Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thân Phận Của Đại Tá Cao Văn Viên Trong Cuộc Đảo Chính 1-11-1963

    Thân Phận Của Đại Tá Cao Văn Viên Trong Cuộc Đảo Chính 1-11-1963
    (Tác giả bài viết dưới đây là Ông Đặng Kim Thu, cựu SVSQ/TVBDL/K19,
    cựu tùy viên của Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu quận trưởng quận Chợ Gạo)


    Chân dung Đại Tướng Cao Văn Viên

    Từ đơn vị tác chiến ( tiểu đoàn 41 BĐQ), tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tuỳ Viên cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi không có nhà ở Sài Gòn nên ông bà Đại Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời gian đầu.

    Với công việc hoàn toàn mới lạ, nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của Đại Tướng, mới đầu tôi hơi nản lòng, nhưng nhờ sự giúp đỡ, chỉ dẫn tận tình của người tiền nhiệm của tôi là Quách Tinh Cần K20//TVBQGĐL, và sự cởi mở của ông bà Đại Tướng nên tôi cảm thấy an tâm đôi chút.

    Những ngày đầu về ở trong dinh của Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an ninh vòng trong, và v.v…

    Ông bảo tôi:

    – Thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn phòng, ngoài giờ làm việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vị tuớng tá nào muốn gặp tôi ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng, mà phải báo tôi trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, đặc biệt chú phải quan sát, xem vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không. Trong mọi trường hợp chú đừng cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt . Nhưng đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc nào, chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải hỏi tôi trước, hai vị đó là Trung tướng Trần Văn Đôn và Trung tướng Tôn Thất Đính. Mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa?

    Tôi trả lời “dạ chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo: “Cũng tốt, vậy thi ráng nhận diện nếu hai vị đó tới.”

    Xong ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do nào mà hai ông cựu tướng này được đại tướng ưu ái như vậy.? Ông nói thêm:”chú muốn biết tại sao tôi đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai tôi kể cho chú nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn”

    Hôm sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:

    “Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công chức nghỉ buổi sáng khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng Thiếu tướng Khiêm mời vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt trước 1 giờ. Tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn đó rồi, nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm. Đúng 1 giờ. hai qưân cảnh ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ ngác nhìn nhau, Đại tá Lê Quang Tung nói lớn:

    – Họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ khoá cửa nhốt mình rồi, chuyện gì đây!

    Vài phút sau đó có tiếng mở cửa, Đại úy Nhung cận vệ của Trung tướng Dương văn Minh đứng ngoài cửa nới với vào:

    – Mời Đại tá Lê quang Tung – Lực Lượng Đặc Biệt và D0ại tá Cao văn Viên Nhẩy Dù lên lầu gặp Trung tướng Dương văn Minh.

    Vì Đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra sau. Khi tôi ra khỏi phòng họp thì nhìn thấy Đại tá Tung đã bị Đại úy Nhung còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị 1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị còng 1 tay thì tình cờ Thiếu tướng Tôn thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu gặp Trung tướng Minh .

    Tướng Minh nói:

    – Hôm nay “moi” và một số các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao?

    Tôi trả lời:

    – Chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này Trung tướng mới cho tôi biết thì tôi đâu có quyết định được gì.

    Lúc đó Trung uý Trương (hay Trần) Tự Lập sĩ quan tùy viên của Trung tướng Minh lăm le khẩu súng carbine chĩa vào lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. anh ta hỏi tôi :

    – Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không?

    Tôi đáp:

    – Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời trước áp lực.

    Thiếu tướng Đính thấy vậy bảo tên Trung úy Lập đừng hỗn với cấp trên, rồi tướng Đính dẫn tôi về lại phòng số 1 đóng cửa lại.

    Vài vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện gì vậy? Tôi nói họ đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có người hỏi: “còn Đại tá Tung đâu? tôi nói “bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.

    Khoảng 15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần nữa, lần này Trung tướng Minh nói với tôi:

    – Có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của Trung tá Vĩnh Lộc từ Bà Rịa về tới Sài Gòn, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long, đòi phải được liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như sau: Thứ nhất tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho tiểu đoàn nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi” gắn lon Thiếu tướng cho “toi” liền.

    Tôi trả lời rằng chuyện của Trung tướng làm, tôi không chống đối, nhưng bảo tôi phản lai “thầy” tôi thì tôi không làm, Trung tướng thông cảm cho tôi (lời người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù, Đại tá Viên là Chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống);

    Tôi được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng lại hỏi, tôi trả lời chưa hết thì chánh văn phòng của Thiếu tướng Khiêm xuống dẫn tôi lên văn phòng giữ riêng tôi ở đó.

    Sau khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày tôi phải lên Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh . Độ 5,6 ngày sau Trung tướng Khiêm “lên Trung tướng ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ đoàn nhẩy dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ hoặc bị hạ tầng công tác.

    Rồi sau đó không lâu tôi được Trung tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời yêu cầu của Trung tướng Minh thì trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn định đưa tôi theo số phận của Đại tá Lê Quang Tung, nhưng Trung tướng Đôn không đồng ý và nói rằng:

    – Trước khi tiến hành cuộc “cách mạng” anh (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn chế tối đa vìệc gây đổ máu các sĩ quan cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã cho giết Đại tá Hồ Tấn Quyền, giết Đại tá Lê Quang Tung, bây giờ anh muốn giết luôn Đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “lui” không hợp tác với mình nhưng “lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.

    Tôi nghĩ dường như Tướng Khiêm cũng biết ý định đó của Tướng Minh nên mới ra lệnh đem tôi lên văn phòng của ông giao cho Chánh văn phòng là Đại úy Phạm Bá Hoa giữ riêng tôi ở đó, rồi ông Khiêm bảo:”Ai muốn kêu Đại tá Viên đi đâu phải có lệnh của tôi mới cho đi”

    Đấy là 3 người ơn cứu tử tôi đó !”

    Vai Trò Của Đại Tá Cao Văn Viên Trong Cuộc Chỉnh Lý ngày 30-1-1964

    Một lần tôi theo Đại Tướng Viên ra Đà Nẵng thăm các đơn vị thuộc Quân Đoàn I. Tối lại, ngủ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng, lúc đó Trung tá Lê Chí Cường gốc nhẩy dù làm Thị Trưởng.

    Đầu hôm thời tiết còn nóng, thầy trò tôi chưa ngủ được nên Đại Tưóng kể chuyện Đảo Chánh, chỉnh lý cho tôi nghe. Giờ đây thì chuyện dù đã xa xưa, nhưng thiết tưởng còn nhiều người chưa biết rõ, hoặc biết không chính xác, không đầy đủ, nên tôi mạo muội thuật lại những gì Đại Tá Viên kể cho tôi nghe với ước mong giúp quí vị độc giả đánh giá được 1 phần sự thực của 1 giai đoạn của Đất Nước.

    Nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý 30-1-1964

    Đại Tướng Viên kể rằng :

    “ Trong nội bộ các tướng lãnh: sau ngày Đảo Chánh 1-11-1963 thành công, trong hàng tướng lãnh trụ cột của cuộc đảo chánh có những bất đồng ý kiến về việc thành lập chính phủ mới, về việc sắp xếp nhân sự và quan trọng hơn là sự tranh công tranh quyền giữa các tướng với nhau, cho nên dẫn tới sự chia rẽ.

    Ngoài ra Trung tướng Minh ỷ quyền là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nên tỏ ra độc đoán trong mọi quyết định.

    “ Chẳng hạn như ông Minh muốn đưa ông Nguyễn ngọc Thơ nguyên Phó Tổng Thống của ông Ngô Đình Diệm ra làm thủ tướng, nhìều tướng lãnh không đồng ý, vì cho rằng nguyên Phó Tổng Thống của chính phủ vừa bị lật đổ ra làm thủ tướng của chính phủ mới thì thật là vô lý, nhưng ông Minh cứ làm theo ý ông.

    “Về phía Tòa Đại Sứ Mỹ thì ông Đăi Sứ đề nghị với ông Minh nên cử ông Trần quốc Bửu Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công ra lập chính phủ với lý do ông Bửu có nhiều uy tín trong giới bình dân và hiện trong tay ông Bửu có hơn 20 ngàn doàn viên của Tổng Liên Đoàn Lao dộng là lực lượng hùng hậu sẽ hỗ trợ cho chính phủ. Ông Dương văn Minh chẳng những không nghe mà còn ra lệnh cho thìếu tướng Đỗ Mậu bắt giam ông Trần quốc Bửu với lý do rất mơ hồ.

    Thêm nữa, ông Minh lại gọi 2 người đã rời khỏi quân đội hồi năm 1955 đang lưu vong bên Pháp( vì chống ông Ngô đình Diệm) trở về hợp tác, đó là Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ và Đại tá Trần đình Lan (phòng2) trong quân đội Liên Hiệp Pháp; đìều này có vài tướng trẻ mới được thăng cấp như Thiếu tưóng Nguyễn hữu Có, Đỗ Mậu, Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm, Trung tướng Trần Thiện Khiêm đều không đồng ý, bởi các vị này cho rằng ông Nguyễn văn Vỹ và ông Lan đã lỗi thời và đã rời khỏi quân đội lâu rồi, không còn thích hợp với quân đội hiện giờ nữa. Các ông Khiêm, Có, Lắm cho rằng, hiện nay trong quân đội có nhiều cấp tá trẻ có nhiều năng lực và được đào tạo chánh quy, cứ mạnh dạn giao việc cho họ, chứ cần gì phải gọi 2 người đó về hợp tác.

    Ông Dương văn Minh chẳng thèm nghe mà vẫn cứ hành xử theo ý riêng mình dựa trên tình cảm cá nhân.

    “Phần tôi (Đại tá Cao văn Viên) thì mỗi ngày trình diện ở Bộ Tổng Tham Mưu, nghe nói ông Minh định cho tôi giải ngũ, nhưng nhờ Trung tướng Khiêm tự ý cho tôi trở về nhẩy dù ngày 6-11-1963 mà không hội ý với ông Minh, vì việc này nằm trong thảm quyền của ông Khiêm.

    Về sau mới biết, sở dĩ ông Khiêm hành động như vậy vì ngày 5-11-1963, ông Minh nói với ông Khiêm rằng Đại tá Nguyễn Chánh Thi ở Campuchia sắp về, ông Minh sẽ cho ông Thi chỉ huy lại Lực Lượng Nhẩy Dù, diều này chính ông Khiêm không muốn, nên hành động trước một bước, vì nếu để ông Nguyễn Chánh Thi chỉ huy nhẩy dù thì khi ông Khiêm muốn mưu đồ gì cũng không thể xử dụng lực lượng nhẩy dù được vì ông Khiêm với ông Thi không thân nhau, vả lại cũng còn ngờ vực không biết ông Thi còn ôm mối hận ngàỳ 11-11-1960 cách 3 năm trước hay không.

    Ngày 8-11-1963 Đại tá Nguyễn Chánh Thi từ Nam Vang đi đường xe về tới Gò Dầu Hạ, được ông Khiêm cho trực thăng đi đón về Tổng Tham Mưu, sau đó ông Khiêm cử ông Thi làm chủ tịch Ủy Ban Điều Tra tài sản và tội ác của ông Ngô đình Cẩn, thế là ông Thi trở ra miền Trung làm việc.

    Từ những việc như vậy đưa đến những xích mích giữa ông Khiêm và ông Minh, rồi một ngày vào hạ tuần tháng 12-1963, ông Minh cử ông Khiêm đi công du qua Nhật và Đài Loan, ở nhà ông Minh giao cho Trung tướng Lê Văn Kim thay thế Trung tướng Khiêm giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (không làm lễ bàn giao), đến khi ông Khiêm trở về thì ông Minh chỉ định ông Khiêm làm Tư Lệnh Quân Đoàn III chia bớt nhiệm vụ của Trung tướng Đính đang kiêm nhiệm Bộ An Ninh. Thời gian này Quân Đoàn III còn nằm trong trại Lê văn Duyệt Sài Gòn chưa dời lên Biên Hoà. Vậy là ông Khiêm bị hạ tầng công tác nên ông Khiêm trở nên bất mãn.

    Nguyên nhân bên ngoài

    Ông Dương văn Minh gây cho Đại Sứ Mỹ cú “sốc” đầu tiên là không nghe theo đề nghị của Đại Sứ Mỹ đề cử ông Trần Quốc Bửu làm thủ tướng mà ông Bửu còn bị bắt giam với tội danh mơ hồ.

    Sau khi đảo chánh thành công, ông Minh thường liên lạc với đại sứ Pháp ờ Sài Gòn, hơn là đại sứ Mỹ, và có vài lần ông Minh mời Đại Sứ Pháp đến dinh “Hoa lan” của ông Minh dùng cơm tối, có sự hiện diện của ông Đôn, ông Kim, ông Xuân …mà không có sự hìện diện của viên chức Mỹ nào cả. Việc này không qua khỏi cặp mắt “cú vọ” của cơ quan CIA ở Sài Gòn khiến họ đâm ra hoài nghi.
    Ngoài ra mỗi khi có việc phải giao tiếp với viên chức của toà đại sứ Mỹ và Bộ Tư Lệnh M.A.C.V, các ông Minh, Đôn, Xuân, Kim …chỉ nói toàn tiếng Pháp mà không nói 1 câu tiếng Anh nào, điều này cũng gây khó chịu và tự ái đối với các viên chức Mỹ không ít, và họ nghĩ là các tướng có khuynh hướng thân Pháp.

    Tổng hợp những chuyện kể trên đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964.

    Chiều ngày 29-1-1964 tướng Khiêm mời tướng Khánh ở Đà Nẵng về Sài Gòn, nói có chuyện cần bàn với tướng Khánh, rồi tướng Khiêm gặp tôi (Đại tá Viên) chỉ thị cho tôi chuẩn bị lực lượng nhẩy dù đi bắt 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính,Vỹ và người thứ 6 là Thìếu tá Nhung (người đã giết ông Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu), Thiếu tá Nhung đang ở trong nhà Trung tướng Dương văn Minh.

    Tôi đề nghị với Trung tướng Khiêm nên giao người khác đi bắt ông Đôn và ông Đính, chứ tôi rất khó xử nếu phải đi bắt 2 người mà cách đây 3 tháng đã là ân nhân cứu tử tôi. Trung tướng Khiêm thấy đề nghị của tôi hợp lý nên giao cho tiểu đoàn 2 TQLC lúc đó do Thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu làm TĐT đi bắt tướng Đôn và tướng Đính.

    Lệnh tổng quát của Trung tướng Khiêm cho 2 tôi và Thiếu tá Châu là không được liên lạc hoặc tiếp xúc với bắt cứ ai cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.

    Thời gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của Tư Lệnh QĐIII, và riêng TĐ2/TQLC vì đang đóng quân bên ngoài lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô nên Trung Tướng Khiêm ký sự vụ lệnh giao cho 1 đại úy thuộc QĐIII đem đến cho TĐT/TĐ2/TQLC để di chuyển tiểu đoàn vào BKTĐ mà không bị ngăn cản.

    Trung Tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Phạm bá Hoa chuẩn bị 1 xe dodge truyền tin để theo dõi việc đi bắt 5 ông tướng mà chính Thiếu tá Hoa phải trực máy truyền tin.

    Giờ xuất phát đi bắt là 23 giờ và các đường giây điện thoại ở nhà 5 ông tướng đã bị ông Khiêm cho lệnh cắt đứt hết rồi, không liên lạc được với ai cả.

    Đúng 23 giờ tôi được lệnh xuất phát để bắt 3 ông tướng: Mai hữu Xuân, Lê văn Kim và Nguyễn văn Vỹ, rồi sau cùng đến bắt Thiếu tá Nguyễn văn Nhung tại nhà của ông Dương văn Minh.

    Tiểu đoàn 2/TQLC được giao nhiệm vụ đi bắt 2 ông tướng Tôn thất Đính và Trần văn Đôn , cả 2 đơn vị xuất phá cùng một lúc.

    Đến khoảng 2 giờ sáng 5 vị tướng : Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ được đưa vô Bộ Tổng Tham Mưu, riêng th/t Nhung thì tôi đưa về trại Hoàng Hoa Thám bản doanh của lữ đoàn nhẩy dù.

    Trung tướng Nguyễn Khánh ở Đà Nẵng được Trung tướng Khiêm mời về Sài Gòn từ chiều, đang ở nhà chờ, đến bấy giờ mới được tướng Khiêm mời vào BTTM cho biết:”Nhiệm vụ của tôi (tướng Khiêm) tới đây đã xong, phần còn lại tôi giao cho anh (tướng Khánh) chuẩn bị sáng mai anh họp báo.

    Tướng Khánh nói: ”công của anh thì anh làm luôn đi”. Tướng Khiêm vẫn khước từ và gợi ý với tướng Khánh, khi họp báo cứ nói các ông đó có ý định “trung lập thân Pháp” nên mình phải ra tay ngăn chặn.

    Trung tướng Khánh liền gọi ra Quân Đoàn I Đà Nẵng dặn dò chuyện gì đó, rồi Đại tá Thi nghe được lièn bay vô Sài Gòn kịp sáng sớm vào TTM ngồi họp báo chung với tướng Khánh, điều này khiến báo chí và dân chúng tưởng rằng ông Khánh và ông Thi làm cuộc chỉnh lý, chứ không biết rằng trong đêm 1 mình tướng Khiêm đích thân chỉ huy 2 vị sĩ quan cấp tá là tôi và Thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu đi bắt 5 ông tướng và Thiếu tá Nhung, xong rồi mới giao cho ông Khánh.

    Tóm lại ông Khiêm dọn sẵn “mâm cỗ” cho ông Khánh hưởng.

    Hôm saụ 5 vị tướng bị chỉnh lý được phi cơ chở ra Đà Nẵng rồi vài ngày sau lại chở vô quản thúc ở Đà Lạt. Ông Khánh lên làm thủ Tướng từ lúc đó.

    Số phận của Thiếu tá Nhung

    Đại Tướng viên kể lại rằng:

    “Khi tới nhà ông Minh để bắt Thiếu tá Nhung thì tôi gặp ngay tướng Minh, ông hỏi lệnh của ai biểu bắt,

    Tôi (Đại tá Viên) trả lời: lệnh của Trung tướng Trần thiện Khiêm.

    Ông Minh hỏi: ông Khiêm hiện giờ ở đâu?

    Tôi trả lời: thưa Trung tướng tôi không biết.

    Ông Minh lại hỏi tiếp:vậy đại tá nhận lệnh của ông Khiêm từ lúc nào? lý do nào bắt cận vệ của tôi.

    “Tôi đáp: xin tr/t hỏi ngay Trung tướng Khiêm, còn tôi chỉ thi hành lệnh.

    Liền đó tướng Minh bốc điện thoại gọi ai đó, nhưng gọi không được, bèn dằn mạnh điện thoại xuống bàn, thấy vậy tôi nói :”điện thoại bị cắt giây rồi, trung tướng không gọi được ai đâu”, tôi chào tr/t Minh rồi dẫn Thiếu tá Nhung ra xe đưa về trại Hoàng Hoa Thám.

    Tại đây tôi giao Thiếu tá Nhung cho sĩ quan an ninh nhẩy dù hỏi cung th/t Nhung, chủ yếu ở điểm: ai ra lệnh giết Tổng Thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Nhu? Sĩ quan an ninh nhẩy dù đưa giấy, viết bắt ông ta tự viết lời khai để làm chứng cớ. Sau khi lấy lời khai xong, khuya ngày hôm sau sĩ quan an ninh (cấp bậc trung úy) cho người vô phòng giam bóp cổ Nguyễn Nhung chết rồi lấy giây giầy”saut” của chính ông Nhung thắt vòng treo cổ Nguyễn Nhung lên trần nhà.

    Đêm đó tôi về nhà ngủ, sáng sớm hôm sau, sĩ quan trực ở trại Hoàng Hoa Thám đìện thoại báo cáo tôi: Thiếu tá Nhung thắt cổ tự tử chết rồi, tôi bảo sĩ quan trực gọi bác sĩ Văn văn Của, lúc ấy là Thiếu tá y si trưởng Nhảy Dù ráng cứu chữa ông ta coi có thể sống lại được không? .

    Sau đó y sĩ thiếu tá Văn Văn Của điện thoại báo tôi: “Thưa Đại tá hết phương cứu chữa rồi” và ông Của làm bản báo cáo, y chứng xác nhận, “Thiếu tá Nhung đã chết do thắt cổ tự tử”. Cuộc điện đàm này tôi có cài máy ghi âm để thủ thân về sau này.

    Trong lời tự khai của Thiếu tá Nhung, ông ta nói rằng ông Dương văn Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Nhu trước khi đoàn xe về tới Bộ TTM, ngoài ra trên đường di chuyển nếu có sự bất trắc gì xẩy ra thì chỉ nghe theo lệnh của Thiếu tướng Mai Hữu Xuân mà thôi, khi ông Nhung đâm ông cố vấn Nhu thì bị ông Diệm chống cự quyết liệt nên buộc lòng ông Nhung phải giết luôn ông Diệm

    Ngoài ra khi khám tử thi của Thiếu tá Nhung, sĩ quan an ninh lấy ra được một mẩu giấy viết sẵn giấu trong quần, định tìm cách gửi về nhà, nhưng chưa gửi được. Nội dung như sau:”Em ơi! Bọn Diệm, Nhu sống lại rồi, chắc anh phải chết, nếu anh có mệnh hệ gì,em phải ráng nuôi các con cho khôn lớn, anh đang bị nhốt trong lữ đoàn nhẩy dù”.

    Lời tự khai và cái thơ riêng gửi cho vợ của Thiếu tá Nhung được đưa cho Trung tướng Khánh giữ.”

    Nhận định riêng của người viết:

    Về cái chết của Thiếu tá Nhung, tôi nghĩ rằng vị sĩ quan an ninh nhẩy dù không dám tự ý hành động, mà phải có lệnh của 1 trong 3 vị: Tuớng Khánh, Tướng Khiêm hoặc Đại tá Viên? Nhiều lần tôi muốn hỏi Đại tướng Viên nhưng lại rụt rè không giám hỏi vì sợ Tướng Viên giận và cho rằng tôi tò mò.,

    Theo tôi cuộc chỉnh lỷ 30-1-1964 chắc chắn phải có bàn tay “phù thủy” của Mỹ thúc dẩy cho Tướng Khiêm thực hiện, mà nguyên nhân chánh là do Trung tướng Dương văn Minh làm phật lòng người Mỹ, nhưng ông Minh không bị loại vì lúc bấy giờ dân chúng và khối phật giáo Ấn Quang vẫn còn xem ông Minh như người hùng ”cách mạng” nếu loại hẳn ông Minh sợ e có xáo trộn xã hội và sợ Thượng toạ Thích trí Quang sách động Phật tử “xuống đường”ủng hộ ông Minh . Còn 5 ông tướng bị chỉnh lý vì thân tín với ông Minh nên bị làm vật tế thần, bị chụp lên đầu cái mũ”trung lập thân Pháp”, để chặt hết tay chân của ông Minh, biến ông Minh thành “con cua bị gẫy càng” ngồi đó nhìn ông Khánh tung hoành.

    Phụ chú;

    Những điều tôi thuật lại cho quý độc giả trên đây là tôi được nghe đại tướng Viên kể lại lúc tôi đang là sĩ quan tùy viên của ông,

    Sau này vào tháng 8 năm 2004, tôi từ Cali qua Virginia thăm Đại tướng Viên trong 1 nursing home, tình cờ có Đại tướng Khiêm tới, ông Viên, ông Khiêm và tôi cùng ngồi nói chuyện chung, đây là dịp may hiếm có, tôi hỏi Đại tướng Khiêm vài điều mà tôi ấp ủ từ lâu vì không biết hỏi ai cho chính xác.

    Tôi hỏi:

    -Thưa Đại tướng, em nghe nói ngày đảo chánh 1-11-1963 có 1 người Mỹ ở trong phòng của Đại tướng ngay từ giờ phút đầu để theo dõi cuộc đảo chánh, em muốn biết lời đồn đó co đúng không?

    Đại tướng Khiêm nói:

    – Lời đồn đó đúng, người Mỹ đó là Trung tá Conein, ông ta ở trong 1 phòng nhỏ sát phòng làm việc của tôi sau tấm vách ngăn mà không hề bước qua phòng tôi trong thời gian tiến hành đảo chánh. Tôi cho chú biết thêm, ông Conein này là 1 sĩ quan trưởng của 1 toán tình báo Mỹ đã từng nhẩy dù xuống vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc, Việt Nam năm1945 để giúp Hồ Chí Minh đánh Nhật, ông ta là người biết nhiều về Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh.

    Tôi hỏi tiếp :

    – Thưa Đại tướng, em được biết, sau khi Đại tướng làm cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964 Thiếu tá Nhung đã khai, ông Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Diệm, ông Nhu , lời khai đó chân thật không? Liệu sau lưng ông Minh có 1 thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh làm chuyện đó không?

    Đại tướng Khiêm trả lới:

    – Chú nghe kỹ tôi nói đây:”trước ngày đảo chánh (1-11-1963) tôi đưa ra 1 điều kiện tiên quyết với ông Minh, liên quan đến Tổng Thống Diệm như sau: phải bảo đảm sinh mạng Tổng Thống Diệm và để T/T Diệm bình an xuất ngoại. Ông Minh và ông Kim đều đồng ý, sở dĩ có ông Kim vì mới đầu ông Kim có 1 nhóm riêng cũng âm mưu đảo chánh, về sau 2 nhóm mới kết hợp lại.

    Khi biết ông Diệm , ông Nhu bị giết, lúc ấy tôi mới biết luôn Đại tá Quyền, Đại tá Tung và em của Đại tá Tung là Lê Quang Triệu cũng bị giết, còn ông này (ông Khiêm vừa nói vừa nhìn qua ôngViên) cũng bị còng tay, may mà ông Đính thấy kip chứ không thì cũng theo Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung rồi (ông Viên và ông Khiêm cùng cười).

    Ông Khiêm nói tiếp:

    – Tôi ở văn phòng của tôi trên lầu. Còn ông Minh, ông Kim, ông Đôn ngồi ở phòng của Đại tướng Tỵ, lúc đó Đại tướng Tỵ đang dưỡng bệnh, nên ông Đôn làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Họ hành động lén lút, giấu không cho tôi biết rồi họ quyết định với nhau tôi có hay biết gì đâu.

    Chú nghĩ coi: ông Diệm đã gọi đìện thoại bảo cho xe đến đón ông về TTM, như vậy nghĩa là ông đã đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng. Ông Minh, ông Kim độc ác quá! Cho nên tôi bất mãn với 2 ông ấy từ lúc đó.

    Còn chú hỏi liệu có thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh giết ông Diệm, tôi cho chú biết thêm chi tiết này: khi ông Conein ở trong phòng nhỏ bước ra phòng tôi, trung tướng Minh cho ông ta biết ông Diệm và ông Nhu chết rồi, ông Conein tỏ ra tức giận không nói với ông Minh một lời,ông quay trở vào phòng và thốt lên một câu:”Do a terrible thing”rồì một lúc sau ông Coneil bỏ ra về. Thế đó chú tự suy nghĩ”.

    Tôi cám ơn Đại tướng Khìêm, rồi chúng tôi tiếp tục nói chuyện linh tinh khác suốt cả buổi sáng hôm đó.

    Thân phận của một Quốc Gia nhược tiểu là như vậy.


    Đặng Kim Thu
    Cựu Sĩ quan tùy viên

    https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
    Last edited by BachMa; 06-22-2019, 03:59 AM.

    Comment


    • LHTong Viết Về Lập-Bụng Cơ Phi 231 Biên-Hòa - 235 Dê-Cụ Pleiku

      LHTong Viết Về Lập-Bụng Cơ Phi 231 Biên-Hòa - 235 Dê-Cụ Pleiku
      LHTong



      Hình chụp năm 2013 tại nhà Tài

      Nhớ đến Lập-Bụng, tôi quên mất Lập-Bụng đang ở Texas. Nhớ Lập-Bụng hồi còn ở phi đoàn, thường ngày, mỗi sáng lên Tây-Ninh nằm chờ bay đánh bên Kampuchia. Có những trưa hợp đoàn lại bị điều về hành quân ở Hậu-Nghĩa hay Củ-Chi, rồi lên nằm lại Tây-Ninh ăn cơm trưa. Tôi bỏ chiếc Gunship mò xuống đám Slicks đậu bên dưới kiếm mấy bạn mình trò chuyện. Đi ngang thấy mấy anh chen chúc trên một con tàu binh xập-xám ồn như đám chợ, xuống gần chiếc trail thì thấy Lập-Bụng ngồi dựa ngữa vào vách transmission đang ăn bịch gạo sấy của ảnh, hộp thịt ba lát và cá tuna để gác trên bụng ảnh mà không nghiêng đổ. Tôi ghé lại cười hỏi :

      - Sao giờ này mới ăn, Lập-Bụng?

      - Cơm hăm nóng dưới exhaust bây giờ mới chín a !

      Lập-Bụng hề hề cười trả lời. Anh ngồi thẳng dậy mà hai hộp thịt vẫn không lật đổ, đủ biết cái bụng của ảnh bự cỡ nào rồi, thật là tiện lợi, ăn cơm hay uống cà phê không cần kê bàn.

      Lập-Bụng dễ thương lắm, cái gì cũng hề hề, vừa cười vừa vổ cái bụng.

      Có một lần ở phòng hành quân, Lập-Bụng đứng bên bàn trực trước bảng phi lệnh xem phi vụ ngày mai. Sĩ quan trực muốn nhìn bảng phi lệnh để ghi vô sổ trực, nhưng vì bị cái bụng của Lập-Bụng che khuất, anh không kêu hắn tránh đi mà cứ đẩy miết cái bụng của hắn, anh Sĩ quan trực đẩy một hồi Lập Bụng mới la làng:

      - Cái gì mà cứ cái bụng của tui Thiếu-úy đẩy đi đẩy lại hoài dzậy!

      - Ha... Ha... Ha...

      Nghe Lập-Bụng kể phi vụ bay cho Dù bên Kampuchia, hôm đó phi hành đoàn gồm Tr/u Hùng là Trưởng phi cơ, copil là Th/u Khoái, gunner là Hoàng, khi tàu lên vùng theo lệnh đúng ra phải chờ gunship đến cover rồi cùng vào bãi nhưng không hiểu sao anh Hùng không chờ mà tự một thân một tàu low-level vô, không thấy bãi đáp vì đã quá target phải làm 180 độ quay ra dưới hỏa lực kinh hoàng của lũ vẹm:

      - Tao thấy rõ mồn một cả bộ kaki vàng của chúng mặc trên người, AK cứ chĩa lên bụng tao nhả đạn không ngừng. Lập-Bụng nói tiếp:

      - Đạn ghim vào thân tàu nghe lốp bốp lẫn tiếng la của Tr/u Hùng trong nón bay. Tàu trúng đạn nhưng Tr/u Hùng vẫn điều khiển cho tàu lết được vào sát chỗ phòng thủ của bạn Dù mới làm một cái ầm xuống bùn lầy. Tụi tao chạy bán sống bán chết mới vô tới bộ chỉ huy Dù nhờ vào đám bạn Dù mình nằm thủ ở vòng ngoài yếm trợ. Rồi thủ ở đó một đêm chờ đến sáng Th/u Quá mới bay vô bốc về.

      Anh Khoái kể lại phi vu này xẫy ra vào cuối trận đổ quân vào Kampuchia:

      - Hôm đó phi hành đoàn trực spare nhận lịnh tản thương cho Dù vào lúc 5 giờ chiều. Phi vu không có Gunships cover, nhưng có C&C, chúng tôi không đổ xăng ở Tây-Ninh, lên đến Thiện-Ngôn, qua biên giới rồi 180 độ vòng lai xuống low- level vào final LZ. Vì anh Hùng quẹo trái theo C&C luôn, tàu lách qua những cây cao không thấy panel bên phải. Phòng không 12.7 ly trên chán ba bắn trực xạ vào trươc mặt chúng tôi. Tiếng đạn xé lủng thân tàu khiến tàu rung lên. Bảng phi cụ tất cả warning caution light, fire detecor ré ầm trong tai nghe! Máy tắt, hydrolic off, control lock.. Tôi gọi Mayday 555 normal! Tàu trường đi với tốc đô tối đa. Tôi khoá shoulder harness! Giây phút tử thần đang gọi, tôi chỉ còn nhớ đến Mẹ tôi mà thôi.. Chúng tôi cùng kéo cyclic tàu đã lao vào bãi sình lăn quay hai ba vòng. Tôi và anh Hùng còn seatbelt nên vẫn giử yên trên ghế, Lập và Hoàng văng ra ngoài. Chắc lúc đó đến vẹm cũng không nhìn ra chúng tôi vì người đầy bùn sình...

      Anh Quá đã đón về ở Trại Bí trên biên giới tối hôm đó. Cả phi đoàn đón chúng tôi tại runwa y Spartan. Không biết phép lạ nào che chở chúng tôi giây phút đó? Tôi thực sự thấy tử thần từ chối chúng tôi nên vui mừng lắm! Anh Hùng, Lập, Hoàng đang ở nơi đâu trên thế giới này còn nhớ đạn bay trực diện, nhưng đạn tránh mình, ở trên, dưới, bên phải bên trái mà thôi! Hãy lên tiếng nhé!

      Có lần tôi hỏi Lập-Bụng về Tân-Sơn-Nhất xin đi pilot hắn mới kể:

      - Tao thi lại Tú-Tài1 đã đậu hồi năm 1971 mãi đến năm 73 tao thấy Lưu-Văn-Tiên và Trần-Văn-Điệu về Tân-Sơn-Nhất ghi tên đi Pilot thì cũng hùa theo.

      Lập-Bụng nói không may cho hắn vì Phòng Nhân Viên Ban Hồ Sơ tra ra hắn bị ký củ 7 ngày nên bị loại không cho đi sĩ quan.

      Nguyên do 31 thằng cơ phi chúng tôi khi mãn khóa cùng về Biên Hòa, trong khi chờ Phi Đoàn 231 tân lập thành hình thì tụi này biệt phái cho phi đạo. Lúc này Tài-Sòi làm trưởng toán huớng dẫn anh em đi ký "xuyệt-ki", ngày ngày lên xuống Sài Gòn Biên Hòa mà Bắc-kỳ Hà-Đăng-Thăng hay dụ dỗ, hắn cứ lãi nhãi:" mai nễ, mai nễ ! " ( "lễ" mà nó nói thành "nễ", ý nghĩa ngày mai là ngày lễ nên anh em nghỉ ), và anh em "nghỉ nễ " thiệt, bởi vậy lúc về lại trình diện thì cả đám bị chở hết ra Quân Cảnh nhốt ở Cổng số 1. Nhớ lại mấy chục thằng bị dồn trong bốn bức tường không đủ không khí nóng khát khô cả cổ phải nhờ đến Nguyễn-Nùng-Sơn, thân người hắn như con cá lẹp, chỉ có hắn mới chui lọt song sắt bò ra ngoài lấy nước cho anh em uống, nhưng anh em chỉ bị nhốt đến chiều tối thì được thả về. Riêng Lập-Bụng vì dzọt quá lâu, hắn về đến nhà ở Rạch-Giá nên bị ký nặng 7 ngày tù và bị ghi cả vô hồ sơ.

      Thế là mộng Pilot của Lập-Bụng tan theo trái khói, hắn chỉ biết gục đầu lầm bầm kêu ... mẹ...! Sau này chỉ có Tiên và Điệu về trường sinh ngữ bổ túc tiếng Mỹ, Tiên tiếng Mỹ điểm cao kịp lúc đi học A-37, còn Điệu đi sau học UH-1. Qua đến bển cho đến lúc miền Nam Việt Nam bị Mỹ bỏ rơi cúp cả viện trợ thì lúc đó Tiên đã phi huấn xong nên được giữ lại, còn Điệu đang phi huấn bị trả về.

      Nhắc lại khi Lập-Bụng mang hận trở về lại phi đoàn tiếp tục cái định-nghiệp cơ phi của hắn, rồi một ngày rất xấu hắn lại bóc trúng cái thăm bị đổi đi Pleiku.

      Ôi là cái xứ mây mù buồn muôn thuở có tiếng, cái xứ quan với lính hay bất mãn vì coi như bị đì. Từ đó hắn tự an ủi nên thuờng hay ca bài nhạc "Em Pleiku má đỏ môi hồng", thôi thì "may mà có em, đời còn dể thương", hắn lủi thủi xách "xắc-ma-ranh" ra ngồi C-123 bay đi Tây- nguyên về Phi Đoàn 235, một Phi đoàn có huy hiệu "con Dê Xồm" hay "Dê Cụ" dzậy mà mang cái tên thật hung là Thiên Lôi hay là Sơn Dương!

      Nhưng thật cũng may, trên đó Lập-Bụng không có một mình mà một điều an ủi cho Lập-Bụng là trên đây đã có Quan-The House, Thị-Hầu, Huỳnh-Quang-Thọ cũng từ 231 đi trước coi như sẳn có "phe ta" sớt bớt nỗi cô đơn trong hắn. Phút giây đầu tiên bước chân mới đặt xuống phi trường Cù-Hanh là Lập-Bụng có cảm giác đất này không thể dung thân mình được rồi. Gió cát mịt mù, bụi mờ hay sương đang giăng kín những ngọn núi xa xa kia càng nhìn sao mà càng thúi ruột.

      Lập-Bụng nói mình ở Biên Hòa quen làm lính con nhà giàu, có barrack đầy phòng trống lại sạch sẽ, có phòng trực máy lạnh giường nệm và cả giàn stereo thiệt là con ông cháu cha. Giờ ra đây, mẹ ơi... ở tập thể, tao trình diện xong về phòng thì hết giường cho tao ngủ cũng may có một số anh em đi phép tao mới có chỗ ngã cái lưng, đồ đạc thì nhét tạm vô tủ của Thị-Hầu.

      Thiệt không quen cái xứ Thượng này nên trong buổi họp ở Phòng Hành Quân khi Phi Đoàn Trưởng hỏi mấy anh em cơ phi xạ thủ, nhất là mấy anh mới về có ý kiến gì không? Lập-Bụng liền ủi một câu thẳng thừng:

      - Thưa Th/tá, bây giờ nếu Th/tá cho tôi về thì tôi về luôn Sài Gòn liền không trở lại nữa. Tôi chịu hết nổi cái xứ sình lầy đất đỏ nhìn đâu cũng thấy sương mù này rồi!

      Vậy mà Lập-Bụng cũng biết mang lại một phút thư giãn cho cả Phòng Hành Quân đến Th/Tá PĐT cũng phải động lòng không ngừng an ủi anh em binh sĩ của mình.

      Pleiku gió núi mưa rừng
      Mây Trường Sơn phủ mù vương cuộc đời.

      (Trần Ngọc Nguyên Vũ)

      Chiến trường Vùng Cao Nguyên hay khắp cả các nơi cuối năm 1973 không ai mà không biết, bắt đầu những trận chiến một mất một còn mà Lập-Bụng kể phòng không của địch nó bắn thế nào mà không còn thấy gì hết chỉ thấy khói với lửa, tao ngồi chiếc C&C bay cả 9000 bộ mà phòng không 57 ly của chúng cứ nổ quanh, hợp đoàn có chiếc nào còn chiếc nào mất cũng chả thấy, một hồi lâu mới thấy anh em từ trong đám khói chui ra lúc đó mới biết là còn sống mà trở về.

      Lập-Bụng hiện ở Texas. Hắn điện thoại thăm tôi, hai anh em nói chuyện vui lắm. Để kể các anh em mình nghe. Lập-Bụng nói:

      - Tao cũng tơi bời hoa lá lắm Tống ơi. Năm 2001 bà chị với ông anh rể cũng là pilot L-19 ở Mỹ bảo lãnh cho gia đình tao đi Mỹ nhưng khi làm thủ tục qua được phỏng vấn rồi mà cái mặt tụi tao méo mó như cái bánh bèo vì mấy đứa con không được đi, lý do tụi nó đã quá tuổi trưởng thành. Trời ơi, hai vợ chồng tao qua đến Mỹ cũng đã già quá rồi, tiếng Mỹ lại không biết một chữ chẳng biết làm cái gì, hồi đi học thì tao chọn sinh ngữ Pháp nên chỉ biết được vài tiếng Pháp thôi. Vợ chồng tụi tao làm bao nhiêu tiền cứ điện thoại về VN cho con cái còn không đủ thì lấy đâu mà ăn ngon mặc sướng.

      Nghe Lập-Bụng than mà tội. Giờ thì sau cơn mưa trời đã nắng rồi!

      Hắn kể lại có lần bị công an kêu lên nói anh là Đại úy sao khai là Thượng sĩ.

      - Chời ơi, tao có đeo lon Đại úy hồi nào đâu mà bây giờ bị chỉ điểm là khai gian. Công an cứ kêu tao lên lấy lời khai quài mậy. Ba hồi nói Đại úy, ba hồi nói tao Trung úy. Tao hỏi tại sao nói tao là Đại úy Trung úy? Tụi nó nói hàng xóm thấy ông mặc áo bay, mặc áo bay thì quá gõ gàng gồi, ông là sĩ quan mà!

      Tao mới tá hỏa, thì ra từ trước tới giờ tao chỉ mặc đồ lính hai mảnh chứ có bao giờ tao mặc đồ bay đâu, hôm đứng gác quan tài anh Ngọc-Già thì Th/sĩ1 Hưởng kêu tao mặc đồ bay nên khi về nhà hàng xóm nó thấy mới nghĩ tao là sĩ quan. Còn Đại úy Trung úy tụi nó tự cài cho tao. Dzậy mà khi làm xuất cảnh tao cũng bị nghi ngờ nữa. Rồi thì người ngay gặp may, mọi sự trắc trở đều qua!

      Mấy anh mấy bạn mình nghe mà càng thương cho Lập-Bụng. Tôi thích nghe hắn càm ràm đủ thứ chuyện cả 2 tiếng đồng hồ mà chẳng ngán chút nào!

      Ha... Ha... Ha...


      LHTong

      https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

      Comment


      • Thôi ! Mình Về Linh Xuân Thôn, Đi Em !

        Thôi ! Mình Về Linh Xuân Thôn, Đi Em !
        Phan Công Tôn


        Hình minh họa

        Chiếc xe Jeep nhà binh chạy thật khó khăn giữa luồng xe cộ tấp nập từ đường Trần Hưng Đạo đổ vào đường Lê Lợi, nhất là lúc ngang khu bùng binh trước chợ Bến Thành. Lúc đó vào khoảng 10 giờ đêm, nhưng khu vực từ chợ Bến Thành dọc theo đường Lê Lợi vẫn đông nghẹt người ta! Hôm nay là ngày 25 tháng Chạp, gần cao điểm của thời gian Chợ Tết!

        Hùng lái xe, bên cạnh là Hoàng và băng sau là chú tài xế, luồng xe cộ chạy thật là chậm, phần vì quá nhiều xe đang lưu thông, phần khác gây nhiều khó khăn và căng thẳng hơn, vì khách bộ hành cứ băng đại ngang đường bất cứ chỗ nào họ muốn. Cả 3 người trên chiếc xe Jeep đang thắc mắc và trao đổi nhau những câu hỏi liên quan đến việc rất nhiều người vẫy gọi Taxi dọc đường, nhưng các tài xế Taxi cứ khoác tay từ chối, mặc dù trên xe không có khách! Họ đã có khách hẹn trước ở một địa điểm nào đó chăng? Họ không muốn đón khách trong khu vực này vì không có khoảng trống để tấp vào? Hoặc họ không muốn đón những người khách với quá nhiều đồ đạc cồng kềnh vừa mua sắm?

        Khi xe đang chạy trên con đường trước Khách sạn Caravelle (bên hông tòa nhà Quốc hội), bỗng một toán người vẫy tay gọi, hình như họ muốn xin “quá giang”, Hùng đã lái trờ tới bỏ lại phía sau nhóm người này, vì khúc đường này không còn bị kẹt xe nên tốc độ khá nhanh. Hoàng nói lớn: “Hùng! Hùng! Ghé lại cho họ ‘quá giang’ làm phước!”. Nghe vậy, Hùng tấp vào lề và lui xe lại. Toán người xin “quá giang” chạy ùa tới, họ gồm có 4 người, một cô gái khoảng 17, 18 và 3 cô, cậu bé khoảng từ 12 tới 14 tuổi.

        Hoàng nhảy xuống xe để lo sắp xếp chỗ ngồi, thấy cô chị trồng trộng nên Hoàng tỏ ra “galant”, mời cô ta ngồi ghế phía trước với một bé gái, Hoàng chui ra băng sau với chú tài xế và 2 “nhóc” kia. Dĩ nhiên rất là chật vì băng sau có tất cả 4 người với quà mới mua ở chợ Tết, các “nhóc” không ai than phiền gì cả, ngược lại rất là vui và cảm thấy rất hạnh phúc và biết ơn.

        Qua lời cô chị lớn cho biết, sau khi mua sắm xong, mấy chị em ra về. Bắt đầu đón Taxi từ đầu đường Lê Lợi, đợi hoài đợi mãi, chẳng có Taxi nào chịu ngừng. Cuối cùng phải đi bộ dọc theo đường, vừa đi vừa đón xe để cầu may, nhưng vẫn không có. Khi tới khúc đường này, thấy cái xe “nhà binh”, cả toán cứ vẫy đại, cô chị lớn nói “mấy ông nhà binh ‘chịu chơi’ lắm, có thể họ giúp mình ... ” May quá, toán này được giúp thật!

        Hùng hỏi nhóm này muốn đưa về vùng nào thì được biết ở Gia Định, gần khu chợ Bà Chiểu. Khi xe chạy ra tới đường Thống Nhất, Hùng ngỏ ý với Hoàng là cần phải ghé qua Đại đội để xem có việc gì không, trước khi đưa toán “quá giang” này về Bà Chiểu.

        Hùng và Hoàng đang phục vụ tại một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Hùng, Trung úy, Đại Đội Trưởng, Đại đội tác chiến, Hoàng, Trung úy thuộc Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, kiêm Trung Đội Trưởng Trung đội súng cối 81 ly. Đơn vị đang hành quân ở Vùng 4 Chiến thuật từ mấy tháng nay, cách đây 4 ngày, đang hành quân ở Vĩnh Long thì được lệnh cấp tốc chuyển về Saigon.

        Sau khi lật đổ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, chính quyền SàiGòn thường bị rơi vào tình trạng “chỉnh lý”, “biểu dương lực lượng” của các vị Tướng lãnh. Mỗi lần có những “sự kiện đặc biệt” như vậy, các đơn vị Tổng Trừ Bị như Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến được điều động về Thủ đô để kịp ứng phó với tình huống mới.

        Lần này cũng vậy, Tiểu đoàn được điều động về SàiGòn một cách bất thường chứ không phải được về nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở Thủ Đức như thường lệ sau một cuộc hành quân dài. Đại đội của Hùng được đóng quân tại Sở Thú SàiGòn và Sở Thú tạm thời ngưng hoạt động trong thời gian này.

        Hơn 1 giờ trước đây, Hoàng từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (tạm đóng bên Trại Nguyễn Văn Nho, ở Thị Nghè) “dzọt” qua thăm Hùng và rủ Hùng đi “nghễ” một vòng SàiGòn vì lâu lắm chưa được “ngửi” mùi SàiGòn. Hoàng gốc người Quảng Trị và thích dùng chữ “nghễ”, được hỏi về nghĩa của chữ này thì Hoàng nói “cứ coi như là rửa mắt vậy mà !”.

        Nói của đáng tội, chỉ đi một vòng vậy thôi chứ có “nghễ” hoặc “rửa mắt” cái gì đâu! Một phần vì ban đêm, phần thì lo tập trung lái xe qua cái “SàiGòn đẹp lắm, SàiGòn ơi! SàiGòn ơi!” đã thấy nhức đầu rồi, và trên đường về Sở Thú thì gặp cái toán “quá giang” này.

        Hùng ghé vào Đại đội để xem tình hình có gì không và nhân tiện lấy thêm một cái máy truyền tin bỏ lên xe cho tiện việc liên lạc với Tiểu đoàn và các Trung đội. Sau đó, tất cả lại lên xe để Hùng đưa dùm toán “quá giang” này về nhà bên Bà Chiểu.

        Qua sự giới thiệu lúc còn ở trong sở thú, được biết cô gái “đàn chị” này tên là Khánh Tâm, một “nhóc” gái là em ruột của Khánh Tâm tên là Khánh Hằng và hai “nhóc” kia là đàn em lối xóm. Gần đến khu chợ Bà Chiểu, Hùng gợi ý rủ mọi người cùng đi ăn mì, mấy “nhóc” hoan hô hết mình vì từ tối đến giờ phải lội bộ nhiều và đang đói bụng!

        Khi tô mì được đem đến bàn của Tâm, Hùng cầm bình dấm chế vào tô mì một vòng rồi ngưng lại. Tâm vội nói: “Xin ông cho thêm”. Hùng lại rưới thêm một vòng nữa rồi ngưng. Tâm lại nói: “Ông cứ cho thêm, khi nào tôi ra dấu thì ông ngưng cũng còn kịp”. Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô mì và nói diễu: “Cái này là dấm ‘xủ’, chua lắm à nghen!” Tâm trả lời tỉnh bơ: “Dạ, tôi biết”. Và cứ thế, Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô trong khi vẫn nhìn vào mắt Tâm để xem chừng nào có thể ngừng. Một hồi lâu, áng chừng cũng đến gần nửa bình dấm, lúc bấy giờ Tâm mới đưa tay làm dấu cho Hùng ngưng, kèm theo lời cám ơn. Hùng tỏ ra rất ngạc nhiên, vì lần đầu tiên mới biết được có người ăn “dấm xủ” nhiều đến như vậy và càng thích thú hơn khi quan sát, thấy Tâm thưởng thức tô mì một cách rất ngon lành!

        Tiếp theo chầu hủ tiếu mì là chầu chè tráng miệng, mọi người có vẻ “ấm bụng” nên Hùng đề nghị đưa mấy chị em Khánh Tâm về nhà. Nhà cách chợ Bà Chiểu không xa, gần một trạm đón khách của các xe đò SàiGòn - Thủ Đức. Lúc bấy giờ cũng đã quá nửa đêm !

        ***

        Trưa hôm sau, nghe anh lính gác tại cổng (trên đường Hồng Thập Tự) báo Hùng có người nhà muốn gặp, Hùng vội lái xe ra cổng. Vô cùng ngạc nhiên khi thấy Tâm đến thăm, vì đêm qua sau khi chia tay, không ai có lời hẹn hoặc ngõ ý sẽ gặp lại ! Tâm cho biết, hôm nay Chủ Nhật, cô đi lễ ở Nhà thờ Đức Bà. Sau khi tan lễ, cô muốn đến thăm và cám ơn về việc đã cho mấy chị em “quá giang” về nhà đêm qua và còn đãi thêm một chầu hủ tiếu mì, làm mấy đứa nhỏ khen nức nở :

        - “Mấy anh lính thật tốt bụng và dễ thương quá chừng chừng...”

        Hùng, với tánh tiếu lâm cố hữu, vội ngắt lời :

        - “Mấy đứa nhỏ thì khen nức nở, nhưng bà chị tụi nó có thèm khen câu nào đâu ?”

        Khánh Tâm thẹn đỏ mặt, nhìn xuống đất, nói mấy lời nho nhỏ :

        - “Cái ông... này !”

        Vì Tiểu Đoàn đang trong tình trạng ứng chiến nên Hùng không dám đi đâu xa, chỉ chở Tâm đi một vòng trong sở thú. Trong khi xe đang chạy vòng vòng, Tâm vụt hỏi :

        - “Ông có thể chạy một chút ra đằng phía trước cổng? Tôi muốn chỉ cho ông thấy cái trường tôi đang học?

        - Cô học trường nào?

        - Dạ, Trưng Vương.

        - Ồ, cũng gần, để tôi đưa cô đến đó!

        Hùng lái xe ra cổng trước và chạy tới trường Trưng Vương, chỉ đi một vòng vậy thôi vì phải vội về Đại đội. Tuy vậy cũng đủ thì giờ nghe Tâm nói sơ sơ về lớp Đệ Tứ của mình, vị trí của lớp mình, tánh tình của các vị Giám thị và một số các thầy cô. v.v...

        Từ hôm qua đến giờ, nghe Tâm nói giọng Nam, Hùng mới thắc mắc:

        - Cô là người Nam, sao cô được học ở Trưng Vương?

        - Không, tôi là người Bắc mà! Bắc Kỳ 54!

        Trời ơi ! Sao cô nói rặc giọng Nam Kỳ! Ở trường cô nói giọng gì?

        Thì giọng cũng y như tôi đang nói chuyện với ông!

        Hùng hình như tìm được một điều gì thích thú, vội nói:

        - Cô phải cẩn thận, tôi sợ có ngày trường sẽ đẩy cô về bên Phan Thanh Giản!

        Chưa kịp hiểu câu nói đùa của Hùng, Tâm hỏi vặn:

        - Tại sao phải về bên Phan Thanh Giản?

        Hùng cười cười giải thích:

        - Vì họ tưởng cô là người Nam nên họ thảy cô về bên trường Gia Long ấy mà!

        Tâm hiểu câu nói châm chọc của Hùng, cười xòa và buột:

        - “Cái ông... này !” rồi hỏi tiếp :

        - “Bộ ông không biết bên Gia Long vẫn có một số học sinh Bắc Kỳ hay sao?”

        Hùng rất ngạc nhiên về điều này và nói :

        - Vậy mà tôi cứ tưởng, bên Trưng Vương toàn là Bắc Kỳ, còn bên Gia Long chỉ toàn là giá sống!

        Về đến sở thú, Hùng ngỏ lời xin lỗi vì không thể đưa Tâm đi ăn trưa được vì bận trực ứng chiến, Hùng gợi ý hỏi xem Tâm có thích pizza không, Tâm trả lời : “Tôi cũng thích pizza lắm” nên Hùng nhờ chú tài xế và một chú “đệ tử” chạy ra tiệm pizza trên đường Lê Thánh Tôn, đối diện với La Pagode để mua pizza và spaghetti vì Hùng rất thích pizza và spaghetti của tiệm này !

        Khi thức ăn được mang về và đem đến một cái lều dựng lên bên một hồ nước, từ lều này có thể nhìn thấy “cây cầu lịch sử” của Sở Thú SàiGòn (gần 10 năm về trước, nhân dịp có Hội Chợ tại Sở Thú này, vào buổi tối, trong khi cả ngàn du khách đang nườm nượp kéo tới Hội Chợ... vì một “báo động” lầm lẫn sao đó, khiến cả ngàn người tranh nhau chạy qua cầu, việc này đã gây ra cảnh hỗn loạn khủng khiếp với kết quả là hơn mười người bị chết và cây cầu bị sập.

        Hồi trước, Hùng có vài lần vào Sở Thú với cái thú vui riêng cùng đùa vui với bạn bè và nhất là để coi... người nhiều hơn coi... thú và dĩ nhiên không để ý nhiều đến cảnh trí chung quanh ! Hôm nay, nhân dịp Sở Thú đóng cửa và với sự vắng lặng, mới có thể thưởng thức được những nét đẹp hài hòa giữa cái đẹp nhân tạo hòa nhập với cái đẹp thiên nhiên của vùng này ! Đặc biệt, có Tâm, người con gái mới quen và còn rất ư là “nóng hổi” ngồi cùng ăn bên cạnh, Hùng thành thật trình bày cảm nghĩ của mình :

        - “Đơn vị anh mới về đây được 2 ngày, quá bận rộn vì công việc nên anh không để ý đến bối cảnh chung quanh. Hôm nay có em đến đây, cùng ngồi ăn chung trong cái lều này anh thấy cảnh vật chung quanh rất đẹp, có lẽ vì ảnh hưởng của... người đẹp ngồi bên cạnh !”

        - Tâm coi câu nói của Hùng như một lời nói “nịnh” nhưng cũng đủ làm Tâm thẹn đỏ mặt, vội cúi đầu và nói nho nhỏ: “Cái ông... này !

        Hùng ghi nhận được câu điệp khúc “Cái ông... này” của Tâm và coi như một lời mắng yêu hay một tán thán tự mà Tâm có thói quen thường dùng. Hùng thấy cũng hay hay và dễ thương với nét chấm phá này để tạm kết thúc một đàm thoại, biểu lộ cái tâm trạng ngạc nhiên pha lẫn buồn, vui và ngay cả (đôi khi) giận dỗi... Sau khi ăn uống xong, ngồi nói chuyện thêm một lúc, Tâm xin phép về, Hùng đưa Tâm về và vội trở lại đơn vị vì đang ứng chiến...

        Sáng 28 tháng Chạp, toàn bộ Tiểu đoàn của Hùng được chuyển về vùng Tân Quí Đông trong nhiệm vụ: “giữ an ninh vòng đai Đô Thành”. Qua sự liên lạc và sắp xếp trước, chiều 30 Tết Hùng cho xe đón Tâm tại cầu Tân Thuận để đưa vào vị trí đóng quân của đại đội, vì hôm đó Hùng có tổ chức một cái tiệc nho nhỏ cùng với anh em trong đơn vị, và nhất là để chuẩn bị đón Giao Thừa. Đặc biệt đây là lần đầu tiên đơn vị Hùng được về “hưởng Xuân” tại vùng ven đô. Ban đêm được nhìn thấy vùng ánh sáng của Thủ Đô bên kia sông SàiGòn, cứ tưởng tượng như đang được “ngửi” mùi Tết của SàiGòn với lời an ủi muôn thuở: “có còn hơn không”!

        Sau khi tiệc tùng xong, Hùng hỏi Tâm có muốn đưa về nhà trước giao thừa hay ở lại đây để “thưởng thức” giao thừa với lính? Với tánh hiếu kỳ, Tâm quyết định ở lại để xem mấy ông lính này đón giao thừa như thế nào và sẽ nhờ đưa về nhà sau khi đón giao thừa xong.

        Lúc chiều, trong phiên họp của Tiểu đoàn, vị Tiểu đoàn Trưởng đã “hăm mẻ răng” về việc các Đại đội Trưởng phải kiểm soát thuộc cấp, triệt để cấm binh sĩ không được dùng súng bắn thay pháo để đón giao thừa như đã xảy ra vài lần trong các vùng hành quân khác mấy năm về trước. Năm nay, về nằm vùng ven đô, gần “Mặt Trời”, Biệt Khu Thủ Đô đã ra lệnh cấm và đơn vị phải tuyệt đối thi hành!

        Đúng giờ giao thừa, vùng Tiểu Đoàn bố trí vẫn im lặng, nhưng vài cây số ở phía Bắc và phía Tây, súng nổ râm ran và đồng loạt trong vòng hơn 15 phút, mọi người kéo ra sân để coi và nghe “pháo súng”. Nhìn những vết đạn lửa bay mới biết các đơn vị ở vùng đó đã dùng súng thay pháo để đón Xuân!

        Tâm tỏ ra rất thích thú với cái hoạt cảnh này vì đây là lần đầu tiên trong đời, cô được thật sự gần gũi với một đơn vị của lính tại vị trí đóng quân, nhất là đúng vào giờ đón Giao Thừa!

        ***

        Sự gặp gỡ và quen biết giữa Hùng và Tâm bắt đầu là như vậy. Cái liên hệ tình cảm đã gắn bó và quyện lẫn giữa hai người qua thời gian, đã tạo ra những tố chất cấu thành một tình yêu “thật đặc biệt” và “hơi khác thường” giữa hai người.

        Những cái “hơi khác thường” trong chuyện tình này mà những bạn thân của Hùng quan sát và ghi nhận được cũng khá thú vị và ... “không giống ai” ! Về cách xưng hô, ngay từ ngày đầu mới quen nhau, Hùng vẫn xưng “anh” và gọi Tâm bằng “em”. Còn Tâm vẫn xưng “tôi” và gọi Hùng bằng “ông”. Về sau này, chỉ một lần đầu tiên và duy nhất, sau khi biết mình đã yêu Hùng, trong một lá thư dài viết bằng 2 tờ giấy đôi của cuốn vở học trò, Tâm gọi Hùng bằng “anh” và xưng là “em”.

        Hùng nhận được thư Tâm khi đơn vị đang hành quân vùng đèo Mang Giang, Pleiku. Đọc thư, nghe Tâm nói về tình yêu và nỗi nhung nhớ dành cho Hùng, chàng nghe hồn mình và thân thể mình như ấm lại trong cái giá lạnh nơi xứ núi ! Càng nghe ấm hơn với lời kết của lá thư :

        - “Em yêu anh. Em rất nhớ anh và rất mong ngày mình gặp lại nhau tại SàiGòn” !

        - Với biết bao háo hức và trông chờ, vậy mà, sau cuộc hành quân đó, trở về, gặp lại nhau ở SàiGòn, Tâm vẫn “bổn cũ soạn lại”, vẫn gọi Hùng bằng “ông” và vẫn xưng mình bằng “tôi” và... cứ như thế !

        Có một lần, trong một quán ăn, trong khi chờ đợi nhà hàng mang thức ăn ra, Hùng nửa đùa nửa thật nói :

        - “Chữ ‘ông’ và chữ ‘tôi’ em thường dùng với anh, bán bao nhiêu, anh mua phức cho rồi ?!”

        Tâm nguýt một cái và vội trả lời :

        - “Không. Không bán đâu !”

        Và kèm theo câu, như một tán thán tự mà Tâm vẫn thường dùng theo thói quen : “Cái ông ... này !”

        Hùng ghi nhận các cá tính đặc biệt của Tâm và cho điểm Tâm như là có tánh khí của một cậu con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch và nhất là có những quyết định bất ngờ vào phút chót.

        Những lần, Hùng chở Tâm bằng xe Vespa, khi chạy qua cầu Bình Lợi, ngang đoạn cầu ghép bằng ván, vẫn giữ nguyên tốc độ nhanh, vespa bị trượt, chạy xẹt qua xẹt lại thật nguy hiểm, Tâm chẳng những không sợ, ngược lại, còn rất khoái có được những cảm giác ú tim như vậy ! Nói tóm lại, Tâm rất thích “tìm mua cảm giác mạnh”, những màn hồi hộp, ú tim thường có nơi các chàng trai trẻ ...

        Tâm có nét mặt khá đẹp, ưa nhìn và đầy quyến rũ, cộng với vóc dáng nở nang, khỏe mạnh, mái tóc ngắn kiểu “a la gạc xon” (à la garçonne) và thích bận các loại Jupe ngắn nên trông rất ư là “xì po” và dĩ nhiên rất ư là hấp dẫn!

        Môn thể thao Tâm rất mê là bơi lội, Tâm là hội viên và bơi thường trực tại Cercle de Sportif ở đường Hồng Thập Tự, SàiGòn; nhưng vẫn thường theo bạn bè đi bơi ở các hồ bơi trong Chợ Lớn hoặc tại hồ bơi Lido, gần Ngã Năm Bình Hòa. Hằng năm, Tâm thường tham dự các cuộc thi bơi ở SàiGòn và Chợ Lớn; Tâm từng nhiều lần đoạt giải hạng nhì nhưng chưa bao giờ chiếm được giải nhất cả. Tâm rất lấy làm khổ tâm về việc này và vẫn ao ước, ngày nào đó sẽ đoạt được giải nhất cho thỏa ước mơ!

        Từ ngày quen và thân với Hùng, mỗi lần đơn vị trở về hậu cứ ở Thủ Đức sau những cuộc hành quân, Hùng thường đưa Tâm đi bơi trên Biên Hòa và Thủ Đức. Đặc biệt ở Thủ Đức, Tâm rất thích bơi ở hồ bơi Ngọc Thủy; hồ bơi này có một cảnh trí rất dễ thương, phía Bắc của hồ bơi là một triền đồi có nhiều cây rậm đầy bóng mát và những “nhà chòi” ở các cao độ khác nhau, nhìn bao quát cả hồ bơi bên dưới thật nên thơ và hữu tình.

        Một lần, sau khi bơi xong, Hùng và Tâm trở lên “nhà chòi” ngồi nghỉ và nhâm nhi ăn uống; sau khi quan sát thân hình của Tâm qua bộ đồ tắm 2 mảnh, Hùng nói đùa:

        - “Đến bây giờ anh mới hiểu, tại sao em thi bơi hoài mà chưa bao giờ đoạt được giải nhất!”

        Đang ngồi dựa lưng vào ghế, nghe câu đó, Tâm bật ngồi thẳng lên nhìn chằm chặp vào Hùng rồi vội hỏi:

        - “Bộ ông đã khám phá được những điểm kỹ thuật hay thao tác nào tôi làm không đúng do đó làm tốc độ bơi bị giảm lại chăng?”

        Hùng vội phân bua kèm với nụ cười hóm hỉnh:

        - “Không, không phải vậy, em bơi thì giỏi lắm, nhưng sở dĩ chưa chiếm được giải nhất vì... vì có... “độ cản” lớn quá!

        Mới nghe như vậy, Tâm ngớ người, đăm chiêu suy nghĩ; một lúc sau, nhìn xuống ngực mình, như hiểu ý, mặt đỏ lên, vội đưa tay đấm vào lưng Hùng với câu cố-hữu: “Cái ông... này !”

        Cứ mỗi dịp Hùng được về SàiGòn, hẹn Tâm cùng đi chơi (ban ngày) đó đây ở SàiGòn, hoặc đi ăn nem và trái cây ở Lái Thiêu, hoặc đi ăn thịt rừng ở Tân Vạn và đi tắm ở Biên Hòa v.v... Mỗi lần như vậy, Hùng đưa Tâm về nhà bên Bà Chiểu khoảng buổi chiều hoặc cùng lắm là vào lúc chạng vạng tối. Hôm nào được xin phép đi chơi ban đêm, như đi xi nê hay đi phòng trà thì phải trở về trước nửa đêm. Và lúc nào tới nhà cũng có người nhà hoặc mấy “đứa nhóc” lảng vảng trước sân hình như đang “đợi chị Tâm về ”!

        Nhưng có một lần, lần này coi như “lịch sử” và “kỷ niệm nhớ đời”! Tối hôm đó, sau khi rời phòng trà Queen Bee, Hùng đưa Tâm đi ăn ở khu Hai Bà Trưng xong, sau đó đưa Tâm về nhà như thường lệ.

        Chẳng có ai, ngay cả mấy “đứa nhóc” đứng đợi trước sân ! Hùng ngừng vespa, tắt máy, đứng trước nhà khoảng gần 10 phút. Vẫn không thấy ai ra. Khi Tâm định đi vô nhà, Hùng đạp nổ Vespa, Tâm bước đi được mấy bước rồi bất ngờ quay ra, ngồi vội lên yên, vỗ vào lưng Hùng và nói:

        - “Mình về Linh Xuân Thôn, đi ông!”.

        Như một phản xạ, Hùng rú ga Vespa và vọt đi. Định quay vòng lại để ra chợ Bà Chiểu rồi ra xa lộ Biên Hòa, đi về Thủ Đức cho lẹ. Nhưng Tâm vội chồm ra phía trước, chỉ về hướng Ngã Năm Bình Hòa và nói “Mình đi đường trong đi ông!” Thế là Hùng chạy về hướng cầu Bình Lợi để đi về Thủ Đức. Khi chạy qua khỏi cầu Băng Ky, Tâm vỗ vào lưng Hùng, chỉ vào ánh trăng đang treo trên đầu, Hùng mới nhận biết đêm nay là đêm trăng tròn. Lúc chạy qua cầu Bình Lợi, quang cảnh thật là hữu tình nhưng nước sông bốc lên quá lạnh; Tâm ôm sát vào eo Hùng và áp má vào lưng Hùng như để tìm chút hơi ấm nhưng vẫn kêu lên:

        - “Ông Hùng ơi, tôi lạnh quá!”

        Hùng biết Tâm bị lạnh nhiều lắm vì đang mặc cái mini jupe, phần Hùng với cái sơ mi mong manh, cũng cắn răng chịu lạnh trong khi đang rú ga tối đa trên con đường vắng vẻ, mong nuốt ngắn đoạn đường để mau mau về Linh Xuân Thôn ...

        ***

        Linh Xuân Thôn là địa danh của một vùng rất rộng, bao gồm khu đồi thuộc Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức (sau này đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Đức) và vùng Chợ Nhỏ. Lần đầu tiên, rời quê hương Nha Trang vào Trường Thủ Đức; tại vùng này, Hùng bắt gặp 2 cái tên rất là chỏi nhau : Linh Xuân Thôn, nghe sao êm đềm, tình tứ; trong khi Chợ Nhỏ, nghe sao thiệt thà, chất phác (y chang cái kiểu Nam Kỳ Quốc, có sao nói... dzậy !)

        Hùng tình nguyện gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Hậu cứ của đơn vị khi thì Thị Nghè, Gia Định, khi thì Cầu Đá, Nha Trang. Mãi mấy năm sau, đơn vị mới dời hậu cứ về Thủ Đức. Theo sự giới thiệu của Ba Má nuôi (nhà ở khu ngã tư Xa Lộ), Hùng mướn được một căn nhà ở vùng Linh Xuân Thôn (ông chủ nhà là một nhà thầu xây cất, có người con trai đang du học ở ngoại quốc nên tạm cho mướn căn nhà này với giá đặc biệt).

        Trên đường đi vào Trường Thủ Đức, chưa tới Chợ Nhỏ, có một con đường nhựa quẹo trái chạy vào trong xóm. Nhà cách đường lộ chính hơn 200 thước. Khu này yên tĩnh. Cái mà Hùng thích nhất là khu này nửa tỉnh, nửa quê. Trước nhà Hùng mướn, chỉ vài thước bên kia đường là một ruộng lúa. Hơn trăm thước bên kia bờ ruộng lúa là một xóm nhà kiểu xưa, mái ngói. Nhà nào cũng có một vườn điều và hàng cau phía trước. Đến mùa điều chín, đứng bên này vẫn thấy được màu đỏ của những trái điều bên kia ruộng.

        Tiếp nối sau xóm nhà này về phía Bắc, là những xóm nhà hiền hòa, mà lúc trước khi còn học trong Trường Thủ Đức, mỗi lần đi ra bãi học chiến thuật hoặc ra sân bắn, Hùng và các bạn phải lội bộ qua vùng này...

        Sống ở đây, nhìn lại cảnh cũ, gợi nhớ bao kỷ niệm lúc mới chập chững vào đời lính; do đó cái tên Linh Xuân Thôn sao nghe nó gần gũi, thân thiết và đáng yêu biết mấy đối với Hùng.

        Từ ngày quen biết với Tâm, Hùng đã giới thiệu, còn hơn thế nữa, đã quảng cáo về cái Linh Xuân Thôn của mình. Sự quảng cáo này xem ra rất “ép phê” đối với Tâm, Tâm như bị “thẩm thấu” và “nằm lòng” về những cái đáng yêu của Linh Xuân Thôn này mất rồi ! Và cái điều quan trọng và chính yếu Hùng muốn truyền đạt khi nói “Linh Xuân Thôn” có nghĩa là nói về căn nhà Hùng đang mướn và đang ở tại thôn này !

        Một trong những điều Hùng “ca” về cái Linh Xuân Thôn của mình là sự thuận tiện về không gian “Ở đây đi vào đơn vị cũng gần. Còn lúc nào nghỉ, đi chơi, chỉ ‘rẹt’ ra xa lộ Biên Hòa là ‘vèo” tới SàiGòn !”

        ***

        Tâm đã nhiều lần ghé về Linh Xuân Thôn. Chỉ ghé về “thăm nhà” (tiếng của Hùng) trong vòng tiếng đồng hồ để sửa soạn, “cụ bị” đồ đạc, dụng cụ trước khi cùng Hùng đi chơi miệt Bình Dương, Lái Thiêu, Biên Hòa hay đi bơi ở Thủ Đức. Và chỉ có thế ! Chưa bao giờ Tâm ở lại đêm tại Linh Xuân Thôn. Đêm nay là lần đầu tiên !

        Tâm duyệt lại “đoạn phim” khi Hùng đưa Tâm về nhà, không thấy ai ra đón. Đợi một lúc. Quyết định vào nhà. Bước đi mấy bước. Vụt quay trở ra và quyết định đi về Linh Xuân Thôn.

        Tâm cũng biết chắc rằng, từ ngày quen biết Hùng đến nay, chưa bao giờ Hùng “gợi ý” (chớ đừng nói tới “gạ gẫm”) rủ rê Tâm về nhà ban đêm ! Tâm cũng đang lo, không biết ngày mai về nhà, sẽ nói với cha mẹ như thế nào ? Làm sao trả lời được những câu hỏi Tâm tự vẽ ra. Đi đâu ? Đi với ai ? Làm gì ? Tại sao không về nhà ? Đang bị khuấy động với biết bao câu hỏi đang nhảy múa trong đầu thì tiếng xe Vespa ngừng nổ. Định thần lại, Tâm mới biết hai người đã về đến Linh Xuân Thôn !

        Phần Hùng, cũng đang lo trong bụng, vì từ ngoài đường phố quẹo trái vào nhà, sao thấy tối om ! Loay hoay một lúc, mở được cửa phòng, bật công tắc. Vẫn tối om. Đêm nay Linh Xuân Thôn bị cúp điện ! Vào nhà, bật hộp quẹt, lúi húi đi tìm đèn cầy. May quá còn được mấy cây.

        -“Thôi đành đốt đèn cầy cho nó có vẻ ‘rô măng tích’ một chút, em há !”

        Hùng nói đùa với Tâm như vậy, thật ra cũng muốn như tự an ủi lấy mình trong hoàn cảnh bất khả kháng này!

        Sau khi đốt đèn cầy trong phòng tắm, Hùng hướng dẫn Tâm vào, đưa kem đánh răng và cái bàn chải đánh răng mới cho Tâm. Tiện thể, Hùng cũng đưa cho Tâm một bộ khăn tắm chưa dùng và một bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ và nói : “Bộ Pyjama này anh chưa mặc, còn mới cáu cạnh, mời em khai trương”. Tâm vội đưa tay tiếp nhận và nhanh nhẫu trả lời :

        - “Ông thật chu đáo. Tôi cám ơn ông nhiều lắm !”

        Trong lúc Tâm đang tắm, Hùng ra nhà trước, kéo một cái bàn tròn và 2 cái ghế ra trước hàng hiên. Vào tủ lạnh lấy ra mấy lon bia, một chai nước ngọt và một ít trái cây ra bày biện trên bàn. Có lẽ điện mới bị cúp tối nay cho nên thức ăn và đồ uống trong tủ lạnh vẫn còn lạnh và mấy dĩa nước đá vẫn còn xử dụng được !

        Sau khi tắm xong, Hùng mời Tâm ngồi trước hàng hiên và nói :

        - “Em ngồi nhâm nhi lai rai và ngắm trăng trong khi anh đi tắm. Em thấy không, nhờ bị cúp điện nên dưới ánh trăng, ruộng lúa và xóm nhà bên kia trông thật hữu tình !”

        Sau khi tắm xong, Hùng ra ngồi hút thuốc và nhâm nhi mấy chai bia. Tâm chỉ uống nước ngọt, ăn qua loa ít trái cây và cứ than vì mới ăn dưới SàiGòn trước khi về nên còn no quá !

        Dưới ánh sáng trăng và qua ánh sáng đèn cầy trong nhà hắt ra, trong bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ, Tâm trông lạ và đẹp hẵn ra, làm Hùng buột miệng khen:

        -“Anh vẫn quen mắt nhìn em qua hình ảnh khi thì bận Jean, khi thì mini jupe, khi thì bận deux pièces. Còn đêm nay em bận Pyjama, trông rất lạ mắt, em thật là đẹp và chưa bao giờ em đẹp như đêm nay !”

        Qua cung cách và lời nói của Hùng, Tâm biết anh nói thiệt tình chứ không phải cố ý “nịnh”. Nhưng với thói quen cố hữu, Tâm đập vào cánh tay chàng rồi nói “Cái ông... này !”

        Tâm mắt lim dim nhìn cảnh vật, hai cây vú sữa và hàng rào dâm bụt thấp trước sân nhà, ruộng lúa sát bên kia đường, xóm nhà bên kia bờ ruộng với những cây cau vút cao lên như điểm thêm những nét chấm phá trên nền trời xanh sáng. Bên ngoài, cảnh vật thật yên bình và thật mơ mộng trong khi đó bên trong, tình cảm Tâm như đang khuấy động, đang rạt rào, dâng sóng ...

        Tâm gục đầu vào vai Hùng, hai vòng tay siết mạnh ngang hông Hùng và thều thào :

        -“Ông Hùng...”

        Ngồi thêm một lúc khá lâu, cả hai cùng thấm lạnh. Lúc đó đã quá khuya, hơn 1 giờ sáng rồi còn gì! Hùng đưa Tâm vào phòng ngủ, ra dọn dẹp bàn ghế vào nhà, rồi nằm ngủ trên ghế sofa. Vì lúc nãy Hùng để cửa mở nên muỗi bay vào nhà nhiều quá. Hùng tìm được một cái quạt, cứ quạt xoành xoạch hoài mà không sao ngủ được. Trong phòng ngủ, chắc Tâm nghe tiếng động của quạt nên bước ra ngoài phòng khách và nói :

        - “Tội nghiệp ông quá, ông nhường giường ngủ có mùng cho tôi, trong khi đó nằm đây chịu trận với đám muỗi làm tôi áy náy quá. Hay là ông cứ vào ngủ trong giường cũng được !”

        Được lời như mở cờ trong bụng, Hùng ngồi bật dậy, liệng cái quạt xuống sofa rồi diễu :

        - “Thôi, xin giã biệt Cà Mau. Ta đi về Linh Xuân Thôn đây!”

        Vào ngủ chung giường, cái này hơi rắc rối! Chưa ai nghĩ đến điều này, ngay cả Hùng cũng vậy! Mặc dù Hùng và Tâm không phải răm rắp như lời các cụ ngày xưa truyền dạy “Nam nữ thọ thọ bất thân!”

        Không! Họ đã từng hôn nhau, đã từng trong tay nhau rồi kia mà! Nhưng nằm chung giường với Tâm như thế này, thì quả thật, ngoài sức tưởng tượng và ngoài dự trù; mặc dù Hùng đã có kinh nghiệm qua những lần “thử lửa” với các cô gái khác!

        Khi lên giường, Hùng dùng bàn tay vạch một đường tưởng tượng giữa hai người rồi trịnh trọng tuyên bố: “Đây là sông Bến Hải. Là vĩ tuyến 17. Em Bắc Kỳ, em ở phía Bắc; còn anh ở phía Nam. Hiệp định Genève đã ký. Hai bên không được xâm phạm lãnh thổ của nhau. OK?”

        Tâm cũng thấy vui vui và hơi yên bụng, nên hỏi vặn:

        - “Ừa, hiệp định Genève đã ký. Ông phải giữ lời. Không được vượt tuyến. Không được xâm lăng đó nghe?”

        Hùng cũng diêu diễu đáp lại:

        - “Ký trên giấy tờ là một chuyện, còn xâm lăng hay không, thì hạ hồi phân giải!”

        Tâm ký vào đầu Hùng một cái kèm theo “Cái ông... này !”

        Nói thì nói như vậy, ranh giới thì vạch ra như vậy, nhưng Tâm đang nằm trong vòng tay của Hùng. Môi kề môi. Họ từ từ rơi vào giấc ngủ...

        Không biết họ ngủ vùi như vậy được bao lâu, cho đến khi trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Tâm mơ hồ như bộ pyjama màu xanh lá mạ không còn dính trên người mình. Tâm đang ôm ghì lấy Hùng. Chạm mạnh và trọn vẹn khắp vùng da thịt Hùng. Họ đang hôn nhau. Họ đang xoắn xuýt trong nhau. Tâm cảm giác được những tung vỡ, những tê điếng trong cơ thể mình. Nhận biết được những quằn quại và nhức nhối trên phần thân xác mình. Tất cả như đang bùng nổ, tung hê. Và Tâm cảm nhận như đang được hưởng, được nhận lãnh trọn vẹn những đê mê, những tuyệt vời trong lần hiến dâng đầu tiên đời con gái! Trong cơn mê đó, Tâm mơ hồ như đang kêu gào, đang rên rỉ, đang thảng thốt với những lời đứt quãng, ngập ngụa trong mênh mông với tràn đầy yêu thương, chất ngất “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh!”

        ***

        Đối với Tâm, đêm Linh Xuân Thôn vẫn hằn đậm nét và cho dù, sau này, cuộc tình có chuyển hướng ra sao, kỷ niệm này vẫn nhớ mãi một đời! Về phần Hùng, đêm Linh Xuân Thôn là một trong những kỷ niệm đáng nhớ và khó nhạt nhòa. Thời gian còn bên nhau, cho dù đi chơi ở đâu, Hùng vẫn thường đùa lấy tay khều nhẹ vào tay Tâm rồi nói: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!” Dĩ nhiên, câu này, Hùng không hàm ý muồn rũ Tâm đi về nhà mình ở Linh Xuân Thôn; mà chỉ muốn gợi lên một hình ảnh, một kỷ niệm thật đậm nét về một không gian mà hai người đã có với nhau! Và, lúc nào cũng vậy, Tâm nguýt Hùng một cái và lập lại điệp-khúc-muôn-thuở: “Cái ông... này!”

        Năm Khánh Tâm lên lớp Đệ Nhị ở Trưng Vương, cuộc sống có nhiều đổi thay ập đến. Lúc đang hành quân ở Quảng Ngãi, Hùng nhận được một thư ngắn của Tâm, chỉ một trang giấy học trò, qua nội dung lá thư, được biết vì công việc, ba Tâm và cả nhà phải chuyển về Nha Trang và Tâm phải ở nhờ tại nhà một người dì ở SàiGòn để tiếp tục đi học. Trong khi chuyện buồn trong gia đình chưa nguôi ngoai thì Tâm lại tìm hiểu và phát giác thêm việc Hùng đang có mối liên lạc khá đặc biệt với một người bạn cũ ở Làng Đại Học Thủ Đức.

        Tâm cho biết thêm, hiện đang bị rối bời, rất buồn, rất khổ tâm và sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống mình trong một tương lai rất gần. Và không quên gởi lời chúc “móc họng”: “Chúc ông được nhiều hạnh phúc trên ‘đường xưa lối cũ’!” Cuối thư, Tâm còn ghi thêm 2 hàng “Người đang quen, Khánh Tâm” và “Lúc nào tôi cũng yêu ông!”

        Lần đó, đơn vị Hùng hành quân liên miên trong hơn 4 tháng, từ Quảng Nam vô Quảng Ngãi rồi ra lại Quảng Nam, sau đó mới được về lại hậu cứ Thủ Đức. Dịp này, Hùng đến nhà cũ của gia đình Tâm ở Bà Chiểu để hỏi thăm tin tức. Người chủ mới ngôi nhà này không biết gì thêm ngoại trừ: “Nghe nói họ đổi ra Nha Trang”. Lần thứ 2, Hùng trở lại tìm, may quá gặp được “mấy đứa nhóc lối xóm”, mấy đứa nhóc cho đi quá giang năm nào, chúng cho biết “Chị Tâm đã đi lính rồi!”. Đó là tin tức cuối cùng và rất mơ hồ mà Hùng ghi nhận được khi hỏi về Tâm.

        Vào mùa Thu năm 1967, đơn vị Hùng đang hành quân trong vùng đèo Phù Cũ, Bình Định, một hôm, trong một chuyến tiếp tế cho đơn vị hành quân, Hùng nhận được một số thư từ và sách báo do một chú đệ tử từ hậu trạm ở Bình Định gởi ra. Khi mở thư của chú đệ tử, chú ấy cho biết vắn tắt hôm chú ấy vào Tiểu Khu, thật bất ngờ gặp lại cô Tâm. Cổ hỏi thăm tin tức ông thầy. Em cũng cho cổ biết bây giờ ông thầy đang ở đâu. Cổ cũng gởi cho ông thầy một lá thư, em kèm theo đây luôn”.

        Mở thư Tâm, một cái “note” thì đúng hơn, Tâm cho biết một số tin vắn tắt nàng tình nguyện gia nhập Khóa Hạ Sĩ Quan/Nữ Quân Nhân/VNCH. Khi mãn khóa, xin đi phục vụ ở những đơn vị thật xa như Đông Hà, Quảng Trị hoặc Thừa Thiên nhưng ngoài đó không có nhu cầu, đành phải chọn nơi xa nhất là Bình Định. Mới phục vụ tại đây được mấy tháng. Sắp đi công tác tại Bồng Sơn và Tam Quan. Khi nào ra ngoài đó sẽ liên lạc với Hùng, nếu anh không vào vùng hành quân, có thể ghé thăm ông để xem bây giờ ông ra sao! Và cuối cái “note” Tâm viết:

        - “ Phần tôi. Tôi vẫn thế!”

        Đọc xong cái “note”, Hùng ngồi thừ người với rất nhiều câu hỏi và thắc mắc đang nhảy múa trong đầu... Nhớ lại, mấy đứa nhóc hàng xóm của Tâm đã nói: “Chị Tâm đi lính rồi!” Hùng tưởng tụi nó nói bậy bạ, nói tào lao; ai dè sự thật đúng như vậy!

        Như Hùng đã biết về tánh khí của Tâm, nàng giống như một đứa con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch, có những quyết định bất ngờ vào phút chót... Qua thư cuối cùng của Tâm mà Hùng nhận được ở Quảng Ngãi trước đây: “đang bị rối bời, “rất buồn”, “rất khổ tâm”, “sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống”...

        Có lẽ trong lúc đang bị ngụp lặn trong bối cảnh rối ren, phức tạp về mặt tâm lý và tình cảm, đã dẫn đưa Tâm đến quyết định thật bất ngờ vào giờ phút chót: Nhập ngũ! Và Hùng nghe thêm nhức nhối khi tự hỏi mình có phần trách nhiệm trong việc thay đổi hướng đi cuộc đời Tâm?

        Với tâm trạng rối bời, Hùng chưa biết phải phản ứng như thế nào đối với Tâm trong hoàn cảnh này, nên thông cảm để chấp nhận, hoặc nên giận, hoặc nên thương?

        ***

        Đơn vị Hùng mới trở ra vùng đèo Phù Cũ được 2 ngày sau một cuộc hành quân. Qua sự liên lạc trước, trên đường đi công tác ở Bồng Sơn, Tâm và một người bạn gái (cùng đơn vị) ghé thăm Hùng tại vị trí đóng quân, sát Quốc lộ 1. Sau hơn một năm mới gặp lại, qua bộ Treillis, trông Tâm chững chạc hơn, nhậm lẹ hơn, rắn chắc hơn. Thấy Tâm vui vẻ, thoải mái và tự tin hơn làm Hùng hơi yên bụng! Cô bạn gái cùng đi với Tâm là một Hạ sĩ, rất xinh xắn, nhanh nhẩu và liến thoắng; cô này nói chuyện vui vẻ, dễ gây cảm tình. Qua sự giới thiệu của Tâm, cô này gốc Hoa, có cái tên ngồ ngộ, nhưng hơi khó đọc “Triệu Bửu Huởn”. Sau khi nói chuyện với nhau khá lâu, biết về nhau thêm, nói chuyện vui vẻ và nhất là có thiện cảm với nhau qua lần sơ ngộ này. Với cái tánh tiếu lâm cố hữu, trong khi nói chuyện với Tâm và cô bạn gái, Hùng nói : “Huởn có cái tên thật đặc biệt, bắt đầu bằng 3 chữ “Tê Bê Hát” nhưng, hơi... líu lưỡi. Thôi để anh đặt cho em một cái tên mới cho rồi!”

        Huởn nhanh nhẩu hỏi:

        - “Anh định đặt cho em tên mới là chi, vậy anh?”

        Hùng cố làm mặt nghiêm, không cười trả lời: “Trẹo Bảng Họng!”

        Tâm bật cười ngặt nghẽo, thụi một mạnh vào lưng Hùng rồi buông “Cái ông... này!”

        Riêng Huởn, cũng ôm bụng cười lớn, rồi nói: “Chị Tâm đã nói với em về ‘Ông Hùng’ của chỉ thật nhiều, chỉ nói anh rất vui tánh, khoái tiếu lâm. Bây giờ em mới xác nhận được. Anh thiệt là... ‘hết sẩy’!”

        Từ đó, giữa 3 người, ngầm đồng ý và vui vẻ dùng cái-chết-tên “Trẹo Bảng Họng” mà Hùng đã đặt cho Huởn.

        Tối hôm đó, Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” ở lại nơi Đại đội Hùng đang đóng quân, trên đồi. Các chú đệ tử làm thêm một cái lều riêng cho cô “Trẹo Bảng Họng”. Cũng may mà ngày hôm trước, đơn vị mới nhận được tiếp tế, nên mấy chú đệ tử cũng xoay xở để có được một bữa cơm “thịnh soạn” rất ư là hành quân để đãi khách !

        Sau khi ăn xong, tiếp theo là chầu trà, cà phê, bánh ngọt và ngay cả trái cây để tiếp tục nói chuyện... đời ! Qua những lời thuật lại của cô “Trẹo Bảng Họng”, Hùng mới biết Tâm đã “trút hết bầu tâm sự” cho cô bạn này! Ngoài những sự việc đã xảy ra trong gia đình Tâm (về mặt nổi) và những ngóc ngách sâu lắng trong tình cảm của Tâm (về mặt chìm) hầu như cô “Trẹo Bảng Họng” đã biết tường tận, có thể nói là... từ kẻ tóc đến chân tơ!

        Tới giờ đi ngủ, Hùng nói với cô “Trẹo Bảng Họng”:

        -“Anh đã coi lại, trong lều em, đã có đủ mọi thứ cần thiết: mùng, mền, gối v.v... Chỉ rất tiếc là không thể nào tìm được cái “gối ôm” cho em thôi!”

        Cô “Trẹo Bảng Họng” biết Hùng nói diễu để “méo mó” về cái “gối ôm”, nên cô cũng trả đũa với chữ nghĩa rất ư là lính:

        - “Em thì cô đơn quen rồi, không có “gối ôm” cũng không sao! Em chỉ mong đêm nay sẽ được ngủ ngon và sẽ không bị quấy rầy vì ‘pháo kích’!”

        Khi cô “Trẹo Bảng Họng” đã chui vô lều, Hùng khều khều vào tay Tâm và nói:

        - “Thôi ! Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!”

        Tâm khẽ đấm vào lưng Hùng, và vẫn với lời mắng yêu “Cái ông... này!”.

        Tuy vậy, Tâm vẫn lom khom đi theo Hùng, cùng chui vào cái... “Túp lều lý tưởng” Qua quãng thời gian dài không gặp, với tình yêu bị dồn nén trong cô đơn với biết bao khổ đau, quặn thắt, dày vò... Bây giờ. Đêm nay, tất cả như đang tung vỡ, tất cả như đang ngập ngụa.

        Tiếng dội như vang vang khắp vùng đèo Phù Cũ im lìm, cô quạnh qua lời thảng thốt trong đêm vắng: “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh... Em mãi yêu anh... Và chỉ mình anh thôi !”

        Sau đêm ở lại với Hùng, trưa ngày hôm sau, cả Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” tiếp tục lên đường đi công tác ở Bồng Sơn và Tam Quan.

        Được biết, sau lần công tác đó (khoảng 10 ngày), họ trở về Bình Định bằng trực thăng từ Phi trường Quân sự Đệ Đức (phía Bắc Bồng Sơn).

        Không ai ngờ được rằng, cái đêm “hội ngộ” ở vùng đèo Phù Cũ năm 1967... Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Hùng gặp và làm quen với cô “Trẹo Bảng Họng”. Và đó cũng là lần cuối cùng Hùng gặp lại Khánh Tâm!

        ***

        Tết Mậu Thân (1968) đến. Cộng sản Bắc Việt và tay sai của chúng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã vi phạm lệnh hưu chiến trong thời gian Tết Nguyên Đán. Chúng đã tấn công trên hầu hết các tỉnh lỵ, các Thành phố lớn và quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị của Hùng sau cuộc hành quân giải tỏa Thành Nội và Cố Đô Huế, được không vận gấp về SàiGòn để giải tỏa áp lực của Việt Cộng vào vùng SàiGòn - Chợ Lớn trong Tổng Công Kích đợt 2 vào tháng 5 và tháng 6/1968. Đặc biệt tại vùng Thị Nghè, Đồng Ông Cộ, Ngã Năm Bình Hòa, Gò Vấp, Bình Lợi v.v... đã nổ ra các trận đánh lớn. Có trận Việt Cộng đã ra đầu hàng hàng loạt hơn 200 người...

        Hôm đơn vị Hùng được lệnh giải tỏa áp lực địch trong vùng các trại cưa gần cầu Bình Lợi. Khi chiếm xong vùng mục tiêu này, đơn vị Hùng đã gây một thiệt hại lớn cho địch với gần trăm xác còn nằm tại trận địa. Được lệnh tiếp tục truy kích địch tại khu đường rầy gần cầu Bình Lợi và trong đợt tấn công này, Hùng bị thương nặng vì đạn B40 vào ngực và bụng. Sau đó Hùng được chuyển ngay về Bệnh Viện Cộng Hòa ở Gò Vấp.

        Trong tuần lễ đầu, Hùng được giải phẫu nhiều lần, tình trạng rất là nguy kịch, Hùng được chuyển đến một phòng đặc biệt để được Bác sĩ và Y tá săn sóc cấp thời khi cần. Chú đệ tử thân cận nhất của Hùng cũng được đặc biệt ở lại trong Bệnh viện để giúp đỡ và săn sóc thêm cho Hùng. Khi vào thăm, thấy Hùng với bịch máu bên hông, giây nhợ chằng chịt nối liền với các y cụ khác chung quanh, qua các y cụ này, hiện lên các tín hiệu và các biểu đồ .. Hùng được trang bị và nai nịt như một phi hành gia... thứ thiệt!

        Mấy hôm sau, tình trạng của Hùng có vẻ khá hơn, các giây nhợ bớt chằng chịt hơn, cái mặt nạ và ống nối với bình dưỡng khí cũng không còn bị đeo thường trực. Hùng có thể giơ tay làm hiệu hoặc nói nho nhỏ với chú đệ tử, y tá hoặc bác sĩ! Tình trạng Hùng được đánh giá như “có một số dấu hiệu khả quan được ghi nhận”.

        Một hôm chú đệ tử của Hùng chạy về hậu cứ Thủ Đức, lấy lên cho ông thầy một ít đồ dùng theo yêu cầu của Hùng và một xấp thư hậu cứ Tiểu Đoàn mới nhận được. Chú đệ tử lấy dao rọc sẵn các bao thư để cho ông thầy đỡ mất công và đỡ khó khăn khi phải mở từng bì thư. Chú đệ tử lăng xăng dọn dẹp các ly tách và dụng cụ trên các bàn trong phòng vì từ sáng đến giờ mắc đi về hậu cứ, tuy nhiên vẫn theo dõi nét mặt ông thầy, để xem có gì buồn, vui hay không?

        Hùng đọc một số thư trong trạng thái bình thường chẳng có gì vui hoặc buồn hiện lên nét mặt. Nhưng đến một lá thư khá dày, khi nhận ra tên người gửi, nét mặt Hùng vụt vui hẳn lên. Hùng cười có vẻ thích thú và nói nho nhỏ một mình: “Ồ! Thư của cô Trẹo Bảng Họng”

        Nội dung thư, phần đầu, Hùng được biết thêm một số công tác và sinh hoạt của Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” đã làm trong mấy tháng vừa qua. Cô ta cũng nhắc đến một số vấn đề quan trọng giữa hai gia đình (dĩ nhiên Tâm đã “xì” những tin tức “bí mật” này) : Như việc gia đình Hùng ở miệt Thành, Nha Trang đã đến thăm gia đình Tâm hiện đang sống ở khu Xóm Mới, Nha Trang, hai gia đình muốn làm một nhịp cầu để “hai cháu” có thể cùng nhau tay trong tay tiến xa hơn : đến hôn nhân, đó là điều cả hai gia đình đều trông chờ... Điều này Hùng cũng đã biết qua thư của gia đình mình và qua thư của Tâm, Hùng nhận được cách đây hơn 2 tháng.

        Cô “Trẹo Bảng Họng” nói thật nhiều và cố tình diễn đạt rõ ràng như một thông điệp khẳng định về việc cô ta biết tận tường về tình yêu của Tâm đã dành cho Hùng. “Em biết một cách rất chắc chắn và dứt khoát rằng, trên cõi đời này, không có một người con gái nào yêu anh ghê gớm, dữ dội như chị Tâm đã yêu anh” Hùng ngưng đọc, mỉm cười và nói một mình “Cái kiểu này, chắc cổ muốn ăn cái đầu heo đây” !

        Khi đọc đến phần cuối thư, mắt Hùng như hoa lên làm nét chữ trong thư như nhạt nhòa. Hùng đọc thư nhưng có cảm giác như khi được, khi mất, lúc ẩn, lúc hiện. Hùng quên mất thực tại, không biết mình đang làm gì, đang ở đâu! Bên tai, hình như đang văng vẳng nghe lời một người nào đó, ai oán, kể lể:

        - “ Chắc giờ này anh đang tiếp tục hành quân ngoài Huế? Còn tụi em, tưởng đã thoát khỏi những ngày đen tối của Tết Mậu Thân vừa qua, nhưng không. Hôm đầu tháng 6, một đơn vị Việt Cộng, như để trả thù cho lần thảm bại trong dịp Tết Mậu Thân, đã trở lại tấn công qui mô vào một tiền đồn phía Tây Bắc tỉnh Bình Định. Lần tấn công đó, chúng không đạt được mục đích như vẫn tuyên truyền : muốn xóa sạch tên đơn vị này, nhưng chúng đã gây cho đơn vị anh hùng này một số tổn thất đáng kể. Mấy hôm sau, tụi em cùng phái đoàn tỉnh đi lên thăm và ủy lạo đơn vị này. Không may, khi còn khoảng hơn 3 cây số mới tới đơn vị thì phái đoàn bị phục kích. Lực lượng phục kích của Việt Cộng thì không nhiều, nhưng hỏa lực trên đồi bắn xuống, nhất là hỏa lực súng cối của chúng thật ồ ạt và khủng khiếp.

        Chính hỏa lực này đã gây cho phái đoàn một số thương vong. Em chỉ bị thương nhẹ ở vai và lưng nhưng cũng cố lê lết kéo chị Tâm vào núp dưới một gộp đá cạnh lề đường. Xui một cái là chị Tâm bị thương quá nặng vì bị nhiều mảnh đạn ghim vào ngực. Em đỡ chị Tâm bằng hai tay, em sợ quá, chỉ biết kêu gào và khóc nức nở trong khói lửa mịt mù! Chị Tâm đã chết trong tay em. Trước khi chết, trong lúc hấp hối, chị Tâm vẫn sảng sốt và thều thào gọi mãi tên anh”.

        Chú đệ tử thấy ông thầy mặt như trắng bệch, buông rơi những tờ thư, tay run rẩy ôm lấy ngực và kêu lên ú ớ. Hoảng quá, chú chạy ào đến phòng y tá trực gần nhất để kêu cứu. Mấy người y tá rầm rập chạy đến phòng Hùng. Xúm nhau, mấy người đẩy, mấy người phụ cầm theo những y cụ. Họ chạy như bay qua phòng cấp cứu gần đó ...

        ***

        Hùng thấy mình như đang bềnh bồng, đang lửng lơ, đang bay bổng. Mà sao lạ quá, Hùng có cảm giác như mình đang tung vút lên cao, và bên tai, nghe mơ hồ như có tiếng sáo diều réo rắt, như tiếng nhạc thiên thần đầy huyền bí, gọi mời.

        Và ơ kìa, Khánh Tâm vụt hiện ra. Vẫn với dáng nét thân quen. Vẫn với nụ cười rạng rỡ!

        Tâm nâng và vung hai cánh tay về phía Hùng như vẫy gọi, như đón chào. Hùng có cảm tưởng như hai người đã bị xa cách từ nghìn trùng, qua ngút ngàn thời gian với rất nhiều chướng ngại và điệp trùng thay đổi; giờ đây mới có dịp gặp lại !

        Hùng cố nhoài người vươn tới cho đến khi chạm vào cánh tay Tâm, và như sực nhớ một huyền sử của kiếp nào xa lắc, Hùng khều nhẹ vào cánh tay Tâm và với lời nhẹ nhàng như gió thoảng nhưng đầy khêu gợi và đầy tha thiết gọi mời: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!”

        Khánh Tâm, vẫn với cái nguýt làm ngọt đuôi con mắt, vẫn với lời như âu yếm, như dỗi hờn; giống như điệp khúc nào của ngàn năm huyền thoại qua lời vi vu: “Cái ông... này!”

        Tâm, cứ làm như mình là chủ nhà, như muốn chứng tỏ mình đã sống ở đây từ lâu, đã rành rẽ mọi đường đi lối về nơi không gian đầy thiên sắc này !

        Tâm nắm chặt bàn tay Hùng để kéo Hùng đi. Lướt những bước nhẹ nhàng trên đỉnh những cụm mây bềnh bồng đang bay bay, cùng nhau hướng về vùng ánh sáng ửng hồng nơi cuối chân trời...

        Ở đó, không còn chia xa, không giận hờn, không khổ đau, không thù hận.

        Ở đó. Chỉ toàn một màu hồng, với ngập tràn:

        Hạnh phúc.
        Thương yêu.
        Và... Miên viễn



        Phan Công Tôn

        https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
        Last edited by BachMa; 06-28-2019, 03:31 AM.

        Comment


        • Nhớ Bạn Cũ

          Nhớ Bạn Cũ
          Tùy bút - Phạm Minh Xuân
          Để nhớ về 7/68 Lê Văn Độ



          Hình minh họa

          Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974.

          Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’.

          Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa, chia bè chia đảng, đòn phép ganh đua, và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn!

          Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt.

          Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.).

          Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa!

          Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK')

          Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng.

          Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng.

          Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ.

          Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ.

          Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện".

          Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ.

          Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng.

          Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku).

          Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ.

          Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha.

          Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp.

          Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!).

          Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ.

          Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại".

          Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được".

          Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy".

          Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con.

          Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt.

          Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ.


          Phạm Minh Xuân

          https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

          Comment


          • Chập chững "Đời Phi Công"

            Chập chững "Đời Phi Công"
            Hoài Phong

            Lời mạo muội... Tiếp theo câu chuyện “Mai mốt ông cũng sẽ như chúng mày” kể lại những ngày đầu nhập ngũ, và lần lượt những ngày Quân Trường rồi cũng qua, những lo sợ sẽ “Không thể nào bay được” như lời dọa dẫm của vài NT trở lại Quân Trường sau trên dưới một năm huấn luyện nơi xứ người, những mong đợi rồi cũng đến, nỗi lo sợ rồi cũng qua ...


            Hình minh họa

            Sau khi mãn Khóa T-28 và xuyên huấn C-47, chúng tôi 10 thằng về trình diện KĐ/33 tại TSN. Những Thiếu úy mới tinh, mới tinh khôi không thể nào dấu được, dù đã cố gắng làm cho cái lon Thiếu úy mờ tịt không còn chút gì sáng chói màu đồng, trong những ngày này, sau nhiều tháng năm miệt mài thụ huấn bây giờ thực sự như những chú chim non xổ lồng tung tăng và hung hăng bay nhảy, chúng tôi có cảm tưởng đã nắm chặt bầu trời, “Không Gian” đã nằm trong lòng bàn tay…

            Đã hơn 1 tuần, cứ mỗi sáng vào trình diện điểm danh xong là tan hàng đến hôm sau, quả là quá rãnh rổi nên chúng tôi đã gây ra không ít chuyện động trời, mà có lẽ những khoá đàn anh chẳng thể nào biết được. Chẳng hạn như có lần mấy “ông” Thiếu úy mới về này đã làm nhốn nháo cả đoàn QC Quân trấn, lẫn QC Không Quân và biết đâu cả Không đoàn 33 cùng BTL/ KQ (Lúc này Sư đoàn 5/KQ chưa được thành lập)…

            Qua bao nhiêu năm tháng, những khổ cực, những lo âu và cuối cùng là niềm hãnh diện đã đến với chúng tôi, với đôi cánh bạc trên ngực áo, những nhớ nhung, ray rứt những thèm muốn, những ước mơ đã đến và tôi đã cố gắng thuyết phục để cùng các bạn thực hiện giấc mơ từ bao lâu tôi hằng ôm ấp…

            -“Quyết định vậy đi nhé… 2 giờ chiều”, sau khi trình diện phụ tá KĐT 33, chúng tôi mỗi anh mỗi ngả, đường ai nấy chạy, đào ai nấy đón, 2 giờ chiều phải có mặt tại “Cái chùa“ La Pagode , “Tụi bây nhớ chưa ngay góc Tự Do và Lê Thánh Tôn đó nha!”

            Lúc xưa, còn là một thanh niên mặt trắng, một “Bạch diện thư sinh” tôi đã tập tành, lâu lâu được theo các bậc đàn anh vào đây ngồi “thiền” mắt xớn xác, và tai mở lớn để nghe, để thâu thập những chuyện đào kép, những kinh nghiệm quý báu làm thế nào để “đốn ngã” được em. Nhất là những mẩu chuyện chiến tranh các anh người Biệt Động, kẻ Nhảy Dù, TQLC… kể chuyện trong rừng, những pha chiến đấu, những cuộc đổ quân, tưởng chỉ có thể xảy ra trong Ciné.

            Oai hùng và thần thánh nhất là anh Hoàng, anh của người bạn học, một phi công trong Phi đoàn rất đặc biệt thời đó. Anh thường mặc áo bay đen với khăn choàng tím của Phi Đoàn Thần Phong, chỉ mới nghe tên, chỉ thấy người, tôi là một thanh niên mới lớn đã muốn “mê” huống gì những em gái hậu phương, những nữ sinh trường Việt, trường đầm… Anh lại có lối kể chuyện duyên dáng, hấp dẫn, luôn luôn là những chuyện mới thực hiện xong hôm qua, hay hôm nay, lúc sáng cách đây vài giờ, những chuyện chim trời, những cú nhào lộn, đánh bom… Tôi cứ há hốc mồm chiêm ngưỡng, quên cả liếc nhìn các “đàn chị” tươi đẹp, nõn nà như tài tử Kiều Chinh, như Thẩm Thúy Hằng… đang mân mê trong tay các anh ngồi im, và yên lặng một cách ngoan ngoãn.

            Thế nào rồi mình cũng như vậy, thế nào mình cũng sẽ oai hùng như vậy… Và hôm nay tôi đã thuyết phục các bạn vào “Chùa”, với tuổi trẻ, thời gian không gì vướng bận và với niềm tin ngất trời làm sao không tán thành, sợ gì ai nhỉ?... Thế là gần chục thằng Thiếu uý mặt búng ra sữa, mới toanh như những tấm “Phi bào” mới sửa cấp tốc hôm qua, tuy chưa có bên dao bên súng, vì đâu đã về đơn vị mà có được súng ống dữ dằn… Thôi như vậy cũng đủ Ground show lắm rồi, với những người yêu nhỏ bé, cùng các “Em gái hậu phương” có cô mới quen chưa đến… 1 ngày, chúng tôi ngang nhiên và ồn ào bước vào “Đất thánh ngày xưa” mà quên lững là nhiều đàn anh, sư phụ, sư tổ cũng rất có thể đang có mặt.

            Chàng chưa hết nửa chai 33… bé, đào vừa xong vài muỗng kem dâu, chợt nhìn quanh, sao lạ quá, chẳng thấy cái gì gọi là “Không khí chiêm ngưỡng”, sao đâu đây sương khói nặng nề, nhìn qua phải, thấy toàn, những ánh mắt ái ngại phớt qua vội vàng nhưng không dấu vẻ xót xa, có khi bắt gặp những ánh mắt như… khi dễ, nhưng bao dung, tha thứ, quay qua bên trái hình như gặp vài khuôn mặt giận dữ… thôi rồi, phải zulu sớm thôi,

            Tuy không có tí kinh nghiệm về trận mạc, nhưng có lẽ trời thương nên cuộc “triệt thoái” của chúng tôi hoàn toàn thành công, lực lượng được bảo toàn tuyệt đối, đào kép ai về nhà nấy, và không biết rằng lúc nãy, sau một cú điện thoại của ai đó trong La Pagode, Quân trấn Biệt Khu Thủ Đô đã phối hợp với Quân Cảnh / KQ có đến gần chục xe Jeep đã bao vây quyết tâm “rinh” mấy ông nội này về TTM, nhưng có lẽ sự “chần chờ cố ý” của bên KQ đã cứu chúng tôi, có lẽ nhờ sự rộng lượng của những cấp Chỉ huy bên BTL/KQ quyết định… bỏ qua, “Các anh hên lắm đó”, theo lời Thiếu tá Phương, phụ tá KĐT/KD 33.

            (Sau này nói chuyện với ông anh của 1 người bạn cùng khóa, là một Sĩ Quan Chánh án bên Tòa án Quân sự, thì theo vị đó, có lẽ BKTĐ được “Báo cáo lầm” thế nào đó, mới “huy động” một lực lượng hùng hậu như vậy vì thật ra chúng tôi chẳng có lỗi gì cả, ngoài việc mặc “quân phục tác chiến” dẫn đào vô nhà hàng, và việc này thì hai, ba mai vàng, mai bạc, cũng vẫn thường làm.)

            Rồi chuyện cũng xong, Trần Khương và tôi, 2 đứa ham chơi nhất trong số 10 thằng, không biết chè lá hay chạy chọt, chả thiết gì đến những lân la, ăn nhậu với những “thẩm quyền”, chỉ vào cho Thiếu Tá Phụ tá KDT điểm danh, có mặt xong là dzọt ra ngay, đến ngày cuối hai thằng đều méo mặt cầm sự vụ lệnh về Phi đoàn 716. Theo các vị tiền bối, đó là Phi đoàn với một Chỉ Huy Trưởng (Lúc này chưa gọi là Phi Đoàn Trưởng) “hắc ám” nhất Việt Nam Thiếu Tá Nguyễn Anh Tuấn. Phi đoàn 716 lúc này chiếm cứ một nơi riêng biệt, nơi cũ của Phi đoàn Thần Phong.

            Sau khi đưa Sự vụ lệnh cho văn thư, chúng tôi ra Câu lạc Bộ của Phi đoàn ngồi chờ, hai con ma mới ngồi đồng hơn một tiếng, thấy 1 Tr/sĩ ốm nhom, lang thang, lếch thếch, nhưng giọng lại sang sảng:

            - "Hai Th/u mới về, vào trình diện Th/sĩ Sáng gấp”. Ngồi chờ dài người hơn 1 tiếng, nghe đến đây, tôi không thể kềm được, nổi nóng quát ngay:

            - “Trình diện Th/Tá hay Th/sĩ?”, tôi gằn giọng hỏi lại, hắn vẫn xác định là Th/sĩ Sáng gọi chúng tôi vào trình diện… Mẹ cha nó, ngày đầu tiên về Phi đoàn, có nghĩa là ngày đầu của đời chiến binh, ngày đầu của “Dấu binh lửa”, bước chân tôi đã lỗi nhịp, chắc hậu vận không khá được, tôi dằn mạnh chai Coca muốn nát luôn ra mặt bàn, và phá vỡ luôn những tiếng ồn ào của phòng ăn sáng.

            - “Anh vào kêu anh Th/sĩ của anh ra đây trình diện hai Th/úy mới về, không có Th/úy nào đi trình diện Thượng sĩ, nghe chưa, cút!”

            Khương nhỏ nhẹ… "mày làm quá mày", “Tao đếch cần tới đâu thì tới”, tôi nạt luôn cả Khương. Dù gì thì Quân trường cũng vừa dạy cho mình Quân Phong, Quân Kỷ, mới mang lon Th/úy, một cấp bậc thấp nhất của Sĩ quan thì sao có thể quên nhanh thế được!

            Và cứ như thế, ngày đầu tiên về Phi đoàn, tôi đã mang tiếng ba gai, tôi đã thách đố số mệnh, dù tôi cũng nghe phong phanh, mấy ông Th/sĩ văn thư, quyền hành lắm, là tay mặt, tay trái của Chỉ Huy Trưởng, hại mình dễ như chơi… nhưng tôi đếch cần!

            Ngày tháng lần qua, coi vậy mà không phải vậy, Thiếu Tá Nguyễn Anh Tuấn Chỉ Huy Trưởng đầu đời tác chiến thật sự của tôi không phải là một vị Chỉ huy “hắc ám” mà phải gọi là vị chỉ huy “réc lô” nhất thì đúng hơn.

            Trong khi các Th/úy Co Pilot vận tải mới về của các Phi đoàn “ngon ăn” khác, như 415, 413 hay kể cả Hỏa Long 417, nếu chưa xác định hành quân, thường bị đì đúng theo… "Ngành vận tải”: “Sĩ Quan Trực Phi đoàn” hay “Gác quan tài” mút mùa, đó là nhiệm vụ chính dù chỉ một, hai Sĩ Quan mới về Phi Đoàn, thì cũng chỉ “Mình ta với ta”.

            Không như thế, Phi đoàn 716 dưới quyền Thiếu tá Tuấn rất giản dị: Sĩ Quan Trực là Sĩ Quan… trực, Sĩ quan có chức vụ như PĐ Phó, Trưởng Phòng Hành Quân, An Phi được miễn làm Sĩ quan trực…

            Ngoài ra tất cả, không cần biết Trưởng phi cơ, Hoa tiêu chánh, Hoa tiêu phó cũ mới gì không cần biết, đã là Sĩ Quan, tới phiên là phải… trực! Trong khi những Phi đoàn khác gần như không có vụ điểm danh, dù cho cầm lệnh cắm trại của căn cứ là 50%; Phi đoàn 716 không vậy, cắm trại 50% là 50% phải có mặt, và có mặt có nghĩa là phải ngủ lại tại Phi Đoàn, 1 hai giờ sáng ngài buồn buồn không ngủ được, lang thang ra đánh kẻng điểm danh là chuyện bình thường… Không có mặt lúc đó, kể cả trễ 15 phút thôi, lập tức hôm sau trình diện và lãnh ngay 30 ngày ăn ngủ tại Phi đoàn.

            Ngoài những tên be bé hạng ruồi như chúng tôi không đáng kể, nạn nhân còn gồm cả những ông TPC hạng nặng như Đ/úy Huỳnh Minh Thoại, sau này là Tr/tá PDT 716); chắc hẳn quý đàn anh cũng như đàn em, đêu biết, sau Mậu Thân, khoảng thời gian đó, cắm trại 100% là chuyện bình thường, bình thường đến nỗi ông Hùng Cường suốt ngày kếu réo: “…em ơi chiều nay một “chăm” phần “chăm”... em ơi chiều nay lại cắm “chại… dzồi”

            Và suốt những năm tháng quân ngũ từ Mậu Thân đến tháng Tư tan hàng, hình như Tân Sơn Nhứt chưa bao giờ có chuyện “xả trại chăm phần chăm”, sau này sống khoảng đời tị nạn đôi khi có gặp lại những xếp sòng hân hạnh ngồi chung bàn tiệc, thắc mắc đặt câu hỏi, thì quan to cười ha hả: “Đ.m. Ngu sao “toa”? các "toa" còn trẻ không nói, mấy tụi “mỏa” vợ con nó níu chặt, xả trại 100% để một tuần đủ 7 ngày bảy đêm “cơm nhà quà vợ sao toa?” … À ra thế!

            Cũng sau Mậu Thân, cuộc chiến đã bắt đầu sôi động, phi vụ huấn luyện rất hiếm hoi, chưa được xác định hành quân, Khương và tôi mỗi tháng làm Sĩ Quan Trực độ 2 ngày, bay bổng thì mỗi tháng 1 hay 2 phi vụ Huấn luyện khoảng… một tiếng rưỡi, thế thôi. Tất cả giờ còn lại, buổi sáng áo liền quần, súng dao, đạn lửa… đầy người, Khương Vespa Italy, tôi Lambret twist đưa “Em đi học” khi thì Lái Thiêu vào vườn ăn trái… cấm, lúc Thủ Đức “Nai Vàng Ngơ Ngác” uống môi em ngọt… cứ thế ngày lại ngày, và cũng cứ thế, đến tối mới về lại Phi đoàn để đúng tám giờ tối, điểm danh xong đi… chơi tiếp, ghé qua Pasteur làm tô phở chín gầu, ít bánh nhiều thịt, thường nhâm nhi đến nửa đêm, còi hụ giới nghiêm đợt 2 mới vào lại TSN, về Phi đoàn ngủ, hay chưa ngủ được, lại đánh bi da, chơi cờ tướng… đến ngày hôm sau.

            Tuy đã bắt đầu bận rộn, Không đoàn lúc này vẫn nghĩ đến thuộc cấp, vẫn giữ chuyện “Nghỉ mát hằng tháng” trong Chủ nhật tuần đó, nếu không có nhiệm vụ. Quân nhân KQ/KĐ 33 được ghi tên thân nhân, vợ con hay đào kép… sẽ có hoặc C-47 hay C-119, khi thì Nha Trang, lúc Đà Lạt, Côn Sơn, Phú Quốc tắm biển nghỉ mát… cứ thế ngày lại ngày, tuần lại tuần, những ngày tháng mới về, thật đẹp, chiến tranh với chúng tôi lúc ấy như vẫn còn xa vời…


            Hoài Phong

            https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

            Comment


            • Ba Trái Thúi

              Ba Trái Thúi
              Trần Ngọc Toàn



              Hình minh họa

              Giữa năm 1974, Tiểu Đoàn 4 TQLC được lệnh rời vùng biển Mỹ Thuỷ, Quảng Trị chuyển quân bàn giao vị trí phòng ngự ở vùng núi rừng ở phía Tây Quốc Lộ 1, dưới chân rặng Trường Sơn với căn cứ Hoả lực "Barbara" do TQLC Hoa Kỳ giao lại sau cuộc giao tranh đẫm máu giữa lực lượng Nhảy Dù và quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa Hè năm 1972, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị.

              Từ Quốc Lộ về phía Tây, những ngọn núi cỏ trọc, nằm nhấp nhô bên bờ Bắc sông Mỹ Chánh nối liền vào chân dãy núi Trường Sơn với rừng cây rậm rạp nay đã trơ trụi vì thuốc khai quang do quân đội Mỹ rải xuống để tránh bị địch xâm nhập đột kích, Tù căn cứ Hoả lực "Barbara" nhìn về hướng Tây là con đường dọ quân Cộng Sản mới khai mở sau năm 72 nằm vắt vẻo, uốn khúc nối liền trục xâm nhập với tên gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Ở đây, quân lính TQLC ngày và đêm nhìn từng đoàn xe chở lính và đại pháo của Cộng quân lũ lượt xuôi Nam, ngang nhiên dưới bóng tàng của Hiệp Định Đình Chiến Paris ký kết giữa Mỹ và Hànội năm 73.

              Người lính nào cũng biết sẽ còn ít nhất một trận đánh long trời lở đất nữa mới mong hết chiến tranh. Thuỹ Quân Lục Chiến là lực lượng Tổng Trừ Bị của miền Nam, trước đấy đã nhẩy vào các trận địa nóng bỏng trên khắp các mặt trận từ Mũi Cà Mau lên Pleiku, Kontum ra tận Bồng Sơn, Tam Quan, Huế, Quảng Trị, nay đã trở thành lính địa phương chống giữ phần đất địa đầu giới tuyến của Miền Nam.

              Ngày và đêm, ngoài các cuộc tuần tiễu, phục kích chống xâm nhập còn tự đặt ra các chương trình huấn luyện, thao dượt để luôn sẵn sàng ứng chiến. Việt Cộng cũng không ngừng luồn người vào trong các địa bàn hoạt động, móc nối sơ sở cũ và quấy rối trị an như pháo kích, gài mìn, bắn tỉa. Thậm chí, có khi chúng bất thần đánh thốc qua tuyến phòng ngự của TQLC để thăm dò. Quân Đoàn I lại càng chắc mẩm xin giữ giữ chân TQLC tại Quảng Trị để "bảo toàn lãnh thổ".

              Tuy vậy, công việc giữ đất dành cho TQLC ngày càng nhàm chán. Hầu hết quân lính vốn quê ở tận trong Nam. Mỗi ngày một chuyến bay liên lạc C. 130 của Không Quân cho người đi phép, tiếp tế, bổ sung cũng không đủ khoả lấp khoảng trống của người lính xa nhà. Được một tuần lễ sau, khi cuộc điều quân đã ổn định, một buổi chiều mưa dầm ở Quảng Trị, Thiếu Tá Nguyễn Tri Nam, Sĩ quan Hành quân của Tiểu Đoàn, nguyên xuất thân khoá 22 Võ Bị, đã mời vị Tiểu Đoàn trưởng vào ỏõ hầm hành quân ỏõ để tiếp chuyện với ỏõ Đại Bàng Thái Dương ỏõ. Thạch vừa chui ra khỏi cửa hầm ngủ vừa lẩm bẩm:

              - Không hiểu có chuyện gì nữa đây?

              Cái thằng "Thày Đồ tẩm ngẩm" này! "Đại Bàng Thái Dương" là Trung Tá Đỗ Hữu Tùng quyền Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 (LĐ147) TQLC. "Cái thằng Thày Đồ" là bạn cùng khoá Võ Bị với Thạch, ra trường về cùng đơn vị và trải qua cuộc chiến 10 năm nay lại gặp nhau. Tùng là cấp chỉ huy của Thạch.

              - Tuyên Đức tôi nghe Thái Dương.

              - Qua tần số cùi nhỏ, tao có chuyện muốn nói với mày.

              - Cùi nhỏ, năm trên năm. Dứt.

              Ở vùng hành quân, qua hệ thống máy liên lạc vô tuyến AN/PRC25, đám bạn cùng khoá Võ Bị của Thạch ở các đơn vị đã nghĩ ra hai hệ tần số liên lạc riêng dựa vào Khu Bưu Chính (KBC) 027 của Trường Võ Bị ngày xưa, cùi nhỏ là 4025 và cùi lớn là 4030. Thạch chuyển qua máy dự bị vặn cần vào tần số 4025.

              - Thái Dương đây Tuyên Đức.

              - Một chút nữa sẽ có trực thăng "Slick" vào đón mày ra ngoài này ăn tối chung với tao và thằng Tây Sơn. Có cả Kilô ở Saigon mới ra nữa.

              - Nhận rõ. Còn gì tiếp.

              - Gặp mày sau. Dứt.

              "Thằng Tây Sơn" là Trung Tá Nguyễn Đằng Tống, Lữ Đoàn phó LĐ 147 TQLC và cũng là bạn cùng khoá Võ Bị với Thạch, ra cùng đơn vị từ đầu năm 1963 đến nay. Tống, Tùng và Thạch là 3 Thiếu Uý vừa ngoài 20 tuổi, tốt nghiệp khoá 16 của Trường Võ Bị Đà Lạt, tình nguyện về TQLC sau ngày mãn khoá. Hai ngày sau khi trình diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC ở Thị Nghè, cả ba được phát quân trang rằn ri của TQLC, rồi được đưa thẳng ra bến Bạch Đằng xuống tầu Hải Quân HQ 401 để đáo nhậm đơn vị lúc ấy đang hành quân ở vùng Năm Căn, Cái Nước ở Cà Mau. Tống sinh sau Thạch một ngày ở tại Nha Trang, nên khi đổi sang số quân Hải Quân cả hai đã mang hai con số khít nhau là 701.162 và 701.163.

              Ông Cụ của Tống là một thâm nho, từ Quảng Nam vào Nha Trang để dạy học và sau đó được đổi vào Sàigòn làm cho Bộ Giáo Dục chuyên về cổ học Hán Nôm. Tống có khá đông anh chị em, vốn dòng dõi hoạt động yêu nước trong các Chi bộ Quốc Dân Đảng. Anh Chị của Tống khá lớn tuổi đã làm việc và dạy học, lập gia đình khi mẹ của Tống đã mất sớm. Sau Tống, còn có một cô em gái và một người em trai. Tống học ở trường Trung Học Võ Tánh tại Nha Trang. Sau khi đỗ Tú Tài, Tống đã tình nguyện vào trường Võ Bị. Khi tốt nghiệp vào cuối năm thứ 3, Tống là một trong mười người đứng đầu của một khoá với 226 sĩ quan ra trường.

              Với vóc người cao tầm thước, ứng biến nhanh lẹ và mau mồm mau miệng, Tống đã thành công trong việc lãnh đạo chỉ huy đơn vị từ một Trung đội trưởng với hơn 40 người lính lên đến một Tiểu Đoàn TQLC với quân số gần 900 tay súng thiện chiến. Năm 65, khi hành quân ở Điện Bàn, Quảng Nam, Tống bị trúng đạn vào bụng được chuyển về Quân Y Viện Qui Nhơn. Khi gặp lại Thạch, Tống kể: "Lúc tao bị trúng bụng, ngã xuống, không cục cựa gì được, chợt nhớ đến mày bị ba phát đạn ở Bình Giã còn bò mấy ngày mấy đêm được". Thạch bị đạn vào đùi và bắp chân. Còn viên đạn thứ ba cháy xém ngoài da ngực trái. Đạn vào bụng như Tống gây phá nguy hiểm hơn, thường dễ bị lưu huyết nội mà chết.

              Tống sống sót trở về trình diện Bộ Tư Lệnh lúc ấy đã dời về trại Lê Thánh Tôn, sau lưng bến Bạch Đằng. Thạch bị lõm thịt đùi ở Bình Giã nên được đi học khoá 3 Sĩ Quan Căn Bản Quân Cảnh ở Vũng Tàu rồi về làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 202 Quân Cảnh của Binh chủng TQLC. Trong lúc ấy còn dưỡng thương, Tống được vị Tiểu Đoàn trưởng cũ là Thiếu Tá Nguyễn Kiên Hùng, nguyên tham dự đảo chánh 11/11/60, thất bại chạy sang ẩn náu ở Cao Miên rồi trở về thay Thiếu Tá Lê Hằng Minh làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4TQLC. Thiếu Tá Hùng được bổ nhiệm ra làm Tỉnh Trưởng Nha Trang đã đem Tống theo, lúc ấy Tống còn là Trung Uý, ra làm Quận Trưởng Quận Ninh Hoà.

              Vốn là Sĩ quan Tác chiến kiên cường và liêm chính, Thiếu tá Hùng không ngồi lâu ở nơi "xôi thịt" đã bị trả lên Quân Đoàn II và sau đó ông xoay sở về làm Huấn Luyện Viên cho trường Chỉ Huy và Tham Mưu. Còn Tống từ đơn vị 2 Quản trị đã nhất quyết đòi về lại TQLC và cuối cùng được toại nguyện. Dù trên da bụng của Tống còn dấu vết con rết dài sau cuộc giải phẫu, Tống nói đùa với Thạch :

              "Bụng tao có cái Fermeture để lâu lâu mở ra coi". Hồi Tống đi làm Quận Trưởng ở Ninh Hoà, do quân số còn ở TQLC nên đã uỷ nhiệm cho Thạch hàng tháng đến phòng Quân lương lãnh tiền gửi ra cho Tống. Tống viết thư bảo: "Mỗi tháng tao cho mày một ngàn xài chơi, còn bao nhiêu gửi ra cho tao".

              Làm Quận Trưởng chỉ vài tháng với tuổi trẻ độc thân lại khẳng khái, Tống chẳng dư dả được bao nhiêu. Vốn tính gan lì và dũng lược, Tống cầm sự vụ lệnh đi Tiểu Đoàn TQLC trở lại làm Đại Đội Trưởng. Với các công trận lừng lẫy trên khắp các mặt trận từ Miền Tây ra Miền Đông lên đến Đức Cơ, Pleime, Tống đã từng bước lên cho đến ngày được bổ nhậm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/TQLC.

              Năm 68, Tiểu Đoàn của Tống đã vây bắt được 120 tên Việt Cộng xâm nhập vùng Ngã Ba Cây Thị, cầu Bình Lợi. Tống được đi học khoá Amphibious Warfare ở Quantico, Virginia, Hoa Kỳ rồi trở lại đơn vị hành quân tái chiếm Quảng Trị. Bị thương lần thứ hai, Tống được kéo về làm Chánh Văn Phòng cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC. Vẫn thích cười cợt, vui đùa, Tống bảo: "Bây giờ tao làm Skinman tức là gia nhân đó!". Người hùng coi thường tử sinh đó cuối cùng đã trở ra đơn vị tác chiến và làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/TQLC, lên cấp Trung Tá với Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương sau cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị năm 72.

              Lúc ba Thiếu Uý trẻ măng xuống tàu HQ.401 trực chỉ Cà Mau, leo lươí xuống tàu LCU đổ bộ lên Rạch Ông Năm với quân phục mới tinh chưa cắt chỉ, balô đời Pháp từ trường Võ Bị mang theo cồng kềnh đủ thứ trên lưng và hai bàn tay không, cúi đầu chạy theo đám lính TQLC râu tóc xồm xoàm, chiến phục bạc màu nước muối, đổ bộ lên bờ sông nhão nhoẹt sình lầy với rừng cây Đước, cây Mắm xoải rễ dài chằng chịt như muốn níu kéo đôi chân người lính vốn đã trơn trợt. Trình diện Đại Uý Bùi Thế Lân, Tiểu Đoàn Trưởng xong, cả ba được lãnh ba cây súng Shotgun với dây đạn như phim cao bồi và được phân ra đi theo Ba Đại Đội tác chiến để "quan sát".

              Nhờ đã trải qua khoá Rừng Núi Sình Lầy của Biệt Động Quân ở Dục Mỹ nên cả ba đều thích ứng nhanh chóng. Chấm dứt cuộc hành quân gần một tháng sau, đơn vị được rút trở về Hậu cứ ở Vũng Tầu.

              Ba người bạn lại càng khắng khít với nhau hơn, dù ở ba Đại Đội khác nhau, đi đâu cũng như hình với bóng.

              Khi được cấp giấy phép một tuần lễ, cả ba cùng rủ nhau đi chung xe đò về Sàigòn. Đầu tiên ghé thăm nhà ông Cụ của Tống đang ở trong một hẻm nhỏ bên Đakao. Gặp cô em gái của Tống là Trúc,
              Thạch đã ngã lòng. Trúc lúc ấy đang học ở Gia Long, vừa đẹp, vừa thuỳ mị, hiền. Về lại đơn vị, Thạch mới nói vài câu ý muốn xin bàn tay cô em gái của Tống. Tống đã giẫy nẫy la lối: "Thôi đi mày. Mày bê bối, chơi bời bừa bãi. Không được đâu!". Thạch không vừa đáp lại: "Từ hồi nào tới giờ, tao đi đâu cũng có mày mà, làm gì nói tao bê bối, chơi bời bừa bãi".

              Ở tuổi mới lớn, thấy cô gái đẹp nào cũng mê. Anh Chị lớn bận bịu gia đình riêng, nên Trúc vừa đi học vừa lo chăm sóc Cha già và đứa em trai không Mẹ. Còn Thạch lặn lội hành quân. Khi trở về hậu cứ nghỉ quân, bô ba Thạch, Tống và Tùng đi đâu cũng dắt díu nhau như anh em ruột thịt, luôn cả xóm Ngã Ba nước mắm ở Vũng Tàu.

              Đi ăn uống, nhảy đầm cả ba gom chung tiền túi giao cho một người giữ trả. Lúc lãnh tiền "rappel" Thiếu Uý được 7, 8 ngàn, Thạch và Tùng mua hai chiếc Vélo Solex để đèo nhau đi chơi chung. Có khi vào quán Càphê có người đẹp. Lúc lại thả rong theo chân mấy cô bé Trung học Vũng Tàu. Lúc nào Thạch cũng tỏ ra nhường nhịn hai bạn, nếu chỉ có hai người đẹp phải theo. Từ đó, mấy cô gái mới lớn ở Vũng Tàu mới đặt cho ba anh chàng Thiếu Uý nhỏ tuổi có tên cùng vần chữ T. là "Ba Trái Thúi" trong lúc ba chàng tự nhận mình là "Ba Chàng Ngự lâm Pháo Thủ".


              Hình minh họa

              Đỗ Hữu Tùng xuất thân trong gia đình gia giáo, đông anh em ở Đà Nẵng, lớn hơn Thạch và Tống, một tuổi, dáng vẻ thấp bé hơn nhưng thâm trầm, kín tiếng với nét đạo mạo "Cụ Non", nên bị hai người bạn đặt tên là "Thày Đồ". Tùng ít nói nhưng khi mở miệng thì tuôn ra câu cú văn hoa ý nghĩa thâm thuý. Lại còn có tật để bụng không thích nói ra. Khi cần chàng lôi cuốn sổ tay ra có ghi chép mọi "sự việc" đầy đủ, đâu ra đó. Với nước da ngăm ngăm, Tùng có nét mặt và dáng vẻ thư sinh hơn là võ biền, khoan thai và từ tốn. Mãi một năm sau, khi đến đơn vị, hai người bạn mới phát giác ra Tùng đã có người yêu từ hồi còn ở Trung học, khi nàng bất chợt ghé xuống Vũng Tàu.

              Người thiếu nữ tên Lan còn giữ nguyên dáng vẻ, giọng nói và cử chỉ của một cô gái Huế, dù lớn lên ở Đà Nẵng với Tùng. Hồi mới ra trường, sau cuộc hành quân "thử lửa" ở Cà Mau trở về, Tống và Tùng đều được các Đại Đội Trưởng lo chu đáo từ việc sắp xếp đặt phòng ngủ bên cư xá Sĩ Quan độc thân trước mặt doanh trại. Riêng Tùng có được một căn phòng riêng rẽ nằm kín đáo phía sau. Thấy Thạch chưa có chỗ tạm trú, Tùng rủ bạn cho ở cùng phòng. Tính Thạch lại bừa bãi, cẩu thả nên ngày nào nghỉ ở hậu cứ Tùng cũng lo dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ cho bạn. Thậm chí còn đi mua sắm khăn phủ giường, gối và mền cho Thạch "Đâu phải ra đó như hồi còn trong trường Võ Bị". Khi Lan đến thăm với quà cáp tươm tất và thức ăn, bánh trái đầy giỏ, Tùng chia phần cho hai bạn rất đồng đều và không quên nhắc khéo Thạch.

              - "Tối nay, mày có quyền ở nhà chị Ba Cây Dừa qua đêm được rồi".

              Chị Ba Cây Dừa nuôi nhiều em út. Có một em chừng 17, 18 tuổi tự khoe mình là tay đã tạt át xít vào mặt cô Cẩm Nhung là người tình của Trung Tá Trần Ngọc Thức năm 61, 62 gì đó. Sau lần gặp đầu tiên, cô nàng bảo Thạch: Anh không cần cưới em đâu. Chỉ khi nào hành quân về ghé ở lại với em là được rồi. Thế cũng đỡ phiền lòng và mất thì giờ theo tán tỉnh mấy cô học sinh Trung học trong trắng.

              Ở đơn vị tác chiến đâu biết số Ông chết ngày nào. Thạch vui vẻ đáp ứng ngay yêu cầu của Tùng trước cặp mắt dò hỏi của Lan. Đã thế, Tống còn bồi thêm một câu:

              - "Thằng này chỉ giỏi ăn chơi trác táng".

              Làm cho Lan càng thêm thắc mắc. Hết hy vọng "cua" em gái của Tống rồi. Lần sau hành quân trở về hậu cứ, Tùng vọt ngay về Sàigòn thăm bạn gái. Nên khi có lệnh cấp tốc đưa quân lên SàiGòn chống đảo chánh của Tướng Lâm Văn Phát chỉ có hai Đại đội của Thạch và Tống lên máy bay Air Viet Nam từ phi trường Vũng Tàu về Tân Sơn Nhất. Dù vậy, khi Tiểu Đoàn lên nằm ứng chiến ở Thị Nghè,
              Tùng cũng theo hai bạn đi ăn và đi nhảy đầm ở Tour D'Ivoire. Dưới thời Tổng Thống Diệm, lương Thiếu Uý khá dư dả đối với ba chàng tuổi trẻ độc thân.

              Chẳng bù sau này lên đến cấp Tá với phụ cấp này nọ cũng không dám ghé vào nhà hàng Tây. Do hành quân liên miên sau ngày đảo chính 1/11/63, "Ba Trái Thúi" dù có những ngày về nghỉ ở hậu cứ theo đuổi cô này, cô nọ nhưng chẳng đâu vào đâu cả. Cuối cùng chỉ ghé thăm chị Ba Cây Dừa rồi lại lên đường ra "biên ải".

              Ở mặt trận Bình Giã, khi Tùng được lệnh đem Đại Đội vào rừng cao su Quảng Giao tìm xác chiếc trực thăng và phi hành đoàn 4 người của Mỹ, Thạch và Tống lo lắng dặn dò bạn phải cẩn thận, Tùng bảo:

              - "Tin tức mấy ngày nay đã rõ là quân số Việt Cộng tập trung lên đến cả Trung Đoàn. Nếu tụi nó còn quanh quẩn tại đây, Đại Đội của tao vào là bị tụi nó nuốt chững. Lệnh của cấp trên ra là tao phải vào thôi" !

              Thạch nói như an ủi bạn:

              - "Thôi được, có gì tao với thằng Tống sẽ nhào vô ngay"!

              Chỉ một tiếng đồng hồ sau, Thạch đã nghe tiếng súng nổ ran ở phía Đông của làng Bình Giã, tức tốc ra lệnh cho Đại Đội của mình ra quân tiếp cứu sau khi đã gọi máy cho Tống bên Đại Đội 4. Cuối cùng, Tống và Tùng thoát về làng không hề hấn gì sau cuộc giao tranh đẫm máu trong vườn cao su Quảng Giao. Là Đại Đội tiến sâu vào vùng địch nhất, Thạch bị kẹt lại, bị thương với ba phát đạn trên người, bò xuyên rừng với khẩu AR15 trọn hai ngày ba đêm mới đến cổng làng Bình Giã. Trong khi ấy, Tống và Tùng gom quân phòng thủ chờ tiếp viện.

              Mỗi đêm, cả hai thắp nhang đứng ngoài trời cầu nguyện xin nếu Thạch có chết linh thiêng nằm ở đâu về báo cho bạn biết để lấy xác. Đến ngày thứ Ba, khi dẫn quân cùng với Tiểu Đoàn Nhảy Dù vào trận địa thu lượm xác quân bạn, Tống và Tùng đã gặp lại người bạn sống sót với hai vết thương đã thối rữa và chiến phục rách tã tơi.

              Từ đó, những biến đổi đã xảy ra theo thời gian. Ba người trôi nổi theo định mệnh, nhưng vẫn còn chung trong một binh chủng. Hễ có dịp họ lại tìm thăm nhau. Tình bạn ngày càng bền chặt, Tống bị thương hai lần, nhưng Tùng không một mảy may thương tích, rời Tiểu Đoàn 4 qua Tiểu Đoàn 5, rồi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6/TQLC. Vốn tính cẩn trọng, điềm đạm và kiên cường, Tùng nối dài bước đường hành quân suốt từ ngày ra trường với bao nhiêu chiến công tích luỹ và thăng cấp ngoài mặt trận từ Đại Uý lên đến Trung Tá.

              Năm 1972, khi hành quân tái chiếm Quảng Trị, Tiểu Đoàn của Tùng là một trong nỗ lực chính đã thanh toán tên địch cuối cùng để dựng lại lá Quốc Kỳ trên đỉnh Tháp Cổ Thành giữa cảnh khói lửa còn nồng nặc mịt mù. Trong cuộc khao quân mừng Chiến Thắng Quảng Trị tại Huế, Tùng đã gặp " KI LÔ" trong buổi tiệc khoản đãi. Lửa tình đã bùng cháy không có gì dập tắt được. "KiLô" đã nổi danh từ những dòng nhạc khắc khoải và lời ca như tiếng thơ của Trịnh Công Sơn. Người lính trận kiệt xuất Đỗ Hữu Tùng đang khát khao trong sâu kín niềm an ủi, vỗ về sau những ngày tháng dài ngụp lặn trong gió mưa bom đạn, khói lửa binh đao. Bất chấp hoàn cảnh nghiệt ngã, cả hai đã sôi nổi trong lửa tình nồng cháy.

              Tùng đã kết hôn với Lan từ sau ngày Lan tốt nghiệp và được làm việc ở Bệnh Viện Từ Dũ Sàigòn.Chẳng có đám cưới linh đình, vì từ năm 65, phép tắc ở đơn vị tác chiến như một món xa xỉ phẩm. Đứa con đầu long của Tùng ra đời khi người Cha đang lặn lội hành quân dẹp giặc Tết Mậu Thân từ Sàigòn, Chợ Lớn rồi ra đến Huế. Tùng cứ miệt mài hành quân. Sau này, khi gặp nhau lại ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, Tùng có nói với Thạch đã gặp Lan đang tình tứ với một Bác Sĩ trực Bệnh viện, khi Tùng bất chợt trở về sau cuộc hành quân ghé tìm Lan ở Từ Dũ, rồi im lặng bỏ về lại doanh trại của đơn vị.

              Sau khi bị thương được đưa về phục vụ ở hậu tuyến, Thạch lẽo đẽo theo chân hai người bạn qua nhiều chức vụ. Cho đến lúc du học từ Hoa Kỳ trở về, Thạch bướng bỉnh không chịu ở lại đàng sau làm Chánh Văn Phòng cho vị Tướng Tư Lệnh, cuối cùng đã chấp nhận trở ra đơn vị tác chiến, dù chân bị thương còn tập tễnh vì mất thịt đùi. Tống nói: "Thôi kệ nó. Bây giờ đang đình chiến, mày cứ ra nắm chức vu chỉ huy với tụi tao cho vui".

              Lúc ấy, trong binh chủng TQLC, đám bạn cùng khoá Võ Bị của Thạch có Tùng làm Quyền Lữ Đoàn Trưởng, Phúc giữ chức Lữ Đoàn Phó LĐ 258, Hiển nắm TĐ6, Kim ở TĐ 7, Để ở TĐ9, Sắt ở Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ, Cảnh coi TĐ3, Tống làm Lữ Đoàn Phó cho Tùng.

              Mỗi lần có buổi họp hành quân, bạn bè túm tụm lại với nhau vui vẻ như một đại gia đình. Cấp bậc gì không cần biết. Mày tao chi tớ um sùm. Tất cả thân thiết với nhau đến nỗi bên ngoài có dư luận chê bai đám sĩ quan khoá kỳ thị phân biệt Đà Lạt, Thủ Đức. Điều tiếng xấu ấy không khuất lấp được sự thực đã xảy ra ở các đơn vị do các sĩ quan này chỉ huy.

              Khi trời đã chạng vạng tối và sương mù lãng đãng dưới chân những ngọn núi cỏ trọc mấp mô quanh khu vực đóng quân của Bộ Chỉ Huy TĐ 4/TQLC, chiếc trực thăng từ hướng Đông tà tà đáp xuống trên đỉnh núi. Tiểu Đoàn Trưởng Thạch lom khom chạy ra leo lên hàng ghế vải phía sau lưng phi công. Chỉ trong vòng phút sau phi cơ đã đáp xuống Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay phía bên kia cầu Mỹ Chánh.

              Tùng đứng tười cười đón bạn rồi đưa vào căn hầm dựng bằng bao cát. Tùng cười mỉm nhìn bạn nói:

              - "Thằng Tống đang đấu láo trong đó. KíLô nói biết mày từ hồi còn ở ĐàLạt. Đúng không?".

              Thạch nhìn thấy hạnh phúc như bao trùm lên gương mặt của Bạn, gật đầu đáp:

              - Ừ, từ hồi ở La Tulipe Rouge trên ĐaLạt kìa. Lúc ấy KiLô chưa nổi tiếng.

              - Thôi được, nếu vậy tao khỏi giới thiệu.

              - Cô nàng ra hồi nào vậy.

              - Hôm qua. Theo máy bay của Không quân.

              Thạch suy nghĩ rồi ngập ngừng nhìn bạn, hỏi:

              - Thế chuyện mày với Lan ra sao ? Còn thằng con của mày nữa.

              Tùng im lặng không trả lời. Tính vẫn thế. Chỉ để bụng thôi.

              Mấy tháng sau Tùng bị mất chức vì khi về phép ở Sàigòn đã đụng chạm với người chồng cũ của Kilô, khiến báo Trắng Đen chạy tít lớn ngay trang đầu. Tùng âm thầm về làm Lữ Đoàn Phó cho bạn cùng khoá là Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Á Khoa của khoá 16 Võ Bị, xuất thân từ Tiểu Đoàn Trâu Điên. Cho đến ngày 29/3/75, cả Phúc và Tùng ngồi trên chiếc trực thăng di tản bị bắn rơi, đã đền nợ nước trong cảnh chết chóc tang thương của đồng đội.

              Tống lên làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 468/TQLC những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến kẹt lại với người vợ đang mang thai đứa con trai đầu lòng. Khi bị đưa ra một trại tù cải tạo ở Yên Bái, Tống đã bị vết thương cũ ở bụng làm độc, không được chữa trị đã vong mạng giữa rừng thiêng nước độc Thượng Du Miền Bắc Việt Nam. Người vợ trẻ của Tống đã lặn lội ra tận nơi hốt cốt hoả táng cho vào bình lọ mang theo tận Mỹ với đứa con Tống chưa hề gặp mặt.

              "Ba Trái Thúi" nay chỉ còn lại một mình Thạch lưu lạc xứ người, ôm mộng trở về quê hương vinh danh những người bạn chiến đấu đã nằm xuống cho đất nước, những đồng đội và chiến hữu đã ngã gục tức tủi cho cuộc chiến bảo vệ Miền Nam và đòi lại DANH DỰ cho những người đã cầm súng giữ quê hương ở Miền Nam.


              Trần Ngọc Toàn

              https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

              Comment


              • Nỗi Bất Hạnh Đời Tôi

                Nỗi Bất Hạnh Đời Tôi
                Thùy Nhiên



                Hình minh họa

                Đôi lời vào truyện: Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện H.O.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại California. Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22.2.1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa.

                Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi, khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đầy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại “Nỗi bất hạnh của đời tôi” một cách trung thực. Là ba của cháu tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả.

                Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc.

                ***

                Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v.v... một cách bí mật, ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tại bãi Đá Bạc, Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.

                Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.

                Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đầu đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giớ tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang. Giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.

                Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạn đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao công an địa phương “xử lý”. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: "Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi." Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.

                Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, châm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện. Khi thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở. Những đứa nhỏ cũng biết được những gì nguy hiểm sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động. Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ.

                Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm những bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.

                Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi), nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe.

                Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.

                Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau, khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.


                Hình minh họa

                Ngồi trong hầm tầu tối đen mà lòng tan nát, tôi trấn tĩnh mình bằng lới cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Ba mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giớ tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát.

                Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.

                Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng. Chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tầu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tầu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.

                Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứ giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo cuả tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.

                Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng đạp hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước (ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi). Trên biển giữa đêm đen, không có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may ra có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.

                Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi cảnh sát Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và trại Sikiw.

                Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa em mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.

                ***

                Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đánh thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.

                Mọi người chư kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đựng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã vĩnh biệt ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.

                Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.


                Hình minh họa

                Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, rồi mẹ con tức tưởi ra đi.

                Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát cũng lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng...

                Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì và em Đạt của con. Nó mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: "Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi”. Nói xong nó định bước xuống nước để đi. Dì cầm tay nó kéo lại: "Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với dì xin ngài ban phước”. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra miệng, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động. Vậy là người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi...

                Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Land. Dì theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.

                ***

                Ôi! Những biến cố đó trong đời tôi làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu. 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.

                Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn li biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao.

                “Biển xa sóng lớn dạt dào,
                nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi”.



                Thùy Nhiên

                https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                Comment


                • Những Chuyện Chưa Được Kể Ra

                  Những Chuyện Chưa Được Kể Ra
                  Lê Phi Ô

                  Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày… thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua… cằn cỗi.

                  Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi… Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại… trống vắng, cô đơn và nhiều… nuối tiếc!

                  Có nhân…! Cố nhân… xa rồi! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những lúc huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ…!!!

                  “Người ta đi lính mang lon,
                  Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”



                  Hình minh họa

                  Hạ Sĩ I Thí, hỏa đầu quân, cùng binh nhì Long đang khiêng cái chảo gang to tổ bố lên gần tới đỉnh đồi… bỗng ông nghiêng vai hất cái đòn gánh làm cái chảo vừa to vừa nặng rơi xuống đất nghe một cái… “bịch,” và B2 Long khiêng phía đàng trước suýt té ngửa theo cái chảo. Hạ Sĩ I Thí chửi thề: “Tiên sư cha thằng nào mới nói đó?” rồi ông quắc mắt nhì
                  n chầm chập vào mặt B1 Niên đang đi gần đó.

                  Ông chửi tiếp: “Mẹ… mày, mày mang chỉ mỗi cái ba-lô. Ngoài cái ba-lô, tao còn mang ruột tượng gạo và khiêng cái chảo nữa… Mệt thấy mẹ, mày không khiêng phụ… còn móc lò nữa hả thằng khốn kiếp?! … Lát nữa, tao đéo nấu cơm, cho tụi mày đói thấy mẹ tụi mày luôn!” Chửi xong, ông vất cái ba-lô đang mang xuống đất thật mạnh làm cái xoong cột trên ba-lô méo một bên.

                  B1 Niên nín khe. Nó không ngờ câu nói đùa đã khiến Hạ Sĩ I thí nổi cơn điên như vậy! Mà không điên sao được. Từ sáng đến giờ, Hạ Sĩ I Thí lu-bu với các vật dụng nhà bếp không có cả thì giờ ăn sáng, bụng đói còn phải khiêng cái chảo to nặng lên đồi cho kịp nấu cơm trưa cho cả đại đội… ăn. Mặc dù đã đổi phiên cho hai anh hỏa đầu quân khác khiên chảo rồi, nhưng vì… HS1 Thí lớn tuổi, người lại gầy nhom ốm yếu và lại còn leo đồi giữa trưa nắng cho nên ông mệt muốn… đứt hơi mà lại còn bị cái “thằng khốn nạn” chọc quê, không tức sao được!

                  Tối hôm đó, thằng Niên mon men lại gần HS1 Thí, ông Thí trừng mắt ngó nó như muốn đổ lửa. Thằng Niên ấp úng: “Bố, hồi trưa…” HS1 Thí giận dữ: “Bố cái con c…, ai cho mày gọi tao là bố. Mày mà còn giở trò chọc ghẹo nữa, tao phang cho cái xẻng chết mẹ bây giờ!” Thằng Niên thành khẩn: “Hồi trưa con lỡ nói chơi khiến bố giận, con xin bố tha lỗi cho con!” Nó ấp úng tiếp: “Bố đừng buồn con… nha bố!”

                  Vẻ mặt thằng Niên thành khẩn đến độ thiểu não. HS1 Thí có vẻ nguôi giận, ông nín thinh một hồi rồi đột nhiên ông thấy tủi thân, ông… khóc. Thằng Niên hoảng hốt, nó ôm chầm hai vai HS1 Thí và nó cũng khóc!

                  Lỗi này là do nơi ông đại đội trưởng. Mới đổi về, ông có ý tốt, chọn những người ốm yếu, lớn tuổi, và nhất là HS1 Thí cũng sắp giải ngũ vì lý do gia cảnh nên ông cho họ ở ban hỏa đầu vụ để đỡ phải hành quân, phục kích đêm,… Có lẽ ông nghĩ công việc này nhàn hạ, chỉ ngày hai buổi đi chợ nấu cơm, mà đâu dè cũng là gánh nặng mà ông không biết.

                  Người ta nói “quả báo nhỡn tiền” đôi khi cũng đúng. Ðơn vị tôi đột kích vào mật khu Việt Cộng. Bọn du kích bỏ chạy, chúng tôi tịch thâu được vài khẩu Carbine, súng Mas. 36, 3 bao gạo, vài chục ký cá khô và cá hộp, v.v… B1 Niên tịch thu được một cái thau nhôm thật lớn, định bụng sẽ tặng ban hỏa đầu vụ, có lẽ tặng HS1 Thí thì đúng hơn.

                  Nó ôm cái thau trước bụng. Khi di chuyển người đi trước chạm vào nhánh cây thấp và nhánh cây bật ngược đập vào cái thau nghe leng keng. Trung đội trưởng bảo nó úp cái thau vào phía sau đít mà đi, tránh gây tiếng động kẻo bọn Việt Cộng sẽ nghe thấy. Lúc leo dốc, không hiểu B1 Niên trợt chân thế nào mà lại té ngồi lên cái thau… và cứ thế, cái thau như một vật trượt tuyết chở nó lao xuống đồi thật nhanh, va vào hết cây này đến cây kia, các nhánh cây thì quất vào thau, vào người nó tơi tả. Mọi người cố chạy theo cứu nó nhưng không kịp. May sao, một bụi gai tre chận nó lại… cái thau thì móp méo và thủng cả đáy, đít thằng Niên bị trầy trụa rướm máu, còn cái mỏ nó thì bị so le vì bị cây đập vào môi trên sưng vù. Nếu không có bụi gai tre cản lại có lẽ cái thau đã lôi tuột nó xuống đường thông thủy đầy đá lởm chởm thì chỉ có chết hoặc ít ra cũng gãy tay gãy chân. Mọi người vừa thương hại vừa tức cười. Thật đáng đời cái thằng hay nghịch ngợm, hay chọc phá người này đến người nọ. Một người nói:


                  Hình minh họa
                  “Ðúng là người gian mắc nạn!”

                  Chưa hết…

                  Cạnh đồn có nhà ông Năm Giáp. Ông có hai đứa con trai lớn đều đi lính ở xa, ở nhà chỉ còn hai vợ chồng già và cô con gái út. Cô Thơm vừa tròn 17 tuổi trông rất… mát mắt. Mấy ông lính nhà ta, nhất là… mấy ông nhóc quân dịch tuổi chừng 19, 20 thường lân la đến nhà cô Thơm thăm… hai bác!

                  Thằng Long là một trong đám lính đó. Nó “lết bánh” vì cô Thơm. Ngày nào không ghé qua nhà ông Năm Giáp là ngày đó nó thẫn thờ như người mất hồn. Nó thường khoe với bạn là nó thương cô Thơm lắm, thương cũng bằng thương má nó ở nhà và cô Thơm cũng thương… nó nữa! Bất cứ một tân binh nào mới đổi về nó cũng rủ ra nhà cô Thơm… thăm ông bà Năm.

                  Một hôm, nó vừa bước ra sau vườn thì thấy cô Thơm đang hái me, vừa nhảy cao vừa lấy cây đập nhưng cô Thơm vẫn không làm sao hái được me. Thấy thế, thằng Long nhào tới giúp liền. Nó ấp úng:

                  “Thơm để đó, tôi… hái ‘giùm’ cho” và nó nhanh nhẹn cởi giày, cởi quần trận ra, leo một thoáng là đã ngồi trên cháng ba của cây me.

                  Nó đứng trên một nhánh lớn, tay trái vịn vào một nhánh khác, tay phải với tìm những trái me “giốt,” loại me gần chín, hái lia lịa và liệng xuống cho cô Thơm lượm.

                  Nhưng… khi nhìn xuống thì không thấy cô Thơm đâu cả! Nó hỏi thằng bạn đứng dưới gốc: “Ê, Xuân! Thơm đâu rồi?” Thằng Xuân trả lời: “Ði rồi!” Thằng Long ngạc nhiên: “Ủa! Ði đâu vậy?” Thằng Xuân ái ngại: “Tao không biết, nhưng chắc đi luôn rồi. Thôi… xuống đi.”

                  Nghe Xuân nói vậy, Long vội tuột xuống, mắt nhìn dáo dác: “Sao bỏ đi đâu vậy?” Thằng Xuân thấy tội nghiệp bạn mình: “Gặp tao, tao cũng đi nữa là… cô Thơm.” Thằng Long chưa hiểu, lẩm bẩm: “Sao bỏ đi vậy cà!?” Giọng thằng Xuân trở nên gắt gỏng: “Mầy là cái thằng cà chớn! Leo cao hái me mà lại mặc quần xà lỏn, cái quần… rộng rinh. Cô Thơm đứng dưới nhìn lên thấy mẹ nó… hết rồi!” Thằng Long lại vẫn chưa hiểu: “Thấy cái gì?” Tức quá, Xuân nói như gây lộn: “Thấy trái me… của mầy chứ thấy gì!” Lúc nầy, thằng Long mới hiểu, nó sượng chín người, mặt đỏ bừng lên nhưng cặp mắt thì như đứng tròng. Nó lúng ta lúng túng trông thật tội nghiệp, rồi bất thần nó nhắm hướng đồn đi nhanh như chạy, làm thằng Xuân chạy theo muốn hụt hơi.

                  Từ đó, cô Thơm tránh mặt nó. Mỗi lần đi chợ, ngang qua cổng đồn thì cô Thơm đi vòng ra sau dãy nhà đối diện đồn để khỏi đụng mặt thằng Long. Và thằng Long thì không dám đến nhà ông Năm Giáp nữa… Mỗi khi bất chợt thấy bóng dáng một người con gái xa xa là nó vội tránh mặt liền vì sợ phải gặp mặt cô Thơm. Cũng từ đó, suốt ngày nó lẩn quẩn trong sân đồn, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn về hướng nhà cô Thơm, buông những tràng thở dài nghe mà đứt… ruột. Và cũng từ đó, hai người xa nhau, xa nhau chỉ vì một lý do… thật lãng nhách!

                  Rồi…

                  Ðơn vị tôi di chuyển vào trong rừng để truy lùng một đơn vị địch quân cấp tiểu đoàn mà cách đây hai ngày chúng đã phục kích quân ta tại khu vực cầu Lăng Quăng, ranh giới của xã Vỏ Xu, Hoài Ðức, và xã Duy Cần thuộc quân Tánh Linh, Bình Tuy, gây thiệt hại trung bình cho ta, trong đó có hai sĩ quan bị tử thương là Ðại Úy Hiếu, Chi Khu Phó CK Tánh Linh, và Ðại Úy Khải, Ðại Ðội Trưởng ÐÐ.720/ ÐPQ.

                  Khoảng 9 giờ sáng, đang di chuyển thì bỗng nhiên cánh quân phía trước khựng lại, tôi chụp ống liên hợp từ tay âm thoại viên hỏi cánh quân đi đầu: “Một… Trung Hiếu… gọi.” (Im lặng vô tuyến). Tôi gọi tiếp… cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi lại gọi với giọng gắt gỏng: “Trung Hiếu gọi Một nghe rõ không, nói đi.” Vẫn im lặng, tôi điên tiết… phóng vội lên phía trước định đập anh âm thoại viên Trung Ðội 1 một trận, vì đối với đơn vị tác chiến nhất là đang di chuyển trong vùng có địch thì sự liên lạc vô cùng quan trọng, gọi chưa dứt lời là phải có sự đáp trả tức khắc.

                  Vừa được mấy bước thì thấy vài anh lính chạy ngược lại, mặt mày hơ hãi… Tôi ngạc nhiên! Lại một tốp lính nữa chạy ngược về phía sau và mặt mày người nào cũng có vẻ hốt hoảng, tôi quát khẽ: “Ðứng lại, cái gì đó?” Họ không trả lời mà còn chạy nhanh hơn. Thật là quái đản!? Tôi chưa kịp hỏi tại sao thì cả đám lính phía trước ùa chạy ngược lại phía sau… mặt họ trông càng khiếp đảm hơn! Lập tức, tôi cho dàn đội hình tác chiến.

                  Chuẩn Úy Minh, Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1, đi đầu, tay ôm mặt, tay vịn nón sắt chạy vụt qua mặt tôi ngược chiều. Tôi vói tay chụp cái ba-lô kéo giựt Chuẩn Úy Minh lại và nói như thét: “Ðứng lại! Tại sao chạy?” Chuẩn Úy Minh không nói mà lại đưa một ngón tay chỉ về phía sau lưng hướng lên trời và lại bỏ chạy thật nhanh.

                  Tôi quá đỗi kinh ngạc! Cái gì làm cho họ sợ đến như vậy?! Nếu gặp Việt Cộng thì họ nổ súng, đàng này… hoàn toàn không có một tiếng súng nào cả! Hay họ gặp thú dữ? Ðiều này cũng không đúng vì rừng này làm gì có cọp beo, chỉ có voi thôi. Nhưng lính tráng súng ống đầy trời như vậy thì cả trăm con voi đi nữa cũng đâu có thể làm họ sợ đến như vậy!? Hay là họ gặp… ma? hoặc gặp… quỷ gì đó?!

                  Nhưng quỷ ma thì chỉ sợ lính chứ lính làm gì sợ ma quỷ!!! Và cứ thế, cả đoàn quân âm thầm bỏ chạy gần hết. Phía trước tôi… bỏ chạy, phía sau tôi… bỏ chạy, chính giữa… ngay cả anh truyền tin mang máy cho tôi cũng… bỏ chạy! Tôi bắt đầu rúng động bởi hiện tượng kỳ quái này mà chỉ có trong sách kiếm hiệp của Kim Dung may ra mới có… Thì, một cái gì, một vật gì thì đúng hơn, nhỏ cỡ ngón tay,… Không phải một mà… là hai, rồi … ba, chạm mạnh vào má, vào trán tôi đau đến nhảy dựng lên và nước mắt, nước mũi tôi túa ra… Tôi chợt hiểu và bây giờ thì tới phiên tôi… bỏ chạy!!!

                  Thì ra thằng ôn dịch nào đi đầu… không biết mắt mũi để ở đâu mà nó lại lủi nhằm phải ổ ong vò-vẽ. Lũ ong giật mình hốt hoảng bay túa ra và khi nhận diện được… kẻ thù, bọn chúng xông vào tấn công tới tấp. Khổ nỗi là cánh quân của tôi lại quàng khăn đỏ. Trong rừng, màu đỏ tương phản với màu xanh của cây lá nên bọn ong thấy rất rõ “kẻ thù” nên tấn công rất chính xác. Chạy tới đâu, bọn chúng rượt theo tới đó. Có người bị chích rồi… con khác lại bu vào chích tiếp… quyết không tha.

                  Ðang chạy trối chết thì có ai đó la lớn: “Liệng trái khói… Liệng trái khói!” thế là đủ các màu vàng, đỏ, tím,… tuông ra mù mịt… Lính tráng lớp bị ong chích, lớp bị hít phải khói màu ho sặc sụa, rên hù hù, trong đó có tôi! Nhưng tất cả phải gồng mình ráng chịu… vì ra khỏi vùng có khói thì sợ ong chích. Khói màu làm lũ ong sợ hãi, chúng không dám đáp xuống tấn công nữa mà lại bay tít tận ngọn cây, quầng qua quầng lại cả ngàn con trông thấy phát ớn lạnh. Tôi từng xem phim The Longest Day… cảnh máy bay đồng minh tấn công quân Ðức tại mặt trận Normandi nhưng vẫn còn thua xa đám máy bay… ong này.

                  Chưa hết! Trong khi anh em liệng khói màu để cản bầy ong thì… một ông tân binh đứng cạnh tôi hoảng hốt, đưa tay lôi trái lựu đạn đeo nơi dây ba-chạc phía trước ngực định rút chốt, may mà tôi nhìn thấy và ngăn cản kịp lúc nếu không thì… chắc chết cả đám. Vì, thấy người ta liệng khói màu, ổng cũng tưởng là ổng có… khói màu!

                  Coi như cuộc hành quân… thất bại! Cánh quân trên trăm người chạy tán loạn trong rừng và lạc nhau gần hết. Tới 4 giờ chiều tối chỉ gom lại được phân nửa. (Ong vò-vẽ thường làm ổ ở các lùm bụi thấp chứ không làm trên cao như loại ong mật.)

                  Ðịnh bắn súng gọi những người đi lạc nhưng lại sợ lộ mục tiêu cuộc hành quân nên tôi gọi pháo binh xin bắn đạn khói. Ðài tác xạ gọi tôi xin cho tọa độ, tôi bảo: “Bắn đâu cũng được… không cần tọa độ!” Họ tưởng tôi điên nên không chịu bắn. Tôi gọi tiếp, họ trả lời là… Họ chưa bao giờ gặp một đơn vị hành quân nào xin bắn pháo binh mà không cho biết… tọa độ! Nghe họ nói, tôi hơi bị “quê” một phút, và tôi bắt đầu giải thích… Văng vẳng trong máy, nhiều chuỗi cười rộ làm tôi thấy “quê” thêm. Thực ra, tôi chỉ muốn anh em chạy lạc trong rừng họ nghe được tiếng súng đại bác 105 ly depart họ sẽ biết hướng chi khu nằm ở đâu để họ tìm đường về. Thế thôi.

                  Người tôi mệt lả vì cả ngày chẳng có hột cơm vì còn phải lo chạy giặc… ong, phần bị ong chích bắt đầu lên cơn sốt. Loại ong này độ 20 con thôi… chích vào một con trâu thì trâu cũng chết huống chi là con người. Cả đoàn quân khi ra đi thì… Trời nghiêng Ðất lở… bây giờ thì chỉ còn lại một đám bại xụi, đứa thì rên, đứa thì khóc hu… hu vì đau nhức quá không chịu nổi!

                  Ðêm đó, bệnh viện Quân Dân Y đầy ắp người. Cả hàng trăm người tụ tập ở đó, vừa lính… “bại trận,” vừa thân nhân của họ. Có điều khác lạ là thân nhân không khóc, không kể lể rên rỉ như những lần lính được tải thương từ mặt trận, mà lần này… lính càng rên thì thân nhân, cười rất… vui vẻ, cười rất sảng khoái. Kiểm điểm lại, có bảy ông “bại binh” phải chở vào Tổng Y Viện Cộng Hòa, hơn 20 chục ông phải nằm lại bệnh viện Quân Y để điều trị tiếp, còn lại bao nhiêu trở về hậu cứ để cho y-tá tiểu đoàn chăm sóc.

                  ***

                  Ðã 32 năm trôi qua… kể từ tháng 4, 1975 mà nỗi đau thương, bất hạnh đã đổ chụp xuống đất nước và trên đầu dân tộc chúng ta. Cho dù có còn kéo dài bao lâu đi nữa… tôi vẫn không bao giờ quên được những năm tháng tuổi trẻ trong đời, những tháng năm mà tôi đã sống cho lý tưởng, cho tình yêu và cho những nồng ấm trong tình chiến hữu, cho đời lính buồn nhiều hơn vui và đầy bất trắc.

                  Mỗi tháng 4 về là thời gian làm cho hoài niệm trong tôi bùng lên mãnh liệt nhất. Tôi nhớ bạn bè tôi, tôi nhớ đồng đội tôi, và tôi cũng thấy nhớ chiến trường xưa loang lửa đạn. Những chuyện tôi kể trong bài này là những đặc điểm của từng người làm tôi không bao giờ quên họ được. Ðã 32 năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi mới kể ra, kể ra để san sẻ, để vơi bớt trĩu nặng tâm tư và cũng để… biết đâu, tôi sẽ không còn dịp để kể.

                  Tôi không muốn kể những chuyện vui nhất là trong Tháng Tư Ðen, đối với tôi đây là những chuyện buồn… Vì những người tôi vừa đề cập đến… họ đã không còn nữa! Họ đã ra đi vĩnh viễn vào một thế giới nào xa xăm khác với thế giới chúng ta đang sống, và… tất cả những người này đã gục ngã vì đạn thù trên bước đường lui binh trong trận chiến Võ Ðắc tháng 3 năm 1975!


                  Lê Phi Ô

                  https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                  Comment


                  • Con Bướm Đen

                    Con Bướm Đen
                    Bút ký của ông Nguyễn Quang Thành
                    Nguyên Giáo sư trường nữ trung học Đà Nẵng



                    Hình minh họa

                    Lời người viết:

                    -Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

                    -Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng, và anh Đan Hoài Bửu (Phượng Hoàng Kim Cương), nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.

                    -Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com.

                    Xin đa tạ.


                    Gia đình tôi ít anh em. Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém anh tôi đúng một con giáp.

                    Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì thế chúng tôi đều học ban khoa học toán và tình nguyện gia nhập quân đội sau khi đậu tú tài toàn phần:

                    “Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
                    Nợ tang bồng vay trả, trả vay
                    Chí làm trai, nam bắc đông tây
                    Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”



                    Hình minh họa

                    Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.

                    Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà Lạt trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất ( lớp 12 ) tại trường Quốc Học, Huế.

                    Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà mình mơ ước.

                    Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).

                    Anh tôi du học tại Hoa Kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.

                    Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.

                    Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:

                    “Người ơi, gặp gỡ làm chi
                    Trăm năm biết có duyên gì hay không”


                    Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị M.T. như một định mệnh đã an bài.

                    Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định.

                    Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.

                    Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân Sơn Nhứt, sau đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên Hòa.

                    Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi (sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh học ĐHLK).

                    Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.

                    Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:

                    “Đời phi công có mấy người chung thủy
                    Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”


                    Hay một lá thư khác:

                    “Oublie, c’est le nom d’une fleur
                    N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
                    ( Xin người giữ lấy hoa quên
                    Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm )


                    Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc trong những phi vụ đặc biệt.

                    Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.

                    Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.

                    Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.


                    Hình minh họa

                    Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã đáp bụng an toàn.

                    Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng Trị, chiếc phản lực cơ A 37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà Nẵng an toàn.

                    Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A 37 bị bắn rơi tại Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi công phản lực đó chính là anh tôi.

                    Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.

                    Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương, cô đơn và giá lạnh:

                    “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
                    Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
                    Chinh phu, tử sĩ mấy người
                    Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”


                    Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp hối.

                    Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.

                    Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.

                    Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.

                    Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn Trà.

                    Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.

                    Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra khơi.

                    Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.

                    Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa Kỳ.

                    Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh xuống sàn tàu.

                    Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

                    Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.

                    Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi nhà.

                    Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào.

                    Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:

                    “Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
                    Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời
                    ...
                    ...
                    Người phi công giữ khung trời
                    Vẫn còn mang số phận con người”


                    Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.

                    Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.

                    Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ bó tay trở về.

                    Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.

                    Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ Sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.

                    Sáng hôm sau về lại Tam Kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.

                    Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.


                    Nguyễn Quang Thành

                    https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                    Comment


                    • Người Chiến Sĩ VNCH - Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến

                      Người Chiến Sĩ VNCH - Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến
                      Những Người Lính Không Quân VNCH



                      Hình minh họa

                      Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

                      1- Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không Lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Sài Gòn để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ. Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng Lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng Ðông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29 Tháng Tư, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

                      Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 Tháng Tư, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Sài Gòn. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh.”

                      2- Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314): Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến Đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 Tháng Tư, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 Tháng Tư, Tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Sài Gòn. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy Dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Sài Gòn từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Sài Gòn. Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, Tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 Tháng Tư, ở Vùng 1 và Vùng 2, và trong những trận rút bỏ khác).

                      Những người lính chiến đấu này không có… radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết Tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hy vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng Sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng Sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ ngã tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng… bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.

                      Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Sài Gòn qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhảy Dù án ngữ. Quân Nhảy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Sài Gòn. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Sài Gòn theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 Tháng Tư, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Sài Gòn. Tất cả hai cánh quân Việt Cộng đều khựng lại.

                      Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho Tướng Lâm Văn Phát, Thiếu Tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

                      Một câu chuyện khác do Tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt Thiếu tướng,” rồi rút súng bắn vào đầu tự tử. Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, Tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó Tướng Ba Hồng mời Tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Sài Gòn. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (Tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 Tháng Mười, 1998).

                      Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 Tháng Tư. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…

                      3- Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 Tháng Năm, 1975: Bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận.

                      Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn.”

                      4- Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy: Đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 Tháng Tư, 1975. Thứ Hai, 28 Tháng Tư, 1975, Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”

                      Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Sài Gòn, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với Tướng Minh.

                      Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”

                      Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…”

                      Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Sài Gòn vào lúc 5 giờ chiều.Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của Đại Tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Sài Gòn. Một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, Đại Tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…”
                      Darcourt cho biết Đại Tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.


                      (Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)

                      Nguoi-Viet.com

                      https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                      Comment


                      • Những Xác Chết Trên Mảnh Đất Hình Cong Chử "S"

                        Những Xác Chết Trên Mảnh Đất Hình Cong Chử "S"
                        J.Nguyễn



                        Hình minh họa

                        Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 25 tháng 6 năm 1975, đoàn xe chở chúng tôi đến Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ; đã có một số anh em đến trước đứng trong hàng rào vẫy tay chào đón chúng tôi. Ngoài sân rất đông du kích, công an lăm le những cây súng AK.47, M.16 (USA) trên tay, làm hàng rào bao quanh, la hét bảo chúng tôi phải ngồi tại chỗ theo 4 hàng dọc. Tiếp theo cứ 4 người lên một lượt để các công an bắt đầu khám xét các đồ dùng cá nhân chúng tôi đem theo, những con dao nhỏ, những cái nĩa, những vật dụng bằng sắt có mũi nhọn đều bị tịch thu.

                        Buồng ngủ là những dãy nhà tôn dài, bên trong có sạp ván, mỗi người được chia 7 tấc vừa đủ cho một chiếc chiếu nhỏ. Tính đến ngày vào tù tôi chưa đầy 24 tuổi. Với lứa tuổi đầy hào khí nầy, trước 30-4-75 đã một thời oanh liệt, băng suối vượt rừng, có những người đã tung mây lướt gió, vượt trùng dương, hiên ngang chiến đấu trên 4 vùng chiến thuật, xem thân mình tựa lông hồng, quyết tâm bảo vệ quê hương.

                        Nhưng hôm nay khí phách đó còn đâu! Một kẻ bại trận, một người hàng binh, thân xác này dành cho kẻ thắng trận dày xéo, thống trị???

                        Bắt đầu nhập cuộc một trò chơi mới, chúng tôi nhận được một thông điệp mà trong xã hội loài người văn minh chúng ta chưa từng nghe bao giờ. Thông điệp mà người Cộng Sản phát ra ở đây bằng những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ, với bản chất đầy hằn học, hận thù, những câu nói không văn hóa, tục tĩu và đầy sát khí. Cộng sản là kẻ chiến thắng nhưng họ vẫn sợ : Cái mặc cảm vì ngỡ ngàng vì miền Nam quá phồn vinh! Họ so sánh vì miền Nam tiến bộ hơn miền Bắc gấp trăm lần! Họ tính toán làm sao và bằng cách nào để vào miền Nam vơ vét của cải đem về miền Bắc. Họ bóp trán suy nghĩ, tính toán nát óc bằng mọi cách phải làm cho được, nếu rủi thay cho người nào đó trong khi ngược về Bắc mà không mang được số của cải nào, trước hết làm sao ăn nói được với “người cha già dân tộc Hồ chí Minh, ông nội Lenine, ông tổ Karl Marx”, sau đó làm sao ăn nói với đảng Cộng sản Việt Nam trong 30 năm đã dày công tuyên truyền, cổ võ, dạy dỗ và làm sao ăn nói với tổ tiên ông bà đã chết, với đại gia đình, thân tộc, xóm làng.

                        Đời sống của chúng tôi giờ đây bị thu hẹp lại, bị trói chặt lại, không có quyền mở. Những sinh hoạt, những bước đi, những tiếng nói, những tiếng cười, những hơi thở, những ánh mắt và cả không gian xung quanh chúng tôi đều bị gò bó và giám sát. Điều chúng tôi biết rất rõ ràng là chúng tôi bị tước đoạt mất quyền làm người, quyền tín ngưỡng, quyền thờ cúng ông bà tổ tiên, thậm chí đến cả những người đã chết, thân xác cũng không được nằm yên dưới lòng đất vì bị người Cộng Sản cày xới, vung vãi như tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nghĩa trang Quân Đội (VNCH) Biên Hòa. Chúng tôi bị tước đoạt bớt khẩu phần ăn, bị khâu hẹp lỗ miệng, may nhỏ cái bao tử. Ba giác quan cần phải khép kín: không nghe, không thấy, không biết, mới mong còn sống sót trong những trại lao tù của Cộng sản vô thời hạn này. Giờ đây đời sống của chúng tôi như những con thiêu thân bay quanh bếp lửa.

                        Cuộc Cách Mạng tháng 10 năm 1917 ở Nga, hàng triệu triệu người bị đày đến miền cực lạnh Sibéria. Họ đã bị chết mòn trong miền hoang vu băng giá này.

                        Sau năm 1945, gần 50 triệu người ở Trung Quốc bị chết vì bị trả thù và đói khát.

                        Ở Việt Nam sau năm 1954, hàng triệu người cũng đã bị chết vì bị đấu tố trong chiến dịch cải cách ruộng đất và đói khát.

                        Và ở miền Nam Việt Nam sau 30-4-75, tập đoàn cộng sản Hà Nội tiếp tục cuộc thanh trừng những thành phần đối kháng. Những sĩ quan quân đội, cảnh sát, những viên chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đều bị tập trung vào các trại lao động khổ sai, được ngụy trang dưới hình thức “trại cải tạo”. Người Cộng sản đã la to hét lớn, gầm thét giống như những tiếng thú dữ giữa rừng hoang. Họ vung tay la lớn :

                        Giết! Giết! Giết! Giết sạch! Giết lầm hơn bỏ sót! Giết cho máu chảy thành sông,cho xác chất thành núi như Lénine đã nói: Chỉ có bạo lực và họng súng mới đem lại được hòa bình!

                        Những ngày tháng đầu, chúng tôi còn nếm được mùi vị của cơm trắng, nước mắm và cá khô nướng, lấp lửng được phần nào cái bao tử.

                        Những ngày tháng kế tiếp từ tiêu chuẩn 3 chén cơm mỗi bữa ăn xuống còn 2 chén, rồi còn một chén. Đến tháng thứ tư, thay vì một chén cơm trắng thì được một chén bo bo, nên phải nhai lâu hơn và được no bụng lâu hơn vì nhờ vỏ bo bo không bao giờ tiêu. Chúng tôi thường nhặt những phần gốc rau muống đã bị “anh nuôi” vứt bỏ trong sọt rác, rửa sạch, chẻ làm hai ngâm với nước muối và nước vo bo bo trong những thùng đạn M.16, có thể lấy từ các kho hợp tác xã trong huyện.

                        Từ ngày ăn bo bo trở về sau, chúng tôi không còn được thưởng thức mùi cá nướng và nước mắm nữa, thay vào đó là nước muối nấu pha trà để có màu đỏ như nước mắm thật, thỉnh thoảng trong tuần có vài bữa rau muống luộc hay củ cải trắng nấu canh. Xen kẽ vào các bữa ăn mì lát, nhà bếp làm bánh trôi nước bằng bột khoai mì được lấy từ các kho mì lát hợp tác xã. Loại bột này có các con mọt đục khoét từ các lát khoai mì rớt ra; bột và mọt lẫn lộn với nhau, đôi khi còn có cả đất cát nữa, nên bánh sau khi đã được luộc chín trở thành màu xám của mọt.

                        Mỗi trưa và tối mỗi người được lãnh một cái, còn buổi sáng chỉ được nửa cái mà thôi. Loại bánh này nếu để sau 15 phút trở thành khô cứng và có thể ném chết con chó.

                        Một loại bánh mà chúng tôi chưa từng thấy trong xã hội miền Nam trước đây, vì thế chúng tôi gọi đó là “BÁNH XE LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI”.

                        Những ngày tháng cuối năm 1975, chúng tôi vừa lao động vừa học tập chính trị do Ba Kiều và Ba Ý hướng dẫn. Một tuần, hai tuần rồi ba tuần cũng quanh quẩn những đề tài:”Cách mạng thành công, đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, các anh là tội đồ của nhân dân, đảng Cộng sản là đỉnh cao trí tuệ..”

                        Tất cả toàn là những sáo ngữ, tiếng nói của loài vẹt, người trước nói người sau sao y bản chánh, nhưng có một điều mà Ba Kiều nói đúng “Mỹ buông ra để nắm lại”.

                        Hầu hết các trại tù nào cũng vậy, ban giám thị bắt chúng tôi viết đi, viết lại tờ khai lý lịch và quá trình hoạt động nhiều lần. Mục đích của họ là muốn làm cho chúng tôi rối loạn tinh thần, lo sợ để kê khai nhiều “tội lỗi của mình”. Họ bảo chúng tôi phải “thành thật khai báo và học tập tốt để sớm được sự khoan hồng của nhân dân.” Nhưng họ đã lầm và đánh giá quá thấp sự hiểu biết của các sĩ quan, viên chức của VNCH. Trong những ngày “học tập và thảo luận” những đề tài chính trị, có nhiều anh em chúng tôi hiên ngang nói lên lập trường của chế độ VNCH trước đây và còn trưng dẫn những tội ác của Cộng sản đã gây ra trong suốt 21 năm từ 1954 đến 1975. Như “cuộc tổng công kích và nổi dậy” của Cộng sản vào mùa xuân Mậu Thân 1968 trên toàn lãnh thổ miền Nam, quân Cộng sản đã giết hại biết bao nhiêu dân lành vô tội. Riêng tại thành phố Huế sau 24 ngày đêm chiếm giữ, Cộng sản đã giết và chôn sống gần sáu ngàn người trong những hầm chôn tập thể gồm các binh sĩ, Cảnh Sát, Viên chức chính quyền VNCH và dân chúng thuộc thành phần đối kháng lại họ (CS), trong đó có những ông già bà lão, trẻ con, thậm chí những phụ nữ đã mang thai họ cũng không tha.

                        Trong quá khứ họ đã đốt bao nhiêu làng xã, trại định cư và còn pháo kích bừa bãi vào các trường học giết hại trẻ thơ vô tội.

                        Trại K.4 Long Khánh gồm hai khu vực, khu vực A bằm tại BCH. Cảnh sát Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ, khu B tại trại gia binh của trung tâm yểm trợ tiếp vận cũ (VNCH).

                        Hàng ngày chúng tôi lao động quanh khu vực trại: nhổ cỏ tranh, khiêng đất đá chất thành bờ, nhặt cỏ. Ngày 30-4-75 là ngày đen tối nhất trong lịch sử đối với trên 20 triệu dân miền Nam VN. Lịch sử đã sang trang, nhưng đời sống xã hội miền Nam đã lùi lại thời kỳ đồ đá.

                        Họ bắt chúng tôi ngồi bết dùng hai bàn tay không nhổ những đám cỏ tranh nằm giữa những hàng rào kẽm gai chằng chịt, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những quả lựu đạn, những đầu đạn M.79 (USA) chưa nổ, những loại đầu đạn M.79 này khi bắn ra khỏi nòng súng chưa đủ vòng tua để kích nổ, nhưng nếu chúng ta nhặt lên chuyền qua tay nó sẽ nổ ngay rất nguy hiểm. Chỉ qua một buổi lao động, hai bàn tay của chúng tôi bị kẽm gai cào và cỏ tranh cắt rướm máu. Trại bảo chúng tôi dùng những cây cọc sắt đập dẹp một đầu bẻ cong lại 90 độ dùng để cuốc đất, lên luống khoai, làm những luống cải. Với bàn tay trần chúng tôi không thể nào cầm cây cọc sắt để cuốc đất, nên phải dùng bao cát quấn quanh cọc sắt để bảo vệ đôi bàn tay.

                        Vào một buổi chiều, trong lúc chúng tôi đang cấy những cây cải con vào luống. Út Nhân đi ngang qua thấy chúng tôi đang cấy những cây cải chỉ có ba hàng dọc, hắn đứng lại quát lớn:

                        -Tại sao các anh trồng ba hàng? Ai tổ trưởng ở đây? Ai bảo các anh trồng ba hàng? Cách mạng đã tha chết cho các anh, các anh đã vào đây mà còn mơ tưởng đến “cờ ba que”?

                        Hắn hét lớn:

                        -Nhổ lên, nhổ lên trồng lại!

                        Rồi hắn lầm lũi, mặt đầy sát khí, bàn tay phải luôn áp chặt vào bá súng Colt 45 mang trước ngực, bước đi không quay lại. Đã hết giờ lao động nhưng chúng tôi phải nhổ lên trồng lại. Tối đến Út Nhân bắt chúng tôi họp đội, lên lớp chửi chúng tôi thậm tệ và bắt làm tự kiểm từng người . Út Nhân là bí thư ban giám thị trại, người nhỏ thó, chân đi chữ bát, ít học, ăn nói ồn ào, nhưng nét mặt lúc nào cũng đầy thù hận.

                        Còn những tên du kích, công an con, mặt lầm lì sát khí, trên tay lúc nào cũng lăm le những cây súng; trước đây chúng chưa từng có dịp nạt nộ sai khiến ai, nay có đối tượng là tù nhân nên chúng cảm thấy khoái trá lắm, chúng viết trên các bức tường: “Trong đời không có gì sung sướng hơn được đi chăn tù”.

                        Trải qua 30 năm sau cũng không sao quên được hình ảnh những người trai trẻ thời bấy giờ phải cắn răn chịu đựng những lời sỉ vả nhục nhã, những ngày tháng lao động khổ sai trong những trại lao tù Cộng Sản. Còn những người lớn tuổi trông thê thảm hơn, thân hình tiều tuỵ, gương mặt hốc hác, đã thiếu ăn lại suy nghĩ nhiều về cha mẹ, vợ con, anh chị em, người thân đang sống ở xã hội bên ngoài, đời sống của những người ấy chẳng khác nào những người tù bị giam lỏng. Hằng ngày chúng tôi lao động vất vả dưới ánh nắng như thiêu đốt, áo quần bê bết màu đất đỏ, mong sao có những trận mưa rào tưới lên những tấm thân khô cằn này để xoa dịu những nỗi nhọc nhằn, suy tư.

                        Đây chỉ là những bước đầu và thời gian tiếp nối có lẽ sẽ không có dấu chấm hết! Số tiền 20.620 đồng theo như thông báo chỉ để lừa gạt thiên hạ. Chân lết, tay nhổ cỏ, nhưng đầu óc quay cuồng bởi hàng trăm câu hỏi được đặt ra. Anh em chúng tôi trong lúc nghĩ ngơi thường tụm ba, tụm bốn xầm xì to nhỏ bàn tán, hỏi rồi lại đáp, nhưng không có một ai trong chúng tôi có thể giải đáp được bài toán không có đáp số này. Theo tôi cho rằng thời gian tù ít nhất là 3 năm, có anh em cho rằng miệng tôi ăn mắm, ăn muối nên nói bậy bạ. Mà quả thật trong các trại tù chỉ có ăn nước muối chứ làm gì có mắm mà ăn, nếu có cũng chỉ là những loại mắm thúi ở các vựa cá hợp tác xã dùng để nuôi gia súc. Chúng ta hãy dựa vào bản chất độc ác, lừa dối của Cộng sản để suy đoán ra điều này. Từ năm 1930 đến nay, Cộng sản đã lừa dạt cả dân tộc Việt Nam, con tố cha (như Trường Chinh), vợ tố chồng, anh em tố lẫn nhau. Họ không có tính người vì tổ tiên của họ do loài vượn mà ra:

                        Xưa kia khỉ ở trong rừng,
                        Ngày nay tiến bộ, khỉ mừng khỉ vui.
                        Từng đàn khỉ xuống miền xuôi,
                        Dạng hình thay đổi, nhưng đuôi vẫn còn.


                        Trung Uý Ba Kiều, cán bộ chính trị của trại K.4 đã tâm sự với chúng tôi rằng: Hai vợ chồng anh đi ngược về Bắc để thăm gia đình, bà con thân hữu xóm làng tới thăm vợ chồng anh, đã trầm trồ khen ngợi những sản phẩm tơ lụa và đồ dùng của miền Nam. Chiếc Honda dame mà anh mang về là một chiến lợi phẩm được cán bộ cả huyện đến xem (sự phồn vinh giả tạo của miền Nam!). Hằng ngày những đoàn xe khách chạy từ Nam ngược Bắc chở theo rất nhiều xe đạp, xe Honda, bàn ghế, Tivi, tủ lạnh, quạt máy, chưa kể những vật dụng có giá trị khác.

                        Tôi nghe nói nếu có cán bộ nào ngược về Bắc, chẳng may không mang được của cải gì, thì bị người thân mắng chửi thậm tệ và gia đình cảm thấy xấu hổ với bà con hàng xóm. Bây giờ gần 1 triệu đảng viên Cộng sản và dân chúng miền Bắc đã thấy rõ bộ mặt thật sự lừa bịp của tập đoàn Cộng sản Hà Nội trong những thập niên qua do Hồ Chí Minh lãnh đạo hay chưa? Nhà văn nữ DƯƠNG THU HƯƠNG, tháng 4 -1975, lần đầu tiên bà đặt chân đến thành phố Sài Gòn, ngồi trên vỉa hè bà đã ôm mặt khóc nức nở, vì bà đã tận mắt nhìn thấy xã hội phồn vinh của miền Nam, thì ra cái xã hội của kẻ chiến thắng đang ngự trị là xã hội man rợ, một xã hội không tính người.

                        Đã vậy, tập đoàn Cộng sản Hà Nội vẫn ngoan cố, không công nhận chân giá trị hiện hữu của miền Nam, vẫn còn tiếp tục giở trò lừa gạt nhân dân miền Bắc: Những người miền Bắc muốn xuôi Nam để thăm bà con, thì phải được học tập một thời gian cách nói láo về xã hội chủ nghĩa giàu sang tại miền Bắc (tivi, tủ lạnh chạy đầy đường…) và còn chỉ những mánh khoé để vào miền Nam xin của cải. Thế còn dân miền Bắc đem vào cho nhân dân miền Nam những gì? Dân miền Bắc dành dụm, chắt chiu những hộp sữa Ông Thọ, từng gói mì ăn liền, từng cái tô sành để đem vào Nam và họ đã nhận lấy LÒNG THƯƠNG HẠI TỪ DÂN CHÚNG MIỀN NAM!!!

                        Hầu hết trong các trại tù nước rất khan hiếm, vì vậy trại đã chọn 40 anh em còn trẻ, khoẻ để đào giếng, được chia làm hai ca, mỗi ca đào một ngày. Công việc thật vất vả và nặng nhọc, vì vùng đất bazan Long Khánh lớp phía dưới toàn đá xanh. Lớp đá dày 10 mét nên phải dùng đến thuốc nổ TNT để đánh phá, đã đào suốt tháng trời cũng chưa có mạch nước. Một số anh em đã nản chí vì bị thương tích nhiều nhưng lại thiếu thuốc men chữa trị, vả lại chế độ ăn uống không hơn bao nhiêu nên anh em đã kiệt sức.

                        Nước không đủ tắm và giặt giũ quần áo hằng ngày, vì thế chúng tôi bị ghẻ lở rất nhiều, thân hình gầy ốm, xông ra mùi hôi tanh khó chịu và ảnh hưởng đến những người chung quanh. Ban đêm chúng tôi không sao ngủ được, phần bị ghẻ ngứa nên đánh bài cào sồn sột. Trên đầu nằm, từng đàn dán ngửi thấy mùi hôi của ghẻ, chúng tấn công trên hai cánh tay, dưới bàn chân, chúng gậm nhấm vào da thịt cảm thấy ghê sợ. Cùng đồng minh với gián, hàng trăm chú rệp từ trong gối và sạp ván bò ra đồng loạt tấn công từ đầu cho đến chân, chúng bò ở cổ, tay, ở lưng, ở chân, cảm thấy rợn người.

                        Khu vực lao động thứ hai rộng 60 mẫu tây, nằm về hướng đông của trại. Trước 30-4-75, khu vực này của Tướng Lê Văn Tỵ. Hai mươi mẫu sát quốc lộ 1 là vười cây ăn trái, vườn cà phê và bảy hồ nuôi cá. Khu vực còn lại 40 mẫu dùng chăn nuôi bò, khoảng 200 con lớn nhỏ. Sau khi tiếp quản, cán bộ Cộng sản huyện Xuân Lộc đã đem bò cống nạp trong qui hoạch sản xuất của trại, chúng tôi được tắm rửa, giặt giũ thoải mái hơn, nên bệnh ghẻ lở cũng giảm bớt phần nào.

                        Trại đưa kế hoạch xuống bắt chúng tôi phải đào 6 hồ nuôi cá. Hồ lớn nhất có bề dài 220 mét, rộng 63 mét, sâu 3 mét, tại khu vực ruộng sình dày hơn 5 tấc, lớp dưới toàn đá cuội và nhiều tảng đá xanh rất lớn. Có một việc không làm sao chúng tôi quên được ngày hôm đó, 80 anh em chúng tôi phải tìm cách đưa một tảng đá nặng khoảng 3 tấn lên khỏi bờ hồ cao 2 mét. Chúng tôi phải dùng dây kẽm gai quấn thành những dây thừng lớn đan thành mặt võng bọc lấy tảng đá, dùng những đòn bẩy lên, phía trên anh em dùng đòn kéo tới, tảng đá lên được phần ba, bất ngờ dây cáp bị đứt, tảng đá rơi xuống lại gây cho nhiều người bị thương, kẻ dập tay, dập chân, người bị va đầu vào đá, khoảng 15 người bị cụp xương sống không thể đi được nên phải nhờ anh em dìu lên bờ. Thật ra muốn đem những tảng đá lớn lên bờ cách nhanh chóng, trại chỉ cần dùng nhừng xe cẩu hay dùng chất nổ TNT đánh phá tảng đá bung ra từng mảng. Nhưng ở đây người Cộng sản muốn đày đọa chúng tôi phải làm những công việc nặng nhọc quá sức người, để thân xác chúng tôi chết dần chết mòn trong đau khổ.

                        Trong 4 năm trời, những tù nhân trại K.4 đã bị cưỡng bức dùng chính thân xác mình làm những tảng đá, dùng máu và nước mắt của mình hòa lần với hồ để hoàn thành một công trình thật vĩ đại: Một hồ lớn nuôi cá giữa có nhà thủy tạ hình chữ T, năm hồ nuôi cá khác được xây nhỏ hơn. Một khách sạn 3 tầng và nhiều cây ăn trái và cây kiểng.

                        Điều đáng nói ở đây là đã xây bức tường thành bao quanh 60 mẫu và chung quanh khu vực trại K.4. Tù nhân đã chẻ những tảng đá lớn thành những khối đá hình chữ nhật để xây một “THIÊN LÝ TRƯỜNG THÀNH” dưới chân rộng 5 mét, bề mặt trên rộng 3 mét, cao 3 mét.

                        Đây là một chứng tích lịch sử có một không hai trong những trại tù Cộng sản từ Nam chí Bắc. Một trại khổ sai nặng nề nhất, máu và nước mắt tù nhân đã đổ ra nhiều nhất.

                        Để đánh đổi cho sự thành công này, để đánh đổi nụ cười ngạo mạn, đắc ý của bà vợ ba bí thư Lê Duẩn và các cán bộ từ trung ương xuống địa phương trong ngày cắt băng khánh thành công trình, trong những nhà biệt giam, trong những xà lim chứa hàng trăm người.

                        Những tù nhân chết không nhắm mắt, chết còn mang theo nỗi hận thù không bao giờ chịu khuất phục dưới lưỡi đao hay họng súng của kẻ thù Cộng sản:

                        -Anh Nguyễn Văn Hải bị nhốt chết khô vì sức nóng của thùng sắt Mỹ sau 4 tháng trời biệt giam.

                        -Anh Bùi Thiện Thọ, huấn luyện Vovinam trường Chí Linh-Vũng Tàu, anh bị cùm hai chân, hai tay bị xiềng và treo trên sàn nhà đá, tay anh bị nhiễm trùng, thịt bị vữa, dòi rút đầy người và cuối cùng anh đã chết.

                        -Anh Lê Văn Tý, Điều Xiểng, anh Hợi, anh Quyền và 5 anh em khác (tôi không nhớ tên) bị biệt giam và tra tấn cho đến chết.

                        Ban giám thị trại K.4 còn dùng thủ đoạn lập ra ban tư tưởng do tù nhân Huỳnh Tấn B. làm trưởng ban, cắt được mỗi tổ 1 người để theo dõi anh em và báo cáo cho trưởng ban hàng ngày.

                        Vào một buổi trưa đầu năm 1978, trong lúc chúng tôi đang ăn trưa, nghe tiếng báo động họp khẩn cấp, chúng tôi vứt chén đũa chạy vội đến sân dãy nhà tập họp một hàng theo từng đội, đa số chúng tôi ở trần phơi những tấm lưng dưới ánh nắng trưa gay gắt. Tư Hằng, tên trưởng trại mới đến thay Ba Xuân. Hắn bị chột mắt trái, trông hắn cũng thuộc loại người có máu lạnh, gian ác. Đứng trong hiên nhà, hắn nói lớn:

                        -Tôi biết các anh 99% không ưa gì Cộng sản.

                        Hắn đưa mắt đảo một vòng qua chúng tôi để xem có phản ứng gì hay không và nói tiếp:

                        -Nhưng tôi khuyên các anh đừng có chống đối trong lúc này. Các anh được tha về rồi hãy chống, các anh chống giỏi thì sống, nếu chống dở thì chết.

                        Hắn gằn từng tiếng và nói đi nói lại hai lần. Sau đó hắn cho đọc lệnh bắt nhốt 5 người về tội tổ chức cướp trại do anh Đặng Chiên làm tham mưu. Sở dĩ Tư Hằng nói như thế là để đánh động tâm lý chúng tôi cho rằng hắn nói đúng và đừng có ý đồ chống đối trong thời gian hắn làm trưởng trại. Tư Hăng bắt chúng tôi đào những đường hào chạy vòng sát những hàng rào phía sau, bề đáy rộng 1 mét, bề mặt rộng 3 mét, sâu 1 mét. Dưới đáy và hai bên thành hào đều được cắm chông tre và chông sắt. Bên ngoài được rào một hàng kẽm gai, mỗi tối được găm điện vào. Dù hàng rào và hầm hố có nguy hiểm đến đâu cũng không cản được sự quyết tâm của con người khi bị áp bức, vì thế vào ngày mùng năm Tết năm 1978 (?), năm tù nhân đã vượt trại, kết quả 3 anh đã trốn thoát, 1 anh bị bắt lại và 1 anh bị chết.

                        Một thời gian sau Út Nhân lên làm trưởng trại thế Tư Hằng. Hắn là một tên đao phủ giết người không gớm tay, hắn còn độc ác và tàn bạo hơn những tên trước. Hắn đã ra lệnh nhốt rất nhiều tù nhân vào nhà đá và xà lim. Có nhiều tù nhân đã bị biệt giam từ 1 năm đến 2 năm.

                        Tôi chỉ còn nhớ những anh em quen biết như Trần Phước H, Nguyễn Văn Đ, Trương Phước X, Nguyễn Trọng T, Đỗ V. B, Đỗ Minh G, anh Năm H. Bảy anh em này bị công an trại dùng bao bố bịt miệng và mũi đổ nước vôi vào cho đến khi ngộp thở. Cột tù nhân vào ghế dùng điện găm vào người nhiều lần làm cho người co quắp lại. Cột tay và chân tù nhân và treo chân ngược lên sàn nhà, dùng cây hay roi sắt đánh và quất vào người đến nứt da nứt thịt. Bốn là rút kiếm Nhật giống như một võ sĩ đang rút kiếm đeo sau lưng. Tay trái choàng ra sau ngang thắt lưng, tay phải để trên vai phải bẻ ngược về phía sau, 10 ngón tay được cột lại với nhau bằng những sợ dây và siết chặt hai đầu bàn tay lại làm cho hai cánh tay và xương sống có thể bị gãy, đau đớn vô cùng, người nào chịu không nỗi cực hình này nên khai bậy cho người khác như trường hợp anh Đỗ Minh G. đã khai cho vợ con, khiến cả gia đình anh đều bị bắt nhốt.

                        Bất cứ tại những trại Cộng sản nào, trại thường dùng những thủ đoạn bắt nhốt như vậy để răn đe và trấn áp những tù nhân khác. Anh Đỗ Văn B và Đỗ Minh G. sau khi được ra khỏi nhà biệt giam, thân hình rất tiều tuỵ, chỉ còn da bọc xương, không còn khả năng đi đứng được phải nhờ anh em cõng về trại. Dù vậy, Út Nhân chưa chịu buông tha cho hai anh, chỉ được nghỉ dưỡng sức vài ngày và sau đó, hằng ngày hai anh bị xiềng một tay vào trụ sắt còn 1 tay cầm búa đập đá, nhìn hai anh như xác không hồn .Đây có phải là sản phẩm hòa bình, nhân đạo, độc lập tự do hay là chứng tích của sự độc tài, tàn bạo của tập đoàn Cộng sản Hà Nội theo chủ thuyết ngoại lai??

                        Ngày Chủ nhật đầu tiên được phép thăm nuôi tại K.4, hầu hết anh em nào cũng ra ngồi dưới những gốc cây me nhìn ra cổng trông ngóng hình bóng của người thân, hay ngồi đợi nhừng trật tự vào gọi tên. Những anh đã được tin của gia đình có vẻ phấn khởi, còn những anh chưa được tin, nét mặt đăm chiêu, buồn rầu. Nhưng có điều anh em nào cũng nghĩ giống nhau là không biết bây giờ cha mẹ, vợ con, anh chị em có được mạnh khoẻ không? Hay tất cả những người ấy chỉ còn những tấm thân tiều tuỵ, xanh xao bởi vì phải vật lộn với cuộc sống bên ngoài, cũng ăn bo bo, ăn khoai mì, đi chân đất, đầu trần và còn nhiều áp lực đè nặng đôi vai.

                        Đời sống của những người thân rất vất vả, lo toan đủ thứ để nuôi con, nuôi cha mẹ, còn phải chắt chiu dành dụm một ít thức ăn, thuốc men để thăm nuôi cha, nuôi anh….Hầu hết những người vợ của chúng ta ở bên ngoài phải đối mặt chống chọi với nhiều cơn bệnh: nghèo đói, đau yếu, xa vắng tình cảm của người thương yêu nhất, những lời yêu thương ngọt ngào, những nụ hôn nồng ấm giờ đây như bị chôn vùi vào dĩ vãng chỉ còn miếng ăn cái mặc là thực tế! Đã vậy hàng ngày những người vợ tiểu thơ đài các còn phải đấu tranh với những cám dỗ tình cảm. Nhiều người đã dùng cái chết để bảo vệ lòng chung thủy đối với chồng sau khi bị những “cán bộ địa phương” dùng quyền thế của kẻ chiến thắng để áp bức và tống tình.

                        Những tên lòng lang dạ sói này đã trắng trợn cướp ngày không đủ tranh thủ cướp đêm: cướp nhà cửa, cướp xe cộ, cướp đồ dùng, cướp tiền bạc châu báo, cướp tờ hộ khẩu, cướp luôn quyền làm người để tống những người đàn bà thân liễu yếu đào tơ và những đứa con thơ dại với hai bàn tay trắng lầm lũi lên tận vùng kinh tế mới. Nơi đây không có nhà cửa, không có họ hàng thân quen, không dụng cụ canh tác, không đồ ăn thức uống, không thuốc men. Trên là trời, dưới là đất, chung quanh là núi rừng.

                        Đêm cũng như ngày chỉ nghe tiếng vo ve của loài muỗi và tiếng kêu của muôn thú. Tất cả các thanh niên nam nữ không có quyền lựa chọn tương lai cho mình và bị ép gia nhập thanh niên xung phong, bị đưa đến những vùng rừng núi xa xôi, khai phá rừng để sản xuất lương thực, hay bị đưa đến những vùng sình lầy nước độc để đào kênh rạch.

                        Đối với những thanh niên này trước mắt cả bầu trời u tối là con đường không lối thoát. Chính cũng tại nơi đây nhiều mối tình oan trái, nghiệt ngã đã xẩy ra. Xã hội băng hoại, một số học sinh không được thi vào đại học vì lý do của “Ngụy quân, Ngụy quyền”, con của những gia đình “đau khổ”. Những tà áo trắng ngày nào tung bay trong các sân trường đầy phượng vĩ, cái hồn nhiên trinh trắng thủa học trò nay còn đâu! Bây giờ chỉ là những nét đăm chiêu trên những vầng trán hằn suy tư.

                        Hãy trả lại cho tôi tâm hồn người thiếu nữ
                        Mười tám tuổi đầu ngỡ kết mộng băng trinh.


                        Trong thời gian 3 năm ở K.4 gia đình tôi thăm nuôi được 3 lần. Có những lý do mà vợ tôi không thể thăm nuôi đều đặn và chính tôi cũng không muốn vợ tôi phải chịu nhiều cực khổ trong lúc phải nuôi dưỡng hai con dại, gia đình cha mẹ cùng 3 người em tại vùng căn cứ, đất đai không được màu mỡ, của cải không có. Bản thân tôi trước 30-4-75 là một người chỉ biết chiến đấu phục vụ lý tưởng để bảo vệ Quê hương, sau khi vứt bỏ vũ khí trở về đời thường ngoài bản thân ra không có gì để bán.

                        Mười Vân, giám đốc công an tỉnh Đồng Nai thời bấy giờ bị kết án tử hình, Út Nhân đàn em của Mười Vân cũng bị rớt chức và sa thải về đời thường dân. Người xưa thường nói :”gieo gió thì gặt bão” quả không sai! Trong thời gian làm trưởng trại, Út Nhân đã làm biết bao nhiêu điều tàn ác, đã bắt nhốt, giam cầm và tra tấn một số tù nhân cho đến chết, chết không nấm mồ, chết đơn độc, lẻ loi, thân xác được quấn trong những chiếc chiếu không nguyên vẹn và đã vùi lấp nơi cánh rừng hoang vắng. Đời sống của gia đình Út Nhân giờ đây đã băng hoại, hắn như người điên khùng không một ai hỏi han, ngó ngàng đến dù là bạn thân hay những đồng chí của hắn trước đây. Hai người con gái xinh đẹp của hắn cũng lần lượt bị chết thảm : đứa thứ nhất bị côn đồ hãm hiếp tại suối tre Long Khánh, đứa thứ hai bị cháy xăng.

                        Tháng 4-1978, chúng tôi khoảng 20 người được chuyển đến trại Z30C, thuộc huyện Hàm Tân – Thuận Hải. Trại nằm cạnh chân núi Mây Tàu, đất đai cằn cỗi, nước độc địa, nơi nào cũng thấy cây lá buông nên gọi là rừng lá. Tôi và anh Nghĩa được bổ sung vào đội mười nông nghiệp. Chúng tôi là những người đến sau được anh đội trưởng Huỳnh Tấn Công ưu ái chỉ định chỗ ngủ sát vách cầu tiêu. Nằm nơi đây suốt đêm không sao ngủ được vì những âm thanh và tiếng động bên kia vách, lúc thưa thớt, lúc vội vàng, lúc xối xả, cộng với “mùi hương thơm của thời đại, hương thơm của XHCN, hương thơm của đỉnh cao trí tuệ” xông ra. Tệ hại nhất là vào những ngày mưa gió, không thể nào ra bên ngoài để ăn “cơm mì không”, đành phải ngồi ngay tại vị trí ưu tiên này, không thể ăn mà cũng không thể nuốt nước miếng trong lúc cái bao tử đang kêu gào cứu nạn.

                        Suốt 3 năm qua chưa có lúc nào bi đát, thê thảm như lúc này và bắt đầu từ ngày hôm nay: hết cơn bỉ cực đến ngày thê lương!!! Vì trưa không có gì trong bụng nên buổi chiều tôi chặt củ hủ buông ăn, ban đầu mới ăn thấy ngon như củ hủ dừa, nhưng khoảng vài ngày sau thấy yếu hẳn đi, không còn sức đối kháng, hai quả thận như bị suy liệt, củ hủ buông thật độc hại vô cùng.

                        Điều làm cho chúng tôi khó chịu nhất ở trại Z30C là mỗi khi xuất nhập trại, tất cả tù nhân phải lấy nón, mũ xuống để chào tên công an gác cổng ngồi trên vọng gác. Lần đầu cũng là lần cuối, những ngày sau tôi không hề đội mũ nữa.

                        Những đội nông nghiệp hàng ngày phải đào gốc cây buông cho ngã xuống, vào mùa nắng ráo đất rất khô cứng nên chúng tôi đào rất vất vả. Những vùng đất này chỉ thích hợp tỉa bắp và trồng khoai mì, nên mỗi năm chỉ canh tác được 1 vụ. Những đội đào hồ cá và những đội chẻ đá rất nặng nhọc, đôi khi nguy hiểm đến tính mạng. Còn những đội trồng rau xanh hằng ngày phải gánh phân, được lấy từ những hầm cầu ở cuối mỗi buồng ngủ, đến khu vực trồng rau cải, dùng xẻng xúc phân rải xuống những hồ rau muống hay dùng gáo múc phân trải dọc theo những luống cải, luống mồng tơi, luống khổ qua….sau đó gánh nước tưới cho phân tan ra.

                        Những ngày làm công tác này phải bịt miệng và mũi lại để khỏi bị nôn mửa. Những nông sản và rau xanh sau khi thu hoạch được, trại đem bán cho hợp tác xã bên ngoài, trại chỉ cho chúng tôi hưởng những loại rau cải hạng hai, hạng ba mà thôi để hàng ngày nấu canh với cá thúi. Suốt năm này qua năm khác, họa hoằn lắm chúng tôi mới thấy những tốp mỡ trôi dạt bồng bềnh trong nồi canh cả đội.

                        Một năm chỉ có 2 ngày: mùng 2 tháng 9 và Tết âm lịch, mỗi người chúng tôi được 2 lát thịt mỡ bằng ngón tay út. Khi có dịp làm thịt heo, ban giám thị trại chia lấy những phần thịt, còn xương và mỡ bố thí cho chúng tôi ăn theo tiêu chuẩn quá thê thảm, nên những nơi nào có trại tù mọc lên các loài côn trùng nơi đó sẽ bị diệt chủng như rắn, ếch, nhái, ễnh ương, cóc, chuột, rắn mối, châu chấu, bọ cạp, ốc sên, ốc lá và các loại rau, lá rừng, gì có thể ăn được đều bị chúng tôi bắt sạch và hái sạch. Đó là những thức ăn phụ trội mà chúng tôi cần phải có mới mong chống chọi lại những ngày tháng trong lao tù.

                        Trong thời gian này chúng tôi vẫn tiếp tục ăn mì lát, mỗi bữa chỉ được 1 chén, không sao lấp lửng cái bao tử nghèo đói này, vì thế hàng ngày tại khu vực lao động, trong lúc không có “cán bộ quản giáo” ở đó, tôi thường hay tìm đào những loại khoai mài, khoai mỡ rừng, khoai chùm hay hái những loại lá dạng, lá cốc, lá lành ngạnh, lá cánh bướm, hoặc rau cải trời, rau tàu bay v.v… đôi khi bắt được những con tắc kè thường nằm trong các bẹ cây buông, đem về nấu những món “hầm bà lằng” để ngốn cho đầy bụng vào những bữa ăn trưa hay ăn tối.

                        Trong vùng đất Mây Tàu có rất nhiều loại rắn độc như hổ đất, hổ mèo, rắn lục, nẹp nia, hổ lửa….nhiều nhất là rắn chầm quặp, thân hình chỉ bằng ngón tay cái, màu da đen như màu đất, có thể đổi màu tùy theo vị trí nằm của nó. Nó hay nằm dưới những đống rác mục hay dưới những gốc cây buông. Nếu những ai bị nó cắn phải thì khó có thể sống sót. Rắn và tắc kè là hai loại tôi thường thu hoạch được, thịt của chúng đem nướng hoặc kho xả cho chúng ta mùi thơm hấp dẫn và ăn rất ngon lại giúp cho cơ thể thêm chất proteine.

                        Cuối năm 1979, đội 10 chuyển qua khu B cách khu A (Z30C) trên 2 cây số. Trại nằm sát khu rừng rậm Mây Tàu và suối nước lạnh. Suối này có độ lạnh buốt như nước đá, nếu người nào không có sức khoẻ tốt không thể nào dám xuống tắm.

                        Vào những ngày nghỉ lao động, chúng tôi hay nấu nướng ngoài trời ở phía cuối những dãy buồng, có đắp những bếp cá nhân. Có người nấu ăn một mình, có nhóm năm, sáu người đậu gạo nấu chung, ăn uống nói cười vui vẻ hầu quên bớt những khổ cực trong những ngày lao động. Phần ăn uống này đa số chúng tôi nhận được từ những bàn tay thăm nuôi của gia đình, mà người vợ, người mẹ, người chị, người em đã đổ ra bao mồ hôi nước mắt chan hòa với những ngày tháng vất vả, lặn lội, gom góp để có một ít lương khô mang đến cho chúng tôi.

                        Chúng tôi phải cám ơn những bàn tay nhỏ bé ấy, bàn tay đầy tình thương, bàn tay đầy tình người. Những bàn chân yếu đuối, những bàn tay run rẩy, đã băng rừng lội suối từ miền Nam ra miền Trung hay ra tận miền Bắc, dù dài nắng dầm mưa, còng lưng mang những túi lương thực để tiếp tế cho người thân và điều duy nhất chỉ mong được gặp mặt lại, để nghe được tiếng nói, để nghe được nhừng hơi thở nồng ấm phát ra từng những con tim yêu thương của người chồng, người con, người anh, người em đã xa cách trong thời gain qua.

                        Trong thời gian chưa có tin tức về gia đình, có những người vợ chân yếu tay mềm làm thân cò lặn lội nhiều nơi để nghe ngóng, dò la tin tức của chồng và không chống chọi nỗi với thời gian khắc nghiệt trong cuộc sống đầy nghiệt, nên ngã bệnh và cuối cùng lìa khỏi cõi đời mà không gặp được mặt chồng lần cuối! Có những người đi không quay trở lại, những thân xác yếu mềm này đã bị quên lãng ở tận rừng sâu hay dưới vực thẳm hoặc tận đáy sông. Những người rủi ro gặp phải những cơn bệnh đọa đày hay những dòng nước cuốn trôi hoặc bị thú dữ phanh thây? Dù những người này chết thế nào chúng ta vẫn khẳng định rằng: CHÍNH TÌNH YÊU THƯƠNG ĐÃ GIẾT CHẾT HỌ TRONG MỘT XÃ HỘI ĐẦY MAN RỢ!!!

                        Vào những ngày Chủ nhật, chúng tôi thường ngồi nghe anh Lộc kể những chuyện tiếu lâm thời đại với những đề tài “con người từ loài vượn biến thể”. Anh kể những chuyện làm cho chúng tôi không thể nhịn cười được, cười nghiêng ngữa, cười đến nỗi đau bụng. Anh Xuân, còn rất trẻ, chuyên kể chuyện kiếm hiệp Kim Dung, anh có biệt tài kể vanh vách không sai hay thiếu một chi tiết nào. Từ giọng nói, điệu bộ, anh thay đổi tùy theo nhân vật và thời gian. Mỗi lần được nghe anh kể chuyện, anh em thường pha trà, góp bánh ngọt để thết đãi anh. Nhờ anh Lộc, anh Xuân đã đem lại cho chúng tôi những nụ cười say mê làm vơi bớt những nỗi buồn chán trong tù.

                        Vào giữa năm 1980, tôi có dịp quen biết Nguyễn Văn H, tuổi đời trên 60, da thịt hồng hào, trông người anh có vẻ bất cần đời. Tôi hỏi anh tại sao da thịt anh tốt như vậy?

                        Anh cho tôi biết ngày nào anh cũng bẫy được vài con chuột, thỉnh thoảng còn bắt được cóc, nhái và tắc kè nữa. Hôm tôi gặp anh lần đầu, thấy anh đang nấu nồi cháo cóc, không biết anh đã làm ruột chưa, nhưng tôi thấy con cóc vẫn còn nguyên đầu và da, bốn chân cóc dang ra chồi lên lặn xuống trong nồi cháo đang sôi, giống như người sắp chết chìm vì không biết bơi lội. Chúng tôi cười ngặt nghẽo, cười nức bụng, cười vỡ tung cả không gian đang buồn thảm, thế nhưng anh H vẫn ngồi tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra, đôi mắt anh vẫn đăm đăm nhìn con cóc đang trôi nổi trong nồi cháo. Có lẽ anh nhìn con cóc trong cháo cũng giống như số phận con người đang trôi nổi theo dòng đời.

                        Vào một ngày đầu tuần của tháng tư nắng ráo, năm 1980, trong lúc đội đang giẫy cỏ, một “cán bộ bảo vệ” gọi tôi lại và hỏi rằng:

                        -Anh đã “an tâm cải tạo” chưa?

                        Tôi trả lời:

                        -Đã an tâm rồi.

                        Nhưng người “cán bộ” này cho rằng tôi nói “náo”. “Cán bộ” cầm điếu thuốc trên tay đưa cho tôi xem và nói:

                        -Đây là điếu thuốc “cáp ten”, thuốc miền Nam của các anh đấy, trong lúc tôi hút nó tôi cảm thấy chưa an tâm, có nhiều sự suy nghĩ, huống chi là các anh….Tôi biết các anh phải trả lời như vậy, thôi ráng lao động để chờ ngày về.

                        Trong lúc tôi quay lưng đi thì “cán bộ” nói với theo:

                        -Các anh nhớ đừng trốn trại là tôi bị cúp phép một năm đấy.

                        Trong những ngày “cán bộ bảo vệ” này theo đội, tôi thường thấy “cậu ta” ngồi lủi thủi một mình, súng ít khi cầm trên tay, mặc kệ chúng tôi làm hay chơi cũng không nói lời nào. Có lẽ những lời nói trên đã biểu hiện sự suy nghĩ chân thật của một công an miền Bắc tuổi đời còn rất trẻ, sau khi được đưa vào Nam để giữ tù. Họ cũng có những suy tư, những trăn trở khi đã nhìn thấy tận mắt, nghe tận tai về đời sống của nhân dân miền Nam trước đây và so sánh với đời sống của nhân dân miền Bắc thời bấy giờ. Những cán binh và công an còn trẻ tuổi này bị ràng buộc bởi những liên hệ gia đình nên họ không dám đột phá, bởi vậy họ đành chấp nhận làm công cụ cho tập đoàn Hà Nội để đổi lấy những miếng ăn thức uống cho chính bản thân và cho cả gia đình.

                        Theo lời anh Du phụ trách nấu nước đội 10 kể lại, vào đầu năm 1978, chuẩn uý Tám-cán bộ quản giáo đội 10- đã móc nối với 2 tù nhân: một người trước đấy là giáo sư Anh văn, một người là thiếu uý phi công, cả 3 đều trốn trại và đã vượt biên. Cán bộ Bạch Ngọc Phượng về thay thế CB Tám. Cán bộ Phượng lúc nào cũng thấy đói khát, hắn thường hay sai đội trưởng Công và đội phó Tú nhổ trộm mì, đào khoai, bẻ trộm bắp để nấu cho hắn ăn tại nhà lô, nếu ngày nào không có gì cho hắn ăn, trông mặt hắn cau có khó chịu, tính tình trở nên hung hăng và kiếm chuyện chửi mắng chúng tôi.

                        Vì không chịu nổi sự sai khiến để làm những chuyện phi pháp, nên vào tháng 6 năm 1980, đội trưởng Công đã họp đội tố cáo và lên án những hành vi xấu xa của cán bộ Phượng. Cuộc họp đã kéo dài từ 7 giờ tối đến 2 giờ rưỡi sáng, biên bản được viết trên 12 tờ giấy học trò.

                        Trong đội có 9 anh em lên tiếng chỉ trích cán bộ Phượng gắt gao, mà chúng tôi gọi là ” nhóm 9 tên”, gồm đội trưởng Huỳnh Tấn Công, Bùi Văn Phi, Châu Tá Hải, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn Ngân, anh Long (?) và tôi.

                        Trong biên bản, anh Phi là người có ý kiến táo bạo nhất: Yêu cầu ban giám thị trại đưa cán bộ Phượng đi cải tạo. Vì thế trong giờ lao động ngày hôm sau, cán bộ Phượng gọi anh Phi vào nhà lô một mình, dùng súng dí vào đầu anh và đánh anh tới ngất xỉu, đến trưa chúng tôi phải cõng anh về trại. Bắt đầu từ trưa hôm ấy cả đội 10 chúng tôi tuyệt thực và không đi lao động để phản đối việc anh Phi bị đánh và yêu cầu đổi “cán bộ quản giáo” mới.

                        Đến hai ngày sau chúng tôi mới chịu đi lao động trở lại khi cán bộ Phượng đã đổi đi nơi khác. Khoảng 3 tuần lễ sau, cán bộ Quỳ, an ninh khu trại B, gọi chúng tôi làm việc.

                        Mỗi anh được gọi một ngày khác nhau, tôi là người được gọi cuối cùng, hôm ấy tôi đã làm cán bộ Quỳ tức tối, vì tôi đã phân tích cho hắn thấy về nền kinh tế của miền Nam Việt Nam trước và sau ngày 30-4-75. Sau khi cán bộ Quỳ đã làm việc với 9 người chúng tôi, hắn thấy những sự việc chúng tôi chỉ trích cán bộ Phượng là đúng sự thật, nên trại không có lý do gì để nhốt chúng tôi, mà chỉ âm thầm cúp thăm nuôi mỗi người 2 lần. Đến tháng 7-1980, tôi bị liệt vào danh sách A1 cùng với 127 anh em khác chuyển về lại khu A (Z30C).

                        Cuối năm 1979, năm anh thuộc đội lâm sản khu B đã bị biệt giam về tội liên hệ với tổ chức Phục Quốc bên ngoài, nhưng đó chẳng qua là cái bẫy mà Cộng sản đã đặt ra để gài những người tù chúng tôi. Tháng 10-1980, các anh này bị đưa ra toà xử tại huyện Hàm Tân, mỗi anh lãnh thêm từ 18 đến 20 năm khổ sai và bị đày đến trại trừng giới A30 tại Phú Yên. Tháng 8-1980 anh H. đội rau xanh đã cướp súng của “cán bộ bảo vệ” chạy vào khu rừng lá, một tuần lễ sau anh quay trở lại khu vực mà đội anh đang làm và bắn xối xả vào hai công an bảo vệ và chạy trở vào rừng.

                        Tháng 10-1980, có 3 tù nhân trẻ lợi dụng trong lúc hết giờ lao động buổi chiều, đã đánh công an bảo vệ, cướp súng chạy vào rừng, sau khi bắn hết đạn chạy không thoát nên bị bắt lại và bị cả trung đội Công an đánh gãy xương sống, bể xương đầu, gãy xương bả vai, gãy cả tay. Công an dùng dây cột tay ba anh và lôi xồng xộc về trại, một anh đã chết còn hai anh kia có lẽ cũng khó sống sót.

                        Trong thời gian từ năm 1979 đến cuối năm 1980 tại trại Z30C có rất nhiều tù nhân đã trốn trại, phần đông đi được trót lọt, một số ít có lẽ không biết tìm phương hướng hay mưu sinh thoát hiểm, khi đói quá bò ra các làng dân nên bị bắt lại. Như trường hợp anh Phạm Viết Vinh, Phó đốc sự hành chánh, người ốm yếu, thân cao lều khều, sau khi anh ra khỏi khu vực trại không biết hướng đi, lẩn quẩn mãi trong rừng và bị công an bắn chết.

                        Trường hợp hai anh Đại uý biệt kích Mai Bá Trác và Trung Uý Trần Văn Thiện. Hai anh ở hai khu khác nhau nhưng hai anh đã liên lạc và cùng trốn trại một ngày, sau đó cả hai đã vượt biên.

                        Toàn dân miền Nam sống trải qua dưới chế độ Cộng sản, dần dà nếm được mùi vị sự lừa dối, láo khoét, tráo trở, tham lam, lưu manh, gạt gẫm, cướp bóc, chiếm đoạt, độc ác, tàn bạo, chuyên chính.

                        Bên trong độc ác bạo tàn,
                        Bên ngoài lừa dối nhân dân cực hình!


                        Suốt 30 năm qua chúng ta thấy chế độ Cộng sản đã làm được những gì? Chắc hẳn tất cả chúng ta đều đồng ý rằng: chúng ta chỉ có thấy: “Không có gì!…KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO!!!, con đường BÁC ĐI LÀ CON ĐƯỜNG BI ĐÁT!!!”

                        30 năm là một thời gian tạm đủ dài, nhưng chúng tôi không thể nào quên được những chứng tích trong những trại lao động khổ sai của Cộng sản. Chúng tôi xin đốt những nén hương mong được cắm trên những nấm mộ của các chiến sĩ đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản trên khắp miền đất nước từ Cà Mau đến tận Nam Quan. Các anh đã chết ngoài đồng ruộng, chết trên rừng xanh, chết bên bờ vực thẳm, chết dưới dòng sông, chết tận cùng ngõ hẻm, chết không miếng ăn, chết không thuốc uống, chết vì họng súng, chết vì tra tấn, chết không thấy người thân, chết không người vuốt mặt, chết không kẻ cầu kinh, chết không nấm mồ, chết giữa những tiếng cười man rợ của loài quỷ đỏ hút máu người!

                        Các anh đã nằm xuống ngàn thu trong những nấm mồ hoang lạnh trên khắp miền của dãy đất hình cong chữ S. Các Anh đã chết nhưng hận thù vẫn còn đó, vẫn còn hằn trên những vầng khăn tang của các người vợ hiền và những đứa con thơ:

                        Xin trả cho tôi linh hồn người thiếu phụ
                        Tấm áo hàng tang chế nhuộm đơn côi



                        J.Nguyễn

                        https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
                        Last edited by BachMa; 08-05-2019, 02:08 AM.

                        Comment


                        • Kinh Đô Thất Thủ và Nguồn Gốc Ngày Cúng Cô Hồn Lớn Nhất Ở Thừa Thiên, Huế

                          Kinh Đô Thất Thủ và Nguồn Gốc
                          Ngày Cúng Cô Hồn Lớn Nhất Ở Thừa Thiên, Huế



                          Hình ảnh Trấn Bình Đài (Đồn Mang Cá) nơi quân Pháp đồn trú và diễn ra trận đánh

                          Có lẽ chẳng nơi nào trên thế giới cúng âm hồn mà quy mô tổ chức lại có tính cách toàn dân trong một thành phố như ở Huế trong ngày lễ cúng âm hồn 23 tháng 5 âm lịch. Đây là một hình thức cúng tế mà đơn vị tổ chức nghi lễ vừa có tính chất đơn lẻ trong từng gia đình, lại vừa có tính chất cộng đồng trong từng đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghề, cùng ở trong một thôn, xóm, phường.

                          Tai sao toàn dân Huế lại tổ chức cúng âm hồn trọng thể như vậy, và lý do nào tập tục cúng lễ này lại còn giữ được qua bao nhiêu biến động của cuộc sống. Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ của đất nước.

                          * Ngày 1-8-1883, Pháp nã đại bác vào Thuận An. Tối 20 tháng 8, Thuận An thất thủ; đột phá khẩu vào kinh thành đã mở. Triều đình hoang mang lo sợ, chỉ có Tôn Thất Thuyết cương quyết lập trường đánh Pháp. Cuộc chiến đấu tự vệ mà ông và các đồng sự ráo riết chuẩn bị từ lâu đã đến lúc phải bùng nổ.

                          * Tối 22 qua rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu tức là đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885, Thượng Thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết và Đề Đốc Trần Xuân Soạn đã chỉ huy 20.000 binh lính mở cuộc tổng tấn công vào thành lũy của quân Pháp ở Toà Khâm và Mang Cá, sào huyệt giặc bên sông Hương. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất Thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo nhưng vũ khí giới thua kém, hoả lực thua thiệt nên đã bị thất bại.

                          Rạng sáng, quân Pháp bắt đầu phản công dưới sự chỉ huy của Pernot. Pháp chia quân làm 3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt, để tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa… Một toán từ Cửa Trài phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Đại Nội. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho, tấn công quân Nam đang tử thủ ở vườn Thượng Uyển, đồng thời cũng để tiếp ứng cho toán quân đang tìm cách phá vỡ cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông vào Đại Nội).

                          Bị bất ngờ phản công, ban đầu quân Nam chống cự rất anh dũng, bắn thủng ruột thiếu úy Pellicot. Các vọng lâu được sử dụng làm pháo đài, trên thành, quân Nam bắn xuống xối xả. Quân Pháp đánh vào một pháo đài có chứa thuốc súng, nhưng pháo đài bốc cháy, một toán quân Phi và một chỉ huy bị nổ tung, chết cháy ngay tại trận.

                          Về bên phía Tòa Sứ, đoàn quân của Cheroutre cũng tiến sang... Họ cố tràn lên, nhưng bị quân Nam nổ súng chặn lại. Trung úy Lacroix bị thương; thiếu úy Heitschell khi sắp qua cầu thì một thùng thuốc súng phát nổ, bị chết cháy tại chỗ. Cuối cùng, quân Pháp cũng tiến được vào thành, cùng lúc đó, quân của Bornes và Sajot cũng vừa tiến vào.

                          Trước sự phản công của quân Pháp, quân triều đình không giữ được thành, cả hai đạo quân của triều đình ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, tan vỡ, tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba. Lính Pháp tràn vào thành và cuộc giết chóc, hãm hiếp tàn bạo, man rợ chưa từng có đã xảy ra: hơn 1.500 người dân và binh lính triều đình đã ngã xuống trong đêm hôm đó vì bị trúng đạn của Pháp, hay một số do chen lấn, giẫm đạp lên nhau khi cố vượt ra khỏi Kinh thành. Hầu như không có gia đình nào không có người bị tử nạn trong đêm binh biến này.

                          Từ đó về sau ngày 23 tháng 5 âm lịch (05.7.1885) đã trở thành ngày giỗ lớn, ngày "quẩy cơm chung" hàng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn: quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: hoặc dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sẩy chân rơi xuống hồ ao dày đặc trong thành, nhất là hồ Tịnh Tâm… trong khoảng từ 02g đến 04g sáng 23.5 năm Ất Dậu.

                          Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5 Âm lịch. Người ta thường dựng rạp hoặc bày bàn cúng ngoài trời. Lễ cúng ít nhiều tùy gia đình nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo, muối, hoa quả, nhang, trầm, trà, giấy tiền vàng bạc, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc, cau trầu, rượu. Ðặc biệt, trong lễ cúng 23 tháng 5 này, từ gia đình cho đến tập thể phải nhớ có một bình nước lớn và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người ta tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông, suối trong rạng ngày 23 tháng 5.


                          https://www.facebook.com/toiyeudathu...type=3&theater

                          Comment


                          • 30/4 – Tro Tàn Bay Trắng Đầu

                            30/4 – Tro Tàn Bay Trắng Đầu
                            Ngô Văn Thu

                            Tác giả sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị bắt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-Rang. Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị bắt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-Vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư tại Houston, Texas.
                            ***
                            Thời gian đủ để đứa bé trưởng thành, đủ cho quê hương khập khiễng đổi thay, không còn nhìn ra làng xưa xóm cũ nữa. Ký ức oan khuất 39 năm, như vết hằn đậm nét, như thỏi sắt nung chẩy, tro tàn bay trắng đầu.


                            Hình minh họa

                            Ngày ấy, 16 tháng 4 năm 1975, lúc 10 giờ sáng. Các loại súng lớn nhỏ nổ vang xa gần quanh phi trường Phan Rang. Đạn pháo kích của cộng quân đã rót vào cứ điểm nầy nhiều hơn, gây áp lực lên các đơn vị phòng thủ căn cứ, cũng như các Bộ tư lệnh tiền phương đang trấn đóng nơi đây. Trên bầu trời của phi trường, máy bay các loại cất cánh bay lên như đàm chim vỡ tổ. Dấu hiệu của sự bay xa, không ngày trở lại…

                            Đơn vị tôi, vừa đánh cầm chân địch, vừa có lệnh rút dần về phía Nam ở Mũi Cà Ná (Bình Thuận), vì nơi đó đang có tàu hải quân đón để theo đường biển xuôi Nam.

                            Thế nhưng khi chúng tôi đến nơi, mũi Cà Ná đã bị cộng quân chiếm. Một trận đánh lại diễn ra tại đây, sau đó buộc phải tản hàng vì cạn nguồn tiếp tế đạn dược. Lợi dụng bóng đêm, tôi tìm một hốc đá sát bờ biển ẩn mình, chờ đến mờ sáng bơi ra tàu hải quân đang có mặt quanh đó. Nhưng tiếc thay, chỉ bơi được một quãng thì tàu càng lùi dần ra xa… vì chính họ cũng bị pháo binh cộng quân bắn đuổi theo, buộc phải di chuyển.

                            Mất nguồn hy vọng, lại bị kiệt sức, do mấy ngày qua phần di chuyển, phần chạm địch nên không có gì ăn uống khiến thân xác rã rời, đành quay vào bờ. Suýt buông tay chìm xuống biển thì một cơn sóng mạnh đánh tạt vào ghềnh đá. Bị va chạm mạnh, bất tỉnh, nằm mê cho đến trời sáng hẳn. Bỗng có cảm giác một vật gì lành lạnh đè lên bụng.

                            Hoá ra mũi súng AK.47 của cán binh cộng sản gí vào. Phản xạ tự nhiên tôi vùng chạy, nhưng quá yếu, không chuyển mình được, đành bị bắt!

                            Tối đó, tôi bị gom lại một trường tiểu học ở mõm Cà Ná, trong khi hải quân cuả ta ngoài biển vẫn còn bắn pháo vào quấy rối địch.Tất cả chúng tôi được lệnh ngồi im tại chỗ, có du kích canh gác cẩn mật vì Việt cộng sợ chúng tôi tìm đường trốn thoát khi có biến.

                            Dưới ánh đèn manchon, tôi thấy có mấy sĩ quan quen trong đơn vị đã có mặt, như vậy họ cũng bị bắt như tôi. Mừng cho họ và tôi còn sống, còn thấy nhau trong giờ phút ngậm ngùi nhất của đất nước.

                            Thế là hết! Thế là giã từ vũ khí, giã từ chiến trường từ đây, cuộc chiến xem như đã tàn. Tàn theo nghĩa của tình thế lúc đó.

                            Tôi khai là lính (hạ sĩ) thay vì sĩ quan để giấu tung tích cá nhân khi lọt vào tay địch. Đêm đó Việt cộng dọa sẽ đem “bắn bỏ 100 tên” vì tội man khai lý lịch. Tôi cười thầm: họ chỉ nói khoác. Họ từ miền Bắc xâm nhập vào, tôi từ Chu Lai đến, tất cả đều xa lạ chỉ gặp nhau tại chốn “không hẹn ngoài kế hoạch”nầy, làm sao biết được ai là sĩ quan mà bắn. Mấy hôm sau tôi được đưa lên xe 18 bánh chở muối (Cà Ná có ruộng muối biển bao la) đưa vào lao xá Phan Rang giam giữ cùng với bao người khác.

                            Đêm đầu được ngả lưng trên thềm xi măng trong tù, cảm giác thấy “sảng khoái” phần nào, dù trước mắt chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một ước mơ nhỏ nhoi của người lính là được nằm thẳng lưng trên mặt bằng. Vì trong cuộc chiến, đêm về, người lính thường cong lưng đong đưa trên võng như vượn bám cành, có đêm vừa di chuyển vừa ngủ (ngủ trong tiềm thức, vì thiếu ngủ triền miên).Thế mà ước mơ đó chỉ đạt được khi tàn cuộc. Nơi ngả thẳng lưng bây giờ là nhà tù. “Hạnh phúc” sao oan nghiệt quá!.

                            Nằm đó, nhớ lại hai năm trước. Đơn vị chúng tôi cũng đã từng bắt giữ hằng trăm tù binh cộng quân tại hải cảng Sa Huỳnh, khi họ vi phạm hiệp dịnh Paris 1/1973 tràn xuống lấn chiềm cảng nầy, nhưng đã bị đơn vị chúng tôi phối hợp với các đơn vị bạn đánh bại, bẻ gãy âm mưu trên.

                            Hai năm sau,tháng 1/1975 mức viện trợ tiếp liệu ngày càng teo tóp thiếu hụt nặng nề, trong khi phía địch quân với sự viện trợ dồi dào của toàn khối Cộng sản quyết đánh chiếm Miền Nam bất cứ giá nào.

                            Vì theo lời tổng bí thư Lê Duẩn nói lúc đó: ”Chúng ta đánh Miền Nam là đánh cho Trung quốc và Liên Xô” (lời nầy khắc trên lăng của Lê Duẩn ở Hà Tĩnh). Qua sự kiện đó cho thấy: tại sao toàn khối Cộng sản ra sức viện trợ cho CSVN.

                            Những đêm kế tiếp nhớ về gia đình vợ con. Tôi đã bị cách ly với thế giới bên ngoài bằng bốn bức tường của nhà tù, không biết diễn biến gì xảy ra cho gia đình tại Sài Gòn khi tình hình ngày đang phức tạp thêm. Vợ và đứa con đầu lòng bốn tháng tuổi của tôi, từ khi sinh ra cho đến nay chưa một lần gặp mặt, mẹ con họ sẽ nương tựa vào đâu khi không có họ hàng thân thích. Thế rồi thời gian đi tới. Cuộc chiến đã chấm dứt ngày 30/04/1975 trong nghẹn ngào buồn thảm của người dân Miền Nam. Chúng tôi không hay biết gì lệnh bi thảm sau cùng của Sài Gòn ban ra, vì đã yên phận của người tù ngoài mặt trận trước khi Sài Gòn ”thất thủ”.

                            Sau ngày 01/05/1975. Để giải quyết nạn kẹt chỗ ở của nhà tù, ban quản trại cho anh em binh sĩ theo học chính sách gọi là “5 điều bảy điểm” của “mặt trận” rồi phóng thích.

                            Hai ngày một đợt năm mươi người. Với tiến độ ấy, tôi dự trù sau ngày 10/05 sẽ đến đợt mình.

                            Cùng thời gian đó trong trại tù đã có người rỉ tai mua bán đồng hồ và các vật quý khác như vàng, tiền Miền Nam, v.v.. vì họ biết người về cần tiền chi phí xe cộ và, ngược lại cán bộ cũng cần đồng hồ, vàng, tiền Miền Nam v.v….

                            Thế nhưng… chữ nhưng đầy oan nghiệt như một định mệnh với tôi! Một buổi sáng, tôi đang ngồi ngoài sân điểm danh sinh hoạt thường lệ, sau đó ban quản trại đọc danh sách người được thả. Một người lính cùng đơn vị có tên được ra tù, mừng quá, cậu ta thấy tôi đang ngồi hàng đầu chạy qua buộc miệng nói: “thẩm quyền, thẩm quyền” (tiếng gọi được mã hoá chức vụ của người sĩ quan). Thẩm quyền ở lại, mai em về.

                            Tôi ngây người chết trân tại chỗ, vì bao cặp mắt đều hướng về tôi, họ tỏ dấu ngạc nhiên khi được một người lính (vì mất cảnh giác) xưng hô như vậy. Có khác nào cậu ta tố cáo tôi trước mọi người.

                            Chuyện xảy ra rất nhanh, khiến đời tôi rẽ vào khúc quanh nghiêm trọng khác sau nầy.

                            “An-ten” trại làm việc. Sáng hôm sau, khi sắp hàng điểm danh, nhận phần xôi sáng, có người trên ban quản trại xuống gọi tôi lên văn phòng “làm việc” (thẩm vấn). Tôi biết chuyện chẳng lành sẽ xảy ra trong lần đi trình diện nầy. Để chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất, tôi quyết định mang theo chiếc đồng hồ quý giá mà tôi còn cất giấu được trong đáy quần lót khi bơi ra tàu. Hy vọng nó sẽ là món “vũ khí lợi hại”, có thể sử dụng nó tánh mạng lâm nguy.

                            Tại phòng của quản giáo trại giam, một người đàn ông trạc tuổi 50 đang ngồi đợi sẵn, hai bên có hai vệ binh súng AK47 kẹp hông đứng trong tư thế tác chiến. Tôi được lệnh ngồi xuống bằng giọng Bắc của người đối diện. Một phút trôi qua đủ để đôi bên trao nhau ánh nhìn dò xét, không khí nặng nề. Bỗng người quản trại hất hàm bảo:

                            – “Cách mạng” kêu anh lên đây (nà) là có vấn đề, có tin báo anh (nà) là “sĩ quan ngụy” man khai cấp bậc để trốn tránh cải tạo. Anh phải thành thật khai báo, “ngoan cố” nà sẽ bị trừng trị. Bây giờ anh khai tên tuổi, đơn vị và, nhiệm vụ trong đơn vị của anh.


                            Hình minh họa

                            Tôi chưa làm theo lời yêu cầu đó, mà từ từ đưa tay mở chiếc đồng hồ Seiko tôi đang đeo ra để bên góc phải của bàn, xong trả lời:

                            – Xin cho tôi biết cách xưng hô, vì tôi chưa biết cách xưng hô phía bên “cách mạng”như thế nào.

                            – Hãy gọi chúng tôi là “cán bộ”, người đàn ông trả lời.

                            Xong người cán bộ nhìn vào chiếc đồng hồ của tôi và không cần ý tứ nữa, anh ta với tay nắm đồng hồ lên xem một cách chăm chú.

                            Qua cơn biến động của tâm tư trước một vật thể hấp lực, người cán bộ lấy lại bình tĩnh nói:

                            – Nào, anh khai báo đi, tên gì, đơn vị gì, cấp bậc và nhiệm vụ gì?

                            Tôi bình tĩnh trả lời:

                            – Thưa cán bộ. Tôi tên… đơn vị… cấp bậc: hạ sĩ, nhiệm vụ khinh binh (lính chiến).

                            – Không đúng, có người bảo anh là sĩ quan, anh che giấu. Người cán bộ quát.

                            – Thưa cán bộ: có lẽ người giống người, ai đó nhìn lộn tôi với người khác.

                            Trong khi hỏi chuyện như vậy, người cán bộ vẫn cầm chiếc đồng hồ của tôi trên tay và, bỗng dưng dừng câu chuyện, quay qua hỏi về đặc tính của đồng hồ:

                            – Đồng hồ nầy tiền miền Nam giá bao nhiêu?

                            – Thưa cán bộ: Tôi mới mua cách đây 4 tháng giá 45 ngàn đồng.

                            – Chà, giá trị nhỉ? Có điện đài gì trong nầy không? Tốt, xấu thế nào mà đắt thế?

                            – Dạ. Đồng hồ của Nhật, hiệu Seiko đời mới, màu mắt nai, không có điện đài gì cả, chỉ thuần là đồng hồ mà thôi. Có hai cửa sổ (ô xem ngày, ô xem giờ) có hai người lái (kim chỉ giờ, kim chỉ ngày).

                            – Hiện đại nhỉ? Rõ ràng anh là sĩ quan mới có tiêu chuẩn, mới có giấy giới thiệu của cơ quan, mới mua được đồng hồ đắt giá nầy.

                            – Thưa cán bộ: Không phải vậy, trong Nam ai có tiền đều mua được cả, hàng hoá bày bán tự do ngoài tiệm không cần giấy giới thiệu gì cả.

                            Người cán bộ nhìn vào mắt tôi để dò xét lời nói của tôi. Bỗng ông hỏi tiếp:

                            – Trong Nam ai đủ tiêu chuẩn đeo đồng hồ?

                            Tôi đáp:

                            – Thưa cán bộ, bất cứ ai cũng có thể đeo đồng hồ được cả nếu họ có tiền để mua.

                            – Náo (láo) thật nhỉ! “Mỹ Ngụy” bóc nột (lột) nhân dân thế mà vẫn có tiền mua đồng hồ. Rồi ông trả lại chiếc đồng hồ về vị trí cũ và nói:

                            – Buổi làm việc đến đây chấm dứt. Anh về dưới trại, ngày mai “nàm (làm) việc” tiếp.

                            Tôi cầm đồng hồ và theo người vệ binh về lại trại giam. Đêm đó tôi trằn trọc mãi để phân tích sự việc xảy ra, xem mình còn “hở” chỗ nào khi trả lời các câu hỏi không, và đồng ý rằng: nhờ có chiếc đồng hồ mà có thể giảm nhiệt được câu chuyện tưởng rằng sẽ căng thẳng hơn.

                            Tôi chỉ thắc mắc tại sao ông ta chấm dứt cuộc thẩm vấn khá đột ngột, (một chiến thuật điều tra, hay nghiệp vụ chưa sành sỏi?) mà đúng ra còn diễn tiến thêm nữa.

                            Trong những ngày Miền Nam vừa bị mất, câu chuyện được loan truyền là mấy mặt hàng được toàn thể cán binh miền Bắc yêu thích nhất là:

                            – Cái hồ (đồng hồ), cái đài(Radio) cái đạp (xe đạp). Cho nên không lấy làm lạ người cán bộ khi thấy đồng hồ của tôi, ông ta không khỏi choáng ngợp trước sức quyến rủ đầy mê hoặc đó.

                            Chiều hôm sau, khi cơm nước xong, người lính tìm đến tôi báo tin: Em bị ban quản giáo gọi lên bắt xác nhận cho kỹ một lần nữa xem “thẩm quyền” có đúng là sĩ quan không. Sau khi đã trót lỡ khai: “thẩm quyền” là sĩ quan rồi, nên em báo tin lại để “thẩm quyền” biết hầu tìm cách đối phó. Theo cậu ta, nếu không khai đúng sẽ bị giữ lại không cho về. Tùy “thẩm quyền quyết định”. Câu nói tùy “thẩm quyền quyết định” của người lính tuy đơn giản nhưng đã làm cho tinh thần của tôi rối bời, vì phải tìm cách đối phó trước lời khai của mình trong tay địch.

                            Hai hôm sau vệ binh lại xuất hiện trước phòng giam và dẫn tôi đi thẩm vấn lại. Vẫn khuôn mặt cũ của người thẩm vấn tôi ngày trước.

                            Khi ngồi vào bàn ông liền hỏi bâng quơ:

                            – Này mấy giờ rồi nhỉ?

                            Một sự nhắc khéo về chiếc đồng hồ của tôi chăng?

                            Tôi lại tự động cởi đồng hồ từ tay ra để bên phải của bàn như lần trước và, câu chuyện thẩm vấn bắt đầu:

                            – Sao? Anh vẫn là sĩ quan đấy chứ? Có hầm ngầm, điện đài gì khai báo ra hết đi.

                            Anh ta đặt câu hỏi ở thể xác định khiến người bị thẩm vấn dễ bị bối rối. May thay tôi vẫn bình tĩnh trả lời:

                            Thưa cán bộ: tôi vẫn là lính, là hạ sĩ khinh binh.Tôi từ xa đến đây như cán bộ vậy, làm sao biết được nơi đâu có điện đài (đài truyền tin), và hầm ngầm (hầm bí mật) để khai báo.

                            – Anh nà nính à? nương (lương) của anh bao nhiêu một tháng?

                            – Thưa cán bộ: lương căn bản của tôi là…

                            Tôi trả lời “rất ngọt”. Vì trước đây, sau khi bị thương, từ bệnh viện về nghỉ dưỡng thương, tôi được làm việc nhẹ một thời gian trong công tác sĩ quan tuyển mộ lính, nên tôi thuộc nằm lòng các mục quyền lợi của người lính để giải thích cho thanh niên biết khi họ muốn nhập ngũ.

                            (Khen quân sư nào đó đã vẻ đường cho hưu chạy, nhưng đã chạy vào đúng đường tôi đón).

                            – Phụ cấp vợ con của anh nữa? cán bộ hỏi tiếp.

                            – Thưa cán bộ: phụ cấp vợ là … và con là …

                            Cặp lông mày của viên cán bộ có vẻ nhíu lại chút đăm chiêu, vì lời khai của tôi như đúng sự thật mà ông ta đã kiểm chứng được với ai đó trong hàng binh sĩ (hoặc “an ten” đang có mặt trong tù). Ông dã-lã, cầm lại chiếc đồng hồ ngắm nghía khen đẹp và hỏi:

                            – Lương nính (lính) ngoài việc phải nuôi vợ, con. Anh để dành bao nâu (lâu) mới mua được đồng hồ nầy?

                            Câu hỏi rất hóc búa, nhưng tôi trả lời không do dự:

                            – Thưa cán bộ: Tiền mua đồng hồ nầy tôi đã thắng qua canh bạc đỏ, đen với bạn bè. Bị hành quân liên miên, lâu ngày chưa có dịp gởi tiền về cho vợ, đành mua tạm đồng hồ mang cho gọn.

                            – Anh vẫn thắng canh bạc hằng tháng đấy chứ?

                            Cán bộ hỏi tiếp, (câu hỏi ngụ ý bảo: – lương sĩ quan các anh là đấy chứ thắng bạc thế nào được).

                            Tôi trình bày và lái câu chuyện qua hướng khác:

                            – Thưa cán bộ, canh bạc có lúc thắng lúc thua, cũng như tình hình hiện nay. Đất nước đã hoàn toàn “giải phóng” rồi. Cán bộ cho tôi về để tìm lại vợ con đã bị thất lạc không biết nơi nào, có gì quý nhất tôi biếu cán bộ để làm quà (ý tôi muốn hối lộ chiếc đồng hồ để mua tự do).

                            Nhìn chiếc đồng hồ trong ham muốn lần chót rồi y trả lại vào vị trí cũ và nói: Anh về lại trại, ngày mai “nàm (làm) việc” tiếp.

                            Lại chấm dứt câu chuyện trong đột ngột, chưa có hồi kết thúc khiến tôi càng phân vân thêm. Cứ thế, chuyện vẫn dằng co, vờn nhau quanh chiếc đồng hồ của tôi qua vụ thẩm vấn. Dù cố kiềm chế lòng ham muốn thế nào đi nữa, nhưng qua ánh mắt của y, tôi cũng đọc được lòng háo hức của con người, trước sự vật đầy cám dỗ đang bày ra phơi phới trước mắt mà cả đời người, nếu không vào Nam làm sao y có thể tiếp cận, thấy được.


                            Hình minh họa

                            Đêm đó chắc là đêm khó ngủ cua y, vì phải “đấu tranh” tư tưởng trước sự chọn lựa giữa tôi và chiếc đồng hồ đầy quyến rủ. Phần tôi cũng không sao chợp mắt được với bao nỗi ám ảnh, không biết câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Trong cơn vật vờ mê thiếp, tai tôi bỗng nghe nhiều loạt đạn nổ và cả trại nhốn nháo. Sau đó là tiếng chân chạy, tiếng quát tháo ồn ào từ các khu trại khác, tiếng xích rơi loảng-xoảng từ các xà lim, và sau cùng là tiếng ra lệnh cho các tù phải sắp vào hàng điểm danh xem ai còn ai mất.

                            Đó là hồi kết của một màn trốn trại. Nửa đêm, hai người vượt rào. Một bị bắn chết, một bị bắt lại.

                            Sau đêm hãi hùng đó, mấy ngày sau, tôi bị đưa qua hàng sĩ quan và “biên chế” qua bên trại ở chung với các sĩ quan đồng đội cũ của tôi.

                            Khi chuyển khu, chiếc đồng hồ tôi vẫn còn mang theo vì chưa kịp thương thuyết. Khi sang khu mới, có lệnh phải nạp nó cho đồng chí quản kho. Sau này mới biết cả đồng chí lẫn đồng hồ cùng… bốc hơi. Khi hỏi, chỉ được trả lời là không biết. Đồng chí quản kho chuyển đơn vị khác, không thấy bàn giao lại.

                            Ba tháng sau chúng tôi bị chuyển trại từ lao xá Phan Rang ra Đồng Bà Thìn (Cam Ranh) Khánh Hoà. Trại nầy trước đây là trung tâm huấn luyện của Lực Lượng Đặc Biệt nằm sát quốc lộ một. Hằng ngày chứng kiến từng đoàn xe quân sự hàng chục chiếc Molotova, trần bịt bùng chở hàng từ hướng Sài Gòn chạy ra Bắc. Chúng tôi bị giữ tại đây để khai báo lý lịch và, giao công tác hằng ngày chia nhau đi gỡ mìn bẫy ngoài rào. Một công tác cực kỳ nguy hiểm có tính cách trả thù. Một tháng sau đã thấy kết qủa. Một đại úy Dù bị mìn nổ cắt mất một chân khiến chúng tôi phản ứng, tranh đấu không chịu thi hành lệnh sau đó nữa.

                            Cách trại nơi tôi ở 5km, có ngôi chợ tên Bảy Giếng cũng gần quốc lộ một, dân đang trở lại chợ mua bán lưa thưa, một hình thức thăm dò cách sinh hoạt của chế độ mới.
                            Đám tù chúng tôi vì còn trong vòng quản chế của bộ đội nên hằng ngày chúng tôi được 2 vệ binh thay nhau dẫn bốn anh em đi chợ mua rau cá, gánh về tự nấu ăn theo quy chế tù binh.

                            Phần tôi thật quá uổng phí một lần nữa, khi có cơ hội trốn thoát mà không làm được, vì không liên lạc được với gia đình nên không có phương tiện thực hiện ý định. Lý do dễ trốn, vì khi vệ binh đưa chúng tôi ra chợ xong, họ thay nhau tìm các cô bán hàng tán dốc, đã có phần mất cảnh giác quản lý tù. Muốn trốn thoát phải có người bên ngoài đưa đường chỉ lối, phải có tiền chi phí khi cần. Tôi dự định nếu trốn, sẽ thuê ghe chài đi đường biển vào Sài-Gòn an toàn hơn là đi đường bộ có nhiều nút chận, có nhiều rủi ro. Nhưng tôi hoàn toàn bất lực, vì mù tịt tình hình bên ngoài nên không dám liều.

                            Cái liều của người trốn trại trong lao xá Phan Rang là một bài học cho tôi phải cân nhắc khi hành động. Không thể chấp nhận loạt đạn từ sau bắn tới, chết oan mạng khi không tính toán chu đáo thua, thắng trong hành động của mình. Hơn nữa, phần gia đình tôi, xem lại không ai có bản lĩnh đứng ra thực hiện công tác liều lĩnh nầy.Thế là cơ hội thứ hai lại đôi nón ra đi.

                            Bốn tháng sau. Một ngày âm u của mùa đông miền Trung, mưa dầm rét mướt, tôi lại bị đưa lên xe bịt bùng chở đi, đi không biết về đâu.

                            Sau khi xe chạy suốt một ngày đêm, xe dừng lại trong cánh rừng già. Tất cả xuống xe ngồi xếp hàng đợi lệnh. Mưa và rét vẫn bao trùm lấy số phận của anh em chúng tôi.

                            Trong tư thế cảnh giác, tôi nhìn xem quanh mình có gốc cây nào gần, nếu bị bắn bỏ phải lăn mình qua đó hoạ chăng tránh được lằn đạn oan nghiệt. Nhưng may thay, biến cố đó không xảy ra.

                            Trời sáng hẳn. Đoàn xe chở chúng tôi vào một doanh trại của quân đội cũ, hoá ra đây là Trung tâm huấn luyện ở tỉnh Khánh Hoà, nơi trước đây dùng để huấn luyện tân binh. Chúng tôi được sát nhập với một số lớn quân nhân khác của tỉnh ra trình diện với mỹ từ “học viên cải tạo”. “Học viên cải tạo” bị cấm tiếp xúc với chúng tôi vì lẽ chúng tôi là “tù binh ác ôn”, chống phá cách mạng đến cùng. Nhưng rồi sau đó, anh em hiểu ra đây là đòn tuyên truyền gây chia rẽ giữa chúng tôi với nhau mà thôi.

                            Những ngày tháng sau đó, công việc của bọn tù là “bốn món ăn chơi”, gồm: Tranh, Tre, Kè, Gỗ. Tù được chia thành toán, mỗi toán cả trăm người có vệ binh kèm theo xuất trại “lao động”. Toán cắt tranh tuy có phần nhẹ nhàng, nhưng khi vào rừng tranh thường hay bị ngộp thở, ngất xỉu vì tranh cao quá đầu khiến thiếu dưỡng khí. Toán chặt gỗ có hai loại, loại gỗ củi, gỗ đốt than chỉ quanh quẩn gần trại, toán gỗ danh mộc thì phải lên núi cao hơn và phải ở lại cả một, hai tháng mới về một lần, (có vệ binh theo canh giữ). Gỗ quý thường dùng đóng tủ, bàn ghế, cho cán bộ trại làm quà cho cấp trên và làm “chiến lợi phẩm” cho mình chở về Bắc.

                            Đáng nói là toán đi “kè” và tre. ”Kè” còn gọi là lá Kè, lá Buông có tàn lá rộng lớn dùng để làm nón, lợp nhà. Cây buông cao như cây dừa nhưng bẹ kè rậm rạp sắc nhọn hơn. Có người đã chết vì bẹ kè rơi từ cao xuống đâm thủng bụng.

                            Rừng kè, rừng buông nghe thấy lạ. Nghe tre, thấy quen hơn, thân thương làm sao. Nhưng khu rừng tre nơi bọn tù phải chui phải đốn thì chằng chịt gai góc. Muốn đốn được tre phải đổ máu. Bảy người trong toán thay nhau “khoét lỗ chó” để vào gốc. Khi chui khi chặt, gai tre cào xước cả mặt. Chặt xong phải tỉa cành cho gọn, vậy mà cả toán 7 người cùng kéo vẫn không lôi nổi một cây tre ra khỏi bụi.

                            Trọn ngày lao động mỗi người chỉ có trong tay hai cây tre già đặt ruột tòn- ten mang về, nhìn tưởng là nhàn lắm. Sự thật là thiên nan vạn nan.

                            Cứ thế “năm tháng ngậm ngùi” trôi qua trong rừng. Ngày ngày chỉ thấy “ta với ta”, những khuôn mặt lần hồi bị biến dạng, những thân hình lần hồi bị teo tóp do thiếu dinh dưỡng, khiến con người dễ bị sa sút, suy sụp.

                            Bỗng có một lần, khi toán lao động điểm danh xong để xuất trại, một cán bộ chận lại nơi cổng hỏi lý lịch quê quán của tù. Ai sinh ra từ Đà Nẵng hoặc Huế đứng qua một bên đi công tác ngoài trại chưa biết đi đâu. Khi đủ số 10 người thì lên xe GMC chờ sẵn, số còn lại vẫn xuất trại lao động thường lệ. (Sau nầy mới biết xe đi Nha-Trang, sợ người quê cùng điạ phương dễ trốn).

                            Chúng tôi được xe chở vòng vèo trong rừng ra cặp đường nhựa rồi chạy về hướng Nha Trang. Chao ơi! Đã bao năm rồi không thấy đường nhựa, không thấy phố xá, nay được GMC chở đi, vẫn thấy thú vị như thuở ngồi xe Jeep.

                            Xe chạy đến kho gạo trong Nha Trang để lãnh gạo, bị trục trặc thủ tục gì đó, người cán bộ ở lại làm việc. Để “tranh thủ” xe chạy đến chợ Đầm Nha Trang cho mấy vệ binh mua sắm đồ của trại gởi.

                            Chúng tôi trên xe bị dồn lại một góc có vệ binh canh giữ.

                            Nhìn xuống lề chợ, thấy có số người đứng nhìn lên, họ xì xầm gì đó một hồi. Chắc họ biết chúng tôi là sĩ quan đi “tù”, nên thoáng chốc họ liệng lên xe như mưa nào bánh mì, chuối, rồi khoai sắn, đường thẻ, đường cục, có cả xà phòng, khăn mặt, bàn chải răng, dầu gió, mọi thứ tù cần. Thấy vậy vệ binh ngăn cấm, không cho liệng lên nữa.


                            Hình minh họa

                            Chúng tôi đứng nghẹn ngào rưng rưng hàng lệ đón nhận tình cảm cuả đồng bào dành cho mình. Thật không ngờ đã bao năm qua mà họ vẫn còn dành cho chúng tôi tấm lòng yêu thương như vậy. Nay 30/4 về, qua mấy dòng nầy, xin gởi lời cảm tạ qúy vị ân nhân vô danh chợ Đầm Nha Trang thời đó, đã cứu đói chúng tôi một tuần hã hê trong tù.

                            Trở lại chuyện trong trại

                            Để chống nổi loạn và chống trốn trại do tuyệt vọng đường về, những ngày đầu nhập trại họ tung tin: Không nên trồng cây lâu dài, chỉ trồng khoai, bắp, sáu tháng ăn liền mà thôi. Anh em lại bàn nhau, chắc chỉ ở đây chừng đó ngày rồi về. Nhưng sáu tháng trôi qua, ăn hết đợt nầy, qua đợt khác cũng không có dấu hiệu gì khả quan. Quả bóng hy vọng lại eo xèo xì hơi…

                            Ban quản trại lại bày trò tăng “dây cót” khác độc đáo hơn cho anh em hy vọng tiếp. Trại cho lệnh nhà bếp nấu cơm gói (đùm) ba ngày, rồi đem nồi niêu, soong chảo đi trả.

                            Tù lại “hồ hởi” bàn tán: Trả dụng cụ nhà bếp là hết nấu, ba ngày cơm gói là ba ngày đi đường, là ngày về rồi còn gì nữa, chí lý quá mà! Cứ vậy mà bàn cãi, hy vọng. Nhưng rồi, ngày về vẫn chỉ là bánh vẽ. Hết ba ngày cơm gói, ăn và giậm chân tại chỗ. Trại cho lệnh, vào làng mượn nồi niêu soong chảo khác về nấu lại trong lặng thinh như không có việc gì xảy ra.

                            Cảnh tuyệt vọng có hồi làm bùng lên phong trào “tự đua” (trốn trại). Khởi đầu là chàng phi công L.T. Đúng là tuổi trẻ tài cao, trong trại anh tự khổ luyện lấy bản lãnh đội trời, đạp đất (đầu không đội nón, chân không mang giày) để chiụ đựng trong hoàn cảnh nghiệt ngã khi gặp phải bên ngoài. Anh đã thoát ra khỏi trại bằng mưu mô chước qủy cuả mình, trốn lên đến Buôn Mê Thuột, dự trù sẽ vượt Trường sơn qua Thái Lan. Nhưng rủi to đã bị bắt lại ở bến xe Buôn Mê Thuột khi đang trà trộn ngủ qua đêm với khách ngược xuôi tại đây.

                            Bị giải về lại trại và bị nhốt trong thùng sắt (Conex của Mỹ) dòng dã mấy tháng. Bị hành hạ đủ kiểu mà anh vẫn sống sót, khi ra khỏi thùng sắt chỉ còn là bộ xương. Nhưng ý chí anh bạn phi công này vẫn bền vững.

                            Kế tiếp, có đôi chàng chăn bò cũng “tự đua”. Sau giờ quy định của trại không thấy đưa bò về chuồng. Cả hai đều là Trung tá. Một Lực Lượng Đặc Biệt, một Biệt Động Quân. …

                            Mấy tháng sau, chàng trung tá Biệt Động Quân, được vệ binh súng kềm hông, tay bị trói chặt, mặt mày sưng vù, chân bước khập khiễng vì bị tra tấn, được “đưa về dinh” trở lại, (sau đó mới biết sự sai lầm của gia đình, thường xuyên tiếp tế đến điểm ẩn trốn, bị điạ phương theo dõi bắt được). Bài học phải trả bằng máu.

                            Thêm một cuộc vượt trại khác xảy ra. Lần nầy là một Thiếu tá trưởng ty An Ninh Quân Đội của một tiểu khu vùng I. Ông ta bị bắn trọng thương ngoài rào, sau đó bị xử bắn cho chết luôn trước sự chứng kiến của các “nhà trưởng” mà trại tập trung lại cho thấy (để dằn mặt). Một người bị bắt lại nhưng “vô sự” vì nghe đâu hắn là ”cò mồi” của trại gài để dụ tù trốn.

                            Qua những bất an của trại là những cuộc ”biên chế” xáo tung, trộn lộn, quậy đều tù trong trại, mục đích không để cho những người sống gần nhau lâu năm có cơ hội “rù rì” tìm đường trốn trại. Đêm ngủ một giờ phải điểm danh một lần, mỗi lán trại phải có người trực canh gác lẫn nhau, bên ngoài có vệ binh thay phiên tuần tiểu rất nghiêm ngặt.

                            Tưởng chừng những biện pháp cứng rắn đó có thể áp đảo, ngăn chặn được “âm mưu trốn trại”của tù.Nhưng họ đã lầm. Lần nầy hai người tù gốc người Bình Thuận lại trốn ngoài rừng khi đi lao động.

                            Chuyến nầy tôi được rủ theo, vì tôi và hai người dự mưu cùng trong ban điều hành của lán trại, một nhà trưởng, một nhà phó, và tôi là thư ký. Họ thấy tôi ”mồ côi”(không thân nhân thăm nuôi) nên muốn cho tôi cơ hội. Vị thấy mình không chủ động được việc trốn nên dù tiếc rẻ không dám theo. Chỉ đến khi bị tù vượt biên năm 1986 sau nầy, tôi chủ mưu trốn, mới dám dẫn theo 5 người cùng trốn thoát với tôi). Mấy tháng sau có tin vui. Hai người đó đã xuống tàu “đi cứu nước” bình an.

                            Thoát một cảnh đời tù đày tăm tối

                            Một cuộc trốn tù khác ngoài rừng cũng lắm ly kỳ. Lần nầy là một trung úy nghe đâu cháu cuả thủ tướng T.T.K. Ngày đó là chủ nhật, bỗng dưng người tù nầy có lệnh xuất trại lao động cùng vài anh em khác. Người trung úy có dàn xếp thăm nuôi chui ngoài rừng. Hết giờ lao động khi trở về người tù ấy đã cao bay xa chạy, nghe đâu vụ nầy có mua chuộc từ cán bộ trại.

                            Trong cảnh đường cùng vô vọng, cơn sóng ngầm trốn trại vẫn chuyển động và, cơn sóng nổi (đàn áp) vẫn vờn lượn trong biển tù mênh mông.

                            Trước viển ảnh nguy biến đó, bỗng dưng có phép lạ. Một ngày, tù được lệnh nghỉ lao động ở lại trại để khai báo lại lý lịch cho chính xác. Tù tự hỏi màn gì xảy ra nữa đây?

                            Thế rồi một nhóm tù được phóng thích, trong đó có cả người đang bị giam trong xà lim (thùng conex Mỹ) vì tội chây lười lao động, vì tội chống đối “cách mạng” phao tin đồn thất thiệt v.v… Rồi cứ thế từng đợt phóng thích khác tiếp tục.Tôi cũng được phóng thích trong các đợt kế tiếp sau đó. Riêng các tù bị ghép vào thành phần “nợ máu của nhân dân” được chuyển qua trại khác sinh hoạt chờ đợi…

                            Sau này, khi ra bên ngoài mới biết, có sự can thiệp của Mỹ đối với tù nên được thả, sau hằng chục năm tù.

                            Những ngày tháng sau, tù lại ra đi, đi vì nước mất nhà tan, vì không có chốn dung thân trên chính quê hương của mình. Đi vì đại họa con số oan nghiệt 30/4 hiện về. Đi khi “tro tàn đã bay trắng đầu”, khi sức đã cạn, lực đã kiệt bởi tù đày của Cộng sản. Riêng tôi vượt biển nên phải “ngậm ngùi” thêm 4 năm nữa ở đảo mới thấy “cổng thiên đường” Mỹ.

                            Và rồi, bây giờ 39 năm sau. Khơi lại ký ức, chẳng biết từ bao giờ, tro tàn của tháng Tư năm xưa đã bay trắng cả đầu.


                            Ngô Văn Thu

                            https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                            Comment


                            • Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh

                              Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh
                              Hồ Viết Yên



                              Hình minh họa

                              Qua email chuyển tiếp, tôi đọc được bài viết "Nhớ Lại Cuộc Trao Trả Tù Binh 30 Năm Trước" của tác giả Cán bộ Việt Cộng (VC) Nguyễn Hoàng Long đề ngày 7/3/2003.

                              Bài viết chỉ vỏn vẹn một trang giấy, nên tôi tò mò muốn biết thực hư ra sao, mức độ chính xác như thế nào về câu chuyện trao trả tù binh ngày 10-3-1973, tại thôn Long Quang, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định của vị "Cán ngố" này.

                              Cũng vẫn giọng điệu tuyên truyền, những con số đưa ra không chấp nhận được vì không phản ảnh tính trung thực cộng thêm những lời lẽ thù hận, nhục mạ Dân Quân Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) và Đồng Minh dầu rằng cuộc chiến đã chấm dứt hơn 27 năm rồi. Thật đáng buồn và ai oán cho kẻ cầm bút thiếu lương tâm, thiếu đạo đức.

                              Ngày nay con người Cộng Sản và Việt Cộng đã hiện nguyên hình, ai cũng thừa biết họ là thứ người thế nào. Họ vinh thân phì da, họ quỵ lụy Tàu Cộng, họ xiết chặt và áp bức dân nghèo. Nỗi buồn cho vận nước, nỗi xót xa cho Dân tộc Việt Nam cứ mãi âm ĩ trong tôi. Càng cố quên, không nghĩ tới những việc đã nằm trong quá khứ, nhưng chuyện xưa cứ chập chờn trong trí nhớ, kéo tôi trở về những Phi Vụ xa xưa.

                              Muốn hay không muốn thì những chuyến bay trao trả tù binh vẫn còn đây và ăn sâu trong tiềm thức nên tôi muốn ghi lại để chia sẻ cùng các bạn.

                              Hiệp định Paris được ký kết, lệnh ngưng bắn bắt đầu có hiệu lực và kế đến là việc trao trả tù binh giữa hai miền Nam Bắc mà tôi đã có mặt trong nhiều phi vụ này. Cảm nghĩ của tôi lúc đó thật vui vì cuộc chiến sắp chấm dứt, những ngày thanh bình sắp đến trên quê hương. Vui vì sẽ không còn thấy chết chóc, thương tật bởi bom đạn. Vui vì những anh em tù binh của mỗi bên sẽ được trở về sum họp với gia đình, vợ con.

                              Thời gian đó Phi Đoàn 237 mỗi ngày biệt phái hai máy bay Chinook để thi hành phi vụ trao trả tù binh. Những phi vụ này được đặt ưu tiên hàng đầu. Tù binh sẽ lần lượt được trao trả theo thứ tự. Thành phần quân Chính quy Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) trước. Sau đó đến những thành phần của mặt trận Giải phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC.

                              Mỗi ngày 2 chiếc Chinook cất cánh từ Biên Hoà lên đáp phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Tại đây Phi Hành Đoàn (PHĐ) đợi chỉ thị của Ủy Ban Quân Sự 4 bên (Gồm: Hoa Kỳ, VNCH, Mặt Trận Giải Phóng và CSBV). Mọi chuyến bay được điều động, thu xếp, và đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Tôi được biết những phi cơ C-130 sẽ chở các tù binh từ Côn Sơn hay Phú Quốc về đây. Họ sẽ qua thủ tục trao trả và sau đó lên Chinook để chúng tôi chở tới địa điểm bàn giao.

                              Nhìn các phi cơ C-130 lần lượt đáp, những đoàn tù binh xuống máy bay. Họ được Quân Cảnh VNCH hướng dẫn và sắp xếp mỗi toán 45 người theo sức chở của Chinook.

                              Tôi thấy họ không có vẻ gì khác thường ngoại trừ vài người phải chống nạng vì bị thương ở chân, họ nối đuôi nhau, và không ai nói với ai lời nào. Khuôn mặt họ không biểu lộ vẻ vui hay buồn phiền.

                              Kế phi đạo, là một khu dành riêng dùng làm địa điểm cho thủ tục trao trả. An ninh, trật tự ở đây là phần vụ của lực lượng Quân Cảnh.

                              Những người tù binh khi đến đây họ có quyền quyết định xin ở lại hay tiếp tục trở về phía bên kia. Ranh giới "Đi hay Ở" chỉ là 1 lằn vẽ, hay những sợi dây. Quyền lựa chọn dành cho mọi tù binh, điều này chứng tỏ sự yêu chuộng Tự Do và lòng nhân đạo của Chính quyền miền Nam Việt Nam.

                              Mỗi toán đều được đưa đến lằn ranh "Đi hay Ở". Nếu bước qua lằn ranh thì sẽ được ở lại, còn đứng yên trong hàng thì sẽ lên Chinook để tới địa điểm bàn giao. Mỗi toán đều có vài người xin ở lại. Một số ít người vì đứng cách xa lằn ranh, muốn chạy qua để xin ở lại nhưng không kịp, họ đã bị kéo lại và ăn đòn. Nếu không bước qua được lằn ranh thì Quân Cảnh cũng không được quyền can thiệp. Đó thật là điều oái ăm, tội nghiệp cho ai không may mắn, bị kéo lại. Nhiều lúc ngồi đợi, tôi hỏi chuyện những người lính Quân Cảnh và được nghe họ kể những câu chuyện tù binh CSBV trừng trị nhau trong tù và có nhiều câu chuyện thật ghê rợn. Nghe để thấy con người Cộng Sản thật tàn ác.


                              Hình minh họa

                              Có lệnh cất cánh bay đến Căn cứ Thiện Ngôn, gần biên giới Campuchia (Lúc này đang ở dưới sự kiểm soát của Việt Cộng). Tôi đã từng đáp vào căn cứ này hằng ngày dưới thời của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Thiện Ngôn là bộ Chỉ huy của Lữ đoàn Dù trong trận săn đuổi và triệt hạ nguồn dự trữ, kho súng đạn và đồ tiếp tế của VC trên đất Miên.

                              Chúng tôi cất cánh bay sau chiếc trực thăng UH-1 có sơn màu cam của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Khi đáp xuống Thiện Ngôn, chúng tôi tắt máy và chờ lệnh, tôi bước ra khỏi phòng lái, nhìn về phía những tù binh theo nhau xuống phi cơ.

                              Dưới đất đã có các cán bộ VC đến nhận tù binh. Vài người đầu tiên vừa đụng chân tới đất thì bắt đầu cởi quần áo quăng xuống đất, thế là tất cả những người còn lại đều cởi quần áo quăng đầy trong máy bay. Tôi bắt đầu thấy họ không còn như khi từ C-130 xuống nữa. Họ giơ tay, la ó, hò hét những khẩu hiệu, nào hoan hô, nào đả đảo, số tù binh đông, nên tôi không nhìn thấy được ai ra lệnh và những khuôn mặt tôi mới nhìn thấy bình thường kia giờ đây trở nên đằng đằng sát khí. Tôi nghĩ là chúng ta đã lầm và đang thả cọp về rừng. Nhưng đây là điều quan trọng trong hiệp định Paris thì dầu muốn dầu không cũng phải thực hiện.

                              Bên trong chiếc Chinook giờ đây giống như phòng chứa rác. Không những quần áo mà còn những đồ mà Chính phủ VNCH cho. Anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải phải ra công dọn dẹp vì nếu để, khi quay máy những quần áo này sẽ bị hút lên dính vào cánh quạt, làm hư hại máy bay. Mỗi chuyến đáp đều phải dọn dẹp, đều phải nghe và đều phải thấy những điều chướng tai gai mắt. Trong lúc chờ đợi lệnh được cất cánh, tôi đi vòng chung quanh máy bay để kiểm soát, quan sát cánh quạt và toàn thân của máy bay.

                              Khi tôi quay lại thì thấy cô Phóng viên VC đang chụp hình tôi. Rồi trong những lần đáp khác cũng thấy cô chụp hình. Có lúc cô đứng xa chụp, có lúc cô lại gần chụp. Máy hình hiệu Canon, coi cũng có vẻ “Pro” lắm. Nhưng sau đó tôi để ý và suy nghĩ thì hình như cô cốt ý chụp chiếc Chinook ở những góc cạnh khác nhau hơn là chụp hình tôi.

                              Tôi muốn chọc nên tôi đợi cô đến gần máy bay thì làm bộ đi ngang và nói “Nếu trong máy có phim thì tôi sẽ cho địa chỉ để gởi hình”. Cô không nói không rằng bỏ đi một nước. Thế là “Thúy đã đi rồi”, và từ đó tôi không còn được cô chiếu cố chụp hình nữa.

                              Chở trả tù binh CSBV thì nhiều nhưng nhận lại bạn mình không được bao nhiêu. Cứ vài ngày thì nhận được năm hay mười người. Lâu lâu nhận được một toán vài chục người. Trong một bữa trưa để chờ nhận khoảng 15 hay 16 anh em, nghe nói họ đang được dắt đi bộ từ sáng sớm bên kia Biên giới Campuchia và băng rừng về đây. Tôi ngồi đợi mà lòng bồn chồn, náo nức vì nghe nói trong danh sách có 2 Hoa Tiêu của Phi Đoàn 237 Chinook. Đó là Thiếu Tá Trọng và Trung Úy Thanh, đã bị bắn rớt và bị bắt làm tù binh, còn anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải đã không may phải hy sinh cho Tổ quốc. Bất chợt, 2 chiếc F-5 bay rất thấp qua căn cứ Thiện Ngôn.

                              Trong lúc chúng tôi còn đang ngơ ngác, nhìn theo, không biết lý do gì họ lại bay thấp như vậy. Lúc ngó lại sân bay và những căn lều tranh thì không còn thấy một bóng dáng nào trên mặt đất. Tôi định lên quay máy để liên lạc với UH-1 của Ủy Ban Quân Sự 4 bên.

                              Nhưng súng ống từ đâu đã chỉa vào chúng tôi, những khẩu phòng không cũng đã được lộ ra, đang chỉa lên trời. Chúng tôi bị giữ lại Thiện Ngôn hơn cả giờ, trong suốt thời gian chờ đợi Ủy Ban Quân Sự 4 bên điều đình và thuyết phục đơn vị VC đang đóng tại đây cho chúng tôi cất cánh về Tây Ninh, và điều buồn hơn hết là trong ngày hôm đó các anh em đáng lẽ được trả về với gia đình thì đều bị giữ lại.

                              Sau khi đã trao trả hết tù binh chính quy CSBV, chúng tôi lại bắt đầu chở tù của những thành phần Mặt Trận Giải Phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC trong đó có cả thành phần Sinh viên hoạt động cho VC. Đây là đám người “Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản”.

                              Những chiếc xe GMC bít bùng chở họ vào phi trường Biên Hoà, rồi được sắp xếp lên Chinook để chúng tôi chở lên Lộc Ninh, một tỉnh nằm sát biên giới Miên Việt, đã bị VC chiếm giữ. Nhắc đến Lộc Ninh không bao giờ tôi quên được Phi Hành Đoàn của Đại Úy Trần Tấn Thọ và Thiếu Úy Ngô Kim Hoàng cùng anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải. Khoảng đầu năm 1971 khi đến đây đáp, móc hàng và bay tiếp tế cho Căn cứ Snoul, Phi Hành Đoàn đã bị phòng không bắn cháy khi vừa tới Snoul. Phi Hành Đoàn bị phỏng nặng, nhưng may mắn không ai bị thiệt mạng. PĐ 237 mất đi 1 Chinook.

                              Khác với những lần trao trả trước ở Tây Ninh, địa điểm trao đổi lần này diễn ra tại Lộc Ninh, thuộc vùng kiểm soát của Việt Cộng cho nên sự quyết định “Đi hay Ở” của những tù binh VC gặp nhiều khó khăn hơn bởi vấn đề an ninh không được chặt chẽ như ở Tây Ninh.

                              Khi bị kéo lại là bị đánh tơi bời. Tôi chở những người về Biên Hoà mà mặt mày bầm dập, còn dính máu, dầu đã được bên mình băng bó.

                              Trong kỳ trao trả này, chỉ có trả mà không có nhận, thêm điều buồn là một Nhân viên phi hành của PĐ237 đã hy sinh cho Tổ Quốc vì trúng đạn VC bắn lên khi Chinook đang giảm cao độ để vào đáp Lộc Ninh. Điều này làm cho cả PĐ237 rất đau buồn. Nhưng vì lệnh từ trên đưa xuống cho nên các phi vụ vẫn phải tiếp tục.

                              Qua những phi vụ trao trả tù binh, đối diện với những điều mắt thấy tai nghe, nhìn thấy rõ con người CSBV và VC, thấy đồng đội bị bắn chết, dầu hiệp định Paris đã ký kết, lệnh ngưng bắn đã ban hành, tôi thấy buồn và chơi vơi vì đàn cọp dữ nay được thả về rừng. Sớm muộn gì cũng sẽ tới phiên chúng tôi, cũng sẽ lãnh những viên đạn thù từ những kẻ mà chúng tôi đã chở trả về.

                              Thật vậy, thời gian không bao lâu, vào cuối năm 1973 trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh thật đẹp, Phi Hành Đoàn chúng tôi đã nhận viên đạn phòng không đầy hận thù gởi tặng ở cao độ 4.500 bộ tại mật khu Đồng Xoài và chỉ trong gang tấc thân xác chúng tôi đã bị nổ thành tro bụi, nhưng Thượng Đế vẫn còn thương và cho tôi sống để tôi có cơ hội kể lại chuyện này.

                              Hồ Viết Yên
                              K7/68KQ/PĐ237 / PĐ241 Chinook

                              https://www.facebook.com/groups/1051...9383096433124/

                              Comment


                              • Người Ấy

                                Người Ấy
                                Không Quân Phạm Đắc Giáp


                                Hình minh họa

                                Hàng đêm những lúc tay ấp đầu kề bên nhau, vợ tôi thường thủ thỉ: “anh kể chuyện người ấy cho em nghe đi”, tôi không nói gì cả, nàng không được vui, phụng phịu “chuyện nầy em biết hết rồi nhưng em muốn chính miệng anh kể, để em chia sẻ cùng anh chớ!”. Không biết nàng có chia sẻ cùng tôi hay không hay sau khi tôi nói ra, nàng sẽ buồn?. Tôi hẹn với nàng “trước khi nhắm mắt xuôi tay hoặc một ngày nào đó có thể bằng chính miệng hoặc anh mượn giấy thay lời nghe em”. Điệp khúc đó được nhắc mãi cho đến lúc….

                                L thua tôi một tuổi. Nhà chúng tôi ở kề bên nhau, hai đứa quen biết qua tình hàng xóm, tình bạn học, mặc dầu không cùng chung mái trường, không cùng lối về. Những năm cuối trung học, chúng tôi thường trao đổi cho nhau những bài toán khó những bài văn hay, những mẫu chuyện vui buồn của đời học sinh. Tình bạn của tôi và nàng chỉ có thế không gì hơn, không vượt qua giới hạn nào khác. Năm tôi đậu tú tài nàng là người đầu tiên chúc mừng tôi thành “ anh Tú”. Năm sau đến lượt nàng thi đậu, nàng cũng trỡ thành “cô Tú” giống tôi.

                                Thanh niên thời bây giờ ở độ tuổi ”quân dịch”, thi rớt không còn hoản dịch được là khăn gói lên đường tòng quân cứu nước, tôi học thêm vài năm chẳng ra gì đành “xếp bút nghiên theo việc đao cung “ để được trãi chí tang bồng của người trai thời chiến.

                                Chiều hôm ấy một buổi chiều mùa đông, trời ảm đạm mưa phùn dai dẳng, L. tiễn tôi lên đường với đôi mắt đậm buồn không nói lời nào, chỉ vẫy nhẹ tay chào, nhưng cũng đủ cho lòng tôi xao xuyến.

                                ***

                                Những ngày học tập quân sự ở quân trường, mồ hôi thấm đổ, để đổi lấy và trao dồi cho mình một sức khỏe chắc chắn và một bản lĩnh vững vàng của người lính. Sau tám tuần lễ “huấn nhục”chịu đựng mọi gian khổ, chúng tôi trưởng thành và chai lì hơn nhiều so với lúc còn ở ngoài dân sự. Cuối tuần là thời gian dành cho các chàng lính trẻ về Sài Gòn dạo phố, thăm thân nhân, thăm người yêu nếu có, hoặc ở lại quân trường vui chơi với các bạn độc thân xa nhà. Buổi đi phép đầu tiên được dạo phố, trong bộ quân phục Sinh Viên Sĩ Quan với dáng dấp oai hùng của người lính sao thấy oai quá, bao ánh mắt nhìn vào với nhiều thiện cảm, làm cho mình tự tin và mạnh dạn hơn lên.

                                Lần đó và nhiều lần sau, tuần nào tôi cũng cố gắng về Sài Gòn hoặc dạo phố hoạc theo bạn bè vui chơi để tìm thêm những niềm vui mới, đồng thời trút bỏ mọi mệt nhọc sau một tuần học tập ở quân trường và cũng để quên đi nổi nhớ nhà, nhớ người thân trong bao tháng ngày dài xa cách.

                                Học ở quân trường đã sáu tháng, tôi (một trong 50 bạn ) đầy đủ sức khỏe được lựa chọn chuyển qua Quân chủng Không Quân học lái máy bay trở thành phi công sau nầy. Lại xa Sài Gòn trong bao luyến tiếc, nơi đây đã để lại bóng hình mà mình mới quen trong những lần đi phép, dầu sao đó cũng là ít nhiều kỷ niệm cho đời lính để gói trọn vào hành trang mang theo bên mình.

                                Tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang, chúng tôi làm lại từ đầu của một thanh niên mới vào quân ngủ, học nhiều và nhiều hơn những gì đã học ở quân trường củ. Chúng tôi đã và đang trở thành một người lính thực thụ, sau tám tuần lễ “tái huấn nhục” chúng tôi được gắn lại “alpha” và phục hồi cấp bậc Sinh viên Sĩ quan như củ. Những sáng chủ nhật đi phép với bộ quân phục kaki màu vàng thật rắn rỏi, thật đẹp, hòa nhập cùng quân trường Hải Quân bạn với màu trắng nhẹ nhàng. Trắng vàng hòa hợp vừa hùng mạnh vừa thanh nhả, lả lướt khắp đường phố, vẽ lên và tạo cho Nha Trang một vẽ đẹp hào hùng của người lính. Hai màu sắc quân phục rắn rỏi và trang nhả ấy vừa đắt khách lại vừa đắt giá nhất cũng vừa khoe sắc thắm, sự hùng dũng của mình để dể bề chinh phục mỹ nhân thành phố biễn.

                                Nha Trang với con đường Duy Tân thẳng tấp song song cùng bờ biễn. Biễn và đường thật thơ mộng chạy dài từ bắc xuống nam, nơi đâu cũng cát trắng với những hàng dương xanh cụt ngọn đổ bóng, cộng thêm ánh mát của bao hàng dừa bao phủ. Biễn Nha Trang đã đẹp lại mát mỗi khi trời chiều đổ bóng. Sinh viên Sĩ quan chúng tôi thường mượn nơi đây để hẹn hò, gặp gỡ với các cô bạn gái mà biết bao lần xuất trại mình mới được làm quen.

                                Thời gian trôi qua, chúng tôi lần lượt ra trường. Bạn bè mỗi đứa một phương trời xa cách, mỗi lần nhắc lại Nha Trang với bao kỷ niệm tình cảm sống lại trong tôi, nơi đây là chốn “tình trường” nên phải xông pha chiền đấu cùng những chàng trai oai hùng khác, thắng cũng lắm mà thua cũng nhiều, gây sóng gió thì nhận sóng gió, đời trai lính chiến tình cảm thật chứa chan, thắng thua trong tình trường là chuyện bình thường, chẳng lấy gì làm buồn cả! Chuyện tình chỉ là kỷ niệm, làm đẹp cho đời lính làm dày thêm nhật ký tình yêu, hết mối tình nầy, chạy theo mối tình khác, không biết chán chường không biết mỏi mệt.

                                Sau khi tốt nghiệp khoá bay, tôi lên phục vụ đơn vị đóng ở Pleiku phố núi, đất bùn níu chặt chân người chiến sĩ, mây mù giăng khắp lối, làm khó khăn cho những chuyến bay vào mục tiêu. Nơi núi rừng trùng điệp heo hút, với những phi vụ hành quân liên tục, những gian nan cực khổ của một phi công trên vùng trời lửa đạn mà lưới đạn phòng không luôn chực chờ. Tôi bị phòng không địch bắn nhiều lần, số vẫn hên nên chưa lần nào người dính đạn.

                                Ở Pleiku hay những nơi biệt phái, từ Ban Mê Thuột, Kontum Phú Bổn xuống thành phố biễn Qui Nhơn Tuy Hòa, nơi đâu chúng tôi cũng có nơi hò hẹn với những em gái thân thương. Cuộc đời lính bay độc thân chúng tôi là thế và chỉ có thế mới lấp đi nổi cô đơn của người lính xa nhà.

                                ***

                                Đã mấy năm xa nhà, lần nầy tôi về phép. Đà Nẵng khơi lại trong tôi với bao kỷ niệm của thời thơ ấu, của những năm cuối trung học, và nhất là đôi mắt đậm buồn của người con gái tiễn tôi đi. Tôi rất mừng khi gặp lại nàng, nàng không phải là L., tôi cũng không phải là G. của ngày ấy, chúng tôi đã trưởng thành, đã chửng chạc và đã...người lớn hơn xưa rất nhiều.

                                L kể cho tôi nghe sau một năm ngày tôi nhập ngủ, L mạnh dạn xếp bút nhiên theo chí hướng nam nhi, nàng đi vào quân ngủ. L được huấn luyện ở quân trường Sĩ Quan Nữ Quân Nhân, cũng cực khổ cũng dầm mưa dãi nắng chẳng thua gì các đấng nam nhi. Rồi nàng ra trường, cũng mang lon thiếu úy như ai lai được ở đơn vị gần nhà nữa chớ.

                                Gặp tôi, nàng bảo “chúng mình bây giờ là lính cả, thật là vui phải không anh?. L là thiếu úy trước anh đó nghe, lần sau gặp nhau anh phải chào L trước nhớ không, thưa ông “pilot “! Niềm vui của chúng tôi vừa là bằng hữu vừa là chiến hữu nên tự nhiên, và dể đồng cảm nhau hơn.

                                Về lại Pleiku tôi mang theo một niềm vui mới đó là L, chúng tôi liên lạc bằng thư từ thường xuyên, những chuyện vui buồn của đời lính, những ước mơ tươi đẹp ngày mai gỡi cho nhau, nhũng lần về phép kế tiếp hai tôi hiểu nhau nhiều, tình cảm gắn bó nhau hơn, rồi đến lúc tình cảm cũng nhường chỗ…Tại căn phòng nầy khi xưa là phòng học của nàng, chúng tôi từng trao cho nhau những bài toán, bài văn hay những mẩu chuyện của đời học sinh, và cũng căn phòng nầy giờ đây… lại chứa đựng bao ước mơ bao hạnh phúc của hai con tim đồng nhịp và cũng tại đây...nàng đồng ý nhận lời cầu hôn chân tình của tôi. Vâng, chúng mình đã lớn cả rồi phải không L phài không G?

                                Được sự đồng ý của má của chị và cũng là là sự mong mỏi nhất của hai người, vì tôi là con trai duy nhất đã 28 tuổi rồi, bao lần má hối thúc tôi lấy vợ cho có cháu nội má ẳm má bồng ở tuổi già lẻ bóng, có lần má vào tận Nha Trang nơi tôi đóng quân lúc mới ra trường, má biết nơi đây tôi cũng có dăm ba mối tình chi đó, tôi chưa chịu nên má lại về không. Lần nầy má rất vui vì biết được L là người như thế nào, L đã để lại nhiều cái đẹp cho gia đình tôi theo năm tháng ở gần kề nhau. L cùng tôi hướng về tương lai với nhiều mộng đẹp, lễ đính hôn sẽ ra sao? rồi thành hôn phải như thế nào cho tươm tất…đó là những câu hỏi thật hạnh phúc và thích thú quá phải không L? phải không G?.

                                “Con ngồi đây má nói chuyện nầy một tí”, giọng má nhỏ hơn mọi lúc, sắc mặt đăm chiêu và buồn tôi không biết má nói chuyện gì đây? sao mặt má căng thẳng và buồn thế?

                                Tôi ngồi xuống bên má tâm tư cũng lo lắng theo sự không bình thường và buồn bả của má, hồi hợp tôi chờ đợi…má nói trong sự xúc động, trong sự tiếc thương.

                                “Má chỉ có mình con, bao nhiêu hy sinh bao nhiêu mất mác má từng kể, con biết đó, cũng vì con chỉ có con má mới sống nổi đến ngày hôm nay, má rất thương L, má và chị con rất mừng khi hai con đến với nhau, nghỉ một lác cho cơn xúc động bớt đi má tiếp, “con với L chỉ có duyên mà không có nợ, má cùng chị Hai con vừa đi coi thầy về, tuổi hai con khắc nhau đến chết, mạng con yểu lắm nếu hai đứa lấy nhau thì con chết thôi, con mà chết má cũng chết theo mất, con thương má nghe con, nghe con, không vợ nầy thì vợ khác, đâu phải chỉ có một mình L đâu, đàn ông mà con”. Nghe đến đây, hai tai tôi ù lên, đầu như có ai cầm búa bổ vào, lúc nầy tôi cứ tưởng ai đang nói chớ không phải má. Mặt cúi xuống, tôi cố dằng cơn sốc đến thật bất ngờ với mình, cố kiềm sự xúc động và vội bước ra sau rữa mặt cho tỉnh người, cố đè nén những xúc động, những mất mác mình đang và sẽ gặp phải.

                                Phải, cuộc đời của má tôi từ đau khổ nầy đến đau khổ khác, từ mất mác nầy sang mất mác khác, từ bà chủ nay thành kẻ trắng tay, bao nhiêu lần hoạn nạn là bấy nhiêu lần má đều cố gượng dậy vượt qua bao khó khăn gian khổ dầu đi làm thuê, ở mướn hay một người “culi” chăng nữa má vẫn vui má không thấy buồn, chỉ để nuôi nấng, để chị em tôi có nơi nương tựa, được nên người. Càng nghĩ về má tôi càng yêu quí má vô cùng, vẫn biết những điều má vừa nói là hoàn toàn vô lý chỉ là mê tín không hợp với khoa hoc chút nào, tôi không cãi không dám nghịch lại ý má sợ má buồn, tôi chỉ buồn cho tình duyên của mình thôi.

                                Gặp lại nhau cũng trong căn phòng nầy, ngày xưa ấy hai tôi cùng ngồi học bên nhau và cũng nơi nầy chỉ cách mấy ngày thôi chúng tôi đã thêu dệt bao ước mơ bao hạnh phúc, bao lời ngọt ngào cho nhau và cứ tưởng sự thật sẽ đến trong tầm tay mình. Và giờ đây cũng nơi nầy chốn nầy, nước mắt tràn đầy cho nhau để khóc cho mối tình chưa hợp mà đã tan mau. “Hảy khóc đi em cho vơi tình sầu, hảy khóc đi em cho quên mộng ước ban đầu, hãy khóc đi em cho tình tan vỡ, khóc đi em…nghẹn ngào mình xa nhau”.

                                Những lời nghẹn ngào trong nước mắt của nàng: “chuyện nầy em nghe má anh nói rồi, thôi mình xa nhau anh nhé, em đã dứt khoát rồi!”.

                                Và đó là những giọt nước mắt sau cùng chúng tôi gỡi cho nhau.

                                Về lại Pleiku, nghĩ về L bao nhiêu tôi lại càng nhớ má càng nhiều bấy nhiêu. Má hy sinh một đời cho con mà phận làm con tôi chưa một lần tôi báo đáp cho má, chưa một lần tôi làm cho má vui lòng. Vẫn biết tình yêu là do con tim mình mách bảo nhưng tôi không dám làm theo con tim, không dám cãi lại trí óc mình trong lúc nầy, và chỉ có má, má là tất cả má ơi má ơi…

                                Mấy kỳ phép liền không về Đà Nẵng, ở lại trên nầy cho tình cảm trong tôi lắng dịu lại, mặc dầu nhớ má lắm. Không thấy tôi về thăm, má lặn lội đi xe đò lên thăm, cho dù đường bộ lúc nầy nguy hiểm, má kể: “từ khi tôi đi L cũng không trở về nhà, má cứ tưởng L bỏ nhà lên với tôi”.

                                Không không má đừng nghi cho L tôi nghiệp cho nàng má ơi. Và từ đó chúng tôi xa nhau.

                                ***

                                Nhìn qua một lượt trên sạp áo quần, mợ chỉ tay hỏi cô bé bán hàng: - Quần đùi nầy cháu bán bao nhiêu? Dụi đôi mắt cho tỉnh hẵn giấc ngủ chập chờn buổi trưa nóng nực, cô bé ngước nhìn mợ cháu tôi, nở nụ cười chào khách:

                                - Dạ thưa bác mua một cái?”

                                - Bác mua đủ cặp. Bé báo giá mợ mua ngay không mặc cả và tặng tôi. Thắc mắc, tôi hỏi nhỏ sao đắt thế, mợ cười pha chút khôi hài:

                                - Giá rẽ đó con, nụ cười của cô bán hàng đây mới đáng ngàn vàng, phải không cháu gái?. Cô bé mắc cở tủm tỉm cười cám ơn, mợ hỏi thêm bé được bao nhiêu tuổi?

                                - Dạ mười tám ạ .

                                ***

                                - Ngồi đây má nói chuyện nầy nghe con. Lại ngồi đây ngồi đây mãi để cho con yên đi má! tôi càu nhàu trong miệng không dám nói ra.

                                Không biết lần nầy má lại nói chuyện gì đây. Ngồi sát bên, nhìn sắc mặt má lần nầy tôi thấy già đi hẵn nhưng không thấy sự đăm chiêu và căng thẳng như lần trước, những nếp nhăn hiện rõ trên khuôn mặt, ừ má già rồi còn gì nữa đã gần 70 chớ ít đâu.

                                Con à, con nhỏ bán áo quần con gặp hôm qua con thấy có được không? vừa dễ thương, vừa đẹp, hiền lành lại biết buôn bán, quan trọng hơn cả tuổi hai con rất hợp nhau từ cung mạng đến số mạng, hai tuổi nầy đều hổ trợ cho nhau trong việc xây dựng vợ chồng.

                                Má nói một hơi dài như ông thầy bói đang mở chiêu dụ khách xem số mạng, tình duyên cho đôi tình nhân vậy, nghe má nói cô ấy biết bán buôn tôi cười thầm: “ biết buôn bán nên hai cái quần xà lỏn giá gần ngày lương của tôi mà mợ cho rẻ, mua được nụ cười mới quan trọng, mợ còn nhấn mạnh bác mua đủ cặp, mợ nói đúng lắm”.

                                Phải, nụ cười ấy ánh mắt ẩy đã để lại cho tôi những rung động của giây phút ban đầu mới gặp, cô bé ấy vừa đẹp vừa dể thương và duyên dáng đấy chớ, má nhắc lại: - sao con?, nghe lời má bằng lòng đi con, lớn tuổi rồi kén chọn gì nữa. Tôi nói cô ấy còn nhỏ thua con cả chuc tuổi khó coi quá má ơi – biết bao người lớn tuổi lấy vợ trẻ đó sao? đàn bà đẻ vài đứa là già liền con khéo lo, sợ con bé chê con không chịu đó thôi. Má nói cả hơi dài để khen cô bé và cũng thuyết phục tôi. Tôi mỉm cười gật đầu đồng ý.

                                Cậu tôi và bố nàng là chổ quen biết ở cùng đường phố, thường gặp nhau nên tôi cũng bớt ngỡ ngàng khi tiếp chuyện, cậu giới thiệu tôi là cháu ở xa mới về thăm nhà. Tôi ngồi nghe hai người nói chuyện và chỉ trả lời những gì họ hỏi, trong lúc chuyện trò bố nàng cũng có ít nhiều cảm tình dành cho tôi. Trước khi ra về bố siết chặt tay và mời tôi có dịp lại thăm bố.

                                Trước khi lên Pleiku những chiều kế tiếp tôi “lì đòn” trở lại gian hàng nàng để mua thêm ít đồ không cần thiết chủ yếu để nhìn, để ngắm cái đẹp và nụ cười “đáng giá ngàn vàng”. Hình như linh tính báo cho nàng biết trước điều gì, nên nàng rụt rè e thẹn khi tiếp chuyện cùng tôi, càng e thẹn càng rụt rè bao nhiêu thì cái đẹp cái duyên dáng của nàng lại nổi bật bấy nhiêu, tôi năn nỉ và cuối cùng xin được địa chỉ để viết thư cho nàng.

                                Những lần về phép sau, tôi mạnh dạn tới thăm ba mẹ nàng hay đúng hơn gặp nàng để nhìn tận mắt hình bóng mà mình đã mang theo trong suốt thời gian về phép. Ban đầu, nàng còn e thẹn không mạnh dạn, dần dần nàng cũng thích thú nghe tôi kể những chuyện của đời phi công trên bầu trời tây nguyên, ngang dọc bay qua với biết bao hiểm nguy nơi chiến trường, tàu dính bao nhiêu vết đạn mà vẫn lao vào vòng chiến, những lúc trời xấu mây bao phủ cả vùng trời vẫn cố gắng bay qua không hề sợ hiểm nguy nào cả, nàng càng nghe từ chổ lo lắng sợ sệt đến chổ càng thích thú say mê, cái nhút nhác thẹn thùng ban đầu của nàng cũng bớt, dạn dỉ dần và có ….cảm tình với tôi nhiều hơn.

                                Sự thúc đẩy của má, má nói cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày thiên hạ dèm pha , tôi trì hoản mãi cũng không được má còn bảo hôn nhân đi trước hạnh phúc theo sau là chuyện thường, nếu con yêu thương thật thì tình yêu sẽ đến ngay, đừng chần chờ gì nữa nghe con.

                                Tại nhà nàng chúng tôi có một không gian riêng để gặp nhau, để tìm hiểu nhau thêm, và nơi đây lời cầu hôn cùa tôi được nàng chấp thuận với một yêu cầu:- thong thả tiến tới hôn nhân nghe anh, em mới mười tám còn nhỏ quá anh ơi, rồi nàng hỏi anh được bao nhiêu tuổi, tôi không dám trả lời thật, bớt lại năm tuổi nàng vẫn hồ nghi nhưng không sao, yêu nhau tuổi tác đâu có thành vấn đề phải không anh? đừng gọi anh bằng chú nghe em? chúng tôi cùng cười và ….nụ hôn đầu đời nàng đón nhận cho một tình yêu mới nở vâng, tình yêu của một người con gái mới lớn mới chập chửng vào đời, nụ hôn còn vụng về còn sợ sệt trong vòng tay siết chặt, thì làm sao tôi không cảm nhận được tình yêu, không ngất ngây theo nhịp đập của tim nàng.

                                Chọn được ngày lành tháng tốt hai bên gia đình quyết định tổ chức lễ đính hôn, buồn thay những ngày trước và sau lễ, chiến trường ở tây nguyên trở nên sôi động hơn bao giờ hết, tất cả nhân viên phi hành chúng tôi bay liên tục từ sáng đến chiều để yểm trơ chiến trường cho sự sống còn của quân bạn, cho sự cư an tư nguy. Vì tình đồng đội vì tình chiến hữu, tôi phải vắng mặt đám hỏi quan trọng của đời mình, để phục vụ cho đại sự cho bình an tổ quốc, nên ngày lễ hứa hôn chỉ có cô dâu còn chú rễ chẳng thấy đâu. Em có buồn không em? không có anh bên để dìu em từng bước trong bộ đồ cưới đẹp nhất, cho em mạnh dạn bước ra trình diện hai họ không em? Chắc em không buồn đâu nhỉ, dầu không có anh, em vẫn mạnh dạn vẫn vui vì em biết anh hy sinh tình riêng để lo cho đại sự là cuộc chiến hôm nay phải không em? phải không em?

                                Em phụng phịu với giọng trách yêu “hổng chịu đâu, hổng chịu đâu” anh gạt em, mới đám hỏi đó chưa được mấy ngày đã lo tính chuyện đám cưới, em mới mười tám để cho em lớn chút nữa đi, em mắc cở lắm nghe anh. Càng phụng phịu bao nhiêu cái duyên dáng nét dể thương càng hiện rõ trên khuôn mặt nàng. Hơn bao giờ hết tôi mới cảm nhận được người vợ thật sự của mình là đây sẽ cho mình và gia đình những gì mình mong ước nhất.

                                Nhờ sự giúp đở của hai bên gia đình, những ngày cận tết của năm ấy đám cưới chúng tôi được tổ chức thật tươm tất thật trang trọng, một đám cưới mọi người nhìn vào ai ai cũng không tiếc lời khen ngợi.

                                Để bù lai sự vắng mặt của chú rễ trong ngày đính hôn, thì hôm nay từ Pleiku chỉ huy trưởng lái máy bay chở sáu vị chức sắc trong phi đoàn về dự tiệc cưới của chúng tôi, thật hạnh phúc quá phải không em, người vợ yêu quí của anh. Và từ đây cô dâu đã biết mặt người anh cả cùng những đồng đội của chú rễ trong phi đoàn.

                                Cưới nhau xong là đi, vâng là trai thời chiến chúng tôi chỉ gần nhau được bốn ngày, bốn ngày ấy thật hạnh phúc và quí giá quá, mình đã đưa nhau đến đỉnh tuyệt vời của tình yêu, của bến bờ hạnh phúc, mặc dầu chưa có một tuần trăng mật cho nhau sau ngày cưới nhưng nàng không buồn nàng vẫn vui bởi chồng mình là lính.

                                Mới cưới nhau đã vắng chồng ở nhà một mình, thật buồn, bao nhớ nhung bao lo toan biết nói cùng ai, may cũng còn mẹ và chị chồng thương yêu, đùm bọc chỉ vẽ cho những gì chưa biết, sự yêu thương đùm bọc ấy làm cho cả ba gần gủi lại nhiều hơn xem nhau như ba mẹ con ruột rà thật sự, một hoặc hai tháng tôi cũng có năm bảy ngày phép về thăm em để lấp đi bao nhớ nhung trống vắng của những ngày xa cách, tôi xin phép má đưa em lên đơn vị sống cùng tôi vài tháng.

                                Dãy phòng chúng tôi ở trên đồi tận cuối đường bay nên lúc nào cũng thấy rõ máy bay phi đoàn mình lên xuống, phòng độc thân dành cho một người vừa kê đủ một giường một tủ cá nhân và một bàn nhỏ đọc sách hoặc viết thư, xung quanh phòng được che chắn nhiều lớp bao cát để chống pháo kích. Từ ngày có vợ, phòng ốc trở nên ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẻ nền nhà luôn luôn sạch bóng không còn lộn xộn như trước. Cũng chừng đó vật dụng nhưng khi qua tay vợ sắp xếp sao thấy rộng rãi, mát mẻ hơn nhiều.

                                Bữa cơm nào cũng ngon cả tôi khen tài nghệ làm bếp của nàng đáo để. Nàng không nhận lời khen, đổ thừa má dạy em nấu cho anh ăn đó, câu trả lời khôn khéo và dể thương quá hở em?

                                Chiều chiều sau giờ rảnh em đứng nhìn từ đồi xuống cuối đường bay, những con chim sắt sau một ngày uốn lượn mệt mỏi với những phi vụ hành quân trở về tổ ấm, từng chiếc rồi từng chiếc đáp nhẹ xuống đường băng chạy dài đến khuất tầm mắt, chắc trong số đó cũng có chồng mình đang ngồi lái, mình hảnh diện chồng biết lái máy bay, mình cũng biết lái phi công như chồng đấy chứ.

                                Ở trong cư xá không quân Pleiku thời gian, em biết được gần hết chiến hữu cùng các chị vợ yêu thương của bạn chồng, nơi đây em đã chứng kiến bao nhiêu đòng đội bạn ra đi không trở lại, cái vui cái buồn đời lính em cũng chia sẻ ít nhiều, đôi lúc suy tư có chồng pilot sao mà hồi hợp quá mỗi lần chồng hành quân là mỗi lần lo lắng, em luôn cầu nguyện cho chồng và tất cả đồng đội của chồng được bình an trong mọi phi vụ hành quân.

                                Tình hình chiến sự trở nên khốc liệt hơn, hàng đêm không biết bao đợt pháo kích phóng vào phi trường, những tiếng rít kéo dài của tầm đạn, tiếng nổ kinh hồn làm nàng sợ sệt nằm co ro bên chồng thầm cầu nguyện. Nàng lúc nầy đang mang thai đứa con đầu lòng, chạy vội theo chồng xuống hầm trú ẩn bị té nhào, may mà không sao.

                                Sợ nguy hiểm sẽ đến vợ con nên hôm sau tôi đưa vợ về lại Đà Nẵng. và từ đó căn phòng không còn tiếng cười tiếng nói chào đón rồn rả mỗi khi chồng về. Vắng em căn phòng lai buồn bả, đâu còn ngăn nắp nữa, đâu còn những bữa cơm ngon em nấu cho chồng, chỉ còn chăng là gạo sấy cùng thịt hộp cho qua bữa thế thôi.

                                Từ ngày mới bước chân lên Pleiku thấm thoát gần hai năm rưởi rồi, nơi đây phi trường còn vắng vẻ lưa thưa, hôm nay đã nhộn nhịp hẵn, bao nhiêu dãy nhà mọc lên bao nhiêu máy bay đậu kín chổ. Tôi được lệnh chuyển đơn vị. Cầm lệnh thuyên chuyển trên tay, với biết bao kỷ niệm vui buồn trổi dậy, nơi đây tôi cùng đồng đội sát cánh bên nhau, những địa danh như Pleime Dakto BenHet Charly Tân Cảnh rồi qua tận đất Lào, nhà thủy tạ Biển Hồ Cam Pu Chia..., nơi đâu cũng để lại dấu ấn của cánh bay mình, những phi công như Huỳnh Mười người bạn cùng khóa cùng chịu đựng số phận “vịt đẹt” như tôi, nào Đoàn Phan, Khải lửa Mr Di ( Ổi ) Việt bị đạn dịch bắn vào bụng cũng ráng đáp an toàn để nhập viện rồi đi đâu cái bị nylon cũng ở bên mình …. Quan sát viên như Đức (người cày cỏ ruộng) Đoàn Lương, Xuân, Nu, Minh Nguyệt, Đôn (lò) và biết bao nhiêu bạn nữa là những người thân thương nhất cùng tôi sống chết trên bầu trời đầy lữa đạn, giờ đây tôi chia tay các bạn, giã từ phi trường, các địa danh quen thuộc, thành phố Pleiku và các biệt đội là nơi đã để lại cho tôi biết bao vui buồn của đời lính.

                                Về lại Đà Nẵng của đất Quảng mến yêu, tôi cũng tiếp tục chiến đấu như các bạn đang chiến đấu ở đây vậy. Chiến trường miền trung sôi động hơn nhiều, tôi lao mình vào nơi khói lửa ngay từ chiến trường nầy đến nơi biệt phái khác, vẫn nhớ Pleiku thân yêu, vẫn nhớ những nơi biệt phái mình đã qua, để lại nơi đây biết bao kỷ niệm, biết bao tình cảm của người lính độc thân xa nhà mà khó ai tránh khỏi.

                                Lấy vợ thấm thoát được ba năm, đã có hai con một trai một gái thật hạnh phúc quá. Nhớ lại lời má “ hôn nhân tới trước hạnh phúc theo sau” thật không sai chút nào, có vợ biết yêu thương lo lắng cho vợ, cũng biết chìu chuộng khi em làm nủng, có cho nhau tình yêu thì mới nhận được hạnh phúc phải thế không em? Vợ tôi lúc nầy vừa buôn bán vừa lo con dại bận rộn tối ngày mà chẳng đòi hỏi nơi tôi một sự giúp đở nào cả, ngày qua ngày cuộc sống vẫn hạnh phúc êm đềm trôi qua, một hôm vợ nói nhỏ vào tai em có bầu đứa nữa anh, độ sáu bảy tháng thôi anh có con bồng, như vậy là ba năm ba đứa đó, chừa và tha bớt cho em đi nghe ông chồng yêu của em, rồi em cười ôi hạnh phúc quá.

                                Một hôm tôi ghé qua nhà L gặp em nàng cho biết, chị L có chồng sau anh một năm bây giờ chị có được hai con. Vợ chồng chị thuê nhà ở xa đây lắm, em hỏi anh còn nhớ chị không? “Nhắc chi chuyện đau lòng ấy em ơi” tôi ngậm ngùi không trả lời được gì cả. Tôi cũng xót xa cũng đau lòng cho một mối tình đẹp đã qua trong đời mình.

                                ***

                                Tình hình chiến sự lúc nầy trở nên bi đát, tin xấu từ mọi nơi dồn dập đến, Ban Mê Thuột, Pleiku mất rồi đến Đà Nẵng, và cuối cùng lịch sử cũng sang trang. Chiến tranh chấm dứt, đồng đội tan rã mạnh ai nấy chạy, tôi không thể bỏ vợ bầu con thơ trong lúc nầy mà chạy tìm đường thoát thân được, đành ở lại chịu chung số phận cùng những người bại trận. Một điều thật cay đắng bây giờ mới thấy được chúng ta là những con ong thợ hút nhụy về xây tổ hì hục từ sáng đến chiều tạo những chiến công về dâng cho thượng cấp, khi tan hàng thượng cấp âm thầm bỏ chạy không một lời từ biệt đồng đội anh em.

                                Tôi lên núi cùng anh em bại trận, để trãi dài những ngày tù tội, sáu tháng sau như lời vợ nói, thằng cu thứ ba ra đời. Vừa sung sướng lại vừa lo lắng cho hoàn cảnh khó khăn của vợ chưa đầy hai mốt đã ba đứa, đứa dắt đứa bồng đứa khóc o oe trong nôi đòi sữa mẹ mà phải bôn ba chịu khó xoay xở cho qua ngày khi không có chồng bên cạnh. Với thân gầy lặn lội hai vai gánh nặng tìm kế mưu sinh cùng mẹ chồng già yếu để lo cho con dại, cho chồng ở tù trên núi xa. Cái tuổi của em đáng lẽ em còn bay còn nhảy còn hồn nhiên như bao người con gái khác vẫn còn vui chơi với bạn bè thỏa thích, nhưng em không buồn em không trách phận, em vẫn vui chịu đựng mọi khó khăn để nuôi con thăm chồng khi được phép. Mình cứ tưởng đàn ông mới là cực khổ gian nan cận kề cái chết qua từng đường tơ kẻ tóc lúc ra mặt trận hoặc gian nan lội suối trèo non lao động vất vả tay xướt chân trầy bởi gai rừng của những ngày tù tội, đâu có thể so bằng cái khó khăn cái thiếu thốn lo toan từng bửa cho con trẻ, khi con ốm đau một mình chữa trị cho con, cái cần thiết cho bản thân cũng chẳng cần, bên tai luôn nghe những lời xỉ mắng nào vợ sĩ quan ngụy nào giặc lái ác ôn, em cũng cúi mặt làm ngơ chỉ lo chắt chiu từng đồng từng cắt để bới xách cho chồng, thật vĩ đại quá phải không em?

                                Sự chịu đựng khó nhọc và cố gắng làm ăn cũng đươc đền đáp công lao, cố xoay xở em mua được căn nhà nhỏ ngay đường phố có chỗ buôn bán, có chỗ cho mẹ già cùng bốn mẹ con trú ngụ.

                                Sau hai năm tù “cải tạo”, tôi được trở về sum hợp với gia đình, ngạc nhiên cùng mừng rỡ em ôm chồng mừng mừng tủi tủi, nghẹn ngào không nói được lời nào cả.

                                Mọi quá khứ đã đi qua bây giờ chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống của tù binh trở về với nhiều nghề bị hạn chế nên tôi chỉ biết phụ giúp vợ buôn bán, chăm lo các con, dần dần cuộc sống cũng thay đổi, sự hạn chế nghề nghiệp của chúng tôi cũng bớt đi đáng kể. Tôi cùng vợ ra sức làm, trời không phụ lòng chúng tôi mua được nhà khác khang trang rộng rãi hơn, con cái cũng lớn dần theo thời gian cũng có được trình độ để vào đời có công ăn việc làm có vợ có chồng, tất cả có cháu cho chúng tôi ẳm bồng để đợi tuổi già ghé đến.

                                Tình cờ tôi gặp lại L ở nhà người thân, mặt giáp mặt mà lòng xót xa cho một mối tình đỗ vỡ, tôi cố tình thờ ơ lạnh lùng như không biết những gì nàng nhắc lại, lý trí vẫn còn sáng suốt, tôi cố tình làm vậy cốt để nàng quên tôi, xem tôi như người tình phụ bạc để nàng được hạnh phúc bên người chồng thân yêu của mình, để tôi được hoàn toàn là lá chắn là chỗ dựa vững chắc nhất của vợ con trong lúc nầy và mãi mãi.

                                Nghĩ lại tình cảm trải qua trong cuộc đời dù chai lì cho mấy rồi cũng có một phút nào đó để tâm tư lắng đọng để cho mình ngẫm nghĩ…..

                                Chuyện đã qua đi tình cảm hạnh phúc bên nhau trên bốn chục năm rồi, mình chưa một lời nói nặng cho nhau chưa một lần làm buồn cho nhau phải không em? hạnh phúc luôn bao quanh bên ta phài không em?.

                                Anh đã trãi hết lòng mình trên giấy để em hiểu tận đáy lòng anh như anh đã hứa là sẽ kể cho em nghe về “Người Ấy” rồi đó, vợ yêu dấu của anh.


                                Không Quân Phạm Đắc Giáp

                                https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                                Last edited by khongquan2; 11-09-2019, 02:34 PM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X