưng, hướng về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, gần cầu Thạch Hãn, tiếp theo là trung đội của Thiếu uý Minh, và Chuẩn uý Khải.
                                Chúng tôi đang đi trên Quốc lộ I, vừa tới ngã tư đường về nhà thờ La Vang, gần BCH Trung đoàn 1 BB, thì địch bắn hàng loạt đạn, từ xóm nhà bên trái, tôi vội hô to:
                               - Địch phục kích trái!
                                Cả trung đội liền la:
                               - “Xung phong”!
                                Và lập tức nhào về hướng phát ra tiếng súng. Chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả khu vực, hai trung đội của Khải và Minh cũng bị lôi cuốn và hành động theo. Binh sĩ chạy vượt qua chòm nhà, vừa xả đạn vừa hô xung phong liên hồi. Chúng tôi tiến mãi tới gò mả, giữa BCH Trung Đoàn 3 BB và bờ làng, thì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt!
                                Tôi và hạ sĩ Đình, mang máy truyền tin, vội nhào nhanh tới hố lõm để tránh đạn. Áo field jacket bị bắn rách tung toé, tôi hoảng hốt vì không biết mình có bị thương hay không? (theo kinh nghiệm: vì đạn vô ngọt xớt nên khi bị thương, không có đau liền). Sau khi lấy lại bình tỉnh, tôi bắn yểm trợ cho Đình nhảy tới sau phên vách đất, rồi Đình bắn yểm trợ lại cho tôi.
                                Quan sát lại thấy hơn mười binh sĩ bị hy sinh! Có anh vừa bò tới nắm chân tôi vừa nói: “Trung uý ơi em bị thương!”, miệng lẩm bẩm niệm kinh rồi từ từ lịm dần, khiến lòng tôi se thắt!!  Đáng thương nhất là hạ sĩ Lực, nhà ở làng Tri Bưu, mới cưới vợ ăn Tết hơn hai tuần lễ, và binh nhất Thương, hằng ngày giúp tôi nấu cơm nhà binh tuy đạm bạc nhưng đầy hương vị đậm đà!!!
                                Lúc đó từ trong máy truyền tin, tiếng Thành Râu rồi anh Đỉnh, gọi thúc hối tôi dẫn 3 trung đội về BCH Tiểu đoàn.  Nhìn lại xác anh em và súng chưa kịp lấy lại được, số thương binh nằm rải rác chung quanh. Hơn nữa danh dự binh chủng Nhảy Dù không thể nào để cho mất súng và mất xác; nhất là xác của các chiến hữu đã hằng ngày tíu tít quấn quít rất dễ thương. Họ đã nhiều phen cùng hoạn nạn, cùng sinh tử, nên tôi quyết định cãi lại quân lệnh.
                                Tôi nói trong máy với anh Thành Râu:
                               - Thà là ra toà án quân sự, tôi nhất định không rút, vì binh sĩ và xác chết còn kẹt ở đây.
                                Rồi bảo Đình phụ nạp đạn, tôi đứng nơi vách đất, vừa nhắm bắn vừa điều động cả 3 trung đội. Minh và Khải thấy tôi la hét “Xung phong” cũng phụ giúp điều động đốc thúc binh sĩ mình.  Dựa vào vách đất, tôi có thể quan sát rõ địch đang núp từng chòm mả một; hễ tên nào ló đầu lên thì tôi bắn ngay, khiến chúng hụp xuống. Nhờ vậy anh em ba trung đội cứ nhích lên dần.
                                Có thể nói đây là trận để đời của tôi, vì hầu như đánh xáp lá cà với lực lượng chính qui và đông đảo quân số của địch. Tôi vừa thúc hối ba trung đội, bằng cách bắn dọa trên đầu họ, vừa hô xung phong, mà mỗi lần chỉ lên được vài bước.
                                Tôi và Đình cách cây thượng liên của địch khoảng mười lăm thước (chỉ 15 thước nên thấy đầu nòng súng địch rõ mồn một), trong khi đó binh sĩ 3 trung đội dàn dài bên trái, phía sau tôi khoảng 10 thước.
                                Các binh sĩ đang còn e ngại hỏa lực địch, thì đột nhiên Binh nhứt Nguyễn văn Ba, y tá đại đội, bò sát lên trước và hạ được tên xạ thủ thượng liên. Ba dơ cao súng địch, khiến đồng đội phấn khởi, đứng lên vừa bắn vừa hô xung phong, đuổi địch ra khỏi nghĩa địa. Ba kể lại, khi xạ thủ thượng liên thấy anh chĩa súng bất ngờ, vội đưa hai tay lên, Ba vì súng bị kẹt đạn (lại là y tá nên hơi lạng quạng), anh lính quýnh không dám cho y đầu hàng, sợ hắn biết rồi bóp cò thượng liên, vì thế mới ném lựu đạn để tự vệ.
                                Binh sĩ đại đội lo thu lượm súng và xác của bạn cùng rất nhiều súng địch. Tám lọ, anh hề của đại đội, ôm một bó súng to, toàn AK-47 và B-40. Đột nhiên một tên bên kia đường tựa gò mả bắn qua, tôi nghe một tiếng “Rẹt”, đáy quần bị bắn rách, rờ thấy “Hắn” còn nguyên vẹn nên mừng hú vía. Đùi bị rướm máu, nhưng chỉ trầy da. Tôi vừa bắn trả cầm chân vừa ra lệnh rút về BCH Tiểu đoàn. Thật là hú hồn, giằng co suốt buổi, tôi đã đứng bắn hàng trăm viên đạn AR-15, áo quần rách tả tơi, mà chỉ bị thương rách một chút xíu ở vành tai trái và bắp đùi phải!
                                Lúc về BCH, gặp Thiếu tá Nhã, Tiểu đoàn trưởng, ông vẫn giữ vẻ mặt nghiêm, nhưng không trách phạt vi lệnh mà còn bảo anh lính phục vụ kiếm khúc bánh mì cho tôi lót bụng. Còn anh Thành và anh Đỉnh thì cười kín đáo, tỏ ý hân hoan khuyến khích. Nhưng cũng nhờ cú “Bốc đồng” này, nên sau khi về Sàigòn, mặc dù thương tích đầy mình (bị thêm lần nữa tại Hồ Tỉnh Tâm, trong thành nội Huế, vào mùng mười Tết). Nghe tiếng điện thoại của anh Bảo gọi :
                                - Tiểu đoàn định cho ông làm Đại đội trưởng Đại đội 91, thay thế thằng Mễ, vậy vô đây gấp để nhận bàn giao!
                                Tôi mừng rỡ trả lời :  - Tôi sẽ vô ngay, đích thân!     
                                Vì còn trẻ háo thắng, nên tôi rất vui mừng và chịu bỏ phép nghỉ bịnh, để nhận cái nhiệm vụ làm đại đội trưởng thực thụ của một binh chủng thiện chiến nầy.
                                Cũng nên nhắc lại một câu chuyện nhỏ về trường hợp đặc biệt của anh Nguyễn Văn Thiện, bác sĩ tiểu đoàn. Đêm ba mươi Tết, anh được mấy bác sĩ bạn, làm ở bệnh viện Tiểu khu, mời tới nhà, để đón giao thừa cho có không khí đầm ấm của gia đình.
                                Thấy anh nhậu đã say mèm, nên tài xế vội lấy xe Jeep cứu thương, chở về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.  Dọc đường có đầy địch nằm phục kích sẵn hai bên, nhưng rất may là lúc đó họ chưa có lệnh đồng loạt tổng công kích, nên chúng không dám khai hỏa, sợ hỏng kế hoạch chung. Thật là hú vía nếu anh ở trể chừng một tiếng đồng hồ, thì chắc lãnh đủ!!
                               Sáng Mùng 3 Tết, thị xã Quảng Trị tổ chức tuyên dương công trạng bảo vệ thành phố của Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, dân chúng đa số là người công giáo di cư năm 1954. Tinh thần chống Cộng rất cao, họ đem nhiều quà tặng cho chúng tôi, nào bánh chưng, bánh tét, dưa món,...còn có cả vòng hoa nữa. Nhưng quý giá nhất là ở tấm lòng chân thật và lời cám ơn giản dị : ... “Nhờ các ‘En’ mà thành phố Quảng Trị không bị chi cả”...Phải, chúng tôi chiến đấu chỉ vì thế thôi:
                                            “Sự Bình An của dân chún
                             
                            B). Mặt Trận Trong Thành Nội Huế.
                             
                                Sáng hôm sau tiểu đoàn được chở cấp tốc bằng trực thăng Chinook vào giải tỏa thành nội Huế. Để tránh phòng không địch, phi công chỉ bay là đà sát ngọn cây, vậy mà cũng có một số bị thương vì đạn AK từ dưới bắn lên!
                                Bãi đổ quân là một sân trống, trước bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trong đồn Mang Cá. Lúc nầy tình hình Huế vô cùng bi đát! Địch đã làm chủ hết các cổng thành và bờ cao kiên cố, chỉ còn lại một góc nhỏ là đồn Mang Cá.
                                Tại đây, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1, đang chỉ huy cố thủ bằng những “Lính kiểng” cơ hữu. Mặc dù hằng ngày chịu đựng nhiều loạt pháo, họ vẫn bảo vệ được đồn, trong đó chứa hàng ngàn thương binh.
                                Trước khi kể đến cuộc quần thảo của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù với sư đoàn chính qui của Việt Cộng trong Thành Nội, tôi muốn nói qua về Tướng Ngô Quang Trưởng, một vị tướng mà toàn quân hết sức khâm phục. Ngoài đức tính liêm khiết (nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng). Ông còn là người  đầy mưu lược, lễ độ, và vô cùng dũng cảm.
                                Trong trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972, ông đã dùng kế hoạch “Phong Lôi” rất tài tình. Do biết rõ địch đã gài nhiều nội tuyến trong các đơn vị, nhất là Bộ Binh và Địa Phương Quân. Ông lừa địch bằng cách phổ biến ngày N, sẽ cho quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến vượt sông Mỹ Chánh tái chiếm Quảng Trị. Đối phương được tin, vội dàn quân tăng cường dầy đặc, gồm bộ binh chủ lực, hỏa tiễn 122 ly, chiến xa T-54, phòng không 30 ly,...dọc theo bờ Bắc sông Mỹ Chánh, để chuẩn bị nghênh chiến.
                                Nhưng vào ngày N, Tướng Trưởng đã cho B-52 rải thảm suốt đêm, dọc theo tuyến án ngữ của địch. Ban ngày thì pháo binh, phản lực, và hải pháo luân phiên nã vào vị trí đối phương, khiến địch không có một phút nào yên ổn, để ngốc đầu trốn chạy. Thật đúng như là bị “Thiên lôi đánh”!
                                Chờ vài ngày sau, biết địch không còn dám dàn quân như thế nữa. Họ phòng thủ hời hợt, vì tưởng ta chỉ pháo dọa chứ không dám làm thiệt. Đúng lúc đó, Tướng Trưởng đích thân dùng trực thăng ban khẩu lệnh cho từng đơn vị trưởng. Các Chiến đoàn Dù lập tức vượt sông vào lúc 1 giờ khuya, bên phải Quốc lộ I có Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đồng loạt khởi binh!
                                Mới 8 giờ sáng đã nghe Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tịch thâu tới 11 khẩu phòng không 30 ly! Đây là chiến lợi phẩm lớn nhất từ trước tới giờ. Trong vòng một thời gian ngắn, Tiểu đoàn 11 Dù đã bắn cháy hơn mười chiến xa T-54, và Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm được cổ thành Quảng Trị.
                                Ngũ Giác Đài và các tướng lãnh Mỹ và Pháp hết sức ngạc nhiên. Trước đây họ chỉ đánh giá cao tướng VC Võ Nguyên Giáp ở trận Điện Biên Phủ, nhưng tướng Giáp đã dùng chiến thuật biển người, phải nướng hơn trăm ngàn bộ đội. Cộng Sản đã bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích theo chủ thuyết Duy Vật: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
                                 Tướng Giáp quả đúng là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tướng Trưởng trái lại, ông quý trọng và giữ gìn sinh mạng của từng người lính. Ông cũng khuyến khích, kiểm soát và chỉ dẫn cho từng sĩ quan, dù là sĩ quan cấp trung đội.
                                Tướng Trưởng còn là người biết trọng lễ nghĩa, khi nghe Tướng Đống ra Huế, ông đã đến phi trường sớm, và ra tận cầu thang máy bay tiếp đón người thầy cũ của mình. Mặc dù lúc đó hai người cùng cấp bậc, nhưng SĐND thì trực thuộc quyền chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tướng Đống cũng rất biết điều, mỗi lần họp hoặc nhận lịnh Quân Đoàn, ông thường cho Tư Lệnh Phó ra mặt. Riêng ông có mặt ở Huế để đốc thúc và trấn an các quân nhân trong SĐND (Vì các đơn vị trưởng rất nể trọng Tướng Tư Lệnh; có mặt ông, họ sẽ làm việc siêng năng hơn). 
                                Tướng Trưởng còn là người rất can đảm, mặc dù địch đã làm chủ hầu hết thành nội Huế, Đồn Mang Cá như chỉ mành treo chuông, nhưng ông vẫn cùng các lính kiểng ở lại cố thủ một diện tích nhỏ hẹp, ngày đêm chịu đựng mưa pháo, để bảo vệ an toàn cho hàng ngàn thương binh. Ông còn là người rất năng động nhiệt thành trong mọi công việc. Khi còn là Tiểu đoàn Trưởng TĐ5ND, lúc chạm địch, ông xung phong trước hàng quân. Ông đã chỉ huy linh động tài giỏi giành thế chủ động chiến trường, dù trong những tình thế khó khăn,...Trận Đỗ Xá ở Quảng Ngải năm 1965, trận Liên Kết năm 1966 đã đưa Tiểu đoàn nầy được hơn 6 lần tuyên dương trước quân đội và tiểu đoàn được đeo dây biểu chương màu Đỏ.
                                Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đơn vị xuất sắc đã cung hiến cho QLVNCH tám vị Tướng lãnh tài ba: Nguyễn Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Trương Quang Ân, Hồ Trung Hậu, Đỗ Kế Giai, Lê Quang Lưỡng, và hai vị tướng đã hiển danh “Vị quốc vong thân”: Tướng Phạm Văn Phú và Nguyễn Khoa Nam. 
                                Sư Đoàn 1 rồi Quân Đoàn I, dưới tay ông, đã làm khiếp vía địch quân ở vùng Hỏa Tuyến.
                                Bây giờ xin trở lại trận chiến Tết Mậu Thân tại thành nội Huế. Về tình hình địch, bộ đội Bắc Việt từ hướng Tây Bắc, vùng thung lũng A Shau, A Lưới vừa xâm nhập, phối hợp với du kích địa phương, chĩa nhiều mũi dùi tiến vào cố đô Huế. Hướng Tây từ quận Nam Hòa, Nam Giao băng qua cầu Bạch Hổ chiếm cửa Chánh Tây. Hướng Bắc từ rặng Trường Sơn, qua chùa Thiên Mụ, Kim Long. Hướng Đông từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá, dọc theo La Vân Thượng tới An Hoà chiếm cửa Đông Ba. Cánh cuối cùng từ Phú Thứ, Đập Đá, qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.
                                Về tình hình bạn, đại đội Hắc Báo của anh bạn cùng khóa Phan Gia Lâm đang bị bao vây trong Đại Nội. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù sáng Mùng 1 Tết, chạy băng đồng marathon gần 20 cây số từ Sịa, Quảng Điền, và cây số 17, An Lỗ về giải cứu cố đô (Hai tiểu đoàn bị chận lại ở An Hoà mãi tới mùng 3 mới vào được BTL Sư đoàn 1 BB). Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù chúng tôi ở mặt trận Quảng Trị đã hao hơn trăm chiến sĩ, tới Huế vào trưa mùng 4 Tết, tạm bố trí trong đồn Mang Cá.
                                Sáng Mùng 5 Tết, chúng tôi xuất phát để tái chiếm phi trường Tây Lộc và Cửa Chánh Tây. Vừa mới ra khỏi đồn được 200 thước, tôi gặp Thiếu tá Lê Minh Ngọc, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đang dẫn binh đi ngang qua. Hỏi thăm thì biết lúc nầy quân số của Tiểu Đoàn 2 và 7 Nhảy Dù chỉ còn phân nửa! Họ bị thiệt hại nặng từ đêm Giao Thừa khi chiếm đầu cầu An Hòa, và đã giao tranh với địch trong Thành Nội mấy ngày qua. Chỉ 3 ngày mà đơn vị bạn đã hao quá nhiều. Chúng tôi ai nấy mặt mày bí xị, vì mình sắp sửa tiến vào vùng tử địa!  Không biết ai còn, ai mất, đúng là:
                                                Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
                                                Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
                                                                    (Chinh Phụ Ngâm)
                                Khi vào tới gần tường thành Đại Nội, chúng tôi thấy phía trước có nhiều bóng đen thấp thoáng và nghe vài tiếng súng lẻ tẻ. Cả đại đội dàn quân xung phong, gặp một số người mặc áo đen giơ tay đầu hàng. Hỏi ra mới biết đó là binh sĩ của đại đội Hắc Báo. Gặp lại bạn đồng khoá Phan Gia Lâm, hai đứa bắt tay mừng mừng lo lo. Lâm nói giọng Huế:
                                __ Lính mi sao còn nhiều quá vậy? Lính của tao chuồn về nhà ăn Tết gần hết!
                                Hỏi thăm Lâm về tình hình phía trước, rồi chúng tôi thận trọng tiến dọc theo bờ kinh, thẳng về hướng phi trường L-19 ở Tây Lộc. Khu nầy nhờ Tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy Dù đã dọn sẵn, nên chỉ chạm địch lẻ tẻ, thỉnh thoảng có vài binh sĩ bị bắn tỉa từ phía bên kia bờ kinh. Sau khi chiếm phi trường, tiểu đoàn tiến về cửa Chánh Tây. Đánh trong thành phố thật không dễ, chúng tôi phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển. Các ngõ hẻm, cao ốc, đường cái, và ngả tư, đều có thượng liên địch chực sẵn.
                                Khi đến gần cửa Chánh Tây, tôi thấy có rất nhiều địch đội nón cối, tay đang cầm súng Ak-47, B-40, đi qua lại trên bờ thành. Chúng tôi chờ trời tối cho khinh binh lén leo lên dùng lưỡi lê đánh cận chiến, chiếm được một góc thành làm đầu cầu cho đại đội nhào lên bắn ào ạt khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy tuy tổn thất nhiều, nhưng vì địch quân đã có lợi thế bờ thành cao trên 5 thước, nếu không liều mạng vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Càng dây dưa trì hoãn thì càng tổn thất tiêu hao dần dần, rốt cuộc không có thành quả gì. Trong hai ngày tiểu đoàn chiếm lại được cửa Chánh Tây và bàn giao lại cho Sư đoàn 1 BB trấn giữ. Chúng tôi bọc ngược trở lại để chiếm cửa Đông Ba .
                                Tại đây có cây thượng liên đặt nơi cửa thành cao và rất kiên cố, chúng tôi thử xung phong nhiều lần mà không lên được cửa. Trung đội tôi lúc ấy còn 21 người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và cửa Chánh Tây vừa rồi, nên binh sĩ rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát khẩu thượng liên, cả trung đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh lên và chiếm được cửa thành. Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng, hai chân bị khoá bằng dây xích.
                                Kiểm điểm quân số lại thấy chỉ còn mười người nguyên vẹn. Mười một mạng người chết và bị thương, để đổi lấy cửa thành nầy đây. Lính Nhảy Dù trả nợ máu cho quê hương miền Nam, lấy lại sự thanh bình cho đồng bào xứ Huế. “Chúng tôi không cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”.  Gần ba mươi năm qua, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau đớn khi đứng trên cổng thành đổ nát của mùa xuân năm xưa! Mùa Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương!
                                Mấy ngày sau, tiểu đoàn tiếp tục mở rộng kiểm soát các khu vực bên trong Thành Nội. Sáng Mùng 10, chúng tôi chuẩn bị vượt qua hồ Tỉnh Tâm để tìm cách đánh lấy lại cửa Thượng Tứ, cửa chính Nam, đi thẳng vào Đại Nội. Suốt tuần lễ, người không tắm rửa, chân không rời đôi giày trận, sống giữa màn trời chiếu đất, lót dạ bằng những chén cháo trắng. Tuy lương thực không được tiếp tế, nhưng lúc đó không ai ăn vô nổi, vì hằng ngày nhìn thấy xác chết đầy đường, không có người thu dọn. Chúng tôi sống với và giữa những người chết, họ là những người dân đã sống trong chịu đựng và chết trong oan khiên. Họ đã chết cho ai, vì ai?.. Bao nhiêu năm câu hỏi vẫn còn, không được ai đứng ra lãnh trách nhiệm trả lời.
                                Trung đội vượt qua hồ Tỉnh Tâm phía ngoài Cầu Kho, tiến vào lục soát ngôi biệt thự khá sang trọng. Khi vừa rút ra khỏi nhà, thì nghe “Đùng” một tiếng, một quả lựu đạn hay súng cối gì đó rơi đúng vào giữa đội hình trung đội tôi! Mọi người đều ngã lăn vì trúng mảnh đạn. Lưng tôi bị đầy mảnh, máu ướt đẩm cả áo trong lẫn áo ngoài.
                                Tôi đang kiệt sức dần, thì bỗng nhiên thấy một tên lính địch chạy qua nhà tôi đang nằm. Trong khi tên bộ đội chưa phát giác, do từ một phép lạ hoặc bản năng sinh tồn, tôi đứng dậy, chạy băng về bộ chỉ huy đại đội, các anh em binh sĩ cũng nhanh chân rút theo. Mắt loáng thoáng nhìn thấy Đại đội trưởng Thành Râu từ xa, tôi kiệt sức ngã lăn nằm bất tỉnh trước sân đất trước nhà.
                                Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên lầu của một biệt thự sang trọng. Anh bạn tốt là bác sĩ Thiện mượn mền để đắp cho tôi nhưng chủ nhà không chịu. Tối đến thấy trên mình có cái mền mới tinh, nhưng nó bị trượt qua một bên, vết thương bắt đầu hành sốt, người run lập cập. Tôi định kéo mền lên đắp, nhưng dở tay không nổi, đành nằm chịu trận! Nhìn xung quanh thấy có vài thương binh bị nặng quá đã hy sinh, còn những người khác thì mê man. Sáng ra mới biết anh Thiện đã lén “Mượn tạm” mền để đắp cho tôi. Sau đó nghe nói chủ nhà nầy là kinh tài (hãng xe bus vàng) của Việt Cộng. Hắn ta cùng bọn nằm vùng đã làm nội tuyến hướng dẫn bộ đội vào thành, quấy nhiễu dân chúng, gây bao nhiêu cảnh chết chóc, lầm than cho những kẻ vô tội trong ba ngày Xuân.
                                Hơn một tuần quần thảo trong thành nội, Tiểu đoàn 9 Dù còn thảm hơn hai Tiểu đoàn Dù bạn. Quân số còn lại những người nguyên vẹn không quá một trăm!
                                Lúc chuyển quân ra Vùng I Chiến Thuật, Tiểu đoàn cần tới 5 chiếc vận tải cơ C-130, nhưng trở về với một chiếc mà còn thấy rộng. Riêng Trung đội 1 của tôi thì coi như báo cáo tổn thất “ Nằm, ngồi ”(chết, bị thương) là 100%.
                                Để diễn tả về trận chiến Tết Mậu Thân tại Vùng Giới Tuyến nầy, tôi xin phỏng theo hai câu thơ bất hủ ở mặt trận An Lộc, Bình Long:

                                                Cố đô Huế Mậu Thân chiến tích
                                                Chiến sĩ Dù vị quốc vong thân!

                             
                            (Chương  3 còn tiếp)


                            Trương Dưỡng. K20
                            nguồn:
                            http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

                            Comment


                            • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 3 (tiếp theo)

                              Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
                              Trương Dưỡng - K20

                              Chương 3 (tiếp theo)

                              Kể Chuyện Hành Quân (hay Buồn Vui Đời Lính)

                              9.Trận Chiến Vùng Ven Đô hay Tết Mậu Thân Đợt II

                               
                                  Sau khi về hậu cứ ở trong trại Hoàng Hoa Thám, cả tiểu đoàn được xả trại một tuần, lúc đó tôi đang nằm chữa trị tại bệnh viện Đỗ Vinh thì Thiếu tá Bảo, Tiểu Đoàn Phó, gọi về tiểu đoàn để nhận bàn giao chức vụ đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù. Rồi ra nhà hàng Bồng Lai dự tiệc khao quân của Tiểu đoàn trưởng.
                                   Trung Tá Nhã, Đại uý Thành,...đã được thăng cấp đặc cách mặt trận, riêng tôi vì mới lên Trung uý vài tháng nên được Nhành Dương Liễu (anh dũng bội tinh tuyên dương trước quân đội) và hai chiến thương bội tinh (bị thương ba chỗ: lỗ tai trái, đùi phải, tại trận Quảng Trị, và lưng mang đầy mảnh cắm sâu vào nhiều nơi hiểm quá nên không dám mổ!).
                                  Lợi dụng tiểu đoàn xả trại, tôi vội lên xe đò về quê thăm vợ con. Nhưng phải ghé qua Cần Thơ lo tìm máy bay, vì đường về Vĩnh Bình bị phá đứt nhiều đoạn và chưa được an ninh.
                                  Tối hôm đó, tôi vào ngủ tạm nhà Vãng Lai của Quân Đoàn IV. Tại đây gặp một Thiếu tá khoá 4 Thủ Đức, anh nầy đưa tôi ra phi trường Trà Nốc kiếm được phi công L-19 chở về Trà Vinh. Sau nầy tôi có ghé thăm anh ở đường Nguyễn Minh Chiếu, Phú Nhuận; anh dẫn tôi vô Phòng Ba Tổng Tham Mưu để gặp bạn cùng khoá là Trưởng Phòng (hoặc phụ tá Trưởng Phòng gì đó?). Lúc ấy tôi đang mang cấp bậc đại uý, đủ tiêu chuẩn, nên anh ghi tên trong danh sách khoá 4 Quân Chánh để học xong sẽ làm Quận Trưởng. Vì cứ đi đánh giặc triền miên, tôi cũng muốn an nhàn một lúc để được sống gần vợ con. Nhưng Sư Đoàn Dù hỏi vị tiểu đoàn trưởng có chịu cho đi không và tôi thất vọng vì họ không muốn mất đi con gà chọi cứng cựa nầy!
                                  Về tới Vĩnh Bình, người Dì Sáu của bà xã bảo chúng tôi lại ở chung, vì xung quanh tỉnh lỵ vẫn còn du kích, mỗi tối chúng cứ bắt loa tuyên truyền từ bên kia bờ sông. Lúc đó tôi còn vết thương đầy lưng chưa lành, mỗi ngày nhờ bà xã thay băng. Nằm trên lầu mà xung quanh giường ngủ chứa toàn là đồng hồ, máy may, radio, cassette,....cũ (Vì đây là tiệm cầm đồ và bán vàng).
                                  Khoảng nửa tháng sau thì tiểu đoàn di chuyển ra Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp để “Trui rèn” lại. Vì lần nầy hao tổn quá nhiều, tân binh bổ sung cần được huấn luyện giống y tiểu đoàn mới tân lập như hai năm về trước (trong vòng có hai năm mà có quá nhiều thay đổi, không biết rồi đây hai năm tới nữa sẽ ra sao?). Cuộc hành quân thao dượt cuối khoá kỳ nầy đặc biệt hơn lần trước, toàn bộ TĐ9ND sẽ thực tập nhảy dù trận, tất cả quân nhân, xe Jeep, GMC, và cả các khẩu pháo 105 ly cũng được thả dù từ phi cơ C-123 xuống một khu rừng, cách thị xã Bà Rịa khoảng 10 cây số. Sau khi nhảy xuống, các đại đội tác chiến bỏ dù tại chỗ và lập tức nhào lên tấn công mục tiêu chỉ định. Toán tiếp liệu lo thu nhặt dù, pháo binh lo bãi để kịp thời làm màn khói cho cuộc thao dượt.

                                  Trước khi vào đề về trận chiến Mậu Thân Đợt II, tôi muốn nói sơ về “Người ở lại Charlie” Nguyễn Đình Bảo. Anh xuất thân trường VBQG Khóa 14 Đà Lạt. Từng là võ sĩ huyền đai nhu đạo, nhưng anh rất khiêm tốn hiền hòa, thường giúp đỡ đàn em; khi lâm trận, anh lúc nào cũng có mặt ở tuyến đầu .
                                  Có lần Đại đội tôi được chỉ định đi tiền phong và chạm nặng tại rừng Long Giang, Tây Ninh, gần Bộ Chỉ Huy Cục R. Căn cứ vào hầm hố và vũ khí, thì quân số địch ước lượng cỡ cấp trung đoàn. Với phòng không và hỏa tiễn 122 ly liên tiếp dội đúng vào đội hình của chúng tôi. Lúc đó anh Bảo chỉ ngồi cách tôi khoảng 20 thước, đột nhiên đứng dậy đi về phía tôi, thì bỗng nghe “Ầm” một tiếng. Một quả pháo rơi đúng ngay chỗ anh vừa ngồi. Thật là hú vía, nếu quả đạn sớm chừng 30 giây thì Nhật Trường sẽ không có thể đặt ra bài ca nổi tiếng “Người ở lại Charlie” sắp kể sau đây :
                                  Chuyện xảy ra vào lúc mùa hè đỏ lửa, khi đó Trung tá Bảo là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11ND. Đơn vị anh đóng quân trên trục ngã ba (trục nhánh, nối tiếp của đường mòn Hồ chí Minh từ Lào, để chở quân, vũ khí tại Tân Cảnh, Kontum) nhằm ngăn chận các tuyến tiếp tế của địch từ Bắc vào Nam. Vì vậy đỉnh Charlie là cái gai mà VC phải nhổ bằng mọi giá. Họ đã pháo kích thường xuyên và tung nhiều đợt tấn công trận địa, với sự yểm trợ hùng hậu của chiến xa T-54, hỏa tiễn 155ly, và 122ly. Anh Bảo, anh Mễ, và ngay cả bác sĩ, truyền tin, cùng y tá tiểu đoàn cũng phải ôm súng ra hố chiến đấu, để chống trả lại các đợt tấn công tiền pháo hậu xung vô cùng ác liệt của địch.
                                  Một hôm, Lữ Đoàn Trưởng đáp trực thăng xuống Charlie để thị sát, tôi cũng tháp tùng để vào thăm toán Tác Chiến Điện Tử (lúc đó tôi làm Biệt Đội Trưởng trực thuộc Phòng Hành Quân Sư Đoàn), do thiếu uý Chinh làm Trưởng Toán.
                                  Anh Bảo chỉ cho phái đoàn thấy con đường đất to lớn (ăn thông với đường mòn Hồ Chí Minh ở bên Lào), nằm cheo leo giữa sườn đồi, chính nơi đây xe vận tải địch đã từng chạy qua lại suốt đêm, giống như “Xa lộ không đèn”.
                                   Bác sĩ tiểu đoàn chỉ vào các dãy đồi xung quanh, nơi địch thường đặt súng từ bên kia núi bắn thẳng vào Charlie. Tôi thấy Chinh và các chiến sĩ Tiểu Đoàn 11 ND, mặt mày bơ phờ hốc hác, có lẽ vì hôm qua phải thức suốt đêm, để chống trả lại các đợt tấn kích của địch. Khi tôi vừa về tới căn cứ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn khoảng vài tiếng đồng hồ, thì bỗng nghe báo cáo trong máy truyền tin rằng địch bắt đầu pháo kích Căn Cứ Charlie dữ dội. Ngay sáng hôm sau, chúng tấn công ồ ạt và đã xung phong tràn ngập căn cứ.
                                  Bất ngờ, một tin như sét đánh ngang tai: Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã hy sinh vì một trái pháo loại xuyên phá nổ chậm rơi trúng ngay hầm của anh!! Lúc đó tôi đứng trong phòng Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương Sư Đoàn, thấy Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh SĐND và các Sĩ Quan Tham Mưu, ai nấy đều bàng hoàng xúc động!...
                                  Tôi nghe trong máy truyền tin, tiếng anh Mễ báo cáo là địch đã vào tới BCH Tiểu Đoàn, chúng tràn ngập căn cứ. Anh xin phi pháo oanh tạc ngay đỉnh Charlie, đồng thời mở đường máu rút lui. Đại tá Lương (đang xử lý Lữ Đoàn II) bảo Mễ cố gắng lấy xác anh Bảo. Lúc đó anh Mễ, anh Hải đã bó sẵn vào poncho định khiêng về; nhưng địch đã tấn công ồ ạt quá, nên hai người đành cắn răng bỏ lại! Hơn nữa hôm đó Thiếu tá Mễ còn phải điều động và dẫn dắt cả đơn vị vượt núi, băng rừng đồng thời tìm cách tránh phục binh truy kích của địch.
                                  Căn Cứ Charlie chẳng những chôn vùi xác anh hùng Nguyễn Đình Bảo mà còn nhiều chiến sĩ dũng cảm khác, trong đó có Thiếu úy Chinh của Biệt Đội chúng tôi! Chị Bảo với cảnh vợ góa con côi, đã vận động các nơi lập hội giúp đỡ cô nhi quả phụ. Sau ngày mất nước, trước khi qua Mỹ, tôi có đến từ giả Chị, trông thấy cảnh nhà thật tiêu điều, đồ đạc bán sạch, để lấy tiền trang trải cho con trai cưng của anh Bảo, tên Bảo Tường, đang theo Đại Học Y Khoa. Qua lời anh Có, trung tá Quân Cảnh, ở nhà đối diện, nói chị là người đức hạnh, hiền thục trong cư xá sĩ quan Chí Hoà, khiến ai nấy đều khâm phục.
                                  Bây giờ xin bắt đầu câu chuyện “Tôi tham dự các trận đánh vùng Ven Đô”. Lúc tiểu đoàn đang tập nhảy dù trận, thì được lịnh khẩn cấp về Sàigòn để chống trả cuộc Tổng Tấn Công Đợt II. Khi các phi cơ C-47 đưa chúng tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhứt, Đại Đội 91 của tôi được điều động thẳng đi bảo vệ Dinh Độc Lập. Các đại đội khác ở tại Hậu Cứ tiểu đoàn, ứng chiến 100%.
                                  Để bảo vệ vòng ngoài Phủ, tôi bố trí các trung đội tại vườn Tao Đàn, trường JJ Rousseau, trường Đại Học Văn Khoa, Bộ Ngoại Giao, và Ban Chỉ Huy Đại Đội cùng Trung Đội 4 đóng ở cao ốc Nguyễn Du, cạnh nhà báo Thời Luận của Tướng Tôn Thất Đính. Lúc mới vừa đóng quân xong, Tướng Đính cho anh sĩ quan cận vệ tới gọi tôi qua văn phòng gặp ông. Có lẽ với tình hình đang hỗn độn mà được đơn vị Nhảy Dù tới ở bên cạnh, thì thật là yên tâm. Tướng Đính vỗ vai tôi và nói:
                                  __ Em có cần gì qua giúp đỡ hay không?
                                  __ Dạ thưa không, cám ơn Trung Tướng.
                                  Sau khi xuề xòa đôi câu, ông bảo anh cận vệ đưa tôi đi ăn một bữa cơm xã giao thịnh soạn.
                                  Tối đến, khoảng 2 giờ khuya, chợt nghe nhiều tiếng súng nổ hướng trường Đại Học Văn Khoa, tôi vội bắt máy truyền tin, nghe Chuẩn uý Trứ báo cáo có nhiều bóng đen mang súng, xuất hiện ở đường Gia Long. Tôi vội dẫn Trung Đội Chỉ Huy tới ngay hiện trường; đến nơi thấy binh sĩ của Trứ đã tước súng của mấy anh cảnh sát trước nhà hàng Thanh Thế. Ngay sau đó, trong phủ Tổng Thống, nghe có tiếng súng nổ, Đại tá Trưởng Phòng Cận Vệ Nhan Văn Thiệt, Thiếu Tá Tư (khoá 13 ĐL), và một số sĩ quan cận vệ chạy xe Jeep có gắn đại liên đến. Tiếp đó bên cảnh sát Đô Thành có các ông Cò Quận Nhì, Cò Long bót Lê Văn Ken, Cò He bót Tao Đàn cũng đều có mặt. Đây chỉ là một sự hiểu lầm, vì nửa đêm khuya vắng, binh sĩ của Trứ thấy bóng người mang súng, không biết đó là cảnh sát. Lúc ấy trùng hợp với sự pháo kích bằng nhiều loạt đạn hỏa tiễn 122 ly, phát xuất từ bên kia Thủ Thiêm.
                                  Trước mặt Đại tá Thiệt và mấy ông Cò, các Cảnh sát viên mặt mày hãy còn ngơ ngác nói :
                                  - Lính Nhảy Dù bộ mình đồng da sắt, sao không sợ chết gì hết vậy? Vừa nghe tiếng súng là đã thấy họ hô xung phong và nhào tới như chớp, khiến chúng tôi hết hồn chưa kịp trở tay, thì đã bị họ tước súng rồi!
                                  Đại tá Thiệt, Thiếu tá Tư, người nào cũng có đeo bằng Dù trước ngực, nghe nói cũng hãnh diện lây, nên cứ cười hỉ hả khoái chí. Sáng hôm sau, không biết các anh báo cáo với Tổng Thống thế nào, mà họ đã chở vào vườn Tao Đàn cho một xe vận tải chất đầy những thùng đồ hộp Ration C và còn có thêm mấy chục ngàn tiền thưởng để ủy lạo binh sĩ.
                                  Thật ra trong những lúc tập dượt đội hình chiến đấu và phản ứng cấp thời khi chạm địch. Tôi thường giải thích với binh sĩ là khi bị địch bắn, dù mình có quay lưng chạy, cũng không thể nào nhanh hơn tầm đạn bay và dễ dàng làm mục tiêu cho địch từ từ ngấm bắn. Nếu ta cứ liều mạng hô xung phong (để áp đảo tinh thần) và nhào tới bắn trả, địch sẽ khiếp sợ quíu tay, do đó có thể từ đường tử, tìm đường sanh. Đơn vị tôi đã dùng chiến thuật nầy nhiều lần và rất hữu hiệu, chẳng hạn như trận vừa rồi ở ngã tư nhà thờ La Vang đã kể ở phần trên. Lúc ấy dân chúng có nói lại: vì chúng tôi xung phong thần tốc quá, nên có một số địch còn kẹt lại, trốn kỹ trong hầm trú ẩn của nhà dân, chờ rút đi họ mới dám ló đầu ra.
                                  Từ đó về sau, mỗi buổi sáng, Thiếu tá Đỗ Quang Tư và các sĩ quan trong Phủ thường tới rủ tôi đi ăn điểm tâm. Cò Long bót Lê văn Ken cũng thường dẫn đi ăn ở các nơi sang trọng trong Thủ Đô như khách sạn Lê Văn, Nam Đô, tôm cá Phù Tang ở Cầu Kho. Lần nào tôi cũng có gọi máy rủ anh Bảo đi chung. Cò Long biết sĩ quan Dù không có tiền, anh thường lén đút vào túi tôi và có lần khi hành quân ở Tây Ninh, anh đã gởi cho cặp rượu Martell, đang ở trong rừng mà có rượu ngon, thật là quí vô cùng.
                                   Lúc đó tại chợ Cây Quéo, Gò Vấp, Tiểu đoàn 9 Dù đang chạm địch mạnh. Liên Đoàn 81 Biệt Cách được lịnh tăng cường 2 đại đội(trong đó có một Đại đội trưởng là Bùi Cao Thăng, K20ĐL,hiện định cư tại Nam Cali) để làm thành phần tấn công đột kích càn quét đám du kích. Nơi đây chúng đang bám trụ trong Tịnh Xá Trung Tâm, cạnh chuồng ngựa. Tiểu đoàn trưởng, Trung tá Nhã, đề nghị rút đại đội tôi từ phủ Tổng Thống về tăng cường. Sư đoàn đã đánh đi nhiều công điện, nhưng có lẽ vì anh Tư, anh Thiệt cố tình giữ lại, nên chần chờ hết vài hôm.
                                  Mãi tới khi có tin đại đội trưởng Tèo tử trận, họ mới chịu buông cho đại đội đi. Cũng vì sự chần chừ trì hoãn nầy, khiến vị Tiểu đoàn trưởng nổi giận. Khi đại đội vừa xuống tới Cây Quéo, trong một ngày mà ông bắt đánh hết mặt Nam rồi lại qua mặt Tây. Dẹp xong mặt Tây rồi lại tới mặt Bắc.
                                  Đánh trong Thành phố thật khó khăn vô cùng, thường phải leo cửa sổ, chui qua tường, vì các ngõ hẻm đều có súng thượng liên địch chực sẵn. Lúc đó có nhiều Phóng viên Chiến trường đi theo chụp ảnh phỏng vấn, họ cũng rất gan dạ, đi theo sát cuộc tiến quân. Khi đến mặt Bắc thuộc khu vực chuồng ngựa, tại đây địch kiên trì cố thủ, chúng tôi phải dùng thật nhiều lựu đạn cay và thùng “Cà rem” E8 hơi ngộp. Khói cay bay mịt mù khắp khu vực, địch chịu không nổi phải chạy bỏ điểm cố thủ, nhờ vậy mới chiếm được tịnh xá của Ni sư Huỳnh Liên. Ngược lại binh sĩ cũng bị cay mắt tơi bời, dù có đeo mặt nạ mà cũng chịu không nổi. Tôi bị cay mắt quá, phải chạy đi tìm lu nước, úp mặt một thời gian mới đỡ được phần nào.
                                   Đụng trận suốt ngày, Đại đội tôi bị tổn thất khoảng năm người, thật là một ngày dài trong đời binh nghiệp! Chỉ một ngày mà dẹp yên được vùng Cây Quéo; đây cũng nhờ địch đã thấm mệt vì bị thiệt hại nhiều khi chạm trán với các Đại đội Dù tới trước, và đã chịu các trận đột kích tài tình của các chiến sĩ Biệt Cách 81. Nhất là nhờ sự dũng cảm của anh em Đại đội 91 Dù cùng với loạt hơi cay mù mịt, khiến chúng dù có ngoan cố bám trụ (danh từ VC) tới đâu cũng giống như chuột trốn kín trong hang, cũng đành phải chịu chui ra khỏi ổ. Trận nầy tuy toàn thắng, nhưng địch không theo lời kêu gọi đầu hàng. Họ đã nghe đồn tin vịt là lính Nhảy Dù dữ tợn, nếu đầu hàng sẽ bị móc mắt cắt lỗ tai, nhờ vậy TQLC hưởng trọn chiến quả, vì địch đã đầu thú toàn bộ với họ.
                                    Sau khi dẹp yên chợ Cây Quéo, thay vì được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân, nhưng BTL Sư đoàn lại điều động Tiểu đoàn 9 ND ra thẳng vùng Ven Đô. Chúng tôi bố trí quân gần Ấp Đồn, thuộc quận Hốc Môn. Tại đây, Chiến Đoàn II ND do Trung tá Hùng chỉ huy. Họ đã giáp trận với đối phương nhiều lần, ở phía Tây Bắc hãng bột ngọt Vị Hương Tố. Địch quân đang dấu mình trong các vườn trầu thuộc xã Tân Thới Hiệp, cách phi trường Tân Sơn Nhứt khoảng 5 cây số.
                                  Một sáng chủ nhật nọ, Đại đội 91 được lệnh đi tuần tiểu lục soát khu vực phía Nam Ấp Đồn. Khi toán khinh binh vừa băng qua đường đất đỏ, nối giữa Nhị Bình và Ấp Đồn, thì bị một tràng AK-47 từ trong rừng rậm phía trước bắn ra. Chuẩn uý Trọng, trung đội trưởng, vội dàn quân hàng ngang, vừa bắn vừa hô “Xung phong”, đuổi địch tới tận bờ sông (nhánh sông Sàigòn).
                                  Tại đây, chúng tôi phát hiện ra rất nhiều thùng đạn còn mới tinh (có lẽ địch chuyên chở tới bằng ghe thuyền, hoặc buộc vào những khúc gỗ, thả trôi theo dòng nước từ vùng thượng lưu). Tôi cho lệnh lục soát và bố trí xung quanh “Kho đạn nổi” khổng lồ nầy! Với hàng trăm thùng đạn có thể chở bằng nhiều xe GMC. Đặc biệt nhất là Hỏa tiễn 122 ly, 175 ly, ngoài ra còn rất nhiều đạn B-40, AK-47,... Khoảng một giờ sau, phi cơ trực thăng chở các vị tướng Westmoreland, Cao Văn Viên,  Dư Quốc Đống cùng nhiều Sĩ quan Tham mưu cao cấp. Tháp tùng trực thăng còn có Phóng viên, Ký giả của các Nhật Báo lớn ở Thủ Đô. Họ tới nhanh và đông đủ như vậy, vì đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến, quân ta đã tịch thu được nhiều hỏa tiễn 122 ly, ở một nơi rất gần phi trường Tân Sơn Nhứt, bộ Tổng Chỉ Huy Quân Lực Hoa Kỳ, Bộ TTM, và Thủ Đô Sàigòn.
                                  Với số hỏa tiễn nầy mà bắn vào thành phố, thì không thể nào tưởng tượng nổi sự thiệt hại về nhân mạng, nhà cửa. Nhất là vấn đề tâm lý, sẽ ảnh hưởng rất lớn lao đến tình hình chính trị lúc bấy giờ. Các báo chí đều có đăng trang đầu, hình tôi đứng cạnh hỏa tiễn 122 ly cao quá tầm đầu. Sáng hôm sau, anh Bảo gọi tôi lên xem công điện của Tướng Mỹ, trong đó có lời khen thưởng toàn thể quân nhân các cấp ĐĐ91ND.
                                  Đúng một tuần lễ sau, cũng lại vào ngày chủ nhật (trên tờ huy chương Oak Leaf With “V” Device đính kèm ghi ngày 24/3/68), ngày mà ai nấy đều nghỉ học nghỉ việc để xả hơi. Lúc đó tôi định lên tiểu đoàn, nói với anh Bảo để xin về Phú Lâm, dự đám cưới của cô bạn gái, là em họ của Kiệt, một bạn thân cùng khóa. Nhưng anh Bảo nói, tiểu đoàn vừa mới nhận được lệnh khẩn là cho các đại đội tung ra tuần tiểu, vì có tin địch đang tăng cường xâm nhập để chuẩn bị cuộc Tổng Công Kích đợt II. Đại Đội 91 được chỉ định đi lục soát vườn cau, phía bên kia bờ rạch. Tôi cho các trung đội đi theo đội hình quả trám: Trung đội 3 của Chuẩn uý Trứ đi đầu, tiếp theo là Ban Chỉ Huy đại đội. Bên sườn phải có Thiếu úy Phấn, cánh trái có Thiếu úy Hoè (Khóa 22 ĐL), bọc hậu có Chuẩn úy Trọng. Mặc dù gọi là đi tuần tiểu lục soát, nhưng các khinh binh lúc nào cũng giữ đúng đội hình. Nhờ vậy khi khinh binh Học vừa qua tới giữa cầu khỉ thì bỗng nghe tiếng súng AK bắn từ bờ bên kia, nhờ phản xạ tự nhiên, Học nhảy đại xuống con rạch cạn, Trung đội cánh phải vội dàn ngang bờ rạch bắn yểm trợ cho Trung sĩ Lương dẫn tiểu đội đi đầu chiếm bờ bên kia để làm đầu cầu.
                                    Vừa qua khỏi cầu khỉ, tôi thấy thấp thoáng tổ báo động của địch đang chạy dọc theo bờ rạch (thẳng góc với con rạch chúng tôi vừa băng qua). Chuẩn úy Trứ cho khinh binh vừa bắn vừa rượt theo tới vườn cau, khi cách chòm nhà có vườn cau bỏ hoang chừng 100 thước, thì bị địch từ trong bắn ra nhiều loạt đạn. Trứ cho toàn thể trung đội dàn trận tựa vào bờ ruộng bắn xối xả vào. Tiểu đội 1 bắn yểm trợ cho 3 khinh binh Võ, Học, và Đông dùng đội hình chân vẹt tiến chiếm bờ làng làm đầu cầu. Nhưng Học mới lên vài bước thì bị bắn trúng bụng, Trứ điều động Tiểu Đội 2 lên tiếp ứng, mặc dù đạn bắn như mưa, nhưng Võ và Đông cùng vài chiến sĩ cũng can đảm liều mạng nhào lên kéo Học ra phía sau để kịp di tản vì máu ra rất nhiều. Do quyết tâm cứu đồng bạn, 2 binh sĩ khác bị hy sinh ngay tại chỗ! Tôi gọi về Tiểu đoàn xin Nguyễn Tống Hiến (bạn cùng khóa) bắn súng cối 81 ly yểm trợ sơ khởi, đồng thời xin một đại đội yểm trợ sườn phải. Vì bên đó có nhiều địch, chúng đang núp trong bờ rạch bắn vào chúng tôi.
                                      Trung úy Fix, cố vấn đại đội, lập tức xin phi cơ lên yểm trợ. Không đầy 1 giờ sau, Thiếu tá Bảo đã tới ngay bên cạnh tôi. Ban Chỉ Huy ở phía sau lưng Trứ, nơi có bờ ruộng và chòm cây che phủ, đối diện với vườn cau. Tôi điều chỉnh phi cơ, pháo binh, và súng cối luân phiên dập vào vị trí địch, để họ không thể ngửng đầu dậy bắn vào binh sĩ của Trung đội 3.
                                      Lúc ấy Trứ và anh em binh sĩ đều đang kẹt ngoài đồng trống, họ chỉ tựa vào những bờ đê nên thật là nguy hiểm. Trứ báo cáo có một số binh sĩ đang bị kẹt ngay trong vườn cau! Khoảng 2 giờ sau thì Đại đội 94 của Tâm mới tới, nhìn thấy anh đang đứng hỏi chỉ thị của anh Bảo để bố trí quân, tôi vội la lên bảo ngồi thấp xuống. Anh vừa nhích người thì đã bị một viên đạn bắn trúng ngay cánh tay, máu phun ra từ vết thương như vòi nước (Có lẽ đạn đã xuyên qua động mạch), nếu anh trể chừng 1 giây, viên đạn có thể trúng ngực. Anh phải mang ơn cứu mạng của tôi, nghe anh Tâm!.
                                      Nơi chỗ tôi ngồi có nhiều cần “Ăng ten” máy truyền tin, địch thường dùng súng trường CKC nhắm bắn vào. Suốt cả ngày, tôi chỉ có thể điều chỉnh pháo binh, phi cơ, mà không thể điều động đơn vị vượt lên chiếm vườn cau được; vì địch có lợi thế núp trong hầm hố kiên cố và chống trả mãnh liệt.
                                      Khoảng 6 giờ chiều, trời bắt đầu chợp tối; Thiếu tá Bảo cho lệnh rút ra bên nầy bờ suối, để tái võ trang và kiếm chút gì ăn lót bụng (trong những lần chạm địch, nhiều khi cả ngày không ăn gì mà chẳng cảm thấy đói). Khi tôi gặp Tiểu đoàn trưởng, thấy mặt ông buồn vì đại đội đã bị kẹt lại 4 người không thể lấy xác được. Trung tá Nhã, mặt nghiêm nghị hỏi:
                                    __ Mầy còn dám vô trở lại nữa, hay để cho thằng Thành?
                                    Đang bực vì chưa lần nào bị thảm thiết như lần nầy! nên tôi trả lời:
                                      __ Để tôi tiếp tục!
                                     Rồi tôi đưa đại đội trở qua bên kia cầu, đóng quân xung quanh bờ ao làm tiền đồn. Binh sĩ không còn sức để đào hầm hố, nơi đây cách chỗ địch khoảng 800 thước. Chúng tôi cả ngày giáp trận, giày không kịp cởi, cơm chẳng muốn ăn, không tắm rửa, không nghỉ ngơi; nhưng không ai chợp ngủ được vì sợ địch phản công bất ngờ. Thấy Fix nằm ngó trời trăng, mặt mày tư lự nhưng có vẻ bình tỉnh, không sợ chết như một số người khác. Tôi vỗ vai anh như an ủi, Fix nhìn tôi mỉm cười khuyến khích, khiến lòng tôi nguôi bớt cơn phiền muộn! Nghĩ đến trách nhiệm của người chỉ huy, nhớ đến xác các chiến hữu còn kẹt lại ở trận địa, và nhất là nhớ đến gương mặt nghiêm nghị của vị Tiểu đoàn trưởng, lòng tôi thấy bùi ngùi như bị kim châm!
                                  Sáng sớm hôm sau, tiểu đoàn cho Đại đội 93 của Trung úy Phước đến yểm trợ cánh phải. Chúng tôi thận trọng tiến về vườn cau, bây giờ thì phía bên Phước đang chạm địch, còn Đại đội tôi sau khi thụt đại bác 75 ly, quạt đại liên tới tấp vào mục tiêu, các khinh binh đi đầu thận trọng chạy theo kiểu chân vạc. Lúc họ chiếm được bờ vườn cau làm đầu cầu, thì 2 trung đội dàn ngang tiến lên. Sau khi chiếm được mục tiêu, tôi cho binh sĩ thu dọn xác anh em và chia nhau lục soát toàn bộ vườn cau.
                                  Bỗng tin mừng đưa đến tới tấp, Chuẩn úy Trứ báo:
                                  __ Trình đích thân, Duy Tân 3 thu được 1 súng cối, 1 thượng liên, 2 B-40, 3 CKC, và 12 Ak-47.
                                  Chuẩn úy Trọng nói trong máy:
                                  __ Duy Tân, đây Duy Tân 1, chúng tôi thu được 1 súng cối 61 ly, 2 Thượng liên, 3 B-40, 2 CKC, và 8 Ak-47 .
                                   __ Duy Tân (biệt hiệu truyền tin của tôi) nghe rõ, khá lắm!
                                   Bên Thiếu úy Phấn và Thiếu úy Hoè cũng báo về tới tấp. Nhìn thấy hầm hố có nắp kiên cố xung quanh vườn cau, căn cứ vào 2 súng cối và hố chiến đấu thì quân số địch ước lượng cấp tiểu đoàn. Nghe tin, Trung tá Nhã lập tức băng ruộng tới nơi, mặt ông hớn hở, vội báo cáo chiến lợi phẩm về Chiến đoàn. Ông vừa cười vừa bắt tay tôi :
                                  __ Thành thật chia buồn và chúc mừng mày, Dưỡng !
                              (Chia buồn vì một số binh sĩ đã hy sinh, còn chúc mừng vì dựa vào vị trí kiên cố của địch mà Đại đội 91 lại có thể đánh bật họ ra và thu lượm được quá nhiều chiến lợi phẩm).
                                   Thông thường thì lực lượng tấn công phải cần gấp ba lần lực lượng phòng thủ, nhưng các đơn vị Dù có thể dùng quân số ít hơn và hỏa lực yểm trợ hùng hậu, cũng có thể thành công và thu lượm nhiều chiến quả, đem lại vinh dự cho màu cờ binh chủng. Nhờ có 3 phi tuần khu trục và 3 phi tuần Gunship, cùng pháo binh và súng cối của Hiến yểm trợ liên tục. Số hỏa tập đều rất gần chúng tôi, đôi khi còn nằm trong tầm sát hại; nhất là của khu trục phản lực. Tôi phải điều chỉnh hướng thả của phi cơ bằng đường ngang hông, nếu thả hướng dọc sẽ rất nguy hiểm, vì đà của các mảnh bom có thể tạt trúng đơn vị bạn. Tầm văng xa của mảnh bom tới 500 thước mà Ban Chỉ huy Đại đội ở cách địch khoảng 200 thước, Trung đội của Trứ thì còn gần hơn nữa (Đây một phần cũng nhờ học khóa Điều Không Tiền Tuyến ở Trường Pháo Binh, cùng học lý thuyết ở VB Đà Lạt).
                                  Trận nầy có thể nói là do ở sự dũng cảm của anh em Đại đội 91 Nhảy Dù và sự yểm trợ hữu hiệu của phi pháo mà chúng tôi đã chuyển bại thành thắng. Đơn vị Nhảy Dù thường chạm trán với lực lượng chính qui địch, ngoại trừ trận Tết Mậu Thân đợt I, lúc nào chúng tôi cũng có hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Vì thế trận địa có khó khăn, hung hiểm cách nào, chiến sĩ Dù vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó.
                                  Trung tá Nhã (sau nầy tử trận ở Vùng I) là vị sĩ quan gương mẫu, mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, nhưng ông thưởng phạt rất công minh. Chẳng hạn như trận nầy, căn cứ vào số chiến lợi phẩm thu được, chiến đoàn phân phối cho Tiểu đoàn 9  Dù:
                                       . 2 Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
                                       . 10 ngôi Sao vàng.
                                       . 20 ngôi Sao bạc.
                                       . 50 ngôi Sao đồng.
                                       . và nhiều Cấp bậc được đề nghị tân thăng.
                                   Trung tá Nhã đã dồn hết cho Đại đội 91 Dù và để tôi toàn quyền phân phối định đoạt. Chính đích thân Đại tá Nguyễn Khoa Nam, Lữ Đoàn Trưởng LĐ III ND, đã đến hậu cứ để trao gắn huy chương và các cấp bậc tân thăng. (Tôi và anh Tâm được nhành dương liễu, anh Bảo và các Trung đội trưởng của tôi cùng khinh binh được ngôi sao vàng,..). Một tháng sau, Đại tá Nam lại đích thân đến Ấp Đồn, chứng kiến viên Cố Vấn gắn riêng cho tôi một huy chương US với “V” Device kèm Nhành Dương Liễu của quân lực Mỹ. Trong buổi tiệc tiếp tân dã chiến đãi ở dịp gắn huy chương nầy, Trung tá Nhã đã nói đùa chọc Đại tá Nam :
                                  __ Dưỡng, mầy nói Đại tá cho 50 ngàn tiền thưởng đi, lúc trước Đại tá có nói, hễ ai bắt được cán bộ nằm vùng của VC thì Quận trưởng Hốc Môn sẽ thưởng tiền.
                                  Tôi thấy Đại tá Nam đỏ mặt, vì ông nổi tiếng liêm khiết làm gì có tiền mà thưởng cho tôi! Mặc dù Đại đội 91 vừa bắt được một cán bộ địch, với súng K-54 tại bờ rạch, trong khu 18 Thôn Vườn Trầu. Đại tá Nguyễn Khoa Nam sau làm Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ, ông đã anh dũng tuẫn tiết khi Miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản ngày 30/4/1975!
                                  Ông là một sĩ quan rất thanh liêm, tận tụy, và luôn luôn thương yêu chăm sóc cho từng binh sĩ trực thuộc. Tuy tuổi đã quá tứ tuần mà vẫn còn độc thân. Năm 1970, sau khi bị thương nhiều lần, tôi được thuyên chuyển về làm việc tham mưu dưới quyền của ông, lúc đó BCH LĐIIIND đang đóng ở hãng Khải Vinh, Phú Lâm. Dịp nầy tôi được gần gũi ông nhiều nhất; bản tánh rất sợ đàn bà, như trường hợp Dược sĩ L. rất mến ông, bà thường vận động giúp đỡ bệnh viện Đỗ Vinh (Bệnh Viện của Sư Đoàn Dù) đến bạc triệu. Vậy mà khi bà tới hãng Khải Vinh thăm, ông không ra tiếp và bảo là đã đi vắng.
                                  Tôi thường theo ông bay trực thăng vòng vòng khắp vùng hành quân, nhiều khi máy bay hết xăng, về đổ tiếp rồi bay nữa, khiến bao tử tôi bị nhồi quá nên khó chịu hết sức! (có lẽ ảnh hưởng của mười mấy mảnh đạn còn ghim sâu trong mình). Một hôm tôi theo ông tới thăm Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, lúc đó Tiểu đoàn Trưởng về thăm vợ sanh, nên chỉ có Thiếu tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu đoàn phó, đón tiếp.
                                  Thấy Trung tá Vỹ, TĐT/TĐ5ND, đi vắng, Đại tá Nam nói :
                                  __Vợ sanh mà cần gì phải về thăm, có bà mụ lo được mà.
                                  Thiếu tá Hiếu cười cười :
                                  __ Đại tá chưa có vợ nên không biết, thật ra sự hiện diện của người chồng rất an ủi khích lệ cho người vợ lúc lâm bồn!
                                  Đại tá Nam nghe nói xong, hai lỗ tai đỏ ửng hình như nghe đến chuyện vợ con thì mắc cỡ vậy. Bởi còn độc thân, nên ông cứ xung phong đi hành quân hoài, do đó các sĩ quan Tham mưu Lữ Đoàn cũng mệt theo !
                                  Đổi về làm công tác tham mưu nhưng tôi vẫn nhớ đến những ngày còn ở đơn vị Tác chiến, nhớ đến các chiến sĩ Đại đội 91 Nhảy Dù, nhất là những lần đơn vị được điều động đến tiếp viện và giải vây các trại LLĐB ở vùng biên phòng như trại Bến Sỏi, Phước Tân, Thiện Ngôn, Kà Tum,.............ở vùng mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, đồn điền Vên Vên, bến Gò Nổi, Rừng Long Giang, Lò Gò, Xóm Giữa,... thuộc mặt trận Tây Ninh, mà tôi sắp kể tiếp theo đây:

                              10. Mặt Trận Tây Ninh (1968-1969)

                               
                                  Trong trận chiến tại Việt Nam, vị trí địa dư của vùng bán đảo Đông Dương đã khác hẳn với vị trí vùng bán đảo Triều Tiên. Cả hai quốc gia cùng bị chia cắt, nhưng Nam Hàn nhờ biển bao bọc nên sự xâm nhập và phá hoại không dễ dàng như ở Miền Nam Việt Nam, mà rừng núi trùng điệp chạy dài suốt dãy Trường Sơn là nơi có đường mòn Hồ chí Minh xuyên qua hai lân bang Lào và Khmer.
                                  Hai nước nầy là loại trung lập thiên tả. Lào thì mặc nhiên bất lực, còn Khmer thì công khai dung dưỡng bọn Trung ương cục Miền Nam trên nội địa của họ để làm căn cứ xuất phát các cuộc tấn công vào Miền Nam, rồi sau đó rút về cứ địa an toàn Cam Bốt. Sihanouk đã cho quân đội Bắc Việt và VC trú quân trên lãnh thổ Khmer, khiến quốc gia nầy gần như bị mất chủ quyền. Vì thế dân chúng Căm Bốt vốn dĩ đã từng có mối hận thù truyền kiếp, nay họ nhân cơ hội nầy nổi dậy để chống đối và biểu tình đòi hỏi phải có thái độ dứt khoát đối với việc đóng quân của Cộng Sản.
                                  Cuối cùng họ tổ chức biểu tình rầm rộ với sự ủng hộ của Sư sãi, sinh viên, quân đội,... đột nhập vào sứ quán Cộng Sản Bắc Việt đập đồ, cướp phá, và nổi lửa thiêu sạch hồ sơ giấy tờ. Sihanouk vận động Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa dùng áp lực buộc VC rút quân, nhưng không thành. Vì thế Lon Nol và Quốc Hội đồng thanh truất phế vị Quốc Trưởng đã điều hành quốc gia nầy hơn 15 năm. Chính vì sự dung dưỡng của Sihanouk bấy giờ, nên Bắc Việt mới xử dụng được đất đai của Campuchia làm căn cứ địa để chuyển vận vũ khí, tập trung lực lượng tổ chức các cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Vì thế chiến trường Tây Ninh trở nên sôi động vào các năm 68,69,70.
                                  Sau khi phản công đẩy lui địch ra khỏi thành phố Sài gòn và vùng Ven Đô, TĐ9ND được chỉ định trấn giữ các trọng điểm trong Sàigòn. Đại đội 91 của tôi đóng ở kho đạn Gò Vấp, Đại đội 94 của anh Tâm trấn giữ khu vực ở kho Năm Khánh Hội. Lúc bấy giờ có một số sĩ quan mới về như Chuẩn úy Tường và Chuẩn úy Phúc làm Trung đội trưởng cho tôi, Lê Mạnh Đường ở ĐĐ90 rồi về ĐĐ92 của Thành Râu. Trạch thuyên chuyển đi Tiểu đoàn 3, Chí “Bệu” đi Tiểu đoàn 6, Bảo bị thương ở vai nên về chỉ huy tân binh ở trại Vương Mộng Hồng.
                                  Các đại đội nghỉ tại đây khoảng nửa tháng thì có tin tức địch đã rút về hướng Tây Ninh, nơi tiếp cận căn cứ địa Trung ương Cục miền Nam (Cục R) của Việt Cộng.
                               
                               a).Trận Đồn Điền Vên Vên
                               
                                 Tiểu Đoàn được về hậu cứ nghỉ một tháng, rồi được xe GMC chở lên Đồn điền cao su Vên Vên để tăng phái cho Quân Đoàn III. Vừa bố trí quân xong, trực thăng chở Tướng Đống và  Tướng Đỗ Cao Trí đáp xuống Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.
                                  Tôi thấy tướng Trí cầm cây “Can” chỉ vào bản đồ hành quân như ban lệnh cho Trung tá Nhã, trong khi tướng Đống đứng kế bên chăm chú lắng tai nghe một cách nghiêm cẩn (Tướng Đống rất tôn trọng vị Cựu Tư lệnh Sư Đoàn Dù cũ của mình). Tướng Trí là một sĩ quan kỳ cựu và tài ba trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông từng lãnh đạo Sư Đoàn Nhảy Dùø và Quân Đoàn III gặt hái nhiều thành quả trong các cuộc hành quân quy mô nổi tiếng. Đặc biệt ông đã cho dùng chiến thuật “Diều Hâu”, lưu động và thần tốc, trong mặt trận vùng Tây Ninh và Căm Bốt rất hữu hiệu. Như trận càn quét địch ở kamPong cham, thay vì điều động cả Chiến đoàn dàn quân trận địa, mới có thể kiểm soát bao quát toàn khu vực, ông chỉ cho 2 đại đội đổ bộ bằng trực thăng đánh mục tiêu nầy, rồi bốc lên bỏ vào khu vực khác.
                                  Suốt ngày đơn vị Dù nầy được trực thăng vận đi khắp tỉnh KamPong Cham, giống như diều hâu đáp xuống xớt cá. Khiến các tổ trú ẩn của Việt Cộng trong địa phận nầy không kịp tránh né, không kịp trở tay, đâu đâu cũng báo cáo bị quân Dù tập kích. Do đó địch bị rối loạn hàng ngũ, bỏ chạy tứ tán, làm mồi cho những khẩu đại liên của các trực thăng võ trang.
                                  Trung tướng Đỗ Cao Trí rất có uy quyền, oai phong của một cấp chỉ huy. Một sáng thứ hai nọ, tôi ôm bản đồ theo Đại tá Nguyễn Khoa Nam vào họp hàng tuần tại Phòng Hành Quân của Biệt Khu Thủ Đô (Lúc đó Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn III đóng ở hãng Khải Vinh, Phú Lâm, trực thuộc Quân Đoàn III đang hành quân vùng Lê Minh Xuân, bảo vệ Vòng Đai Sàigòn). Tướng Trí chủ tọa buổi họp, người thuyết trình đầu tiên là Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô :
                                  - Kính thưa Trung tướng, thưa quí vị, hôm nay tình hình Biệt Khu Thủ đô...
                                  Sau khi thuyết trình xong, Tướng Trí, vẫn ngồi ở ghế bành, miệng ngặm ống điếu, tay cầm cây “Can”, chỉ thị và hỏi nầy nọ, Tướng Minh nghiêm chỉnh trả lời rành mạch, xong tướng Trí khẽ nghiêng đầu (chứ không nhìn thẳng mặt) qua bên viên tướng Cố Vấn Mỹ, chỉ chỉ này nọ. Trong khi tướng Mỹ cung kính chồm người tới vừa gật gật cái đầu như tỏ ý lắng nghe vừa ghi chú lia lịa. Tôi nhìn cảnh đó thấy ông thật là oai phong chẳng những với người mình mà cả luôn người Mỹ nữa. Tới phiên Đại tá Nam, tôi vội đem bản đồ treo lên bảng, trong khi ông thuyết trình, thì tôi lấy que chỉ theo trên khu vực hành quân của Lữ đoàn. Tôi cố gắng giữ cho đừng khớp vì trong phòng thuyết trình toàn là tướng, tá, chỉ có mình tôi là cấp đại úy nhỏ nhất!
                                  Tướng Trí sau nầy bị tử nạn trực thăng tại phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Cái chết của ông có nhiều nghi vấn, vì ông chủ trương đánh chiếm Căm Bốt, điều nầy trái với ý của người Mỹ. Họ cho ông quá hiếu chiến, trong khi đó với chiến thuật diều hâu của ông, chỉ cần dùng sư đoàn Dù và TQLC trong một tháng là có thể chiếm được toàn cõi Căm Bốt. Vì ông tức giận họ đã để cho Việt Cộng làm căn cứ an toàn trên đất Khmer, từ đó chúng đưa quân vào phá hoại Miền Nam VN.
                                  Trở lại trận đánh ở đồn điền cao su Vên Vên, Trà Võ. Tiểu đoàn vừa đóng quân xong, ngay đêm đó địch đã pháo kích nhiều quả vào đơn vị, như thách thức đoàn quân Dù. Sáng hôm sau, Đại Đội 91 được chỉ định đi “Tùng thiết” làm mũi dùi tấn công, mục tiêu là một ngôi làng bỏ hoang, chính nơi đây đêm qua địch đã đặt hỏa tiễn 122 ly và súng cối pháo vào vị trí đóng quân của tiểu đoàn. Khi gần tới bờ làng thì bị địch quân bắn ra ào ạt, chúng tôi nhảy nhanh khỏi Thiết vận Xa M-113 tìm các mô đất hoặc dựa theo chiến xa bắn trả lại. Các xạ thủ đại liên trên M-113 bắn quạt vào mục tiêu; sĩ quan tiền sát lập tức điều chỉnh pháo binh; Cố Vấn Mỹ gọi Khu trục và gunship tới bắn dập vào mục tiêu. Sau khi hỏa lực yểm trợ vừa ngưng, chúng tôi cùng chiến xa vừa bắn vừa chạy ào vô mục tiêu. Nhưng có lẽ địch đã kịp thời bổ sung toán trừ bị trám vào chỗ giao thông hào đã bị pháo dập, nên họ vẫn tiếp tục bắn trả mạnh mẽ, khiến chúng tôi phải khựng lại.
                                  Bỗng một chiếc M-113 bị B-40 địch bắn đứt dây xích, tôi đưa Trung đội 2 của Phấn tới bắn yểm trợ cho xạ thủ và tài xế nhảy ra khỏi xe. Địch thật kiên trì, chúng tôi phải dùng mọi hỏa lực yểm trợ mà họ vẫn chưa chịu chém vè. Đánh nhau tới trời ngả bóng, chúng mới lợi dụng đêm tối di tản thương binh và rút lui dưới những loạt mưa pháo bắn rải truy kích của pháo đội Dù. Đêm đó Thiếu úy Phấn la chí choé vì Trung đội anh nằm giữ chiến xa đứt xích, bị pháo cận phòng của ta bắn gần quá, sợ các mảnh văng trúng nguy hiểm cho binh sĩ!
                                  Sáng ra Đại đội tôi thận trọng tiến vào mục tiêu, thấy hầm hố kiên cố của địch thật nhiều! Các lò Hoàng cầm, chõng tre, và những giao thông hào có nắp che, chứng tỏ địch ở đây nhiều cỡ cấp tiểu đoàn, thảo nào hôm qua chúng có đại bác bắn đứt dây xích và coi thường chi đoàn thiết vận xa. Nếu không có hỏa lực hùng hậu của phi pháo thì TĐ9ND với chi đoàn Thiết vận xa phải trầy da tróc vảy và  chưa chắc đã đánh bật được địch ra khỏi những hầm hố quá kiên cố nầy. Sau khi lục soát, chúng tôi tịch thu được một số vũ khí và đạn dược do địch lo chém vè thủ thân nên không kịp thu lượm tàn cuộc.
                                  Tiểu đoàn phân bố lục soát xong dừng quân tại đây một đêm. Sáng hôm sau, Thiếu tá Bảo chỉ huy hai Đại đội 91 Dù và Đại đội 92 Dù đi cánh phải, thành phần còn lại do Trung tá Nhã chỉ huy đi cánh trái. Tất cả tiến về các mục tiêu đã chỉ định, nơi nghi ngờ địch đã rút quân về đó. Đại đội 92 của anh Thành đi đầu được khoảng hai cây số đường rừng cao su thì chạm địch lẻ tẻ, Thiếu tá Bảo điều động Đại đội tôi lên chận cánh phải để hốt các tên tẩu thoát do Thành phá ổ.
                                  Bên cánh trái của Trung tá Tiểu đoàn trưởng cũng gặp nhiều chốt cầm chân, có lẽ để cho chủ lực quân của địch kịp thời rút sâu về mật khu an toàn. Họ không ngờ quân Dù của chúng ta dám đuổi chúng tới cùng đường như vậy. Từ lâu nay họ làm chủ khu vực nầy, gây khó dể cho các cuộc hành quân của SĐ25BB, ĐPQ, và Dân Vệ các xã xung quanh.
                                  Đây là lần đầu tiên chạm trán với hỏa lực mạnh và đơn vị thiện chiến, khiến Cộng quân hoang mang, chưa đánh đã lo chạy. Các chốt địch lần lượt được bứng sạch. Tiểu đoàn tiếp tục bung rộng, rồi đóng đồn lập căn cứ, tổ chức các cuộc hành quân tuần thám, đột kích cấp đại đội vào trong những nơi gọi là mật khu an toàn của địch. Các đơn vị chỉ chạm lẻ tẻ, địch thấy chúng tôi ở lì trong vùng nầy nên quyết định bỏ đi. Đem quân về ẩn trú tại mật khu Bời Lời và Dương Minh Châu.
                                  Tiểu đoàn bàn giao khu vực nầy lại cho Địa Phương quân trấn giữ, chúng tôi được đưa vào thị trấn Tây Ninh nghỉ xả hơi, tại đây tôi và các bạn đi tham quan Toà thánh Cao Đài ở trong khu vực chợ Long Hoa. Các Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, được xây cất hết sức uy nghi tráng lệ. Tôi thấy các tín đồ Cao Đài thờ cả Phật lẫn Chúa, cùng Văn Hào Victor Hugo, và Giáo chủ của họ là Đức Ông Phạm Công Tắc. Họ cũng đặt ra những chức sắc như Lễ Sanh, Thượng Sanh,...
                                  Từ chợ Long Hoa, họ có mở con đường rất rộng hướng về Nam Vang, nơi Giáo Chủ Phạm Công Tắc đã từng sống lưu vong. Chúng tôi đi tới núi Bà Đen, tại đây có lăng mộ của tướng Cao Đài nổi danh thời TT Ngô Đình Diệm, ông đã bị bắn chết tại giữa cầu bắc ngang qua Khánh Hội, mà sau nầy đặt tên cầu Trịnh Minh Thế.
                               
                              b). Trong Mật Khu Bời Lời
                               
                                 Nghỉ dưỡng quân một tuần lễ, Tiểu đoàn được trực thăng vận vào mật khu Bời Lời, nằm khu vực phía Đông Nam Thị xã Tây Ninh. Đại đội tôi vừa nhảy khỏi máy bay đã bị địch từ trong chòm cây bắn vài tràng AK, một binh sĩ bị trúng đạn tử thương ngay tại chỗ. Cả đơn vị lập tức vừa hô “Xung phong” vừa bắn và chạy vào bờ rừng, khiến địch sợ hãi, trở tay không kịp, kẻ lo chém vè, người nào chần chờ thì giơ tay đầu hàng.
                                  Bây giờ mới lo kiểm điểm lại đơn vị, thì thấy có một tử trận và 5 binh sĩ bị thương. Y tá đại đội băng bó vết thương, tất cả được trực thăng di tản về bệnh viện Đỗ Vinh ở hậu cứ Hoàng Hoa Thám. Chúng tôi tiếp tục tiến sâu vào mục tiêu, khám phá rất nhiều hầm hố kiên cố, trong đó có Trung Tâm Hành Quân rộng lớn và nằm sâu dưới mặt đất. Đây là nhờ trực thăng đổ bộ chớp nhoáng, nên địch không kịp ra giao thông hào nghênh chiến, chỉ có những tên lính gác và các tên ở gần hướng bãi đổ quân chống trả yếu ớt, do đó chúng tôi chỉ bị tổn thất nhẹ và chiếm được mục tiêu mà không cần phi pháo yểm trợ (chúng tôi lúc đó giống như những con chim diều hâu nhào xuống từ trực thăng để chụp bắt những con cá đang bơi lơ đễnh).
                                  Sau khi thu dọn chiến trường, trực thăng lại đáp xuống bốc chúng tôi thả xuống một khu rừng khác, cách đấy 5 cây số về hướng Bắc. Vì phi cơ quan sát L-19 thấy địch đã chạy về chòm rừng nầy. Lợi dụng địch chưa kịp đào hầm hố, tiểu đoàn cho phi pháo dập trước, rồi nhào trực thăng xuống hốt thêm một mớ. “Chiến thuật Diều hâu” tuy rất mệt nhưng kết quả vô cùng khả quan, địch không kịp trở tay và ta đỡ tốn hao sinh mạng, mà vẫn thu hái được nhiều thành quả không ngờ.
                                  Bốc chỗ nọ, thả xuống chỗ kia, làm suốt một tuần thì mật khu rộng lớn nầy coi như bị các đơn vị Dù cày nát. Tiểu đoàn lại được đưa về Thị Xã dưỡng quân và nhận tiếp tế lương thực, đạn dược, bổ sung quân số, để chuẩn bị cho cuộc hành quân diều hâu kế tiếp vào một mật khu khác. Ra thị xã kỳ nầy, lúc rảnh rỗi chúng tôi thường ra chợ ăn hủ tiếu gà ở Quán Cây Me, đường đi lên Thiện Ngôn. Hủ tiếu tại đây không thua gì phở gà Hiền Vương ở Tân Định. Đặc biệt họ đựng hủ tiếu trong những tô to lớn và thịt gà thật nhiều, nước lèo rất ngon.
                                  Sau đó tiểu đoàn được xe chở vào Quận Khiêm Hạnh, nằm ở hướng Đông Nam của Tỉnh lỵ. Tại đây mỗi ngày các đại đội thay phiên nhau vô tuần tiểu lục soát tại các khu rừng xung quanh quận lỵ, thỉnh thoảng thọc sâu vào mật khu Bời Lời coi chúng có còn dám trở lại lập căn cứ để đưa quân vào phá quấy quận Khiêm Hạnh như trước kia không?
                               
                              C). Hành Quân Tại Mật Khu Dương Minh Châu
                               
                                  Tại quận Khiêm Hạnh khoảng nửa tháng, Chúng tôi được về Sàigòn nghỉ xả trại một tuần, các sĩ quan vẫn được mời ăn ở nhà hàng Bồng Lai như thường lệ.
                                  Một hôm tôi rủ anh Bảo, Thành, Tâm, Phước, và bác sĩ Thiện vào nhà Chế Ký, chị họ của bà xã, nhà ở gần cầu Chà Và; để cho anh Sây, chồng chế Ký, trổ tài nấu các món ăn tàu với bào ngư, vi cá, và nấm đông cô ngon chẳng thua gì ở nhà hàng. Anh Thành, anh Bảo thích nhất là cách uống trà tàu đặc biệt của anh Sây. Những chun nhỏ, trước khi châm trà, được anh dùng nước sôi tráng nóng. Trà đựng đầy trong một ấm bằng đất đỏ (giống như chun), dùng nước sôi tráng bỏ nước đầu, rồi mới rót vào chun còn nóng, mọi người cầm lên ngửi thấy mùi trà thơm rất đặc biệt (khác với trà ướp Sói Lâm Đồng). Khi mỗi người uống chừng ba chun thì cảm thấy bụng nhẹ nhàng vì đồ ăn dầu mỡ đã bị tiêu hoá hết. Anh Tâm, anh Thiện khoái chí cứ cười mím chi cọp hoài!   
                                  Nghỉ tại hậu cứ 1 tháng, tiểu đoàn nhận lệnh ra hành quân tuần tiểu tại vùng Ven Đô, nhằm ngăn ngừa địch xâm nhập phá rối Thủ Đô. Giống như lần trước, khu vực trách nhiệm là Ấp Đồn, Nhị Bình, Tân Thới Nhứt,...thuộc quận Hốc Môn.
                                  Tại đây chỉ có một chuyện đáng nói là đêm hôm nọ khi Trung sĩ Ký đi gọi Binh nhứt Đông thức dậy để canh gác. Khinh binh Đông hôm qua mới lãnh lương, đã cùng với Trung sĩ Trình đi nhậu, vì trong người còn hơi men, nên Đông đưa súng bắn dọa mấy loạt, làm cả đại đội tưởng bị địch tấn công, vội nhào ra hố chiến đấu. Đây không phải là lần đầu, ĐĐ91 nầy cách nay mấy tháng, lúc còn đóng quân ở An Lỗ, Huế. Trung sĩ Trình đã uống say rồi nổ súng bắn dọa vào hướng lều ngủ của vị Đại đội Trưởng tiền nhiệm.
                                  Trình nguyên là họa sĩ, tốt nghiệp trường Mỹ Nghệ, anh là người thông minh, tài giỏi. Nhưng tánh tình rất đặc biệt, hễ mỗi lần lãnh lương là rủ anh em đi nhậu cho sạch hết tiền ngay hôm đó, vì chịu chơi nên anh em trong đại đội rất thích Trình. Do một sự hiểu lầm trong cái chết của Binh nhứt Kỳ, khi đi hành quân vùng rừng núi Trường Sơn, Trình quy trách nhiệm cho đại đội trưởng, nên trong cơn say nghĩ đến bạn Kỳ, anh ria súng bắn bậy. Do đó tôi mới cấp tốc đổi về nhận chức vụ nầy.
                                  Vì sợ kỷ luật bị lỏng lẻo, tôi quyết định thử bắt chước dùng biện pháp kiểu như “Cây gậy và củ cà rốt”. Tôi bảo Thượng sĩ Thường Vụ đại đội, sáng hôm sau đem khinh binh Đông treo giữa sân rồi cho Trung sĩ Ký lấy roi đánh, trước đó tôi có dặn Ký đưa roi cao nhưng đánh nhẹ và vừa đánh vừa xin tha cho Đông, còn tôi thì giả bộ lớn tiếng đòi đưa khinh binh Đông ra Toà án Quân sự. Đông, Trình và binh sĩ trong đại đội thấy tôi là người nổi tiếng thương lính, mà hôm nay lại giận dữ như vậy. Trình đích thân vào xin tha cho Đông và hứa sẽ bảo chúng nó không được bắn bậy nữa. Tôi hỏi :
                                  - Còn Đông, có hứa không?
                                  Đông gật đầu lia lịa:
                                  - Em xin hứa, Trung úy !
                                  Sau đó, Trình được người biết thưởng thức tài, đại đội thường giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng. Anh thấy tôi biết dùng người, nên hăng hái làm việc, và để làm gương tốt, Trình không còn say rượu và la cà các quán trong những ngày lãnh lương nữa. Từ đó Đại đội 91 Nhảy Dù trở nên thái bình, Đông là một khinh binh rất giỏi và can đảm.
                                   Ngựa chứng nếu biết điều khiển sẽ trở thành ngựa giỏi, Trình chẳng những thông minh, nhanh lẹ, có nhiều tài xuất chúng, và rất dũng cảm khi lâm trận. Lúc về hậu cứ, còn giúp bạn anh là Trung sĩ Dậu lo trang trí lại văn phòng đại đội, thật ngăn nắp và mỹ thuật. Nhơn dịp được ăn Tết đầu tiên ở hậu cứ, Trình (không phải tên thật, anh hiện là họa sĩ kiêm văn sĩ nổi tiếng ở Mỹ) lấy giỏ đựng dưa hấu và giấy màu dán thành một đầu lân đẹp không thua gì lân mua ở Chợ Lớn.
                                  Vào những ngày đầu năm, anh cùng các binh sĩ trong đại đội đem lân ra múa tại chợ Bà Quẹo, chợ Tân Việt, và ngay cả nhà tôi nữa. Có được tiền, anh và Dậu ra nhà hàng Thanh Bạch đặt trên 150 khẩu phần, (mỗi hộp có nửa con gà Rôti, bánh Baté Sô, bánh mì Sanwich kèm thịt ham và cheese bên trong), cùng trái cây tráng miệng. Anh cho treo đèn, kết bông giấy tổ chức “Đêm Màu Hồng” dã chiến, mời quan khách gồm Trung tá Nhã, Thiếu tá Bảo, Đại úy Thành, Trung úy Phước, anh chị Tâm, và các sĩ quan cùng đến chung vui với quân nhân trong Đại đội 91 Nhảy Dù.
                                  Mỗi binh sĩ có một hộp Coca, và một hộp khẩu phần bảo đảm ăn no. Ngoài ra còn có văn nghệ “Lính hát cho lính nghe” nữa chứ. Hôm đó nhìn thấy mọi người đều vui vẻ, sau khi cụng với anh Tâm, Thành, và Phước được vài ly Martell, tôi nổi hứng cùng Trình tới Micro song ca bài “Tình Nhớ”. Chị Tâm là ca sĩ giỏi nghe hát cứ ôm bụng cười:
                                  - Ối giời ơi! Anh Dưỡng mà cũng biết hát nữa kìa!
                                  Mọi người đều cười khoái chí, các anh em trong đại đội vỗ tay tán thưởng, khuyến khích, thật là vui quá vui! Đông là người xứ Huế lên trình diễn hai bài ca mà Duy Khánh thường hát ở Đài Phát Thanh Sàigòn nghe cũng hơi giống ca sĩ thứ thiệt! Lần đầu tiên Tiểu Đoàn 9 được ăn Tết tại hậu cứ, các anh em trong đại đội thật vui. Phước cũng bắt chước dựng cây nêu cao như của chúng tôi và cũng tổ chức tiệc tân niên có mời quan khách đầy đủ đến Đại Đội 93 của anh.
                                  Phước người xứ Huế mà tánh tình rất hào phóng, tốt bụng, và rộng rãi. Mỗi lần nghỉ quân ở một làng xã nào, anh thường gọi máy rủ Tâm, Thành, và tôi tới nhậu dã chiến tại chỗ đóng quân của anh. Chúng tôi hay thay phiên hễ ai có món gì thì hú nhau qua lại, để giải sầu trong lúc xa nhà.
                                  Phước là bạn thân của ca sĩ Nhật Trường, hôm sinh nhựt của chị Trường, Phước rủ tôi và anh Tâm tới dự tiệc gia đình, nhậu xong Nhật Trường nhét vào túi Phước 5 ngàn để có tiền dằn túi, đi chơi vòng vòng.
                                   Chúng tôi cũng có đến nhà hàng Ritz để nghe Nhật Trường và Jo Marcel. Khi hát xong, Trường xuống bàn cụng ly, và anh mời chúng tôi đến dự lễ khai trương tiệm bán nhạc “Tiếng Hát Đôi Mươi” tại đường Lê Lợi.
                                  Giống như anh Tâm, Phước cũng rất đẹp trai, hào hoa phong nhã. Hôm dự đám cưới, mọi người đều khen hai vợ chồng thật xứng đôi vừa lứa, trai tài gái sắc, nhưng trớ trêu thay không đầy một tháng sau họ lại tan rã! Tình duyên của Phước, giống như cuộc đời của anh, thật là ngắn ngủi! Anh đã bị hy sinh tại chiến trường Tây Ninh vào năm 1970. Anh Lạc, Phúc và tôi có đến chùa Xá Lợi tiễn đưa Phước ra phi trường Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đích thân khiêng linh cữu tới tận phi cơ để chào vĩnh biệt anh, một người bạn tốt, dễ thương! Anh ra đi để lại bao nhiêu tiếc thương cho bạn bè Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù.
                                  Sau ngày mất nước, tôi bị thương tật nằm nhà, Trình, lúc đó là họa sĩ giỏi, cổ thắt cà vạt tay sách cập da, cùng Thượng Sĩ Dậu, cựu kế toán trưởng Đại đội 91, đã đến thăm tôi, thật là an ủi vô cùng.
                                  Ở đây được vài tuần, tiểu đoàn trở lại thị xã Tây Ninh, chờ nhận lương thực sẽ được trực thăng vận vào mật khu Dương Minh Châu, còn gọi là Chiến khu C. Địch quân thường đưa quân từ căn cứ an toàn thuộc khu Mỏ Vẹt bên kia biên giới Căm Bốt, xâm nhập vào lãnh thổ nước ta. Họ đặt bản doanh tại đây, rồi tung quân qua Tây Ninh, Lộc Ninh, Bình Dương,...
                                   Mục tiêu cuối cùng của họ là Thủ Đô Sàigòn. Tin tức tình báo cho biết, hai hôm trước, địch đã từ vùng Mỏ Vẹt tiến quân qua Mật khu Dương minh Châu. Vì thế TĐ9ND được đổ bộ vào đây để truy lùng địch.
                                  Khi chúng tôi tới nơi, bố trí lục soát khắp khu rừng rậm, chỉ thấy dấu vết hầm hố, chứ không gặp sự kháng cự nào của địch. Rừng Dương minh Châu rất rậm, có nhiều muỗi và vắt. Những con vắt tại đây cũng nhiều và to như ở Dakto và Mã Lai! Rừng rậm nhiều gai gốc làm cản trở cuộc tiến quân. Di chuyển tới 7 giờ tối mà vẫn chưa được lệnh dừng quân, đi được thêm nửa giờ, chúng tôi bị chận ngang bởi con suối nước sâu ngập đầu, bề ngang gần 2 thước, binh sĩ vượt qua thật vất vả. Vài ba người bị rớt mất súng và ai nấy đều bị ướt như chuột lột.
                                  Mãi tới 9 giờ đêm, tiểu đoàn mới cho lệnh đóng quân. Tôi chia chỗ cho các trung đội bố trí xong, lập tức trèo lên võng thay bộ đồ khô, kéo vớ cao, xịt thuốc muỗi ở bàn tay, lấy mũ lưới trùm đầu, đợi Hạ sĩ Năm đem chén cơm ngụi tới ăn, thì đồng hồ cũng chỉ 11 giờ khuya, thật là một ngày đầy vất vả! Bảy giờ sáng hôm sau, trong khi tôi lên bộ chỉ huy tiểu đoàn họp để nhận lệnh trong ngày, thì binh sĩ lo nấu nướng, dọn dẹp lều chõng, sẵn sàng xuất phát vào 7:30. Đại đội tôi được chỉ định đi đầu, tìm cách ra khỏi rừng, để về phía Tây sông Vàm Cỏ, vì tin tức cho biết địch đã chuyển về hướng nầy.
                                  Đại đội 91 đi được 2 cây số thì anh thợ hớt tóc bắt được một con kỳ đà khổng lồ dài khoảng 1 thước, Trung tá Nhã nghe tin, gọi tôi bảo anh ta thả nó ra, vì đi hành quân mà gặp con đỏ (mãng) hoặc kỳ đà thì xui lắm.
                                   Anh thợ hớt tóc của đại đội không chịu nghe lệnh, lén dấu kín chờ chiều làm thịt, để có một buổi ăn ngon. Nhưng nghe nói nó cũng đã cựa quậy sút dây và nhảy trốn vào rừng. Đi tới trưa gặp được đường lớn, nối giữa Tây Ninh và Lộc Ninh, nơi đây có xe chờ sẵn, chúng tôi được đưa qua bên kia sông Vàm Cỏ, vì phi cơ quan sát thấy có địch xuất hiện trong vùng nầy.
                                  Vừa qua sông, đi về hướng Nam khoảng 800 thước, đại đội tôi đi đầu và chạm địch mạnh, Thiếu tá Bảo vội đưa Đại đội 92 tiến về hướng Tây để giúp bên cánh phải. Anh Bảo đi sát bên tôi (đại đội nào chạm địch là lập tức anh Bảo tới ngay tuyến đầu liền), phụ báo cáo tình hình về tiểu đoàn. Tôi điều động các trung đội nghênh địch và lo điều chỉnh phi pháo bắn yểm trợ. Lực lượng địch rất mạnh, chúng có phòng không bắn lên máy bay và nả súng cối, hỏa tiễn liên tục vào đơn vị tôi. Vì địa thế hiểm trở và địch bắn trả rất mạnh, các khinh binh không thể xung phong lên chiếm bờ rừng, làm đầu cầu cho đơn vị tiến qua khoảng trống để xông vào mục tiêu, chúng tôi chỉ có phi pháo bắn phủ đầu, để mong địch chịu đựng không nổi, mà rời bỏ địa đạo. Lúc đó Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo đang ngồi cách tôi khoảng 20 thước, đột nhiên anh đứng dậy tới chỗ tôi, thì bỗng nghe “Ầm” một tiếng, một quả đạn súng cối (hoặc đạn pháo) rơi đúng ngay chỗ anh vừa ngồi, nhìn thấy anh nhún vai lắc đầu hàm ý như may mắn quá!
                                 Nếu anh trễ chừng 30 giây thì đâu có dịp sau nầy về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, gặt hái nhiều chiến thắng làm vẻ vang Binh Chủng. Nhưng cuối cùng anh đã nằm xuống tại căn cứ Charlie, để lại bao nhiêu thương tiếc cho gia đình, bạn bè đã nhiều phen cùng anh vào sanh ra tử, đồng cam cộng khổ như anh em chúng tôi!  
                                 Chiều đến, bỗng nhiên như quỷ thần xui giục, anh thợ hớt tóc nhào lên, vừa bắn vừa hô xung phong chạy ào qua bên kia khoảng đất trống, khiến anh em không ngăn cản kịp. Lập tức anh bị địch bắt trói tại chỗ, đêm đến hai bên đều ngồi dưới hố chiến đấu ghìm nhau, trong khi pháo binh ta liên tục dập đều đặn vào vị trí địch. Từ 8 giờ tới 12 giờ khuya, anh thợ hớt tóc của đại đội cứ kêu cầu cứu, tiếng anh văng vẳng trong đêm tối, nghe thật ai oán, bi thảm vô cùng!
                                  Nhiều khi tôi cầm lòng không được, muốn liều mạng chạy qua tiếp cứu, nhưng anh Bảo nói tụi nó đã gài sẵn đợi mình trúng kế, tới 1 giờ khuya không còn nghe tiếng anh nữa. Có một binh sĩ bắt được đài VC, nghe chúng bêu rêu phóng đại láo khoét rằng đã tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn Dù mang số 9 (có lẽ chúng khai thác anh thợ hớt tóc, làm gia đình binh sĩ ở hậu cứ sợ hết hồn). Suốt đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì vô dụng và bất lực không cứu được thuộc cấp của mình!
                                  Sáng lại binh sĩ thụt đại bác 75 ly và bắn đại liên, rồi tôi cho ba khinh binh chọc mũi dùi vào một bờ rừng, thấy không phản ứng, hạ sĩ Võ vội nhào vô một gốc cây, trong bờ rừng, trông ngóng kỹ không có gì động tĩnh, lúc đó cả trung đội của Tường mới bắt đầu xung phong vừa bắn vừa tiến vào mục tiêu. Khi toàn bộ đại đội vào xong, tôi nhìn thấy hầm hố kiên cố của họ mà rợn xương sống, nếu không có pháo binh bắn đuổi và nếu họ không “Nể mặt” binh chủng Nhảy Dù thiện chiến, thì tôi nghĩ, muốn chiếm được mục tiêu nầy phải chịu tổn thất rất nhiều. Trung tá Nhã tới nơi thấy chúng cất nhà sàn, xây địa đạo chằng chịt, hầm chỉ huy hành quân rộng lớn, địch lại có súng phòng không và hỏa tiễn, chứng tỏ quân số cỡ cấp trung đoàn.
                                  Không biết tiểu đoàn báo cáo ra sao, mà chiều hôm đó Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, đáp trực thăng xuống coi các hầm hố, địa đạo, và lò hoàng cầm (lò nấu cơm không bị khói bay mù mịt như lò thường) của địch nữa. Ông cho lệnh chúng tôi theo dấu chân để truy sát địch. Tiểu đoàn đặt bản doanh tại Bến Gò Nổi và cho các đại đội tổ chức hành quân tuần tiểu lục soát, nếu phát hiện địch thì cho phi pháo dập và tiểu đoàn sẽ đưa trừ bị tới tiếp ứng kịp thời. Đóng đồn ở đây hơn một tháng thì được Tiểu đoàn Dù bạn ra thay thế, chúng tôi được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân.
                               
                              d). Giải vây trại Bến Sỏi
                               
                                  Về tới Sàigòn, Đại úy Vị, vừa chuyển đến tiểu đoàn mấy tháng, nay lại đổi đi làm Liên đoàn trưởng Địa phương quân. Tôi nói anh bán lại miếng đất ở Cổng C, do Sư Đoàn cấp cho những sĩ quan thâm niên trên 10 năm. Anh Vị bảo:
                                  __ Bán gì, mầy dẫn tụi tao đi nhậu một chầu là xong.
                                  Thế là ngay trong buổi chiều hôm đó, chúng tôi (Bảo, Tâm, Thành, Phước, Vị, Dưỡng,..) đưa nhau ra Chợ Cũ, vào quán Nam Việt, thưởng thức món Dê Hà Nàm. Ăn xong, tất cả kéo đi tắm hơi tại đường Bùi Hữu Nghĩa, Chợ Lớn.
                                  Ở hậu cứ được một tháng, tiểu đoàn lại di chuyển lên Tây Ninh (Sư đoàn Dù lúc đó có 8 Tiểu Đoàn tác chiến và ba Tiểu đoàn Pháo binh, sau nầy có thêm TĐ11ND, và 3 đại đội Trinh Sát. Cuối cùng còn thành lập cấp tốc thêm Lữ đoàn IV. Các đơn vị thay phiên nhau ra vùng I, Vùng II, và Vùng III, thường cứ đi hành quân 2 tháng thì về Sàigòn 1, 2 tháng tùy theo tình hình). Mấy ngày nay địch tung quân tấn công và bao vây trại Lực lượng Đặc Biệt Bến Sỏi. Tiểu Đoàn 8 Dù của Trung tá Thọ (người sau nầy bị bắt tại căn cứ 31 ở Hạ Lào), hôm qua vừa đổ bộ trực thăng xuống tiếp viện, thì địch phục kích sẵn tại bãi đáp, và bị tổn thất nặng (trên 100 vừa chết và bị thương!).
                                  Chúng tôi được lịnh cấp tốc nhảy vào tiếp ứng Tiểu đoàn 8, và giải vây trại bến Sỏi. Bãi đổ trực thăng là đồng trống (bãi đổ của Tiểu đoàn 8 xung quanh toàn lau sậy), ở mặt phía Tây chòm nhà thuộc khu Bến Sỏi. ĐĐ 91 nhảy xuống đầu tiên, vừa rời khỏi trực thăng chúng tôi đồng loạt hô xung phong, vừa bắn vừa chạy vào làng (dân chúng đã bỏ nhà khi địch đến). Thật may, không có ai thủ mặt nầy, chúng đang bận cầm cự với Tiểu Đoàn 8 ở mặt phía Đông, sát bờ sông Vàm Cỏ, và một số đang bám vào xung quanh trại Bến Sỏi.
                                  Địch quân không ngờ chúng tôi được điều động tăng viện nhanh như vậy, nên thu dọn rút chạy. Các Trung đội tiếp tục tiến nhanh về hướng trại lính, chúng tôi truy quét xung quanh, thấy có những nồi cơm còn đang nấu chưa chín. Tới cạnh bờ Tây Bắc của Trại thì gặp địch kháng cự, binh sĩ dùng hỏa lực hùng hậu bắn trả. Thấy tiếng súng địch thưa thớt, Tường, Phấn, Trọng, và Trứ cho từng tổ bắn yểm trợ, chiếm từng nhà một, vì trong làng khó đánh, cần cẩn thận tối đa để tránh thương vong.
                                  Mãi tới chiều mới bắt tay được với anh em Biệt Kích trong trại Bến Sỏi, tôi thấy anh Trưởng Trại đang ngồi ngã ngửa trên ghế cao coi chúng tôi đánh giặc. Có lẽ vì trại quá kiên cố và thường bị bao vây, lúc nào cũng có các đơn vị Nhảy Dù thiện chiến đến cứu thì làm sao anh ta chẳng yên tâm được. Sau khi bắt tay xong, chúng tôi chuẩn bị kiếm chút gì bỏ bụng, bây giờ mới biết đói. Cả ngày cứ lo đánh giặc đâu nghĩ tới bao tử còn trống rỗng. Nhưng vì lệnh tiếp viện khẩn cấp (cứu binh như cứu lửa), binh sĩ đâu kịp nhận tiếp tế lương thực, may còn có nồi cháo trắng của địch, Hạ sĩ Năm nhanh tay múc cho tôi một chén cháo của VC để lại, binh sĩ cũng lục lạo kiếm gì bỏ bụng cho qua đêm nay, vì ngày mai sẽ có tiếp tế.
                                  Đang chuẩn bị cởi giày nằm nghỉ, thì tiểu đoàn lại truyền lệnh chuẩn bị di chuyển đêm. Lúc đó vào khoảng 11 giờ khuya, tất cả bắt đầu xuất phát, Đại đội tôi được lệnh dẫn đầu (lại đi đầu, giữa đêm khuya dễ bị phục kích, nguy hiểm lắm!  Không biết tại Đại đội mang số 1 hay tại tôi có khả năng địa hình?). Tôi tức giận vì cả ngày đánh nhau mệt mỏi và đói meo do chưa kịp tiếp tế, chỉ một chén cháo mà thấm vào đâu, nếu địch bỏ độc vào cháo thì kẹt rồi (vì thấy lửa còn đang cháy dưới nồi, chắc họ không kịp bỏ độc, nếu có thuốc)! Định nằm ngủ cho quên đói, bây giờ lại phải đi đêm khuya, vào chỗ vô cùng nguy hiểm, nơi Tiểu Đoàn 8 vừa bị địch độn thổ phục kích trong bãi sậy hôm qua! Tôi cho Trung đội 1 của Tường đi đầu, vì khinh binh Võ rất giỏi địa bàn, anh sẽ dùng vạch lân tinh để định hướng đêm. Tôi phải lên đi kế bên Võ để kiểm soát phụ hướng đi, chúng tôi đi quẹo qua lại theo đồng trống, không dám vô sát bìa rừng, sợ địch phục quân ở trong đó. Anh Bảo đi mút đàng sau, cứ gọi máy hỏi nầy nọ, tôi chỉ bấm ống liên hợp hoặc thổi gió như để trả lời. Suốt 2 tiếng đồng hồ, chúng tôi đi trong lặng lẽ, sợ gây tiếng động, lỡ bị địch biết rồi từ hai bên rừng cây bắn ra thì thật là nguy hiểm.
                                  Lúc nầy ai nấy đều quá kiệt sức, chỉ cần một trung đội địch, là có thể làm điêu đứng cả tiểu đoàn quá uể oải nầy rồi! Sau khi băng qua con suối, thì đồng hồ đã chỉ 4 giờ sáng, nơi đây cách mục tiêu khoảng 1 cây số, có lẽ Tiểu đoàn trưởng cũng đã quá đừ, nên cho lệnh dừng quân. Tôi mệt quá không thèm nghĩ đến bố trí phòng thủ hay canh gác gì hết, nằm đại xuống đất ngủ một cách say sưa.
                                  Vừa chợp mắt chưa được 15 phút, bỗng nghe tiếng súng nổ dưới bờ suối, thì ra Thượng sĩ Sơn Bum đã dẫn toán An ninh xuống lấy nước và gặp mấy tên VC cũng đang tới bờ suối, hai bên đụng nhau, anh Bum lấy được vài cây súng địch, có lẽ tại địch không may, bất ngờ gặp phải vị thượng sĩ già, kinh nghiệm từ chiến trường Điện Biên ngoài Bắc.
                                  Đến 7 giờ sáng (nếu ở nhà thì chắc ngủ bù tới trưa) tiểu đoàn chuẩn bị đi tiếp ra hướng Bến Gò Nổi, Đại đội tôi bọc hậu, đi tới xế chiều, Trung tá Nhã gọi tôi qua máy truyền tin:
                                  - Duy Tân đây Sơn Thủy!
                                  - Duy Tân tôi nghe Đích thân.
                                  - Tôi để dành cho anh nón sắt nước ở trên miệng giếng.
                                  - Duy Tân nhận rõ, cám ơn đích thân.
                                  Đi được một đoạn đường, thấy cái giếng, bên trên có một nón nhựa, tôi mừng quá thầm cám ơn vị Tiểu đoàn trưởng tốt bụng; biết tôi bị khát nước từ đêm qua tới giờ, vội chạy tới giếng, định bưng nón nhựa lên uống thì giựt mình khựng lại, vì ở trong đó là nước sình đục ngầu; nhìn xuống giếng thì toàn đất sình không!  Nhưng khát quá nên cũng hớp đại, binh sĩ mỗi người uống một hớp đỡ khát. Có người lấy nước dưới hố bom, khi uống xong nhìn kỹ thấy có xác chết sình ở sâu dưới đáy, nên ói ra mật xanh mà cũng còn thấy gớm.
                                  Tới 4 giờ chiều thì đến bến Gò Nổi, Trung sĩ Phượng chở tiếp tế bằng tàu thủy. Đặc biệt kỳ nầy mỗi đại đội được một cây nước đá, lúc đang khát mà ngậm được cục nước đá thì thật là mát thấu ruột gan. Sau khi nhận tiếp tế và các binh sĩ nấu ăn xong, Đại đội 91 qua nằm tiền đồn bên kia con rạch nhỏ, phía Bắc và cách bộ chỉ huy Tiểu đoàn khoảng 2 cây số, ĐĐ92ND thì nằm tiền đồn hướng Tây, ĐĐ93ND ở hướng Nam, ĐĐ90ND, và ĐĐ94ND thì đóng tại bến Gò Nổi .
                                  Vị trí đóng quân của tôi là một đám rừng rậm, gần chỗ Tiểu đoàn 8 Dù bị phục kích hôm qua. Vì đây là nơi hung hiểm, nên tôi đích thân phân chia phòng thủ, kiểm soát các vị trí đại liên, dặn các trung đội gài mìn claymore, mìn chiếu sáng, và bẫy lựu đạn. Rồi cùng với sĩ quan tiền sát điều chỉnh các hỏa tập cận phòng.
                                  Đang bận rộn thì viên Trung úy cố vấn đại đội tới hỏi: “Tại sao tôi đóng quá rộng (quá phân tán) như vậy?” Thấy anh ta chết nhát muốn đóng dồn cục cho đỡ sợ, sống chết mặc bây, miễn sao bảo vệ cho mình an toàn; cứ trông mong ngày tháng hết hạn mau để rút về nước tránh nguy hiểm.
                                  Tôi tức giận bảo nó: “Mầy mới ra trường chưa kinh nghiệm chiến trận, về bảo thầy mầy qua học tao nè”. Hắn thấy tôi giận dữ, một phần vì sợ đi theo đại đội nằm tiền đồn nguy hiểm, nên báo về Cố Vấn Trưởng ở Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, sáng hôm sau anh ta được rút về ở chung với Tiểu đoàn.
                                  Nửa tháng sau, Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn vào đóng ở Trảng Lớn, Đại đội tôi đi nằm tiền đồn sâu trong Quận Thanh Điền, gần Bến Gò Nổi, phía Đông sông Vàm Cỏ. Binh sĩ biết khu nầy đầy VC (Việt Cộng), họ bắt chước địch, ai nấy đều đào hố chiến đấu có nắp che chở mảnh B-40. Đêm đó chúng tôi bị địch bắn B-40, Ak-47,... vào vị trí đóng quân, mọi người ra hố chống trả mãnh liệt, tiểu đoàn cho bắn soi sáng khắp vùng, sĩ quan Tiền sát gọi pháo binh bắn các hỏa tập cận phòng. Cũng may nhờ hầm có nắp che nên chỉ một vài binh sĩ bị thương. Trong đó khinh binh Võ bị viên đạn xuyên ngực khá nặng, sau khi địch thấy chúng tôi phòng thủ kiên trì, lại bị pháo binh bắn hiệu quả quá, chúng rút lui qua bên kia sông.
                                  Tôi gọi tiểu đoàn xin trực thăng tản thương, nhưng nghe tiếng anh Bảo nói trong máy:
                                   - Mầy đuổi Mỹ, bây giờ năn nỉ nó cho máy bay đi ?
                                   - Chết bỏ, tôi không năn nỉ ai hết!
                                  Khoảng 1 giờ khuya, Thiếu tá Bảo đích thân theo trực thăng vào bốc thương binh ra. Gặp mặt tôi, anh cự nự:
                                  - Mầy cứng đầu làm liên lụy tới tao đây nè!
                                 Tôi mỉm cười :
                                  - Xin lỗi đích thân! Tôi đâu có muốn như vây.
                                  Cố Vấn Mỹ, chỉ một vài người có đầu óc bảo thủ, lo an toàn cho bản thân mình, như anh Trung úy vừa nói trên. Đa số người khác đều biết hòa mình với chúng ta, chẳng hạn như Trung úy Smith ở trận vườn trầu vùng Ven Đô. Các anh Sanchez, Sinkovitz, và Takata là những người rất tốt. Sinkovitz mỗi lúc dừng quân trong xóm, thường nói tôi mời các sĩ quan Trung Đội Trưởng tới nhậu. Anh bỏ tiền mua rượu đế, tôi lo đồ nhậu, thật là vui vẻ, nhưng khi chạm địch thì anh tự động xin máy bay tới yểm trợ thật kịp thờ, anh ta đã bị thương nhiều lần. Lúc về hậu cứ, hắn thường rủ Thượng Sĩ Sơn Bum đi nhậu mút mùa.
                                  Takata là người Mỹ gốc Nhật, sinh trưởng ở Hawaii, anh đi quân đội lâu năm leo lên tới cấp bậc Thượng sĩ Nhứt, lúc mới về làm Cố Vấn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử (Sensor Detachment), anh đã giúp đỡ rất nhiều. Vì Sư đoàn Dù ủy nhiệm cho tôi đứng ra tổ chức đơn vị nầy, mọi vật dụng đều thiếu thốn. Takata cứ theo hỏi có cần gì không anh sẽ giúp đỡ, tôi nói cần văn phòng phẩm, nhưng anh hỏi cá nhân tôi cần gì, chẳng hạn Tivi, Radio, đồ trong PX,...Thấy tôi cứ lắc đầu từ chối, anh thắc mắc nói khi làm cố vấn các nơi khác, đơn vị trưởng thường nhờ mua đồ lắm, sao tôi không chịu đòi hỏi gì hết vậy. Tôi nói tao cũng rất thích, nhưng vì thể diện dân tộc, không muốn người Mỹ coi thường người Việt Nam, nếu mầy có tốt thì kiếm gì giúp đỡ cho gia đình binh sĩ đi.
                                 Tôi chỉ vui miệng nói chơi, tại vì hắn cứ theo hỏi hoài. Thấy anh cười chúm chím bỏ đi, tôi vội lên Phòng 4 để nộp bản nhu cầu cần thiết về vũ khí, quân dụng, và quân trang của đơn vị tân lập cho Trung tá Huy. Bất ngờ ngày hôm sau, Takata đã lên căn cứ Long Bình ở Biên hòa chở về mấy xe GMC tủ sắt và giường sắt, mọi gia đình quân nhân trong biệt đội đều có. Thấy tôi, anh ta cứ cười mím chi cọp như còn dấu một điều bí mật gì. Khi về nhà mới biết anh đã lén chở ra cho tôi một giường sắt và một tủ sắt như các anh em binh sĩ trong Biệt đội.
                                  Anh có mời tôi lại nhà chơi, thấy chị là người gốc Hoa Kiều, dân Cần Thơ, có học thức, tánh tình hiền lành, ăn nói lễ phép, săn sóc chồng con giống như người Nhựt. Anh là Cố Vấn mà đi đâu cũng hỏi qua tôi, nhằm lễ Giáng Sinh, Takata mua mấy két bia, tôi mua vài con vịt, lấy trực thăng đem lên cho toán coi đài kiểm báo trên đỉnh núi Bà Đen.
                                  Nhân dịp Thanksgiving, anh có rủ tôi và Thiếu úy Tường đến dự lễ của người Mỹ gốc Hawaii tại một Vila rộng lớn ở góc đường Trần Quí Cáp và Trương Minh Giảng, Sàigòn. Họ tổ chức theo tục lệ của người dân bản xứ, những cục than đá to được nung đỏ, nhét vào bụng các con heo đã làm sạch, họ đem chôn heo dưới hầm sâu, rồi lấy lá chuối đậy lên, trước khi lấp đất, heo được phủ kín bằng vải lều. Đúng 12 giờ trưa hôm sau, tức ngày lễ Tạ Ơn, Takata kéo tôi và Tường cùng mọi người cổ đeo vòng hoa, quây quần xung quanh hầm, choàng vai nhau vừa cầu nguyện, ca hát, và nhảy múa, giống như dân tộc Thượng. Sau đó họ cuốc đất và kéo lều vải, lá chuối ra. Heo bị than đá làm chín rục, giống như thịt hầm. Takata đưa cho tôi một dĩa thịt heo mềm, nóng bốc hơi, đụng vào muốn phỏng môi. Thức ăn, rượu, nước ngọt, bom, nho,...thì tự do.
                                  Một hôm nọ, tôi theo máy bay của Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo đi thả các máy Sensor ở vùng Damber bên Cam Bốt; trực thăng bị phòng không bắn trúng mấy viên đạn. Takata đang ở trại B-16 hết sức lo lắng và bồn chồn. Lúc máy bay vừa đáp xuống, anh đã chờ sẵn tại phi đạo và vội chạy tới ôm xiết chặt, tỏ ý mừng tôi vừa thoát hiểm, thật là có tình có nghĩa.
                                  Takata rất dễ dãi, có lần ra thăm toán Tác Chiến Điện Tử của Thiếu úy Chinh trên căn cứ Charlie ở Tân Cảnh; chiều về Kontum tôi dẫn anh tới nhà thằng bạn học cũ tên Sủng để ăn món bún nước lèo; vậy mà hắn cũng ăn ngon lành và tối thay vì vô trại ngủ, anh đã cùng tôi nghỉ đêm tại đây nữa chứ! Sủng “Lùn” là thằng bạn thân cùng quê Vĩnh Bình, nó kinh doanh nổi tiếng và giao thiệp rộng rãi tại thị trấn Kontum nầy.
                                  Có lần hắn dẫn tôi và Trung úy Duối, sĩ quan Quân Cảnh 204 Sư Đoàn Nhảy Dù, cùng 2 anh Trưởng Ty vô một buông Thượng nhậu rượu cần với 2 người con vị Tù Trưởng. Người con trai thì hát và đờn Tây Ban Cầm rất hay, giống như Chế Linh; còn cô con gái tên Nhân thì có nét đẹp tuyệt trần, mủi cao, đôi mắt bồ câu đen huyền. Tuy là dân tộc Thượng nhưng cô có nước da trắng mịn màng và đôi bàn tay thon đẹp, giống như sơn nữ Phà Ca hoặc Châu Pha trong các bài hát mà Phương Hồng Quế thường trình diễn. Cô Nhân học lớp  Đệ Nhị trường Dòng và nói tiếng Pháp như người Tây rặc. Ngoài nét đẹp sắc sảo, cô còn hát và uống rượu cần rất hay; tánh tình cô thật thà chất phát. Lúc rượu vào và ngà say, Duối và các anh trưởng ty méo  mó tay chân khiến cô ta bực mình nói :
                                  - Ông trưởng ty nầy xấu quá! Anh nầy dễ ghét quá!
                                  Cô thấy tôi đàng hoàng nên cứ lại ngồi gần kề sát bên và cứ bảo tôi phụ uống phần rượu của cô (mỗi người tới phiên thì phải núp hết một “Can” bằng ống hút dài tới đáy bình rượu cần). Vì đang hứng chí và được người đẹp nhờ vả, nên tôi cũng tỏ vẻ “Ga lăng”, sẵn sàng “Chở” luôn phần của nàng sơn nử tên Nhân mỹ miều nầy. Rượu cần làm bằng bo bo, vị ngọt nhưng say ngầm; khiến tôi khi về trại tối đó bị say suốt đêm, trong giấc mơ thấy mình cùng nàng sơn nữ đang bay lơ lửng trên mấy tầng mây xanh, vân du khắp non bồng nhược thủy!
                                  Sau khi mất nước, ở Hawaii, Takata tìm kiếm tôi khắp nơi, mãi tới đầu năm nay, nhờ anh Hà cho biết mới liên lạc được, (tôi cũng có hỏi anh Bùi Đức Lạc và nhiều người khác để tìm Takata). Được tin tôi, anh mừng hớn hở, vội gởi quà đặc sản Hawaii. Mặc dù bị suyển nặng, đi đâu cũng mang theo bình dưỡng khí, vậy mà anh cũng định đi xa thăm tôi và gởi cho trước quà kỷ niệm. Trong đó có Poncho Light mà ngày xưa tôi đi hành quân lúc nào cũng mang theo, và mũ Dù cùng nhiều đặc sản Hawaii, anh thật là người chí tình, bây giờ anh đã hưu trí.
                                  Những ngày đóng quân trong căn cứ B-16 ở Tây Ninh, khi nào rảnh rỗi, Nhan thường rủ tôi, Tới, và Minh đi nghe bản nhạc “Qua Cơn Me”â mà 4 đứa đều thích, tại quán cà phê phía sau lưng Tòa Hành Chánh tỉnh.
                                   Trở lại chuyện hành quân, tiểu đoàn hoạt động vùng Tây Ninh được hai tháng thì về nghỉ ở Hậu cứ. Lúc nầy vào cuối năm 1968, nhân dịp lễ Quốc Khánh 1-11-68, anh Thiện, anh Tâm và tôi được thăng cấp Đại úy Đặc Cách. Phấn được thăng lên Trung úy, Trứ thăng cấp Thiếu úy.
                               
                                     e). Mặt trận rừng Long Giang
                               
                                  Nghỉ ở hậu cứ hơn 3 tuần lễ, tiểu đoàn ra Ven Đô một tháng, rồi đi hành quân tại Huế hai tháng trong các vùng Phú Thứ, Hương Điền, Quảng Điền,... chúng tôi chỉ chạm địch lẻ tẻ không đáng kể.
                                  Sau khi về trại Hoàng Hoa Thám nghỉ quân 1 tháng, tiểu đoàn lại chuẩn bị ra quân vùng Tây Ninh. Căn cứ địa của Bắc Việt càng ngày càng bành trướng, có tới 400 ngàn địch thường xuyên trú đóng trên lãnh thổ Căm Bốt. Khiến chánh quyền Lon Nol bị dân chúng nổi lên chống đối. Ông ta cầu cứu Mỹ can thiệp giúp đỡ. Tổng thống Nixon lên đài giãi thích với dân chúng là “Miền Bắc đã tập trung các lực lượng chính quy tại các khu căn cứ có tính cách bất khả xâm phạm ở Căm Bốt, để mở các cuộc tấn công vào lực lượng Hoa Kỳ và Đồng Minh...... Tôi thà làm Tổng Thống một nhiệm kỳ, còn hơn là làm Tổng Thống hai nhiệm kỳ để nhìn thấy sự thất trận đầu tiên của Hoa Kỳ trong vòng 190 năm lịch sử này”.
                                  Rồi ông ta cho lịnh oanh tạc B-52 và mở các cuộc hành quân phối hợp Việt-Mỹ vào Cục R ở trên lãnh thổ Căm Bốt. Nhằm mục đích thanh toán Bộ Chỉ Huy đầu não, đã điều hành tất cả mọi hoạt động quân sự của Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Vì thế quân Việt Cộng như kiến bị động ổ, chạy tràn lan qua các vùng rừng rậm ở Tây Ninh và Bình Long.
                                  Lúc chúng tôi đến thị xã Tây Ninh, thì Tiểu Đoàn 9 được lịnh đi tuần tiểu lục soát địch tại đồn điền cao su ở hướng Đông làng Long Hoa. Đại đội 91 có nhiệm vụ bảo vệ pháo binh. Họ đang yểm trợ Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù hành quân trong đồn điền cao su Bến Đá, phía Đông Bắc quận Khiêm Hạnh. Chiều hôm đó Tiểu đoàn 1 chạm khá nặng, địch quân làm chòi canh trên ngọn cây và bắn tỉa vào các khinh binh, đại đội của Phạm Thái Hóa, bạn cùng khóa, bị chúng cắt làm đôi. Lúc đó Trung tá Phạm Hi Mai, tiểu đoàn trưởng, đang ở pháo đội, gọi máy điều động các đại đội khác lên tiếp ứng; tôi nghe trong máy tiếng Hóa la:
                                 - Tụi nó đông lắm, cứ cho bắn pháo ngay trên đầu chúng tôi, mau lên!
                                  Các đại đội nhanh lẹ tiến lên cố chọc thủng vòng vây, tới mờ tối thì bắt tay được cánh quân của Hóa. Sáng hôm sau, Tiểu đoàn 9 vào Bến Đá tăng cường, cùng Tiểu đoàn 1 tràn lên đánh đuổi địch ra khỏi khu vực. Tiểu Đoàn 1 rút ra thị trấn, chúng tôi tiếp tục truy kích địch tại vùng Bến đá. Hai ngày sau, không còn tung tích địch, Tiểu Đoàn 9 bọc về đồn điền cao su gần Long Hoa và đóng quân lập căn cứ tuần thám tại khu vực nầy. Đại Đội tôi hành quân lục soát và chạm du kích lẻ tẻ tại khu vườn cao su gần bờ làng. Tối đó chúng tôi vào xóm nghỉ, Bộ chỉ huy đại đội vô tình đóng đúng ngay nhà một người đàn em, K21 ĐL.
                                  Trong Long Hoa, nhà được chia từng lô, đường xá chằng chịt, cây cối rậm rạp, rất dễ bị lạc. Chúng tôi có đụng du kích khi họ vào làng nầy phá rối (đạo Cao Đài cũng chống Cộng như Thiên Chúa). Khi đóng quân xong, các sĩ quan trong đại đội cùng họp nhau nhậu rượu đế với Sinkovitz, anh nầy có tật ngủ mặc nguyên đồ trận, không mùng mền gì hết, vì con người khổng lồ nầy toàn mùi rượu, chắc muỗi hút máu sẽ bị say luôn. Sinkovitz rất gan lỳ, khi chạm địch anh gọi máy bay tới rất nhanh.
                                  Khi hoạt động xong khu vực Long Hoa, tiểu đoàn được điều động qua bên kia sông Vàm Cỏ Đông, bộ chỉ huy lập căn cứ ở Bến Gò Nổi, các đại đội tổ chức tuần tiểu về hướng Tây, Nam, và Bắc; còn hướng Đông giáp với bờ sông.
                                  Một hôm Thiếu tá Bảo chỉ huy hai Đại đội 91 và 92 của tôi và anh Thành, vào lục soát rừng Long Giang, ở phía Tây và cách Gò Nổi độ 5 cây số (phía Tây của Rừng nầy chừng 10 cây số, bên kia biên giới Miên-Việt, là nơi VC đặt căn cứ an toàn do Tướng VC Trần Văn Trà chỉ huy, đây còn gọi là Cục R, căn cứ nầy chạy dài từ Nam lên Bắc, qua Kiến Tường, Lò Gò, Xóm Giữa, Thiện Ngôn, có tên là Lưởi Câu, Mỏ Vẹt) .
                                  Rừng Long Giang bỏ hoang lâu ngày nên cây mây và gai gốc chằng chịt, các khinh binh chỉ phá độc đạo, đi hàng một, Đại đội tôi đi một mạch từ Đông qua Tây không gặp gì hết, Đại đội 92 bên cánh phải của tôi, gần bìa rừng nên chạm địch (vì địch đào hố sát bờ rừng phía Bắc), hai bên bắn nhau dữ dội, một chập sau có tin anh Thành bị thương. Tôi được lịnh bọc lại để nghênh chiến cho Đại đội 92 tìm cách rút ra.
                                  Sau khi ĐĐ92ND rút ra xong, chúng tôi dàn ngang ngoài bờ rừng, nả súng bắn vào điểm đóng quân của địch. Cầm cự một lúc, tôi nghĩ rừng nầy đầy cây mây và gai gốc, dù phi pháo bắn vào, chỉ chạm nổ trên ngọn, địch quân có thân cây và nắp hầm che chở kiên cố, rất khó đánh bật họ ra. Tôi cho lịnh đeo mặt nạ và dùng súng phóng lựu bắn hơi cay, Thiếu úy Trứ, Trọng, và  Phấn cho bày “Thùng cà rem” E8 (binh sĩ thường gọi là “Ơ quít”) và đồng loạt phóng vào mục tiêu. Địch bị động ổ nên bắn bậy bạ để rút chạy, lúc đó tôi đang đứng ở một chòm cây, vì hơi cay nhiều quá nên cởi nón sắt ra chuẩn bị đeo mặt nạ.
                                  Bỗng nghe “Ầm” một tiếng, đầu như bị ai cầm búa tạ đập một cái rầm, cả thân hình tôi té nằm úp xuống đất. Đưa tay rờ đầu, thấy máu chảy dài từ bàn tay tới cùi chỏ, thì ra địch đã bắn B-40 trúng ngọn cây, hai mảnh bay tới ghim trúng vào đầu, sức hơi phụt mạnh của đạn làm cho tôi té nguyên con.
                                  Nghe tôi bị trúng đầu, Tiểu đoàn lập tức đem trực thăng C34 tới bốc chở thẳng về bệnh Viện Đỗ Vinh, trong trại Hoàng Hoa Thám SĐND, Hạ sĩ Năm nhanh nhẹn nhảy theo để chăm lo cho tôi. Tội nghiệp đêm đó Bác sĩ Thiện thức suốt đêm, cứ cách một giờ tới canh chừng, vì anh sợ bị nứt giáp sọ, hoặc chấn thương não bộ (Thiếu tá Công Tiểu đoàn 1 pháo binh Dù bị lật xe trúng đầu ở Phong Điền, Huế; gần chỗ tôi và Miên bị tai nạn, anh Công tưởng bị nhẹ nên vẫn trực làm việc như thường, sáng hôm sau chết vì giáp sọ bị nứt!)
                                  Lúc đó Chú Út tiệm Phước An Nguyên đang ở SàiGòn, vô tình biết được tin tôi bị thương, và nghe nói tới trúng đầu ai cũng tưởng nặng lắm. Ông vội về Vĩnh Bình báo cho má tôi và bà xã biết. Khi gặp vợ tôi, bà bụng đánh lô tô mà miệng thì cứ nói cho nàng yên tâm:
                                  - Không có sao đâu, bị chút xíu hà!
                                  Hai người đàn bà, kẻ lo sợ cho con, người lo sợ cho chồng, tay run run, tim hồi hộp, xách khăn gói vội vã ra đón chuyến xe chiều cấp tốc lên Sàigòn. Tới nơi gặp hạ sĩ Năm đang ở nhà một mình và nói:
                                  - Đại úy vừa mới đi chơi.
                                  Cả hai thở phì ra, như trút hết mọi lo âu, suốt 4 giờ ngồi xe mà lòng họ lúc nào cũng bồn chồn, đầu óc cứ nghĩ vẫn vơ. Khi tôi về nhà nghe nói hai người xuống sở Chăn Nuôi ở Ngã Tư Bảy Hiền. Mặc dù đầu băng bó tùm lum và đau nhức kêu tăng tăng, nhưng thương mẹ và nhớ vợ quá, nên cũng ráng chạy đi rước họ về nhà. Một tháng sau Bác sĩ Thiện đích thân lấy mảnh ra, vì chỉ chích thuốc tê xung quanh vết thương, nên tôi nghe tiếng cây dao rạch cái “Rẹt”, rồi tiếng cây kềm kéo qua kéo lại kêu “Rạo rạo”, khi tìm đúng mảnh, liền nhổ ra cái “Bựt”! Thấy mảnh thứ nhứt vừa lấy ra, hai tay tôi buông thòng xuống, anh Thiện giựt mình hỏi tôi có sao không? Anh thấy máu da đầu ra nhiều quá vì thời gian dò tìm mảnh hơi lâu, nên vội may lại, để chừa một mảnh tháng sau mổ tiếp.
                                 Người phụ trách mổ lần thứ nhì là Bác sĩ Trần Đông A. Rút kinh nghiệm kỳ trước, Bác sĩ A lấy kim tìm mảnh đạn, rồi để cây kim làm dấu, anh rạch một đường, lẹ tay đút cái kềm ngay chỗ cây kim, giựt mạnh cả kim lẫn mảnh ra luôn, xong may vết thương lại, hành động thật mau lẹ và hiệu quả.

                              11. Về Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (Trận Gò Nổi)

                                
                                   Mọi người trong gia đình thấy tôi từ Tết Mậu Thân tới giờ, chưa đầy 3 năm, mà đã bị thương nhiều chỗ (lỗ tai, bắp đùi, nhiều mảnh lựu đạn còn trong lưng, và 2 mảnh B-40 ghim trên đầu). Họ khuyên tôi làm đơn về đơn vị nào bớt nguy hiểm, để gia đình cứ phập phòng lo sợ mỗi khi đi hành quân.
                                  Riêng tôi cũng hơi mệt mỏi, nhìn lại mười sáu bạn cùng khóa đã bổ sung về TĐ9ND, chỉ mới 5 năm chiến đấu, mà đã mất đi sáu đứa (Phương, Chàng, Lộc, Hổ, Đại, Thành), những người còn sống ai cũng bị lãnh thẹo ít nhất vài lần. Ôi chiến tranh thật là tàn khốc! Tôi cầm đơn vô văn phòng Trung tá Nhã, đọc xong ông nhìn tôi hồi lâu, rồi nói:
                                  -  Mầy định đi bỏ tao hả Dưỡng?
                                  Thấy ông có cử chỉ bịn rịn, tôi muốn lấy đơn trở lại ngay, vì gần 5 năm sống ở đây, chung quanh toàn bạn cùng hoạn nạn, tôi thật tình không nỡ rời xa những bạn tốt: Thành, Tâm, Bảo, BS Thiện, Hiền,..Nơi đó có những cấp chỉ huy khả kính như: Trung tá Nhã, Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo.
                                   Hòe, Trọng, Tường, Trứ, Phấn, Minh, Dậu, Trường, Quảng, Cứ, Tám, Học, Ngọc, Nhường, Lương, Ninh, Võ, Thiện, Hồi,  Năm, Nhàn,..là những quân nhân tài giỏi, rất dũng cảm khi lâm trận. Lúc nào tôi cũng thương mến các anh em tốt trong Đại đội 90, 91, 92 Nhảy Dù, đã giúp tôi gặt hái được nhiều thành tích trong quân ngũ, thăng cấp đặc cách nhanh chóng.
                                   Nhìn tôi đứng ngẩn người, Trung tá Nhã như đọc thấu tâm trạng, nhưng trước kia ông đã giữ không cho tôi đi làm Quận Trưởng, chẳng lẽ bây giờ ông lại nỡ từ chối người thuộc cấp đã nhiều lần vào sanh ra tử cho ông. Cuối cùng ông đặt bút ký, mà gương mặt buồn, làm lòng tôi bồi hồi xao xuyến, thương mến, và kính phục lòng rộng rãi của vị chỉ huy tốt bụng!
                                  Sư đoàn chấp thuận đơn thỉnh nguyện và thuyên chuyển về Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Tôi được cử làm Sĩ quan Phụ tá hành quân; nhưng không khí ở đây hơi khác, anh đại úy Trưởng ban Ba tánh tình khó khăn, không đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau như các sĩ quan trong Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Vì vậy tôi nói với Đại tá Nguyễn Khoa Nam, xin về lại Tiểu đoàn cũ.
                                  Đại tá Lữ đoàn trưởng biết tôi rất nhiều, qua hai lần trực tiếp gắn huy chương. Ông muốn giữ lại nên cho tôi làm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân (không có trong cấp số Lữ Đoàn); trực tiếp báo cáo và nhận lệnh của ông, không qua Trưởng ban Ba và Tham Mưu Trưởng. Hầu hết những sĩ quan khác trong Lữ đoàn như Đại úy Phích, Vinh, Trường, Trung úy Chính và Phan Xuân Hiệp, thấy tôi thẳng tính, không nịnh bợ. Họ mến thương và từ đó tôi có thêm được nhiều bạn tốt mới. Bộ chỉ huy Lữ đoàn đang đóng tại hãng Khải Vinh, nên đơn vị Hoa Kỳ ở trong Đài Phát Tuyến Phú Lâm mời Đại tá Nam tới tham quan. Khi ông và tôi mới vào cổng thì còi hụ hú lên, mọi nhân viên và quân nhân canh phòng đều mang súng đạn mũ sắt chạy ra hố chiến đấu tập báo động giả cho đại tá coi.
                                  Họ đưa vào phòng phát tuyến để cho Đại tá Nam thử nói chuyện trực tiếp với nhân viên bên Hoa Kỳ. Tôi thấy mặt ông rất vui và thích thú vì lần đầu tiên được nói máy vô tuyến có tầm xa một nửa quả địa cầu như vậy. Tôi hay theo ông đi thăm các tiểu đoàn hành quân trực thuộc bằng trực thăng hoặc bằng xe Jeep. Ông ít khi nói máy và ban chỉ thị lẻ tẻ, nên thường ủy quyền cho tôi trực tiếp làm việc với các Tiểu đoàn.
                                  Có lần Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù bị địch tấn công tại căn cứ Bến Gò Nổi, lúc đó Trung tâm hành quân của Lữ đoàn 3 đặt tại Toà Hành Chánh tỉnh Tây Ninh. Khoảng 1 giờ khuya, Đại Úy Nguyễn Văn Triệu, Ban 3 tiểu đoàn, báo cáo địch quân từ Cục R bên kia biên giới, đã cho đơn vị chánh qui hùng hậu tấn công và đã chọc thủng tuyến phòng thủ vào sâu tới BCH.
                                   Họ đã lợi dụng khoảng trống của tuyến giữa hai đại đội của Ngoạc Lùn và Hóa Đen nên chọc mũi dùi vào đó, chúng thấy đống ba lô chất chung quanh khẩu súng cối (Ngoạc đã cho xếp ba lô tại đây để đưa đại đội đi tuần tiểu đêm bằng tàu thủy trên sông Vàm Cỏ, Ngoạc bị trúng mảnh B-40 từ trên bờ bắn vào đùi nên được trực thăng tới bốc tản thương trong đêm).
                                  Bộ đội Cộng sản xuất thân từ bần cố nông, thấy chiến lợi phẩm là nhào lên giành giựt những chiếc ba lô đựng quân trang quân dụng. Anh Triệu thấy một tên đeo 4 sao (có lẽ là Thượng tá), rút súng K-54 bắn chỉ thiên bảo:
                                  - Các Đồng Chí phải lo đánh giặc, đừng có giành giựt chiến lợi phẩm!
                                  Lúc ấy binh sĩ Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù đang núp dưới hố thấy vậy, vội ném lựu đạn tiêu diệt toàn bộ. Vì địch vào lẫn lộn, nên binh sĩ được lệnh núp kỹ dưới hầm, thấy ai không đội nón sắt là bắn. Đại úy Triệu xin soi sáng và pháo binh bắn các hỏa tập cận phòng. Tôi nghe trong máy Triệu la hoảng:
                                  - Nó sắp tới hầm chỉ huy của tao rồi, mầy cứ cho pháo binh bắn lên đầu tao luôn đi, mau lên!!!
                                  Hai mươi phút sau, máy bay C-130 từ Sàigòn lên thả trái sáng. Đánh nhau tới gần 3 giờ khuya thì Tiểu đoàn 1 Dù, nhờ soi sáng, nên binh sĩ từ dưới hố bắn tỉa từng tên một, dẹp sạch địch trong căn cứ. Các mìn claymore, bãi lựu đạn, pháo binh, khu trục, và Gunship lần lượt đẩy lui địch ở vòng ngoài. Đại đội của Minh đánh xáp lá cà rất ngoạn mục, Hóa đã trám lại lỗ hổng bằng cách dùng lựu đạn thanh toán khu vực trách nhiệm và nhào vào hố phòng thủ xả đạn bắn chận các đợt xung phong biển người của bộ đội chánh qui Bắc Việt. Đại đội chỉ huy nhảy ra trám chỗ trống nơi tuyến phòng thủ của đại đội Ngoạc.
                                  Ngay từ lúc Tiểu đoàn 1 báo cáo bị địch tràn ngập (overrun), Đại tá Nam đã có mặt tại Trung tâm Hành quân để canh chừng nhắc nhở tôi điều động hỏa lực yểm trợ. Suốt đêm chỉ có tôi với ông ngồi theo dõi diễn biến trận phản công anh dũng của Tiểu đoàn số 1 kỳ cựu và thiện chiến của sư đoàn Nhảy Dù, còn binh sĩ truyền tin thì ngủ gật tại chỗ.
                                  Những Đại đội trưởng tài giỏi như Minh, Nam Râu, Ngoạc Lùn, Hóa Đen đều là những người sĩ quan từng xông pha chiến đấu trong trận mạc, lập nhiều chiến công hiển hách và có rất nhiều huy chương anh dũng bội tinh. Vì thế mặc dù bị địch tấn công bất ngờ, họ cũng vẫn bình tỉnh điều động binh sĩ chống trả một cách thứ tự không hoảng hốt, không sợ sệt.
                                  Các quân nhân TĐ1ND thật là anh dũng thiện chiến đáng khen. Đặc biệt nhất là La Tịnh Tường, cách nay vài tháng, anh đã điều động đơn vị dùng lựu đạn đánh xáp lá cà, tiêu diệt gọn một đại đội địch ở Cầu Khởi. Ba tháng trước, Tiểu Đoàn 1 cũng vừa cùng Tiểu Đoàn 9 phối hợp với chi đoàn thiết vận xa 1/10 của Đào Đàn, đánh dẹp đơn vị chủ lực địch tại Bến Đá (lúc đó tôi còn là Đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù).
                                  Sáng ra Tiểu đoàn 1 Dù thu dọn chiến trường, tịch thu được hơn một trăm ba mươi súng đủ loại, đơn vị cũng bị hy sinh 4 chiến sĩ và bị thương hơn mười người. Chuẩn tướng Hinh,Tư lệnh phó Sư đoàn 25 Bộ binh từ trên trực thăng quan sát thấy có nhiều súng ống địch bỏ rải rác bên ngoài xa, có lẽ do phi pháo bắn truy kích.
                                  Trung tướng Đống hết lời khen ngợi Đại tá Nam và Trung tá Mai cùng toàn thể binh sĩ TĐ1ND tại căn cứ B-16. Có rất nhiều tưởng thưởng cho Tiểu đoàn 1, trong đó Phạm Thái Hóa được lên Đại úy. Thiếu tá Tường và các Đại úy Minh, Nam, Triệu được Bảo Quốc huân chương, còn anh Nhỏ thì được thăng chức thiếu tá đặc cách mặt trận.
                                  Đại Úy Triệu có kể lại việc anh suýt chết vì bị nội tuyến. TĐ1ND có một binh sĩ trẻ tuổi khờ dại, lúc về phép tại quê nhà, bị VC móc nối. Chúng lừa gạt anh lính trẻ nầy là hãy tìm cách lập công lớn cho cách mạng sẽ được lên chức sĩ quan khỏi cần phải đi quân trường cực khổ. Anh lính trẻ, có nhiều bà con đi theo du kích, nghe nói được lên chức mau nên hỏi:
                                  - Thế nào mới gọi là lập công lớn?
                                  Tên Việt Cộng nằm vùng nói:
                                  - Anh giết chết vài sĩ quan Dù, thì coi như có công .
                                  Anh lính, nhiều tham vọng nầy, còn thắc mắc:
                                  -  Nếu tôi lập công thì ai chấm công?
                                  Tên nằm vùng nói gạt:
                                  - Anh đừng lo, ở đó chúng tôi đã cài nhiều người lắm!
                                  - Khi thành công rồi làm sao mới gặp mấy người bên anh?
                                  Thấy cá sắp mắc câu, tên VC nói:
                                  - Khi nào ra trận, nếu gặp người bên chúng tôi thì cứ đứng dậy dơ tay la lớn nói tôi xin đầu hàng, rồi anh được tiếp nhận, chừng đó anh khai là đã có công với cách mạng. Lập tức họ sẽ cho anh làm sĩ quan, rất oai phong, tha hồ về làng hãnh diện với bà con, xóm giềng!
                                  Chuyện thật vô lý như vậy mà anh lính trẻ dại thuộc dân miền quê ít học trong vùng xôi đậu nầy cũng tin thiệt! Một hôm, anh ta thấy Đại úy Triệu cùng Thượng sĩ Chiêm ra ngoài vòng rào kẽm gai để kiểm soát mìn bẫy. Hắn lén đến chỗ để cục pin (con cóc) và bấm nổ mìn định hướng claymore, nơi anh Triệu đang đi. Rất may số Triệu còn đỏ, vì mìn đặt hơi nghiên lên nên các mảnh claymore chỉ bay ngang qua đầu, vừa lúc Trung tá Mai đi tới thấy hắn đang thực hiện âm mưu. Trung tá Tiểu đoàn trưởng đá nó vài đá và nói:
                                  - Mầy bấm mìn làm gì, có Đại úy Triệu đang ở ngoài, bộ muốn hại chết người hả con!
                                  - Dạ em định thử cục Pin!
                                  Thực sự lúc đó Trung tá Mai đâu có ngờ hắn đang định âm mưu, ông tưởng hắn chỉ vô ý thôi. Nhưng tên nầy sợ bị nghi ngờ, nên tìm cách chuồn sớm. Một hôm tổ hắn ba người được lịnh đi nằm tiền đồn ở Cầu Khởi, nửa đêm thấy có mấy tên du kích đi tới, hắn nhớ lời tên nằm vùng căn dặn, nên vội đứng lên  hai tay dơ cao, miệng la lớn:
                                  -  Tôi xin hàng, tôi xin hàng!
                                  Mấy tên du kích thấy động, giật mình ria súng bắn tên ngu dại, dễ tin lời xúi bậy nầy, chết không kịp ngáp. Hai đồng đội tưởng tên nầy nhát gan, định can nhưng không kịp, nhờ phản ứng nhanh, họ bắn ào ạt vào đám du kích. Kết quả hạ được hai tên, số còn lại chạy hoảng vô rừng mất dạng. Sáng ra nghe kể lại, Tr/tá Mai và Triệu mới vỡ lẽ, biết hắn đúng là nội tuyến!
                                  Lúc đó Chỉ huy Hậu Cứ Lữ đoàn 3 Dù là Đại úy Thành, bạn cùng Khóa 20. Thành đẹp trai, khuôn mặt giống hệt như tài tử điện ảnh Hồng Kông Châu Nhuận Phát; vì bị thương tay cà quẹo cà quơ nên mới làm việc nhẹ và an toàn nầy.
                                   Hắn có cô vợ vì rất trẻ nên nhỏng nhẻo vô cùng. Mỗi khi về Sàigòn, Thành rủ tôi và Bảo (cũng quẹo tay và chỉ huy hậu cứ Lữ đoàn 1) qua trạm Y tế của Mỹ ở khu Không Quân, trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Thành nói với anh Y tá người Hoa kỳ là 3 đứa bị bịnh ....(!), cần thuốc Trụ sinh để chữa trị. Anh Y tá thấy 3 chàng đại úy trẻ tuổi, mặt mày sáng sủa nên tin thiệt, liền lấy cho mấy hộp trụ sinh. Thành đem thuốc ra bán cho Thượng sĩ Doanh nhà ở Tân Việt. Có tiền 3 đứa kéo nhau đi tìm quán nhậu thỏa thích. Thành có nhiều cách kiếm tiền để đi chơi, lúc thì khai bịnh, khi thì lấy súng K-54 đổi, nhờ vậy chúng tôi có tiền đi nhậu lai rai hoài. Năm 1971, Bảo về sở Cảnh Sát Đô Thành, còn Thành thì về làm Cảnh Sát Trưởng Phú Quốc. Nhưng chẳng may đám buôn lậu bị Cảnh sát Đặc Biệt ở Trung Ương bắt, chúng cho là Thành phản phé báo cáo, nên đã tổ chức ám sát!
                               
                              12. Đại Đội Trưởng Công Vụ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù

                               
                                     Đầu năm 1970,  tôi gặp Trung úy Thu, sĩ quan ban 4 của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trước cùng học khóa Tác Chiến Trong Rừng tại Mã Lai. Anh nói lữ đoàn đang cần chức Đại Đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ. Thu thấy tôi từng làm Đại đội trưởng tác chiến nên bảo về Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với nó cho vui. Tôi làm đơn vị trưởng có quân trong tay đã quen, sĩ quan tham mưu chỉ một thân một mình thì hơi chán, hơn nữa Đại tá Nam còn độc thân nên cứ tình nguyện đi hành quân hoài. Thấy tôi bằng lòng, Thu về trình với Trung tá Lê Quang Lưỡng.
                                  Thu trước kia ở TĐ5ND làm y tá cho Đại đội 54 của Đại Úy Lê Quang Lưỡng. Thấy anh có bằng cấp, siêng năng, và tánh tình ngay thẳng dễ thương, nên ông cho đi học khóa sĩ quan ở Thủ Đức. Sau khi ra trường, anh được Đại úy Lưỡng kéo về TĐ2ND; vì Thu có tướng lộ xỉ, hai mắt lồi dễ bị chết yểu, nên ông ngầm che chở, cho ở Đại đội Chỉ huy, đỡ nguy hiểm hơn. Nhưng khi Đại úy Lưỡng đi du học ở Mỹ, Thu theo đơn vị ra hành quân và bị pháo kích thủng ruột tại đỉnh cao 1416 tên Ngok Wan ở Dakto, Kontum! Vì vậy khi làm LĐT/LĐ1ND Trung tá Lưỡng cố tình kéo Thu theo. Ông thương Thu ở tánh tình ngay thẳng và làm việc rất năng động. Thu không biết nịnh bợ, anh dám chỉnh (riêng) LĐT nếu ông phạm sai lầm, chính Trung tá Lưỡng thương anh nhất ở điểm dám ăn nói và không ỷ thế làm bậy.
                                  Trong trận Hạ Lào, vì Đại tá Lưỡng ở lại sau để giúp đỡ điều động yểm trợ TĐ2ND và TĐ7ND rút ra an toàn. Lúc ấy địch chỉ có khả năng bắn vói theo máy bay, nên mọi người đều đi đường bộ, chỉ có Thu dám leo lên phi cơ trực thăng để theo bảo vệ chủ mình. Vừa cất cánh chưa được 5 phút, máy bay lập tức bị bắn, phải đáp khẩn cấp xuống gần căn cứ Bravo. Trong khi chờ đợi phi công người Mỹ gọi đồng bạn xuống cứu, Thu cứ lấy mình che chở sợ đạn lạc trúng đại tá Lưỡng. Vị Lữ Đoàn Trưởng thấy anh trong cơn nguy biến mà vẫn một lòng trung thành, lòng ông an ủi và rất thương người sĩ quan thuộc cấp trung cang nghĩa dũng nầy. May thay các phi công Mỹ khác nhận được tín hiệu, nên không đầy 5 phút đã bay tới liều mạng đáp xuống cứu!
                                  Nếu trễ chừng 10 phút thì địch, thấy trực thăng rớt, sẽ tới nơi tìm chiến lợi phẩm; chắc chắn những người trên máy bay nầy sẽ bị bu như kiến gặp viên đường ngon ngọt!
                                  Khi qua Mỹ, Thu ở Atlanta, đứa con trai hay đi tiểu bậy ngoài sân; nên hàng xóm người Mỹ qua nói nhiều lần, anh tức giận lấy roi đánh đứa con trai cưng nhất của mình. Vì nó được nuông chiều quá, nên dạy bảo hoài không nghe. Thật là rủi ro, trong khi đánh, cháu lại né tránh, nên roi trúng nhầm chỗ hiểm, làm cháu chết ngay. Do đó Thu bị cảnh sát bắt giam; vừa hối hận vì lỡ tay đánh đứa con cưng mình chết, vừa không được ở nhà để ngó mặt con lần cuối cùng; tối hôm đó, Thu lấy áo thắt cổ tự vận trong tù! Thật là một thảm cảnh đau lòng!
                                   Khi tôi về làm Đại Đội Trưởng Đại đội Chỉ Huy Công vụ thấy có một số hạ sĩ quan a dua với anh phục vụ của Lữ đoàn trưởng, họ hoành hành lập bè kết đảng (giống như bọn thái giám loạn quyền trong các phim Hồng Kông). Tôi lập tức cho Thượng sĩ Luông làm Thường Vụ thay thế một trung sĩ nhứt. Anh nầy nhờ phe đảng, miệng lưỡi nên lâu nay nắm quyền sinh sát, chỉ huy luôn cả vị thượng sĩ hiền lành có nhiều kinh nghiệm và khả năng. Thế là chúng nó phản đối nói tôi dám “Đảo chánh” và đâm thọc đàm tiếu, rỉ tai gây lung lạc lòng tin của Trung tá Lữ đoàn Trưởng.
                                  Một hôm ông xuống thăm doanh trại đại đội và hỏi:
                                  - Tụi nó đồn anh ăn tiền thằng thủ kho (Trung sĩ Vui) 50 ngàn có đúng không?
                                  Không ngờ có chuyện dựng đứng động trời như vậy, tôi giận đỏ mặt chỉ ngực nói:
                                  - Tôi xuất thân trường VBĐL, Trung tá cứ cho điều tra, nếu có ăn hối lộ của thằng Vui một đồng hoặc một cắc, thì trung tá cứ lột lon, mấy đứa cận vệ của trung tá thuộc quân số Đại đội Công Vụ, nếu tôi sợ họ gièm pha đâm thọc thì không thể nào chỉ huy được.
                                  Trung tá vỗ vai tôi cười giả lã nói:
                                  - Tôi nói chơi với anh thôi, không có gì đâu!
                                  Tôi trình bày rõ với ông, việc nhà kho thiếu hụt nhiều là sự sơ xuất của thủ kho, hậu cư,ù và sĩ quan đại đội trưởng tiền nhiệm, tôi thấy vậy nên tới đại đội cũ lấy về bù đắp. Từ nay kiểm soát thường xuyên nhà kho, nếu có gì sơ sót chính là trung sĩ Vui sẽ chịu trách nhiệm.
                                  Từ đó bọn gièm pha thấy tôi làm việc thẳng thắn, minh bạch, những tên đệ tử cũng sợ tánh cứng cỏi của tôi; chúng mà vi phạm tôi phạt nặng hơn người khác. Vì tôi rất ghét những ai đâm thọc, nịnh bợ xỏ lá. Những người khác sợ đi tác chiến chớ tôi đâu có sợ. Có lần ở trại biên phòng Kàtum, tôi nạt thằng Miên, bạn cùng khóa, trước mặt Trung tá Lê văn Ngọc, Lữ đoàn Phó, ông ta nói đùa:
                                  - Tụi mầy đừng có chọc thằng Dưỡng, nó bị thương ở đầu nên “Mát” đó!
                                  Trung tá Lưỡng là người giỏi về đánh trận (những sĩ quan xuất thân khóa 4 Võ Khoa Thủ Đức như Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Hậu, Tướng Điềm, Đại tá Phước, Đại tá Lương,...đều có tài hành binh), ông thích nghiên cứu tình hình địch, bạn rồi dùng mưu lược tấn công bất ngờ, khiến địch không trở tay kịp. Nhiều khi hằng đêm ông ngồi thảo ba, bốn lệnh hành quân, sau cùng ông quyết định chọn kế sách nào thật hữu hiệu cho quân ta thành công mà ít bị thiệt hại nhất. Nhiều năm tác chiến ở TĐ5ND, ông học được kinh nghiệm của các Tiểu Đoàn Trưởng Viên, Nguyễn Chánh Thi, Ngô Xuân Soạn, Hồ Tiêu, và Ngô Quang Trưởng. Nhờ vậy lúc về nắm TĐ2ND, ông giống như diều gặp gió, có cờ tới tay, sẵn sàng thi thố tài năng ấp ủ bấy lâu nay.
                                   Lúc tôi mới về Dù thì ông là Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Khóa 20 ở đó cũng nhiều, ông đã tận dụng tài năng của Hạnh, Phương, Hòa, Thọ, Điệp, Toàn,...và những sĩ quan giỏi như Bằng, Phú đen, Mạnh,...đưa tiểu đoàn hết thắng chỗ nầy lại chiến thắng chỗ khác, đặc biệt ông đã cho dùng kèn thúc quân mỗi khi xung phong, binh sĩ hăng say chiến đấu, công hiệu hơn thuốc Hùng Binh của VC, khiến tiểu đoàn nổi danh như cồn. Ông và các sĩ quan cũng lên chức nhanh như gió. Trận Mậu Thân ở Huế, trận Hạ Lào, trận Mỏ vẹt, Lưỡi Câu ở Cục R Campuchia, trận An Lộc, Bình Long mùa hè đỏ lửa, Trận Vĩnh Hạnh ở ven đô,.... đã đưa ông lên hàng Tướng lãnh, chỉ huy Sư đoàn Nhảy Dù cho tới ngày mất nước. Cuộc đời binh nghiệp của ông vô cùng gian khổ, nhưng ông rất mưu lược, bình tỉnh, và gan dạ. Nhà văn Phan Nhật Nam đã tặng ông danh hiệu: “Con Beo Gấm Của Chiến Trường”. 
                                   Tôi theo LĐ1ND đi Phước Long, đóng chung căn cứ với Lữ Đoàn 2 Không Kỵ Hoa Kỳ tại căn cứ Phước Bình. Trung úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn, Miên, và tôi đi trước nửa tháng để làm hầm hố, chỗ ngủ kiên cố cho Trung tá Lưỡng, Trung tá Lê Văn Ngọc, Thiếu tá Ninh, các sĩ quan tham mưu, và binh sĩ. Đại đội Công vụ và Công binh cũng lo làm Trung tâm Hành quân. Căn cứ nầy thường bị địch đặt pháo từ Mật khu Bù Gia Mập và núi Bà Rá bắn vào.
                                  Những ngày rảnh rỗi, ba đứa đi tham quan thị xã Phước Long, và được Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng, cho tiền tiêu xài thỏa chí. Ở đây có làng người Thượng, gần con suối chảy qua thị xã, có cầu treo lắt lẻo gập gềnh khó đi, phong cảnh rất nên thơ, ba đứa thường ra suối tắm, nước rất trong và mát mẽ. 
                                 Nửa tháng sau bộ chỉ huy Lữ đoàn và các tiểu đoàn tác chiến tổ chức hành quân phối hợp Việt-Mỹ, vào các khu rừng rậm ở xung quanh núi Bà Rá và thị xã Phước Long. Ngày nào địch cũng từ mật khu Bù Gia Mập pháo vào căn cứ, mỗi khi di chuyển đều phải đội nón sắt và mặc áo giáp. Có một trái hỏa tiễn 122 ly rơi ngay trước hầm của tôi nghe tiếng “Ầm” thật lớn, làm lòng ngực như bi nghẹt, chạy ra coi thấy miệng hố vô cùng to lớn! Đường kính gần 2 thước, sâu hơn một thước.
                                  Hạ sĩ nhứt Cổn bị một quả rơi trúng hầm, bay văng banh ống cống nhưng anh không hề hấn gì, thật là kỳ diệu khó tưởng! Lúc đó Trung tá Lưỡng vừa được thăng cấp Đại tá, tôi lấy trực thăng C.N.C về Sàigòn, mua rượu Champagne, Olive, xúc xích, và thịt nguội tại tiệm Đô Chính, cạnh rạp cinéma Eden. Ông tổ chức tiệc rửa lon có mời vị Lữ Đoàn Trưởng và sĩ quan tham mưu của Không Kỵ Hoa Kỳ qua dự.
                                  Vài hôm sau đi phép vợ sanh (Cháu Thành), trước khi về tôi ghé thăm Thiếu tá Tư. Anh có người bạn làm Phó Tỉnh và nhắn ông ta kiếm con đuông Chà Là cho Tổng Thống. Vị phó Tỉnh Vĩnh Bình nghe tôi chuyển lời, hôm sau đã chở lại nhà mấy quài đuông, ông cho riêng tôi một phần. Đại tá Lưỡng cũng rất thích đuông Chà Là, ông ngâm nước mắm cho nhả nhớt dơ, rồi đích thân đứng chiên từng con. Trong khi chiên, Việt Cộng (có lẽ ngửi thấy mùi thơm chăng!) pháo kích rầm rầm, làm ông hoảng hồn, phóng nhanh vào hầm!                                                      
                                  Tôi từng theo Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng ở trại biên phòng Thiện Ngôn, phía Bắc tỉnh Tây Ninh. Nơi đây, Lữ Đoàn trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn đánh qua căn cứ an toàn của địch ở bên kia biên giới thuộc Campuchia, tại các đồn điền cao su Snuol, Chup, Damber, Krek. Một hôm, Trung tá Ngọc rủ anh Lạc và tôi, lấy trực thăng chỉ huy của Lữ Đoàn Trưởng, bay qua Chup, ghé vào bộ chỉ huy liên đoàn Biệt Động Quân, xin tiền Miên của ông Liên Đoàn trưởng, bạn của Trung tá. Trực thăng bay qua phi trường Nam Vang, rồi có xe Jeep đưa chúng tôi vô Thành Phố, chạy vòng vòng qua Hoàng Cung, nhà hàng nổi Maxim, và Chợ Lớn Mới rất khang trang. Nhà phố ở đây bề ngang thường rộng hơn nhà phố ở Sàigòn, Chợ Lớn. Tôi mua trái vải, trái nhản, và trái hồng dòn ở trong chợ Mới (tiền do Trung tá Ngọc chia và của Nguyễn văn Tới, Đại đội trưởng 82 cho mấy hôm trước).
                                  Vài tháng sau, Bộ chỉ huy Lữ đoàn tới đóng ở Katum, để trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn Dù đánh qua biên giới, ngay Tổng hành dinh của Trung ương cục Miền Nam. Tại đây, các đơn vị tịch thu hàng ngàn xe đạp thồ do Trung Cộng sản xuất và mấy trăm tấn gạo, cùng nhiều quân dụng quân trang.           
                                  Về Sàigòn tôi được đi học khóa Đại đội trưỏng và Miên xử lý Đại Đội Công Vụ. Khi học xong, đại tá Lưỡng muốn tôi làm sĩ quan ban Ba với Phạm Như Đà Lạc, Bảo làm Đại đội trưởng Công Vụ (lúc tôi rời Tiểu đoàn 9, Bảo cũng thế tôi làm Đại đội trưởng 91, Bảo là người lót đường phải không bạn?) Tôi không thích làm tham mưu, sẵn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử có lệnh sắp thành lập (nhờ Phúc, Đại đội Phó, cho biết và bảo tôi lên gặp Trung tá Lân, Trưởng Phòng 1). Ông nói về hỏi ý kiến đại tá lữ đoàn trưởng và tôi được toại nguyện.
                               
                              13. Biệt Đội Trưởng BĐ Tác Chiến Điện Tử

                               
                                 Năm 1970, mỗi Sư Đoàn đều thành lập một Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử. Nhằm mục đích gài các thiết bị điện tử (gọi là Sensor) trong khu vực trách nhiệm; để kịp thời phát hiện sự di chuyển, sự xâm nhập của địch; bằng sự gây chấn động (Seismic Device) bởi các bước chân; nhiễu loạn điện từ (Magneticfield); hoặc Nghe được âm thanh (Acoustic Device), Nhìn bằng tia hồng ngoại tuyến (Infa-Red).
                                  Khi địch di chuyển sẽ tạo ra chấn động nhỏ trên mặt đất, vũ khí đi ngang qua máy sẽ gây ra sự nhiễu loạn từ trường, địch nói chuyện hoặc tiếng động gần nơi đặt máy, sẽ được chuyển tín hiệu về đài kiểm báo. Tầm hoạt động trong vòng 25 cây số với ăng ten Định Hướng, nếu đài kiểm báo đặt trên đỉnh núi, thì tầm hoạt động rất xa. Các máy Điện tử như Minicid thường được chôn trên đường xâm nhập, mỗi máy cách nhau khoảng một trăm thước, để thâu nhận tiếng động do bước chân của địch. Có những loại máy được thả xuống từ phi cơ, máy nầy hình dạng giống như trái bom tên là Asid, bề dài khoảng nửa thước, sau đuôi có cần “Ăng ten” màu xanh lá cây. Khi phóng xuống máy sẽ ngập sâu dưới đất chỉ ló đầu antenna lên thôi.
                                  Ở đường mòn Hồ chí Minh, người ta thả máy Asid và những máy phát hiện kim khí đi ngang qua (gây nhiễu loạn từ trường), loại máy nầy hình dạng và màu sắc giống như viên đá nhỏ. Máy Acousboy, Acoustic(?), được treo dấu ngụy trang trên những cành cây, thân cây để thu nhận âm thanh. Hàng rào điện tử Mac Namara dọc theo vùng giới tuyến được thiết bị bằng những loại máy trên.
                                  Có lần tại một vùng địch thường di chuyển, ở phía Tây Đồi 50 (La Sơn) 5 cây số, cách phi trường Phú Bài Huế khoảng 14 cây số về hướng Nam, Đại úy Hà Thúc Mẫn, khóa 20 ĐL, tiểu đoàn phó 4/54, chỉ huy lực lượng Action Force phối hợp với Lữ Đoàn 2/101 Không Kỵ Hoa Kỳ, Mẫn đã tổ chức phục kích bằng mìn định hướng Claymore.
                                  Anh đề nghị toán TCĐT đặt máy điện tử Minicid (sensor) và mìn Claymore dọc theo đường (mà tin tức tình báo nói địch thường hay di chuyển). Khi VC đi ngang qua, đài kiểm báo phát hiện tín hiệu, Mẫn ra lệnh bấm nổ (bằng remote control) hàng loạt mấy chục quả mìn. Ngay sau đó đơn vị đổ bộ bằng 6 trực thăng vào lục soát và thu lượm được thành quả vô cùng rực rỡ, hơn 30 vũ khí đủ loại nằm rải rác dọc theo bãi phục kích bằng mìn định hướng nầy.  
                                  BĐ/TCĐT gồm có 11 Sĩ quan, 50 Hạ sĩ quan và 10 binh sĩ.
                                  Biệt Đội trưỡng: Đại úy Trương Dưỡng
                                  Biệt đội Phó : Trung úy Trương Ngọc Ẩn
                                  Các Trưởng Toán TCĐT: Trung úy Lâm Vỹ, Thiếu úy An, 
                                        Tường, Tám, Ân, Trốn, Liên, Việt, và chuẩn úy Chinh.
                                  Kế Toán Trưởng: Thượng sĩ Cầu
                                  Thường Vụ : Thượng sĩ nhứt Khánh
                                  Thủ Kho: Trung sĩ Hùng
                                  Thơ ký : Hạ sĩ Nguyễn văn Hòa
                                  Biệt đội trực thuộc Đại tá Nguyễn Thu Lương, Trưởng P3
                                  Sau khi thành lập xong Biệt đội, tôi và 3 Sĩ quan Trưởng toán là An, Ân, và Liên được đi thụ huấn chuyên môn tại Trường Truyền Tin ở Vũng Tàu. Khóa nầy quy tụ hầu hết Biệt đội trưởng của các Sư Đoàn. Mỗi ngày chúng tôi ăn cơm chung với Nghiêm và Vinh “Con” ở doanh trại TĐ6ND.
                                  Có lần nhằm ngày thi cuối khóa, Phạm Cảng, Tiểu đoàn phó Thủy Quân Lục Chiến, là bạn cùng Đại đội F khi còn trong trường Võ Bị Đà Lạt, lấy xe Jeep chở tôi ra Bãi Trước nhậu tôm càng tới gần say hắn mới chịu đưa về lại trường Truyền Tin để thi Tổng Kết cuối khóa. Lúc ấy tôi đã ngà ngà, đầu óc còn nhớ loáng thoáng. Thi xong trở ra cổng, thấy vị Tiểu đoàn phó TQLC (Cảng làm Tiểu Đoàn Trưởng sớm nhất trong 25 bạn cùng khóa ở TQLC) đang ngồi ngủ gục trên tay lái xe Jeep! Cảng chờ tôi ra để chở đi nhậu tiếp.
                                  Lúc ở trường Đà Lạt, mỗi sáng thứ hai chào cờ, tôi đi kiếm, Cảng cầm cờ đại đội. Hai đứa cùng cao 1.72 thước như nhau, có lẽ vì “Cờ kiếm hợp nhất”, nên khi ra trường lâu ngày gặp lại, ý hợp tâm đầu, nhậu hoài không chán. Sau khi qua Mỹ, mặc dù ở xa Florida, Cảng vẫn làm bài luận Anh Văn (essay) nói về sự phấn đấu, khắc phục dầu thể xác bị thương tật của tôi, làm cô giáo Mỹ hỏi thăm lia lịa.
                                  Ngày mãn khóa, tôi lên đọc đôi lời phi lộ, có lẽ vì họ nể nang đơn vị Nhảy Dù, nên cho đậu Thủ khoa của khóa Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử đầu tiên nầy. Về Sàigòn, tôi mời mấy anh Biệt Đội Trưởng tới nhà  ăn cơm canh chua cá Bông Lau. Mọi người đều tỏ ý khen tài nấu ăn của bà xã.
                                  Biệt đội theo Bộ Tư Lệnh Sư đoàn tới đóng quân ở căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh, để chuẩn bị mở cuộc hành quân quy mô tấn công vào đầu não của Trung Ương Cục Miền Nam tại bên kia biên giới Miên-Việt.
                                  Lúc ấy Lonol nổi dậy cướp chánh quyền. Tại làng Mimốt, lính Khmer tập trung dân Việt Nam giết hại, thanh niên thì đập đầu thả trôi sông, thiếu nữ thì hãm hiếp xong bắt làm người hầu như nô lệ. Có một thanh niên sau khi bị đập đầu, thẩy xuống nước được một lúc thì tỉnh lại. Nhờ làm nghề chài lưới, nên anh lặn rất giỏi; anh dùng hơi tàn cố lội vào bờ bên kia và chạy trốn về biên giới Việt Nam. Gặp lúc TĐ1ND đang hành quân phía Bắc trại biên phòng Kàtum, anh tới xin họ đem quân đi giải cứu mấy ngàn đồng bào, sắp bị lính Khmer “Cáp duồn” sát hại hết! Tiểu đoàn vội báo về BCH/LĐ1ND. Nhằm lúc Trung tướng Đỗ Cao Trí đang họp với Đại tá Lữ Đoàn Trưởng và có sự hiện diện tướng Đống, Đại tá Lương, Trưởng Phòng 3 SĐND. Mọi người đều đề nghị tướng Trí tìm cách cứu giúp đồng bào mình.
                                  Lúc ấy chưa có lệnh qua Miên, nên tướng Trí chỉ thị TĐ2ND lập tức lợi dụng đêm tối, lấy trực thăng của VN tại QĐIII chở quân (vì trực thăng Mỹ không dám thi hành khi chưa có lệnh Tổng Thống của họ). Khi hai đại đội đầu tiên của TĐ2ND vừa đáp xuống sân banh Mimốt, thì Trung tướng Trí cũng đáp trực thăng xuống theo, làm thiếu tá TĐP/TĐ2ND giật mình, sợ ông bị nguy hiểm, nên báo cáo về LĐ1ND.  
                                   Tướng Đống thấy Trung tướng Trí vì nóng lòng muốn cứu đồng bào mình mà không nề nguy hiểm, ông vội đốc thúc các đơn vị lên tiếp ứng. Ông cùng Đại tá Lương cũng bay trực thăng tới với tướng Trí tại mặt trận luôn. Lính Khmer là loại ô hợp, chỉ một thời gian ngắn đã bị bắt gọn. Lập tức LĐ1ND cho một Tiểu đoàn tiến từ Thiện Ngôn lên Smac, lo giữ đường cho xe vận tải chở hằng ngàn đồng bào ta về bên nầy biên giới, để tránh bị họ sát hại một cách quá dã man (điều đáng nói là Mimốt cũng gần căn cứ địa an toàn của tướng Trần văn Trà ở cục R, nhưng vì không muốn mất lòng lính Khmer, nên VC nhắm mắt rút đầu để cho đồng bào bị Cáp duồn, miễn sao cho họ được yên thân thôi). Vài tháng sau, Tổng Thống VNCH ra lệnh tấn công qua biên giới Việt Nam-Campuchia phối hợp với Đồng Minh (sau khi đã được Tổng Thống Nixon cho phép).
                                   LD1ND được lệnh nhảy vào giải tỏa Kam Pong Cham, phối hợp với tướng Intam, Tổng Trấn kiêm Tư Lệnh Đệ Nhất Quân Khu, Kiêm Phó Chủ Tịch Quốc Hội. Các tiểu đoàn Dù tung quân ra đánh chiếm Peam Chikong, Pretotung, và Trà Ơn (năm 1970). Có một bà lão kể cho Đại tá Lương nghe là chính tên đầy tớ giúp việc cho bà đã rủ lính Miên tới hãm hiếp con gái và bắt làm người hầu cơm nước, thật là nhục nhã vô cùng!
                                  Giống như cuộc đấu tố ngoài Bắc, trong chiến dịch ngụy tạo là Cải Cách Ruộng Đất, nông dân vùng lên! Các tá điền tố điền chủ, học trò tố thầy. Chính Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng CS đã đích thân đứng ra tố cha mình, để dâng công với đảng!(Đảng viên CS cha mẹ còn tố huống gì người dân xa lạ)
                                  Trận nầy sào huyệt an toàn của Việt Cộng bị phá tan tành; dùng chiến thuật diều hâu di động chớp nhoáng, khiến địch chạy phân tán tứ tung, không nơi trú ẩn, các tiểu đoàn Dù tịch thu rất nhiều chiến lợi phẩm; trong đó có đủ thứ kho chứa quân trang, quân dụng, và hàng ngàn vũ khí, nhiều chưa từng thấy trong cuộc chiến chống du kích tại Miền Nam Việt Nam. Đây là một trận địa chiến quy mô, tập hợp các đơn vị thiện chiến nhứt quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh.
                                  Sư đoàn chia nhiều mũi dùi, tiến vô vùng địch tại bên kia biên giới. Những mục tiêu quan yếu như Lò gò, Xóm Giữa, Smac,Krek, Snoul, Chup, Mimot, Damber,......lần lượt bị các tiểu đoàn Dù và đơn vị Bạn (BĐQ,BB,...) tấn chiếm. Tin tức tịch thu chiến lợi phẩm được báo về tới tấp. Những vùng lâu nay gọi là bất khả xâm phạm, bây giờ đã trở thành bình địa bởi pháo binh, B-52, Khu trục, và cuối cùng các Tiểu đoàn Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, SĐ25BB vào làm chủ tình hình. Trận nầy mất một vị Tướng có tài đánh trận địa chiến. Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã bị tai nạn phi cơ, trực thăng chở ông vừa cất cánh tại phi trường Trảng Lớn, đã bị nổ. Dân chúng ở Mimốt nhớ ơn vị tướng anh hùng, cứu hàng vạn nhân mạng, nên đã tạc tượng thờ tướng Đỗ Cao Trí tại Đồn Điền Mimốt.
                               
                              14. Trận Hạ Lào

                               
                               Tôi theo Bộ Tư Lệnh sư đoàn Dù tới Đông Hà, đóng quân  nghỉ vài hôm, chờ lãnh tiếp tế. Tại đây tôi gặp mấy thằng bạn cùng khóa như Hoàng xuân Đạm, Nguyễn văn Thao, Nguyễn Thiện Sanh đang làm sĩ quan tham mưu ở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân đoàn I . Nhờ đó mới biết là Sư Đoàn Dù sẽ tham dự cuộc hành quân tên Lam Sơn 719 (tức 1971 tiến quân theo trục Quốc Lộ 9). Mục đích nhằm phá các cơ sở tiếp vận, các kho tàng của quân Bắc Việt vùng phía Đông Thị Trấn Tchépone thuộc Hạ Lào. Bộ Tư Lịnh Tiền Phương SĐND đóng tại phía Bắc Lao Bảo, nằm trên trục lộ kéo dài từ Đông Hà, Khe Sanh, Lao Bảo, và Tchépone (Quốc Lộ 9). Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn ở phía Đông chúng tôi khoảng 1 cây số.
                                  Về tình hình địch, Sư đoàn 308, Sư đoàn 320, Sư đoàn 986 (sau nầy còn thêm nhiều Sư đoàn kéo vào tham chiến), Trung đoàn Chiến Xa, và nhiều tiểu đoàn Pháo binh cùng Hỏa tiễn 122 ly với mức độ tiếp tế đạn dược dư thừa.
                                  Lúc nầy đài V.O.A. và B.B.C. đã nói trước một cách rõ ràng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ xử dụng các đơn vị Tổng Trừ Bị và SĐ1BB tấn công sang Hạ Lào.
                                  Ngày N-1, Thiếu tá Lạc, Tiểu đoàn trưởng Pháo binh Dù, ngồi trên phi cơ quan sát Hoa Kỳ, bay trên vùng trách nhiệm, thấy những đường đất mới chằng chịt (màu ngà ngà chứ không như bên Khe Sanh, Lao Bảo). Bụi bay mù mịt chứng tỏ có xe đang xử dụng. Anh đếm được 6 đám bụi nhỏ (một hoặc hai xe), nhưng khi máy bay tới gần thì tất cả đã chui vào các lùm cây rậm rạp mất hút, không để lại dấu vết. Bay đến gần Thị Trấn, thấy một cây cầu bắc ngang sông Sépone.
                                  Quan sát kỹ ở độ cao 1000 bộ, anh nhìn rõ không phải là cây cầu, mà là đoàn xe đang băng qua sông. Vì gặp máy bay, chúng đậu sát gần và bất động, trên cao nhìn xuống giống như cây cầu đúc. Địch thường đắp đập đá ngầm (làm cầu ngầm), để xe băng qua sông, vì cầu nổi sẽ bị máy bay oanh tạc ngay.
                                  Tình hình bạn gồm Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư đoàn 1 Bộ Binh, Liên đoàn 12 Biệt Động Quân, các Thiết đoàn 4, 8, 11, 17, Chiến xa (khoảng 200 chiến xa), Liên Đoàn 1 Không Quân, 8 Tiểu đoàn pháo binh, Lữ đoàn 5 Cơ Giới Mỹ (khai hoang Quốc Lộ 9). Sư đoàn TQLC có nhiệm vụ lừa địch giả như chuẩn bị Bắc tiến, kiểu dương Đông kích Tây rồi làm thành phần trừ bị trong giai đoạn đầu.
                                  Theo kế hoạch dự trù thì giai đoạn đầu Sư đoàn Dù, Liên Đoàn Biệt Động Quân, và Liên Đoàn Thiết Giáp thọc mũi nhọn vào thẳng Hạ Lào. Hành quân lập căn cứ hỏa lực từ Quốc Lộ 9 lên về hướng Bắc nhằm nhử địch nhả Tchépone để Sư Đoàn 1 BB nhảy vào thị trấn nầy (vì Phạm Văn Đồng có tuyên bố ai vào Tchépone tức làm chủ vùng Hạ Lào), sau đó TQLC vào án ngữ cho các đơn vị rút ra.
                                  Ngày N, ngày khởi đầu cuộc hành quân, theo lịnh Tổng Thống VNCH, được đài Phát Thanh Sàigòn truyền đi nguyên văn như sau: “Giờ phút nầy tôi cho lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tấn công qua phần đất Lào”. Vừa nghe xong, các đơn vị bắt đầu xuất phát, qua khỏi biên giới chừng 2 cây số, các Tiểu đoàn Dù gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch.
                                  Nhờ pháo binh và chiến xa cùng sự chiến đấu hăng hái của binh sĩ nhảy dù, khoảng 12 giờ trưa TĐ5ND đã tới địa điểm chỉ định để thiết lập và bảo vệ Căn cứ pháo binh Bravo. Các TĐ1ND, TĐ8, và TĐ9 tiếp tục tiến về hướng Tây, mở đường cho Bộ chỉ huy LĐ1ND tới Bản Đông (BanDong) để thiết lập căn cứ hỏa lực A Lưới (Xem bản đồ phối trí đính kèm). Đến 7 giờ tối, đêm đầu tiên, các đơn vị báo cáo như sau:
                                  TĐ8ND do Trung tá Văn Bá Ninh, Tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phú, Tiểu đoàn Phó, báo cáo khám phá một kho chứa chừng 2000 xe đạp thồ còn mới, một xưởng sửa chữa trong đó có 1000 xe đạp cũ còn xử dụng được. Một kho nhiên liệu khoảng 50 thùng phuy nhớt và 100 phuy dầu cặn, xác nhận đã đụng độ với đơn vị thuộc Sư đoàn 320 (do khai thác tù binh và tử thi).
                                  TĐ1ND do Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Phan, và Thiếu tá TĐP Sáng, đã khám phá một kho quân trang quân dụng, và xác nhận đã đụng độ với đơn vị của Công trường 308 CSBV.
                                  TĐ9ND do Trung tá Trí (vài ngày sau bị thương cùng bác sĩ do trúng hỏa tiễn địch, Trung tá Ngọc xử lý), Tiểu đoàn trưởng, và Thiếu tá Đồng làm Tiểu đoàn Phó, báo cáo gặp một Trung Tâm Huấn Luyện rất quy mô được ngụy trang trong khu rừng giả nhưng khổng lồ.
                                  LĐ3ND do Đại tá Thọ chỉ huy, được trực thăng vận vào vùng hành quân, thuộc phía Bắc LĐIND của Đại tá Lưỡng chừng 5 cây số. TĐ2ND đi đầu chiếm một ngọn đồi trọc lập căn cứ  hỏa Lực mang tên là Căn cứ 30, và chĩa súng đại bác yểm trợ cho Bộ chỉ huy Lữ Đoàn cùng 2 tiểu đoàn trực thuộc tiến về hướng Tây, lập căn cứ hỏa lực mang tên là Căn cứ 31.
                                  Các đơn vị Lữ đoàn 3 ND cũng chạm địch khi vừa đáp xuống, ngay ngày đầu họ đã gặt hái nhiều kết quả không thua vì cánh LĐ1ND (Lúc đầu, theo lời Đại tá Lương, Trưởng Phòng Ba SĐND nói, các đơn vị thắng thế dễ dàng và tịch thâu nhiều kho chứa vì địch tưởng ta đổ bộ hoặc tiến quân bằng trục Quốc Lộ 9 để tấn công Thị Trấn Tchépone, nên dàn sẵn 2 sư đoàn 320 và 308 tại Tchepone chờ đợi, vài ngày sau thấy Thị Trấn yên lặng, nên chúng mới tung ra phản công các căn cứ đóng rải rác lẻ tẻ của ta).
                                  BCH/Lữ đoàn 2 ND đóng ở căn cứ hỏa lực Tàbạt, Lao Bảo, Tiểu Đoàn 7 và hai đại đội của TĐ6ND hoạt động phía Bắc căn cứ Alpha và Bravo.
                                  Gần căn cứ Alpha, có địa danh rùng rợn là “Đồi Ma, Suối Máu”. Vì nơi suối máu, Thiếu tá Phan, TĐT/TĐ1ND, đã bị phục kích và hy sinh, Đại úy Triệu bị phỏng cấp 3. Chính nơi đây đã xảy ra nhiều trận đánh đẫm máu giữa quân Dù và CSBV. Đồi ma là một đỉnh cao, từ trên đây có thể quan sát toàn vùng Nam Lào, trên đỉnh có đồn cũ kiên cố do quân Pháp để lại. Địch quân cố thủ đồi nầy để làm đài quan sát, hướng dẫn pháo binh bắn vào những căn cứ hỏa lực và các vị trí trú quân của ta. Các đơn vị Dù nhiều lần muốn thanh toán ổ chốt nầy nhưng vì địa thế quá hiểm trở (chỉ có một sườn hơi thoai thoải, còn 3 mặt đều dốc đứng). Ngay hướng đường đỉnh là những lô cốt kiên cố.
                                  Vì thế Đại tá Lịch phải chỉ Thiếu tá La Tịnh Tường dẫn hai đại đội thanh toán cho bằng được mục tiêu nầy. Tường cho binh sĩ ăn uống trước sáu giờ chiều, rồi lợi dụng trời sáng trăng, ngầm kéo quân đi đến chân đồi. Khoảng 2 giờ khuya, anh cho Hùng “Móm” dẫn Đại Đội 113 dàn quân làm nghi binh tại sườn thoai thoải. Thiếu tá Tường đích thân chỉ huy cánh còn lại (Đại đội 114 của Hùng “Mập”) leo dốc đứng phía sau núi. Khoảng 5 giờ sáng thì Hùng Móm cho binh sĩ khai hỏa nhưng vẫn nằm tại chỗ, địch quân nhào ra lô cốt để bắn xuống dưới sườn đồi. Lúc ấy cánh Hùng Mập đã leo tới đỉnh mà quân CS vẫn không hay. Tường, Hùng, và toàn thể toán cảm tử xông vào các lô cốt thanh toán gọn từng tên một, bắt sống nhiều địch quân và thu nhiều vũ khí, chỉ có một ít địch nhanh chân tẩu thoát. 
                                  Các Đơn vị như Đại đội Tổng Hành Dinh, Công Binh, Quân Cảnh, Truyền Tin, Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử, Tiểu Đoàn Yểm Trợ,...đóng vòng đai bảo vệ Bộ Tư  BTL Sư Đoàn Dù. Các đơn vị trừ bị bố trí theo trục lộ từ Lao Bảo tới Khe Sanh, và tung ra hoạt động sâu đến bên nây biên giới.
                                  Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sau đó nhảy trực thăng vào hoạt động vùng phía Nam Sư đoàn Dù và yểm trợ Sư đoàn 1 Bộ Binh đổ bộ trực thăng vào lập căn cứ hỏa lực phía Đông Nam Tchépone.
                                  Trung đoàn 3 cho 2 Tiểu đoàn 2 và 4 của thiếu tá Hoàng Mão, K20ĐL và thiếu tá Tôn thất Việt, k16ĐL, nhảy xuống rặng Kurock thiết lập căn cứ hỏa lực bảo vệ cho 2 Tiểu đoàn 1 của Thiếu tá Thuật Xáng, và Tiểu Đoàn 3 của NT Nguyễn Xuân Phong, K10ĐL, vào phía Đông Nam Tchépone. Tiểu đoàn 2 của Hoàng Mão bị tổn thất nặng và được Tiểu đoàn 3 tiếp ứng kịp thời.
                                  Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 2 của Trung tá Giám và Thiếu tá Huỳnh bá An khám phá nhiều ống dẫn dầu và nhiều kho chứa vĩ đại; Tiểu đoàn 3/2 do Trung tá Nguyễn tri Tấn (hậu duệ của Nguyễn Tri Phương) làm Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Nguyễn văn Tuấn, Tiểu đoàn phó nhảy đầu tiên. Kế tiếp là Tiểu đoàn 2/2 trong đó có Trung tá Huế, K18 ĐL, làm Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Nguyễn hữu Cước, Khóa 21 ĐL, Tiểu đoàn phó, nhảy trực thăng vào thị trấn Tchépone (lúc đầu dự trù nhảy xuống phi trường nhưng máy bay quan sát thấy địch phục chờ sẵn, nên đổi bãi đáp giờ chót cách phi trường khoảng 2 cây số về phía Nam) phá tan sào huyệt địch, băng qua đường chiếm nhà thờ rồi cấp tốc rút ra hướng Tây Nam và bị địch chận đánh tại rồi Furaton, Trung tá Quế bị thương và bị bắt tại đây. Thiếu tá Cước dẫn 340 người còn lại của Tiểu Đoàn 2/2 băng qua đường 914 (nhánh của Đường mòn Hồ Chí Minh) về vùng an toàn tại căn cứ hỏa lực Delta 1 của Trung đoàn 3, để được trực thăng bóc ra! Riêng Tiểu Đoàn 3/2 sau khi phá hủy nhiều kho tàn của địch, lúc rút ra cũng bị chận đánh. Vì địch đã tập trung nhiều hỏa tập tại đây để chờ đợi quân ta; do đó đơn vị nầy đã bị tổn thất nặng nề gần nguyên một tiểu đoàn. Trận nầy Sư Đoàn 1 BB bị tổn thất khá nhiều, trong đó có vị sĩ quan nổi tiếng là Trung tá Lê Huấn bị hy sinh ngay từ đợt đầu!
                                  Tội nghiệp Liên đoàn 12 Biệt Động Quân nằm tiền đồn phía cực Bắc; vì vậy chỉ chịu đựng được 7 ngày thì Tiểu đoàn 21 do Thiếu tá Hiệp làm Tiểu đoàn trưởng, và Quách Thưởng, Tiểu đoàn phó; cùng Tiểu đoàn 39 do Thiếu tá Khang, TĐT, và Đỗ Đức Chiến làm Tiểu Đoàn Phó bị tràn ngập (overrun). Họ phải rút về căn cứ 31 cho trực thăng bốc ra; riêng Tiểu đoàn 37 của Lại Thế Thiết đóng với BCH Liên đoàn bên nầy biên giới làm lực lượng trừ bị (lẽ ra TĐ39 làm trừ bị, nhưng vì phi cơ đổ lầm nên lãnh đủ dùm cho TĐ37). Thiết và Măng, là bạn cùng khóa 20 Đà Lạt, sau nầy được thăng cấp Trung tá, làm Liên Đoàn Phó Liên Đoàn BĐQ.
                                  Bộ đội Bắc Việt đã ngang nhiên đổ quân bằng xe dưới chân đồi, rồi uống thuốc kích thích tố tên “Hùng Binh” của Trung Cộng chế tạo. Chúng dùng chiến thuật biển người nhào lên không sợ chết, giống như người máy rô bô.
                                  Những ngày kế tiếp, các tiểu đoàn Dù bung ra lục soát, họ liên tiếp khám phá rất nhiều kho tàng, đủ các loại quân dụng và đạn dược, các vật dụng trong kho quân trang còn mới toanh, TĐ1ND sau đó khám phá thấy một kho thực phẩm trong đó có các loại đồ hộp của Nga và Trung Cộng, chưa từng thấy xuất hiện trên chiến trường Miền Nam.
                                  Nhiều Pass B-52 đánh vào các thung lũng (những vùng nghi ngờ địch quân trú đóng), lần nào cũng có tiếng nổ phụ, chứng tỏ đó là kho đạn. Hoặc những cột khói cao, chỉ dấu đánh trúng vào kho nhiên liệu (đặc biệt kho xăng dưới chân đồi 1500, đã cháy liên tục 2 ngày 2 đêm).
                                  Ở Bộ Tư Lệnh SĐND, ngày nào tôi cũng lên phòng Trung Tâm Hành Quân họp, thấy các đơn vị báo cáo chạm địch và xin tản thương liên tục. Địch quân thường bắn hỏa tiễn 122 ly vào đây, có lần vừa đi gần tới Phòng Hành Quân, thì nghe tiếng hú xé gió của hỏa tiễn, tôi vội nằm xuống, thì “Ầm” một tiếng, quả đạn rơi cách chỗ tôi nằm khoảng 5 thước, cát bụi văng dính cùng mình (không biết tại sao hỏa tiễn cứ theo tôi hoài, có lần tôi và Đại úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn đang đứng ở gần cầu Mỹ Chánh, khi nghe tiếng hú xé gió của hỏa tiễn, tôi nhanh chân phóng vô hầm; Nhàn đứng khơi khơi cười chọc: “Ông thần Dưỡng trốn đâu mất rồi?”. Nhà tôi ở gần phi trường, mỗi lần nghe pháo kích, tôi phản ứng phóng nhanh xuống dưới cầu thang, vợ con tôi đứng cười ngất, có lẽ tại bị thương nhiều phen, trong mình tôi còn nhiều mảnh quá nên giống như gà bị nhát đèn!)
                                  Đến gần hố đạn, thấy cỏ sậy làm giảm độ xuyên phá (chỉ sâu chừng 10 phân), nhưng bề ngang rất rộng, đường kính khoảng 2 thước, rút từ kinh nghiệm nầy nếu dùng cây dừa nhiều chất sơ, có thể cản độ xuyên phá của bom, hỏa tiễn.
                                  Càng ngày trận chiến càng ác liệt, sau khi thấy ta không có ý định vào Tchépone, 2 Sư đoàn Bắc Việt tại đây bắt đầu phản công, địch điều quân tới các căn cứ hỏa lực để mong đè bẹp chúng ta. Chẳng hạn như cánh quân Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù và chi đoàn Thiết giáp bị nguyên một Trung đoàn của Sư đoàn 320 chận đánh tập kích. Cánh quân TĐ1ND sau đó được TĐ7ND của Thiếu tá Ngọc vào tiếp ứng để đương cự với Sư đoàn 308 Bắc Việt. Lúc đó B-52 được xử dụng như máy bay chiến thuật để yểm trợ các cánh quân bạn (vì địch quân tập trung đông quá, khu trục, pháo binh làm không xuể). Nhiều quả bom rơi cách đơn vị bạn chỉ có 500 thước!
                                  Một hôm, trong cuộc họp của Bộ Tư Lệnh, thấy Lữ đoàn III Nhảy Dù đang bị áp lực quá nặng; Trung tướng Dư Quốc Đống ra lệnh tập trung yểm trợ hỏa lực mạnh thêm. Ngoài ra ông còn cho lệnh phái một toán Tác Chiến Điện Tử vào Căn cứ 31, tăng cường cho Đại tá Thọ.  
                                  Tôi chỉ định Trung úy Lâm Vỹ, Trưởng toán 1, dẫn binh sĩ chuyên viên và đem máy Sensor theo. Thấy tình hình lúc đó thật sôi động, Căn cứ hỏa lực 31 của Đại tá Thọ như chỉ mành treo chuông. Chẳng lẽ bỏ anh em đi một mình vào tử địa, tôi quyết định theo trực thăng đưa Toán 1 vào đồi 31.
                                  Khi đoàn trực thăng 4 chiếc bay vào vùng Hạ Lào, tôi ngồi trên máy bay nhìn xuống thấy con sông Sépone chạy dài từ Lao Bảo tới Thị Trấn mút tận bờ Tây. Lúc bay ngang qua căn cứ hỏa lực Bravo của TĐ5ND, thấy những khẩu pháo đang tác xạ liên hồi, khoảng 2 phút sau thì tới Bản Đong, Căn cứ hỏa lực A Lưới, trong đó có BCH/LĐIND, nơi thằng bạn cùng khoá Nguyễn Tấn Kiệt đang làm sĩ quan Hành quân.
                                   Các trực thăng bay rất thấp để tránh đạn phòng không, vậy mà chạy cũng không thoát khỏi! Khi vừa tới đồi 31 thì chiếc đi đầu, trong đó có toán của Trung úy Lâm Vỹ bị bắn trúng, nó bay lảo đảo mất thăng bằng, vội đáp khẩn cấp xuống sườn thoai thoải của Căn cứ 31. Trung úy Vỹ bị bắn bể xương đầu gối! Ba chiếc còn lại sợ quá (vì phòng không xung quanh Căn cứ bắn lên như rừng pháo bông), vội bay trở về Bộ Tư Lệnh.
                                  Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên Căn Cứ A Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi!”. Trụ là em ruột của Thủ Khoa Khóa 18 Đà Lạt, Nguyễn Anh Vũ, Niên trưởng nầy đã hy sinh mấy năm trước, khi đang làm trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù. 
                                  Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm BCH Lữ đoàn III Nhảy Dù, Tiểu đoàn 3 trừ, BCH TĐ3PB, Pháo đội 33 của “Anh hùng Mũ Đỏ Tên Đương!”. Thấy tên nhiều đơn vị như vậy, nhưng quân số lúc đó đã hao hụt chỉ còn trên 400 người. Đại tá Thọ,Trung tá Châu,...bị bắt. Đại úy Đương tuẫn tiết!
                                  Những Đại Đội Trinh Sát của các đơn vị thường rất thiện chiến, như TS9 do NT Nguyễn Đình Hạnh, K19 ĐL, chỉ huy. Đơn vị gồm đa số lính thuộc Liên Đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thổng (bị đày, có lẽ không chống đảo chánh). Đơn vị nầy xung trận rất dũng mãnh, đôi khi được thả ngay trong lòng địch. Mỗi lần lâm trận, chị Hạnh cũng nhảy theo xung phong ào ào, khiến binh sĩ đại đội Trinh Sát phục sát đất. Nhưng khi thấy xác địch nhiều quá, chị sợ tới mất ngủ.
                                  Sau nầy chị chỉ lãnh phần gác tù binh, và trực tổng đài để binh sĩ rảnh tay truy kích địch. Ở Vùng IV có nhiều “Nữ quân nhân lậu” nầy và đôi khi họ còn chì hơn đức lang quân, chẳng hạn như bà Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn “Cọp Ba Đầu Rằng” BĐQ có thể gan lì giống như Bà Triệu thời xưa.
                                  Đơn vị Trinh Sát Sư Đoàn 9 Bộ Binh của anh Nguyễn Đình Hạnh nổi tiếng sát quân, thường không ai thoát khỏi 6 tháng, riêng đại đội trưởng Hạnh đã bị thương 7 lần và bị giải phẫu hơn chục phen. Nhưng mạng anh rất lớn đã lọt khỏi sổ phong thần. Còn chị lại càng rất chì, đã theo anh hành quân từ ngày chưa cưới, mà vẫn dám tiếp tục theo anh chàng lãng tử bạt mạng nầy tới ngày nay. Hiện anh chị sống tha hương tại thủ phủ Sacramento thuộc tiểu bang California. 
                                  Còn các đơn vị Trinh Sát SĐND thì khỏi nói, Út Bạch Lan của Đại Đội 2 Trinh Sát nổi tiếng như cồn, hai đại đội TS1 và TS3 cũng rất là dũng cảm thiện chiến. Chẳng hạn như ĐĐ3 Trinh Sát dưới sự điều động của Đại úy Thanh và Trung úy Bảo đã chiến đấu rất kiên cường khi theo TĐ8ND đi tiếp ứng LĐ3ND, và bị trung đoàn địch phục kích gần chân đồi 31. Binh sĩ toàn đại đội đã dùng lựu đạn để tiêu diệt nhiều chiến xa, họ đã bắn tới hết đạn nhưng vẫn dành 1 viên cuối cùng giống như anh hùng Nguyễn Văn Đương.
                                  Theo lời Vũ Hùng, một chiến sĩ thuộc ĐĐ3TS, kể lại thì cái chết của Đại úy Thanh và Trung úy Bảo cùng nhiều anh em tại gần đồi 31 thật vô cùng dũng cảm, những hình ảnh kiên cường của đồng đội đã ghi đậm vào tâm tư mà 27 năm sau, trên bước đường lưu vong ở Seattle, mỗi lần nghĩ đến anh rất hãnh diện và cảm phục chí can cường bất khuất của đồng đội .
                                  Căn Cứ Hỏa Lực 31 thất thủ là một tin buồn nhất cho Sư đoàn Nhảy Dù chúng tôi từ trước tới nay!
                                  Ngay ngày hôm sau, LĐT/LĐ1ND cho một Tiểu đoàn Dù tới tiếp đón những binh sĩ chạy thoát được từ Căn cứ 31. Thiếu tá Phú, Tiểu đoàn phó TĐ8ND dẫn 2 đại đội tùng thiết, hai chi đoàn Thiết giáp, và ĐĐ3 Trinh Sát đi còn cách Căn cứ 31 khoảng 2 cây số thì bị phục kích bởi quân số đông đảo của Bắc Việt, tưởng chừng sắp sữa bị overrun, nhưng may quá nhờ 2 Pass B-52 đến kịp lúc, bom thả kẹp sát hai bên đường, làm im ngay tiếng súng địch (TĐ1ND và TĐ7ND cũng phải dùng B-52 tương tự để giải vây. Một năm sau, Đại tá Lưỡng cũng lấy kinh nghiệm nầy để giải cứu An Lộc,Bình Long).
                                   Trung úy Vỹ bị thương chân không vô được căn cứ, vừa bò vừa lết xuống chân đồi. Anh đã nhịn ăn uống cả ngày, dùng hơi sức cuối cùng bò lại nơi chiến địa, vừa thấy anh em TĐ8ND, vội la lên cho họ tới cứu, đôi mắt lờ mờ nhìn binh sĩ bạn đến gần, anh kiệt sức, ngất xỉu trên tay họ!
                                   Vỹ kể lại trong đêm đó, sau khi lấy băng cá nhân bó tạm vết thương, anh bị hành sốt, áo quần rách rưới, nên càng lạnh thêm! Lúc đang nằm trốn trong bụi rậm, anh nghe thấy xe địch, thiết giáp và vận tải, chạy qua lại dập dìu, bộ binh địch di chuyển rầm rộ, nói chuyện huênh hoang. Dù quá mệt mỏi, đói khát, Lâm Vỹ cũng cố gắng bò về hướng Nam, nơi  BCH/LĐ1ND đang đóng quân tại căn cứ hỏa lực A Lưới. Vỹ nghe rõ tiếng đề ba của pháo đội bắn liên tục suốt đêm, bò được 2 cây số thì trời sáng, anh lo kiếm bụi núp,sợ địch bắt gặp thì coi như đời tàn!
                                  Một tuần sau khi Căn cứ 31 bị thất thủ, địch tập trung dùng chiến thuật tiền pháo hậu binh. Ngày nào chúng cũng bắn vào đồi 30 của TĐ2ND hằng ngàn quả đạn pháo, rồi dùng Thiết giáp và biển người định tràn ngập căn cứ hỏa lực nầy, trong đó có mấy thằng bạn cùng khóa tôi là Hạnh, Phương, Điệp,...cùng Mạnh Thu, Thơm,...hợp sức với các chiến sĩ đồng lòng sát cánh chiến đấu kiên cường, chống đỡ nhiều đợt xung phong biển người của quân chánh quy Bắc Việt. Pháo binh 105 ly của Bành Minh Trí và pháo đội 155 ly của Phạm văn Hy đã quay nòng bắn trực xạ.
                                  Địch quân như đàn kiến bu quanh đồi 30, nhờ bốn pháo đội bắn yểm trợ thật hữu hiệu, những loạt đạn C.V.T. làm đàn kiến im một chút. Trần công Hạnh rà được tần số khu trục Mỹ, điều chỉnh các đợt oanh tạc thật hữu hiệu, làm phi công Mỹ đánh trúng mục tiêu, thầm khen phục anh chàng nào đang bị bao vây mà vẫn còn bình tỉnh tìm cách cựa quậy.
                                  Địch quân hết đợt nầy tới đợt khác dùng biển người nhào lên định overrun như căn cứ 31, nhưng các chiến sĩ can cường     TĐ2ND và các pháo đội thề quyết không để cho chúng khuất phục, pháo binh trực xạ bắn cháy nhiều chiếc thiết giáp địch, các binh sĩ dùng lưỡi lê lựu đạn đẩy lui các đợt xung phong.  Sau khi cầm cự được hai tuần, BTL Sư Đoàn cho lệnh TĐ2ND để lại vài cảm tử quân cầm cự cho đơn vị lợi dụng đêm tối từ từ rút khỏi đồi 30, chờ khi toán cảm tử rút hết, Lữ đoàn dùng B-52 rải thảm tiêu diệt toàn bộ địch chung quanh Đồi 30 nầy.
                                   Mặc dầu quân số (kể cả pháo binh) trong căn cứ hỏa lực không quá 300 người, mà có thế cầm cự với 2 trung đoàn địch và một trung đoàn Thiết giáp với pháo binh, hỏa tiễn yểm trợ hùng hậu, vậy mà hai tuần lễ tấn công bằng mọi cách, có lúc chiến xa PT76 địch đã vào sát hàng rào; nhưng súng M-72, mìn chống chiến xa, pháo binh trực xạ, và ngay cả lựu đạn tay, đã tiêu diệt các con rùa nầy ngay trước hố chiến đấu của chiến sĩ Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù.
                                   Trong cuộc di tản của TĐ2ND có một chuyện cần kể là khi đang bay thị sát mặt trận, trên trực thăng Trung tá Nguyễn thu Lương, Tham Mưu Phó Hành Quân SĐND, đã vô tình nghe được trong máy tiếng kêu cầu cứu:
                                  - Em là Hạ Sĩ Hứa thuộc TĐ2ND, tụi em còn 6 người với em là 7; tụi em đang ở lưng chừng đồi, em còn súng và hai quả khói, và em có gương soi; vị nào đang bay trên đó nếu nhận được tin xin xuống cứu tụi em!!!
                                  Tiếng kêu cứ lập đi lập lại! Trung tá Lương nói viên cố vấn Mỹ tên Vichy bảo phi công thử bay vòng trở lại coi có phải cầu cứu thật hay địch bắt buộc tù binh dụ máy bay xuống?
                                  Trung tá Lương nói với Hứa:
                                  - Anh nhìn về đồi 30 coi mặt trời hiện đang ở bên trái hay bên phải?
                                  - Dạ bên trái.
                                  Sau khi coi lại giờ giấc, Trung tá Lương tự nói thầm: “Như vậy họ đang ở hướng Tây Nam của đồi 30”.
                                  - Em khoan thả khói, chưa nhận vị trí mà hết khói thì không xuống được .
                                  - Em còn một trái khói màu xanh và một trái màu tím!
                                  - Tôi sẽ bay thấp và thẳng khi nào thấy máy bay đúng hướng thì chiếu gương ngay.
                                  Trực thăng bay qua lại mấy lần, và Hứa bên dưới điều chỉnh:
                                  - Không! Bên trái em .
                                  Trở lại vòng thứ nhì thì nghe Hứa nói:
                                  - Không! Bên phải em .
                                  Lần thứ 3 thì nghe tiếng la mừng rỡ của Hứa:
                                  - Dạ đúng! Đúng! Đang bay thẳng vào mặt tụi em!
                                  Hứa chiếu gương và nói :
                                  - Em đang ở dưới bụng máy bay!
                                  Trung tá Lương nhìn dưới sườn đồi thấy 5, 6 người đang mình trần tay cầm áo phất qua phất lại, ông bảo:
                                  - Thả trái khói xanh!
                                  Hứa làm theo, trực thăng thấy khói bay là sát nhìn kỹ coi có gì khả nghi không? Rồi ông bảo thả khói tím và sẵn sàn chờ trực thăng đáp xuống sẽ phóng nhanh lên. Sau khi bóc lên, Trung tá Lương lấy bi đông nước cho họ uống giải khát; còn Đại tá Vichy vừa đưa bao thuốc thơm vừa đưa ngón tay cái lên ngụ ý khen ngợi toán binh sĩ Dù biết cách thoát hiểm mưu sinh! Còn 7 chiến sĩ TĐ2ND thì mừng rỡ và gật đầu cám ơn mọi người trên máy bay đã không sợ nguy hiểm dám liều đáp xuống vùng sôi động để cứu 7 người !
                                  TĐ1ND do Thiếu tá Nguyễn quang Sáng  cho hai đại đội đột kích vào BTL Sư Đoàn 308. Trận đánh xáp lá cà một cách tuyệt vời nầy đã tiêu diệt được viên Tư lệnh Sư đoàn, Thượng tá Nguyễn xuân Rục, với đầy đủ bản đồ và gậy chỉ huy của y.
                                  Trên đường rút về bên nây biên giới, xe thiết giáp chở Thiếu tá Phan, Tiểu đoàn trưởng TĐ1ND, bị bắn B-40, ông đã bị tử thương, Đại úy Triệu bị phỏng nặng (cấp ba), anh phải chịu đau đớn vì giải phẫu ghép da hằng chục lần, vô nhà thương thấy anh treo tay chân, băng bó cùng mình, thật tội nghiệp vô cùng.
                                  Đại úy Nguyễn đức Tâm, đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù được chỉ định dẫn đầu đoàn quân rút lui, anh thấy dọc theo Quốc Lộ 9, địch dàn quân phục kích sẵn, nên bẻ về hướng Nam khoảng 1 cây số, rồi đổi hướng Đông tiến về biên giới, nhờ vậy đưa toàn bộ các đơn vị rút ra an toàn. Riêng chiếc phi cơ chở Đại tá Lưỡng và Đại úy Thu vừa ra khỏi A lưới chừng 5 phút thì bị bắn rớt, may nhờ chiếc trực thăng của Mỹ nhào xuống bốc nhanh lên,nếu chậm chừng 10 phút, có thể vị Lữ đoàn Trưởng tài ba của chúng ta sẽ bị quân Việt Cộng tới bu như kiến (Đại tá Lê quang Lưỡng vì lo cho pháo binh yểm trợ hai Tiểu đoàn Dù rút lui an toàn nên mới kẹt lại sau cùng)   
                                  Nếu kỷ thuật tác chiến của những sư đoàn Chánh Qui CSBV khá như sư đoàn Dù và TQLC thì chúng ta sẽ bị thảm hại rất nhiều. Nhưng chúng chỉ quen đánh những trận thư hùng với quân đội Pháp, không có huấn luyện tới trình độ để đương đầu với những đơn vị có khả năng kỷ thuật cao. Nếu 2 tiểu đoàn chính qui Bắc Việt mà gặp một tiểu đoàn Nhảy Dù, TQLC, hoặc BĐQ thì coi như họ bị tiêu ngay.
                                  Trận Hạ Lào, quân VC đã cố gắng dùng biển người và biển lửa, cùng cua sắt để mong đè bẹp ta, nhưng chúng hoàn toàn bị thất vọng. Bằng cớ khi chúng ta rút khỏi Hạ Lào, địch không có lực lượng nào khả dĩ có thể làm tổn thất hoặc rối loạn hàng ngũ ta, lúc đó chúng chỉ có thể bắn vói theo trực thăng để mong gỡ gạc phần nào, mặc dù hai đài phản bội Đồng Minh, VOA và BBC đã cho chúng biết trước.
                                  Chúng ta vào Hạ Lào và chúng ta đã rút ra khỏi Hạ Lào khi nhiệm vụ phá tan căn cứ tiếp liệu hậu cần của địch đã hoàn tất. Hành quân tấn công thì không khó, nhưng hành quân rút lui, trong lúc khó khăn, mà thành công được là điều chắc chắn tinh thần kỷ luật binh sĩ thật cao. Cộng thêm sự gan dạ và tài điều binh của các sĩ quan chỉ huy, một phần cũng nhờ địch quân mất tinh thần và tổn thất quá nặng nề. 
                               
                              15. Trận An Lộc Bình Long (Mùa Hè Đỏ Lửa 1972)

                               
                                 Năm 1972, phải chăng để dò dẫm, Bắc Việt đã tung ra một cuộc tổng tấn công được coi là có tính toán rất kỹ lưỡng về mặt chiến lược. Cũng rất quan trọng, vì lần đầu tiên họ dùng chiến xa của Nga Sô tập trung tấn công một cách ào ạt.
                                  Bất chấp hiệp ước Genève và không cần biết đến vùng phi quân sự giữa hai miền Nam và Bắc, địch tung mũi dùi tấn công đánh thẳng từ phía Bắc xuống Nam, và gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Một mũi dùi tấn công khác từ biên giới Campuchia đánh qua phía Kontum, Pleiku, làm cho các tiền đồn đều lâm vào tình trạng bị động. Áp lực đè nặng vùng nầy đến độ phải đưa sư đoàn bộ binh từ Ban Mê Thuột lên để tiếp viện.
                                  Ở mặt trận phía Bắc, địa phương thành lập từng bộ phận lưu động nhỏ để dễ điều động, nhưng cũng vì thế mà trở thành khó chỉ huy và hậu quả là tuyến phòng thủ bị vỡ. Thành phố Quảng Trị thất thủ ngay sau đó, các đơn vị tranh nhau chạy về Huế. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, được gởi ngay ra Huế với nhiệm vụ tái lập trật tự tại đây.
                                  Hai sư đoàn tổng trừ bị, SĐND và SĐ/TQLC, đến giờ nầy vẫn còn ở Sàigòn, được đặt dưới quyền xử dụng của tướng Trưởng. Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở Vùng Đồng Bằng Cửu Long được đặt trong tình trạng báo động, dự trù sẽ được bốc ra Huế.
                                   Bất thình lình địch quân tấn công vào An Lộc, bao vây thị trấn nầy, đe dọa SàiGòn vốn chỉ cách đó khoảng 100 cây số. Tình hình lúc bấy giờ hết sức căng thẳng, chỉ cần trể nửa giờ nữa là không kịp ngưng chuyến đi ra Huế của SĐ21BB để chuyển hướng cho sư đoàn nầy tới thẳng An Lộc, nhằm bảo vệ vòng ngoài cho thủ đô SàiGòn.
                                  Tôi theo BTL tiền phương sư đoàn đến đóng quân ở Căn cứ Lai Khê, sư đoàn thiết lập Trung tâm Hành quân để trực tiếp chỉ huy các đơn vị Dù đang tham chiến tại Bình Long.
                                  Vào Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, chiếm xong quận Lộc Ninh, Việt Cộng đã mở cuộc tấn công biển người, với chiến xa T-64 lần đầu tiên xuất hiện tại vùng nầy. Chúng bao vây và cô lập Thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long, trong đó có Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh.
                                  Đại tá Lê quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng LĐIND, điều động các Tiểu đoàn Dù đánh từ Lai Khê lên Chơn Thành. Tại đây Tổng Thống và Trung Tướng Đống đáp trực thăng xuống, ra lệnh Chiến Đoàn Dù nhảy vào tiếp ứng An Lộc. Sau khi được lệnh, Đại tá Lưỡng thay vì nhảy trực thăng thẳng vào Thị Trấn, (theo lời ông kể lại qua điện thoại) Đại tá cho trực thăng vận xuống Đồi Gió ở phía Đông của Thị Xã An Lộc.  
                                  TĐ6ND đã dùng chiến thuật thần tốc bất ngờ đánh trúng ngay đầu não chỉ huy (hay đài quan sát), Thiếu tá TĐP Bằng, K16, dẫn 2 Đại đội do Trung úy Ngô Xuân Vinh tự Vinh “Con”, và Tuấn nhảy xuống đầu tiên. Trung úy Tuấn và Vinh điều động binh sĩ xung phong thần tốc tiêu diệt địch trong một “Lô cốt” duy nhất mà chúng đã đặt Bộ Chỉ huy, khiến chúng chạy tán loạn. Nơi đây có rất nhiều hầm hố bằng những tản đá xếp lại; vì đất rất cứng, toàn đá sạn, rất khó dùng sẻng đào hầm. Sau đó 2 Tiểu đoàn 5 và 8 cùng Pháo binh được đổ trực thăng xuống cùng với BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Chiến đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng quyết định cho TĐ6ND ở lại giữ cao điểm nầy, đích thân đại tá dẫn 2 tiểu đoàn 5 và 8 cấp tốc đi ngay đêm đó để vào An Lộc, trấn an các đơn vị đang bị bao vây lâu ngày.
                                  Tiểu Đoàn 8 dẫn đầu hướng về Thị Trấn An Lộc; TĐ5ND của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, TĐT, và Thiếu tá Lê Hồng, TĐP (sau bị thương Ngoạc Lùn lên thay), cho tiểu đoàn đi theo đội hình quả trám bảo vệ phía sau. ĐĐ51 của Sĩ (sau bị thương Trung úy Nguyễn Tiến Việt lên thay) đi trước, tiếp theo là ĐĐ50 của Đ/U Từ Khánh Sinh; bọc hậu có ĐĐ52 của Lê Hữu Chí, K20ĐL; cánh trái là ĐĐ53 của Dũng, K22ĐL ( vài ngày sau Dũng bị thương, Hồ Tường lên thay); bảo vệ sườn phải ĐĐ54 của Nguyễn Văn Dũng (sau bị thương Trung úy Dương lên xử lý). Khi vào gần tới Thị trấn thì địch chận đánh đại đội đi chót của Chí Bệu. Trung tá Hiếu điều động ĐĐ53 bọc lại tăng cường giúp Chí đánh bật địch ra. Kế đó Tiểu đoàn tiếp tục đi về hướng Đông Nam An Lộc thanh toán các ổ chốt và bảo vệ an ninh tại phía Bắc Xa Cam. TĐ8ND lo thanh toán các ổ chốt và bảo vệ an ninh ở phía Nam thị xã An Lộc.
                                  TĐ6ND ở lại Đồi Gió để vừa làm lực lượng tiếp ứng bên ngoài, vừa ngăn chận địch chiếm lợi thế cao có thể dùng làm đài quan sát hay bộ chỉ huy trực tiếp nhắm vào Thị Xã.
                                  Lúc bấy giờ các đơn vị bị bao vây đã lấy lại tinh thần vì có đơn vị thiện chiến Nhảy Dù vào yểm trợ. Sáng hôm sau, Đại tá Lưỡng cho TĐ8ND bung ra lục soát về phía Tây Thị Trấn, nhưng địch quân pháo kích nhiều quá nên TĐ8ND chuyển về hướng Nam. TĐ5ND cũng ra tiếp ứng nhằm mở rộng vòng vây, để có bãi tiếp tế bằng thả dù. Nhờ có tiếp tế đầy đủ nên tinh thần các đơn vị bị vây vẫn còn vững chắc.
                                  Vào đêm 30/4/72, để kỷ niệm ăn mừng lễ Lao Động 1/5, địch bắt đầu tập trung tổng tấn công vào An Lộc, chúng hạ quyết tâm nuốt gọn các đơn vị đang kẹt bên trong: Như LĐ1ND Nhảy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, SĐ5BB, SĐ21BB,...nhưng các đơn vị bên trong An Lộc đã kiên cường chống trả mãnh liệt. Tuyến của BCH/SĐ5BB của Tướng Lê Văn Hưng bị lung lay, Đại tá Lưỡng điều động cấp tốc ĐĐ/TS1ND lên lấp chỗ; sau đó, ông tăng cường thêm TĐ5ND để đẩy lui bảo vệ Tướng Hưng.
                                   Ngoài ra ông còn dùng 4 khẩu súng cối 81 ly (xạ thủ là những chuyên viên của TĐ1PB) bắn yểm trợ rất hữu hiệu. Ngay đêm đó, 2 trung đoàn địch đang hung hăn xung phong vào thì bị mấy loạt bom B52 xóa sạch, sáng hôm sau có mười mấy tên sống xót quờ quạng chạy bậy vào khu TĐ8ND và bị đẩy lui; chúng hốt hoảng chạy đâm đầu vào khu vực TĐ5ND, một anh thượng sĩ thường vụ đại đội hăng máu dẫn lính ra thanh toán, nhưng anh đã hy sinh sau khi tiêu diệt toàn bộ địch. Các đơn vị trong An lộc đều rất kiên cường. Nhất là các chiến sĩ Biệt kích, theo lời Hùng, K21ĐL, TĐP thuộc SĐ5BB kể lại, thì chính anh đã mục kích sự gan dạ và tài điều khiển của Đại tá Phan Văn Huấn, Khóa 10 ĐL làm Liên Đoàn trưởng, và Tr/T Lân, LĐP. Họ đã tổ chức các cuộc đột kích đêm, từng tổ 3 người lợi dụng đêm tối len vào ổ địch, đặt chất nổ hoặc phá các kho địch. Đôi khi còn tiến sâu vào vòng trong để sát hại cấp chỉ huy địch bằng cận chiến. Những cái can đảm, hào hùng của họ đã lọt vào mắt của một cô giáo còn kẹt lại An Lộc. Chính cô đã làm nên hai câu thơ lịch sử để ghi nhớ công xả thân vì nước của chiến sĩ Biệt Kích Dù:
                                                     An Lộc địa sử ghi chiến tích
                                                  Biệt Kích Dù vị Quốc vong thân!
                                  Thấy địch tập trung quân số bao vây thị trấn đông quá, Đại tá Lưỡng đã phải dùng 15 phi tuần B-52 đánh vào các khe suối, mà khi đi vào An Lộc, ông thấy rất nhiều hầm hố dọc theo hai bên bờ, các vị trí pháo của địch, và ngay tuyến cận phòng (cách quân bạn không quá một ngàn thước, thật hết sức táo bạo và liều lĩnh, giống như trường hợp B-52 đã giải vây cho các TĐ 7 và 8 tại Hạ Lào). Khiến địch gần như tịch ngòi, các phi cơ quan sát Mỹ báo cáo địch chỉ có một phần ba lực lượng còn khả năng chiến đấu, sau khi hứng chịu 15 phi tuần B-52. Đánh thêm 8 phi tuần thì An Lộc gần như được yên tỉnh. 
                                  Trước khi Chiến Đoàn Dù vào An Lộc, các đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 BB của tướng Hồ Trung Hậu đã ngày đêm hứng chịu những đạn pháo liên tục của địch. Phía Tây Quốc lộ 13 gần Tàu Ô là Tiểu đoàn của Võ Công Danh, phía Đông Chơn Thành có Trung đoàn của Đ/T Nguyễn viết Cần, SĐ21BB, đang ở phía Bắc Chơn Thành, ông đã điều động các binh sĩ trực thuộc cố gắng chọc mũi dùi vào giải vây An Lộc. Nhưng Đại tá Cần đã hy sinh vì một viên đạn pháo cay nghiệt! Ông nguyên là TĐT TĐ11ND, một sĩ quan tài giỏi, tánh tình hiền hậu, biết lo cho kẻ dưới, nên thuộc cấp ai nấy đều mến phục.
                                   Có lần khi TĐ11ND đóng quân ở vườn Tao Đàn, bảo vệ an ninh vòng ngoài phủ Tổng Thống. Một đêm nọ, ông cùng 2 ĐĐT Bạch và Nuôi  đến ăn uống tại nhà hàng Tour D’Ivor.
                                  Bỗng có hai Quân cảnh Mỹ đến hỏi giấy, vì thấy ông cao ráo, trắng trẽo, mũi lỏ giống hệt người Hoa Kỳ. Ông tự ái không đưa, chỉ nói mình là TĐT/TĐ11ND và bảo hai người ngồi chung là đại đội trưởng thuộc cấp. Họ không tin còn có cử chỉ hỗn láo, định còng tay, Nuôi và Bạch thấy TĐT mình bị hạ nhục, nên tức giận đứng lên tính can thiệp, Hai Quân cảnh hiểu lầm rút súng ra, Bạch nhanh tay hơn, rút súng bắn chết hai quân cảnh Mỹ để tự vệ! Ba người vội xuống xe Jeep chạy về vườn Tao Đàn và ra lệnh báo động, các xe Quân cảnh Mỹ có gắn súng đại liên rượt theo bao vây. Sợ động tới dinh Độc Lập, nên các anh chạy về Trại Hoàng Hoa Thám, đoàn xe Jeep có gắn đại liên của Mỹ rượt theo tới trước cổng trại. Tướng Đống biết chuyện nên ra lệnh hễ Mỹ xông vô thì cứ bắn, lính Tổng Hành Dinh đem súng ra dàn trước cổng. Sau đó cấp trên của Mỹ gọi họ rút về để điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ tính.
                                  Khi nhân chứng nói tại Quân Cảnh Mỹ hỗn láo và rút súng ra trước, mọi việc được dàn xếp ổn thỏa: Trung tá Cần bị ra bộ binh, Nuôi và Bạch bị phạt một năm nhốt ở Quân Lao.
                                  Trở lại trận đánh An Lộc,dân và lính đã thụ động co rút dưới hỏa ngục do từ trên trời xuống trong hơn 2 tháng; pháo kích không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt; pháo đầy trời như mưa; pháo ào ạt như gió; pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng đường như Mậu Thân, pháo không đi từng luồng như hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mây bay giăng giăng che kín cả bầu trời An Lộc. Nhờ Đại tá Lưỡng rút kinh nghiệm trận Hạ Lào, canh giờ địch thường hay dùng biển người tấn công, ông xin mấy Pass B-52 rải thảm cách vòng rào phòng thủ không quá 1000 thước, cả Trung đoàn địch đang hung hăng tấn công, bỗng bị cuốn mất trong đám bụi mù, nhờ vậy Bình Long được yên tỉnh mấy ngày.
                                  TĐ6ND, sau khi bị tổn thất nặng tại Đồi Gió (chỉ còn 180 người) rút về Lai Khê tái bổ sung và huấn luyện cấp tốc tại chỗ, được trực thăng đổ hai đại đội của Ngô xuân Vinh (tự Vinh Con) và Nguyễn văn Nghiêm, trưởng ban 3 kiêm nhiệm xử lý chức vụ Tiểu đoàn phó thay thế Thiếu tá Bằng (bị thương mắt tại Đồi Gió), nhảy xuống Tân Khai, phía Nam Thị Trấn, đánh bật lên Xa Cát, Xa Cam, các bộ đội địch lâm vào cảnh lưỡng đầu thọ địch (trong đánh ra, ngoài đánh vào), nên trở tay không kịp, bị lính Dù hốt sạch. Tiểu Đoàn 6 Dù bắt tay được với TĐ8ND tại cửa ngõ vào An Lộc, như vậy coi như Bình Long đã được thoát hiểm.
                                  Cũng nên kể lại trường hợp của trại Tống lê Chân, vì pháo binh trong An Lộc bị tê liệt do các cuộc pháo kích dữ dội của quân Bắc Việt, Quân đoàn III đã thả pháo binh 155 vào trại để từ đây bắn yểm trợ cho Bình Long. Tiểu Đoàn 92/BĐQ/Biên Phòng của Đại úy Ngôn (Ngôn, Khóa 21 Đà Lạt, là người hùng ở Tống lê Chân, trong 1 năm anh được thăng cấp 2 lần, chính Tổng Thống ra lệnh thả lon Trung tá bằng máy bay xuống tưởng thưởng cho anh) đã tuần tiểu lục soát tiêu diệt toán nghiên cứu chiến trường của Cục R, họ đã bắn chết một Thượng tá có trách nhiệm tìm lý do tại sao cuộc tấn công hỗn hợp chiến xa và Bộ binh của chúng vào An Lộc bị thất bại nặng nề.
                                  CSBV bại trận, không chiếm được An Lộc bằng những chủ lực vô cùng hùng hậu, vì vậy Hiệp Định Ba Lê được chúng bằng lòng ký kết (Ngôn sau nầy bị chết trong trại tù VC). Khi đóng tại căn cứ Sư đoàn 5 BB ở Lai Khê, tôi có gặp Biệt đội Tác Chiến Điện Tử Sư đoàn 21 Bộ binh, họ rủ nhậu bia với rắn “Ri Cá”! Tôi thấy anh em Sư Đoàn 21 ôm ra từng bao cát, trong đó đựng những con rắn ngọ nguậy trông thật ghê khiếp. Họ làm thịt tại chỗ; vì sợ mất mặt màu áo binh chủng, tôi cố uống nhiều bia để lấy can đảm, rồi mới dám ăn, lúc tài xế chở về doanh trại bên SĐND, nhớ tới động tác ngọ nguậyï của rắn ri cá, nên buồn nôn, khiến bụng sạch bóc luôn!
                                  Anh em Biệt Đội TCĐT/SĐ21BB thật là hào sảng chịu chơi, họ mới gặp tôi lần đầu mà đã mua từng chồng két bia để đãi, nhất là những con rắn, đã vất vả đem từ Bạc Liêu xa xăm lên. Có lẽ họ thích nét hào hùng của lính Nhảy Dù, cũng có thể trong đó có anh tài xế của vị Biệt đội trưởng tiền nhiệm đã kể lại, lúc trước tôi đã mời lại nhà đãi cơm canh chua cá bông lau và còn cho anh 40 lít xăng để lái xe về Bạc Liêu.
                               
                              16. Trận Tái Chiếm Cổ Thành  Quảng Trị

                               
                                  Khi hay tin Quảng Trị bị thất thủ, dân quân tranh nhau chạy về Huế, Tướng Trưởng phải bỏ bữa cơm trưa tại dinh Tổng Thống để cấp tốc bay ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Huế lúc nầy đang ở trong tình trạng hỗn loạn vô trật tự.
                                  Trung tướng Trưởng, với một sự bình tỉnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho một ai. Ông đã vãn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt lại ngay hệ thống an ninh phòng thủ trên bờ sông Mỹ Chánh, sẵn sàn chờ đón một cuộc tấn công mới của địch. Vì họ đã chiếm được một phần đất khá sâu và đang muốn tiến xa xuống phía Nam khai thác thành quả chiến thắng vừa đạt được.     
                                  Tướng Trưởng biết lợi dụng sự già nua của cán bộ VC. Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận lúc đó thay vì thừa thắng xong lên, ông ta cho dừng quân chờ báo cáo chiến thắng và nhận chỉ thị mới. Hà Nội tức giận việc nầy, ra lệnh sa thải ngay viên tướng nhát gan và gởi một thượng tướng Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng vào thay thế.
                                  Tướng nầy đến nơi phải mất gần một tháng mới nắm được quân tình để hòng tiếp tục khai thác thêm chiến quả. Một thời gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống phòng thủ. Ông chẳng những chận đứng được đợt tấn công của địch mà còn phản công dò dẫm ở một vài điểm, làm địch quân phải lúng túng và chùng bước tiến quân của họ lại. Ông đã nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 sư đoàn chánh qui Bắc Việt đang đối diện ở bờ Bắc sông Mỹ Chánh, bằng 2 sư đoàn tổng trừ bị là Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC mà hiện ông đã có sẵn trong tay.  
                                  Biệt đội tôi theo Bộ Tư Lệnh ra Huế và đóng quân tại Cây Số 17  gần cầu An Lỗ. LĐ1ND do Đại tá Lê Văn Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng, đóng ở bờ Nam gần cầu Mỹ Chánh. LĐ2ND do Đại tá Trần Quốc Lịch (rồi Đại tá Nguyễn Thu Lương thế chức LĐT), đóng ở căn cứ Hòa Mỹ, Phong Điền. Các Tiểu đoàn Dù hoạt động phía Tây Quốc lộ 1; từ Phong điền tới bờ Nam sông Mỹ Chánh, sẵn sàng đợi lệnh ào qua sông tiến về Bắc để tái chiếm Quảng Trị và Cổ Thành Đinh Công Tráng.
                                  Sau Trận Bình Long, Hiệp Định Đình Chiến Paris đang được tạm thời (vì Việt Cộng đâu bao giờ giữ lời hứa) áp dụng, hai bên lo chiếm đất dành dân kiểu da beo. Các đơn vị cũng được một thời gian an ổn thoải mái.
                                  Bấy giờ khí hậu ở đây thật là nóng bức, nắng lửa mưa dầu. Mỗi buổi trưa, Thiếu tá Hồng Thu, đại đội trưởng Quân Cảnh Dù, Thiếu tá Đàn, Tâm Lý Chiến, Thiếu tá Bằng, đại đội trưởng Tổng Hành Dinh, Thiếu Tá Tôn Thất Hiếu, đại đội trưởng Truyền Tin, Đại Úy Nguyễn Thanh Nhàn, Tiểu đoàn Công Binh, và tôi,....thường rủ nhau ra sông An Lỗ tắm.
                                  “Sông An Lỗ nắng đục mưa trong” (phỏng theo câu ca dao nói về sông An Cựu). Bấy giờ là mùa mưa, nước sông trong leo lẻo, chúng tôi thường bơi ra giữa dòng, rồi nắm tay nhau lặn thi, ai nổi  lên trước thì thua chầu đãi nhậu tại chỗ. Trên bờ sông có quán bán cua luộc và hột vịt lộn, chúng tôi lặn xong rồi lên uống bia với cua cũng vui vẻ lắm. Thiếu tá Đàn rất rộng rãi, anh thường đãi chúng tôi đi ăn bún bò Mụ Rớt ở Gia Hội, hoặc Cơm Âm Phủ ở gần Đập Đá, anh nguyên là Cảnh sát trưởng một Quận trong Thành Phố Sàigòn.
                                  Một hôm Thiếu tá Hiếu lái trực thăng C&C của Tướng Lưỡng, chở chúng tôi ra cửa Thuận An tắm biển, rồi tới nhậu mực tươi của Thiếu tá Chỉ huy Trưởng căn cứ Hải Quân tại đây, anh nầy cùng khóa 16 Đà Lạt với Thiếu Tá Bằng. Mực tươi luộc đựng đầy trong thau to trông thấy ớn! Vì anh phi công trưởng nầy khóa 21 Đà Lạt nên rất chịu chơi; một hôm khác, anh cho Thiếu tá Hiếu lái chở chúng tôi ra Đà Nẵng nhậu xong rồi về trong ngày, để mọi người kịp dự thuyết trình trong phiên họp tham mưu mỗi buổi chiều của Sư đoàn.
                                  Trong cuộc chiến Việt Nam, chiến sĩ Dù thường phải đi khắp nơi để đánh dẹp quân thù, chúng tôi ngoài việc thường xuyên xa nhà, sống trong rừng thiêng nước độc, ngày đêm chạm mặt quân thù. Những ngày dừng quân tiếp tế hoặc đợi lệnh hành quân kế tiếp, mọi người thường đi tham quan thắng cảnh hoặc rủ nhau chè chén cho đỡ lòng nhung nhớ vợ con, thân thuộc.
                                   Rồi ngày tái chiếm Quảng Trị sắp đến, Bộ Tư Lệnh họp các Lữ Đoàn Trưởng, các phòng ban lia lịa; và cho tổ chức buổi thuyết trình hành quân mời các đơn vị tăng phái, phổ biến rộng rãi ngày chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh tấn công tái chiếm Quảng Trị. Nội tuyến và tình báo địch nhận được tin, chúng cho dàn trận chờ đưa các đơn vị ta vào rọ, nào xe tăng T-54, T-64, PT-76, Phòng Không 30 ly, đại bác 130 ly,...cùng các Sư đoàn chánh qui của quân Bắc Việt. Thật là một lực lượng hùng hậu chưa từng thấy, một con kiến cũng khó qua, một con ruồi cũng bay không lọt!  Nhưng.....
                                  Ngày N đã điểm các đơn vị quân Nam chuẩn bị như sẵn sàng xuất quân nhưng không thực sự tiến quân (chỉ dùng kế nghi binh), đêm trước đó các Pass B-52 trải thảm liên tục bên bờ Bắc sông Mỹ Chánh; các Phi tuần Khu Trục, Pháo binh 105 ly, thay nhau nả vào các tuyến án ngữ suốt ngày, khiến địch bị tơi bời. Quân CSBV giống như bị thiên lôi đánh, không thể ngóc đầu dậy tháo chạy được !
                                  Rồi vài hôm sau, ngày 7 tháng 5 năm 1972 (lại một mùa hè đỏ lửa) trong khi địch quân không còn dám tập trung gần bờ sông Mỹ chánh, trong khi họ chưa hồi sức bởi trận thiên lôi giáng; các đơn vị sau khi đã trực tiếp nhận khẩu lệnh (để giữ bí mật tuyệt đối), bắt đầu xuất quân. Sư đoàn Dù phụ trách phía Tây Quốc lộ 1, bên cánh phải có Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
                                  Một giờ khuya, TĐ1ND vượt sông Mỹ Chánh đánh bất ngờ, khiến địch trở tay không kịp, mới mờ sáng đã nghe họ báo cáo tịch thu tới 11 khẩu đại bác Phòng Không 30 ly!
                                  Cánh TĐ11ND do Thiếu tá Mễ làm TĐT và Thành Râu, TĐP, từ Phong Điền tiến về hướng Tây Bắc, đuổi địch chạy qua bên kia sông. Vào nửa đêm 14/5, chúng trở lại phản công, pháo dữ dội vào tiểu đoàn, rồi các chiến xa địch lù lù tiến vào vị trí phòng thủ. Lúc ấy TĐT Mễ đã bị thương, Thành Râu (xử lý TĐT) đứng trên đỉnh đồi dùng ống dòm Hồng Ngoại Tuyến thấy bóng nhấp nhô như bầy “Cua đinh” lấp loé ánh đèn của đoàn xe tăng giống một đàn đom đóm, Thành vội gọi pháo binh bắn chận. Đại úy Triệu cho bắn đạn CVT để tiêu diệt đám bộ binh tùng thiết, nếu mảnh đạn mà trúng vào thùng xăng thì những con cua đinh sẽ trở thành “Cua rang muối” ngay lập tức. Một chiếc bị pháo cháy, nhưng chiến xa và tùng thiết địch vẫn tiến, đại bác 76 ly và đại liên 12.8 ly từ trên pháo tháp nả vào TĐ11ND. Chờ tới gần, binh sĩ dùng súng chống chiến xa M-72 và Hỏa tiễn lân tinh 4 nòng MX202 bắn hạ hết 8 chiến xa địch, ngoài ra binh sĩ còn dùng lưỡi lê, lựu đạn để tiêu diệt những tên tùng thiết ngoan lỳ dám xong vào tuyến phòng thủ của tiểu đoàn.
                                  Ở xung quanh đồi Trần Văn Lý (tên của một Thiếu úy thuộc TĐ11ND đã hy sinh tại đây), các đơn vị đã dùng hỏa tiễn Tow diệt thêm 7 chiến xa địch. TĐ11ND sau đó tiến lên diệt 3 nút chận quan trọng khác là nhà thờ La Vang, căn cứ Trung Đoàn 3 BB cũ, và Chi Khu Mai Lĩnh để trợ giúp cho TĐ5ND và TQLC tiến đánh Cổ Thành. “Tinh thần” TĐ11ND lúc bấy giờ rất hăng hái vì nhân dịp giỗ thất tuần của cố Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Đình Bảo, toàn thể chiến sĩ quyết tâm “Rửa hận” trận Charlie và họ đã chiến thắng nhờ ba yếu tố:
                                  1. Đơn vị đã xử dụng 24 phản lực cơ yểm trợ một lúc, phi cơ bay rợp trời, dùng “Smart Bomb” để tiêu diệt chiến xa.
                                  2. Ngay cả một sĩ quan tâm lý chiến của Tiểu đoàn với độ cận thị rất nặng, vậy mà đã xử dụng và chỉ huy toán “Hỏa Tiễn Tow” tiêu diệt nhiều chiến xa địch.
                                 3. Thả bom B-52 cách tuyến phòng thủ chỉ có 700 thước, để tiêu diệt Chiến xa và Bộ binh địch (đây không phải là khoảng cách an toàn tối thiểu cho loại phi cơ chiến lược nầy)
                                  LĐ2ND chiếm các căn cứ ở đỉnh cao dãy Trường sơn như Barbara, Động Ông Đô (những tên nầy được đặt sau hiệp ước đình chiến), và chiếm đỉnh cao (căn cứ Ann sau nầy) đặt các khẩu pháo 155 ly ở hướng Tây Ái Tử. Các tiểu đoàn thuộc LĐ2ND, báo cáo tịch thu trên 2000 khẩu súng, trong đó có phòng không 30 ly, đại bác, và hỏa tiễn đủ loại. Ngoài ra các đơn vị còn tiêu diệt nhiều chiến xa của địch. Thiếu tá Đào Thiện Tuyển, TĐP/TĐ8ND, báo cáo thấy nhiều đồ lót phụ nữ và nghe nhiều tiếng chửi chí chóe của các cô hộ lý tại căn cứ 18 (Đại tá LĐT Nguyễn Thu Lương định đặt tên Căn cứ 81, nhưng Trung tá Tuyển sợ kỵ húy ảnh hưởng không tốt cho ĐĐ81 của ông, nên đổi ngược là cô gái 18):
                                  - Đ.M. các ông chạy bỏ chúng tôi lại không kịp dẹp nồi niêu, son, chảo,... như vậy thì còn bố chi mà nấu nướng đây?
                                  Cánh quân các tiểu đoàn khác, trong đó có Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cùng nhau Bắc tiến đánh đuổi địch ra khỏi các quận Triệu Phong, Hải Lăng khi tới Ngã Ba Long Hưng thì bị khựng lại. Tại đây địch đã làm tuyến án ngữ từ Ngã Ba tới cầu Thạch Hãn, TĐ5ND và đơn vị bạn phải dùng cận chiến, đôi bên đều tổn thất nặng nề. Nhờ vậy địch quân lùi vào tử thủ cổ thành Đinh Công Tráng. Một đại đội của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã lên được Cổ Thành, nhưng bị một trái bom của Mỹ thả gần quá làm tổn thiệt một số chiến sĩ dũng cảm ở trên bờ thành. Sau khi TĐ5ND rút ra đi về mục tiêu kế tiếp ở phía Tây Quốc Lộ I, phi cơ tiếp tục dội bom làm tan nát cổ thành, một đơn vị của TQLC đã nhào lên chiếm được vị trí quá kiên cố đó, và địch quân chịu không nổi phi pháo, nên rút chạy về phương Bắc (nhưng sau trận nầy, cổ thành sụp đổ tan tành, mất tiêu dấu vết cổ kính của một di tích lịch sử!)
                                  Trong một thời gian hạn định, Tướng Ngô Quang Trưởng đã điều động 2 đơn vị Tổng Trừ Bị tái chiếm lại được Quảng trị, nơi địch quân đã dồn hết lực lượng chủ chốt để thách đố quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Trưởng đã diệt địch không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhỏ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi diệt gọn địch. Ông tiếp tục cho hành quân phản công lấn đất lần về đến thị xã Quảng Trị. Sau đó chiếm lại thành phố và bao vây cổ thành Quảng Trị, rồi trương cờ lên cổ thành Đinh Công Tráng. Ông cho lệnh bố trí quân phòng thủ phía Nam sông Thạch Hãn, dùng phía Bắc bờ sông như vùng trái độn để củng cố và tổ chức các tuyến phòng ngự, xử dụng trọng pháo tối đa để ngăn chận địch quân tiến gần bờ sông (nói thêm là sau trận chiến thắng nầy, tướng Trưởng có được một cháu trai, ông đặt tên là Trị). Ngũ Giác Đài và các danh tướng ngoại quốc hết sức khâm phục sự chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC nói riêng.
                                  Sau trận nầy, địch quân hoàn toàn mất khả năng chiếm giữ Thị Trấn Quảng Trị, vì cổ thành đổ nát, Thị Xã tan tành bởi bom, đạn pháo; nên chánh quyền lập thị trấn mới tại Quận Triệu Phong, Phía Bắc sông Mỹ Chánh. Địch quân núp vào dãy núi Trường sơn ở phía Tây, thỉnh thoảng pháo vài quả khuấy rối, như để chứng tỏ còn hiện diện tại đây. Vì vậy các đơn vị Dù thay phiên nhau lên các đỉnh núi cao trong dãy Trường Sơn, lập căn cứ đóng đồn giống như Địa Phương Quân.
                                  Điều đáng buồn là Đại tá Nguyễn Trọng Bảo, Tham mưu trưởng SĐND, đi quan sát bằng trực thăng, chẳng may máy bay bị địch bắn trúng và rớt xuống vùng phía Đông Bắc cầu Mỹ Chánh, ông bị tử thương cùng Trung tá Huỳnh Long Phi, pháo binh. Đại úy Lang bị thương chân và phỏng nặng cấp ba, còn Đại úy Công binh Nguyễn Thanh Nhàn thì thật may thoát khỏi nạn vì vợ ra thăm nên đại úy Lang đi thế. Tin nầy làm Tướng Đống nằm bịnh liệt giường hết mấy ngày, vì ông rất thương vị Tham Mưu Trưởng đã từng giúp ông rất đắc lực trong nhiều năm qua.
                                  Tháng 3 năm 1973, xe Jeep chở tôi chạy tới cua quẹo gần cầu Phong Điền thì bỗng bị lạc tay lái, xe lật nhào xuống lề đường sâu thoai thoải; tôi đang ngồi ở ghế trưởng xa, bị văng ra ngoài, lưng chạm vào viên đá, gây chấn thương cột sống, hai chân bị tê liệt, mất cảm giác và không thể cử động từ thắt lưng trở xuống! Thế là đời binh nghiệp chấm dứt từ đây!


                              Trương Dưỡng. K20
                              nguồn:
                              http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

                              Comment


                              • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 4

                                Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
                                Trương Dưỡng - K20

                                Chương 4
                                 
                                Gãy Gánh Giữa Đường
                                 
                                1. Tai Nạn Thảm Khốc

                                 
                                    Năm 1973 tôi ra thăm toán Tác chiến điện tử tại LĐ1ND, ở bờ Nam sông Mỹ Chánh thuộc tỉnh Quảng Trị. Trên đường về xe Jeep bị lật ở khúc cua quẹo ngay chân cầu Phong Điền khiến lưng tôi chạm nhằm viên đá, gây chấn thương cột sống! Thế là cuộc đời gãy gánh giữa đường !!!
                                    Sau khi tỉnh dậy chờ xe cứu thương di tản, tôi bi quan nằm ngó trời đất mênh mông. Nghĩ đến số phận tàn phế của mình, chẳng lẽ phải tiếp tục kéo dài cuộc sống không lạc thú nầy hay sao? Nghĩ đến người vợ còn trẻ tuổi (chưa đầy ba mươi!), tôi muốn tự giải thoát để không liên lụy cuộc đời son trẻ của nàng. Nhưng khi nhớ đến ba đứa con còn nhỏ dại rồi đây sẽ ra sao ? Chỉ trong mấy phút mà đầu óc suy nghĩ đủ thứ. Cuối cùng tôi quyết định không buông xuôi, phải cố gắng tồn tại, dùng bộ óc và kiến thức sẵn có để dìu dắt các con cho nên người rồi sẽ tính sau.
                                 
                                a). Tại Bệnh Viện Cộng Hòa
                                     Khi được chở về tới Trạm xá ở bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, nhìn thấy Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh SĐND, Đại tá Phước, Tư Lệnh Phó, tới thăm; nhưng tôi cứ nhắm mắt buông xuôi. Lúc đó tôi không muốn gặp ai, chỉ mong được yên lặng để tiếp tục suy nghĩ về số phận tương lai của mình.
                                    Sáng hôm sau, đích thân Bác sĩ Trần Khắc Niệm, Y Sĩ Trưởng, kiểm soát lại bệnh tình rồi gọi về Hậu cứ nói Bác sĩ Tường cho người đón và đưa tôi thẳng vô Bệnh viện Cộng Hòa để kịp giải phẫu lấy máu bầm sớm, may ra cứu vãn được phần nào hệ thần kinh tủy sống. Bác sĩ Niệm, Bác sĩ Tường, y sĩ trưởng bệnh viện Đỗ Vinh, là những người bạn rất tốt. Lúc bình thường Cò Thu, tôi, và anh Niệm thích chơi bóng chuyền với nhau, tại sân Trạm xá Quân y. Chúng tôi cũng ưa rủ nhau ra thành phố Huế du ngoạn nơi các Lăng Miếu cổ xưa, vào Hoàng Cung Đại Nội xem các di tích lịch sử và ăn bún bò nổi tiếng ở Gia Hội,...nhưng từ đây tôi sẽ không còn những ngày huy hoàng đó nữa!
                                    Vô Bệnh Viện Cộng Hòa, họ chụp quang tuyến và đưa đi mổ ngay. Đây là cuộc giải phẫu lớn, gần một buổi sáng mới xong. Khoảng nửa ngày thì tôi tỉnh dậy, thấy miệng khô và khát nước vô cùng! Nhưng họ không cho uống, chỉ lấy bông gòn thấm nước thỉnh thoảng để trên môi cho thấm xuống chút xíu, vì mới mổ mà uống nước sẽ nguy hiểm. Lúc ấy tôi bị hành sốt và lạnh run, miệng đánh bồ cạp liên tục! Y tá đấp mền và lấy đèn sưởi mà không đỡ chút nào, thân nhân đứng ngoài phòng kiến nhìn cảnh như vậy mà đau lòng xót ruột.  
                                    Vợ tôi sau nầy kể lại là thường ngày tôi rất kỹ, trước khi ăn đều rửa tay, vậy mà hôm đó cục bông gòn ướt rớt xuống nệm dơ bẩn, tôi vẫn cứ lượm lên liếm một cách ngon lành, giống như những em bé thèm kẹo cục vậy!
                                    Ở Hậu giải phẫu một thời gian, họ đưa tôi tới phòng điều trị, tại đây có một số sĩ quan bị thương cột sống như :
                                    * Thiếu Úy Nguyễn Văn Tuân, khóa 24 ĐL, còn độc thân.  Anh mới ra trường 6 tháng thì bị bắn trúng ngay xương sống, chỉ có bà mẹ già gần 70 tuổi vào nuôi bịnh. Tuân bị lở nhìn thấy cả xương khu, vết to bằng bàn tay, hằng ngày phải rửa nước biển, chữa trị suốt cả năm vẫn chưa lành.
                                    * Chuẩn úy Linh, vừa mới cưới vợ một tháng, bị thương giống Tuân; tội nghiệp vợ Linh còn trẻ đẹp mà sớm chịu cảnh nầy! Hằng ngày chị chăm sóc Linh rất chu đáo và tận tình.
                                    * Chuẩn úy Sơn, xương sống không vỡ; nhưng bị chấn thương, làm ảnh hưởng thần kinh tủy. Sơn bị loại liệt mềm, đôi chân thường co giựt. Ba má và em trai hằng ngày thay phiên vào chăm sóc. Sau ngày mất nước, vì sinh kế, gia đình về quê làm ruộng; nhưng dân ở đó nghèo quá làm bậy. Họ vào nhà Sơn ăn trộm; má Sơn thấy la lên, bị họ đánh trúng cổ, gây chấn thương cột sống và tê liệt 2 chân giống con! Gia đình Sơn phải trở về Phú Nhuận sống lây lất qua ngày. Tội nghiệp ba và em trai của Sơn phải làm việc vô cùng vất vả, để đùm bọc, chăm sóc hai mẹ con bị bịnh hiểm nghèo nầy. Má Sơn chịu đựng được mười năm và vừa mới mất hai năm trước.
                                    * Thiếu úy Lạc cũng còn độc thân như Sơn và Tuân, bà mẹ ở Bến Tre lên chăm sóc anh rất kỹ. Lạc có tiến triển, vài dây thần kinh phục hồi dần, đôi chân cựa quậy chút chút. Sau nầy trước khi xuất viện về Bến Tre, anh đứng được tập đi bằng cách vịn trong hai thanh paralel.
                                    * Đại úy Bếp, Đại đội trưởng công vụ Liên đoàn Biệt Động Quân, căn cứ ở gần cầu Bình Lợi, anh bị thương vì pháo kích. Trung tá Hồng, Liên Đoàn Trưởng, cũng bị thương chân trong ngày đó, nằm ở trại sĩ quan cao cấp (sau nầy họ chuyển tôi xuống nằm cạnh phòng Trung tá Hồng). Gia đình anh Bếp coi bộ khá giả, chị nói cho ăn ổ yến, nên có tiến triển và phục hồi đôi chút, anh thường đi ngâm đôi chân vào hồ nước xoáy.
                                    Cũng từng là Đại đội trưởng Chỉ huy Công vụ như anh, nhưng bà xã tôi, những ngày cuối tháng chưa kịp lãnh lương, phải qua bà Thượng sĩ Bạc (Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù) mượn tiền đi xe Lam vô thăm nuôi!
                                     Thật ra làm Đại Đội Trưởng muốn giàu có thì không được, nhưng muốn có chút ít xài vặt cũng không khó. Lúc còn ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, Trung sĩ Dậu, kế toán trưởng, thấy gia cảnh tôi quá đơn sơ đạm bạc, ở nhà lợp “Tôn” nóng bức. Đích thân Dậu và anh thợ hớt tóc kiêm thợ mộc tên Tám đi kiếm thùng đạn pháo binh về đóng “La phông”, để có thể nằm nghỉ trưa; anh và Tám còn đóng một cái giường, tuy thô sơ nhưng lòng tôi rất ấm cúng, vì đó là tình nghĩa, là tấm lòng tốt của Dậu và Tám, nhưng lòng tôi vẫn ái ngại mỗi khi nghĩ đến chuyện nầy.
                                    Có lần má của binh nhì Dũng, một người giàu có, nhà thầu khai thác trục Đa Sa (đường dẫn vào trường Võ bị Đà Lạt), đến văn phòng đại đội nhờ Dậu giúp đỡ dùm. Vì Dũng thích Nhảy Dù quá nên bỏ học, chưa đủ 18 tuổi mà đã trốn nhà đi lính; khiến ai nấy đều lo âu sợ sệt. Bà tìm đến nhà tôi nhờ giúp đỡ và hứa sẽ hậu tạ, thấy Dũng còn vị thành niên, tôi cho em ở Trung đội Chỉ huy, bớt nguy hiểm phần nào, nhưng không nhận thù lao, chỉ lấy bó hoa hồng Đà Lạt thôi.
                                    Dậu rất tốt và hiểu tôi nhiều nhứt, hôm Tết tôi treo tiền cho đội lân nhà, sau khi kiểm điểm, thấy dư thừa cho buổi tiệc Tân Niên. Dậu bàn với Trường đem hoàn lại số tiền; nhưng vợ tôi không nhận, coi như ủng hộ phần nhỏ mọn nầy cho anh em binh sĩ vui chơi trong ba ngày Xuân. Dậu và Trường thật chí tình và trung tín, dầu đi đâu hay ngay khi ngồi viết bài nầy, tôi vẫn hồi tưởng lại và thương mến họ, cùng các anh em từng sống chết có nhau, ở Đại đội 91 Nhảy Dù.
                                    Một trong những bịnh bi đát và khổ sở nhất là bịnh chấn thương cột sống; hệ thống bài tiết bị đình trệ, gần như không còn hoạt động tốt và gây rất nhiều biến chứng. Họ để ống “Xông” vào bọng đái thường trực gây ra nhiểm trùng, chuyền lên tới hai quả thận. Riêng tôi còn bị ống xông loại cứng quá làm lủng từ bọng đái xuyên qua ruột già, khiến nước tiểu chảy qua đường hậu môn! Lúc đó họ định mổ tách ra, nhưng thấy tôi còn yếu nên tìm loại ống xông đặc biệt đặt thường trực và bơm nhiều thuốc trụ sinh vào chai nước biển diệt vi trùng để bảo vệ thận. Họ cho trụ sinh nhiều quá đến đổi cơ thể tôi không còn tiếp nhận được Pénicilin, hễ chích vào sẽ bị phản ứng, ngay cả uống Ambicilin cũng vậy.
                                    Còn việc đại tiện thật là bế tắc, mỗi ngày tôi nhìn thấy ra ba cục “Thuốc tể” thì mừng rỡ, nhưng nếu lớn bằng ba cục “Cứt dê” thì trong người thật khó chịu! Cứ ôm cái bụng chình bình; không còn muốn ăn uống gì nữa; lúc đó tôi ốm yếu cân mất hơn 50 pounds (gần 25 kí lô!).
                                    Cháu Thành bấy giờ đã hơn 3 tuổi, ngày nào cũng theo má vào thăm tôi. Nó ưa leo lên giường nằm cạnh bên, khiến mọi cơn đau đớn về thể xác như tiêu tan mất hết. Có lần đi ngang qua hai chân, thấy tôi đang lót báo, nó vội lật đật nhảy xuống cái rột, thật là đáng “Ghét” vô cùng.
                                     Trước đó, mỗi khi Biệt Đội được ở hậu cứ, sáng nào nó cũng canh thức sớm, leo lên xe Jeep theo tôi vào văn phòng làm việc. Thành thường trèo lên bàn lấy viết vẽ lung tung; nó thích cho chú tài xế chở đi chơi vòng vòng. Các sĩ quan và quân nhân trong Biệt Đội đều thương nó. Mỗi lúc đi hành quân xa, tôi thường lén thức dậy một cách nhẹ nhàng để trốn ra phi trường, nhưng lần nào cũng không gạt được, tôi vừa ngồi dậy là nó liền mở mắt đen thui, làm như đã canh sẵn hồi nào tới giờ.
                                    Khi máy bay bắt đầu lăn bánh ra phi đạo, tôi nhìn nó mà ứa nước mắt, thật sự không muốn rời xa con chút nào; nếu đào ngũ được tôi cũng muốn làm. Có lần Huy lúc ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù đã đào ngũ; vậy mà ra Quảng Trị, hắn cũng dám lại thăm tôi như thường (đơn vị Nhảy Dù chỉ cần người tình nguyện. Những ai quá nặng nợ, không kềm giữ được bản thân thì không giúp gì cho đơn vị thiện chiến nầy). Vì vậy khi có con cái đùm đề, nặng nợ gia đình, chần chừ mỗi khi đi hành quân xa, lúc đó tôi cảm thấy không xứng đáng mang danh binh chủng nầy chút nào!
                                    Nhà thương của Việt Nam đâu có máy lạnh nhiều như ở Mỹ, chúng tôi ai cũng bị lở (mông hoặc xương khu) vì hầm hơi, mặc dù thỉnh thoảng cũng nhờ thân nhân giúp trở mình qua lại. Tôi chỉ bị nhẹ, trong khi Tuân và Sơn thì lở rất nặng; nhưng vết mổ của mọi người đều lành thật chậm. Hằng ngày vợ tôi phải rửa bằng nước biển và băng bó kỹ lưỡng nhưng cũng không gom mặt. Sau nầy khi hành quân về, bác sĩ Niệm có tới thăm và cho hộp “Bô Mát” làm bằng một loại nấm gì ở Phi châu, do Pháp sản xuất. Khi thoa vài lần, thấy vết thương có tiến triển, tuy đắt tiền nhưng bà xã tôi vẫn kiếm mua, xức trong vài tháng thì lành hẳn.
                                    Vết lở của tôi bằng đồng bạc mà cũng nửa năm và tốn rất nhiều típ bô mát mới hết, đây đúng là bịnh nhà giàu! Vì mỗi lần lở lâu lành nên tôi giữ gìn rất kỹ; ngày nào cũng tắm rửa sạch sẽ; tối nào cũng thức giấc nhiều lần để trở mình (thói nầy tập quen từ năm 1973 và đi theo tôi tới giờ đã gần 25 năm!).
                                    Không khí sinh hoạt ở đây cũng dễ chịu, đồng cảnh thường thương mến giúp đỡ lẫn nhau. Thân nhân được đôi chút an ủi vì những người xung quanh ai cũng nồng nhiệt; lúc rảnh rỗi mấy bà thường tụ họp chuyện trò thăm hỏi nhau, trong đó đề tài chánh thường bàn về vết lở và táo bón của người thân họ.
                                    Một tháng sau, Sĩ quan Đại diện SĐND vào bệnh viện gắn cho tôi cấp bậc Thiếu tá và chuyển xuống trại sĩ quan cao cấp. Tại đây, cấp Trung và Thiếu tá thì hai người một phòng, Đại tá ở phòng có máy lạnh, cấp Tướng thì rộng rãi và tiện nghi hơn. Trưởng trại sĩ quan cao cấp là Trung úy Hai, sau ngày mất nước, nghe nói anh là nội tuyến nằm vùng (chỉ nghe nói chứ chưa xác định rõ). Dãy nhà cấp Tướng, lúc đó có Ngô Quang Trưởng,Tư Lệnh Quân Đoàn I và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương,...Cụ Hương chỉ thích nằm võng chứ không chịu nằm giường. Nghe nói Tướng Trưởng đã bất mãn vụ gì đó nên khai bịnh như để phản đối một cách tiêu cực.
                                      Tôi nằm cùng phòng với Thiếu tá Anh, là Phi công lái F-5 đầu tiên của ngành không quân. Anh ra ngoài Bắc oanh tạc, máy bay trúng đạn, bị thương ở chân. Mỗi tối có một binh sĩ Biệt đội thay phiên đến trông nom, vì vợ tôi lo ở nhà coi sóc 3 đứa con còn nhỏ dại. Tội nghiệp cháu Thiện lúc đó mới sanh 7, 8 tháng, ở nhà với anh Tâm (mới 6 tuổi) và chị Hảo, người giúp việc cho gia đình mấy năm nay.
                                    Cháu Hảo là con của một Trung sĩ Dù, nhà trong trại Hoàng Hoa Thám, tánh tình cương trực không tham lam. Có lần bà xã tôi mua giấy số, cầu mong có chút đỉnh tiền lo cho chồng, con. Nhưng vì đầu óc bối rối lo lắng đủ điều, tiền lương cố định; mà phải nào là thuốc men, nào là cơm gạo và nhất là phải có tiền mua sữa cho cháu Thiện nữa. Mắt thì dò giấy số mà đầu óc cứ nghĩ đâu đâu, như Tú Xương đã nói về vợ:
                                       ....Nuôi nấng ba con với một chồng (đang bịnh)
                                           Lặn lội thân cò khi quãng vắng....
                                    Hảo lượm giấy số đã quăng bỏ lên coi lại, bỗng la lớn:
                                    __ Trúng cặp 7 một trăm ngàn rồi cô ơi !
                                    Vợ tôi không tin, nhưng cũng miễn cưỡng coi, bỗng mắt nàng sáng lên vì quả thật là trời đã ngó lại!
                                    Ở trại sĩ quan cao cấp, mỗi ngày tôi mang giày nẹp tập đi trong hai thanh paralel; ngoài ra còn lo vô nước biển, trong đó có thuốc trụ sinh, để chữa bệnh nhiễm trùng đường tiểu gây ra do đặt ống xông lâu ngày. Điều trị hơn một năm thì sức khỏe tôi hồi phục dần, hằng ngày có thể tự lăn xe đi vòng vòng trong khu trại nầy, và mỗi buổi sáng thường ra phơi nắng. Chiều tới, khoảng năm giờ là bắt đầu thấy buồn, vì hai mẹ con sửa soạn ra về, nhất là cháu Thành cứ quay lại vẫy tay chào làm tôi ứa nước mắt.
                                    Không hiểu tại sao lúc đó tôi dễ nhạy cảm và con người quá yếu đuối? Có lần Thành nghịch ngợm, mẹ nói hoài không nghe, nên giận quăng đôi giày của nó ra sân; chỉ có vậy mà tôi cũng chảy nước mắt. Có lẽ trước kia tôi còn nghĩ đến quyền quý danh vọng, bây giờ thì mất tất cả. Chỉ còn lại bốn mẹ con yêu thương trong tầm tay, tôi muốn họ lúc nào cũng được yên vui hạnh phúc mãi mãi, không ai được động tới họ.
                                    Những ngày ở bệnh viện buồn chán, may nhờ có mấy đứa con vô chơi nên tôi cảm thấy yêu đời dần dần và tự nhủ thầm: hãy bỏ mọi ước mơ ảo tưởng qua một bên, không nhìn về quá khứ để ngồi than thở, hối tiếc; mà nên bằng lòng với định mệnh để nắm giữ cái hiện hữu thực tại, và cố ngoi lên trong khả năng hạn chế của mình (Thực sự nếu cứ ngồi một chỗ để cằn nhằn so bì tại sao mình không đi đứng được như người ta, tại sao mình không có nầy không có nọ như người ta? Tại sao và tại sao,....thì thà xuống địa ngục còn sướng hơn)
                                    Thân thể tuy bất toàn nhưng không có nghĩa là cuộc đời đã chấm dứt; đôi chân không đi được nhưng khối óc vẫn còn nguyên vẹn. Nước chảy đá mòn, thời gian dài chịu đựng sự dày vò về thể xác lẫn tâm hồn suốt năm qua; vẫn không bào mòn được ý chí phấn đấu sẵn có trong con người từng xong pha vào làng tên mũi đạn quân thù như tôi. Mấy tháng nay tôi luôn tranh đấu với bản thân, quyết tâm hướng về tương lai, bỏ lại những quá khứ đau buồn từ ngày bị tai ương tàn khốc!
                                    Sau khi nghĩ thông suốt, tôi thường tự an ủi bằng cách so sánh với những người có cảnh ngộ khó khăn hơn mình. Như những người bị liệt tứ chi chẳng hạn, họ còn khổ sở hơn rất nhiều: hai tay cử động yếu ớt, khó thở vì phổi không được bình thường. Hoặc so với những người bị ung thư bất trị, hoặc những người già yếu lụm khụm. Ôi thế gian nầy còn biết bao nhiêu người đau khổ hơn mình; tại sao họ chịu đựng được, còn mình đường đường là một nam nhi, đã từng tôi luyện trong lò luyện thép tại Đà Lạt, đã từng “Nhảy Dù Cố Gắng”, chỉ huy binh sĩ trong các mặt trận thập phần nguy hiểm như Tết Mậu Thân ở Quảng Trị, Huế, và Vùng Ven Đô Sàigòn. Nào là mặt trận Tây Ninh, nào là Bình Long Anh Dũng, nào là vùng Phi Quân Sự, Hạ Lào,Campuchia,... Rồi tôi nghĩ đến những nhà tu hành đạo đức; họ đâu chú trọng về hưởng thụ bản thân, đã một lòng hướng thiện và cứu rỗi chúng sanh đang đau khổ vì cái vòng lẩn quẩn: sinh, lảo, bịnh, tử.
                                    Bây giờ đã thấu triệt, nhờ vậy tôi cảm thấy thoải mái và xin xuất viện về nhà để gia đình tránh khỏi một kiểng hai quê, hòng có dư chút đỉnh mua sữa cho cháu Thiện hiện còn quá thơ dại.
                                 
                                 b). Xuất Viện Về Nhà.
                                 
                                       Sau khi về nhà được một tháng thì có Tý, chồng của cô Tánh, là em họ của bà xã đến thăm. Tý ở Chợ Lớn là tay buôn bán lành nghề, chú chỉ tôi cách sinh lợi là thu mua sắt vụn rồi sẽ đưa người tới chở đi bán cho hãng nấu thép. Lúc đó nhờ mới trúng số nên có tiền mở địa điểm mua sắt vụn tại nhà.
                                    Gia đình binh sĩ nghe tin, vội đem mấy thùng phuy lủng, vỉ sắt mục sét, đồ sắt vụn,... đến cân bán ào ào, chẳng mấy chốc sân bên hông nhà chất cao ngất toàn là sắt phế thải. Tý gọi người đem xe tới chở được vài chuyến thì sắt vụn trong trại gia binh hết sạch, đành phải kiếm nghề khác. Lúc đầu An Ninh định cản trở họ mót sắt vụn ra kiếm thêm chút cháo, may nhờ Thiếu tá Triệu (sau khi chữa hết phỏng về làm Chỉ Huy Tổng Hành Dinh) can thiệp nên tôi cũng kiếm được chút ít (cám ơn nhiều nhe anh Triệu). Lúc đó Đại Úy Võ Tính, sĩ quan truyền tin, cho tôi một cuộn dây và Thiếu tá Ngọc, Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND, cho người kéo dây điện thoại xuyên qua doanh trại tiểu đoàn, nhờ vậy tôi ở nhà mà cũng có thể liên lạc được bạn bè. Có một phế binh đã giải ngũ chạy xích lô, thay vì đem xe vào nhà ở trong trại Hoàng Hoa Thám, anh đã đem gởi tại nhà tôi, để buổi chiều cậu em vợ, chở đi vòng vòng giải khuây.
                                    Một hôm tôi đem cán dao đi hàn ở tiệm trên Hương Lộ 14, gần chợ Tân Bình. Bác thợ hàn cũng là chủ nhà, đang hàn mà mắt đỏ ngầu, thỉnh thoảng có vài giọt nước mắt chảy xuống ướt hai gò má. Tôi tò mò hỏi thăm.
                                    Lấy tay vội lau nước mắt, ông nói:
                                    - Tôi đang nhớ đến thằng con đang đánh giặc ở Thường Đức. Mấy đứa bạn của nó về nói ở đó đang đánh lớn lắm, có rất nhiều thương vong! Tôi sợ nó bị điều gì thì cả nhà sẽ khổ lắm!
                                    - Bây giờ thời chiến loạn, ai cũng phải đi linh?
                                    - Nhà tôi mở tiệm hàn; nó là thợ chánh, còn tôi thì mắt đã loà; từ ngày nó đi lính, mọi chuyện điều bế tắc.
                                    - Con bác đi lính gì?
                                    - Nó đi Nhảy Dù.
                                    - Như vậy là tại nó tình nguyện chứ đâu có ai bắt buộc?
                                    - Nó tới tuổi Quân Dịch, nên đăng lính Nhảy Dù vì hậu cứ ở Sàigòn, gần nhà; vả lại nó cũng thích lính Nhảy Dù nữa.
                                    Tôi trả tiền hàn xong, định bảo Cậu Bảy (em vợ) lái xích lô về. Bỗng tôi chợt nghĩ có thể giúp bác thợ hàn được, nên nói bác thử ghi tên họ và số quân, may ra có thể lo được. Ông lão nghe nói mừng rỡ, như gặp tia sáng dưới đường hầm, nhanh chân vô nhà ghi vội vã. Rồi mặt mày hớn hở, hai tay cầm mảnh giấy đưa cho tôi và nói:                    
                                    - Nhờ ông giúp đỡ xin cho cháu được về Sài gòn tôi thật biết ơn vô cùng!
                                    Tôi cầm mảnh giấy bỏ túi; vài ngày sau đi lên hướng Bà Quẹo, thấy Tướng Lưỡng đang đứng trò chuyện với các sĩ quan đệ tử ở trước sân. Tôi ghé vô chào, ông hỏi thăm đủ điều, có vẻ rất quan tâm, tôi lúc đó rất cảm động, cuối cùng ông hỏi:
                                    - Dưỡng ở nhà có cần gì cứ gọi thằng Nhu (bạn cùng khóa, hiện làm Trưởng Phòng 1).
                                    Sẵn đó tôi xin Sư Đoàn cấp cho một xe Jeep và một tài xế để chở đi đây đó. Tướng Lưỡng là thầy cũ, ông rất thương yêu thuộc cấp, vì vậy vị Tư Lệnh gật đầu chấp thuận mau mắn:
                                    - Tôi sẽ bảo thằng Nhu lo cho.
                                    Sau khi từ giã mọi người, tôi tiếp tục đi lên hướng Bà Quẹo. Hai hôm sau, tôi gọi điện thoại cho Nguyễn Thành Nhu xin đích danh tên Đặng Văn Y, con của bác thợ hàn.
                                    - Mầy yên chí tao sẽ lo cho, cần gì cứ gọi vào đây.
                                    Nhu là thằng bạn tốt, vì bị thương nhiều lần nên được về làm chỗ không nguy hiểm như lúc còn ở đơn vị tác chiến. Sau ngày mất nước nó đã vượt biển tìm tự do, nhưng chẳng may bị mất tích để lại vợ con còn kẹt lại tại quê nhà!
                                    Một tháng sau, binh nhì Y được về Sàigòn, anh dẫn bố lại và mang theo quà định đền ơn; nhưng tôi từ chối. Sau ngày mất nước, Y thấy cổng nhà bị hở hang, sợ trẻ nhỏ hoặc kẻ trộm vô nhà phá phách; bố anh bảo chở giàn máy đến hàn vá thật chắc chắn. Mặc dù không còn liên hệ thầy trò, nhưng Y thỉnh thoảng vẫn đến thăm tôi, thật có tình có nghĩa!
                                    Hết nghề thu mua sắt vụn, bà xã tôi xoay qua nghề bán gạo, anh chị Hiền có lại ủng hộ dùm một bao gạo thơm. Khi còn ở TĐ9NDø, bác sĩ Hiền là người chịu chơi nhứt trong các bác sĩ Dù mà tôi đã gặp. Lúc mới về đơn vị thay thế bác sĩ Thiện, anh đã hòa mình ngay với sĩ quan trong tiểu đoàn; những buổi nhậu của chúng tôi đều có anh tham gia và tửu lượng khá cao, mọi người đều rất mến anh. Khi nghe gia đình tôi mới qua Mỹ, từ California xa xăm anh cũng gởi tiền giúp và chúc tôi sớm ổn định trong những ngày chân ướt chân ráo tại đất khách quê người. Mặc dù bây giờ anh chị đã khá giả, nhưng nghe nói hễ gặp đám TĐ9 cũ như Mễ, Tâm, Thành là cố mời tới nhà nhậu để hồi tưởng lại những ngày cùng ngồi bên nhau uống rượu đế với khô mực, khô cá khoai, và soài sống chấm mắm ruốc!
                                    Bán gạo được vài tháng thì thua lỗ gần hết vốn, vì không có địa thế tốt, tôi lại chuyển qua nghề bán củi bìa. Một hôm đi ngang qua Tổng Tham Mưu, thấy ngôi biệt thự đối diện có những bó ván nẹp chất đầy sân, tôi ghé vào thấy bên trong họ đang đóng thùng để đựng đồ sành, đồ sứ như ghế đôn, chậu, con voi. Tôi hỏi ông quản lý về việc cung cấp ván nẹp, ông Hai ghi địa chỉ và nói khi nào rảnh sẽ tới bàn chi tiết, vì ông nói củi bìa có thể mót cưa thành những miếng nẹp bản nhỏ mà ông đang dùng và giá thành lại rẻ, như vậy hai bên đều có lợi.
                                    Vài ngày sau ông tìm đến nhà, thấy gia cảnh như vậy, nên khuyến khích tôi làm bàn cưa tròn để xẻ củi bìa thành các miếng nẹp theo thước tấc chỉ định, còn phần vạc bỏ thì để bán củi vụn. Tôi hứa với ông Hai sẽ làm một đợt cho coi thử, nhưng không ai rành nghề thợ mộc! Tôi điện thoại nói Phạm Thái Hóa Khối Bổ Sung, cho mượn thợ mộc tới chỉ những cậu trẻ tay ngang mà tôi thuê như “Thợ vịn”, vì đâu biết có làm được lâu dài không mà kiếm thợ giỏi. Hóa, K20ĐL, cho binh nhì Ninh ra giúp vài ngày, chỉ cho Chương và Thanh cưa ván nẹp. Giao hàng đợt đầu tuy không hoàn hảo nhưng bà chủ và ông Hai đều là người phúc hậu, họ nhận hàng và đặt tiếp.
                                    Sau đó tôi đi tới hai chỗ bán đồ sứ ở đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận và đưa hàng mẫu, ở đây chỉ mua thùng chứ không mua ván nẹp. Sau khi thương lượng giá cả xong, tôi về huy động những người lối xóm đang thất nghiệp. Trong đó có anh Bộ, thương binh Dù bị cụt hai chân, và con của Trung sĩ nhứt Lớn, thuộc cấp của tôi, xúm nhau ngồi đóng gia công (làm nhiều ăn nhiều làm ít ăn ít). Rồi từ tay ngang, tôi ngồi trên xe lăn mà vẫn có thể điều động quản lý mọi việc, bà xã tôi lo đếm tiền, phát lương, và nấu ăn.
                                    Bây giờ làm ăn cũng kha khá, từ việc bán củi bìa, nay đã có hai giàn cưa máy chạy ngày đêm; từ việc bán nẹp giờ đây có thể đóng thùng và nhận vô bao bì xuất khẩu. Thợ đóng thùng từ hai người lên mười hai người, ai cũng cố đóng nhanh để chiều nhận nhiều tiền, phụ giúp gia đình được thêm sung túc. Tôi thì lo kiếm cách làm cho sản phẩm ngày càng tốt đẹp, giá thành phải chăng, và nhất là giữ uy tín, giao hàng đúng hẹn. Cái nào vì di chuyển làm bị hư méo, tôi cho đem về đổi ngay. Nhờ vậy các chủ tiệm đồ sứ đều hài lòng; tiền bạc vô ra, các con có dư đủ; làm tôi quên hẳn mình là người tàn phế, tinh thần vợ chồng tôi lúc đó rất sảng khoái và yêu đời.
                                  Nhưng! Ngày Quốc Hận đến, tôi lại bị Gãy gánh giữa đường!
                                 
                                2. Sau Ngày Quốc Hận

                                 
                                a). Tiêu tan sự nghiệp!
                                 
                                   Những ngày cuối “Tháng tư đen”, máy bay của tên nội tuyến đã oanh tạc phi trường; vì sợ liên lụy các con, tôi tản cư qua nhà anh Ba ở Tân Định, thế là:

                                                 “Sự nghiệp đang công đeo đuổi
                                           “Nay cũng đành gián đoạn giữa đường!


                                    Toàn dân Miền Nam nói chung, gia đình binh sĩ và quân cán chính đang bị chôn vùi trong biển hận. Con xa cha, vợ xa chồng, loài quỷ đỏ đã gieo rắc bao tang thương, bao khổ hận cho mọi người. Công lao sự nghiệp đã gầy dựng, mới làm lại cuộc đời, sau những ngày bi quan tưởng mình đã vứt bỏ như đồ phế thải. Nhưng chỉ một phút bị tụi Cộng Đỏ cướp giựt sạch. Chúng cho đổi tiền, mọi người đều trở thành vô sản. Mọi người đều chỉ còn 200 đồng, của cải bị tịch thu vào “Quĩ chung” (Cộng sản) để cho các tên đầu sỏ từ Bộ Chóp bu tới những đảng viên thuộc loại “Ba Mươi” từ từ xài thỏa thích.
                                    Dân đen bần cố nông thì “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” còn các ngài thì lúc nào cũng nhân sâm bồi bổ, vì thế lũ ngu dốt nầy sống thật dai để hưởng mọi lạc thú. Người nào cũng quá tẩm bổ, nên đa số chết vì bị tai biến mạch máu não; nhìn mặt tên nào cũng chành bành bóng loáng to tròn như trái bong bóng sắp nổ, so với những người nông dân, thợ thuyền gầy ốm thì thật khác xa như hai thái cực.
                                    Họ ngu dốt vô học thức, nhưng dùng bạo quyền như những chúa trùm Mafia sai khiến đàn em là công an, bộ đội, và cảnh sát đàn áp, đè đầu đè cổ dân đen; mà miệng thì cứ lập đi lập lại như con két về lý thuyết ngoại lai của tên Lenin, người đã bị chính dân Nga hạ bệ. Vì Lenin chủ trương buộc bụng bỏ đói dân đen để dễ cai trị (đói quá còn sức đâu mà phản đối, mấy người tù trong những trại gọi là cải tạo đều đã nếm mùi đau khổ nầy). Còn đảng viên là những tên “Ăn như tu, ở như tù, nói chuyện như lãnh tụ, tới chừng về hưu, mới biết mình ngu”; chúng đã lỡ lầm, mà làm hại dân hại nước!
                                    Sau ngày Quốc Hận, người dân miền Nam đa số bị đuổi đi vùng đèo heo hút gió được gọi là Kinh Tế Mới; những vùng đất đai màu mỡ như khu trồng trà và cà phê ở Lâm Đồng thì dành cho dân miền Bắc, bà con thân thuộc đảng phái vào khai khẩn (đúng là phe đảng). Những người thương mãi giàu có thì bị ghép (chụp mũ) là Tư Sản Mại Bản để có cớ tịch thu tài sản (nhà cửa, cơ sở, vàng bạc,...) đem hết về cho bọn đầu não ngoài Bắc xài. Nhà tôi gần khu Bà Quẹo, thấy rõ tận mắt là họ đã tháo gỡ các máy móc của hãng Dệt Vinatex Co., hãng Bột Ngọt Vị Hương Tố, hãng Mì Ba Cua ViFon, máy móc, tủ lạnh, máy lạnh,...tất cả chở hàng đoàn xe đủ loại để đem ra miền Bắc (đúng là giải phóng miền Bắc). Họ đã tiêu diệt một cách êm đẹp những người mà họ từng gọi là “Vừa là Đồng chí vừa là Anh em” như đám Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, đám Thành Phần Thứ Ba. Chính tên thiếu tá công an quận Tân Bình đã khóc nức nở vì thấy bọn Đảng viên miền Bắc quá tham lam, tàn bạo vơ vét của cải giống như quân Mông Cổ .
                                    Tên nào tiếc rẻ đòi chia phần thì bị vô tù hoặc quản thúc như Nguyễn Hộ, Dương Quỳnh Hoa, Ngô Công Đức, Chân Tín,...Những tên tham quyền cố vị chịu làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Nguyễn thị Bình,..thì được cho ngồi chơi xơi nước; để mặc nhân dân miền Nam, đồng bào ruột thịt của họ, bị những tên “Mông Cổ” đè đầu bóc lột .
                                    Đoạn nầy viết hơi gay gắt vì thật sự tôi là người trong cuộc, đã nếm mùi chế độ nầy gần 9 năm, chứng kiến và tiếp xúc với nhiều tên Cộng Sản mà bản chất từ trong xương tủy của họ chỉ có thể nói gọn bốn chữ là “Lừa thầy phản bạn”. Tôi không thích bàn về chính trị, chỉ muốn nói lên sự thật thôi. Một lãnh tụ mà dốt nát thì hại hằng triệu người.
                                    Trong cuốn Hồi Ký của Lý Phục Huy, vị Bác sĩ riêng theo Mao Trạch Đông suốt 22 năm trường. Ông ta kể lại cách mạng “Bước Nhảy Vọt” làm chết trên 30 chục triệu dân đen. Nguyên nhân vì nghe lời báo cáo láo của cán bộ địa phương là có thể xây lò đất luyện kim (luyện thép) tại nhà, và sẽ sản xuất nhảy vọt hơn các lò luyện thép quy mô tối tân của người Anh, thế là Mao Chủ tịch nhà ta cổ động xây lò tại dân gian, khiến nhà nông bỏ trồng trọt mà chuyên lo luyện sắt.
                                    Rồi lũ quan quyền địa phương, muốn lập công thi đua đạt năng xuất, bắt dân chúng lấy cả nồi niêu son chảo ra nấu luôn. Hết củi thì lấy cánh cửa cột nhà ra xài để nộp đủ số chỉ tiêu cho Trung Ương. Họ đã cổ võ, đốc thúc, và hô hào thi đua tăng năng xuất. Bắt dân đen làm ngày đêm không nghỉ, ai chần chừ thì bị gán tội phản động, xét lại,...! Họ còn phát động phong trào diệt chim; nơi nơi đều đồng loạt khua chiên đánh trống, khiến chim không dám đậu, bay hoài tới gãy cánh, rớt xuống đất bị dân chúng bắt xỏ xâu chất thành đống cao như núi. Thế rồi sâu bọ hoành hành, không còn chim ăn sâu nên mùa màng thất thoát, dân chúng chết đói đầy đường!
                                    Nhưng mấy tên Tỉnh ủy thì lên chức như diều (như Hoa Quốc Phong từ Tỉnh ủy lên làm Thủ Tướng), rồi vì lúa gạo không trồng trọt nên dân phải ăn vỏ cây, kết quả chỉ vì một tên ngu dốt mà hại chết hằng chục triệu nhân mạng.
                                    Ở Việt Nam Chủ Tịch Đảng chưa có bằng Tiểu Học, nhưng miệng thì nói thuộc lòng nói trơn tru như con vẹt:
                                    - Tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa.... xã hội (đói rách! ). Hoặc là:
                                    - Đỉnh cao trí tuệ của loài...... người (hay loài vật ?)
                                    Thành tích của những người lãnh đạo được đánh giá bằng những năm tù. Ở tù lâu là coi như có công nhiều với cách mạng. Trong Thép Đen có kể lại chuyện một người Cộng sản già 65 tuổi đang bị tù chung với tác giả, ông Tiến có đưa cho tác giả coi tấm hình chụp chung với Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, và Hoàng quốc Việt. Đây là hình cắt trong báo đặc san Đỏ xuất bản tại Pháp, có ghi chú: Bác Tiến là chủ nhiệm còn 3 người kia là nhân viên. Sau nầy ông ta thấy đảng Cộng Sản làm hại dân, hại nước, nên đề nghị sửa sai. Thế là ông bị ba tên thuộc cấp gán tội “Thành phần xét lại” và nhốt mười mấy năm mà vẫn chưa thả. Tình nghĩa thầy trò, chủ tớ, bè bạn, anh em,.... của họ là vậy đó!
                                    Sau khi đưa một đống tiền để đổi lấy hai trăm đồng Việt Cộng, như vậy từ nay phải làm gì để sống? Những người mạnh mẽ còn chịu không kham, huống chi gia đình tôi, cháu lớn mới 7 tuổi, mỗi ngày cứ đọc sách giáo khoa tuyên truyền toàn chuyện vót chông diệt ngụy, bắn máy bay, và râu bác dài như.... khiến mỗi lần nghe tới là nổi sùng. Còn Thiện mới một tuổi thì làm gì có tiền mua sữa, đành cho uống nước lạnh pha chút đường mà chúng tôi thường gọi đùa là “Sữa bộ đội”. Uống riết cháu mặt mày xanh lét, me nó thì phải về quê mua heo con lên Sàigòn bán.
                                    Đồ đạc trong nhà tiêu dần, đồng hồ, Honda, ngay cả nhẫn Truyền Thống Võ Bị (của thằng Măng, bạn cùng khóa, tặng cho lúc gặp nhau ở bờ sông Mỹ Chánh) cũng đem ra bán sạch.         
                                     Nhà nhà đều sạch, người người đều xẹp, chính sách của họ đã đi “Đúng hướng”, dân miền Nam càng lầm than thì chúng càng khoái chí!
                                    Hết buôn lợn rồi lại lo quấn thuốc lá để 5 giờ sáng leo xe đò Hốc Môn ra Chợ Lớn dành chỗ trải dưới đất bán chui, hôm nào xui xẻo bị bọn “Mafia con”(cảnh sát hay đám cách mạng 30) ra tịch thu thì sữa bộ đội của cháu Thiện chỉ còn nước lã, chứ tiền đâu mà mua đường! Ngày nào cũng ráng ăn bo bo độn khoai mì với nước mắm (tiêu chuẩn gần giống như cơm tù, vì họ chỉ có nước muối thay vì được nước mắm như dân ở ngoài), nhà là nhà tù, người là kẻ tội, cả miền Nam đang sống như tù tội! Bán thuốc lá cũng không xong, tương lai mù mịt, tôi không giúp được gì cho gia đình, lúc nầy tư tưởng đầy bi quan, tinh thần xuống dốc đến cùng cực!!!
                                    Một hôm Dì Sáu từ tỉnh lên thăm, bà là người phúc hậu tử tế, bị đánh tư sản. Chúng ụp vào nhà lấy hết vàng bạc (mấy trăm lượng), vì bà có tiệm bán vàng và cầm đồ và bị kết tội “Tư sản mại bản”,...Dì Sáu thấy tôi ngồi chiếc xe lăn đã mục nát, nệm lót đã rách nên cho tiền mua một chiếc xe khác làm chân (anh bạn Lê Tấn Huỳnh Long, nguyên bác sĩ TQLC, làm ở bệnh viện Quốc Gia Phục Hồi, định cấp cho tôi một chiếc khác, vì trong kho có mấy trăm chiếc; nhưng tên Sáu Châu không chịu, nói để dành chở ra Bắc (cái gì cũng chở về Bắc!). BS Long tức giận từ chức. Anh cũng bị pháo kích trúng xương sống, nhưng phục hồi được chút đỉnh nên đi nạng được. Qua Mỹ anh đã đổ bằng bác sĩ lại, nhưng ngồi lâu sợ lở mông, nên đi làm bất tiện. Khi qua đây anh chị cũng có làm giấy bảo lãnh USCC cho gia đình tôi, không sợ gánh nặng của nợ, thật là tử tế vô cùng).
                                 
                                  b) Làm Lại Cuộc Đời . 
                                 
                                   Thay vì sắm xe lăn, tôi đã mua một chiếc xe lắc bằng tay. Từ ngày mất nước không có ra ngoài, vì xe xích lô và xe Jeep đâu còn nữa! Hôm nay có xe lắc tay, giống như được tháp đôi chân, như chim sổ lòng. Tôi cùng với cháu Thành (lúc đó được 6 tuổi) quyết định đi dạo một chuyến thật xa. Hai cha con hè nhau lắc xe từ nhà, qua ngang Bà Quẹo, theo lộ đá sỏi tới trường đua Phú Thọ; đoạn đường dài gần năm cây số! Tôi muốn đến thăm thằng bạn già Trịnh Xuân Tiểu, cùng học Trần Trung Tiên ở tỉnh. Hai đứa rất thân từ mấy chục năm trước. Tiểu học sĩ quan Hải Quân khóa 14, vì tánh quật cường không chịu khuất phục nội quy kỷ luật, nên phải trở lại khóa 16 mới được ra Thiếu úy thật sự. Tánh nó rất tốt, lúc tôi còn đang ở trọ tại Phú Nhuận, hắn đến rủ cùng đi lựa mua xe gắn máy hiệu Pusch. Sẵn dịp, Tiểu nói mẹ cho tôi mượn tiền mua luôn xe Mobilet loại tự động mới ra đợt đầu; mặc dù lúc đó tôi chỉ là học sinh đâu có tiền để trả nợ (má Tiểu chuyên cho vay lấy lời, nhưng nó đâu có cho tính phân lãi với tôi xu nào!).
                                    Tiểu biết địa chỉ, nên một hôm đi xích lô tới thăm tôi; nó mượn xe lắc tay để về nhà má ở trước rạp hát Trương Minh Giảng (Tiểu bị phục kích trên giang thuyền và trúng đạn bể xương đầu gối). Nhưng mới lắc tới Ngã Tư Bảy Hiền thì bị xỉu, may nhờ những người đi đường đè xuống cạo gió làm nó hoảng sợ mỗi khi nhìn thấy chiếc xe lắc nầy.
                                    Biết xe nầy không ổn, tôi quyết định bán và tự vẽ kiểu cho anh Học, thợ hàn gió đá, cựu hạ sĩ quan Nhảy Dù, làm một chiếc khác với khung được uốn cong bằng ống nước loại thép tốt. Vì thế xe thật vững chắc, có gắn máy PC-50 và sức chịu đựng cao. Với xe có gắn máy, hằng ngày tôi, cháu Thành, và cháu Vinh ra chợ Tân Bình mua bo bo, đổi mì sợi tại các Hợp Tác Xã, hoặc đến hỏi mua từng nhà. Từ đó có đồng tiền vô ra giúp đỡ phần nào cho gia đình, tôi hết tự ti mặc cảm.
                                    Có lần vô Tân Phú mua bo bo, khi đủ bao thì chở ra Chợ Lớn, qua đường Cầu Tre gập ghềnh khó đi. Hôm đó, vì mua được nhiều, tôi hăng hái chạy tới chạy lui vô Chợ Lớn bán hàng nhiều chuyến. Đến 8 giờ tối về tới nhà, tôi mới phát hiện gót chân phỏng sưng to nặng tới thấu xương (thịt gần như bị chín luôn)! Vì đường gồ ghề nên bao bo bo bị tuột ra sau, đẩy gót chân tôi chạm vào ống bô (ống khói) nóng hực cả buổi, mà cứ tỉnh bơ chạy hoài.
                                    Mặc dù không có cảm giác, nhưng lúc đó trong người tôi cảm thấy rất bứt rứt, khó chịu. Có lẽ vì ống bô quá nóng, khiến máu trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng nóng theo; nhưng vì nghĩ đến hôm nay được đắc lợi, lòng cảm thấy phấn khởi, đâu còn để ý đến bản thân mình, miễn sao làm ra tiền nhiều để gia đình được đầy đủ là cảm thấy vui rồi.
                                    Nhờ ngày nào cũng ngâm nước lá me (đâu có tiền mua “Bô Mát” loại tốt như của BS Niệm đã cho!) để làm tái thịt chỗ vết phỏng, nên một năm (tới một năm lận) mới lành hẳn.
                                    Từ đó tôi lấy miếng ván chận chân cho cách biệt với bô xe. Tuy bị phỏng nặng, nhưng vì sinh kế, nên vợ tôi băng bó gót chân kỹ lưỡng và hằng ngày vẫn tiếp tục đi mua bán bo bo như thường lệ.
                                    Có lần bị nhiễm trùng đường tiểu hơi nặng, phải vào nằm phòng cấp cứu tại bệnh viện Trưng Vương; nhưng suốt đêm đó tôi cứ cảm thấy người bứt rứt, trằn trọc không ngủ được. Sáng ra mới biết chân mình đã bị kiến lửa bu đen nghẹt tới không nhìn thấy mười ngón, chúng cắn nát bấy hai bàn chân suốt cả đêm mà cũng không hay biết! Tôi phải xin xuất viện gấp; lại phải ngâm chân bằng nước lá me thêm vài tháng!
                                     Lúc ở bệnh viện Trưng Vương, nằm cạnh giường có một bịnh nhân người vùng Cát Lái, Thủ Đức; ông bị vết mổ làm độc vì chỉ khâu bị đứt, nên phải nhập viện xin giải phẫu lại. Để có tiền mua chỉ may vết thương, con ông là em Toàn phải nhịn ăn tới mặt mày xanh xao, tay chân run rẫy, đi đứng không vững! Toàn cứ nằm co ro, cố ngủ để cho qua cơn đói. Tôi thấy em tới giờ ăn trưa mà sao cứ nằm hoài, nên hỏi thăm thì biết Toàn là đứa con hiếu thảo, vì tiền túi mang theo đóng cho nhà thương hết, mà không thể bỏ cha ở lại một mình; nền đành ráng nhịn ăn đợi bác sĩ giải phẫu may lại vết thương cho cha. Lúc ấy bà xã tôi có đem theo bánh ú cúng mùng 5 tháng 5, tôi lấy chia cho Toàn ăn. Em mừng rỡ, cám ơn rối rít, tay run run lột lá bánh ít bỏ vào miệng ăn ngấu nghiến trông thật ngon lành. Hôm sau vì bị kiến cắn bàn chân nên tôi xin xuất viện, vợ tôi lấy một ít tiền cho Toàn để làm lộ phí. Tuy số tiền và bánh ú nhỏ nhoi gọi là chia sẻ miếng khi đói bằng gói khi no, nhưng nửa tháng sau, Toàn đã dò được tới nhà để cám ơn và báo tin ba Toàn đã qua đời vì nhập viện trễ quá (tại nhà nghèo cần phải xoay tiền nhập viện, thuốc men thiếu nên vết thương làm độc!).
                                     Chính vì nghĩ đến trường hợp nầy, nên khi mới qua Mỹ, mặc dù tôi lãnh trợ cấp SSI và bà xã cùng cháu lớn đi làm nhà hàng, mỗi đêm được $20.00; nhưng cứ vài tháng là chúng tôi gởi về cho những người nghèo ở Việt Nam (mỗi lần $300 chia cho 10 nhà, chính anh Quách Vĩnh Trường, anh Triệu, và Lâm Sanh Kim đã đem phân phối dùm). Có lần anh Triệu cũng được 1 phần là $30, vợ anh dùng làm vốn nhỏ và ra chợ Tân Bình mua bán áo quần cũ; nhưng bị bọn Cách mạng 30 tìm cớ tịch thu, còn nhốt 2 mẹ con vào tù (con anh Triệu mới sanh cần sửa mẹ nên cũng nếm mùi ở tù!!)
                                    Ra ngoài tôi mới biết có rất nhiều cách để làm ra tiền, khi mua bo bo ở một nhà nọ, thấy có một cái máy xay bột (hoặc bo bo) đang trùm kỹ. Tôi hỏi mua với giá rẻ, vì họ muốn trống chỗ nên bán đổ bán tháo cho xong. Khi đem máy về nhà, bà xã nói không có thợ làm sao sử dụng được; tôi trùm mền bỏ đó, chờ thời cơ sẽ có dịp dùng.
                                    Thấy mấy người Tàu từ Kampuchia tị nạn ở xóm Tân Việt gần nhà, hằng ngày họ chở từng bao bo bo đi xay thành bột, bán cho các lò bánh mì thùng phuy. Tôi liền mướn cháu Đại, khoảng 15 tuổi, đứng máy để xay bo bo gia công. May quá, máy nầy xay ra bột nhiễn nên được người ta thích, từ đó máy chạy suốt ngày đêm, bà xã tôi rất phấn khởi.
                                    Từ việc xay gia công, tôi nghĩ ra ý mua bo bo về xay để bán bột trực tiếp cho các lò thùng phuy như lò Tám Cảnh ở Ngã Tư Bảy Hiền, Chú Thanh ở Bà Quẹo. Cháu Vinh phụ trách lo thu mua bo bo và liên lạc với những người Khmer tị nạn như ông Si, thằng Hòa, A hắc,...
                                    Cháu Vinh là con của Thượng Sĩ Luông, Thường Vụ của tôi khi còn ở Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Sau ngày mất nước, thấy không ai săn sóc và gia đình đơn chiếc, cháu Hảo đã đi vùng Kinh Tế Mới, ông cho con gái 15 tuổi là cháu Vinh qua phụ vợ tôi mà không đòi hỏi lương bổng (nhưng chúng tôi vẫn trả tiền và tăng dần mỗi khi làm ăn thăng tiến). Thượng sĩ Luông là người rất trung thành, ông đã bị thương lủng mấy khúc ruột rất tội nghiệp. Các con ông người nào cũng ngoan và giỏi.
                                    Một hôm ba của Tiêu Anh, bạn học Trần Trung Tiên, đến chơi. Ông là chủ lò bánh mì ở Trung Chánh, trước kia chuyên cung cấp bánh mì cho Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ông thấy có máy xay bột nên đưa ý kiến, mua xác khoai mì về xay nhiễn cung cấp cho các lò bánh mì làm bột áo thoa tay.
                                   Thấy thị trường bo bo hơi hạn chế, người Khmer tị nạn cũng làm máy xay gia công. Do đó tôi đi Hố Nai mua xác mì về xay bán cho các lò thùng phuy; Rồi tôi đem mẫu cho các lò bánh mì lớn. Lúc đầu thật khó khăn, vì họ có người bỏ mối sẵn. Nhưng tôi không nản chí, cố gắng tìm xác mì trắng, rồi cứ đi vòng vòng từ các lò Nguyễn Huệ,... ở Phú Nhuận, tới lò Đồng Khánh ở Chợ Lớn. Lúc đầu được một lò, rồi hai, ba, bốn,...dần dần hầu hết các lò ở Sàigòn đều là khách hàng của tôi.
                                 
                                c). Kinh Doanh phát triển. 
                                 
                                Vì máy ở nhà quá nhỏ, nên tôi phải vô Cầu Tre bao luôn nhà máy Quốc Doanh của ông Tám, họ lãnh xay ngày đêm mới kịp giao đúng hẹn cho khách hàng. Nhà máy nầy khá lớn, nhưng vì mới nên chỉ có hai người đặt xay gia công.
                                    Anh Hào thì xay xương bò và trấu trộn cám cung cấp cho các tiệm bán thực phẩm gia súc; tôi thì cho chở từng xe vận tải xác mì cung cấp bởi anh Hùng, chủ thầu xác và bột khoai mì ở làng công giáo Hố Nai. Công nhân trong nhà máy ưa nói đùa:
                                           “Xay xác ông Dưỡng xay xương ông Hào”!
                                Ngày nào tôi cũng chạy theo xe Lam của chú Hoàng đi giao hàng khắp nơi. Còn Cháu Vinh thì đi theo xe ba bánh gắn máy của chú Hiền chở bột áo đi giao vùng khác (hai xe nầy bao chở mối thường xuyên cho tôi). Lúc nầy khách hàng nhiều mà bọn nhà máy quốc doanh làm việc không đàng hoàng, đôi khi sai hẹn, và chúng còn định xay lén dành mối, đâm sau lưng khách hàng mình (vì chủ trương Cộng Sản là bất chấp mọi thủ đoạn, miễn mình có lợi là được rồi). Các nhà máy do người Hoa Kiều ở Chợ lớn thì làm ăn rất có uy tín, nhưng họ đã có khách hàng sẵn nên không nhận thêm của tôi được.
                                     Vì thế để tự xay xác mì tại nhà, tôi vô Chợ Lớn đặt cái máy xay to lớn, đường kính khoảng 8 tấc, mua Motor 25 Ngựa, dùng thùng phuy chẻ và tôn cũ làm vách để ngụy trang (vì làm rùm beng sẽ bị thuế nặng và bên Phường qua làm tiền hoặc gây nhiều khó dễ. Lúc mới mất nước bên Phường có cho Công An qua nhà điều tra đủ thứ, tên nầy thấy tôi còn băng bó đầy mình nên mới để yên).
                                     Nhà tôi có sân rộng, bên cạnh là một lô đất trống (mỗi lô là 8x20 do SĐND cung cấp, trước kia đã mua được 1 lô, chỗ tôi đang ở là xây cất trên lô của Đại úy Vị, đã nói ở Chương Ba). Vợ tôi trồng cây ăn trái như ổi, mít, dừa, mảng cầu, đào lộn hột,..Sau ngày Quốc hận, có lần bên Phường mượn sân trống đặt bàn làm thẻ cử tri; lúc đó tên Mừng, Trưởng Ban An ninh, thấy bà Bảy là cô của hắn đang ở nhà tôi, nên sau nầy dễ chịu không cho người dòm ngó kiểm tra ngầm nữa.
                                    Bà Bảy là chủ nhà cũ của tôi, bà rất thương tụi nầy, sau ngày mất nước bà hay lên thăm và ở chơi vài ngày; chúng tôi thường cho tiền bà tiêu vặt. Lúc nầy hơi khá, con cháu của bà kẹt tiền, chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ. Còn bà thượng sĩ Bạc vì mấy đứa con trai đi nghĩa vụ, nên lúc kẹt cũng qua hỏi mượn, chúng tôi không bao giờ do dự; vì họ từng giúp đỡ gia đình tôi nhiều phen. Ở Sàigòn chúng tôi coi gia đình bà Bạc, Bà Bảy, cụ Hoàng, anh Nhàn, Thượng sĩ Luông là những người bà con tốt. Vợ tôi rất nể trọng những người nầy.
                                    Nhà máy xay bột được dựng lên do những tay ngang, bà xã thì lo tráng nền; Tâm, Thành, Thiện, và cháu Vinh phụ trách khiêng và trộn hồ. Nhằm đúng ngày chú Hùng ở Hố Nai tới thâu tiền xác mì, thấy thợ nhà làm lồi lõm nên ngứa mắt; anh xăn quần áo nhào vô phụ tráng nền. Thế là nhà máy cũng xong, điện ba dây thì câu nhờ với chị Hai (vợ của cố Trung tá Vinh, cựu Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù). Vợ tôi may cái mùng chứa hơi bằng vải kaki trắng to giống như khinh khí cầu, rồi đóng thùng chứa bột bằng ván ép, không thua vì thợ mộc.... mới học nghề! Cháu Vinh, Đại, Nhân, Tâm, và bà xã,...là những công nhân thường trực của “Nhà máy xay bột tư doanh” vừa mới dựng bảng hiệu Phát Lợi và khai trương nầy.
                                    Mọi việc đều êm đẹp, vợ tôi vừa làm thợ mộc, thợ máy, thợ điện, và kiêm luôn thợ nấu ăn cùng quản lý tài chánh. Đàn bà mà, thấy tiền vô như nước, đếm hoài không biết chán, nên làm
                                việc rất hăng, còn muốn mọc thêm nhiều cánh tay để tăng gia sản xuất. Vì khách hàng tới hối thường xuyên, nhiều khi phải làm suốt đêm để giữ đúng hẹn! Xay bột dính đầy đầu mà cũng ham. Có lần vì mưa dột ướt áo quần; Nhi, đang xay bột, đứng lên vén tóc, thì tay ướt chạm nhằm dây điện, nàng bị giật té cái rầm, ngã nguyên con trên sàn bột, thật nguy hiểm vô cùng!
                                    Tôi thì lo chạy vòng ngoài, lúc đi xa lộ đón mua bột và xác mì, chẳng may xe bị gãy cốt gần rơi bánh sau. Cháu Thành (lúc đó được 8 tuổi) phải hì hục đẩy xe từ bên kia dốc cầu xa lộ. Cầu nầy dài khoảng 1000 thước và dốc rất cao! Tội nghiệp cháu nhỏ tuổi ốm yếu mà phải đẩy chiếc xe cọc cạch nặng nề, tôi thì không thể xuống để xe nhẹ bớt phần nào! Đã vậy lại còn gặp thêm chuyện xui xẻo nữa chứ.
                                    Số là khi Thành đang lo cặm cụi đẩy xe lên dốc, tới gần giữa cầu có cục đá to; tôi vừa lo lách tránh, chưa kịp kêu thì chân cháu đã vấp vào, làm ngón cái bị trúng chảy máu ròng ròng; mà Thành vẫn phải bậm môi, cắn răng nhịn đau tiếp tục đẩy. Vì nếu ngừng thì xe tuột dốc càng nguy hiểm thêm. Lòng tôi lúc ấy đau đớn đứt ruột! Cháu cứ để cho máu chảy và tiếp tục đẩy thêm gần 1 cây số tới phía bên nầy dốc cầu mới có chỗ sửa xe,và kiếm thuốc băng tạm vết thương!!!
                                     Thật là tội nghiệp con hết sức, mới từng ấy tuổi đầu mà đã chịu nhiều đắng cay! Ở cái tuổi đó, đáng lẽ chỉ lo đi học và vui đùa, còn cháu thì phải ngày đêm dầm mưa phơi nắng theo phụ giúp người cha tàn phế trôi nổi đó đây!
                                    Lúc tôi ra ngoài, bên lưng lúc nào cũng dấu một cái bóp nhét đầy tiền. Mỗi lần đi đâu đều có Thành theo phụ đẩy cho máy nổ khi xe khởi hành. Hai bố cháu ăn uống ngoài đường ngoài xá, có bữa đi từ sáng tới chiều tối mới về tới nhà; vì ngồi lâu nên một trái thận bị hư, coi như ngưng hoạt động.
                                    Yên, em trai của Sơn, tốt nghiệp đại học, vì muốn tự chữa bệnh cho mẹ và anh, nên đã đi thụ huấn về châm cứu và bắt mạch định bệnh ngành Đông y. Lúc đó thuốc Tây rất hiếm và rất mắc tiền, chính quyền Cộng Sản toàn cổ động dùng cây cỏ trị bịnh như cây Xuyên Tâm Liên, cây Sống Đời, lá Tía Tô,...
                                    Một hôm Yên đến thăm và thử bắt mạch cho tôi, chú hỏi:
                                    - Anh đã cắt bỏ một quả thận bên trái rồi phải không?
                                    - Anh đâu có giải phẫu thận !
                                    - Như vậy là anh đã bị hư một trái thận rồi!
                                    Yên chỉ tôi cách bắt mạch, lấy ngón tay trỏ rờ vị trí tượng trưng cho mạch thận, trầm sâu dưới cổ tay; nhưng không thấy nhịp đập chút nào hết. Nguyễn Trọng Nhi, bạn cùng khóa, trước ở TĐ8ND, cùng với Bác sĩ Nhiếp, cả hai vừa ra tù, đến thăm và bắt mạch cũng nói y như Yên. Bác sĩ Nhiếp lúc trong tù cũng nghiên cứu về Đông Y Châm Cứu như Nhi, anh và bác sĩ Dũng (bác sĩ chữa bịnh cho gia đình tôi, phòng mạch ở Hương lộ 14) là những bác sĩ Dù tài giỏi và chịu chơi như Bác sĩ Hiền và BS Thiện ở TĐ9ND lúc trước.
                                    Từ đó, mỗi ngày tôi có mời chú Tuyển tới châm cứu, vì thận hư làm chân sưng và lở loét thật khó chịu, tối nằm ngủ chỉ nghiêng được một bên. Tuyển thấy vậy mời ông thầy của chú, đang làm Lương Y cho Quận Tân Bình.
                                    Ông ta đã bắt mạch xong liền nói:
                                    - Tôi bổ một “Đại Thang” lúc uống phải từ từ coi có bị phản ứng không; thuốc nầy rất mắc tiền, anh ráng thử coi?
                                    Tôi gật đầu ưng chịu và đưa tiền (tương đương năm chỉ vàng) để bổ thuốc. Thang thuốc nầy chỉ gồm có hai thứ dược thảo, đó là “Nửa ký” Thục Địa và nửa ký thuốc gì mà tôi không nhớ rõ tên, đem sao thủy thổ; rồi nấu 4 chén còn lại một chén. Khi uống thuốc có lẽ bị ám ảnh sợ phản ứng (vì tôi đã từng bị phản ứng khi chích Pénicilin và uống Ambicilin) nên tim hơi hồi hộp. Uống hết chén thuốc thì người tôi hơi nóng, đầu óc lâng lâng; vài ngày sau rờ thử mạch thận thì thấy nó đập trở lại, chân bớt sưng và vết lở cũng kéo mặt lành dần. Ông thầy bắt mạch hớn hở ra mặt, quả thật là than thuốc hay, nếu Tây Y thì chỉ đợi thay ghép thận thôi, biết mình yếu thận nên tôi cữ ăn mặn và uống nước nhiều. Mỗi lần nước tiểu bị nhiễm trùng là vội uống trụ sinh để tránh hại tới thận.
                                    Bây giờ bán bột áo và bo bo cũng khá, nhưng thấy các lò thùng phuy tiêu thụ bột mì rất nhiều; nên tôi liên lạc với một vài chủ lò để trao đổi bột bo bo với bột mì. Giai đoạn mua bán bột mì lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, sau nhờ giữ uy tín nên các chủ lò giới thiệu cho nhau nên tôi làm ăn càng ngày càng phát đạt.
                                     Nhớ lại lần đầu muốn mua hai bao bột, 5 giờ khuya, tôi và cháu Vinh chạy lên Phú Nhuận canh lò vừa mở cửa để chồng tiền mua 2 bao bột (mỗi bao giá 2 ngàn đồng tương đương một lượng vàng). Lúc đó bà chủ tăng giá bất ngờ nên thiếu 100 đồng, tôi đòi thế chiếc xe đạp của cháu Vinh đang cỡi để về nhà lấy thêm tiền. Bà chủ lò không chịu, chỉ bán cho một bao, tôi vừa chở bột về vừa tiếc rẻ và tủi hổ; nhưng chỉ nửa năm sau, chính bà chủ đó và nhiều chủ khác dám bán chịu cho tôi mỗi lần một tấn (20 bao tương đương 20 cây vàng!).
                                    Dần dần tôi đã tạo được uy tín, lúc đầu có ông chủ vì kẹt bột dư trong lò lâu ngày chưa đem ra được (các lò thường làm bánh nhỏ hơn chút đỉnh hòng có bột dư bán lén cho các lò thùng phuy, để kiếm chút cháo. Vì lò nào cũng bị quốc doanh, họ tức mình là chủ mà bị nhà nước quản lý, đúng là cướp cạn!). Sắp tới ngày kiểm kho, ông ta đang lính quýnh, thì vừa đúng lúc tôi đến giao bột áo; ông bảo đút xe Lam vô chở đám bột thặng dư đi bán dùm, giá bao nhiêu cũng được. Tôi làm theo, chở bột đem giao cho vựa ở Chợ Vườn Chuối, và đợi vựa bán ra chút đỉnh mới đủ tiền trả tới 20 chục cây lận!
                                    Mãi tới gần 11 giờ đêm tôi mới đi tới nhà, để đem tiền tới giao lại cho chủ lò. Nửa đêm nghe tiếng gõ cửa, ông ta giật mình kinh sợ (Công An thường tới bắt người nửa đêm), chừng thấy hai chú cháu mới an tâm, đếm tiền xong ông ta nói:
                                    - Tại sao anh không để sáng đem lại cũng được?
                                    - Đây là số hàng lớn, tôi sợ ông lo suốt đêm.
                                    Thấy tôi hiểu thấu tâm can, mặt ông vui vẻ và nói:
                                    - Anh làm ăn rất có uy tín, tôi sẽ giới thiệu các chủ lò khác. Vì thấy tôi không bắt chẹt và trả tiền bột cao giá hơn những người khác, nên lần nào có bột dư ông cũng đích thân lái Honda tới nhà gọi; rồi các chủ lò khác nghe tiếng cũng lần lượt đến kiếm (trước kia tôi phải đến từng lò bánh mì, bây giờ thì các chủ lò đích thân đến nhà tôi). Thế là việc bán bột còn thu lợi khá nhanh hơn xay xác mì nữa. Tiền vô ào ào, tháng nào tiêu chuẩn cũng phải sắm một cây vàng. Có tiền thì nghĩ tới đi chui, tôi cho cháu Tâm theo cậu Hai Lâm Ál; người lái tàu là Trịnh xuân Tiểu. Ra khơi được 3 ngày thì gặp bão nên tấp vô và bị tóm ở Hòn Khoai, Cà Mau.
                                    Cháu Tâm trên thuyền cùng với cháu Vũ, con anh Hai Ál, rảnh rỗi ra be thuyền nhìn nước biển và kể lúc ra khơi thì gặp nước màu vàng, màu xanh, màu đen. Rồi đột nhiên thấy ngược lại màu đen, màu xanh, màu vàng, và đụng bờ bị Việt Cộng bắt cả đám, tịch thu hết vàng bạc và đồ quí đem theo. Tội nghiệp Tâm lúc đó mới 10 tuổi đầu mà cũng nếm mùi tù, ăn cơm muối hơn một tháng (con nít ở chế độ Cộng Sản cũng bị tù như thường). Tiểu bị tù vài năm và bị tịch thu nhà cửa! Sau nầy anh Hai Ál làm thêm một chuyến nữa, tôi lại bị mất hơn chục cây mà cũng không xong, thôi đành tìm cách khác.
                                    Lúc ấy nhân dịp năm Quốc tế người tàn tật, có diện cho xuất cảnh chữa bịnh, tôi nhờ anh bạn tốt là cựu Thiếu tá Phòng Ba SĐND tên Lâm sanh Kim nộp đơn thử. Mặt khác vận động bạn bè ngoại quốc nhờ làm giấy bảo lãnh USCC. Tiến hành như vậy giống như là nước lã mà khuấy nên hồ; vì không có ai thân thuộc trong diện tứ thân phụ mẫu đang ở ngoại quốc như những người khác! Nhưng không hiểu sao ý chí tôi tin tưởng và quyết tâm lo vụ nầy một cách tích cực! 
                                 
                                d). Kinh Doanh Thu Hẹp Lo Thủ Tục Xuất Ngoại
                                 
                                     Lúc ấy gia đình Dì Sáu cũng được đi diện đoàn tụ (con lãnh cha mẹ)ï. Vợ tôi có nhờ bà kêu mấy em họ ở Mỹ làm cho giấy USCC, khoảng một năm sau thì tôi được một lượt tới 3 giấy USCC của Tuấn Anh, con bà Dì; Hồng Nhàn, bạn học trước ở Đại đội Tiếp Liệu Dù; và Lê Tấn Huỳnh Long, Bác sĩ TQLC (đã mòn mỏi trông đợi gần 2 năm, bây giờ lại có một lúc ba người sẵn lòng bảo lãnh, khiến mọi người trong nhà đều mừng rỡ, hy vọng một ngày mai trời sẽ ngó lại. Giống như những lần trước, từ nguồn tuyệt vọng, gia đình tôi cũng đã tìm được những điều mỹ mãn ngoài tầm tưởng tượng).
                                    Bấy giờ có một số sĩ quan ở tù được thả về, Lã quý Trang (3 năm), Nguyễn Thanh Nhàn (5 năm), Bác sĩ Tường, rồi tới Nguyễn văn Khen, Nguyễn Hiền Triết, Phạm Thái Hóa, Nguyễn văn Triệu, Ngô văn Nhị (em rể tôi), và đại tá Nguyễn thu Lương,...Những người sau nầy tù từ 8, 9 năm trở lên; như anh sáu Lương đã bị biệt giam và bị hăm dọa lên án tử hình nhiều lần vì tánh khẳng khái, bất khuất mà các bạn tù chung đều khâm phục, thương mến. Bạn cùng khóa Trần Phi Cơ kể lúc ở trong tù tại trại K3, anh rất phục hai cử chỉ hào hùng của 2 sĩ quan Dù : Thiếu úy Quỳnh lúc đẩy xe đất vô bị tên cán bộ Việt Cộng rầy nói sao chở ít quá. Lập tức anh Quỳnh hất ngã xe đất và vạch ngực ra nói:
                                    - Cho ăn bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, nếu không bằng lòng thì bắn đi!
                                    Còn đại úy Dù tên Minh “Đen” khi học tập, cán bộ bảo anh tố chửi Mỹ xâm lược; thì anh dám đứng lên nói:
                                    - Chúng tôi thấy Mỹ qua giúp miền Nam cũng giống các anh qua Campuchia.
                                    Hai anh đều bị cùm 6 ngày. Còn Đỗ Ngọc Nuôi, Khóa 20 ĐL, ở trong tù mà dám tổ chức chống phá VC, anh đã cùng nhiều người, trong đó có anh sĩ quan truyền tin, đã lợi dụng sửa Radio cho cán bộ Việt Cộng. Rồi bảo họ mua các điện trở, tụ điện, transistors,...nói là để sửa radio, nhưng anh đã tự chế ra máy thu thanh, và bắt liên lạc được các đơn vị kháng chiến bên ngoài. Cuối cùng bị bại lộ, anh SQ truyền tin bị tử hình và Nuôi bị 16 năm tù. Tội nghiệp chị Nuôi, vì nghe lời tán bùi tai của SVSQ lanh lợi Đỗ ngọc Nuôi khi còn ở Đà Lạt, nên phải lo cho ông chồng tù tội: Một năm ở Quân Lao vì vụ Tour D’Ivor và 16 năm tù tập trung của CS, cùng nuôi dưỡng 6 đứa con nên người, thật đáng khâm phục.
                                   Anh Võ văn Huệ, bạn cùng khóa, lúc ở tù tại Đà Nẳng, tên cán bộ hỏi:
                                    - Ở trận Thường Đức lính bận đồ rằn ri là lính gì mà sao hăng quá vậy? Họ cứ xung phong nhào lên, không sợ chết thiệt là gan quá chừng !
                                    - Họ là lính Nhảy Dù đó. 
                                    Khi những người bạn vừa ra tù tới chơi, tôi thường bảo bà xã nấu bò nhúng giấm, hoặc bò tái để như bù đấp tượng trưng phần nào những ngày thiếu thốn ở trong tù. Riêng Nhị vừa về là lo đi chui và bị bắt nhốt tại Bến Giá Trà Vinh hơn một năm, đến khi bị ung thư ruột già mới được thả về chừng một tháng thì chết, bỏ lại 4 đứa con còn nhỏ dại và vợ là em gái duy nhất của tôi phải chịu cảnh gà mái nuôi con, trong xã hội :
                                                Nước trong leo lẻo cá đớp cá!
                                           Trời nắng chan chan người trói người!
                                    Anh Triệu thường đến thăm tôi, mỗi lần tới ưa dẫn theo đứa con trai út mà anh thương yêu nhứt, nhưng một thời gian sau anh bị trắc trở gia đình, cuối cùng người tốt hiền lành như anh mà trời cũng khiến cho chịu thêm nhiều phiền não! Chị đã ôm thuyền khác, con theo mẹ khiến anh lâm cảnh bơ vơ! Ôi Quốc hận đã gây bao cảnh tù tội, ly tán cho nhiều chiến sĩ anh hùng đã dùng hết tuổi xuân để bảo vệ nền tự do, nhưng bất thành đành phải ôm hận triền miên!
                                    Lúc còn đi kiếm mối bán bột, tôi có qua khu cư xá Lữ Gia và gặp anh bạn cùng khóa Quách Vĩnh Trường. Anh nầy có một quá khứ rất hào hùng. Hôm đó, đơn vị đang tập họp chuẩn bị hành quân, bỗng bị một tên nội tuyến ném lựu đạn vào hàng quân. Thay vì lo nhảy tránh, Trường muốn cứu binh sĩ thuộc cấp, nên vội nhào tới để cầm trái lựu đạn quăng ra xa; nhưng vừa tung ra khỏi tay thì lựu đạn nổ, cả thân mình hứng chịu đầy mảnh. Binh sĩ an toàn nhưng anh trả một giá rất đắt: một chân một tay bị cưa, bàn tay còn lại bị mất vài ngón, mặt anh bị xẹo phải chịu đựng nhiều lần giải phẫu mới giữ được mạng sống.
                                    Điều anh tự hào và hãnh diện là cái miệng còn nguyên vẹn, nhờ đó mới nẩy sinh ra tình sử chẳng thua gì chuyện tình “Romeo And Juliet”. Tuy cơ thể tật nguyền nhưng anh vẫn ngày hai bữa cắp sách đến trường Luật. Có một lần trên xe bus, một cô nữ sinh viên mỹ miều duyên dáng dễ thương. Thấy anh không có chỗ ngồi, người lắc lư không vững, nên cô đứng dậy nhường ghế, chừng xuống xe mới biết hai người cùng học chung trường Luật (mỗi lớp thường cả ngàn sinh viên nên ít biết mặt nhau). Trường cám ơn rối rít, cô Kiều thì cảm thấy làm được điều thiện nên tinh thần cũng thoải mái!    Hôm khác cô đi xe đạp tới ngang trạm xe bus, thấy Trường đang bước lên xe và bị trợt chân té (có thể anh thấy cô Kiều liền giả bộ té, đúng không Trường?); cô chạy tới đỡ dậy. Từ đó hằng ngày cô lấy xe tới chở Trường đi học, vừa ngồi xe vừa trổ tài miệng lưỡi thực tập hùng biện của con nhà Luật; khiến cô Kiều xiêu lòng, cuộc tình càng ngày càng sinh sôi nẩy nở. Các em cô Kiều cũng đều tốt nghiệp Đại Học, họ là những người trí thức nên cũng ủng hộ và tán thành cuộc tình duyên mà đã chống lại ý của ba má họ, là người giàu có nổi tiếng ở Long An. Ông bà đều phản đối, nhưng thiểu số phục tùng đa số và phục luôn tài hùng biện của hai nhà cử nhân Luật.
                                    Mấy chục mảnh lựu đạn tránh cái miệng của Trường, để giúp anh yêu đời và với tài thuyết phục ấy còn làm hàng chục chủ lò bánh mì thùng phuy ủng hộ mua bột áo của vợ chồng Trường. Chị một chiếc xe đạp, anh một chiếc xe đạp cải tiến (có hai bánh phía sau), mỗi ngày hai luật gia “Lao động vinh quang” từ sáng tới chiều!
                                    Mỗi khi tới nhà tôi, cháu Vinh liền mau lẹ dọn cơm để tranh thủ nghe chú Trường vừa ăn vừa trổ tài hùng biện; còn chị Trường thì cứ cười hả hả (ý bảo anh Trường nói vừa vừa thôi, coi chừng lộ tẩy!). Hai người có một cháu trai khôi ngô tuấn tú mà ba của Trường rất hãnh diện, đi đâu cũng đều tuyên bố là “Cháu đích tôn của bác và vợ chánh thức của thằng Trường”; làm bạn bè cùng khóa nghe một cách thích thú, thật vui vẻ vô cùng. Khi qua tới Mỹ, anh chị vẫn cố gắng vươn lên, hằng ngày cấp sách vô trường Đại học. Hơn 2 năm sau, chị Kiều lấy được ngành Kế Toán, còn Trường thì tốt nghiệp ngành Hội Họa với số điểm ưu hạng, được thầy cô mến phục người có tài và chí đáng khen. Chị Trường cũng là một người dâu con hiếu thảo, hết lòng phục vụ ba chồng bị mù lòa và tăng áp huyết. Báo chí ca tụng chị là “Quan Âm Bồ Tát” cứu độ Trường và gương tốt cho mọi phụ nữ Việt Nam.
                                    Bán bột mì một thời gian thì các chủ lò xuất ngoại dần, nên việc thu nhập chỉ còn một phần nhỏ, chúng tôi lại có thêm nghề mới: làm bột năng. Mua khoai mì từ Hố Nai, Tây Ninh,...Vợ tôi mướn người lột vỏ, xay nhuyễn, bỏ vô bồng bột (bao vải), nhúng vào thau nước nhồi cho bột hòa tan trong nước. Còn bã mì thì đổ ra thùng bán cho heo ăn, hoặc phơi khô xay nhuyễn làm bột áo. Sáng ra đổ bỏ nước, lấy muỗng vớt lớp bột vàng (bột mủ) để riêng, còn lại bột trắng tinh thì đổ ra phơi. Lúc trời mưa, tôi sợ bột bị ướt thường la oé lên để mấy đứa bưng các nia bột vô nhà. Nhờ làm nghề nầy tôi có thể nhìn mây đoán được trời sẽ mưa hay không!
                                    Tôi cũng làm đại lý thâu mua bột năng của bạn hàng từ Tây Ninh và Hố Nai. Các bạn hàng thật khôn lanh, lúc bột hiếm phải ra bến xe đón giành mua. Lúc vô mùa bột ối động, họ đổ đại vô nhà mỗi ngày hàng tấn; làm tôi phải lo tìm mối tiêu thụ trong Chợ Lớn, hoặc tới các lò làm bún tàu, bột bán,..ở Cầu Tre. Nếu để lâu bột sẽ bị nổi mốc, coi như lỗ vốn. Tôi cũng cho xay bột năng nhiễn và vô bao từng 10 ký lô, hằng ngày có ông Si, chú Biện đem xe đạp tới chở giao cho các sạp tạp hóa ở chợ, lò làm bánh Da Lợn, hoặc các hãng dệt để họ hồ bột.
                                    Ông Si là người Khmer gốc Hoa Kiều, lúc ở Miên ông đã nghe lời ngọt ngào của tụi du kích, nên có ủng hộ tiền của. Tới khi cướp được miền Nam, vợ chồng tới gặp, chúng làm bộ như xa lạ. Ông và những người Khmer tị nạn chửi rủa Việt Cộng vô ơn bội nghĩa! Ông người ốm yếu (vì tiết giảm để có ăn lâu dài) nhưng nhờ là người Tàu, làm ăn đàng hoàng nên cũng bỏ bột được nhiều mối. Ông lấy hàng trước chờ thu được tiền mới đưa tôi. 
                                     Một hôm, vào năm 1982, ông và gia đình định trở về Miên để tìm đường đi chui qua đường Thái Lan. Họ là dân bản xứ biết tiếng Khmer, nên cứ sống như dân du mục, đi dần tới gần biên giới. Rồi một ngày đẹp trời, cả gia đình bắt đầu thực hiện kế hoạch. Họ ngày đêm băng rừng lội suối chạy vượt biên giới qua Thái Lan. Trước khi ra đi, bà vợ ngần ngại không muốn cho ông qua từ giả chúng tôi; vì còn kẹt một số bột chưa thâu tiền được để trả cho tôi. Nhưng ông là người khẳng khái, tín nghĩa, chẳng lẽ bỏ đi không từ giả người đã đem công ăn việc làm cho mình bấy lâu nay. Cuối cùng ông Si quyết định nói cho biết (thật ra nếu không nói tôi cũng thông hiểu vì vượt biên quan hệ tới nhiều sinh mạng,cần phải giữ bí mật tối đa).
                                    Vợ tôi làm tiệc tiễn đưa, trước khi đi ông ôm cứng tôi như cảm động không muốn rời, rồi nhét vào túi cho tôi một cọc tiền như để trả nợ; nhưng vợ chồng tôi không lấy, vì biết ông rất cần số tiền nầy. Ông Si quả thật là một người biết trọng chữ tín, mấy năm trước, đang ở California, ông viết thơ về Việt Nam cho những người Khmer còn kẹt lại và hỏi thăm được số điện thoại. Ông mừng quá, vội gọi tôi và nói muốn qua thăm, vài hôm sau ông bà mua ngay vé máy bay. Khi gặp tôi, mừng rỡ như tìm lại được bạn cố tri, bây giờ ông mập mạp giống xì thẩu (ông chủ) như lúc còn bán tạp hóa ở Campuchia. 
                                    Sau ngày 30/4/75 khoảng hai năm, anh cận vệ cũ của tôi lúc còn ở Đại đội 91 Nhảy Dù là Nguyễn văn Năm, từ vùng Kinh Tế Mới xa xăm về thăm tôi. Thầy trò lâu ngày gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Năm kể lại sinh hoạt của gia đình và anh em Tiểu đoàn 9 ở vùng kinh tế mới trong thời gian qua. Năm và một vài bạn đã rủ nhau vô rừng cưa cây, cắt ra từng khúc để đun thành than, rồi dùng xe đạp thồ (chở) mỗi người trên trăm ký; vừa đạp trên đường nhựa, vừa dắt bộ trên đường đê để tránh trạm kiểm soát; đoạn đường dài từ Tây Ninh tới sàigòn (gần 100 cây số!). Đứa con trai đầu của Năm mới 12 tuổi mà cũng theo cha chở than đem lên Sàigòn, trên một  khoảng đường thật xa xăm, vất vả và đầy nguy hiểm. Nguy hiểm vì du kích thường chận đường tịch thu bắt bớ hăm dọa đánh đập giống như những tên cướp cạn.
                                    Lúc bấy giờ chẳng khác nào chế độ sứ quân thời xưa, du kích mỗi làng xã thường sách súng ra đường đón xe đò cướp bóc, xét chận lấy những đồ bạn hàng dấu (đem về Sàigòn bán chui) như thịt heo, gà, vịt, gạo,...để đưa về cho vợ con chúng và chia nhau nhậu nhẹt hả hê! Mặc cho những người dân vì muốn kiếm tiền nuôi sống gia đình, nên phải độn đồ lậu vào đùi, vào bụng giả đàn bà có thai, nhưng không qua được những tay cướp bóc chuyên nghiệp lừa dân phản bạn nầy.
                                    Chỉ vì muốn bảo vệ 2 bao than xương máu, nên khi đi gặp du kích gọi lại bất ngờ, Năm biết tránh không khỏi, cũng ráng chạy trong tuyệt vọng, để mong giữ được gia tài sống chết vô cùng cần thiết cho vợ yếu con thơ, đang chờ tiền để mua thuốc men và sữa cho đứa bé sơ sinh nhỏ dại. Lúc đó dù biết không chạy nhanh bằng đạn bay, nhưng anh đã quẩn trí, chỉ nghĩ đến vợ con, nếu không có tiền thì họ sẽ nguy khốn, anh không còn nghĩ tới bản thân mình nữa, chỉ cần họ được bình an thì anh có chết cũng không màng! 
                                    Rồi một viên đạn thù xuyên qua vai anh, do tên du kích cướp cạn chỉ vì bao than mà coi sinh mạng người dân như cỏ rác! Sau hơn một tháng trị thương, gia đình bị sạch vốn; vợ anh là con của Trung sĩ Chu cũng là thuộc cấp cũ của tôi, đã khuyên Năm bỏ nghề nguy hiểm nầy và thử lên Sàigòn kiếm tôi cầu cứu. Nhưng Năm ngần ngại vì ông thầy mình đang bệnh tật, dưới chế độ cướp bóc nầy không biết có tồn tại được hay không. Sẵn dịp còn yếu chưa làm gì được, anh định đi thăm xếp cũ một chuyến, còn việc nhờ cậy chắc không có hy vọng gì.
                                    Cha con dùng hai chiếc xe đạp, đem theo mấy củ khoai mì, khoai lang, và cặp gà định đem lên Sài gòn cứu đói thầy mình. Năm không ngờ tôi như vậy mà cũng còn kiếm ăn được, suốt hai ngày ăn uống chuyện trò mà không dám mở miệng, cuối cùng anh bạo dạn nói:
                                    - Anh Tư, tôi muốn mượn anh chị 150 ngàn (lúc đó tương đương nửa lượng vàng) để làm vốn buôn bán, nếu anh kẹt vốn thì để tôi xoay sở cách khác.
                                    Gia đình tôi lúc đó cũng mới bắt đầu kiếm ăn được, mặc dù chưa có dư nhiều, nhưng ở chung lâu ngày, biết Năm là người tự trọng, cần cù chịu khó; chỉ vì hoàn cảnh đặc biệt mới mở miệng nhờ mình, ở thời buổi khó khăn chung của cả dân chúng miền Nam, và của gia đình binh sĩ trong chế độ cũ nói riêng.
                                    Tôi bàn với bà xã nhín chút tiền cho anh mượn, vợ tôi bằng lòng, Năm vô cùng mừng rỡ. Chỉ một năm sau, anh đã hoàn trả đủ số tiền và còn đem cho tôi một quài chuối to lớn, do chính tay anh trồng được. Bây giờ vợ Năm buôn bán gạo lẻ ở chợ trong khu kinh tế mới, Năm lo trồng trọt và thỉnh thoảng ra chợ Gò Dầu Hạ chở gạo và hàng tạp hóa về cho vợ bán. Mỗi khi đi Sàigòn, Năm đều ghé nhà thăm, tôi thường theo dõi và rất hài lòng vì với sự chịu khó cần cù, gia đình anh mỗi ngày mỗi ổn định hơn.
                                    Sau khi nộp đơn xin xuất ngoại chữa bệnh,khoảng hai năm thì được gọi bổ túc hồ sơ, tôi và cháu Thành tới Nguyển Du, vì bục tam cấp cao nên họ cho Thành (mới 10 tuổi) vô đại diện. Chúng bảo tôi về làm tờ tường trình bản thân. Trong một trang giấy đầy tôi cố viết các năm học từ bậc Tiểu học, tên đường, và nói bị động viên tới Đại úy rồi bị pháo kích về làm việc hậu cần (danh từ VC). Tôi dấu chuyện tình nguyện vào Võ Bị Đà Lạt, và cấp bậc thực thụ, vì hồ sơ từ Thiếu tá trở lên sẽ ra ngoài Bắc. Chúng bắt khai lại lần thứ nhì, tôi chỉ thêm phần học các trường võ thuật và các việc buôn bán nhỏ. Họ kêu tới kêu lui nhiều lần ý muốn làm khó dễ đủ điều, nhưng tôi vẫn kiên trì; rồi họ bác đơn, tôi khiếu nại. Chúng làm khó dễ, bảo chỉ cho một mình tôi đi chữa bệnh thôi. Tôi ưng chịu, VC không ngờ tôi quá quyết tâm.
                                    Quách Vĩnh Trường và tôi qua sở Ngoại Vụ khiếu nại, ở đây gặp cô thơ ký (có lẽ là nhân viên chế độ cũ) rất tử tế và nhân hậu, lúc nào cũng ưu tiên cho người tàn phế. Thấy tôi và Trường đến đưa đơn khiếu nại, cô từ trong phòng bước ra ngoài nhận đơn và vui vẻ trả lời những câu thắc mắc của hai đứa. Một tháng sau chỗ làm thủ tục xuất cảnh thông báo gia đình tôi đã được chấp thuận và đợi ngày gọi đi phỏng vấn.
                                    Khi ngồi ở văn phòng đợi phái đoàn Hoa kỳ kêu vào, các cô thơ ký coi hồ sơ nói:
                                    - Chú không ở diện tứ thân phụ mẩu trực thuộc (vì người bảo lãnh là em bạn dì bên vợ!), chắc không đi được đâu!
                                    Vợ chồng tôi nghe vậy thì vô cùng chán nản! (kể cả ông Dượng bên Mỹ cũng bảo đừng bán nhà, chắc không hy vọng đâu!) Lúc vào bên trong, sau khi hỏi lung tung, viên Trưởng Phái Đoàn Phỏng vấn Mỹ lật danh sách hồ sơ lớn bằng cái bàn, tìm luôn hai cuốn cũng không thấy tên trong sổ. Ông ta lắc đầu, nhân dịp cô thông dịch ra ngoài lấy đồ gì đó, nhanh tay tôi đưa cho ông tờ tường trình về thành tích 12 năm ở quân ngũ, trong đó có ghi hai huy chương Mỹ và huy chương Việt Nam như Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, chiến thương bội tinh, nhành dương liễu, sao vàng, sao bạc,...cùng hình ảnh sĩ quan Cố Vấn Hoa Kỳ mà Đại tá Nguyễn Thu Lương đã cho tôi. Đọc xong, ông bảo chúng tôi ra ngoài, chờ gọi về Thái Lan kêu họ dùng “Số quân”, hỏi ban hồ sơ ở Mỹ coi tôi có những huy chương Hoa Kỳ như đã ghi trong tờ giấy mà tôi vừa mới đưa không? Chừng một tiếng đồng hồ sau ông gọi trở vô và hỏi:
                                     - Anh bị thương lật xe có được quy trách công vụ không?
                                     - Thưa có!
                                     Rồi tôi đưa ông ta tờ copy giấy chứng thực (khi hành quân dù bị tai nạn cũng được quy trách công vụ). Chắc ông ta đã nhận được điện thoại xác nhận cái huy chương rất cao quý của họ tức Commandation With “V” Devive kèm nhành lá liễu mà Cố Vấn Trưởng TĐ9ND đã gắn cho tôi trong trận chiến vùng Ven Đô (đối với người Mỹ, Tướng Collin Power có ngôi sao bạc họ đã cho là anh hùng rồi, còn Việt Nam thì rất nhiều người có huy chương cao quí vì họ đã ngày đêm chạm trán với địch trong nhiều năm trường). Ông đích thân đứng dậy bắt tay và rót trà mời tôi, uống ly nước trà mà lòng tôi cảm thấy mát dạ làm sao, vì từ đây tương lai ba đứa con tôi sẽ sáng sủa, bản thân tôi sẽ không còn nghe những luận điệu điêu ngoa trên đài truyền thanh, truyền hình, và nhất là những cô búi tóc Phường thỉnh thoảng cứ lại nhà dạy đời, nói móc họng:
                                    - Hai chân anh không đi được chứ đầu óc còn vướng nhiều tư tưởng Mỹ Ngụy lắm!
                                    Khi đi khám sức khỏe bác sĩ thấy phim quang tuyến có nhiều mảnh đạn còn trong mình tôi, ông ta hỏi:
                                    - Trong nầy có nhiều mảnh đạn, lúc trước anh đã đi quân đội phải không?
                                    Tôi sợ bị làm khó dễ nên nói dối:
                                    - Đây là những mảnh bị pháo kích từ Tết Mậu Thân!
                                    Nhìn tướng tôi một lúc, ông ta hỏi gằn:
                                    - Anh cứ nói thiệt tình đi.
                                    - Phải, lúc trước tôi có đi lính.
                                    - Lính gì, nhìn tướng anh có vẻ không phải lính trơn?
                                    - Tôi là cựu Thiếu tá Nhảy Dù.
                                    - Như vậy mới được chứ, anh đừng lo tôi sẽ phê tốt cho.
                                    - Cám ơn Bác sĩ! 
                                    Sở nhà đất nói sĩ quan Dù nhiều nợ máu không được bán, tôi đành ký giấy hiến nhà và phải đưa cho chúng một ngàn đồng; mới có giấy xác thực để không bị khó dễ tại phi trường! Trong khi diện ưu tiên cao như chồng vợ thì đợi tới 4 tháng, còn tôi được xếp vào diện “Nhân đạo đặc biệt”, chỉ một tháng là đã có chuyến bay! Khi đã biết chắc ngày lên đường, tôi bao một chiếc Taxi quen chở cả nhà về quê thăm gia đình hai họ.
                                    Một tuần lễ thăm quê mẹ lần chót ở Vĩnh Bình; bà con, bạn bè thay phiên đãi tiệc tiễn đưa, trong số bạn thân, có anh Nguyễn Thành Chiến “Vừa là tri kỷ vừa là tri âm”. Lúc còn học Đệ Thất trường tỉnh, Trần Trung Tiên, thấy Chiến mồ côi cha mẹ sớm, ngày nào cũng đem cơm theo từ quê đạp xe tới trường, đoạn đường dài 9 cây số dưới trời nắng chan chan.
                                     Lúc đó ảnh hưởng Pháp, các trường đều dạy 2 buổi. Tôi bảo anh mỗi ngày tới nhà nghỉ trưa và cùng nấu cơm nóng ăn với tôi. Vì má tôi có sạp bán guốc ở chợ, nên hai đứa phụ trách nấu ăn, Chiến lãnh phần làm cá, lột tép, rửa rau; còn tôi nấu cơm và nêm nếm (chơi gác bạn rồi!) Mỗi lần nấu xong tôi nếm tới no bụng luôn!
                                    Chiến tánh tình hiền lành và tốt bụng, bạn bè ai cũng thương mến. Sau khi xong Đệ Nhứt Cấp, Chiến vào Sư Phạm còn tôi lên Sàigòn ở nhà trọ để tiếp tục học. Lúc mới ra trường làm thầy giáo với lương chỉ 4 ngàn đồng một tháng, vậy mà anh cũng tự động gởi cho tôi 1 ngàn/tháng. Má tôi cho 1500$/tháng mà tiền trọ chỉ có 800$/tháng, nên tôi lúc ấy cũng không thua kém vì anh Thống, công tử Bạc Liêu, ở trọ chung nhà. Trong đám cùng ở trọ, đứa nào cũng trượt một vài keo mới lấy được mảnh bằng Tú Tài Toàn Phần, còn tôi vì thấy má buôn bán cực khổ và tấm thạnh tình của Chiến, nên ráng học và thi keo nào trúng keo nấy.
                                    Sau nầy Chiến bị Động Viên đi khóa Hạ Sĩ quan ở Quang Trung, tôi có chở bà xã, đang mang bụng bầu to lớn, lên thăm Chiến, nhưng vì đợi chờ lâu quá, vợ tôi xỉu nên phải đi về. Lúc đó tôi có gởi tiền lại cho Chiến, anh nhận được vài lần rồi bảo ngưng. Sau ngày mất nước, Chiến làm ăn thất bại, lên nhà tôi mượn một lượng vàng làm vốn buôn bán, bà xã rất sẵn lòng vì nghe tôi thường kể về người bạn tâm giao nầy. Vài năm sau Chiến làm ăn được, vội đem 5 chỉ tới trả nợ trước, phần còn lại sẽ trả sau. Chúng tôi nói phần nầy khỏi đưa nữa, vì lúc trước còn nợ bạn thanh toán chưa hết.
                                 Chiến từng viết trong lưu bút ca ngợi tôi tốt với bạn bè, nhưng sự thực so với anh thì tôi còn thua rất xa. Tôi rất quý bạn bè, trên quảng đường đời, gặp rất nhiều bạn tốt, nếu mình vì mọi người thì mọi người cũng vì mình. Đó là phương châm mà tôi hằng noi theo để cư xử với bè bạn và mọi người xung quanh.
                                    Ở Trà vinh một tuần lễ, gia đình tôi đi cúng mộ Ba tôi và Má vợ; rồi nhiều bà con và bạn bè cùng đưa lên Sàigòn. Nhạc gia cho một cặp dê, bà con hai bên đem nào là cua, tôm, gà, vịt,...và đích thân hai tay nấu ăn giỏi là Cô Hai Néo và anh Hai Sang đứng bếp nấu đãi bạn bè lối xóm hơn một trăm người. Trong đó có anh Sáu Lương, anh Triệu, cò Thu, anh Nhàn, ông cụ Hiếu,... Bà tổ trưởng hỏi sao không mời những người bên Phường, tôi mỉm cười ngụ ý cho bà biết là:
                                                       Đồ ăn ngon
                                                      Chỗ ngồi ăn ngon
                                                     “Người ngồi ăn không ngon”
                                                                      .....Không ngon!!!
                                                                                (Tản Đà)
                                    Những tên bị nhiễm chủ thuyết lừa thầy phản bạn, đã hùa nhau hành hạ các chiến hữu của mình mà lại mời họ dự tiệc tiễn hành ư ? Như vậy thì cari dê, rượu dê, heo quay, ếch sào lăn, tôm càng, và cua rang muối,...sẽ làm cho bà con, bạn bè, xóm giềng,.. nuốt không trôi khi bị ngồi ăn chung với họ.
                                    Sáng hôm sau ba xe bus mà tôi đã thuê đến chở bà con, lối xóm, bạn bè (trong đó dĩ nhiên có Chiến) để đưa tiễn gia đình tôi ra phi trường. Bà cụ nhà đối diện, má của cựu Trung tá Tôn thất Hiếu Truyền Tin SĐND, và bà Sáu đã ôm vợ tôi khóc một cách ngon lành. Mười bốn năm ở đây, chúng tôi đã gây được thiện cảm với bà con lối xóm, lúc làm ăn phát đạt, chúng tôi thường giúp đỡ những người bị khó khăn.
                                    Như trường hợp anh Trịnh Hữu Ân, khi ở tù về, phải chạy ăn thật vất vả để nuôi vợ con, dù mệt nhọc cực khổ, nhưng ngày nào anh cũng không quên mua quà bánh về cho các con. Vì những ngày đói khổ ở trong tù, mỗi khi chán nản, anh thường nghĩ đến Tí Chị, Đức, Tí Em, Tí Hon. Vì chúng là niềm an ủi mà anh đã hết lòng yêu mến trong suốt cuộc đời đầy bảo táp, phong ba nầy! Tôi thấy nhạc gia anh già yếu nên thường giúp tiền cho ông bồi bổ, những người xóm giềng kẹt tiền thì chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Ông cụ Tôn Thất Hoàng rất thương gia đình tôi; mỗi lần đi thâu tiền về trễ, ông thường đứng trước cửa trông ngóng vì xe tôi ưa hư vặt (chạy tới gãy cốt xe mấy lần, thật nguy hiểm!). Cụ đích thân qua sửa dùm, mặc dù tuổi đã trên bảy mươi mà vẫn còn mạnh mẽ.
                                    Lúc từ giả mọi người, từ trong phòng kiếng tôi thấy một bàn tay thiếu ngón đang cố nhón lên vẫy chào; biết đó là bạn thân Quách V Trường, khiến tôi ứa nước mắt, nguyện khi tới Mỹ, sẽ lòng dùng hết khả năng vận động giúp bạn toại chí (tôi thường tin tưởng quyết tâm của mình, hễ mà hứa thì phải cố gắng làm cho được). Ngồi trên máy bay mà tôi vẫn còn liên tưởng đến ngày nào hai đứa cùng dầm mưa đứng trước Sở Ngoại Vụ, Nguyễn Du, và Nguyễn Trải. Trường đã chịu bao nhiêu gian khổ, gánh nhiều nỗi đắng cay! Có những buổi trưa hè nắng gắt, hoặc những ngày mưa gió bão bùng, anh phải cầm đơn chầu chực bọn cầm quyền để mưu cầu một tờ giấy xuất cảnh.
                                    Khi tôi bắt đầu nộp đơn thì Trường đã có giấy nầy, anh đã mòn mỏi trông chờ ba đứa em ruột ở Pháp và Mỹ. Chờ tới dài cổ, mà chẳng có một tia sáng ở cuối đường hầm. Nhìn bàn tay thân thương của anh, tôi có quyết tâm tự nhủ: “Yên chí đi Trường, hãy tin tưởng thằng bạn nầy, có thể làm lai chuyển lòng nguội lạnh của các đứa em. Hơn bốn năm qua, đã không đáp ứng lời kêu gọi của người anh đang kẹt lại quê nhà”! 
                                     Lòng đã quyết, tâm chẳng sờn, gót chẳng lui! Người ta chỉ sợ lòng người ngại núi e sông! Nhưng khi núi sông đã không còn là chướng ngại nữa, em gái của Trường sau khi nghe tôi trổ tài thuyết phục (nhờ ảnh hưởng nhà hùng biện của Trường), bằng lòng làm giấy bảo lãnh.
                                    Thế là khi núi sông không còn là những chướng ngại nữa thì Trường và vợ con không khác gì con chim xổ lồng, tung cánh giữa sự đùm bọc, che chở của thân quyến và bạn bè!
                                    Đối với một người lính, cuộc chiến đấu bằng súng đạn mới chỉ là một phần đời. Khi đã đánh trận thì không ai đám bảo đảm sinh mạng mình an toàn trước viên đạn thù, hoặc ít nhất cũng bị thương tật. Trường hợp những người lính bị thương tật như Nguyễn Văn Tuân, Trường, Sơn, Lạc, Linh, và tôi, thì cuộc chiến đấu chính bản thân mình, với sự tuyệt vọng ở tinh thần, niềm đau đớn nơi thể xác,..sẽ là phần đời thứ hai, khó khăn hơn và cam go hơn mọi người khác rất nhiều!


                                Trương Dưỡng. K20
                                nguồn:
                                http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X