Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Người Thợ Vẽ Bên Dốc Cầu Quay

    Người Thợ Vẽ Bên Dốc Cầu Quay
    Trần Bạch Thu



    Hình minh họa

    Tháng Chạp gió lùa về se lạnh, nhất là vào những buổi tối, đèn chong lấp lóe suốt các con đường ngắn quanh chợ, người qua kẻ lại mua bán ồn ào náo nhiệt. Đèn sáng nhất là ở dãy vựa dưa hấu chất đầy trên các ụ rơm còn thơm mùi rạ mới. Dãy tiệm chạp phô thường khi mở cửa đến quá nửa đêm trong mấy ngày cận Tết, nhưng tối nay quanh khu chợ hầu hết đều đóng cửa sớm từ chiều, còn trong nhà lồng chợ thì đèn lại thắp sáng choang, người ta sắp ghế đẩu chật cứng không còn lối đi và bên ngoài lộ thiên từng đống ngổn ngang các sạp gỗ của bạn hàng trong chợ được đem ra chất thành từng cụm.

    Chưa tối lắm mà dân chúng đã bu quanh chợ đông nghịt. Gánh hát cải lương đang chuẩn bị che màn dựng sân khấu ở cuối dãy nhà lồng để diễn tuồng liên tiếp trong 3 ngày Tết.

    Năm nay gánh hát không diễn ở trong đình mà lại dời về nhà lồng chợ là vì ông chủ tiệm thuốc bắc An Tế Đường đã mua bao giàn và muốn cho bà con ở xa tụ về có chỗ rộng rãi để coi cọp (coi tự do, khỏi mua vé). Đến giờ khai diễn khán giả tràn lấn, xô đẩy các hàng ghế phía sau, đứng ngồi lẫn lộn chỉ còn lại mấy chỗ ngồi danh dự ở phía trước. Hôm ấy ông Lý mặc chiếc áo bành-tô rộng thinh màu mỡ gà sáng óng. Điệu bộ trông rất nhanh nhẹn, vui tươi. Chốc chốc lại quay ra nói lớn cho đám lính kín đang đứng dang tay làm hàng rào cản bên hông nhà lồng chợ không cho khán giả tràn lấn gần sát vô sân khấu. Bất ngờ day qua bên phải ông Lý bắt gặp một cặp mắt sáng, khuôn mặt thanh tú vóc người thon gọn cân đối.

    Trên sân khấu người ta bắt đầu giới thiệu tuồng hát và không quên cảm ơn sự tiếp đãi hào phóng của ông chủ tiệm An Tế Đường. Khán giả vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh nhưng ông Lý hồn đang ở tận đâu đâu… Hình như ông đang hướng về khán giả phía bên phải. Chờ đến hồi phân đoạn ngưng tuồng hát, đèn sáng lên và người phu kéo màn che kín sân khấu, ông nhanh nhẹn đi ra phía hông nhà lồng để giáp tận mặt cô gái có cặp mắt sáng như sao băng đang hồn nhiên rướn người về phía sân khấu.

    Trước khi vãng hát, ông Lý thì thầm to nhỏ với bọn lính kín vốn là đám tay chân bộ hạ chịu nhiều ân nghĩa của ông ở chợ Tầm Vu. Kịch bản cũ rích lại bắt đầu được đem ra diễn lại. Ông Lý đóng vai người dang tay nghĩa hiệp cứu kẻ gặp nạn, bảo lãnh người cô thế. Chỉ có trời mới biết ông đã đóng vai nầy bao nhiêu lần rồi. Nhưng lần nầy lại khác…

    Một buổi sáng sớm bình thường như mọi ngày ở chợ, ông Lý đang ngồi đọc báo bỗng có một thiếu nữ còn trẻ đẹp bồng con nhỏ đến trước cửa tiệm không nói một tiếng nào chỉ khóc uất nghẹn xin giao đứa nhỏ còn quấn tả, rồi sau đó đặt đứa bé xuống chiếc ghế bành làm bằng mây có lót gối đệm vải bông gòn cho ông. Ngỡ ngàng đến chết điếng, ông Lý không còn nói được lời nào. Người tài phú bước ra vặn hỏi cớ sự và có ý muốn đuổi đi nhưng ông đã ngăn lại, mời vô bên trong tiệm hỏi han cho rõ nguồn cơn.

    Hồi năm ngoái, sau khi vãng hát ở chợ ra về cô gái có đôi mắt sáng như sao băng bị bọn lính kín tìm cớ xét giấy tờ tùy thân không có nên tình nghi áp giải về đồn trong đêm tối, may nhờ ông Lý tình cờ đi ngang qua thấy tội nghiệp nên bảo lãnh đem về nhà. Rồi từ cái đêm hôm ấy là cả một quãng đời cơ khổ nhục nhằn, mang tiếng “chữa hoang” nên cô phải bỏ xứ ra đi tá túc nhờ đỡ người anh họ ở trong “xóm miểu” Kim Liên bên Chợ Cũ, Mỹ Tho để chờ ngày sinh nở. Chỉ có vậy thôi.

    Thường khi gặp cảnh nầy thì hai bà vợ của ông Lý, một cả là người Hoa, một kế là người quán xứ bên chợ Ông Văn đều phân giải bằng cách trợ cấp cho một ít tiền rồi khuyên thiếu phụ nên bồng con về xứ. Nhưng lần nầy hai bà thấy động lòng vì thiếu phụ còn quá trẻ và nhất là đứa nhỏ lại là bé trai kháu khỉnh, mặt này sáng trưng. Còn phần ông Lý coi mòi muốn lập thêm phòng ba nên câu chuyện chưa thể kết thúc như trước. Bỗng chưng hững giữa chừng, thiếu phụ đứng lên xin ra về và nhất quyết chỉ giao con, không nhận tiền cũng như không nói gì thêm. Dứt khoát bỏ đi không hề ngoái lại.

    Ngoài kia gió Tết đang về, gánh hát cải lương cũng về chợ hát như mọi năm. Nắng vẫn lên cao, người đi chợ cuối năm vẫn rộn ràng tấp nập và trong dòng người ấy có một thiếu phụ đang lầm lũi bước đi bên lề đường mà nước mắt như mưa.

    ***

    Thời gian qua mau, đứa bé ngày càng lớn khôn, lanh lợi thường hay lẽo đẽo theo ông Lý giờ đã chống gậy đi quanh phố chợ ngày thường, còn khi có dịp đình đám nó luôn được ngồi cạnh bên ông. Tuổi già đã mỏn, con nhiều dòng nên ông Lý phải lo mọi việc trước ngày ra đi. Giao tiệm thuốc bắc cho vợ chồng người con trai trưởng đồng thời phân chia tài sản, đất đai cho tất cả các con, trai cũng như gái đã trưởng thành có gia đình hay chưa cũng đều được ông quyết định có phần. Riêng đứa nhỏ có giấy thế vì khai sanh là con của ông và mẹ ghi là vô danh. Thật khó cho ông. Đắn đo suy nghĩ kỹ ông quyết định viết di chúc trích phần huê lợi đất hương hỏa 20 giạ thóc cấp dưỡng cho đứa nhỏ tới năm 18 tuổi. Thường gia đình giàu có về tiền bạc thì còn có thể chia đều được, chứ đất đai thì rất khó. Nhất hậu hôn, nhì điền thổ. Khi cha mẹ qua đời, con cái khó lòng mà giải quyết êm thắm. Gia môn vô phúc đáo tụng đình là vậy.

    Sau nhiều năm dò hỏi, ông qua tận bên Chợ Cũ, Mỹ Tho tìm tới nhà người anh họ bên vợ cũng không biết, cho đến bây giờ mẹ đứa nhỏ ở đâu. Cuối cùng, ông Lý quyết định là sau khi ông mất, người con trai trưởng có nhiệm vụ sẽ đem giao đứa bé cho người anh họ nuôi nấng cùng với giấy tờ ghi nhận phần huê lợi 20 giạ thóc hằng năm cho đến lúc trưởng thành. Phần gia bảo được giữ kín cho đến khi đứa nhỏ khôn lớn, do chính ông giao cho người anh vợ giữ dùm là con triện nỗi bằng gỗ, in chữ Tàu “An Tế Đường” để đóng dấu đỏ lên trên bao bì gói thuốc, ba toa thuốc gia truyền và một cái thúng mây lớn dùng để rây thuốc thành viên.

    Dòng đời trôi nỗi, sau nầy đứa nhỏ không cha không mẹ sống với người Cậu lớn lên ở xóm miểu Kim Liên trong khu nhà lá mà ngay đầu hẻm có cội me già, tàng lá che phủ gần hết xóm. Ngày ngày tới trường bình thường không ai biết. Cho tới một hôm, trong lớp thầy dạy vẽ cho ra bài “tả chân” tự vẽ bất cứ cái gì ở trong nhà, người hay đồ vật cũng được. Hôm kiểm tra, thường thì học sinh vẽ giống nhau. Có em vẽ con gà, chó, mèo hay vật dụng, cũng có một ít đứa vẽ chân dung người trong gia đình. Kết quả người đứng đầu sổ điểm danh trong lớp có điểm cao nhất. Bức vẽ bằng viết chì là một cái đèn dầu để bàn rất đẹp và nổi bật hình ba chiều nhưng đặc biệt là có cái ống khói dài lại bị bể một miếng ở phía trên cùng. Thầy hỏi:
    - Sao em lại vẽ cái đèn như vậy?

    - Thưa thầy, đèn nhà em bị bể ống khói lâu rồi.

    Cả lớp cười vang. Nhất là mấy đứa lớn hay tinh nghịch. Thầy cũng cười. Nhưng từ đó một số đứa khâm phục tài vẽ của nó nên bắt đầu kết thân và lần hồi tò mò mới biết được câu chuyện đầy bi thương ở chợ Tầm Vu hồi mười mấy năm về trước.

    Thế rồi vào một buổi sáng sớm trời còn sương đục mặt trời chưa lên. Xe cộ và người qua lại đông đúc như mắc cửi, nhất là xe gắn máy Honda Dame cánh nhựa sơn hai màu xanh trắng lướt rất đẹp và nổi bật trên đường phố. Hôm ấy ngày tựu trường, từng nhóm nhỏ học sinh áo quần tươm tất đang tụ tập dọc theo lề đường líu lo trò chuyện chờ mở cổng. Mấy đứa rất vui tươi, gương mặt rạng rỡ vì mới thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và đang hy vọng chỉ còn hai, ba năm nữa thôi là tới bậc Tú Tài, nếu đi lính sẽ là Sĩ quan hay vào các trường chuyên nghiệp là Cán sự, còn thi đậu vô trường Y khoa học sẽ trở thành Bác sĩ. Nghĩ tới đó mà lòng rộn vui quên hết mọi sự đời. Nhìn xéo qua bên kia ngã tư là trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân đang dập dìu áo dài trắng, nón lá phất phơ rồi mơ màng “Gió sân trường lồng lộng áo ai bay …” Cả bọn cùng tự hãnh mặt lên trời cười vang.

    Bỗng từ xa trong lề đường dưới các tàng me cao có trái chín rụng lác đác. Trên con đường đất phủ đầy lá me khô xuất hiện hai vị Sư khất thực, kẻ trước người sau đang lầm lũi đi tới. Cả bọn ngạc nhiên khi nhìn thấy vị Sư đi trước còn trẻ măng và hình như là đứa bạn học cùng lớp hồi năm ngoái. Không dám vô lễ nên chỉ dõi mắt nhìn theo riết cho đến khi các vị Sư đi khuất rồi mới bàn tán. Nhìn quanh quất để tìm xem có ai giống không. Đến khi vào lớp học hỏi thăm các bạn ở khắp các ban ABC cũng không ai thấy. Mấy hôm sau, có đứa bạo dạn chay theo vị Sư đi trước.
    - Thưa thầy có phải thầy là …

    - Mô Phật.

    Từ sau đó không thấy hai vị Sư đi ngang qua đường trước cổng trường như trước nữa.

    Mãi đến sau nầy trong một dịp theo Mẹ lên cúng Phật ở Tịnh xá Ngọc Tường tình cờ tôi gặp lại Sư, lúc đó mới có cơ duyên chuyện vãn nhiều hơn và biết đúng thật vị Sư đi trước là người bạn học cùng lớp có tên đứng đầu sổ điểm danh trong lớp.

    Có một lần tôi lên Tịnh xá vãng cảnh, ăn cơm chay với một số bạn học cùng lớp. Gặp Sư cũng hỏi han cho biết vậy thôi.
    - Thầy cũng thi đậu hạng Bình Thứ mà sao lại đi tu.

    - Bần đạo thí nguyện mười phương tìm Mẹ.

    Nghe thấy thế, mọi người xúc động dâng tràn. Đời chắc là bể khổ. Người thiếu phụ giao con ở tiệm thuốc bắc An Tế Đường năm xưa đã thí phát qui y, không liên lạc với gia đình từ đó. Chấm hết mọi sự đời. Nay tới lượt con cũng gởi thân nơi cửa Phật. Thật ngậm ngùi.

    Trong thời gian khất thực đi khắp mọi nơi, Sư có thời kỳ được nhập môn với Thượng Tọa Thích Tâm Giác và học được nghề châm cứu tới nơi tới chốn. Sau đó thường đi khắp các Tịnh xá mở chẩn chữa bệnh cho nhiều người với lời nguyện với Thầy khi nhập môn là nếu được tinh tấn đạt thành sở nguyện thì sẽ phát tâm hành hiệp không nhận thù lao. Cứ thế mà vui cùng đạo pháp giúp đời.

    Năm năm sau cơ trời dung ruổi, Sư tìm được Mẹ đang trụ trì ở chùa Sư Cô tận ngoài Vũng Tàu. Kể từ sau đó Sư lại cởi bỏ áo cà sa trở về đời thường với danh xưng là Đạo Hiệp chuyên châm cứu và bán thuốc cao đơn hoàn tán trong vùng Mỹ Tho – Long An.

    Đạo Hiệp cất một gian nhà lá trong hẻm xóm “Cây Dái Ngựa” gần khu chợ Vòng Nhỏ, Mỹ Tho. Ông Đạo qui tụ dân lao động trong xóm tới nhà lãnh bao bì về nhà dán và cho thuốc tán hoặc thuốc viên vô hộp giấy, được tính công theo số lượng giao nộp hằng ngày. Cả xóm già trẻ bé lớn thinh không được trời ban cho công ăn việc làm tại nhà rất dễ dàng. Thuốc của Đạo Hiệp lại nỗi tiếng khắp trong vùng là thuốc trị ban nóng hiệu “Lão Hòa Thượng” có đóng dấu “An Tế Đường” bản gốc đàng hoàng và hai loại thuốc khác là thuốc tiêu và thuốc tán rơ miệng trị đẹn sữa, hoặc lác đồng tiền cho trẻ nhỏ. Thuốc chế tại nhà thuộc loại thủ công gia truyền rất thông dụng.

    Ngoài ra, Đạo Hiệp lại còn có tài châm cứu trị bệnh không lấy tiền. Tiếng lành đồn xa. Một hôm bà vợ của ông Trưởng Ty Cảnh Sát nữa đêm bị phong trúng gió méo miệng cho người tới rước Đạo Hiệp về châm cứu. Hết bệnh bà muốn trả ơn, nhưng ông Đạo mới ngoài hai mươi tuổi, không nhận gì hết trừ hương hoa cúng Phật. Nài nỉ mãi Đạo Hiệp mới chịu nhận lời đề nghị cất một kiosque bên dốc cầu Quây cho dân chúng dễ dàng tìm thấy chỗ để rước về châm cứu lúc nữa đêm nữa hôm. Mọi người buôn bán ở phố cũng như Cảnh sát đều biết rõ lai lịch của căn kiosque mới nầy. Khi mọi việc tương đối ổn định Đạo Hiệp không quảng cáo gì về thuốc gia truyền hay châm cứu ở kiosque mà lại cho trương bảng hiệu là Phòng vẽ “Anh Tuấn” ghép tên thật của mình và tên đứa em bà con. Điều đặc biệt là phòng vẽ chỉ chuyên họa hình thờ, không vẽ hay họa bất cứ thứ hình nào khác.

    Lâu dần phòng vẽ biến thành tiệm họa hình thờ chuyên nghiệp. Ở quê người ta mang ra những tấm hình bị hoen ố do tai nạn thấm nước hay bảo quản không kỹ của người thân mất đã lâu hoặc không có hình lưu lại. Dù có hình hay không chỉ cần cho biết mất năm nào bao nhiêu tuổi, nam hay nữ và nhớ dẫn theo người thân nào có gương mặt giống nhất ra tiệm “Anh Tuấn” là sẽ họa được hết. Có đủ loại mẫu hao hao giống ông Hội đồng đang mặc áo dài khăn đống ngồi trên ghế đai hay sĩ quan, binh lính chết trận chỉ cần gắn chân dung lên là thành vị tướng rất oai nghiêm. Thiện hạ đồn rằng Đạo Hiệp có tâm nên họa hình rất có thần và đem về nhà thờ rất linh do đó tiệm họa hình ngày càng đông khách, thường khi chờ cả tháng trời hình mới họa xong.

    Cả tỉnh đều biết ông Đạo Hiệp trẻ tuồi tài cao hành hiệp cứu nhân độ thế nhưng cũng có người thắc mắc vì sau nầy tuy mang danh xưng là ông Đạo nhưng lại ăn mặc thường phục và để tóc dài như một thanh niên đời thường. Thỉnh thoảng gặp bạn thân hay đi dự đám giỗ cũng ăn mặn uống rượu mạnh hay bia “33” như các thực khách khác không kiêng cử gì cả hay ít nhất cũng chay lạt như các cư sĩ tại gia. Nhất là còn trong độ tuổi thanh niên về tình trạng quân dịch ra sao?

    Sau nầy mới biết Đạo Hiệp có giấy tờ hoãn dịch vì lý do tôn giáo thuộc danh sách ở chùa Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn. Mỗi năm lên chùa làm giấy tờ gia hạn một lần và được chùa cấp giấy chứng nhận là “Sứ Giả Như Lai” đi công tác Phật sự ở các địa phương. Có nghĩa là được sinh hoạt ngoài đời bình thường ít nhất là trên giấy tờ hợp pháp. Hơn nữa, với các hoạt động thực tế giúp đời vô vị lợi, đôi khi miễn phí hoàn toàn nên được mọi người thông cảm. Ông Đạo còn trẻ nên châm chước trong đời sống hằng ngày. Đạo tại tâm mới đáng trân trọng và quí mến.

    Đa tài có khi lại đa mang. Đạo Hiệp còn biết thổi sáo mà lại thổi rất hay. Có những đêm trăng sáng từ kiosque ở phố bờ sông đường Trưng Trắc khi nước sông dâng đầy, gió thổi lan xa hòa lẫn với tiếng tiêu sầu của Đạo Hiệp nữa thì dù cho có Mỵ Nương tái thế cũng phải xiêu lòng.

    Quả thật có người con gái trẻ đẹp quê ở xã Mỹ Phong ra tiệm họa hình “Anh Tuấn” để họa hình thờ, thỉnh thoảng có tới chơi ở nhà của người bà con gần kiosque của Đạo Hiệp đem lòng yêu mến thầm.

    Đào hoa cũng có số. Hồi mới mở tiệm họa hình được một vài tháng có một cô gái quê nhà nghèo ở Cồn Bà, Gò Công ra chợ xin làm mướn, thấy tiệm họa hình đắt khách nên thử dò hỏi muốn làm người giúp việc. Túc nghiệp là đây. Đạo Hiệp cưu mang đem về căn nhà lá ở hẻm “Cây Dái Ngựa” nhờ giúp việc nhà và phụ trông coi việc mua bán thuốc gia truyền. Được một thời gian cô gái mang bầu và để tránh tiếng cho Đạo Hiệp, cô gái bỏ về xứ mang theo giọt máu rơi của Đạo Hiệp.

    ***

    Bẵng đi mười năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Không biết lúc nào và quan hệ ra sao mà Đạo Hiệp giờ đã 5 con với người đẹp năm xưa ở Mỹ Phong. Vật đổi sao dời, thời cuộc đổi thay, toàn bộ khu phố nằm ven bờ sông Trưng Trắc bị giải tỏa làm khu đi bộ hóng mát và ở cuối con đường người ta cho xây một tượng đài cao nghệu, ngang ngữa ngoảnh nhìn ra ngã ba sông nước mênh mông. Phòng vẽ “Anh Tuấn” cũng bị dở bỏ và dời về một xẻo đất nhỏ nằm gá dưới chân cầu Bạch Nha đối diện gần khu bến xe đò cũ. Cũng lại chỉ họa hình thờ. Vật lộn với đời sống mới Đạo Hiệp đang trong hồi túng quẫn. Người sống còn không lo nổi huống hồ chi người đã mất. Tiệm họa hình ế ẩm. Thuốc gia truyền bị cấm mua bán. Châm cứu không được phép đăng ký. Cả gia đình sống chen chúc trong căn nhà sàn nhỏ hẹp, chật cứng vừa làm phòng vẽ vừa sinh hoạt. Cùng đường Đạo Hiệp bắt đầu gia nhập tổ chức vượt biên, vượt biển chuyên đi móc nối khách. Tù tội nhiều phen nhưng cũng không đi lọt.

    Sau cùng, may mắn có người quen ân nghĩa nhờ châm cứu chữa bệnh thời trước nay định cư ở nước ngoài về nước thăm và cám cảnh trước khó khăn của gia đình nên đã giúp vốn cho Đạo Hiệp sang tiệm vẽ dời gia đình về bến xe mới thuộc xã Đạo Thạnh mở quán ăn ven quốc lộ để lập nghiệp. Mấy đứa con lớn lên không học hành chữ nghĩa gì cả, ra đời sớm làm lụng nghề chân tay hay rửa xe sống qua ngày.

    Được một thời gian không cạnh tranh nổi với các quán ăn, nhà hàng thời đại mới có nữ tiếp viên xinh đẹp nên Đạo Hiệp sang quán, lui về quê vợ xã Mỹ Phong làm rẫy trồng rau sinh sống.

    Gần hơn nửa đời người, Đạo Hiệp cũng dang tay hành hiệp cứu đời và thương người khốn khổ. Cuối cùng rồi cũng sa vào vòng tục lụy, nghiệp đời lẫn quẫn. Lúc sau nầy thường hay nhắc đến gia đình ông thợ mộc mù ở xứ đạo Cồn Bà, Gò Công có người con gái năm xưa tên Nhạn và đứa con rơi bây giờ thất lạc không biết ra sao? Nhớ đến câu chuyện kể ở chợ Tầm Vu hồi mấy chục năm về trước. Thăng trầm thế sự cũng nhiều, Đạo Hiệp quyết định rủ áo đi tu trở lại.

    Hôm làm lễ xuất gia khất thực dưới sự chứng kiến của một ít người thân. Đạo Hiệp xuống tóc và rơi nước mắt khi tận tay đốt ba toa thuốc gia truyền và con triện in mộc đỏ hiệu “An Tế Đường.” Sư Thầy thấy thế bèn buột miệng:
    - Họa Phúc khôn lường. Dứt nghiệp từ đây.

    Đạo Hiệp chậm rãi từ từ đi sâu vào trong hậu liêu rồi khuất dạng.

    Trần Bạch Thu
    nguồn:
    http://www.quocgiahanhchanh.com/nguoithove.htm

    Comment


    • Người Vợ Lính

      Người Vợ Lính
      Phương Lâm


      Hình minh họa

      Tiếng đạn quân thù rền vang đây đó
      Lửa bùng lên rực đỏ cháy quê hương
      Máu chiến binh hồng thắm nhuộm chiến trường
      Quyết giữ lấy phần biên cương Quốc thổ
      Là vợ của lính trong thời binh lửa
      Mái pông sô hứng đạn tưởng trời mưa
      Súng vang trời cứ ngỡ pháo giao thừa
      Mùi thuốc súng chưa khi nào được ngửi

      Thị xã Trà Vinh tôi sống không lâu nhưng nơi nầy đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, đã cưu mang tôi hai lần trên bước đường trốn chạy nạn cộng sản. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 2 năm 1975 khi đồng bào tỉnh Quảng Trị lục đục kéo ngang qua Huế, anh bà con của tôi là cố Trung Tá Nguyễn Văn Bình Sư Đoàn 1 Bộ Binh đến nhà đề nghị với má tôi:
      -Dì nên đưa các em về Trà Vinh ở với chị Thảo một thời gian, dì bảo các em chuẩn bị vài hôm nữa con lên lại đưa dì và các em đi.

      Gia đình tôi đông chị em, ba tôi bị Việt Cộng chôn sống năm Mậu Thân nên chúng tôi lúc nào cũng được lưu tâm của mọi người thân trong gia tộc.

      Mặc dù anh Bình không nói lý do gì mà đi, nhưng một vị trung tá nói như thế cũng hiểu ngầm rằng tình hình chiến sự căng thẳng. Thảm cảnh Mậu Thân còn đó, những bộ hài cốt trắng hếu bị quấn chặt dây kẽm gai, xương đầu dập nát trong những hố chôn tập thể như hiển hiện trước mắt, hình ảnh những tên đao phủ trợn mắt nhe răng, cầm búa, cầm mã tấu đánh vào đầu người dân lành vô tội làm tôi rởn ốc nổi da gà, khi nghe anh Bình nói như vậy tụi tôi cuống cuồng, chị em mỗi đứa một túi xách nhỏ mang theo ít đồ cá nhân ngồi bắt mặt ngó ra đợi anh Bình.

      Nhà chị Thảo ở đầu sân bay Trà Vinh, gần cổng Đại Đội Tổng Hành Dinh của Sư Đoàn 9 BB, chồng chị Thảo làm đại đội trưởng, căn nhà lợp lá dừa nước, vách toàn là ống đạn, chiều dài căn nhà quá cỡ nhà bình thường ,từa tựa như khu gia binh.

      Vô tới đây ai nấy thở phào nhẹ nhõm, chạy một mạch xa như vậy cứ nghĩ rứa là ổn nào ngờ chết điếng người khi nghe tin QLVNCH nhận lệnh phải buông súng.
      Thế là hết! Chị em chúng tôi nước mắt lưng tròng nhìn nhau trong âu lo, thương hận.

      Cho tôi thước vải thô màu trắng
      Quấn ngang đầu buộc chặt nỗi hờn căm
      Ba mươi tháng tư một chín bảy lăm
      Cúi đầu xuống bịt tang ngày Quốc Hận.


      Đất nước đã nhuộm đỏ màu tang tóc, đại nạn cộng sản bao trùm, không biết tương lai về đâu, nơi bám víu sau cùng là chấp tay xin ơn trên che chở .Trong thế chẳng đặng đừng chúng tôi bầu đoàn thê tử lục đục trở lại Huế, nhà của tôi đông chị em nên ba tôi xây rất to, căn sau nối liền với nhà trước, nhà đúc mái bằng dự tính lên lầu, Tết Mậu Thân bị mấy trái pháo mà không sập, vô tới cửa ngõ thì tá hỏa tam tinh, một nhà toàn là lính Việt Cộng, khi đến tột cùng của sợ hãi thì không còn biết sợ là gì nữa, tôi bước vào nhà như một con điên liệng mạnh túi xách xuống nền, hét lớn:
      -Mấy ông ở mô mà vô đây! Đi ra ngay! Ra khỏi nhà ngay lập tức!

      Đám lính cộng sản phần nhiều là choai choai cỡ mười lăm mười bảy, đứa nào đứa nấy nghe tôi hét chúng quờ quạng kéo nhau dồn lui qua phòng sau, rồi có một tên lớn tuổi ra điều đình:
      -Không biết mẹ và các cô về nên chúng cháu không chuẩn bị, mẹ cho chúng cháu ở tạm nhà sau một hai hôm để chỉ huy sắp xếp, chúng cháu sẽ đi ngay.

      Ai nấy đều mừng thầm, xuống nước nhỏ tức là nhà mình không mất.

      Bạn còn nhớ cuối mùa xuân năm nớ
      Quê hương chìm trong biển đỏ thương đau
      Tang thương ly hận chồng chất oán sầu
      Đất nước khởi đầu thiên niên mạt vận.


      Trà Vinh

      Lần nầy trở lại với hoàn cảnh khác, tay ôm con dại, cùng chồng tránh nạn thu gom đi tù lần thứ hai.

      Làng tôi có bốn người đi tù về năm 1977, anh Tùng bà con của chúng tôi, cấp bậc trung tá trước phục vụ trong ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cùng với hai thiếu úy là anh Cam và anh Đức cùng chồng tôi.

      Sau khi Trung Cộng đánh các tỉnh biên giới phía Bắc, công an vô lại nhà, bắt các anh làm lý lịch, đêm hôm sau xét hộ khẩu bắt đi luôn, chồng tôi cũng vậy, sáng hôm nay công an bắt khai lý lịch, chiều hôm đó chúng tôi vội vàng bỏ Huế ra đi.

      Gia đình ba người chúng tôi vào tá túc thị xã nầy được gần bốn tháng, rất ngạc nhiên vì cuộc sống bà con ở đây chẳng khác lúc trước mấy, quán nước mía dọc đường, quán cà phê vẫn dùng nhạc cũ trước 1975, nói đến cơm độn hầu như không ai biết, so với Huế, Quảng Trị thì đây là thiên đàng.

      Cuộc sống tinh thần ít căng thẳng hơn Huế, người dân ở đây không dòm ngó nhau nên tình trạng rình rập báo cáo lập công không có, nhờ vậy chúng tôi sống lậu ở đây trên bốn tháng rồi không bị xét hộ khẩu.

      Mâm cơm trưa đã chuẩn bị xong để bên mép giường, chiếc chiếu cũ trải xuống nền nhà làm bàn ăn cũng đã sẵn sàng, xoong cơm trắng không độn, xoong cá kèo kho khô với hẹ ngào ngạt mùi thơm,ở Huế thời điểm nầy làm chi có được bữa cơm ngon như vậy.

      Nghề đạp xe lôi giờ giấc bất thường khi sớm khi trễ, tôi bồng con ra ngồi dưới bóng mát cây xoài, nước phèn vàng quánh trong hồ nuôi cá xông lên mùi hăng hắc, nhìn ra con dốc đầu lộ chờ anh ấy về.

      Rất ngạc nhiên trưa nay sau xe có hai người, một lớn một bé, tôi bồng con đứng dậy nhường bóng mát cho ảnh kéo chiếc xe vào. Tôi gật đầu chào người phụ nữ về cùng xe với ảnh, rùng mình khi nhìn qua khuôn mặt người đàn bà nầy, quá dễ sợ,một mắt tròng trắng nhô lên như muốn nhảy ra ngoài, ghèn đóng một vòng quanh con mắt, vàng vàng xám xịt , cánh tay trái treo lên cổ một vết thương dài lòi mỡ lẫn máu vàng khè ruồi bay theo, đầu đội mũ rách toe, mặt hai mẹ con dính đầy đất bụi, tay bé cầm cái tô to, họ là người ăn xin, chồng tôi nói :
      -Em đưa chịvà cháu vô nhà, anh tháo cổ xe ra rồi vô sau.

      Tôi đưa hai mẹ con vô nhà, đẩy mâm cơm sâu vào trong, rảnh chỗ ở mép giường mời hai người ngồi, vì sống tạm nên chẳng có bàn ghế chi hết, người phụ nữ vẫn im thin thít từ ngoài sân vào tới đây, chồng tôi vào bưng theo thau nước, kẹp cái khăn trắng đã ngả màu vì nhuộm phèn, vì thiếu xà phòng, ảnh nói:
      -Chị rửa mặt rồi cho cháu ăn cơm kẻo quá trưa rồi.

      Quay qua tôi anh giới thiệu:
      -Đây là chị Quang, vợ của Đại Úy Quang trưởng phòng hành quân đơn vị cũ của anh, anh ấy là bạn, đầu năm 1974 anh thuyên chuyển về Đà Nẵng anh Quang ở lại đã bị bắn chết tại phòng ngủ trong bản doanh đơn vị khi Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuột.

      Chị Quang đứng dậy đưa em bé đi rửa mặt, nhìn khuôn mặt dơ hầy lem luốc của chị tôi không thể đoán chị ở độ tuổi nào, tôi hỏi chồng:
      -Chị ấy làm chi mà bị thương nhiều dữ vậy, nhìn mặt chị. em rùng mình, con mắt ghê quá, lòi ra không nói mà ớn ốc, cái lớp ghèn lòng thòng bao quanh, tay bị thương há miệng, mỡ máu chảy, ruồi lằng theo cả đoàn, sao chị ấy không băng bó lại, mất vệ sinh kiểu đó lâu ngày cánh tay cụt như chơi.

      Chồng tôi mĩm cười nói:
      -Đó là di chứng của thời đại.

      Tôi nói lại:
      -Đúng là bệnh thời đại, khi xã hội là một vũng bùn thì con người lấm bùn mất vệ sinh theo.

      Chị ấy đưa cháu trở vào, tôi bưng mâm cơm đặt xuống chiếc chiếu, tôi chọn ngồi sát bên chị, để hai người ngồi cùng chiều khỏi nhìn thấy mặt người đối diện, kéo nồi cơm về gần, tôi ngại cánh tay lòi mỡ đó đưa qua đưa lại, nhưng tôi giật mình khi chị đưa tay nhận chén cơm, cánh tay trắng nõn nà vết thương kinh tởm đó không còn nửa, tôi ngạc nhiên hỏi chị:
      -Hồi nãy tay chị bị thương mà sao bây giờ lành rồi.

      Chị cười nói:
      -Chuyện dài dòng lắm, chị sẽ kể cho cô nghe sau.

      Tôi suy nghĩ câu nói của chồng tôi “di chứng của thời đại”, câu nói có ẩn ý nhưng mình nghĩ không tới.

      Bây giờ tôi nhìn kỹ mặt chị, mắt trái tròng trắng vẫn nhô lên, nhưng ghèn bao quanh không còn, khuôn mặt trái xoan, sóng mũi dọc dừa, con mắt còn lại đen láy sau hàng lông mi dài, họ gọi là mắt bồ câu, một vẻ đẹp thanh tú, kiêu sa, nếu con mắt bình thường thì đúng là một giai nhân.

      Tôi thắc mắc, nhìn dáng người của chị, chắc chắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình bề thế đương nhiên là học hành tới nơi tới chốn, gia đình của chị, rồi gia đình bên chồng, dù khó khăn cách mấy đi nữa bộ hai gia đình không kham nổi hai mẹ con chị hay sao, mà chị lại phải dắt con đi ăn xin, chắc chắn có vấn đề.

      Bữa cơm xong chị phụ tôi dọn dẹp, tôi không cho, tôi nói:
      -Chị rửa tay cho cháu ngủ đi, mấy cái chén em quơ một tí là xong.

      Chồng tôi vội vàng lên yên, lái xe đi lại, để dọn hàng cho chị Thảo và đưa các mối bán buôn ở chợ về nhà, tôi dặn ảnh:
      -Anh nhớ nói qua với chị Thảo nhà mình có khách nghe.

      Anh gật đầu quay qua nói với chị Quang:
      -Tụi em ở đây khá lâu rồi chưa được ai hỏi thăm sức khỏe, đêm nay chắc cũng vậy chị phè cánh ngủ một giấc mai đi sớm.

      Anh ấy ra đi chúng tôi ngồi lại với nhau nhìn thẳng vào mắt chị tôi mở đầu:
      -Chị biết đó, em cũng là vợ lính, nhưng lính từ trại tù về, xã hội nầy gọi anh là ngụy quân, em không may mắn được làm vợ lính trong thời chiến để cùng chồng ngửi mùi thuốc súng, em cũng không may mắn làm người vợ bán từng CC máu để nuôi chồng trong các trại tù khổ sai khốn nạn.

      Em chia xẻ nhọc nhằn thân xác của anh hiện tại và trân quý dĩ vãng oai hùng của anh, em không bao giờ đụng tới vết thương đang mưng mủ, nhức nhối từ trái tim đến thớ thịt, có những buổi chiều anh ngồi quay mặt xuống hồ đôi mắt nhìn về nơi xa xôi nào đó, có khi đứng dậy mắt đỏ hoe.

      Em nghĩ đó là những phút giây thiêng liêng của cuộc sống, người anh hùng ngã ngựa, họ muốn đứng lên, nhưng đứng lên cách nào, muốn vực dậy nhưng vực cách sao đây. Em luôn cảm thông và khuyến khích tinh thần, tội nghiệp ảnh, tội nghiệp những người lính Việt Nam Cộng Hòa.

      Tội nghiệp những người vợ bị lột xác trong cái xã hội quỷ quái nầy, các chị phải đầu tắt mặt tối gánh nặng hai vai, chồng trong các trại tù, con còn nhỏ dại, tứ thân phụ mẫu già yếu tật bệnh, bây giờ em đang ngồi đây cũng đang cùng anh trốn chạy, qua một ngày là mừng một ngày, được ngày nào hay ngày đó, xã hội này là một bóng đêm dài bất tận, nhìn tới phía trước lóe lên toàn dao găm mã tấu, toàn máu là máu.

      Tôi nói một hơi chị ngồi yên lắng nghe, con mắt còn lại của chị sáng lên, long lanh đầy sát khí chị nói.
      -Chồng của cô là bạn thân của chồng chị, họ là những người lính từng kề vai sát cánh sống chết bên nhau, bây giờ người mất người còn, chú và cô đang trên đoạn đường bôn tẩu, chú có cô cảm thông chia xẻ, chị một mình lạc lõng bơ vơ, chẳng còn ai ngoài những người bạn, trân quý nhau coi nhau như ruột thịt. Chị kể cho cô nghe về chị, sáng mai mẹ con chị sẽ đi, không biết đi đâu bạn bè bảo sao thì nghe vậy.

      Chị bắt đầu kể:
      Bản doanh của đơn vị là một căn cứ của Quân đội Hoa kỳ bàn giao lại, căn cứ rất lớn, đơn vị dành một khu làm nhà ở cho sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, chị và anh Quang ở trong đó.

      Khoảng ba giờ sáng đêm 10 tháng 3 năm 1975, đang ngủ giật mình vì những tiếng nổ lớn, nửa tỉnh nửa mê không biết nổ ở đâu và hướng nào, anh Quang vùng dậy bật đèn sáng, chụp bộ đồ lính vắt trên đầu giường, tròng quần vào, cúi xuống xỏ chân vào đôi bốt đờ sô, tay lấy cây súng AR 15 dựng bên đầu giường, vén màn bước ra như thường lệ ngồi vào ghế để cột dây giày, chị nghe anh lên tiếng nói chuyện với ai đó thì một loạt súng nổ, chị giật mình vén màn nhìn ra anh Quang gục lên bàn,thấy người bắn anh Quang bận bồ đồ biệt kích bạc màu, tóc dài, dáng nhỏ mặt xương xẩu đứng nhìn anh Quang một lúc rồi bỏ đi.

      Máu anh Quang từ ghế ngồi chảy xuống có vòi, chị ngồi bệt xuống nền nhà thân hình cứng đơ, như cái xác không hồn, cứ ngồi mở to mắt nhìn máu chảy, nhìn anh ngồi gục ở đó, chị lịm chết đi như thế không biết bao lâu, con bé khóc chị giật mình, đứng lên kiếm miếng bánh quy trong hộp lương khô cho bé ăn.

      Không biết đã qua giờ thứ mấy, không biết bây giờ sáng hay chiều, mặt trời đã nghiêng bóng, như xác chết chị bước ra ngoài coi còn ai nhờ giúp. Đập cửa phòng anh Đường đối diện không nghe ai lên tiếng, mấy phòng kế bên cửa mở toang không bóng người, đơn vị im lìm vắng tanh, hoang vắng đến lạnh người, tiếng súng đì đùng nghe rất xa.

      Chị không biết việc gì đã xảy ra, một điều chị biết là lúc nầy trong đơn vị chỉ còn một mình chị, quay vào phòng, anh Quang ngồi bất động trên ghế, máu nhuộm đỏ bộ đồ hoa loang một khoảng lớn trên nền nhà.

      Nhìn anh, cứ đứng nhìn chết trân, chân taychị lạnh cóng, trong đầu lảng vảng câu hỏi. Chết rồi ư? Chết thật rồi ư? Nước mắt không chảy nữa, khô đắng cổ họng, không biết phải làm gì, đầu óc trống rỗng, chợt bừng tỉnh như qua cơn mê khi nghe tiếng người nói chuyện, tiếng chân người xào xạc đến gần, chị mừng thầm như vậy là có người giúp, nhưng phải coi ai cái đã, chị lui vào trong buồng ngủ, vạch tấm màn chắn gió nhìn ra ngoài.

      Có ba người đứng trước cửa phòng của chị, chị thấy thằng bắn anh Quang vai hắn có cột tấm vải đỏ, với thêm hai thằng khác đội mũ cối, ba đứa súng đeo vai đứng ngay cửa ra vào đang chỉ chỏ chi đó, thấy hắn chị mừng quá, vớ cây súng AR15 của anh Quang, kê mũi súng lên thành gỗ đóng lưới chắn muỗi, mũi súng cách bọn đó khoảng 3 mét, tầm đạn nầy thì cả ba đứa đều ngang vai.


      Hình minh họa


      Chị bật nhẹ khóa an toàn,kéo mạnh tấm màn che, mở mắt to nhìn ba đứa để coi chúng ra sao khi chị nghéo cò,ngón tay chị siết chặt cò súng, cho chắc ăn mũi súng nhích qua nhích lại, chúi xuống, dở lên, toe tấm ván ép làm cửa.

      Ba đứa khuất tầm nhìn, có lẽ bọn chúng nằm xuống, chị xách súng chạy ra, trở băng đạn lại, (súng anh Quang hai băng cong gắn băng keo lại với nhau) đạp mạnh cửa, thấy ba thằng nằm chồng lên nhau, chị đưa súng vào đầu bóp cò tiếp ba chục viên đạn ra đi, ba cái đầu dẹp xuống như ba mũi dày.

      Nhìn xác dẹp đầu của thằng đó chị thấy lòng mình nhẹ nhõm, tâm trí tỉnh táo lạ thường, đem đặt cây súng lên bàn cạnh anh Quang, lúc đó mới nghĩ ra; chôn anh rồi rời khỏi đây. Chị ung dung mở cái xẻng cá nhân cào một rảnh dài sâu ngang đầu gối dãy đất bên cạnh phòng ngủ, lấy tấm ra trắng bọc xác kéo anh ra huyệt chôn, anh quá cao và nặng, hơn nữa trong tư thế ngồi, chết quá lâu cứng đờ.

      Chị tập trung hàng chục chai rượu tẩm vào quần áo một lúc duỗi thẳng người ra, đất không đủ lấp kín phải vác bao cát chắn chung quanh nhà xổ ra lấp lên, một số chất thành nấm mộ, xong việc trời cũng nhá nhem tối, chị vào sửa soạn để ra đi. Chị mang theo hai cây súng của anh, cây rouleaux ngắn nòng (P38) với nửa hộp đạn, cây browning 10 viên đạn giắt vào nịt vú, xé hai tấm vải trắng trải giường làm khăn tang, quấn lên đầu cúi chào anh rồi hai mẹ con ra đi.

      Hành trình về phương Nam

      Những bước chân âm thầm trong đơn độc, không phương tiện, không bóng người trên quốc lộ, cứ đi, cứ bước, nhưng không biết điểm đến và bao giờ tới đích. Tim chị bây giờ chai cứng, thù hận đốt cháy con người, chị sẵn sàng giết bất cứ đứa nào lạng quạng trước mắt. Chị sẵn sàng chết, cho nên chị không sợ chết, chị nguyện sẽ trả thù cho anh Quang trong khả năng có thể.

      Dọc theo Quốc lộ 21về hướng đông, đi bộ đến nỗi hai bàn chân phồng lên chảy nước, đi nhanh, đi chậm, qua từng khúc, vượt từng đoạn, nơi nào có nhà vào xin ăn, ngủ bờ, ngủ bụi, ngủ bất cứ lúc nào không kể ngày đêm, chị chẳng còn biết sợ là chi, cây P.38 sẵn sàng bắn vào đầu bất cứ đứa nào. Những nơi đã đi qua không để lại trong chị dấu ấn nào, rồi một hôm không biết từ ngày đầu tới giờ đã bao lâu, mẹ con chị đứng trên đèo Phượng Hoàng hướng về phía đông, xa xa những cụm khói bốc lên có lẽ đó là thị xã Ninh Hòa.

      Người chị hừng hực nóng như cơn sốt khi đứng trong khu thị tứ đỏ rực màu máu, có lẽ miền Nam đã mất trong những ngày chị lang thang trên đường 21.
      Dọc theo Quốc lộ 1, từng cụm người ngồi,nằm, la liệt thần sắc ngu ngơ, họ ngồi vì họ đã cùng đường.Từng toán lính cộng sản đi ngang qua, những thằng bận đồ lính VNCH mang băng đỏ lẽo đẽo theo sau, chị muốn móc súng bắn nát óc mấy thằng đó.

      Chị bắt xe đi từng đoạn về Sàigòn, Sàigòn bây giờ quá tội nghiệp, xác xơ,ủ rũ,vọng nhìn theo bóng những đứa con bị đuổi ra đi.

      Sài gòn ơi! Thôi từ nay vĩnh biệt
      Ta gục đầu thương tiếc buổi chia ly
      Người ra đi đảo lộn cả đất trời
      Người nằm xuống không nói lời từ biệt
      Muôn thế hệ ngàn sau hằng thương tiếc
      Sài gòn ơi! Thôi vĩnh biệt từ nay.


      Đau đớn nhìn quang cảnh Sàigòn, thế là hết!

      Chị về nhà nghỉ một ít lâu, đợi sinh hoạt của thành phố bắt đầu khởi động lại, chị bế cháu về Cầu Ngang thăm gia đình anh Quang, chỉ nói qua loa là anh ấy tử trận, cứ vậy vài ba tháng đem cháu về thăm nội mang tí quà Sài gòn, ở lại vài ba hôm rồi lên.

      Một hôm ngồi trên xe đò lên Trà vinh để về Sàigòn, xe dừng lại đón người đàn ông bên đường với bốn năm lồng vịt, người ấy lên xe chật ních, chen ngang qua chỗ chị ngồi anh ta nheo con mắt trái, chị thấy người nầy quen quen nhưng nhớ không ra, vì mặt mày lem luốc, chị nghĩ anh ta nheo mắt tức là đã biết mình chắc ra dấu hiệu chi đó.

      Xe tới bến, chị nán lại xuống sau cùng, cố ý chờ người bán vịt, mấy lồng vịt đặt lên xe lôi, người ấy quay lại nhìn chị, chị đi bộ theo ra góc đường bán vịt gà đứng chờ. Ổn định chỗ bán, người ấy tới hỏi chị:
      -Chị Quang không nhìn ra em à, em Hoàng đây.

      Chị mừng quá, Hoàng là bạn cùng quê với anh Quang, trước đây cùng đơn vị, Hoàng ở thám sát, anh Quang làm ban hành quân. Anh em gặp nhau thường xuyên, sau Hoàng xin đổi về Sư Đoàn 9 cho gần nhà. Nghe anh Quang nói về Sư Đoàn 9 Hoàng ở đại đội trinh sát, gặp lại Hoàng giờ đây sắc thái suy sụp nhiều, già trước tuổi, cười nhưng không vui, chị nói với ảnh:
      -Mặt chú bầy hầy lem luốc, chị thấy quen quen nhưng không nhận ra, buôn bán có khá không?

      Hoàng trả lời:
      -Cũng tạm ổn, em có nghe tin anh Quang, em xin chia buồn với chị.

      -Cám ơn chú, vận nước mệnh người thôi đành chấp nhận, sao tôi thấy chú không được vui, bộ gia đình gặp chuyện gì hay sao, xã hội tăm tối con người sống theo lối chụp giật có gì chia xẻ được, mình chia xẻ cho nhau .

      Hoàng nhìn chị như dò xét, lưỡng lự nói:
      -Không có gì đâu chị, một vài chuyện lặt vặt thôi mà, hôm nào rảnh chị em mình tâm sự, cũng có vài chuyện em cần chia xẻ, nhưng không biết chia xẻ với ai, thời buổi nầy không thể tin ai được chị à.

      Chị trả lời:
      -Chú Hoàng tin anh Quang thế nào thì tin chị như vậy, bộ chú sợ chị là chó săn hả, có gì chú cứ nói đừng ngại.
      .
      Hoàng tới sát bên chị nói nhỏ:
      -Nếu chị không sợ liên lụy thì em nói, em và một số anh em đại đội trinh sát ly khai, em buôn bán thế nầy để mua lương thực thuốc men cho anh em. Anh em khá đông, nhưng bị chúng giết lần giết mòn đi cả, chuyện quá dài không thể nói một lúc ở đây được, mỗi tuần hai ngày thứ hai và thứ ba em đều có mặt ở đây, lúc nào có dịp chị về đây trúng hai ngày nầy em sẽ nói cho chị nghe.

      Chị trả lời Hoàng:
      -Bây giờ chị lên cho kịp chuyến xe đã, hai tuần sau trở lại đây tìm chú.

      Về tới Sàigòn chị tìm nhà cô bạn xin theo cô ấy chạy bán thuốc tây, chị được cô ấy giới thiệu với vài người chủ vựa thuốc, cô ấy nói:
      -Ban đầu hơi lúng túng, nhưng nghề dạy nghề, cố nhớ vài tên thuốc với công dụng và liều lượng dùng, rồi mau chóng trở thành Dược sĩ.

      Chị bám trụ ở sạp anh Nghị tại chợ Kim biên, cũng may anh Nghị là sĩ quan Biệt Động Quân tù về sớm nên anh ấy thông cảm hoàn cảnh của chị, tận tình hướng dẫn, chị ngồi liền mấy ngày để học. Thấy cũng không quá khó nên chị bắt đầu xuất chinh, anh Nghị cho chị quyển tự điển thuốc bỏ túi, cũng may trời cho có chút nhan sắc kèm theo sự lanh lẹ nên cũng buôn bán ra trò, quá dễ để hái tiền, người có thuốc đem đi bán họ không biết giá trị thuốc, người đi mua cần đúng tên thuốc, đúng bệnh chứ họ không cần biết giá tiền bao nhiêu.

      Đúng hẹn chị về Trà Vinh sáng thứ Ba, mang theo một ít thuốc đau đầu đau bụng, với một ít tiền. Hoàng mừng nói:
      -Tưởng chị lạnh gáy nói cho qua chuyện, không ngờ chị về thật.

      Hoàng chỉ quán hủ tiếu nói:
      -Chị vô đó gọi hũ tiếu ngồi đợi em, quán của hai ông bà người Hoa lớn tuổi họ ít chú ý tới người khác, hơn nữa cũng là nơi quen biết.

      Khi Hoàng vào chị lấy gói quà nhét vào tay chú ấy.
      -Trong nầy một ít thuốc, chị có ghi và một ít tiền chị phụ với chú, từ nay chú khỏi lo thuốc, anh em trong đó cần thuốc gì cho chị biết, chị sẽ phụ thêm một tý tiền để chú rộng tay chi dụng cho anh em.

      Hoàng run run nói:
      -Em cảm động quá, thay mặt anh em, em xin cám ơn chị.

      Hoàng nói tiếp:
      -Sau ngày 30 tháng 4 tụi em kéo nhau mang súng đạn đi luôn không về, mấy tháng đầu tập trung, sau nầy xé lẻ , kiếm ghe sống trong kinh rạch, rừng tràm, rừng đước, bờ bụi, tụi em đã đánh phá nhiều nơi, giết chết nhiều thằng ác ôn. Cuộc sống của anh em ngày càng khó khăn, mò tôm, bắt cá mưu sinh, mình em ngoài nầy cựa quậy phụ giúp.

      Một số anh em bị thằng trưởng công an huyện Trà Cú bắt, thằng nầy quá ác ôn, bắt ai tình nghi là nó bắn ngay, vất xác xuống sông không tra hỏi. Anh em mình đã bị nó giết đến sáu người rồi, em lo quá, cuộc sống nầy không thể kéo dài, ra trình diện gặp nó cũng chết, sống để chiến đấu nhưng chỉ một nhóm nhỏ đánh đấm làm sao, súng có mà đạn không, không lẽ sống lây lất như thế nầy mãi, em thương anh em quá nhưng nghĩ mãi không tìm ra cách nào cho ổn thỏa.

      Chị góp ý:
      -Theo ý chị trước tiên phải nghĩ cách tiêu diệt thằng công an đó đã rồi tính tiếp, bây giờ chú nên báo anh em ở yên và cố lẩn tránh, còn thằng công an chú thu thập tin tức của hắn, sinh hoạt thường ngày, gia đình, vợ con, nơi ăn, chỗ ở, thói quen, mọi việc mình sắp xếp từ từ không thể nôn nóng được, chị hứa sẽ đồng hành với chú và anh em. Thôi chị lên hai tuần sau về lại, khi nào cần việc gì chú lên chợ Kim Biên hỏi sạp thuốc tây anh Tư Nghị, chị lảng vảng quanh khu đó, cẩn thận là trên hết.

      Chị trở lại chợ Kim Biên phải nói là thời gian hái ra tiền, nhà nước cộng sản bị cấm vận, bệnh viện toàn là thuốc lá cây, xuyên tâm liên, ngải cứu. Thuốc tây trong các kho Long Bình, kho 18 và các kho dự trữ khác của VNCH bọn cộng sản đưa ra bán hàng xe, như bán vật liệu phế thải. Bọn chúng không phân biệt được các loại thuốc nên không dám dùng, thi nhau chở đi bán. Buồn cười nhất, hôm nay bán thuốc đó, ngày mai lại đi mua thuốc đó, bán ra một mua lại ngàn, sẵn tiền vơ vét của đồng bào nhắm mắt nhắm mũi mua từng bao chuyển về Bắc.

      Lặn lội ở chợ mới biết sinh hoạt đằng sau chợ, khi chiều xuống đêm lên, trong ánh đèn vàng mờ nhạt, bên những đống rác tanh hôi đủ thứ mùi, một xã hội lên ngôi, những bóng người như ma trơi lần lượt về tựu lại, họ là những tay móc túi, giật dọc, những kẻ ăn xin, những tay đâm thuê chém mướn, họ có luật lệ của họ, có vùng đất tự trị trong giới giang hồ đường phố.

      Chị không biết họ nhưng họ biết chị, chị bắt đầu thích họ, thích cái xã hội với những tay ngang tàng bướng bỉnh, coi luật pháp không là chi, chị xích lại với họ, thân thiết với họ, hòa đồng với họ, hôm nào ai làm ăn không khá chị tặng một bao lì xì, họ đủ mọi lứa tuổi, nam có, nữ có, một số có gia đình ban đêm về nhà ban ngày nhập bọn.

      Chuyện tên công an huyện Trà cú làm chị suy nghĩ mãi, nếu giết được tên nầy may ra anh em tìm được một ngả rẽ mới. Chị về gặp Hoàng như đã hẹn, Hoàng cho chị chi tiết cá nhân của tên ác ôn đó. Khó khăn là tên nầy sinh sống ăn ở trong huyện, gia đình ở đâu vùng ngoài. Chị đã nghĩ ra cách, tìm anh Nghị chủ vựa thuốc hỏi:
      -Khách quen của anh có ai làm nhà báo không?

      Anh Nghị trả lời:
      -Có mấy tay hay tới mua và đặt hàng, mua nhiều chắc đưa về ngoài bán lại.

      -Hôm nào có nhà báo tới nam nữ chi cũng được anh nhớ gọi em nghe.

      -Chi vậy, bộ muốn xin theo làm đệ hả?

      Cả hai cùng cười, sáng nào tới chợ chị cũng ghé nhắc:
      -Anh nhớ bạn nhà báo của em nghe.

      Chị tìm đám anh em móc túi nhờ họ ra tay giúp lấy cái bóp để coi giấy tờ cá nhân của người làm báo, ai nấy tranh nhau trổ tài, họ hỏi:
      -Con mồi ở đâu?

      Chị nói:
      -Chuẩn bị thôi, khi nào người đó tới chị sẽ báo.


      Hình minh họa

      Một hôm, khoảng ba giờ chiều anh Nghị cho người báo tin ngắn gọn: “người tình của chị tới”. Chị chạy quanh tìm được ba em, hai gái một trai, chị tức tốc vào sạp, người đàn ông trung niên ốm xanh có lẽ thiếu dinh dưỡng đang hút thuốc nói chuyện với anh Nghị. Thấy chị anh Nghị nheo mắt gật gật đầu, ba đứa sà vào hỏi mua thuốc đau bụng chưa kịp nói lời nào là bỏ đi ngay. Trong lòng chị lo lo, chắc thằng cha nầy không mang theo bóp đựng giấy tờ nên mấy đứa thấy không có chi đã bỏ đi.

      Chị đứng lên nói bâng quơ vài điều rồi theo sau lưng ba đứa, ra sau hàng vải con bé đưa cho chị cái bóp, chị giật mình la lên:
      -Ôi trời! Chị tưởng thằng cha không có bóp nên các em bỏ đi liền, ai dè các em đã lấy, lanh không thể tưởng được, chị bái phục các em.

      Một em nói:
      -Lanh vậy mà có khi bị bẻ què tay đó chị.

      -Chị lấy mấy tờ giấy giao bóp lại cho mấy đứa em nghe.

      Lục tìm trong bóp, một thẻ đảng viên đảng cộng sản, một giấy giới thiệu của cơ quan báo chí thành ủy Sàigòn, một thẻ chứng nhận nhân viên biên tập báo nhân dân và một chứng minh nhân dân (thẻ căn cước của mình đó) như vậy là quá đủ để chứng minh nhân thân của một người. Chị đi tìm nhóm làm giấy tờ giả, họ chụp hình làm tuốt luốt các giấy tờ kể cả thẻ chứng minh nhân dân, đương nhiên là thay tên đổi họ.

      Chị về nhà ông nội của Bé, hỏi thăm tình hình nông nghiệp, vì có vài nơi nông dân không xuống vụ, không chịu cày cấy. Nắm rõ tình hình trong vùng, chị lên chợ Trà vinh gặp chú Hoàng báo cho chú ấy biết: “thứ bảy tuần sau chị sẽ về thăm thằng đó, không biết có giết được hay không, chị cố gắng tạo điều kiện thuận lợi, bằng mọi cách nó phải chết trong ngày thứ bảy, em xin vong hồn các anh chết oan phù trợ cho chị”.

      Chị đã đi mấy trăm cây số nơi nầy nơi khác tìm chỗ thử súng, cuối cùng về sông La Ngà nơi nầy có khúc quanh nước chảy mạnh tiếng sóng ào ào, chị lấy cây súng Browning ra, cây súng quá nhỏ, đầu đạn bằng mút đũa, lúc trước thấy anh Quang hay bỏ túi chứ chưa khi nào thấy anh ấy bắn, nên chị chưa biết sự công phá của viên đạn.

      Chị không an tâm, chị mang theo trái dừa khô, dí mũi súng sát trái dừa thử một phát, coi kỹ phía bên đầu đạn ra xoáy một lỗ đút ngón tay cái lọt, thế là an tâm. Súng bán tự động một giây có thể bóp cò ba lần, chỉ có thánh mới phản công kịp, một giây ngắn ngủi trong hộp sọ không còn tý não nào.

      Ngày thứ sáu chị về Trà Vinh lấy phòng ở lại nhà trọ, chiều lang thang ra vườn dừa để đầu óc bớt căng thẳng, tự an ủi mình nếu thuận tiện thì ra tay còn không thì thôi lo lắng làm gì cho mệt. Về phòng trọ uống một chai thuốc an thần của con nít mới chợp mắt được.

      Sáng thứ bảy dậy sớm, lên bộ đồ giống như thằng mất bóp, mang tòn ten máy chụp hình, súng nhỏ mang trong bắp vế sát háng bên phải, túi quần bên nầy cắt sạch cho đỡ vướng, tập đi tập lại nhiều lần cách moi súng, nhanh và cho tay vào cò chính xác vì cây súng quá nhỏ.

      Khoảng 10 giờ sáng chị vào ủy ban nhân dân huyện, trình giấy giới thiệu và các giấy tờ liên quan cá nhân, nói cho họ biết mục đích tìm hiểu vấn đề an ninh trong huyện và nguyện vọng của bà con làm nông nghiệp, vì huyện nầy được tỉnh giới thiệu là huyện điểm nên các đồng chí trung ương quan tâm. Một cuộc họp vội vàng được triệu tập, các tay quan to, trưởng đầu nghành được giới thiệu, bí thư huyện, huyện đội trưởng, trưởng công an, và một số lâu la khác.

      Ngồi ngắm mục tiêu, không đoán được tuổi vì mặt hắn nhăn nheo da bầm bầm đen sạm, chị nghĩ trong bụng cái ngữ nầy chắc không mê gái vì sinh khí không có, như con bọ, thì hơi sức đâu mà gái với gông. Hết ban nầy qua ban khác thay nhau, thành tích, phấn đấu, chỉ tiêu, chị ngồi nghe ghi ghi chép chép như ai. Xong việc báo cáo hơn 12 giờ được mời ăn cơm trưa, chiều đi thăm một vài xã để gặp bà con, rồi đến một vài nơi coi tình hình an ninh, tới đâu chụp hình tới đó, đám cán bộ khoái tỉ, cười híp mắt.

      Đi tìm hiểu an ninh trật tự thì đi sát với trưởng công an để nghe báo cáo thành tích, cứ tưởng không còn sinh khí té ra sinh lực coi bộ dồi dào, chị mừng thầm thế thì quá thuận tiện, đàn ông lâu ngày không phụ nữ, gặp đàn bà chợ trời chỉ ba chiêu là gia tài sự nghiệp coi như xong.

      Gần bốn giờ chiều thì đoàn cán bộ và nhà báo quay về huyện, chị chụp cho họ nhiều hình lưu niệm, chụp cả ngàn cái cũng không sao vì máy không phim. Hứa sẽ đăng báo trang đầu, quay qua nói nhỏ với trưởng công an:
      – Sáng mai em có hẹn với các đồng chí thị ủy Trà Vinh, xe đò bây giờ không còn, nhờ anh giúp đưa em lên thị xã với, lên tới trên đó em lo tất cho anh, nơi ăn, chỗ ngủ, uống nước tâm sự, chứ về nơi lạ ở một mình cô đơn lắm.

      Nghe vậy thì đàn ông nào không sướng, không xuôi tai, hắn nói:
      -Tôi không có xe, cô chờ tôi đi mượn coi có ai họ cho mượn xe hay không đã.

      Chiếc xe Suzuki yên liền, có lẽ chạy bằng dầu hôi, khói phụt đen đường, gầm gừ gào thét cố lăn bánh cõng hai mạng người xa dần huyện thị. Ban đầu ngồi xa, qua một vài ổ gà xích lại gần, gần hơn rồi nhẹ nhàng ôm hắn, nghiêng mặt kê vào lưng mơn trớn cọ xát, hắn rùng mình, có lẽ lần đầu trong đời hôm nay hắn mới được cảm giác đê mê đó.

      Chị xổ toàn lời ong ve dụ dỗ, hắn im lặng không nói tiếng nào. Lên tới quốc lộ rẽ trái về thị xã, chị đề nghị ghé lên ao Bà Om chụp vài tấm hình kỷ niệm, chạy non cây số thì tới. Người ta gọi là ao nhưng đây là một cái hồ lớn, chiều dài cũng trên cây số, chiều ngang chỗ to chỗ nhỏ năm bảy trăm mét. Chung quanh hồ toàn cây sao, không đoán chính xác tuổi nhưng nhìn gốc rể cũng có thể biết số cây ở đây đã có vài ba trăm năm.

      Ao Bà Om nổi tiếng cho những cặp tình nhân hẹn hò, hoang vắng đến lạnh lùng, u buồn cô tịch. Chị chọn một gốc có hai rễ nhô lên như hai bờ tường, cao ngang đầu, ngồi xuống đó như ngồi trong góc nhà, chị nói với hắn:
      -Mình xuống đây ngồi tý đi anh, ngồi lên rễ ngang tựa lưng vào đây thì tuyệt vời.

      Hắn dựng chiếc Suzuki vào gốc cây, chị xuống ngồi trước, xích qua phải chừa chỗ bên trái, đưa tay lắc nhẹ cây súng, lẫm bẩm một mình: “sắp tới phiên mầy rồi đó”.

      Hắn vịn tay bước vô chỗ ngồi, hai người nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chị bắt đầu dựa vào hắn, mùi dầu thơm trên tóc quyến rũ hắn chịu không nổi, luồn tay phải qua lưng chị, rồi ôm lấy chị, hôn tứ tung lên trán, lên mặt, lên môi, tay trái chị vòng qua cổ hắn,hôn đáp trả, hắn say sưa hai mắt nhắm nghiền. Tay phải chị móc cây súng dí sát màng tang bên trái bóp cò, năm tiếng đẹt đẹt như tiếng vỗ tay vang lên trong buổi chiều xế bóng.

      Hắn chết liền không nhúc nhích, cũng chết trong tư thế ngồi như anh Quang, hắn chết trong lúc đang nhắm mắt tận hưởng nụ hôn nồng nàn của tử thần ban tặng. Hắn phải trả mạng lại cho sáu anh em, cho những người vì yêu thương đất nước mà hắn đã ra tay.

      Chị cũng biết rằng thằng ác ôn nầy chết thằng ác ôn khác lên thay, nhưng biết đâu thằng sau có kẽ hở, anh em tìm cơ hội vượt qua. Chị dựa lưng hắn vào rễ cây, vắt chân lên, hai tay bỏ lên đầu gối, người ta đi ngang qua cứ ngỡ hắn đang ngồi chơi. Chị chạy xe ra quốc lộ, bỏ lại trong sân chùa, đón xe gió về lại Sài gòn trong đêm.

      Tuần sau tin từ nhà anh Quang nhắn lên, cả tuần nay công an ập vào nhà lục lọi, hỏi chị hạch xách đủ điều. Cô em gái từ nhà chạy ra chợ báo tin, không biết tìm gì mà công an ập vào nhà lật tung mọi ngõ ngách, cuối cùng họ hỏi chị đi đâu, ba mẹ nói chị đi về ở dưới Cầu Ngang. Cô em nhắn chị đừng về nhà.

      Tối hôm đó chị xin ở lại với chị em bụi đời, mấy đứa móc túi đứa nào cũng thương chị, các em hỏi lý do chị ở lại, chị nói chị đang bị truy nã, mấy đứa có suy nghĩ giống chị, ban đêm ở đây còn ban ngày thì sao, không phải lẩn tránh một vài hôm mà có thể là suốt đời, một em bàn với chị:
      -Đợi má Chín về tụi em đến gặp má nhờ má nghĩ cách.

      Khoảng hơn mười giờ người đàn bà lớn tuổi đi trước,theo sau một tốp bị gậy nghêu ngao ca hát cùng nhau vào chợ, thấy cuộc sống vô tư của họ, chị cũng vui lây, mấy đứa nhỏ nói:
      -Chị ngồi khuất bên kia để bọn em nói nhỏ với má đã, nếu má đồng ý tụi em đưa má qua đây gặp chị.

      Chị nghĩ các em tuy nhỏ nhưng ra đời sớm va chạm nhiều trong việc mưu sinh nên đầu óc các em tinh tế và khôn ngoan.

      Má chín theo mấy đứa nhỏ đến gặp chị, hứa sẽ giúp, má bảo ngủ đi sáng mai dậy sớm mọi chuyện xong ngay. Mấy đứa nhỏ nhường mùng muỗi và chỗ ngủ cho chị, suốt đêm không thể nào chợp mắt được. Ngồi bó gối suy nghĩ làm thế nào để vượt qua ngõ bí nầy, chị đành bó tay nghĩ không ra cách, tự an ủi mình thôi tới đâu hay tới đó, mấy người gác chợ cầm gậy đi ngang qua la lớn:
      -Mấy thằng nhóc không ồn ào nghe chưa?

      Rất sớm má Chín mang túi vải tới tìm chị, chui vào mùng má bảo:
      -Phải làm sớm, đừng để cho tụi nó biết mặt em.

      Má mở bao ra mùi hăng hắc xông lên hôi muốn lộn ruột, lấy cái gì đó gắn lên mắt trái, má nói cái nầy khó chịu lắm, ngứa quá thì lấy tăm xỉa ngang vô,không được tháo ra, một tuần má tháo ra cho một bữa. Xong rồi gắn cái chi mát mát vào tay chị như vết thương hồi nãy em đã thấy. Má Chín làm cho chị và chỉ cách, bôi một tý phẩm đỏ lên, lấy lớp mỡ mỏng gọi là bàng nhạng lớp nầy thường bọc ngoài lá gan, hay ruột già của bò mới được, vì mỡ bò khi khô nó chuyển sang màu vàng vàng. Trời nóng mỡ tươm ướt thấm vô phẩm đỏ thành ra một vết thương mưng mủ máu.

      Quệt thêm chung quanh một lớp mật mỏng, hay nước đường thế là đi tới đâu ruồi lằng theo tới đó, gớm ghiếc ít ai dám nhìn. Đặc biệt loại bàng nhạng nầy đắp lên chỗ nào là dính sát, con mắt chị ghèn dính tèm lem là nó đó. Rồi trét đất lên mặt, lên tay, chỗ nào đậm chỗ nào nhạt là một nghệ thuật trang điểm công phu chứ không đơn giản như mình tưởng.

      Má nói bây giờ không ai có thể nhìn ra em, phải đi lang thang, tìm chỗ ngồi dang nắng cho cháy lớp da mịn màng tiểu thư nầy đi. Khi đi ngoài đường mình là người ăn xin đui què, đói đi không muốn nổi, đừng cắm đầu cắm cổ chạy như thiên hạ. Chị cám ơn má Chín dúi vào tay Má một nắm tiền, Má từ chối không lấy, chị năn nỉ Má mới cầm.

      Thế là chị nhập cuộc xin ăn, chị đi theo mấy nhóc móc túi, các em chỉ đâu chị ngồi đó, cuộc sống lề đường cũng nhiều thú vị. Gia đình chị gặp chị nhưng họ nhận không ra, khi nào cần gì chị nhờ các em móc túi liên lạc.

      Tháng trước chị thấy chú Hoàng lảng vảng trước sạp thuốc anh Nghị, chị viết mấy chữ “cần gì thì nói với em nầy, chị không tiện gặp chú”. Chị nhờ mấy em móc túi cầm tờ giấy tới giật đồ trên tay chú Hoàng để chú đuổi theo, đuổi một đoạn thì túm được thằng nhỏ, nó van xin tha, nhét miếng giấy vào tay chú, Hoàng liếc qua mảnh giấy, túm áo thằng nhỏ kéo đi:
      -Tao đem chú mầy cho công an.

      Hoàng kéo thằng nhỏ đi, viết nghuệch ngoạc mấy chữ nhét vào tay chú móc túi:
      -Em trả miếng giấy nầy lại cho người nhờ em đưa.

      Hoàng viết:
      -Ngày 9 âm lịch, về tìm xe lôi số 162.

      Đêm hôm qua chị nhờ đưa bé tới, chị ngồi trong mùng không dám cho bé thấy cái mặt dễ sợ của chị, bé nhận ra tiếng mẹ, chị cho bé biết chị hóa trang để trốn khỏi bị đi tù nên mặt mẹ dơ lắm, bé đừng nhìn và đừng nói chi hết. Hai mẹ con mình ngày mai cùng đi trốn.

      Chị từ giã gia đình hè phố, ai cũng quyến luyến yêu thương, họ là những người sống ngoài lề đường tận cùng xã hội nhưng lòng họ bao la như đại dương, tim óc họ cao như núi. Mấy đứa móc túi cầm tay chị khóc nói:
      -Chị đi đâu khi nào về nhớ tìm chúng em.

      Chuyến xe Sài Gòn Trà Vinh hôm nay về trễ vì qua trạm Vĩnh Long tụi thuế xét lâu quá, chị cũng đâm lo. Có lẽ Hoàng đã dặn chồng em rồi khi thấy số xe chị hỏi xe chú có đi không, chồng em hỏi lại:
      -Có phải chị Quang không?

      Chị gật đầu lên xe, chồng em nói:
      -Hoàng nhờ em nói lại với chị, sáng mai 3 giờ chị lên tàu Phú Thịnh khoảng 3 giờ rưỡi hay trễ hơn một tí tàu nầy sẽ nhổ neo chạy lên Sài Gòn, nếu như quá bốn giờ nó không nhổ neo thì xuống nhanh và lẩn trốn. Để chắc ăn hơn, 2 giờ em đưa chị về bến đò và sẽ đứng chờ cho đến khi đò rời bến.

      Một đêm không ai chợp mắt, có lẽ chồng tôi không biết chị Quang đã làm gì, sống ra sao trong thời gian qua. Hai giờ sáng họ ra xe lôi, tôi nắm tay chị nói:
      -Em kính phục chị, kính phục người vợ lính bất khuất, người phụ nữ anh hùng ngoài trí tưởng tượng của em. Em nhớ chị mãi, và em cầu nguyện cho chị hằng đêm.

      Lời nhắn của em: “Nếu chị đọc được bài nầy, xin chị liên lạc với Ban Biên Tập, Tập San Biệt Động Quân để lấy địa chỉ của em, chúng em nhớ chị, hỏi và tìm chị khắp nơi”.

      Thương nhớ chị nhiều.

      Phương Lâm
      nguồn:
      https://buonvuidoilinh.wordpress.com...nguoi-vo-linh/
      Last edited by BachMa; 01-15-2018, 03:57 AM.

      Comment


      • Lấy Chồng Xứ Huế

        Lấy Chồng Xứ Huế
        Thùy An


        Hình minh họa

        Quen Khanh đã ba năm, tôi không hề biết anh là người Huế. Anh nói tiếng Nam ngọt xớt. Những danh từ rất Nam bộ như “hưỡn”, “xí xọn”… anh đều hiểu rõ và đôi khi còn áp dụng vào những câu chuyện khôi hài rất có duyên. Cho đến khi tình cảm hai đứa chín muồi, Khanh ngõ ý:

        -Ba me anh muốn biết mặt em.

        Tôi theo Khanh về nhà trong tâm trạng vô cùng hồi hộp. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi vẫn cảm thấy bối rối, chân tay thừa thải trước tia nhìn vừa dịu dàng vừa soi mói của mẹ Khanh. Đó là người phụ nữ ngoài năm mươi, gương mặt tròn trịa, nước da trắng mịn phảng phất vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tóc bà nhuộm màu nâu đen, được bới cao, cài trâm đồi mồi trông rất quí phái. Bà trang điểm nhẹ nhàng, một chút phấn hồng và môi son màu nhạt.

        -Thưa mẹ, đây là Kiều Tiên, bạn gái của con.

        Nụ cười của bà thật tươi:

        -Kiều Tiên à? Cái tên dễ thương hí. Ngồi chơi đi cháu. Chờ bác một chút.

        Bà đứng dậy đi vào trong, để lại tôi ngơ ngác sau khi nghe một loạt âm thanh líu lo như chim hót. Khanh nheo mắt:

        -Sao? Không hiểu à? Anh đã nói rồi, gia đình anh người Huế, vậy mà không tin. Em có phải là chắt nội của Tào Tháo không đó?

        Mẹ Khanh ra, trên tay bưng một cái dĩa hình bầu dục tráng men xanh. Bà đến gần tôi, đặt dĩa lên bàn:

        -Ăn đông sương với bác cho vui.

        Đông sương? Không phải. Đó là những miếng thạch dày khoảng hai phân, được cắt thành từng miếng hình thoi bằng ba ngón tay. Rải rác giữa lớp thạch trong suốt là những khối vuông nhỏ màu trắng, đen, nâu, cam và xanh lá cây.

        Mẹ Khanh nhìn tôi chăm chú. Hình như bà đang nghĩ, con nhỏ này câm chắc? Và tôi cũng nghĩ, Kiều Tiên, hãy nói một câu gì đi chứ.

        -Cháu cám ơn. Ô, thạch của bác làm đẹp quá.

        Mẹ Khanh vui vẻ:

        -Người Huế gọi thạch là đông sương cháu à. Cháu ăn đi, đừng sợ, bác không dùng màu thực phẩm mô –rồi bà lấy tăm ghim miếng thạch lên săm soi –cháu coi màu nì, màu trắng là sữa, đen là cà phê, nâu là cà phê sữa, lục là nước lá dứa, còn màu gạch là nước cà rốt.

        Màu “gạch” là màu “cam”! Tôi lại học được một từ đặc trưng của Huế. Miếng thạch ngọt thanh tan trên đầu lưỡi, thấm vào lòng tôi những cảm giác dịu êm.

        Cổng nhà Khanh bỗng mở toang. Một người đàn ông trung niên,giống Khanh như tạc phóng xe máy vào. Ông đứng trước thềm, tươi cười nhìn mẹ Khanh rồi chỉ tay vào giỏ xe: một chậu hoa dâm bụt vừa nở hai nụ hàm tiếu màu vàng. Mẹ Khanh đến gần, ngắm nghía:

        -Mình mới mua hả? Ôi bông cẩn vàng, đẹp thiệt đó.

        Tôi tròn mắt. Khanh ghé vào tai tôi:

        -Người Huế gọi “Hoa dâm bụt” là “bông cẩn”.

        Ba Khanh bước vào phòng khách, mẹ Khanh theo sau bảo Khanh:

        -Con bưng chậu hoa xuống rồi đi cất xe cho ba.

        Tôi đứng dậy, vòng tay:

        -Cháu chào bác ạ.

        -Cháu là bạn gái của Khanh phải không? Bác gái nói cho bác biết rồi.

        Ba Khanh ngồi đối diện tôi, hỏi han ân cần. Giọng ông ấm áp, tuy âm sắc hơi nặng, có nhiều từ tôi không hiểu rõ, chỉ lờ mờ đoán ra. Nhưng ánh mắt ấy, cử chỉ ấy đã nói lên một tình cảm chân thành.

        oooOooo

        Tôi nhận lời cầu hôn của Khanh, mặc cho những lời bàn ra tán vào của đám bạn. Thật ra cũng vì thương tôi, nên chúng nó mới đề cao cảnh giác nhiệt tình như thế. Nào là: “Công dung ngôn hạnh mày có được bao nhiêu mà dám uống thuốc liều hở?”, “Làm dâu người Huế khó lắm, mày chịu được sao?”, “Chúng tao khuyên mày nên đi học vài khoá nấu ăn, làm bánh mới đủ sức đối phó.”…

        Tôi bịt hai tai, hét:

        -Chúng mày có im hết đi không? Tình yêu của Khanh đã cho ta đầy đủ mười thành công lực.

        Nói thì oai lắm, nhưng lòng tôi cũng hơi run khi nghe ba Khanh bảo:

        -Đám cưới xong, Khanh nên đưa Kiều Tiên về Huế thăm mệ và mấy O. Xa xôi quá, không ai vào chung vui cùng hai con được. Ba nghĩ là họ rất mong thấy mặt con dâu của ba.

        Tôi lại càng run. Cái gì “mệ”, cái gì “O”?

        Khanh lại “phụ đề Việt ngữ”:

        -Mệ là… bà nội của anh đó. Còn O là hai người em gái của ba.

        -Như vậy “O” có nghĩa là “cô” phải không anh?

        -Đúng. Cho em 10 điểm. Còn “mệ”?

        -Mệ là… bà nội chớ gì.

        -Mệ là bà thôi. Mệ nội, mệ ngoại, là bà nội, bà ngoại.

        -Sao hồi nãy anh nói mệ là bà nội? Tiền hậu bất nhất, cho anh zéro điểm là vừa.

        -OK, anh chịu thua em 1 – 0 đó, bây giờ nghe anh nói tiếp nè.

        -Bộ anh muốn em loạn thần kinh hả?

        Khanh dỗ dành:

        -Nếu em không chịu cho anh truyền thêm nội công thì làm sao ứng phó với bà con nội ngoại của anh ngoài Huế chứ.

        Có lý. Mặc dù tôi chưa quen nghe giọng Huế, nhưng nếu tôi hiểu được những từ người Huế thường dùng, thì sự đồng cảm giữa tôi và “giang sơn nhà chồng” sẽ dễ dàng hơn. Tôi lấy tờ giấy và cây bút:

        -Được rồi, anh nói đi. Em sẽ ghi và học thuộc lòng.

        Khanh phấn chấn ra mặt:

        -Em ngoan quá –rồi tằng hắng –Anh bắt đầu nè. Người Huế từ “mô” là “đâu”, ví dụ “anh đi mô?” có nghĩa là “anh đi đâu?”, “bên ni” là “bên này”, “bên nớ” là “bên kia”, “răng” là “sao”, “rứa” là “thế”, “kiệt” là “hẻm”, “tra” là “già”, “ăn kỵ” là “ăn giỗ”…

        Đầu óc tôi lùng bùng, tay chân tôi quờ quạng. Khanh đặt câu hỏi:

        -Đố em, “ôn” là gì?”

        Tôi xếp giấy lại, thở phào:

        -Anh hết vốn rồi hả? Đố như anh, con nít cũng biết. Ôn là ôn tập chớ gì.

        Khanh kí vào đầu tôi:

        -Cho em xuống học lớp Lá là vừa. “Ôn” là “Ông”. Gặp các ông già, người ta thường “Thưa ôn”, cũng như đối với các bà lão, người ta thường “thưa mệ”…

        Khanh tiếp tục đưa tôi vào mê hồn trận:

        -À, anh nhắc em điều này, nếu thấy một người đàn ông được gọi là “Mệ” thì em cũng đừng ngạc nhiên, vì đó là những người trong hoàng tộc…

        Tôi hét lên:

        -Cái gì? Ôi em bị tẩu hoả nhập ma rồi.

        oooOooo

        “Giang sơn nhà chồng” của tôi toạ lạc giữa một khoảng vườn xanh tốt trong thành nội, gồm ba căn nhà trệt lợp ngói rộng rãi, ngăn cách nhau bởi các dãy hàng rào bằng cây thấp, lá nhỏ, quấn quít những sợi dây leo màu vàng. Khanh nói:

        -Bà nội anh rất thích chăm sóc vườn tược. Hàng rào chè tàu này còn già hơn tuổi của anh nữa đó, còn kia là những dây tơ hồng. Em thấy có đẹp không? Ngày trước, nhà anh chỉ có một căn thôi, sau này hai O lập gia đình, bà nội mới xây thêm hai căn nữa, của hồi môn ấy mà.

        Có tiếng reo:

        -Khanh, cháu Khanh đó phải không?

        Một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, mặc quần tây nâu, áo hoa sặc sỡ, từ căn nhà bên phải chạy ra. Tóc bà uốn cao, nước da trắng, miệng cười có má lúm đồng tiền.

        -Đây là O Hương của anh.

        -Cháu chào… O ạ.

        O Hương tiến đến gần, vuốt má tôi:

        -Vợ thằng Khanh đây hả. Chà, hai đứa xứng đôi lắm đó nghe –rồi bà kéo tay tôi và Khanh về phía căn nhà giữa –Mạ ơi, vợ chồng Khanh về tới rồi nì.

        Khanh nhìn sang căn nhà bên trái cửa khoá ngoài. O Hương nói:

        -O dượng Hoà về làng ăn kỵ rồi. Chắc là mai mới lên.

        Nãy giờ tôi cố ý lắng nghe. Eureka, tôi đã nhớ. “Ăn kỵ” là “ăn giỗ”, còn “mạ”? Chắc là “mẹ” rồi. Xem ra tiếng Huế đâu có khó gì, khỏi cần Khanh làm thông dịch.

        Bà nội của Khanh rất đẹp lão. Mái tóc bà bạc phơ, gương mặt hồng hào, phúc hậu. Bà đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh ngưỡng cửa, miệng cười móm mém, âu yếm nhìn Khanh đi bên tôi.

        -Chúng cháu chào mệ.

        Bà gật đầu rồi đưa tay níu lấy vai Khanh:

        -Đỡ mệ vô nhà.

        Bà nhỏ bé trong vòng tay Khanh, bước chân bà khập khiểng. Khanh lo lắng:

        -Mệ, mệ bị sao vậy?

        O Hương đỡ lời:

        -Hôm qua mệ ra vườn tưới cây, mệ bị bổ.

        -Im đi, tau bớt rồi –bà nhìn O Hương từ đầu đến chân –mi bận cái áo chi mà loè loẹt rứa? Tra rồi, gần làm mụ gia rồi, còn bày đặt diện.

        Tôi nói nhỏ với Khanh:

        -Em hiểu từ “tra” rồi, nhưng “bổ”là gì? Còn “mụ gia”?

        -“Bổ” là “té”, còn “mụ gia” là “mẹ vợ” hoặc “mẹ chồng”. Xứ Huế anh có câu: “Thương chồng mà khóc mụ gia, chớ tui với mụ chẳng bà con chi.”

        Tôi che miệng cười. Bà nội Khanh ngồi trên sập gụ, vẫy Khanh và tôi lại gần. Bà vuốt tóc tôi:

        -Mệ có coi bóng đám cưới, trông cháu đẹp hơn trong bóng nhiều. Biết hai cháu sắp ra thăm mệ, đêm mô mệ cũng nằm chộ.

        Khanh thông dịch ngay:

        -“Bóng” là “hình”…

        Tôi ngắt lời:

        -Còn “nằm chộ” là “nằm mơ”, đúng không?

        -Very good, em thông minh thật đấy.

        Bà nội Khanh có vẻ thích tôi. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, từ chuyện làng xóm, đến chuyện những người trong họ tộc, chuyện gia đình Khanh… giọng bà nhẹ nhàng, thân ái. Vì đã ôn tập trước, nên những từ rặt Huế như răng, mô, tê, rứa… tôi hiểu dễ dàng. Và càng lúc, tôi càng thấy gần gũi bà, thương yêu bà hơn.

        -Cháu biết không? Chồng của cháu rất thích ăn chè thịt quay.

        Chè thịt quay là gì? Tôi nhìn quanh tìm Khanh. Nhưng thôi, khỏi cần thắc mắc, chẳng qua cũng chỉ là món chè bình thường, cứ ăn vào là biết ngay thôi mà. Bà gọi:

        -Hương ơi, lấy cà mèn đi mua chè thịt quay cho các cháu ăn đi con.

        O Hương bảo Khanh:

        -Cháu qua nhà dắt dùm chiếc xe ra cho O.

        -Để cháu chở O đi.

        Khanh đến bên tôi:

        -Em ở nhà với mệ được không?

        Tôi vênh mặt:

        -Anh khỏi lo. Mệ nói gì em cũng hiểu hết.

        oooOooo

        Tôi đi thơ thẩn trong vườn. Nắng chiều dìu dịu, gió chiều êm ái. Lòng tôi rộn vui theo tiếng chim hót chuyền cành. Hình như bà nội gọi:

        -Vợ thằng Khanh mô rồi?

        Tôi hấp tấp chạy vào:

        -Mệ sai cháu gì ạ?

        -Cháu ra ngoài “cươi” lấy cái “chủi”, “xuốt” dùm mệ cái “dà”.

        -!!!

        Lần này thì tôi thua thật. Khanh ơi, mau về cứu em.


        Thùy An
        nguồn:
        https://www.facebook.com/permalink.p...31033327030987
        Last edited by BachMa; 01-17-2018, 10:05 PM.

        Comment


        • Chuyến Bay Cuối Cùng Phi Đoàn A-37

          Chuyến Bay Cuối Cùng Phi Đoàn A-37
          Thiên Lôi 524
          Sĩ quan Hành quân Phi đoàn 524 Thiên Lôi



          Hình minh họa

          28 tháng tư 1975, sau bữa cơm chiều vội vã ở một câu lạc bộ gần khu gia binh TSN, tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải nơi tạm trú ba phi đoàn 524, 534, 548 di tản về từ căn cứ Phan Rang, bước xuống xe tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A37 trang bị đầy bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước cách ụ năm chục bộ Anh (50 Feet). Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ ra khỏi ụ? Anh ta trả lời theo lệnh Trung tá Kỹ thuật và Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi Trung tâm hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư Lệnh KQ hay Bộ Tổng Tham Mưu gì đó, tôi phát cáu, giũa anh một câu: Anh là Sĩ quan trực mà không biết lệnh lạc rõ ràng là như thế nào ? Anh có biết hồi chiều phi đạo 07 bị dội bom không ? Anh ta cầu hòa trả tời: Thưa thiếu tá, em thấy cũng vô lý thật, nhưng lệnh trên đưa xuống, em phải thi hành, nếu Thiếu tá muốn bìết rõ thì hỏi Đại tá Ước. Tôi cúp phôn rồi bấm số Đại tá Ước nhưng không có ở phòng giấy. Tôi ra lại bãi đậu, nói với Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại vòm trú ẩn, nhưng anh nói: Thiếu tá nói với xếp em, em mới thi hành được. Tôi gọi điện thoại cũng không ai trả lời. Đang đứng phân vân suy nghĩ, làm cách nào để liên lạc được môt vị có thẩm quyền hỏi cho ra lẽ lệnh của ai để yêu cầu di chuyển phi cơ về vị trí cũ. Sơn “húc” tiếc nuối vừa nói vừa chỉ tay bên kia hàng rào kẽm gai: “Đêm qua Thiếu tá đừng cản em thì đám CS Võ Đông Giang đã ra người thiên cổ rồi, còn đâu mà cho kế hoạch để đám thằng Trung mang A37 từ Phan Rang về bỏ bom TSN hôm nay!”.

          Đêm 27 tháng tư tôi tập họp tất cả hoa tiêu 524 ăn tối ở câu lạc bộ gần trung tâm Truyền Tin điện tử, Sơn lên sân khấu bỏ túi cầm microphone và đề nghị tôi về lấy phi cơ bỏ bom Camp Davis nơi đồn trú các phe quân sự bốn bên, thật ra lúc đó chỉ còn độc nhất một bên là CS Bắc Việt mà thôi. Tôi chạy nhanh lên kéo Sơn xuống vỗ vai nói: “Chuyện đâu còn đó, từ từ rồi tính!”. Sơn vùng vằng kéo tay tôi ra vừa khóc vừa nói: “Không còn thì giờ nữa đâu Anh Tư ơi! Sau này Anh sẽ tiếc!”. Bây giờ đứng nhìn một hàng dài A37 bom đạn xăng nhớt đây đủ im lìm chờ đợi; một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi hay là nói Sơn vào lấy nón bay đi số hai cùng tôi cất cánh hai A37 lên thanh toán mục tiêu Camp Davis xong dọt đi Utapao.

          Chuyện đánh trúng cái barrack đó tôi tin tưởng Sơn và tôi lượm một cách dễ dàng như những phi vụ bay đêm tự do lượm công voa chở tiếp liệu của Bắc Việt trên đường mòn phía nam Pleime tháng 9 năm 1972. Tuy nhiên ở địa vị Trưởng phòng Hành quân tôi có nên làm không? Những trái bom 250 cân Anh vừa nổ chiều nay trên phi đạo TSN giờ lại nổ cạnh Bộ Tư Lệnh KQ? Sau đó chúng tôi sẽ dọt đi để lại mấy chục anh em phân vân xáo trộn nằm trực trong nhà vòm cuối phi đạo! Chưa kể đến ngàn ngàn chiến hữu và gia đình đang đồn trú trong căn cứ TSN. Tôi gọi Sơn lên xe chạy đi tìm Đại Tá Thảo và Trung Tá Cả. Hết câu lạc bộ Mây Bốn Phương đến các quán cơm trong khu gia binh cũng không thấy các vị đó ở đâu. Tôi đành quay trở lại biệt đội.


          Hình minh họa

          Sơn nhảy nhanh xuống xe chạy vào biệt đội xách hai cái nón bay ra, giục tôi vào xách dù ra phi cơ. Tôi đứng lặng nhìn Sơn lắc đầu vừa nói: “Không thể trút bom xuống Camp Davis được! Hành động này chỉ ăn miếng trả miếng cho hả giận chứ có lợi lộc gì đâu?”. Bước vào phòng hành quân phi đoàn nhìn thấy anh em tụm năm tụm ba rầm rì những biến cố xảy ra mấy ngày qua; nào việc di tản bên DAO, những chuyến C130 bên hậu trạm, đám anh em Đà Nẵng kẹt lại bị thằng Trung ép ngồi ghế trái có phi công Mig ghế mặt canh chừng oanh kích phi đạo TSN chiều nay. Thấy Trung tá Khôi đang đứng nói chuyện với Tuấn cuối góc phòng, tôi xáp lại hỏi: “Trung tá có biết Đại tá Thảo ở đâu không?”. Anh trả lời: “Có lẽ Ông đi ăn tối với Cả và Thi chưa về”. Tôi hỏi Khôi: “Anh có biết tại sao tất cả phi cơ kéo ra khỏi ụ không?”. Khôi trả lời, “đâu có biết, chắc phải có lệnh trên, kỹ thuật mới di chuyển”. Nhưng phi cơ trang bị bom đạn, xăng nhớt đầy đủ đậu sát cánh nhau như thế có phần không ổn cho lắm. Sơn mang dù xách nón bay tới: “Sơn đi một mình nghe Anh Tư”. Tôi nực lên quát: “Không thể được Sơn ơi, có lên thì lên tất cả”. Trung tá Khôi nhìn tôi rồi hỏi: “Mục tiêu nào vậy?”. Khôi vừa nói vừa vỗ vai Sơn đừng nóng, hiện tình chưa đủ căng thẳng sao bạn?

          Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục Không Lực Việt Nam Cọng hòa nhất là Không đoàn 92 có PĐ 524, 534, 548; cho đến giờ phút này 22:18 tối 28 tháng tư 1975 tất cả phi công đều có mặt ứng chiến đầy đủ không thiếu một ai. Ngoại trừ Thiếu tá Chấn, Thiếu tá Liễn, Trung tá Thi và Thiếu tá Tứ, bay bốn A37 , hai trang bị bom nổ 500 lbs, hai trang bị CBU, ra căn cứ Phan Rang phá hủy phi đạo và Bộ Chỉ Huy đang chiếm đóng hầu tránh CS có thể kế hoạch lần thứ hai oanh kích TSN.

          Suốt đêm tất cả anh em ba phi đoàn chờ đợi điều động cất cánh nhưng tuyệt nhiên không một tiếng chuông điên thoại reo, không khí oi bức ngột ngạc; mọi người mệt mỏi suốt ngày bao nhiêu xáo trộn xảy ra, nào đưa gia đình di tản ngoài hậu trạm, nào phi cơ đám Nguyễn thành Trung mang từ Đà Nẵng vào Phan Rang lấy nhiên liệu lên bom đạn về oanh kích phi đạo TSN, không cho các phi cơ có đường bay di tản.

          Nửa đêm tôi lả người thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi nghe tiếng còi hụ báo động liên hồi. Tôi chụp điện thoại hot line phòng hành quân chiến cuộc được biết có pháo kích; tôi hỏi cần phi tuần khẩn không? Sĩ quan trực trả lời chưa có tọa độ. Rồi chúng tôi nghe tiếng nổ lớn đàng trước ụ bên cạnh. Tiếng hét Trung tá Cả: Tất cả ra sau ụ nhanh lên. Trời tờ mờ sáng, liếc nhìn đồng hồ gần ba giờ sáng 29 tháng tư. Những trái pháo kích đầu nghe từ phía trái lần lượt gần lại và cuối cùng trúng một phi cơ, sau đó tiếng nổ ầm ầm liên tục trong màn lửa ngợp một góc phi trường. Mười mấy năm thả bom đây là lần đầu nghe bom đạn nổ; chát chúa dây chuyền, phi cơ bốc cháy theo. Sơn khiều vai tôi: “Anh Tư thấy chưa, chúng nó điều chỉnh pháo kích từ Camp Davis”. Ngồi bịt tai chịu trận đàng sau bức tường dài cao hơn mười thước Anh. Tôi nôn nóng lom khom đến cuối bức tường ló mặt ra nhìn phía trước bãi đậu, một cảnh tượng hoang tàn đang hủy diệt trước mắt, hơn năm chục chiếc A37 đang bốc cháy khói lửa ngút ngàn. Tôi quay trở lại tựa lưng vào tường sắt lạnh, đầu óc chùn lại. Những cánh thép A37 là huyết mạch của ba phi đoàn khu trục Phan Rang. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư? Thế là hết! Cuộc chiến bên ta đã lâm vào ngõ cụt. Hèn gì cả đêm hôm qua không có một phi tuần nào được điều động cả. Trung tá Khôi và Cả hỏi Đại tá Thảo: “Giờ tính sao sư phụ?”. Không đoàn trưởng trả lời: “Đợi sáng hết pháo kích di chuyển anh em về Bộ Tư Lệnh Không Đoàn 33 rồi tính!”. 5 giờ 40 sáng, vẫn còn những trái pháo kích rớt rãi rác khắp phi trường. Chúng tôi vẫn ngồi tựa lưng bức tường sau ụ, hướng về phía bắc. Có mấy chiếc vận tải và U17 cất cánh quẹo trái phía Gò Vấp để lấy hướng tây đi Bình Thủy hay Utapao? Phòng không xịt lên liên tục. Một chiếc AC119 trúng cao xạ gãy làm đôi trước mắt chúng tôi. Cảnh tượng thật bàng hoàng, anh em nhìn thấy lắc đầu bùi ngùi cho số phận những người có mặt trên tàu định mệnh đó. Sáu giờ mười lăm, mặt trời ló dạng. Đạn pháo thưa dần. Chiếc pick up và chiếc shuttle bus phòng dù xà tới bên hông phải ụ cuối. Tiếng Đại tá Thảo: “Mọi người lên xe”, nhanh như chớp tất cả chen lên đầy hai chiếc van. Trực chỉ Bộ chỉ huy Không đoàn 33. Đến nơi Đại tá Thảo xuống xe đi vội vào cửa, vài phút sau chạy ra; nhảy lên xe tiếp tục chạy về Bộ Tư Lệnh. Đến nơi các phòng vắng lặng không còn ai cả. Dọt trở lại sân cờ Không Đoàn 33 Đại tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tìm lấy phương tiện di tản.


          Hình minh họa

          Mọi người xuống xe nhưng chạy về đâu bây giờ? Tan hàng. Nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, giờ đang bị bó tay, tước đoạt phương tiện duy nhất để chiến đấu. Lệnh ai sắp hàng ngang trên năm chục chiếc A37 cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai đang bủa quanh phi trường chứ ?!!! Chúng tôi đâu có nản chí đầu hàng? Chúng tôi đâu có rã ngũ ? Cho đến sáng 29 tháng tư tất cả phi công khu trục Không Đoàn 92 đều có mặt, từ Không Đoàn Trưởng trở xuống, không thiếu một ai! Nếu có ý đồ đào ngũ chúng tôi đã theo lời mời của vị Đaị úy Trưởng phi cơ C130 của Không Quân Hoa Kỳ hôm 23 tháng tư ngày tiễn vợ con lên phi cơ di tản. Lúc bước ra khỏi ramp, anh ta nói: “Why don’t you stay with us?”. Tôi cười và trả lời: “Cám ơn đề nghị của anh. Tôi phải ở lại chiến đấu”. Anh ta lắc đầu và nói cho tôi vừa đủ nghe: “War is over!”. Tôi vẫy tay chào mọi người rồi lên xe chạy về phòng Hành quân gần đầu phi đạo 07R. Đang đứng tần ngần chưa biết đi đâu thì Lê Vàng xà tới chiếc lambretta giục tôi lên xe, vừa chạy Vàng vừa nói cứ chạy khắp parking thấy tàu nào nổ máy thì nhảy lên đi theo chứ ở đây chịu trận sao? Chạy ngược chạy xuôi thấy được chiếc C 47 trên đường vội vã tiến về đầu phi đạo 07, Vàng tống ga đuổi theo nhưng thấy phi cơ taxi càng nhanh không có vẻ ngừng lại bốc mình, vả lại nhìn qua các khung cửa nhỏ thấy lúc nhúc chật cả tàu. Vàng quay xe trở lại. Chạy qua bãi tha ma A37 của chúng tôi, quá thảm não, không muốn nhìn. Camp Davis bên tay mặt làm tôi sôi máu, giá nghe Sơn đêm qua không chừng tình thế có thể khá hơn hôm nay? Ít ra cũng hả giận và còn ít phi cơ để anh em get out! Trong quân ngũ nhiều khi tuân thủ kỷ luật quá cũng không chắc là đúng mà còn tai hại đến đồng đội. Giây phút suy tư qua lẹ khi Vàng lắc xe vào bên trong chưởi thề: “Nó muốn cất cánh ngược chiều trên taxi way”. Tôi đưa tay vẩy vẩy; chiếc L19 cắt ga quay trở lại, Vàng xà xe vào nhìn lên phi cơ thấy có hai người, phi công ngoắc tay gọi lên. Vàng lắc đầu nói với tôi: “Cậu lên đi”. Tôi rời yên xe nhảy lên lom khom chung ghế với người ngồi phía sau. Vàng tống ga dọt mất. Pilot lại cất cánh cũng trên taxi way nhưng lần này đúng hướng. Tôi khom người trên đầu hoa tiêu. Phi cơ lên gần cuối phi đạo bắt đầu quẹo trái phía bắc Gò Vấp. Tôi la lên: “Quẹo mặt, quẹo mặt, quẹo về phía Sài Gòn. Vì sáng nay tôi chứng kiến phòng không bắn lên từ hướng đó. ” May quá Thiếu tá!”, Hoa tiêu trả lời nhưng vẫn quẹo theo ý tôi. Tôi bảo lấy cao độ chui mây hướng 240 độ. Anh ta nói không biết bay phi cụ. “Anh bay tôi nhìn phi cụ”, tôi trả lời. Lên năm ngàn bộ ánh sáng chan hòa. Hoa tiêu bình phi. Trời thủ đô hôm nay mây mù phủ kín như báo hiệu một cơn bỉ cực bắt đâu giáng xuống cho miền Nam thân yêu.

          Tôi hỏi anh định đi đâu. Anh nói: “Không biết nên đi đâu Thiếu tá”. Rồi anh ta tiếp, anh vừa ra trường bay Nha Trang về phi đoàn chưa được xác định hành quân, người chung ghế phía sau với Thiếu tá là em ruột của em 16 tuổi. Tôi quay qua nhìn hành khách trẻ xúng xích trong chiếc áo bay quá cỡ có lẽ của anh đưa cho mặc. Tôi nói có hai nơi chúng ta có thể đến là Bình Thủy, Sư đòan 4 KQ hay Côn Sơn nơi tập trung di tản bằng đường thủy. Thiếu tá quyết định đi đâu thì em đến đó. Tôi nghĩ đi Cần Thơ hơn vì ở đỏ còn ba phi đoàn A37, bên căn cứ Trà Nóc còn có mấy phi đoàn trực thăng. Tôi nói anh cứ giữ cấp 240 đi Cần Thơ. Mười lăm phút sau Tân An trước mặt, bầu trời quang đãng không một cụm mây; nguyên miền Nam trải dài dưới cánh bạc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng… miền đất trù phú, ruộng vườn xanh ngát, sông lạch hiền hoà không lẽ rồi đây một sớm một chiều thay tên đổi họ?

          Năm mươi phút bay, sông Bassat hiện trước mặt tôi nói với hoa tiêu qua tầng số Bình Thủy xin chỉ thị đáp. Sau khi nhận đầy đủ chi tiết, chàng phi công vào chiều gió xuôi rồi quẹo phải 180 độ vào cận tiến chỉnh mũi phi cơ thẳng phi đạo, chiếc L19 từ từ xuống thấp cuối cùng lướt nhẹ trên đường bay. Chạy đến giữa, đài kiểm soát cho lệnh đổi qua tần số dưới đất, và được lệnh taxi theo chiếc pick-up xanh Follow Me về bãi đậu gần cổng vào phi trường. Chúng tôi lần lượt xuống phi cơ; thì một xe jeep Quân Cảnh chạy tới; người Trung sĩ này ngày trước đóng ở Nha Trang tôi và anh ta quen nhau; anh chào tôi rồi nói: “Thưa Thiếu tá, lệnh Ông Tướng tất cả phi cơ các nơi về, đậu tại đây; đổ xăng nhớt đầy đủ và chỉ được cất cánh khi có phi trình của Hành quân Chiến cuộc”. Rồi anh kể cho tôi nghe sáng nay mấy Ông Khu trục AD5 và AD6 làm náo động cả phi trường. Tôi hỏi anh ta có xe cho chúng tôi mượn đi ăn trưa, đói bụng quá. Anh bảo tôi vào trạm gác anh sẽ kiếm cho tôi phương tiện. Năm phút sau anh chạy đến một chiếc jeep và nói với tôi một tiếng rưởi phải trả lại xe. Tôi trả lời cám ơn nhiều lắm và hứa về đúng giờ. Tôi hỏi tinh hình Cần Thơ. Anh nói vẫn còn yên nhưng không nên đi xa quá. Sau khi ra dấu cho hai bạn đồng hành về từ TSN lên xe, tôi lái ra cổng chạy được một đoạn đường nhìn thấy có quán ăn hai bên, tôi ngừng lại nhìn quanh có vẻ tốt. Trong quán một vài bàn có mấy quân nhân trang phục Không quân ăn trưa trễ đang ngồi nói chuyện. Chúng tôi chọn một bàn góc trái . Sau khi gọi ba dĩa cơm tấm sườn đặc biệt có hai trứng ốp la và ba ly trà đá lớn. Tôi nói với chàng pilot L19, Cần Thơ có vẻ còn yên nhưng tình hình mỗi lúc mỗi thay đổi rất lẹ; tuy nhiên đến đây là tốt rồi. Ăn xong vào phi trường tôi sẽ bàn với anh chương trình kế tiếp chúng ta sẽ làm gì. Chúng tôi ngốn ngáo đĩa cơm nóng hổi, hai miếng sườn cốt lét nướng vàng và trứng gà thơm phức mùi bơ; nốc hết nửa ly trà đá, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy, có lẽ để quá đói và mấy hôm ở TSN đầu óc căng thẳng ăn uống bất thường, thêm vào đó cơm tấm sườn nướng Cần Thơ có tiếng ngon nhất nước.

          Xong bữa ăn trưa chúng tôi trở lại căn cứ. Vào trạm Quân Cảnh trả xe, bắt tay cám ơn và đưa cho anh bạn Không đoàn 62 ngày trước cây thuốc Salem đầu lọc tôi hỏi mua lúc trả tiền ở quán nhậu. Anh ta cười và nói: “Thiếu tá khách sáo quá làm em tổn thọ sớm”. Tôi vỗ vai anh: “Hân hạnh cho ta có người bạn tốt như anh!”.
          Ba chúng tôi bách bộ về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Qua bãi đậu phi đoàn quan sát; tôi đứng lại hỏi người phi công L19: “Anh có bản đồ miền Nam không?”. Anh ta rút trong túi dưới bên mặt ra một tấm tỉ lệ 500000 và nói: “Tấm này được không Thiếu tá?”. Tôi trải ra trên nền xi măng và nói: “Nếu chúng ta còn gặp nhau thì không có gì trở ngại; nhưng lỡ không gặp nhau lại thì anh nhớ là cất cánh Bình Thủy lấy cấp 300 độ trực chỉ Utapao, trời tháng này tốt; anh cứ ôm theo bờ biển ba tiếng sau sẽ thấy phi đạo lớn, chính đó Utapao”. “Em không nói được tiếng Anh Thiếu tá”, viên Thiếu úy cắt ngang tôi. “Cần gì liên lạc với đài không lưu, anh quan sát cờ gió hoặc nhìn phi cơ đáp hoặc cất cánh là biết phi đạo đang xử dụng, xong bay vào trên ngàn bộ lắc cánh, đài sẽ biết vô tuyến hư họ sẽ chớp đèn xanh cho anh ưu tiên vào đáp”. Anh có thắc mắc gì nữa không?, tôi hỏi . Anh lắc đầu và xếp bản đồ bỏ lại túi. Tôi nói bây giờ chúng ta lên trình diện Tướng Tần. Anh ta xin phép ghé vào phi đoàn quan sát tìm gặp mấy người bạn cùng khóa về đây mấy tháng trước. Tôi bắt tay anh nói cám ơn, hy vọng chúng ta gặp lại.

          Bước vào cửa lớn Bộ Tư Lệnh SĐ4KQ, gặp Nhân PĐ534, anh nói đu theo trực thăng về đây hồi 11 giờ, cũng có ý định vào trình diện ông Tướng. Hai chúng tôi đợi chánh văn phòng ba phút thì được Tướng Tần gọi vào gặp. Ông Tướng hỏi tình hình TSN và Bộ Tư Lệnh KQ xong Người nói: “Hai anh xuống gặp Đại Tá Ninh và đưa note này cho ông”. Tướng Tần trao tôi tấm giấy. Chúng tôi chào xong đi về Không Đoàn 74 CT, lúc gần đến nơi thì gặp Đại Tá Ninh lái xe vào chỗ đậu. Sau thủ tục chào kính tôi đưa note của Tướng Tần; Đại Tá Ninh hỏi: “Khoẻ không Cửu, lâu lắm mới gặp anh”. Tôi cám ơn và trả lời vẫn bình thường. Nhớ lại mười năm trước, 1965, lúc đó Đại úy Ninh Biệt đội trưởng Khu trục Phi Hổ ở Pleiku, được giao trọng trách cùng Đại úy Lạc về Không Đoàn 62 CT thành lập Phi Đoàn Thiên Lôi 524. Nguyễn Huy Bỗng, Trần Văn Nghĩa, Hoàng Dự và tôi xung phong rời Cọp Bay 516 về Nha Trang bổ sung quân số. Giờ đây mười năm sau, 29 tháng tư 1975, Đại Tá nói: “Tốt lắm, hai anh vào giúp tôi PĐ A37”; Đại Tá kéo chúng tôi vào giới thiệu với anh em trẻ 520. Xong ông rời phòng Hành quân. Các hoa tiêu vây quanh tôi và hỏi tình hình Sài Gòn. Tôi thuật lại cho họ nghe những biến chuyển xảy ra mấy ngày qua. Anh em nói cho tôi nghe tâm trạng, bàng hoàng, lo lắng sau mấy hôm khác lạ xảy ra trong các Phi đoàn, nhất là biến động sáng nay trên bầu trời căn cứ. Lệnh Tướng Tần truyền xuống để trấn an quân sĩ. Phi trường Bình Thủy đã xao động càng nghẹt thở thêm. Xe Quân Cảnh tuần tiểu liên miên chạy lòng vòng các bãi đậu phi cơ. Tôi nhìn lên bảng phi lệnh và hỏi suốt ngày chưa có phi tuần nào cất cánh hả? Anh em lắc đầu. Vẻ mặt mọi người chán nản. Không khí có vẻ trầm lặng mang theo sự ngột ngạc nôn nóng. Họ nhìn nhau như muốn nói ra một điều gì trong tâm trí nhưng ai cũng ngại ngùng phát biểu. Tôi ngồi xuống ghế và ra dấu cho anh em cũng tìm chỗ an tọa. Rồi bắt đầu lên tiếng: “Nói cho anh em rõ, Bộ Tư Lệnh KQ đã bỏ ngõ. Trung tâm Hành Quân KQ cũng không còn hoạt động. Tôi nghĩ giờ này Sài Gòn đã bị CS tiến chiếm rồi. Bắt đầu bây giờ nếu có phi vụ điều động thì anh em phụ trách phi tuần nào cứ cất cánh lên target đánh xong đi thẳng Utapao không quay trở về nữa. Chắc các anh đã biết, từ Binh Thủy đi Utapao hướng 300 rồi chứ gì? Khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại và ghi các chi tiết, tầng số tower… Các bạn trẻ giờ đây rộn ràng hơn và đi lấy túi check list với bản đồ ra kiểm lại lần cuối. Nhìn họ, nhìn dấu bút ghi chép khoanh tròn lớn căn cứ Hoa Kỳ bên Thái Lan tôi biết họ cũng đã sữa soạn kỹ lưỡng đầy đủ từ trước rồi.

          Nãy giờ tôi mãi nói chuyện với các bạn Thần Báo thì Nhân 534 bốc điện thoại gọi tìm mấy người quen ở Cần Thơ. Lát sau Nhân đến bảo tôi mượn xe chở anh ta ra phố cho anh gặp người quen. Tôi nói giờ phút này mà bạn còn luyến tiếc gì nữa. “Anh nói dưới này còn yên ổn lắm, tôi đi nửa tiếng sẽ trở về liền”. Tôi trả lời: “Đại Tá Ninh căn dặn coi giùm anh em A37, mình đâu bỏ Phi Đoàn đi được?”. Anh đáp ngay: “Tôi đánh cá với bạn đi tới tối về vẫn không có gì xảy ra đâu, Bộ Tư Lệnh, Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tâm HQKQ đã im tiếng còn ai để xin phi vụ yểm trợ ? Vả lại mình đi một chốc thì về chứ có dọt đâu mà lo không hoàn tất trách nhiệm?”. Tôi nhìn vẻ mặt ra chiều năn nỉ của anh rồi cũng xiêu lòng. Tôi nói với Sĩ Quan trực mượn chìa khóa xe pick-up đưa Thiếu tá Nhân đi sẽ về ngay. Kéo hộc lấy chìa khóa, viên Thiếu úy trẻ giao cho tôi và nói: Xe đậu bên mặt cửa ra vào.


          Hình minh họa

          Lên xe chạy một khoảng đến Phi Trường Trà Nóc, Nhân bảo quẹo vào để anh nhờ mấy bạn Trực thăng đưa ra phố. Tôi định ngừng xe trước phi đoàn cho Nhân xuống xong sẽ dọt về ngay thì anh bạn của Nhân chạy Honda tắp vào và nói: “Mày mới xuống hả, tao vừa gặp Đại tá Thảo, Đại tá Ân, Trung tá Cả bên văn phòng Đại tá Bá”. Nhân giục tôi: “Mình phải qua trình diện mấy ông chứ?”. Tôi nhìn Nhân vừa nói vừa tống ga chạy về Bộ Chỉ Huy Căn cứ: “Trình diện gì nữa, hồi sáng Đại tá Thảo đã tuyên bố tan hàng, tự tìm phương tiện di tản rồi mà?”. Gặp được cấp chỉ huy thoát khỏi gọng kềm CS đang siết dần TSN, tôi cũng lấy làm mừng; sẵn dịp cũng nên chào Đại tá Bá xếp cũ mấy năm trước ở Phan Rang. Một chốc bảo Nhân: “Tôi phải về Phi đoàn 520, hơn 45 phút rồI”. Nhân gật đầu nói: “Gặp lại sau”.

          Bảy giờ tối, một Thiếu úy thấy tôi ngồi xem truyền hình đến hỏi: “Ăn gì chưa Thiếu tá?”. Tôi lắc đầu, anh đề nghị chở tôi ra quán nhậu trước cổng. Tôi nói : Anh đi ăn tối đi, nếu tiện nhờ anh mua giùm ổ bánh mì gà. Tôi rút ra tờ năm trăm đưa nhưng anh không nhận.

          Suốt đêm 29 rạng sáng 30 mọi người không ngủ, thao thức đợi phi vụ. Thỉnh thoảng nghe đại bác nổ và nhiều loạt súng nhỏ nhưng tuyệt nhiên phi trường Bình Thủy vẫn hoạt động bình thường, các ụ parking đèn sáng trưng, các chuyên viên kỹ thuật vẫn cắm cúi sửa tàu, tiếng động cơ A37 thỉnh thoảng nổ đều theo nhịp test của trưởng phi cơ. Tôi đứng nhìn phi đạo trong đêm, nghĩ đến các đầu não chiến đấu đã tự tan hàng, chỉ còn lại vùng bốn lẻ loi chiến đấu được bao lâu? Đạn dược, xăng nhớt, cơ giới… còn lại đủ chống cự không?

          Mười giờ sáng đài truyền hình phát sóng các Tướng, Bộ trưởng của chính phủ Big Minh kêu gọi toàn quân bỏ súng rời đơn vị trở về nhà. Hiệu triệu của Tổng Thống “ba ngày” chỉ thị các Binh đoàn, công sở bàn giao tất cả cho “Quân Giải Phóng miền Nam”.

          Thế là Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng. Chưa qua mười phút, cảnh rã ngũ xảy ra nhanh đến nổi tôi nhìn ra bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật. Tôi rất thán phục anh em A37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là lịch sự. Tôi lên tiếng vì nhu cầu tất cả Hoa Tiêu A37 phải rời Việt Nam, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được ba người, không dù nón, không hành lý, ngoại trừ Phi Công bay ngồi ghế trái phải đội helmet để liên lạc và tất cả phi cơ bay cao độ maximum 12 ngàn bộ không cần dưỡng khí. Tôi là người đầu tiên quăng cái cặp samsonite đựng nhiều kỷ vật qua hàng rào kẽm gai. Thế là anh em lần lượt tự động nhảy lên phi cơ. Một Thiếu úy chạy đến hỏi tôi: “Còn vợ em làm sao Thiếu tá?”. Tôi quay qua đẩy anh ta và vợ lên chiếc tàu gần ụ bên đã có phi công ngồi ghế trái.Thấy mọi người đã an vị, không còn ai trên parking, tôi nói với Thiếu tá Danh, chúng ta cũng lên tàu chứ? Khi ngồi trên ghế mới thấy đa số phi cơ bình điện yếu không mở máy được. Tôi bảo Danh nhảy xuống giúp tôi đẩy chiếc APU (Auxiliaire Power Unit) qua cắm vào phi cơ gần nhứt; nhưng loay hoay hoài cũng không làm sao nổ máy “boost” bình điện được.

          Nắng miền nam bắt đầu nóng, tôi tự giận mình bay mấy ngàn giờ mà không biết start APU, tệ thật! Kịp lúc đó Thiếu tá Kim, người bạn cùng khóa 63A, Liên Đoàn Trưởng Kỹ Thuật chạy lambretta đến gọi tôi: “Cửu cho “moi” đi với!”. Tôi mừng quá và chụp tay anh: “Chắc chắn anh phải đi, start APU dùm coi”. Kim đưa hai ngón tay bấm, tiếng nổ dòn APU vang lên, tôi giục Kim và Danh đẩy máy “boost” đến tất cả phi cơ bình yếu cho phi công mở máy. Gần chiếc cuối tôi thấy chỉ có hai người ngồi, Tôi nói Kim lên ngồi ké. Rồi tôi nói với Danh còn chiếc nữa ta có thể lên tàu.

          Lúc trở lại phi cơ, tôi ra dấu cho Danh mang dù nón oxygen đầy đủ vì không có ai nữa để cho đi. Vả lại chúng tôi phải lên 25 ngàn bộ để liên lạc trước với Utapao tower. Vừa taxi ra khỏi ụ thì thấy Mậu và một người bạn chạy vespa gọi: “Cửu, cho “moi” đi với!”. Tôi nhìn thấy còn chiếc A37 đậu ụ cạnh. Tôi chỉ cho Mậu và người bạn lên bay chiếc đó. Bấm interphone nói với Danh hy vọng họ không cần APU. Dù sao chúng tôi cũng phải đợi cho họ mở máy taxi ra mới lăn bánh theo.

          Khi phi cơ line up đầu phi đạo, nhìn lại căn cứ lần cuối vắng vẻ không thấy một bóng người. Tôi mang tâm trạng bùi ngùi, luyến tiếc phải bỏ ra đi nơi một thời sinh động náo nhìệt. Bao kỷ niệm hiện về, những sáng tinh sương phi tuần nối đuôi nhau rầm rộ bay vào không gian đi chu toàn nhiệm vụ Bảo Quốc Trấn Không, những buổi chiều sầu thảm khi hay tin một cánh chim đã lìa đàn đền nợ nước. Những đêm thức trắng vần vũ trên trời tây cover cho các bạn trực thăng vào kéo đồng đội lên trong thửa ruộng xanh phía bắc phố thị Tân An.

          Danh kéo tôi về thực tại: “Cất cánh được chưa Cửu?”. Tôi gật đầu ra dấu tống ga 100%. Danh đưa phi cơ lên thẳng đứng. Cao độ kế quay vùn vụt, mấy phút sau phi cơ bình phi 25 ngàn bộ, hướng 300. Tôi lắc cần lái đồng thời qua interphone nói với Danh, tới phiên tôi bay. Danh buông tay để tôi điều khiển phi cơ. Trên tầng số guard tôi nghe được nhiều phi cơ trực thăng “may day” với các chiến hạm Hải quân Mỹ xin xác định tọa độ, hướng bay để vào đáp. Vô tuyến ồn ào như họp chợ. Tôi đưa tay vặn qua tầng số tour Utapao, thì đã nghe anh em bắt đầu liên lạc nhưng không nghe được vì họ phải bay thấp và còn quá xa. Tôi xen vào : “Xin các A37 yên lặng!”. Tôi bắt đầu gọi đài Utapao báo cáo trong vòng 25 phút nữa, khoảng bốn chục phi cơ A37 xin chỉ thị vào đáp. Utapao Tower: “Welcome Sir, runway 18 headwind 10 miles, vibility 25 miles, altimeter setting 29.92 reporting each flight when ready for landing. Thunder 524 Roger”. Tôi báo lại chi tiết cho anh em, mọi người bấm nút gọi cho biết nhận rõ.

          Đến Hà Tiên đánh mấy vòng ngắm phố thị, ruộng vườn. Tôi nói với Danh nhìn quê hương lần cuối đi trước khi qua không phận Cao Miên, chắc phải lâu lắm mới có dịp được thấy lại. Danh mỉm cười: “Anh đang di tản hay bay du hành cross country đây?”. Rời không phận Việt Nam, tôi nói Danh cầm cần lái tiếp tục trực chỉ Utapao.

          Đến căn cứ Thái Lan sát bờ biển Danh xin chỉ thị đài vào đáp. Danh lướt nhẹ trên phi đạo 18 và để phi cơ chạy đến cuối đường bay thì tower cho tầng số ground, quẹo mặt đã thấy chiếc pick-up Follow-Me đợi sẵn, taxi theo họ đến bãi đậu tạm khoảng trăm feet từ runway thì hai airmen nhảy xuống xe, một ra dấu full stop, tắt máy, một quăng hai khúc gỗ chặn bánh phải. Xong anh ta đến chào tôi rồi đưa giấy bút yêu cầu điền vào tên họ phi hành đoàn, số đuôi phi cơ từ đâu đến cùng lúc đó người lính KQ Hoa Kỳ cầm hộp sơn xì xóa mất lá cờ sau đuôi. Sau đó họ mời chúng tôi xuống tàu lên xe pick-up để họ đưa vào bàn đón tiếp, họ cũng không quên nhắc nhở chúng tôi vì điều luật an ninh căn cứ vũ khí và nón bay được để lại sau thùng xe để chuyển vào kho.

          Đến bàn ghi tên họ lần nữa rồi được phát một cái khăn tắm, hộp xà phòng, kem bàn chải đánh răng. Bàn bên cạnh có các thức uống, bánh ngọt. Mấy anh em đến trước đang nhâm nhi cà phê trò chuyện, mỗi người mang một tâm trạng, trên nét mặt đăm chiêu nhưng có phần thư thả hơn hồi sáng; hết còn cảnh bồn chồn ngồi đứng không yên. Thời tiết Thái Lan nóng bức như Cần Thơ mặc dù ở đây sát bờ biển. Thấy vòi nước trên bãi cỏ cạnh văn phòng tôi tiến tới mở ra đưa hai tay hứng nước vụp vào mặt.

          Nhóm hoa tiêu Bình Thủy thấy tôi vẫy tay chào, vài bạn đưa ngón trỏ lên có ý nói chúng ta hoàn tất di tản tốt. Một thiếu úy từ Đà Nẵng về Cần Thơ kéo tôi ra một góc dúi vào tay hai tờ trăm đô la, tôi ngạc nhiên nhìn rồi đút trở lại túi anh ta; anh phân trần: “Em ở Mỹ mới về một tháng, còn một ngàn rưởi, Thiếu tá giữ mà xài!”. Tôi nói cám ơn anh, nhưng bây giờ có nhu cầu gì mà cần đến tiền bạc. Đêm hôm qua anh có nói chuyện, vừa đổi về SĐ 1 KQ chưa được check out hành quân thì phải chạy. Tôi nói với anh yên chí, Bình Thủy tương đối yên, phi cơ còn đầy đủ, tất cả chúng ta sẽ rời Việt Nam an toàn.


          Hình minh họa

          Quá mệt mỏi tôi ngồi bệt xuống sàn xi măng bãi đậu, lấy chiếc khăn tắm vừa lãnh cuộn tròn làm gối, ngã người đánh một giấc cho đến khi nghe tiếng phi cơ, tôi choàng tỉnh nhìn lên bầu trời thấy chiếc L19 lắc cánh. Tôi nghiêng mặ,t chống tay đứng thẳng dậy hướng về đài kiểm soát, “green light” chớp chớp, tôi tự cười thầm thỏa mãn: “Hai anh em nhà họ rồi chứ ai vào đây nữa!”. Chiếc phi cơ quan sát tà tà một phần ba runway mới chạm bánh, đến cuối phi đạo quẹo mặt, taxi theo “Follow-Me” cho đến bãi đậu chung với các tàu vận tải cách chỗ đứng chúng tôi ba trăm thước. Phi cơ tắt máy, tôi nhìn hắn ta bước ra rồi đến người em và thêm một vị mặc áo chùng đen, có lẽ là một linh mục? Lúc họ xuống xe pick-up, đi về bàn làm giấy tờ theo chỉ dẫn ra dấu của người lính Hoa Kỳ, tôi tiến lại vỗ vai, hắn ta quay lại thấy tôi mừng quá: “Đúng như Thiếu tá nói, ba tiếng bay thì nhìn thấy phi trường Utapao, em vào lắc cánh đèn xanh bật cho vào đáp ngay. Tôi định hỏi vị linh mục đó anh gặp ở đâu nhưng thấy anh ta loay hoay làm giấy tờ tôi bước về chỗ cũ. Mấy anh em Cần Thơ giục tôi vào ghi tên cho kịp chuyến bay tới đi Guam.

          30 tháng tư 2005, ba mươi năm sau. Nhân ngày họp mặt Khu Trục, tôi ngồi viết lại “đoạn đường” đã qua này để cám ơn trên đã cho tôi gặp nhiều bạn tốt, tôi mới hoàn thành được chuyến đi mang nhiều ý nghĩa của đời mình. Tuổi quá lục tuần, trí nhớ bắt đầu sức mẻ đến nổi tên họ những người bạn đã gặp cũng đi Utapao). Trong khi gần trăm hai mươi Phi Công Khu Trục Phan Rang tại TSN từ 20 đến sáng 29 tháng tư không một phi công khu trục bay khỏi phi trường bằng A37 đi Thái Lan cả, vì tất cả A37 như phần trên đã viết, “Lệnh ai kéo phi cơ ra khỏi ụ để cho VC pháo kích rạng sáng 29 tháng tư?”. Nực cười nhất là một số quân nhân phía ta sau này viết lại tháng tư đen cũng vấp những lỗi lầm y như vậy, có lẽ họ có đọc “The fall of Saigon” rồi “copy” lại chăng? không còn nhớ.

          Trong ý nguyện viết lại khúc chuyện xưa này cũng mong ước được hội ngộ với anh em ngày trước. Những Anh em đã từng cùng nhau vì lý tưởng tự do, vẩy vùng trên Không Gian đất Việt. Thời trai trẻ mang sứ mạng được Tổ Quốc quê hương giao phó, chúng tôi đã hãnh diện chiến đấu đến cùng, luận thành bại ngoài tầm tay quân đội. Cũng bài viết này xin nhắc lại cho ký giả “salon” David Butler, mấy tuần cuối tháng tư 75, quanh quẩn trong các bar, hộp đêm Mỹ gom góp tin tức chiến sự từ các cọng sự viên tòa đại sứ, DAO,… kể lại để dựng đứng những tin thất thiệt trong cuốn “The fall of Saigon”: Trang 380, David viết, “April 29, 04:00 tại TSN tất cả các Phi Đoàn A37 đã cất cánh di tản.

          Written by Thiên Lôi 524
          nguồn:
          https://buonvuidoilinh.wordpress.com...phi-doan-a-37/

          Comment


          • Hủ Tiếu Mỹ Tho

            Hủ Tiếu Mỹ Tho

            Mỗi lần về miền Tây ngang qua đất Tiền Giang, thành một thói quen để “dành bụng” tới Mỹ Tho ăn hủ tíu. Nhưng chỉ dừng ở ngã ba Trung Lương để ăn thì… chỉ là Hủ tiếu “giống Mỹ Tho”.

            Phở Bắc, bún bò Huế, hủ tíu Mỹ Tho là ba món đặc sản nổi danh vang tiếng từ xưa đến nay trong vô vàn món ẩm thực ba miền.


            Vào bất cứ tiệm bán hủ tíu nào ở Mỹ Tho cũng sẽ nhìn thấy trên bàn ăn những thứ lỉnh kỉnh như: lọ nước mắm, tương xì dầu, tương ớt, tương đen, chanh, giá sống, ớt hiểm, tỏi, ớt sừng trâu xắt xéo màu xanh, vàng, đỏ. Rổ rau thường có ngò gai, quế là những thứ không bao giờ thiếu.

            Những tiệm hủ tíu ngon nổi tiếng thường có trước giải phóng của người Hoa, nhà cửa, bàn ghế cũ kỷ, ám màu mỡ dầu với khói nhìn xỉn xỉn, xưa xưa. Trái lại, những tiệm mới mở sau này của người Việt thường sang trọng, nền gạch láng, bàn ghế inox sáng nhoáng nhoàng. Sang, mà chưa chắc đã ngon.

            Đặc điểm của hủ tíu Mỹ Tho là cọng nhỏ, khô, dai dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tíu ở nơi nào khác. Những tiệm hủ tíu ngon “số dzách” ở Mỹ Tho có thể đếm trên đầu ngón tay. Một tiệm hủ tíu Mỹ Tho ăn ngon, bao giờ cũng kèm theo bánh mì, hoành thánh, hai món chiến lược rất khoái khẩu của người Hoa.

            Ngày xưa, sau lưng Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho bây giờ, có tiệm hủ tíu danh tiếng Hưng Ký. Mỗi buổi sáng, khách sang trọng ngồi tràn ra đường để ăn. Có người phải đứng đợi canh chỗ khách vừa đứng dậy là ngồi chiếm ngay. Chậm chân là nhịn ăn. Chiếc xe đẩy nấu nước lèo, đặt ngang phía trái cửa ra vào, mỗi lần châm nước, khói phả lên thơm lừng ngây ngất những thực khách đang đói bụng. Nước lèo nấu thơm ngát rất đặc biệt, ngon nhờ những bí quyết gia truyền.


            Một tô hủ tíu hay mì, chỉ được múc chừng 1/3 vá to thịt nạc bằm ướp rất ngon vào một cái tô cạn đáy. Sau đó, múc gần một vá nước kèo thật nóng đã nấu bằng xương heo, khô mực, tôm khô đổ vào tô rồi dùng vá đập nhè nhẹ để thịt bằm rời ra và vừa mới chín tới ăn mới ngọt. Liền sau đó, đổ ngay vào tô hủ tíu đã làm sẵn phủ đầy lên mặt nào: phèo heo, tôm khô chấy, tép mỡ, gan heo, thịt xá xíu xắt mỏng, ngò tây, hành lá, cải thảo. Tuy bán có đắt hơn các nơi khác một ít, nhưng vẫn được nhiều thực khách ưa chuộng.

            Nhằm lúc trời oi bức, hủ tíu nóng, dai cùng với ớt cay xè, mấy thứ gia vị cay nồng khác quyện vào nhau, dưới ăn, trên đổ mồ hôi hột vậy mà khách vẫn xì xụp ăn cho hết mới chịu lau trán.

            Hủ tíu Nam Vang với hủ tíu Mỹ Tho ngày xưa có khác nhau về bún và gia vị, nhưng ngày nay về cơ bản như nhau. Nếu khác chăng là ở người đứng nấu. Dạo trước, ở Quốc lộ 1A, gần ngã tư Cai Lậy, có một tiệm hủ tíu Nam Vang nổi tiếng nhờ ổng chủ biểu diễn tài nghệ nấu của mình.

            Khi vớt hủ tíu được trụng từ nồi nước sôi lớn ra bằng cái vợt lưới to, ông liền đập nhè nhẹ cán vợt mấy cái vào mép nồi cho hủ tíu trụng ráo nước, sau đó ông ta cầm vợt để ra ngoài nhún nhún vào cái lấy trớn, rồi bất thần hất mạnh vợt cho hủ tíu bay cao trên không, hơi nghiêng mình, ông nhanh nhẹn lòn tréo tay phải đang cầm chiếc vợt ôm sát phía sua lưng, đưa sang bên trái để kịp hứng lấy vắt hủ tíu từ trên đang rơi xuống một cách tài tình, rồi đổ ngay vào cái tô ông cầm bên tay trái. Mỗi lần ông biểu diễn như thế đều được tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhiều người hiếu kỳ xem.


            Cũng nhờ nghệ thuật hấp dẫn mà quán hủ tíu rất đơn sơ này bán rất đắt. Còn hủ tíu ở Chợ Lớn bản to và mềm, thậm chí hơi nhão, khác với cọng hủ tíu khô, dai như hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Nam Vang say này. Tô hủ tíu bao giờ cũng lềnh mỡ, lăn tăn những thịt nạc băm và luôn có một hai lá xà lách to nằm chễm chệ, ít cọng hẹ, bên cạnh là những lát thịt xá xíu và han heo xắt mỏng phủ kín mặt tô, chen chúc là những miếng tép mỡ cỡ bằng hạt đậu phộng vàng rực.

            Điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tíu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng kể từ thập niên sáu mươi chính nhờ việc chọn hột gạo làm ra cọng bánh và nối nước lèo pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Nam Sơn, Tuyền Kỳ, Hưng Ký, Phánh Ký, Phát Ký, Gia Ký, Oai Ký… Hủ tíu ngon nhất phải làm bằng gạo Gò Cát (giống lúa đặc sản) ở xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho.

            Cũng cần nói thêm, gạo Gò Cát chuyên sản xuất ra bún, bánh tráng, bánh nghệ nức tiếng ở Mỹ Tho hơn 50 năm nay. Còn hủ tíu ngon, theo bà Lê Thị Thái, chủ lò sản xuất bún-hủ tíu cho biết, nhất thiết phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước sôi, tươm mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt. Chất lượng ngon dở là bí kíp gia truyền thuộc về người nấu nước lèo. Ai cũng dư biết thịt tủy xương ống hầm rục, thêm mực khô, tôm chấy mỡ mà thành, nhưng phải có vài thứ gia vị “bí truyền” mới thơm ngây ngất, ngọt lịm đặc trưng.

            Để cảm nhận điều này, khách đến khu vực cầu Quay, đường Trưng Trắc – TP Mỹ Tho, dãy hàng quán bình dân mà nườm nượp khách ta lẫn tây vào ăn. Đó mới là Hủ tíu Mỹ Tho chánh gốc, trên tô hủ tíu bao giờ cũng có hai lá cải chẻ đôi, có tôm, lòng heo, hoặc trứng cút, sườn non.. hành phi, mỡ chấy thơm lừng, cọng hủ tíu dai dai…

            Hủ tíu Mỹ Tho là món ăn đặc sản đậm đà chất Nam Bộ, luôn gợi về quê hương, kỷ niệm với những ai đã từng tri âm, tri kỷ với đất Mỹ Tho và người dân phương Nam.

            nguồn:
            http://tachcaphe.com/hu-tiu-my-tho-100-nam-danh-tieng/

            Comment


            • Nhan Sắc Cư Tang

              Nhan Sắc Cư Tang
              Như Thương

              Đây là chuyện đánh trại Gia Binh rất nổi tiếng tại Ban Mê Thuột, nhân vật và mọi chuyện đều là sự thật của năm xưa, cô Yến – mà đúng ra phải gọi là bà Tiên – hiện vẫn còn sống ở Sài Gòn và vẫn mái tóc che dấu tích xưa của bạo tàn !
              Mộ của chú Tiên trong Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đã được gia đình cải táng lâu lắm rồi…
              Đọc lại… Xin thắp nén hương lòng cháu kính viếng chú Tiên, chú ơi ….



              Hình minh họa

              Bệnh viện bỗng dưng xôn xao vì phòng 120 đông nghẹt lính và những người thăm nuôi khi một người phụ nữ mang thai 8 tháng được chuyển đến. Bác sĩ và y tá chạy ngược, chạy xuôi khi biết người mẹ chuẩn bị lâm bồn. Có điều gì lạ với một sản phụ thế nhỉ ?

              Người đàn bà mang thai tên Nguyễn thị Yến, còn rất trẻ, nhập viện với một vòng băng trắng ngang trán. Mảng băng trắng đã hất ngược phần tóc phía trước ra sau làm khuôn mặt cô Yến trông hơi luộm thuộm, vết thương thấm máu ra ngoài bông băng một chút nay đã thẫm màu máu lại. Điều đặc biệt là cô luôn miệng nói với tất cả bác sĩ, y tá và những người bên cạnh cô:

              – Cho em đi thăm anh Tiên một chút hay cho em nhìn thấy ảnh một chút cũng được, rồi em sanh con nhanh thôi mà…

              – Em biết anh ấy còn sống…

              – Em đỡ cái đầu anh ấy dẫu biết anh ấy bị thương, nhưng vẫn còn sống…

              – Em xin các anh chị nói cho em biết anh ấy nằm ở phòng nào đi, em đi bộ sang cũng được nữa…

              – Em lạy bác sĩ cho em đi thăm chồng em…

              – Bác sĩ à, chồng em còn sống mà, anh ấy chỉ bị thương ở đầu thôi. Tin em đi.

              Những câu nói có đầu đuôi lại dường như thảng thốt, mất bình tĩnh trong giọng nói . Cô không khóc, nhưng không còn biết mình còn một bé gái 3 tuổi đứng khóc thút thít bên bà ngoại ở góc phòng mà cô lại luôn miệng hỏi về người chồng.

              Mọi người đều cầu nguyện cho người sản phụ khác thường ấy được mẹ tròn con vuông. Cơn vật vã, mồ hôi, hơi thở rướn cong, tiếng ồn ào trộn lẫn nhau gồm cả tiếng kêu xé lòng của người mẹ và gọi xót xa của người vợ…

              – Anh Tiên ơi…

              Máu, mồ hôi và nước mắt nhòe nhoẹt đâu đó trên những khuôn mặt người, trên bàn sanh, trong phòng bệnh . Những bàn tay vỗ về người sản phụ và nựng nịu đứa bé gái mới vừa chào đời đã làm mọi người trong phòng khóc ròng. Mẹ tròn con vuông – cảm tạ Ơn Trên vô vàn.

              Sau ngày ấy, lính vào càng lúc càng đông – cả cấp chỉ huy mang lon Thiếu tá – và anh em binh sĩ. Ai cũng nói một câu giống nhau duy nhất, kể cả các bác sĩ :

              – Trung úy Tiên còn sống, anh ấy nằm bên phòng Hồi sức, chị mới sanh còn yếu lắm, mai mốt y tá đem anh ấy sang thăm chị, chị đừng lo!

              Rồi sau đó họ lặng lẽ đi về, hết tốp này đến tốp khác – nhưng sao khuôn mặt họ nặng trĩu buồn và vị chỉ huy đã rưng rưng nước mắt… Những phong thư tiền được trao cho bà ngoại của cháu bé 3 tuổi, cụ khóc ròng mỗi lần nhận phong thư. Đứa bé gái ngơ ngác và hốc hác trông thật tội nghiệp, quanh quẩn bên mẹ nhìn em mình một cách tò mò, ngây thơ. Trong túi em đầy kẹo của các cô y tá cho, em thích lắm, nhưng sao mẹ lạ quá… mẹ không nói gì với bé cả, chỉ có bà ngoại là ôm bé hoài thôi và các bà đi vào thăm mẹ nữa…

              Một tuần lễ trôi qua, người sản phụ bây giờ nằng nặc đòi đi thăm chồng – nghe đâu đó một câu nói đau lòng trong dãy hành lang:

              – Chắc cô ấy sẽ điên thôi… chịu sao nổi!

              Và người sản phụ quên cả cho con bú … đứa bé khóc ngất, bà ngoại lại đến kế bên dỗ dành con gái cho bé bú. Người sản phụ ăn rất ít, gần như không chịu ăn và ngủ rất ít. Ngày cũng như đêm và vừa chợp mắt được một chốc lại giật mình trăn trở, rồi lại hỏi mẹ ruột về chồng mình.

              Hành lang bệnh viện dần dần biết toàn bộ câu chuyện thương tâm não lòng của người quả phụ – cho tôi bắt đầu viết hai chữ Quả Phụ Tử Sĩ từ đây.

              Đêm hôm ấy, Việt cộng đánh trại Gia Binh – trại sĩ quan lẫn trại của binh sĩ – Địch công đồn bằng chiến thuật biển người từ đồn điền café sau trại Gia Binh . Tiếng lựu đạn nổ vang trời trong đêm khuya, tiếng hô xung phong, tiếng đạn trên đồn bắn trả, tiếng chân người chạy rầm rập quanh vách nhà, tiếng đập cửa, tiếng lên đạn trên nòng súng, tiếng gọi kêu cứu, tiếng thét, tiếng gọi chữa cháy nhà… tất cả đã tạo thành một mớ âm vang cực kỳ hỗn độn khuấy động màn đêm yên tĩnh.

              Tàn một đêm, sáng hôm sau… chiến trường tang thương phơi bầy những gì đã xảy ra hãi hùng đêm qua. Nhà cháy, người chết cháy, nhà sập, những cánh cửa mở toang vì những bàn chân tàn bạo đạp tung, người chết và người bị thương nằm ngồi ngẩn ngơ thất hồn bên cạnh người sống hốt hoảng !

              Một người đàn bà chết cháy mùi khét lẹt bị kẹt dưới thanh gỗ kèo nhà chắn ngang cái bụng mang thai ! Người chồng – là một sĩ quan đêm qua trực đồn – ngồi im lặng bên xác vợ, chẳng buồn kéo thây vợ ra khỏi cái đà ngang ấy, những đứa trẻ đứng lớ ngớ bên cạnh gọi mẹ, gọi ba…

              Một người đàn bà bụng mang dạ chửa khác nữa với vết thương viên đạn xuyên ngang trán ngồi vuốt khuôn mặt bê bết máu của chồng và luôn gọi: Anh Tiên ơi … Đứa bé gái trong góc nhà khóc ngất trong hoảng hốt và bà cụ già ngồi ôm cháu kêu Trời…

              Tất cả mọi người dường như không còn nhìn thấy ai và nhìn thấy gì nữa – khuôn mặt những nạn nhân là nét vô hồn, sợ hãi còn đọng lại đêm qua. Những căn nhà bỗng mở toang hoang và đổ nát mọi ngõ ngách, đồ đạc vương vãi khắp nơi.

              Lòng người chết lặng ! Và Trời Đất âm u chuyển mưa…

              Giọt mưa đổ xuống phủ hết cây cối quanh khu trại Gia Binh, những lô cốt gần đấy và xóa trôi đi những vệt máu trên hiên nhà của người đàn bà ngồi ôm đầu chồng – Trung úy Huỳnh Huỳnh Tiên đêm qua xuống ca trực, nên đã ở nhà với vợ con…

              Bẵng đi 30 năm sau, tôi có dịp gặp lại người quả phụ năm xưa chưa tròn 25 tuổi – bây giờ đã làm bà ngoại – vẫn mái tóc cắt ngang trên chân mày – vẫn gầy gầy, ngồi đàn tranh cho tôi nghe và giọng Bắc chùng xuống kể lại chuyện xưa…

              VC đã đạp cửa nhà cô vào đêm đánh trại, chúng dùng báng súng con ạ . Rồi chúng gọi chú ra ngoài, cô sợ quá chạy theo van xin chúng đừng giết chú, chúng bắn dọa cô một viên đạn xuyên qua trán cô đây rồi lôi chú ra trước phòng khách… Chúng bắn trúng ngay đầu chú trước mắt cô… Khi chúng đi rồi, cô ngồi ôm đầu chú và kêu cứu, nhưng cảnh tượng ngoài sân thật khủng khiếp… nhà thím Bi đối diện bị cháy, nhà con bị sập và cây cối đổ ngang dọc !

              Cô gọi mãi vẫn không thấy ai đến trong đêm khuya, đến sáng thì cô không còn nhớ gì nữa cả kể cả chuyện cô sinh bé Nguyệt Trừ và chuyện cô có bé Nhật Trừ 3 tuổi.

              Một năm sau, người Tiểu đoàn trưởng đưa cô ra thăm mộ chú – ngôi mộ ấm cúng và được chăm sóc đàng hoàng trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa . Nhìn di ảnh chú, bấy giờ cô mới khóc chồng thật sự con ạ ! Mới tin rằng chồng mình đã chết…

              Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu hồ nghi mong manh đã che lấp được cái giấu giếm của bạn bè đồng ngũ chồng mình trong lòng cô 1 năm và cô đã sống với niềm hy vọng nhập tâm rằng chú Tiên chỉ bị thương nặng mà thôi – trí óc cô kể từ lúc ấy đã khóa lại mọi suy nghĩ khác.

              Và cô bắt đầu cầm trong tay cuốn sổ CÔ NHI QUẢ PHỤ mà trước đây bà ngoại đã nhận từ vị Thiếu tá chỉ huy trưởng.

              Con xem lại vết thẹo trên trán cô ẩn sau mớ tóc thời thanh xuân của tuổi chưa đầy 25 – cô vén mái tóc sang một bên và tôi nhìn thấy vết thẹo dài thật sâu nằm vắt ngang gần hết trán – Cô còn nói thêm :

              – Cô biết vào tuổi làm bà ngoại của cô, cô không nên để kiểu tóc trông rất trẻ này, nhưng đó là NHAN SẮC CƯ TANG của cô dành cho người chồng yêu quý, có lẽ đời sẽ hiểu cho cô…

              Người đàn bà quả phụ năm xưa cư tang chồng vẫn ở vậy nuôi hai đứa con gái Nhật Trừ, nay là bác sĩ Sản Khoa và Nguyệt Trừ nay là y tá. Bà làm bạn với tiếng đàn tranh và những đứa học trò đến học đàn. Bà không khóc nữa, lặng lẽ bình tâm sống với hình ảnh chồng trên chiếc bàn thờ trong phòng ngủ của bà.


              Như Thương
              nguồn:
              https://buonvuidoilinh.wordpress.com...n-sac-cu-tang/

              Comment


              • Task Force South Và Niên Trưởng Của Tôi

                Task Force South Và Niên Trưởng Của Tôi
                Vương Mộng Long, K20


                Là lực lượng trừ bị cơ hữu của Vùng 2 nên Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân, cứ sáng có mặt ở Kontum, chiều đã về Phú Bổn, nay Lâm-Đồng, mai Quảng-Đức. Tháng trước chúng tôi bị đặt dưới quyền chỉ huy của Task Force South, tháng sau chúng tôi đã nằm dưới quyền chỉ huy của Biệt Khu 24, cứ xoay vần như thế suốt năm 1968.

                Đà-Lạt tháng Năm…

                Một buổi trưa, đại đội tôi đang giữ nhiệm vụ bảo vệ pháo binh tại phi trường Cam-Ly thì được lệnh cấp tốc lên đường cứu viện cho cánh quân của đại úy tiểu đoàn trưởng. Cánh quân này, gồm Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân cùng hai Đại Đội 2/11 và 3/11, đang bị một tiểu đoàn Việt-Cộng bao vây tấn công rất dữ dội trong vùng rừng rậm cách Đà-Lạt năm cây số về hướng Tây Nam. Đại Úy Hồ Khắc Đàm, Khóa 16 Võ Bị, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 đã bị thương. Chúng tôi đi như chạy, chỉ mấy phút sau đã đứng trên đỉnh 1632. Qua một yên ngựa, tôi chuyển đội hình thành tam giác mũi trước, khẩu đại liên 30 làm mũi, Trung Đội 1 của Thượng Sĩ Ngọ bên phải, Trung Đội 3 của Chuẩn Úy Biện bên trái.

                Tiền quân vừa di chuyển tới con dốc cuối yên ngựa thì súng nổ. Đề lô của tôi hôm đó là hai người Mỹ. Hai anh này là người của đơn vị pháo binh Hoa-Kỳ mà tôi đang bảo vệ. Mười sáu khẩu 105 ly chỉ nằm cách chúng tôi chừng hai cây số phía sau lưng. “Hai chục tràng hiệu quả!” Đạn vừa nổ xong, lại tiếp, “Hai chục tràng hiệu quả!” Cứ thế, tôi dùng đạn đại bác mở đường, rồi thận trọng tiến lên. Thời buổi đó đạn dược quá dồi dào, bắn không hạn chế. Trước mặt tôi, địch trải quân rất thưa, chủ đích của chúng là cầm chân chúng tôi, trong khi lực lượng chính của chúng đang nỗ lực dứt điểm cánh quân của Đại Úy Đàm. Rừng thông không rậm lắm, nhưng có rất nhiều ổ mối. Mỗi ổ mối có thể là một ụ súng của địch. Khi nghe được những tiếng súng bắn tay từ vùng giao tranh phiá trước, tôi bắt đầu xử dụng không quân đánh tiếp cận ngay trước mặt để tiến lên. Tôi đã xử dụng hai phi xuất Skyraider thả liên tiếp bốn trái Napalm xuống cái khe núi ngăn cách chúng tôi và ngọn đồi cao nhìn xuống trận địa của Đại Úy Đàm.

                Trong lúc tôi đang phân vân không biết sẽ tiến chiếm ngọn đồi bên kia bằng cách đâm thẳng xuống suối, hay bằng cách đi vòng về bên phải, theo hướng Tây. Con đường vòng thì hơi xa, mà tình trạng của anh Đàm thì đang nguy khốn lắm. Cuối cùng tôi chọn con đường ngắn. Tôi dàn quân hàng ngang, vừa đi vừa bắn. Tới nửa dốc, anh đề lô Mỹ nói L.19 trên trời bị phòng không bắn, phi công bị thương. Chiếc L.19 mới lên thay đòi chúng tôi đánh dấu vị trí quân bạn bằng khói vàng.
                Tôi cho đánh hai trái khói vàng, một bên phải, một bên trái trục tiến. Một phút sau, L.19 cự nự rằng tại sao họ thấy ở dưới đất có tới bốn, năm vị trí khói vàng, trong khi chúng tôi báo cáo rằng chỉ có hai! Họ yêu cầu chúng tôi đánh dấu lại bằng khói đỏ. Tôi vội thỏa mãn yêu cầu của không quân ngay lập tức. Cũng chỉ một phút sau, phi công lại khiếu nại khi thấy dưới đất xuất hiện bốn, năm cột khói đỏ! Như vậy là địch đã nghe được những lời đàm thoại của quân ta, và chúng đã làm cho L.19 không biết đâu là bạn đâu là địch. Tôi chưa biết phải xử trí ra làm sao trước tình trạng éo le này thì, “Xoẹt!” một trái rocket từ L.19 phóng xuống cách tôi chừng mười mét. Anh đề lô Mỹ vừa kéo tay tôi chạy về bên trái vừa hét vào ống nói truyền tin: “Check air! Check air!” Cách tôi chừng hai chục mét, dưới khe, có nhiều họng súng của Việt-Cộng, cá nhân có, cộng đồng có, đua nhau bắn lên trời. Chiếc Sky Raider chúc xuống theo trục Đông Tây. Tôi và anh đề lô Mỹ nắm tay nhau dẫn đầu đoàn quân chạy thục mạng theo hướng ngược lại. “Ùm!” một quả bom nổ dưới khe, sau lưng. Anh Mỹ mang máy truyền tin té sấp mặt xuống đất.

                Tôi đỡ anh ta dậy, may quá! Không sao! Nhưng một mảnh bom bay sượt qua, đã bứng đi mất một nửa cái máy PRC 25 của anh. Chiếc Sky Raider thứ nhì lao xuống, ngóc lên: “Ùm!” Chúng tôi theo nhau cắm đầu chạy về hướng Đông. Hai chiếc máy bay tiếp tục chúc đầu xuống, ngóc đầu lên,” Cạch! Cạch!… Cạch! Cạch!…” đại liên trên cánh chim sắt bắt đầu khạc đạn. Chạy được một đoạn đường khá xa, tôi kéo quân lên một bình nguyên cỏ tranh, lập lại đội hình. Anh đề lô mượn tôi một cái máy truyền tin. Anh ta đang loay hoay chưa vào được tần số không lục thì chiếc L.19 quái quỷ đã theo kịp. Thiếu Úy Duyên leo lên một mô mối, dơ cái bản đồ vẫy vẫy anh phi công. Đâu ngờ, lại “Xoẹt!” Phi công đáp lại bằng một quả khói cắm ngay giữa đội hình của Đại Đội 1/11! Ông Duyên vứt cả bản đồ, co giò tẩu thoát.

                Cứ cái trò chạy nước rút từng chặng như thế này, chắc chẳng bao lâu tụi tôi đứt ruột mà chết! Tôi không có cách nào bắt không quân ngừng truy đuổi được. Nếu tôi ngừng lại để thanh toán tụi Việt-Cộng đang bám đuôi thì chết với bom của Mỹ ngay. Khóc dở, mếu dở, vừa chạy, vừa thở, chợt nhớ ra một điều, tôi níu vai thằng Ty vặn cái chốt đổi tần số truyền tin sang địa chỉ của liên đoàn. Trung Tá Hồ Hữu Dõng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân đang theo dõi tình hình trên máy, nên chỉ vài phút sau, chiếc quan sát cơ quẹo ngược về hướng Tây. Trung Tá Dõng ra lệnh cho tôi giữ liên lạc với liên đoàn để ông có thể trực tiếp yểm trợ cho tôi trong thời gian này. Ông nói, vì phải chia quân ra ngăn cản đoàn viện binh của tôi, nên áp lực của Việt-Cộng trên cánh quân của Đại Úy Đàm cũng giảm bớt, nhờ vậy, lực lượng bạn đã giữ vững được vị trí. Ông cho tôi hay, cũng nhờ không quân Hoa-Kỳ can thiệp hữu hiệu, chứ không thì hai đại đội bạn đã bị địch tràn ngập rồi.

                Tới lúc này, tần số của tiểu đoàn đã hết nhiễu loạn, các cánh quân đã gọi được nhau. Tôi ngóng cổ gióng hướng. Hóa ra tôi chỉ còn cách Quốc Lộ 20 chừng hơn cây số! Từ đỉnh đồi bên này, tôi nhìn thấy xa xa, trên sườn một ngọn đồi hướng Nam, có một đoàn quân đang di chuyển về hướng Tây, nhiều người trong đoàn quân đó che mưa bằng những tấm nhựa trắng dùng để bọc đầu đạn pháo binh. Thì ra đó là Đại Đội 4/11!
                Đại Đội 4/11 cứ phoong phoong theo đường xe be, chẳng đụng chạm gì cả, nên họ bắt tay được Đại Úy Đàm lúc xế chiều. Còn tôi, phải băng qua hai cái khe và một ngọn đồi, nên tối mịt mới tới được ngọn đồi xảy ra giao tranh. Tiếng súng đã im từ lâu. Sau lần hành quân này mỗi quân nhân tham chiến của đại đội tôi đều được bồi hoàn đặc biệt một đôi giày mới, và một bộ rằn ri mới. Ngày hôm đó tiếng máy bay và tiếng đại bác vang dội núi đồi suốt từ trưa cho tới tối mịt, khiến dân chúng Đà-Lạt phải trải qua một bữa hoảng hồn.

                Lâm-Đồng tháng Tám…

                Đại Đội 1/11 bị tách riêng ra khỏi tiểu đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn. Lúc này Trung Tá Bùi Văn Sâm đã thay thế Trung Tá Hồ Hữu Dõng giữ chức Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân.

                Chúng tôi được trực thăng vận vào Gia-Bắc, một bản Thượng bỏ hoang, nằm trên Liên Tỉnh Lộ 8B nối liền Di-Linh (LâmĐồng) với Thiện-Giáo (Phan-Thiết). Nhiệm vụ của tôi là thiết lập một căn cứ hỏa lực dã chiến cho một pháo đội Hoa-Kỳ. Pháo đội này sẽ yểm trợ hỏa lực cho các cánh quân đang truy lùng địch vùng liên ranh Cao Nguyên và Duyên Hải. Đây cũng là nơi Trung Tá Sâm đặt bản doanh bộ chỉ huy hành quân của ông. Sau khi lập xong vòng đai an ninh căn cứ, tôi tung các toán tuần tiễu xa, rồi ngồi chờ pháo binh Hoa-Kỳ chuyển vận súng vào vị trí. Chinook rầm rộ theo nhau đáp. Chưa đầy hai giờ sau, mười sáu khẩu đại bác 105 ly đã sẵn sàng tác xạ.

                Tới chiều, ông thượng sĩ trưởng toán liên lạc truyền tin của Sư Đoàn 23 Bộ Binh chạy ra tìm tôi, báo tin: – “Anh Đào” đang trên đường đến thăm. “Anh Đào” là danh hiệu truyền tin của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân (Khóa 7 Võ-Bị), Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kiêm Tư Lệnh Task Force South. Tôi đã đón Tư Lệnh tại bãi trực thăng, thuyết trình cho ông về quân số lực lượng phòng vệ, về các toán tuần tra dã ngoại, và kế hoạch phản ứng khi bị địch tấn công hay pháo kích. Tôi dẫn Tư Lệnh duyệt một vòng vị trí phòng thủ của đơn vị trước khi đưa ông vào hầm chỉ huy của liên đoàn để nghe trung tá liên đoàn trưởng tường trình diễn tiến hoạt động của Biệt Động Quân trong lần hành quân này.

                Vài tháng trước, sau khi đại đội tôi tịch thu được một kho gạo của địch trong Mật Khu Tứ-Quý, tôi đã giáp mặt Chuẩn Tướng Tư Lệnh Task Force South một lần, và đã được ông gắn cho một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc. Dịp đó, trong hàng quân, tôi chỉ được ông Tướng bắt tay một cái, nghe ông khen một câu “Tốt lắm!” rồi thôi. Lần này tôi có cơ hội tiếp xúc với ông lâu hơn, nghe ông nói nhiều hơn và nhìn mặt ông rõ hơn. Sau khi đưa Tư Lệnh tới bộ chỉ huy nhẹ liên đoàn, tôi trở về lều của mình, leo lên võng nằm nghỉ. Rồi tôi chợp mắt ngủ quên. Ngoài lều, đám “tà lọt” của tôi ngồi đấu láo.

                Tôi đang mơ màng thì giật mình vì tiếng ông Thượng Sĩ Nguyễn Lược, Trung Đội phó, Trung đội 3, – Vào hàng! Phắc! Tôi ngồi dậy, nhoài người, thò đầu ra khỏi lều quan sát. Chuẩn Tướng Tư Lệnh đang bắt tay từng quân nhân đang hiện diện trên bãi cỏ gần lều của tôi. Ông ân cần hỏi han từng người, về tình trạng ẩm thực, về việc uống thuốc ngừa bệnh sốt rét rừng, về vấn đề thư từ liên lạc với gia đình, về chuyện bồi hoàn quân trang sau mỗi đợt hành quân dài ngày… Tuyệt đối, tôi không nghe vị Tư Lệnh này “quay” thuộc cấp với những câu hỏi liên quan đến xẻng, cuốc, bi đông, nón sắt, giây ba chạc, tiêu lệnh khi gác giặc, hay cấp số đạn mang trên lưng… Trò truyện cùng thuộc cấp một hồi, Tư Lệnh mới thong thả quay lưng, đi về hướng chiếc trực thăng đang chờ trên bãi. Ông dừng lại giữa đường, dơ tay ra dấu cho đoàn tùy tùng. Đoàn tùy tùng của ông Tư Lệnh đang ghé thăm toán Liên Lạc Truyền Tin của Sư Đoàn 23.

                Có một nữ quân nhân trong đoàn tùy tùng. Người nữ quân nhân này chính là phu nhân của ông Tướng. Bà đang cùng ông Thiếu Tá Thịnh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Truyền Tin Sư Đoàn 23 thăm hỏi những người lính bộ binh. Tôi nghe tiếng Trung Sĩ Nguyên, cựu Thiếu Sinh Quân, đang vòi vĩnh bà vợ ông Tư Lệnh: – Chị cho em vài trăm đi chị! Em cạn túi rồi, thèm thuốc lá quá, mà chưa tới ngày lãnh lương… Bà “Chị Dâu của Thiếu Sinh Quân” lục túi xách tìm tòi một phút, rồi nhỏ nhẹ, như phân bua, – Chị vét túi, chỉ còn năm chục, em cầm tiêu đỡ. Anh chị cũng… chưa tới ngày lãnh lương. Sương trắng từ khe núi bắt đầu dâng lên.
                Chiếc trực thăng cất cánh, rồi chui vào tầng mây thấp. Tiếng động cơ “Bạch! Bạch! Bạch! …” loãng trong gió, xa dần. “Niên trưởng” và “Chị” đi rồi. Nhưng hình như, tình huynh đệ chi binh còn vương đâu đây, trong tim chúng tôi… Đêm xuống, trời trở gió, rồi mưa to. Nửa đêm, xảy ra một chuyện bất thường. Từ thung lũng đen ngòm dưới kia, bỗng vang lên những âm thanh ầm ầm như động đất. Chấn động tràn lên đồi, khiến căn lều của tôi cũng rung rinh như muốn sập. “Động đất! Động đất!

                Bà con ơi!” Thượng Sĩ Lạc, Thường Vụ Đại Đội vừa gõ kẻng báo động vừa lớn tiếng la liên tục. Thế rồi, nhanh như cơn lốc, hàng trăm con voi rừng ào ào vượt dốc xông lên. Cây rừng bị voi đè gãy đổ kêu răng rắc. Khi đàn voi tới cách lều của tôi chừng hai chục thước thì con đầu đàn dẫm phải đống lửa còn nghi ngút khói sau cơn mưa của ông Lạc. Than củi bay lên tung tóe làm nó hoảng hồn, vội quẹo sang bên phải. Thế là cả đàn voi ùn ùn theo nhau dạt về hướng Tây, khu đặt pháo của Hoa Kỳ. Quân Mỹ la chí choé. Đợi đàn voi đi qua, tôi cho quân báo động, dàn quanh khu pháo binh để những xạ thủ Mỹ kiểm tra tình trạng súng ống xem có thiệt hại gì không? Dưới ánh đèn pha, tôi thấy năm, sáu khẩu đại bác 105 ly bị voi ủi gãy gọng, chổng càng. Chừng nửa giờ sau, công việc kiểm tra tình trạng khả dụng của pháo binh chấm dứt, tôi cho lệnh thu quân, người nào về vị trí của người nấy.

                Tôi cùng Thượng Sĩ Lạc đi một vòng tuần tra các vọng gác, rồi quay về lều. Tôi vừa ngồi trên võng, chưa kịp cởi giầy thì, một đại úy Hoa Kỳ có hai binh sĩ Mỹ hộ tống đã hăm hở tiến tới đòi gặp mặt. Ông đại úy này là sĩ quan an ninh phòng thủ của pháo đội Mỹ. Ông ta nghi rằng Việt Cộng lùa voi đi trước, sau đó chúng sẽ theo chân voi, tấn công ta. Ông ta đã tới từng lều ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền tôi trở lại tuyến phòng thủ ngoài rào kẽm gai của pháo đội. Chưa có lệnh của tôi, anh em Biệt Động Quân chưa nhúc nhích. Do đó, ông ta phải đi tìm tôi để điều đình. Ông ta yêu cầu tôi cho quân ra vị trí phòng thủ, và duy trì tình trạng báo động cho tới khi trời sáng. Tôi từ chối yêu cầu này. Thấy vậy, ông ta liền nổi giận la hét om xòm và dọa sẽ tường trình việc này lên Bộ Tư Lệnh Task Force South để thượng cấp khiển phạt tôi. Tôi ôn tồn giải thích cho ông Mỹ này biết rằng, đường đàn voi vừa đi qua là một con dốc trơn trượt sau cơn mưa. Ngay đầu dốc tôi cũng vừa đặt thêm một vọng gác.

                Nếu Việt-Cộng tiến quân theo đường đó sẽ bị lính gác phát hiện ngay, và chúng ta có dư thời gian để vào vị trí chống trả. Vả lại, đêm nay thời tiết quá lạnh, nếu bắt binh sĩ dưới quyền phải ngâm mình dưới hố cá nhân đầy nước từ nửa đêm tới khi trời sáng sẽ khiến họ nhiễm bịnh. Ngoài ra, có dấu hiệu gì báo cho ta biết chắc chắn rằng địch sẽ tới đâu? Tôi quả quyết với ông đại úy Mỹ rằng, chẳng có thằng Việt-Cộng nào đi theo đàn voi này. Vì đây là một đàn voi rừng, voi dại, không phải voi nhà. Tôi móc túi lấy gói Lucky, mời ông đại úy; ông ta gạt tay từ chối. Sau khi tự mồi cho mình một điếu, tôi thân mật vỗ vai ông sĩ quan Đồng Minh, nhỏ nhẹ, – Này ông bạn ơi! Nhiệm kỳ phục vụ tại Việt-Nam của bạn chỉ kéo dài sáu tháng là cùng. Nếu bạn có thức trắng vài ba đêm cũng chẳng ảnh hưởng gì. Còn chúng tôi thì khác.

                Chúng tôi đã chiến đấu mười năm, và sẽ còn phải chiến đấu thêm mười, hai mươi năm nữa.Vì thế, tôi phải tiết kiệm mồ hôi, xương máu, sức khỏe của binh sĩ dưới quyền tôi.Thôi bạn về ngủ đi! Chúc bạn ngủ ngon! Hẹn gặp lại. Nào ngờ, cử chỉ thân thiện của tôi chỉ làm ông sĩ quan Mỹ giận dữ thêm, ông ta quát vào mặt tôi: – Người Mỹ đang ngâm mình trong hố nước, các anh cũng phải làm như vậy! Tôi muốn các anh phải ra vị trí ngay bây giờ! Trước thái độ hống hách xấc xược của ông bạn Đồng Minh, tôi không thể dằn nổi cơn thịnh nộ. Tôi đưa ngón tay trỏ chỉ ngay mặt anh ta rồi hét lớn:

                – Câm mồm! Tôi là người chỉ huy phòng thủ căn cứ hỏa lực này. Còn anh chỉ là người được tôi bảo vệ! Tuyệt đối anh không có quyền hành gì đối với đơn vị tôi cả! Anh muốn báo cáo việc này với ai thì báo! Tôi không bận tâm! Cút khỏi đây ngay! Sau đó, không thèm nhìn anh ta, tôi quay gót vào lều. Không biết làm gì hơn, ông sĩ quan an ninh Mỹ đành hậm hực dẫn lính bỏ đi. Có lẽ do yêu cầu của bên pháo đội Mỹ, nên hai trực thăng vũ trang đã bay vòng vòng, rọi đèn pha quanh căn cứ từ nửa đêm cho tới sáng.

                Rồi cũng qua một đêm ồn ào, mất ngủ vì tiếng động cơ máy bay. Trưa hôm sau Tướng Ân và một đại tá Hoa-Kỳ xuống kiểm tra tình hình tổn thất của pháo binh, đồng thời nghe tường trình chi tiết vụ việc lủng củng giữa tôi và ông sĩ quan an ninh của pháo đội. Một phái đoàn báo chí Việt Mỹ cũng chiếm một trực thăng tháp tùng ông Tư Lệnh. Trong căn lều vải, chỉ có hai chiếc ghế dành cho Tư Lệnh và Đại Tá Cố Vấn Sư Đoàn. Những người khác kể cả trung tá liên đoàn trưởng Biệt Động Quân và sĩ quan pháo đội trưởng Mỹ đều phải đứng chen vai nhau. Các phóng viên bấm máy ảnh “tí tách!” liên tục. Ông pháo đội trưởng tổng kết tình hình cho biết, bốn khẩu đại bác 105 ly bị hư hại cần thay thế, hai binh sĩ bị voi dẫm gãy xương đã được tản thương trong đêm.

                Sau đó, viên đại úy an ninh Mỹ lên bục trình bày. Anh ta khiếu nại rằng, sau khi đàn voi đi qua, Biệt Động Quân Việt-Nam đã không chịu duy trì tình trạng báo động cho tới sáng, pháo đội Mỹ đã không được bộ binh bảo vệ nếu địch theo chân voi, ào lên tấn công… Rồi tới phiên tôi, – Thưa Chuẩn Tướng, xin Chuẩn Tướng cho lệnh, tôi sẽ trình bày sự việc bằng tiếng Anh hay tiếng Việt? – Trung úy xuất thân từ quân trường nào? – Thưa Chuẩn Tướng tôi tốt nghiệp Khóa 20 Võ Bị. – Nếu trung úy không nói được tiếng Anh thì trung úy nhờ ông trung sĩ thông dịch viên của sư đoàn giúp đỡ cho. Tôi nóng mặt, – Như vậy thì tôi sẽ trình bày sự việc bằng tiếng Anh. Nhờ trung sĩ thông dịch viên dịch lại bằng tiếng Việt cho các phóng viên báo Việt.

                Cái sơ đồ phòng thủ không tỷ lệ được hai Biệt Động Quân cầm giữ để tôi thuyết trình. Tôi sơ lược sự kiện xảy ra đêm qua. Tôi lý giải quyết định không duy trì báo động của tôi vì đàn voi di chuyển đêm qua là voi rừng, không phải voi nhà. Tôi tin chắc địch không đủ khả năng bắt ép một đàn voi rừng làm theo lệnh được. Với tôi, việc bắt binh sĩ ngâm mình trong hố cá nhân đầy nước dưới thời tiết lạnh giá, trong thời gian năm sáu tiếng đồng hồ là một hành động ngu ngốc. Tôi là một cấp chỉ huy không ngu ngốc, nên tôi không nghe theo yêu cầu ngu ngốc của bất cứ ai. Nghe tôi nhấn mạnh tiếng “stupid” (ngu ngốc) tới hai lần, ông đại tá Mỹ hơi cau mặt, liếc nhìn anh sĩ quan an ninh Hoa Kỳ. Anh ta cúi mặt, dí dí hai mũi giày trên đất. Buổi họp chấm dứt, Tướng Ân đứng lên, vỗ vai tôi, ôn tồn, – Khá lắm! Anh khen chú! Khá lắm!

                Ông đại tá Mỹ cũng vồn vã, – You’re excellent! Ông xiết tay tôi thật chặt trước lúc từ giã. Hai ngày sau cuộc hành quân chấm dứt. Hôm đó lại có chuyện bất thường xảy ra! Đại bác đã được năm chiếc Chinook bốc đi hết. Chiếc trực thăng chuyển quân cuối cùng cũng vừa cất cánh sau khi hốt toán đề lô pháo binh của tôi. Trên bãi còn lại một toán sáu người. Tôi lấy làm lạ về cách làm việc cứng ngắc của người Mỹ. Người Mỹ đánh giặc bằng sách vở, việc ai nấy làm, nhiều lúc thấy mắc cười. Hai chiếc tàu cứu cấp và chỉ huy cứ khơi khơi trên trời, cùng hai gunships, bay vào, bay ra, theo đuôi đoàn trực thăng chở quân. Nếu họ xử dụng một trong hai chiếc tàu trống đó mà bốc chúng tôi thì đâu cần điều động hai gunships và một slick quay trở lại đây lần nữa? Bây giờ trên bãi chỉ còn lại sáu người gồm có tôi, Binh Nhứt Trần Ty mang máy PRC 25, cùng hai hộ tống viên là Binh Nhứt Phạm Công Cường, và Hạ Sĩ Nguyễn Phượng Hoàng. Phía Mỹ có một đại úy da đen, nhưng trên bảng tên thì họ của ông ta lại là White (Trắng) cùng một anh binh nhì da trắng mang máy truyền tin cho ông. Hai người Mỹ này là toán liên lạc điều không của ngày hôm đó.

                Bỗng đâu, sương mù dâng lên cuồn cuộn. Sương đêm như từ dưới đất phun lên, từ gốc cây tuôn ra, từ tàn lá trên cao tỏa xuống, quánh lại như mây, và trắng như sữa. Phút chốc cả vùng đồng cỏ ngập chìm trong biển sương dày dặc. Ông đại úy da đen đứng cách tôi chưa tới sải tay mà tôi cũng không nhìn rõ mặt ông ta. Nguy rồi! Cứ cái đà này thì tối nay chúng tôi phải ngủ lại đây mất thôi! Rõ ràng là chiếc H.U.1D đang bay ngay trên đầu, nhưng tôi không trông thấy đèn pha của tàu. Anh phi công nói, dưới bụng anh ta chỉ là mây trắng, anh ta không dám sà xuống tìm chúng tôi, vì sợ cánh quạt chặt phải tàn cây thì chết! Trực thăng tiếp tục vòng vòng bao vùng cả giờ, nhưng vô vọng. Trời tối dần, trực thăng hết xăng, phải về Blao tiếp nhiên liệu.

                Rồi trời tối hẳn. Sau khi liên lạc với ban chỉ huy không vận, Đại Úy White báo cho tôi biết rằng, ngày mai, nếu thời tiết tốt, chúng tôi mới được bốc ra khỏi đây. Ông ta đề nghị tôi qua đêm ngay trên bãi đáp. Tôi không đồng ý với White về việc này. Kinh nghiệm cho tôi biết, mỗi khi quân ta rời vị trí một căn cứ hỏa lực, thì không lâu sau đó, du kích địa phương sẽ tới dò la, nhặt nhạnh những vật dụng chúng ta vô tình bỏ lại. Nếu đêm nay ở lại chỗ này, chúng tôi có thể sẽ chạm mặt với du kích, phần bất lợi chắc chắn nghiêng về phía ta. Thế là hai bên giằng co, người đòi ở lại, kẻ đòi di chuyển. Cuối cùng, khi nghe tôi dọa sẽ kéo nhau đi, bỏ thây kệ thày trò anh ta ở lại, anh ta mới đành hậm hực vác ba lô lên vai. Tôi ra lệnh cho chú Cường gài lại hai trái M26 ở hai đầu đường dẫn tới nơi đống lửa cao nghệu mà chúng tôi vừa đốt.

                Sau đó chúng tôi nối đuôi nhau tụt thẳng xuống dốc núi bên lề Bắc của Tỉnh Lộ 8 B. Chúng tôi vuợt qua con suối nhỏ dưới dốc, rồi leo lên lưng chừng vách đá, ngừng lại nhóm lửa, ngả lưng. Cây cối rậm rạp, sương mù dày dặc, rừng tối thui, cho dù ai đó có đứng cách chúng tôi năm ba mét chưa chắc đã nhìn thấy bếp lửa của chúng tôi. Chỉ cần một người ngồi canh và tiếp củi cho đống lửa cháy đều, năm người còn lại yên chí ngủ. Chừng một giờ sau, bên hướng căn cứ hỏa lực có tiếng lựu đạn nổ “Ùm!” Đại Úy White ghé tai tôi hỏi nhỏ, – Cái gì thế? Tôi trả lời bừa, – Không biết, có thể là du kích, có thể là một con nai… Anh đại úy Mỹ móc túi lấy ra gói thuốc lá, – Ông hút một điếu đi! Lạnh quá! Tôi ngăn tay anh ta lại, – Đừng làm điều này! Nguy hiểm lắm! Tai và mắt của du kích không biết chúng ta đang ở đâu. Nhưng mũi của chúng có thể tìm được chúng ta đó! Bây giờ đang gió Bắc. Người nào đứng bên Tỉnh Lộ 8B chắc chắn sẽ ngửi được khói thuốc của chúng ta ngay. Gắng đợi tới sáng mai, lên tàu rồi, thì tha hồ mà hút. White gật đầu tỏ ý hiểu chuyện.

                Vừa lúc đó bên kia bờ nổ thêm một tiếng “Ùm!” thứ hai, theo sau là một tràng AK bắn bâng quơ. White giựt tay tôi, lắc mấy cái thật mạnh, rồi bất ngờ dang hai tay ôm tôi vào ngực anh, xiết tôi một cái thật chặt, rồi buông nhanh ra, – My commander! You’re a great commander! Đêm ấy anh chàng da đen còn ôm máy nói chuyện với cấp chỉ huy của anh ta khá lâu. Trước khi thiếp đi, tôi còn loáng thoáng nghe anh ta nhắc đi, nhắc lại vài lần tiếng “Vietnamese Ranger…” gì đó. Hừng đông, sương mù tan nhanh dưới nắng.

                Chưa tới mười giờ sáng, một slick với hai gunships hộ tống đã có mặt trên vùng. Không lâu sau, chúng tôi đạp chân trên Sân Vận Động Di-Linh. Tại đây, Thiếu Úy Duyên và Tướng Ân đang đứng chờ. Tướng Ân bắt tay tôi và Đại Úy White, – Mission completed! You’re the best! Khi White và người mang máy truyền tin của ông ta đã quay lại trực thăng để trở về đơn vị của họ, Tướng Ân mới vỗ vai tôi, ôn tồn, – Anh rất hài lòng! Tuần tới anh sẽ giao cho chú một nhiệm vụ. Tôi đứng nghiêm, – Vâng, bất cứ nhiệm vụ gì Chuẩn Tướng giao phó, tôi sẽ cố gắng hoàn thành. Thiếu Úy Duyên cũng xen vào: – Tối qua, khi nghe nói trực thăng không vào đón anh nữa, tôi bực quá, gọi máy lên Sư Đoàn cự nự lung tung. Ai đời, dư máy bay lại dùng để hộ tống, trong khi người thì bỏ lại. Nếu ảnh (Duyên dơ tay chỉ vào ngực ông Tướng) mà không vào máy “stop” tôi lại, tôi còn làm tùm lum.

                Muốn phạt thì cứ phạt, cóc có ngán! Quay qua Tướng Ân, Duyên nói, – Anh thấy chưa? Họ dùng một slick trống, bay theo đoàn tầu chuyển quân để làm gì? Trong khi đại đội trưởng của em bị bỏ lại giữa rừng. Làm ăn gì mà bê bối quá vậy? Tướng Ân xua tay, – Thôi chuyện qua rồi! Anh sẽ bàn lại với họ về sự việc này để rút kinh nghiệm. Thiếu Úy Duyên là một Cựu Thiếu Sinh Quân, Chuẩn Tướng Ân cũng là một Cựu Thiếu Sinh Quân lớp đàn anh của Duyên. Họ là anh em, nên cách cư xử, xưng hô, có khác so với người ngoài.

                Tướng Ân nắm tay tôi tản bộ quanh sân vận động. Vừa đi, ông vừa nói, – Trong quân đội, hôm nay anh là chuẩn tướng, chú là trung úy, cấp bậc tuy có cách biệt nhau đấy, nhưng biết đâu? Có một ngày nào đó chú đuổi kịp anh, không chừng chú còn qua mặt anh nữa! Duy chỉ có cấp bậc “NiênTrưởng” là suốt đời, chú đuổi anh không kịp. Có một điều anh muốn nhắc nhở chú là, phải sống sao cho không hổ danh Võ- Bị. Đối với anh em cùng trường, phải thương yêu, nâng đỡ, che chở, đùm bọc lẫn nhau. Phải sống thế nào cho anh ra anh, em ra em. Từ nay, anh cho phép chú, nếu gặp anh, không phải là giữa hàng quân, chú cứ gọi anh là niên trưởng. – Vâng! Tôi tuân lệnh của niên trưởng! Trong thời gian tăng phái cho Task Force South, tôi còn nhiều dịp giáp mặt Anh Đào. Tôi không biết vì lý do riêng tư nào mà vị niên trưởng này lại đặc biệt lưu ý tới tôi.

                Mỗi khi đơn vị tôi về đóng quân tại Cam-Ly hay Liên-Khương, ông đều tạt xuống thăm tôi vài phút. Ông thường nhắc nhở tôi rằng: “Sự tồn vong của một đơn vị bộ binh không nằm ở trang bị tối tân, hỏa lực hùng hậu, mà nằm ở sự gắn bó giữa thượng cấp và thuộc cấp. Cấp chỉ huy phải lưu ý chăm sóc tới cuộc sống của từng người lính. Vì họ là lớp người được hưởng ít quyền lợi nhất. Nhưng nhiệm vụ của họ lại nặng nề nhất. Mạng sống của họ thật là mong manh. Hãy thương yêu thuộc cấp như thương yêu em út trong gia đình. Có như thế, thuộc cấp mới hết lòng với mình. Khi hữu sự, họ sẽ không bỏ mình.” Tôi rất cảm kích trước những lời chỉ dạy chân tình và quý báu của người đàn anh đáng kính này.

                Vài ngày sau, tôi nhận một công điện trao tay, từ Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 23 gởi theo trực thăng xuống DiLinh. Tư Lệnh chỉ thị cho tôi phải giám sát một đại úy thuộc Sư Đoàn 23 được gửi tới, theo chân Đại Đội 1/11/BĐQ hành quân trong thời gian một tháng. Ông đại úy sẽ tháp tùng tôi để quan sát, học hỏi kỹ thuật chỉ huy tác chiến của tôi trong suốt thời gian quy định. Chiều hôm đó trực thăng Hoa-Kỳ thả ông đại úy xuống chỗ đóng quân của tôi. Ông đại úy đi một mình, không tùy tùng. Ông đội nón đi rừng, mặc áo “Sô Dù” và trang bị một Colt 45. Trong ba lô của ông có mười ca gạo, và một cái võng, chẳng có poncho, chăn mền, nồi niêu, xoong chảo, chén bát, muỗng nĩa gì cả. Tôi không hỏi ông đại úy lý do tại sao ông ta bị đưa tới đây, nhưng ông ta tự ý tâm sự với tôi rằng, ông ta đang bị phạt.

                Đúng lý ra, tôi không bận tâm về việc ẩm thực của ông đại úy, nhưng thấy hoàn cảnh của một sĩ quan gặp lúc khó khăn, tôi ra lệnh cho Chuẩn Úy Đinh Quang Biện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 cấp cho ông ta một người lính lo việc cơm nước. Binh Nhì Triệu Cheng, anh lính nấu cơm của ông Biện được giao nhiệm vụ này. Trong thời gian một tháng, chúng tôi liên tục nhảy diều hâu vào vùng Đa-Dung, La-Ngà, Ma- Nôi… không có vụ đụng độ nào đáng kể. Rồi ông đại úy đáo hạn thọ phạt, từ giã, ra đi. Triệu Cheng cũng bị trả lại Trung Đội 3, tiếp tục nấu cơm cho Chuẩn Úy Biện. Chuyện tưởng chừng như đã quên. Cho tới một chiều nắng phai… Bốn sĩ quan Đại Đội 1/11 ngồi trên xe Jeep lượn quanh hồ Bảo-Lộc. Một bóng hồng dơ tay chận xe tôi. Người đẹp nhoẻn miệng cười tươi, hàm răng tuyệt đẹp.

                – Xin lỗi trung úy, em muốn hỏi thăm Thiếu Úy Chân ở Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 11.Bốn chàng sĩ quan nhìn nhau, – Cô có lầm không? Tất cả bốn đứa sĩ quan Đại Đội 1 đều ngồi trên xe này. Không có đứa nào tên là Chân cả. Cô gái tần ngần, – Anh Chân, cao cao, trăng trắng, tóc bồng bềnh, mang kiếng mát Ray-Ban, thường đi cùng ông đại úy mặc áo “Sô Dù” đại đội trưởng. Hai anh ấy hay ghé nhà em mỗi khi về phố… Ngồi trên ghế tài xế, Thiếu Úy Duyên bỗng nhảy nhổm, vỗ đùi, – Đúng rồi! Thiếu Úy Chân Đại Đội 1. Đúng rồi! Để chúng tôi đi kiếm dùm cho cô ngay bây giờ. Chào cô, chúng tôi đi nghe! Cô bé lại nhoẻn miệng cười, lí nhí tiếng cám ơn, rồi lui lên lề, nhường đường cho xe chúng tôi đi. Tôi chẳng hiểu nếp, tẻ, mô, tê gì cả, nhưng không tiện hỏi. Khi đã ngồi yên chỗ bên bàn ăn trong Quán Ngọc-Lan, Duyên mới nói nhỏ cho tụi tôi vừa đủ nghe, – Có mấy lần về phố nhận tiếp tế, tui bắt gặp thằng Cheng và “cha nội đại úy học nghề” thậm thụt khu xóm Chùa. Hình như nhà cô bé này cũng ở gần đâu đó. Để chiều nay về, tôi khảo thằng Cheng là rõ ngay. Sáng ngày kế đó, lúc xách nước cho tôi rửa mặt, Hạ Sĩ Nguyễn Lác cười hì hì.

                – Thằng Cheng nó đổi tên là Chân, lên làm Thiếu Úy Đại Đội Phó cho ông Đại Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 cả tháng nay. Tất cả bà con trong xóm Bàn Đèn Thuốc Phiện sau chùa Phật Giáo, ai cũng biết. Chỉ có các ông thầy Đại Đội 1 là không rõ đó thôi. Tôi chợt vỡ lẽ ra, hiểu chuyện, bật cười. Binh Nhì Triệu Cheng, anh em thường gọi đùa là “Triệu Đại Gia” vốn là cháu đích tôn của ông chủ hãng nhôm Triệu-Đà trong Chợ-Lớn. Vào một đêm mưa buồn giăng giăng, sau Tết MậuThân, điếu thuốc gắn trên môi, “Triệu Công Tử” đang lang thang trên phố vắng không đèn thì bị Tuần Cảnh Biệt-Khu Thủ-Đô chận đường. Cheng bị tóm cổ, thảy lên xe, đưa về Trung-Tâm Quản-Trị Trung-Ương.

                Binh Nhì Triệu Cheng có mặt ở Đại Đội 1/11 trước ngày tôi xuất viện trở về chỉ huy đơn vị. Mấy ngày sau, đại đội phải di chuyển bộ từ cầu Trắng lên sân vận động, chờ trực thăng vào vùng. Vì có lệnh di chuyển gấp, Triệu Cheng không kịp đút cái nồi nấu cơm của anh vào trong bao cát. Cái nồi nấu cơm của thày trò anh được móc vội trên ba lô. Cái nồi đen đong đưa theo bưóc chân Cheng… Đoàn quân đi qua xóm Chùa, dân chúng túa ra đường vẫy tay. Xe Jeep của đại đội dừng lại trước Cà Phê Duyên. Tôi bước xuống đứng bên đường, chờ tài xế Châu Minh Đạt chạy đi mua mấy ổ bánh mì. Tôi nghe nhiều tiếng gọi, – Anh Chân ơi! Anh Chân ơi! – Thiếu Úy Chân! Thiếu Úy Chân! Vào nhà bác nghỉ mệt một lúc rồi đi tiếp. Đi trong hàng quân, Triệu Cheng nhe răng cười. Anh đưa tay khoát khoát, chối từ những lời mời chào.

                Anh giở nón sắt ra, cầm tay. Cặp kiếng mát Ray-Ban thật xứng với khuôn mặt thư sinh trắng trẻo hồng hào. Trong bộ tác chiến rằn ri, trông anh như một nam siêu sao trong phim cao bồi màn bạc Mỹ. Những em bé đứng bên đường, có lẽ quen anh, trầm trồ kháo nhau, – Ông thiếu úy mà cũng vác nồi đi hành quân. Ông thiếu úy bình dân quá, chịu chơi quá tụi mày ơi! Khẩu M16 đeo vai, ba lô trên vai, Triệu Cheng vẫn bước khoan thai. Cái nồi nhôm đen, đeo bên hông ba lô, đung đưa theo nhịp bước anh đi. Tôi nghĩ, trong số những bàn tay vẫy vẫy tiễn đưa đoàn hùng binh ra trận ngày hôm ấy, thế nào cũng có bàn tay của cô bé xóm Chùa, cô bé có hàm răng tuyệt đẹp. Cũng từ hôm ấy, gia tài đại đội tôi có thêm giai thoại “Ông Thiếu Úy Bình Dân”.

                Mùa Thu trên Cao Nguyên…

                Mỗi lần Đại Đội 1/11 về Liên-Khương thì cái lều vải của tôi lại được căng trước sân tư gia của ông chủ xưởng cưa ĐứcTrọng. Lần nào cũng vậy, vừa thấy mặt tôi, cô cháu gái của ông chủ đã mừng rỡ, – Chào trung úy mới “dìa”! Bác Ba ơi! Ông trung úy Bắc Kỳ “dìa gồi” nè! Giọng nói đặc sệt Hậu-Giang của cô bé, tôi không nghe quen, nên thấy ngộ. Bà vợ ông chủ xưởng cưa kể truyện lai lịch cái tên Thu Bình của cháu bà cũng hàm ý lịch sử. Mùa thu năm 1954 hiệp định Genève được ký kết, chiến tranh Pháp Việt chấm dứt, Việt Nam hòa bình. Cháu bà sinh ra vào cuối mùa Thu đất nước thanh bình, nên được đặt tên là Thu Bình.

                Như vậy, phải hai, ba tháng nữa Thu Bình mới đủ mười bốn tuổi. Ấy thế mà anh thiếu úy đại đội phó cứ cắp đôi cô bé này cho tôi. Cái anh Đặng Hữu Duyên này thực là vô duyên hết chỗ nói! Anh ta còn lấy tên “Thu Bình” làm danh hiệu cho khẩu đội đại liên M60 của đại đội. Trước đó, khẩu đội súng cối 60 ly của Binh Nhứt Lê Văn Ngẫu đã bị anh Duyên khoác cho cái tên “Kim Cương”, vì ở Pleiku có một cô nữ sinh diễm kiều nhảy đầm rất giỏi tên là Kim Cương. Kim Cương và hai chị gái của cô đều thích Biệt Động Quân. Sau này Kim Cương kết duyên với anh Hoàng Kinh Ngữ, Biệt Động Quân thuộc Tiểu Đoàn 23. “Tình báo gia binh” sao mà thính tai đến thế! Chúng tôi chưa tổ chức hầm hố xong, bầu đoàn thê tử của Đại Đội 1/11 đã từ Đà-Lạt ào xuống một xe cam nhông, đầy đàn bà và con nít.

                Các bà vợ lính đem con từ Pleiku xuống chờ chồng lĩnh lương. Tôi nói với các ông trung đội trưởng tìm cách “du di” cho những quân nhân có gia đình đôi chút thời giờ để họ có thể chăm sóc vợ con. Ông chủ xưởng cưa cho phép thân nhân của đơn vị tôi được xử dụng dãy nhà chứa ván vỏ làm nơi tạm trú. Đời Biệt Động, sống nay, chết mai. Hạnh phúc của những gia đình Biệt Động là cái hạnh phúc “được phút nào, hay phút nấy!” Có lẽ vì thế mà bất cứ hành quân nơi nào, dù xa hậu cứ Pleiku cách mấy, chỉ cần dừng lại đôi ngày gần nơi thị tứ, có đường xe đò, là vợ con binh sĩ tìm tới ngay. Thân nhân binh sĩ trong đơn vị nhìn ông đại đội trưởng như người anh cả. Khi gia đình gặp cảnh khó khăn, họ không ngại ngùng đến nhờ tôi giúp đỡ. Anh chàng nào lạng quạng, có bồ, có bịch, hay cờ bạc, bê tha, bỏ thí vợ con là biết tay tôi ngay.

                Các chị cũng hay áy náy về chuyện vợ con của ông đại đội trưởng. Mỗi lần thấy bóng tôi đi ngang qua khu gia binh, các chị thường ân cần: “Trung úy cưới vợ cho có người tiếp tế lúc đi hành quân xa đi trung úy ơi! Trung úy cứ kén chọn hoài! Tụi em chờ mãi chưa thấy trung úy mời ăn xôi gấc!” Những lúc đó, tôi chỉ cười trừ. Chẳng biết trả lời các chị ấy sao cả. Vì lấy vợ đâu phải là chuyện dễ? Lấy vợ mà giản dị như xung phong chiếm một ngọn đồi thì tôi đâu có còn độc thân cho tới hôm nay? Nhà ông chủ xưởng cưa có cái máy lạnh chạy bằng đèn dầu lửa. Binh Nhứt Trung thường gửi bia lạnh của tôi trong tủ lạnh này. Tôi và ông chủ xưởng cưa thường ngồi đối ẩm nói chuyện đời vào những chiều sương rơi. Bãi cỏ bên kia Quốc Lộ 20 là sân bốc của trực thăng. Chúng tôi tập trung bên này đường, đội ngũ chỉnh tề. Càng trực thăng vừa chạm đất, chúng tôi đã ào sang, sẵn sàng leo lên. Cứ tám người một con tàu. Cứ bốn mươi người, một cánh quân.

                Có khi cánh quân của tôi bị thảy xuống cách cánh quân của Thiếu Úy Duyên hàng chục cây số. Chúng tôi vào vùng, rồi chuyển vùng xoành xoạch. Mưa theo chân chúng tôi từ bãi đáp này, sang bãi đáp khác. Rừng già Cao Nguyên lạnh quanh năm. Đi rừng vào mùa mưa còn thêm nhiều nỗi khổ. Đường trơn như tráng mỡ. Muỗi vắt đông vô kể. Một sáng, đơn vị đang di chuyển trên đường voi thồ trên núi Voi thì tao ngộ chiến. Hai bên mới bắn nhau vài băng AK, và M16, lính Trung Đội 1 của Thượng Sĩ Ngọ đã đè lên nhau, chạy thục mạng về phiá sau. Thiếu Úy Duyên đi đầu cùng Trung Đội 1 cũng chạy bán sống bán chết. Tới chỗ tôi, anh hổn hển.

                – Thái Sơn! Chạy mau! Chạy mau! Tôi dang hai tay, chặn đường, níu áo Duyên, – Dừng lại! Dừng lại! Làm gì kỳ vậy? Duyên giựt áo khỏi tay tôi, mặt tái mét, lắp bắp, – O…o… ong!… Ong vò vẽ! Chạy mau! Chạy mau! Duyên xô tôi một cái, rồi phóng đi, nhanh như bay. Tôi và hai anh cố vấn Mỹ tụt lại sau cùng. “Vo!… o…o… Vo!… o…o…Vo!..o…o…” Cha mẹ ơi! Đàn ong như một đám mây đen đặc đang ào ào kéo tới. Những con ong hung hãn lao “vèo!… vèo!” như mưa rào xuống đầu ba đứa chúng tôi. – Run! run! run!… Vừa la lên bằng tiếng Anh, tôi vừa co giò. Hai tay tôi có găng da đi rừng, tôi xòe hai tay che cổ và mặt. Những tiếng “đốp!… đốp!… đốp!” “độp!… độp!… độp!” liên tiếp nổ trên cái mũ đi rừng, làm tôi thót tim từng chặp. Tụi ong vò vẽ này đánh tàn bạo thiệt! Tôi chợt nhớ ra hai quả khói đeo trên dây ba chạc, ngay ngực. Tôi cúi người xuống, dùng răng rút đại một cái chốt an toàn. Quả khói vàng bung mỏ vịt. Tôi chạy tới đâu khói vàng mịt mù tới đó. Tôi phải nín thở, nếu không, tôi có thể chết ngộp chứ không phải chơi. Tôi chạy tới khi quả lựu đạn khói vàng hết xịt khói thì dừng lại. Đàn ong cũng không còn truy kích nữa. Tôi la lớn, – Anh Duyên ơi! Bác Ngọ ơi! Cho đại đội dừng lại. Bố trí kiểm quân!

                Đại đội nhanh chóng vào đội hình. Trong đội hình đó, tôi nổi bật lên, sáng choang. Từ đầu chí chân, toàn thân tôi nhuộm khói vàng. Đi trong rừng mà ngụy trang kiểu này thì thằng địch, dù bị thong manh, cũng tác xạ trúng mình cái tróc! Kiểm quân xong, chỉ thiếu có một anh trung sĩ cố vấn Mỹ da đen. Chuyến hành quân này, toán cố vấn Mỹ chỉ có một hạ sĩ quan và một binh sĩ truyền tin, không có sĩ quan đi theo đơn vị tôi. Có ba anh lính của đại đội chậm chân, bị ong đánh cho khờ khạo, phải đi cà lết. Anh Mỹ trắng chạy sau lưng tôi cũng bị ong chơi năm bẩy mũi. Cũng may, anh ta có cặp chân dài, vừa phóng lên, anh ta đã bỏ tôi lại đằng sau. Cái ba lô của anh, đựng chiếc PRC 25 bị ghim đầy xác ong. Ong chích xong, là chết bỏ xác. Loài ong này thiệt là anh hùng! Tôi cũng bị ong đánh một phát trúng gáy. Chỉ một phát thôi cũng đủ làm cho tôi cảm thấy xương sống gây gây như muốn lên cơn sốt. Tôi ra lệnh cho đại đội dò dẫm trở lại trận địa. Lựu đạn khói đi trước, quân ta tiến theo sau. Anh trung sĩ cố vấn Mỹ da đen, to như một con bò, nằm một đống giữa đường. Anh chàng vừa rên hừ hừ vừa co giựt chân tay.

                Anh cố vấn đang lên cơn sốt. Anh đau đớn, lăn lộn, vật vã. Tôi gọi y tá đại đội lên lụi cho anh ta một mũi Peniciline. Chúng tôi tiến tới vị trí chạm súng. Một cái nón cối vỡ nằm trỏng trơ trong vũng máu giữa đường. Những con ong đen đang chui rúc trong bãi óc và máu trên thi thể tên Việt-Cộng. Hắn bị trúng nhiều vết đạn trên người. Trên mặt đường voi đi, hai khẩu AK nằm cách nhau không xa, có vài vỏ đạn AK vương vãi đây đó. Hạ Sĩ Nghết, người khinh binh đi đầu đơn vị nói.

                – Vừa tới khúc quanh, tui nghe tiếng người nói chuyện phiá trước, tui đưa súng lên, bóp cò liền. Tụi nó có bắn lại. Tụi nó bắn lên trời. Ông Nghết hạ được một tên tại trận. Tên thứ nhì vứt súng, nhào vào bụi. Nó đạp sập một ổ ong vò vẽ. Vò vẽ phản công, đuổi Đại Đội 1/11 chạy vắt giò lên cổ. Tôi cho một trung đội lục soát quanh triền đồi. Tên Việt Cộng thứ nhì nằm chết cách ổ ong chừng hai chục mét về hướng suối. Hắn bị thương ở ngực và đã chết trên đường thoát thân. Tôi cho người võng anh trung sĩ Mỹ đen đi theo đại đội. Chúng tôi tìm hướng chui ra một bãi cỏ tranh. Tôi gọi tiểu đoàn cho trực thăng tản thương. Ba anh lính Biệt Động Quân Việt-Nam và hai anh cố vấn Mỹ mặt mày sưng vù, miệng rên ư ử, run lập cập, theo nhau leo lên tàu về Đà-Lạt. Sau lần hành quân này, tiểu đoàn được cho nghỉ dưỡng quân vài ngày trong thị xã Đà-Lạt. Đại đội tôi đóng quân trên ngọn đồi đầu đường dẫn vào thành phố. Chỉ cần một buổi là xong việc tái tiếp tế, tái trang bị. Bốn chàng sĩ quan của Đại Đội 1/11 lại leo lên lưng con tuấn mã mang số 103472, rồ ga. Chiếc Jeep mui trần nhong nhong khắp nơi, từ Phở Đắc Tín, qua Cà Phê Tùng, tới Phở Bằng, lên Rạp NgọcLan, xuống Rạp Diên-Hồng, vào cư xá sinh viên đại học, rồi cuối cùng, về “diễn binh” quanh khu Chợ Hòa-Bình.

                Những cánh phượng vỹ cuối mùa phủ đầy con đường thơ mộng bên bờ hồ Xuân Hương. Đó đây, từng cặp, dập dìu, nam thanh, nữ tú. Những bước chân vô tình đạp trên xác hoa. Tôi thấy trong số những anh kép đang cặp tay người đẹp, đi loanh quanh, hết lên đồi, xuống dốc, lại xuống dốc, lên đồi, có vài ba anh rằn ri, nón nâu… Hình như sau Tết Mậu-Thân, dân chúng Đà-Lạt hết ghét bỏ Biệt Động Quân rồi? Xe qua phố nào, tôi cũng thấy những bàn tay vẫy, những nụ cười. Xe tấp vào lề, đậu bên tam cấp dẫn xuống chợ. Thiếu Úy Duyên trao tay lái cho tài xế. Bốn chúng tôi tà tà lượn một vòng quanh bùng binh, ngắm những bóng hồng từ Sài Gòn lên. Chợ hoa rực rỡ muôn mầu. Bên đường, nhiều xe du lịch đậu nối đuôi nhau.

                Tôi vừa định kéo ba ông bạn chui vào Cà Phê Tùng, thì một ông rằn ri già đứng bên đường la oang oang, – Các cha nội về đơn vị đi hành quân gấp! Các cha nội ơi! Người vừa kêu réo chúng tôi bỏ thành phố để vào rừng là ông Đại Úy Voòng Lập Dzếnh, Tiểu Đoàn Phó. Hôm ấy là Chủ Nhựt, Chủ Nhựt mà cũng không được nghỉ. Đời Biệt Động, suốt tuần lễ, ngày nào cũng là… Thứ Hai.

                Chúng tôi trở lại chỗ đậu xe. Xe đi đâu mất rồi? Bà già bán chuối chiên bên đường nói với tôi, – Xe của trung úy bị Quân Cảnh kéo về Quân Trấn rồi! – Bà có thấy chú tài xế đâu không? – Cậu ấy bỏ xe đi mua cái gì đó, lúc quay trở lại thì xe đã bị kéo mất. Cậu ta sợ quá nhờ một anh đi xe gắn máy chở đi tìm xe rồi. Một chiếc Jeep Biệt Động Quân xuất hiện; tôi nhờ quá giang lên Văn Phòng Quân Trấn. Quân Trấn Đà -Lạt nằm trong một khách sạn nhìn ra Hồ Xuân Hương. Chuẩn Tướng Tư Lệnh Task Force South hiện nay kiêm nhiệm luôn chức vụ Quân Trấn Trưởng Đà-Lạt. Một ông trung úy Quân Cảnh đã tiếp tôi tại phòng trực nơi tầng dưới cùng.

                Tôi hỏi ông trung úy rằng, Quân Cảnh có giam chiếc Jeep 103472 Biệt Động Quân của tôi không? Ông ta chỉ tay về phía bãi đậu xe, cả chục chiếc Jeep đậu sát nhau. Chiếc 103472 mui trần của tôi nằm phía ngoài cùng. Trên xe còn khẩu M 16 của tài xế cùng cái máy PRC25. – Xe của trung úy chở máy móc, vũ khí mà đậu khơi khơi giữa chợ, không có người canh gác, nên chúng tôi kéo về giam ở đây.

                – Trung úy cho tôi biết thủ tục nhận lại xe ra làm sao được không? – Thường thì những xe bị kéo về đây chỉ được trả về đơn vị sau một tuần lễ. Chủ xe bị ký củ, tài xế bị nhốt trong phòng kỷ luật, chỉ được tha vào ngày xe được thả ra. Thiếu Tướng Quân Trấn Trưởng ra lệnh, cứ xe nào đậu trong phố không có tài xế, hoặc xe chở đàn bà trên ghế trưởng xa là tóm ngay. Chiếc Jeep đậu kế xe của trung úy là xe của Trung Tá Ry, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Tuyên Đức đó! Xe của Trung Tá Ry bị bắt lúc đang chở bà Ry đi chợ; bà Ry ngồi trên ghế trưởng xa. Ông Ry thì tôi biết, vì ông ấy là thầy tôi. Năm tôi còn học trong trường thì ông Ry là Thiếu Tá Trưởng Khoa Công Binh. Thiếu Tá Ry đã dạy Khóa 20 chúng tôi kỹ thuật bắc cầu phao, lái xuồng đổ bộ, cách gài bẫy, gài mìn, tháo mìn, phá cống, phá cầu, chế tạo liều thuốc lõm chống chiến xa, phá lô cốt, hạ cây rừng, phá nòng đại bác… Tôi nhủ lòng, để hôm nào rảnh, hành quân về nghỉ, tôi sẽ ghé thăm ông. Tôi hỏi, – Thằng tài xế của tôi đã tới đây, nó có gặp trung úy không vậy? – Anh ta đang bị nhốt trong phòng kỷ luật. – Tôi muốn gặp nó. Anh cho tôi gặp nó đi.

                Viên trung úy dẫn tôi sang phòng bên. Khoảng mười cậu tài xế đang bị cấm túc ở đây. Giày của họ bị rút hết dây. Quân Cảnh sợ họ quẫn trí, dùng dây giày thắt cổ tự tử, nên bắt họ đi giày không dây. Thằng đồ đệ ruột Châu Minh Đạt của tôi đang ngồi trò chuyện vui vẻ cùng những anh bạn “giày không dây” mới quen của nó.
                – Ông thày ơi! Em vừa vào tiệm mua được hai bao Lucky cho ông thày, quay ra thì xe đã bị tụi nó kéo đi mất rồi. Tụi nó tống em vào đây để chờ ông thày tới lãnh mới thả ra. Mấy thằng Quân Cảnh Đà-Lạt này phách lối quá, để hôm nào tụi em lừa lừa, lụi cho tụi nó vài dao, cho biết đời. Tôi nạt, – Im đi! Rồi quay sang anh trung úy Quân Cảnh tôi nói, – Anh trả dây giày cho nó. Tôi lãnh nó ra. – Không có lệnh của Thiếu Tướng, tôi không thả anh ta ra được. – Anh dẫn tôi lên gặp Chuẩn Tướng.

                Hình như lúc đó mặt tôi “ngầu” lắm hay sao mà khiến anh Quân Cảnh cuống quít, – Để tôi lên trình. Anh ta chạy nhanh lên lầu rồi xuống ngay, – Thiếu Tướng nói, lính gì thì lính, vi phạm kỷ luật thì thọ phạt đủ ngày mới thả. – Vậy thì anh lên trình với Chuẩn Tướng rằng nếu không thả xe, thả người, ngày mai tôi sẽ không đi hành quân nữa. Tôi sẽ dẫn đại đội tới đây, vào phòng kỷ luật ngồi cho đủ một tuần lễ mới ra. Trên lầu có tiếng người vọng xuống, – Dưới đó có chuyện gì mà ồn ào thế? – Thưa Thiếu Tướng! Có một anh trung úy Biệt Động Quân đang làm loạn ở dưới này. Anh ta cứ đòi gặp mặt Thiếu Tướng, cứ đòi lãnh tài xế và xe ra. – Cho nó lên đây! Tôi vừa dợm chân định chạy lên gác, thì anh Quân Cảnh níu tay, – Anh để lại khẩu Colt trên giá súng kia, đi lên người không. Có lệnh cấm mang vũ khí vào phòng Tư Lệnh. Tôi vứt cái dây ba chạc xuống đầu cầu thang rồi phóng lên lầu. Vừa ló đầu vào phòng tôi đã nghe “Niên Trưởng” cười hì hì, – Pháp bất vị thân! Ngày mai chú mi tới Quân Trấn thọ phạt một tuần. Hết một tuần mới được tha. Tôi tưởng niên trưởng nói thật, nên cũng lễ phép trả lời, – Tuân lệnh! Rồi tôi nhìn ông, thắc mắc.

                – Mai đến phiên tôi nhảy đầu. Nếu không có tôi thì ai thay tôi chỉ huy hai Đại Đội 1 và 3? – Ngồi xuống đi! Tôi ngồi xuống cái ghế đặt trước bàn của niên trưởng Ân. Niên trưởng của tôi chìa cho tôi xem một tờ giấy đánh máy, một bản viết bằng Anh Ngữ. Đó là danh sách đề nghị ân thưởng huy chương Hoa-Kỳ cho những chiến sĩ hữu công trong chiến dịch, trên đó, tên tôi đứng đầu. Niên trưởng của tôi gõ gõ cán bút xuống mặt bàn, rồi nhìn tôi, thật ôn tồn, – Sĩ Quan Võ-Bị, cũng như Thiếu Sinh Quân, là những người đã chấp nhận một đời theo nghề lính. Đã là một người lính nhà nghề, thì trước hết phải yêu nghề. Đã là một sĩ quan thì đương nhiên là một cấp chỉ huy.

                Một cấp chỉ huy hoàn hảo phải hội đủ những đức tính cần thiết của một người chỉ huy đó là: Can trường, thao lược, liêm khiết, và nhân ái. Những đức tính can trường, thao lược, và liêm khiết là tự mình, do mình. Còn đức nhân ái lại liên hệ tới người khác, nhất là với thuộc cấp. Nhớ đừng bao giờ bỏ rơi thuộc cấp. Đừng bao giờ bỏ rơi anh em. Nếu thuộc cấp phạm lỗi, hãy tha thứ cho họ, một lần, hai lần, thế nào họ cũng đổi thay. Quân đội là một tập thể qui tụ hàng trăm thành phần. Do đó, có lúc mình phải duy trì kỷ cương bằng kỷ luật và mệnh lệnh. Nhưng cũng có lúc chúng ta phải chỉ huy bằng tình thương từ trái tim. Cái khó là làm sao biết được, lúc nào nên chỉ huy bằng khối óc, lúc nào nên chỉ huy bằng trái tim. Ông liên đoàn trưởng của chú đã kể cho anh nghe đầy đủ về lý lịch và thành tích của chú. Rồi qua những lần tiếp xúc, anh cũng biết tính khí và khả năng của chú rồi. Đừng nản lòng, hãy cố gắng lên,vàng ròng không ngại lửa. Chú có hiểu ý anh không?

                – Vâng! Tôi hiểu ý niên trưởng rồi. Cám ơn niên trưởng về những lời khuyên vừa rồi. Thì ra ông niên trưởng này đã được báo biết chuyện tôi bị lao đao như thế nào sau Vụ Phật Giáo Miền Trung năm 1966, chuyện tôi bị bóc lon, bị treo lon vì theo Tướng Nguyễn Chánh Thi… Hôm đó tôi còn được ngồi nghe ông kể vài chuyện liên quan tới đời lính của ông. Kỷ niệm thời Thiếu Sinh Quân, kỷ niệm thời Nhảy Dù. Mỗi chuyện ông kể, là một bài học cho tôi nhớ mà áp dụng sau này.

                Chiều đó, anh trung úy Quân Cảnh trố mắt, ngạc nhiên khi thấy ông Tướng Quân Trấn Trưởng đích thân tiễn chân một trung úy cắc ké của Biệt Động Quân ra tận xe. Rồi ông Tướng còn đứng lặng nhìn theo bóng chiếc xe mang số 103472 càng lúc càng xa dần. Ngày hôm sau… Chúng tôi chạm địch trong rừng thông cách thác Prenn tám cây số về hướng Tây. Địch hai chết, ta một bị thương là Binh Nhứt Nguyễn Văn Phong thuộc Trung Đội 3. Sương mù dày quá, trực thăng không tìm ra đám khói vàng đánh dấu bãi đáp để bốc thương binh. Chúng tôi đành leo lên một cao điểm để qua đêm. Người lính bị thương nằm trên võng, bên đống lửa.

                Viên đạn súng trường trúng đùi, chạm xương, nằm trong bắp thịt. Một ống quần của anh đã bị quân y xẻ dọc để tiện băng bó. Y tá đại đội đã làm “ga-rô” nơi phía trên của vết thương. Tôi thấy đùi anh như đang sưng tấy lên. Tôi nhẹ lay đầu võng của Phong, – Chú thấy trong người ra sao? – Em khoẻ mà! Thái Sơn đừng lo. –
                Chú cố gắng chịu đau qua đêm. Sáng mai anh xin trực thăng đưa chú về Đà-Lạt. – Khuya rồi! Ông thầy đi ngủ đi! Lấy sức. Mai ông thầy còn phải lội nữa mà! Tôi đưa ca cà phê nóng cho Phong, – Chú uống cho khỏe. – Cám ơn Thái Sơn! Sau một hớp cà phê, Phong bắt đầu tâm sự, – Ngày Mùng Một Tết, trung úy bị thương nặng, tụi em lo quá! Tụi em chưa kịp vào nhà thương thăm trung úy, thì đại đội đã bị đưa lên Đà-Lạt đánh nhau. Tụi em chờ mãi không thấy trung úy trở về. Có người còn đưa tin rằng trung úy đã ra loại hai, không trở lại đơn vị tác chiến nữa.

                Tới khi ông Trung Úy Lương về chỉ huy đại đội thì tụi em tin chắc là trung úy đã đi luôn rồi. Tụi em buồn quá, bàn nhau sẽ leo xe đò về SàiGòn đào ngũ. Hôm tiểu đoàn chấm dứt hành quân vùng Đơn Dương rút về nghỉ trong đồn điền Michelin, em với thằng Đạt đã thay “civil”, chui lên núp dưới sàn xe be chở cây. Dự trù tới Phương-Lâm thì nhảy xuống, chuyển sang xe Lamb về Hố Nai. Nhà bác em ở Hố-Nai. Đâu ngờ, lúc xe be đi ngang cổng trường Nông Lâm Súc, Blao, em thấy trung úy đang đứng nói chuyện với đại úy tiểu đoàn trưởng, em nghĩ trung úy đã xuất viện, về lại đại đội, nên em và Đạt nhảy xuống xe, bỏ ý đào ngũ. Phong chợt cười khì, – Nếu hôm đó em không nhìn thấy trung úy thì bây giờ em đã ở nhà, lấy tên cũ, khai sinh cũ, đi học lại lâu rồi, đâu có bị thương gãy chân nằm đây! Phong bóp bóp bàn tay tôi mấy cái, rồi nghẹn ngào, – Trung úy có nhớ ngày đại đội mình leo Ngô-Sơn không? Ngày đó trung úy giúp em, vác thùng đạn đại liên 30 và khẩu Garant lên núi… – Ừ! Nhớ!… Ngày đó…

                Có một chú bé mặc rằn ri ngồi khóc bên tảng đá lớn nơi triền núi. Ngọn núi vừa cao, vừa dốc. Ông đại đội trưởng leo tới chỗ cậu bé, – Sao ngồi khóc đây? – Trình trung úy em mệt lắm “gồi”! Thùng đạn nặng quá, em vác “hổng” nổi. – Rồi! Đưa cây Garant đây! Đưa thùng đạn đây! Chút nữa lên tới đỉnh, nhớ đến ban chỉ huy đại đội để nhận lại. Khẩu Garant cao gần bằng thằng bé. Còn thùng đạn này là một trong bốn thùng đạn tăng cường cho khẩu đội đại liên, được giao cho trung đội trực, đang di chuyển cùng ban chỉ huy đại đội. Tôi đã quàng vai khẩu Garant M1, xách thêm thùng đạn đại liên leo lên núi. Chú bé giờ đó chỉ còn cái ba lô nhẹ tênh trên vai.

                Nhưng chú vẫn vừa đi, vừa khóc rấm rứt không thôi. Khi cậu bé tới nhận lại súng đạn, tôi hỏi, – Này nhỏ! Tên gì? Mấy tuổi rồi? – Trình trung úy, em là Nguyễn Đăng Phong, em mười sáu. Em lấy khai sanh giả, mang tên Nguyễn Văn Phong, tăng hai tuổi, tình nguyện đăng lính Biệt Động Quân. Tôi biết và nhớ tên của nhỏ này từ ngày đó. Bây giờ nó đã cao lớn, mập mạnh hơn nhiều, so với ngày nó mới về đơn vị. Nó đã lên Binh Nhứt và có vẻ chững chạc lắm. Khi nói chuyện, nó cũng bỏ bớt những tiềng “gồi”, “hổng”, mà thay vào đó là “rồi”, “không”… Tôi vỗ nhẹ lên vai Phong, mồi cho anh một điếu thuốc, rồi lên võng. Nửa đêm, nghe tiếng rên, tôi lại chui vào lều y tá Đức, – Gì đó Đức? – Trình trung úy. Vết thương làm độc. Thằng Phong đang lên cơn. Nó bị sốt mê man, ngất đi hoài. Nghe tiếng tôi, Phong giơ tay, – Trung úy cho em nhờ chút! Tôi nhích lại đầu võng của Phong. Phong đưa cho tôi cái bóp của anh, – Đây là giấy tờ và lá thư em mới viết hôm qua.

                Nếu em chết trước khi trực thăng tới. Em nhờ trung úy gửi giùm cho tía má em . – Đừng nói gở! Gắng chút nữa trời sáng, có máy bay, vài phút là về tới Đà-Lạt. Phong ngước mặt nhìn tôi, dưới ánh lửa, tôi thấy nước mắt nó dàn dụa, – Trung úy! Em thấy ngực nặng như chì, khó thở lắm rồi. Em không biết nói gì để tỏ lòng yêu quý của em đối với trung úy. Trung úy… đừng quên em nhé! – Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu… Bên bếp lửa chập chùng, tôi ngồi bó gối nơi đầu võng của người thương binh đàn em. Đêm dài như không muốn sáng. Lúc tỉnh, lúc mê, khi gà rừng eo óc gáy, Binh Nhứt Nguyễn Văn Phong không tỉnh lại nữa. Tôi cầm tay thằng em, tay nó đã lạnh giá. Tôi vuốt mái tóc cho thằng em, – Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu…

                Tháng Chín ngậm ngùi…

                Lại một cuộc hành quân chấm dứt, chúng tôi rời Buôn Ma Nôi vào buổi chiều. Pháo binh Hoa-Kỳ được cơ giới vận chuyển, còn đại đội tôi phải đi bằng chân. Tối mò chúng tôi mới tới làng Klong A bên Quốc Lộ 20. Vì sân nhà nào cũng đầy phân trâu, phân bò, nên tôi đành đóng quân qua đêm trên một gò đất bên đường. Mười giờ sáng hôm sau bốn chiếc GMC tới đón chúng tôi về phi trường Liên-Khương, nằm ứng chiến.

                Chiều hôm ấy Trung Tá Sâm ghé thăm và báo cho tôi một tin không vui: “Anh Đào vừa tử nạn trực thăng ở Đức-Lập!” Nghe tin này, tôi lặng người đi vài phút. Tôi thấy hình như đôi mắt ông Sâm ướt lệ. “Tội nghiệp anh Ân!” giọng ông hơi run. Tôi biết ông Sâm và ông Ân có mối quan hệ gì đó với nhau. Bề ngoài họ là thượng cấp, thuộc cấp. Nhưng bên trong, họ là bạn cùng trang lứa, thân thiết lắm. Trung Tá Sâm là một cấp chỉ huy rất đặc biệt, mười người dưới quyền thì chín người sợ ông và ghét ông. Tôi là người ngoại lệ, lúc nào cũng được ông mến thương và thân thiết, chẳng biết vì sao? Bốn mươi năm sau chiến tranh, có lần trò truyện bằng điện thoại với anh Chung Thanh Tòng, người từng làm phụ tá cho Trung Tá Sâm một thời, tôi nghe anh Tòng cười hì hì, – Ông Sâm khó thấy mồ! Làm phó cho ông ấy mà tôi cũng sợ ổng chết luôn.

                Ông Sâm chỉ nể có mình chú, thương có mình chú. Có lẽ tại chú vừa giỏi, vừa đứng đắn. Có lẽ Trung Tá Sâm đã giới thiệu tôi với Tướng Ân, nên tôi được ông Tướng này để ý tới cũng nên? Thời gian hành quân dưới quyền Task Force South, vài anh bạn cùng khóa của tôi vừa thấy bóng dáng Anh Đào đàng xa đã lo tìm đường lủi. Có anh đang lái xe lạng lạng quanh Hồ Xuân Hương, ngửng mặt lên, phát giác ra có cái đầu húi cua trên hiên lầu 2 của Quân Trấn Đà-Lạt thì lo mau mau vặn tay lái quẹo lên hướng Nha Địa Dư ngay. Có bạn đang hiên ngang, mũ dắt cầu vai, khoác tay đào dạo phố, bỗng thấy xe Quân Cảnh Sư Đoàn 23 chạy trước, theo sau là chiếc Jeep với cái bảng đỏ một sao trắng, bèn giả đò cúi xuống cột lại dây giầy để dấu mặt. Với Tướng Ân, có lẽ tôi là một ngoại lệ. Có lẽ vì thế mà ngày đó, khi nghe tin Anh Đào tử nạn đã có hai người khóc, đó là Trung Tá Sâm và tôi.


                Vương Mộng Long, K20
                Seattle tháng Tư năm 2017
                nguồn:
                https://buonvuidoilinh.wordpress.com...toi/#more-3620

                Comment


                • Chào Cô ... Em Gái Biệt Kích Dù

                  Chào Cô ... Em Gái Biệt Kích Dù
                  Bao Bất Đồng



                  LĐ81 Biệt Cách Dù trở về hậu cứ Lai Khê từ chiến địa An Lộc, 1972

                  Nửa đêm về sáng... Bao Bất Đồng đang thả hồn bay bướm mà mơ mình là Triệu Tử Long, đang thả phách lang thang mà mộng mình là Võ Tòng đả hổ. Bỗng có tiếng điện thoại réo inh ỏi. Bèn bốc máy, cứ ngỡ là mấy ông bạn đời chợt nổi cơn đồng bóng nên gọi tới để kháo chuyện thời sự. Nào ngờ bên kia đầu giây lại là một trong những con phượng hoàng của Quân Lực: cựu đại-tá Phan Văn Huấn, nguyên chỉ huy trưởng Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù.

                  Bao mỗ cực kỳ cảm khái nên vội nhảy phóc xuống đất, miệng vừa hô nghiêm, tay vừa giơ lên chào, xem ra rất là lễ nghi quân kỷ. Rằng :
                  - Xin trình diện Đại tá.

                  - Miễn lễ. Nhưng hãy vứt giùm ta vào sọt rác hai tiếng "Đại tá".

                  - Bẩm, đệ tử không dám.

                  - Sao lại không dám. Thời buổi này đến vua mà còn bị mời xê ra chỗ khác chơi huống chi là tướng, tá...

                  - Vậy thì bẩm sư phụ.

                  - Càng không được. Ta gốc chỉ là con đom đóm trong số một triệu quân đứng dưới cờ mà lại tự xưng mình là sư e thất kính với các bậc tiền bối. Bây giờ giữa chúng ta, những người đã từng mặc áo lính chỉ còn là anh với em, diễn nôm ra là huynh đệ. Ta là huynh, mi là đệ. Nhận rõ ?

                  Bao Bất Đồng bắt rơm rớm nước mắt :
                  - Rõ ! Thưa... Anh Cả.

                  - Tốt. Ta từ bên xứ Huê Kỳ gọi qua, thứ nhứt là để hỏi thăm các bạn hữu trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, các chiến hữu trong Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù, thứ nhì là cảm ơn ký giả Chu Văn và tờ VNTN, đã viết và đã đăng tải thiên ký sự để đời "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù" ròng rã suốt một năm.
                  Đem in thành sách cũng xấp xỉ 300 trang khổ lớn.

                  - Bẩm, đó chẳng qua là bổn phận.

                  Anh Cả cười ha hả :
                  - Chí khí, chí khí... đúng là tác phong của Biệt Kích. Vẫn biết là bổn phận, nhưng mấy ai trong cõi lưu vong còn cho chữ nghĩa xuống đường để ghi lại những chiến tích của một thời xưa lừng lẫy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòạ Bút ký "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81" là một bản văn đáng đồng tiền bát gạo. Là một thông điệp máu để cho thế hệ trẻ hôm nay biết cha ông của họ ngày trước đã chiến đấu như thế nào.

                  - Xin đa tạ.. xin đa tạ.

                  Anh Cả hỏi :
                  - Mi còn nhớ... cô giáo Pha ?

                  - Bẩm, là cô gái An Lộc. Kẻ đã bốc hai câu thơ bất hủ :

                  "An Lộc địa sử lưu chiến tích
                  Biệt-Kích-Dù vị quốc vong thân".


                  - Đúng ! Xưa, năm mùa hè đỏ lửa, trong tiếng đạn pháo vỡ trời của Bắc quân, cô Pha đã tận mắt chứng kiến sự hy sinh cao cả của những người lính Biệt-Kích mà xuất thần cảm đề được 2 câu thơ tuyệt cú đó.

                  - Hoan hô cô giáo Pha.

                  - Phải nói là muôn năm cô giáo Pha. Bởi chính từ hai câu thơ đó mà cả nước biết danh Biệt-Kích-Dù, mà khiến hàng triệu người phải nhỏ lệ khóc cho 62 chiến sĩ mũ xanh đã nằm xuống trong mặt trận Bình Long.

                  - Hay thật !

                  - Hay quá đi chứ ! Vậy đố mi, giờ cái cô giáo vĩ đại ấy đang ở nơi mô ?

                  - Bẩm, chắc đã được lên... thiên đàng.

                  - Thiên đàng ???

                  - Còn tục gọi là đã sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc. Bởi, ngay cả những người lính thép, sau trận đánh, cũng chẳng còn được bao người nguyên vẹn hình hài, đừng nói là dân, đừng nói là một người con gái.

                  - Lầm chết, lầm chết ! Được sự che chở của lực lượng Biệt Kích, cô Pha đã thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc. Hiện nay, cô đã có gia đình và đang sống phây phây ở Mỹ.

                  - Phúc đức thay... phúc đức thay.

                  - Quả đúng là phúc đức. Thoát chết được trận An Lộc phải là phúc ông Bành Tổ. Mới đây hai vợ chồng có đến viếng ta. Chị, giờ đã hơn tứ tuần, nhưng vẫn còn duyên dáng, nhưng vẫn còn xinh đẹp, và nhất là vẫn còn nặng ân nghĩa với Biệt Kích Dù.

                  - Bẩm Anh Cả, em út còn nhớ... ngoài hai câu thơ "An Lộc địa sử lưu chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân", hồi đó, cô giáo Pha còn quỳ trước nghĩa trang Biệt Kích tại An Lộc, vừa khóc, vừa dùng ngón tay vẽ trên cát một bài thơ ???

                  - Mầy số một ! Lần gặp lại mới đây, cô Pha có đọc lại cho ta nghe. Thơ rằng...

                  "Anh Biệt Kích hề ngàn xưa bất hứa
                  Em thục nữ hề trong trắng ngoài xinh
                  Ta quen nhau hề Lý Bạch lưu linh
                  Khi chợt tỉnh hề khối tình trong mộng
                  Em chỉ muốn hề thương chàng qua bóng
                  Để rồi mơ hề rồi mộng rồi mơ
                  Biệt Kích ơi hề tâm ý thành thơ
                  Xin gửi đó hề chừ thương nhớ mãi".


                  Đọc xong, Anh Cả hỏi :
                  - Hay không ?

                  - Hết xẩy.

                  - Chỉ có đi lính, nhất là lính Biệt Kích thời mới cảm được chất thơ. Mi họa được không ?

                  - Đệ vốn kiến văn dốt nát. Ngâm thì có thể chứ họa thì xin lỗi. Nhưng đệ cũng có một bài thơ xin nhờ đại huynh chuyển lại cho cô giáo Pha...

                  - Của ai ?

                  - Của một người lính Biệt Kích vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của biệt-đội I. Tháng 1/75, theo Đường Sơn Đại Huynh Vũ Xuân Thông và Mãnh Long Quá Giang Nguyễn Sơn nhảy vào Phước Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết được một bài thơ rất cảm động.

                  Anh Cả Huấn hỏi như khóc :
                  - Vậy là thằng em đã hy sinh ?

                  - Vâng, anh ấy đã chết sau đó 8 ngày và bài thơ đã được giao lại cho một người bạn đồng cảnh ngộ.

                  - Và anh bạn ấy đã học thuộc lòng ?

                  - Dạ, y chang. Cách đây không lâu, em út do một sự tình cờ gặp lại đấng bạn đó và thế là... có bài thơ.

                  - Tựa đề ?

                  - Tựa là "Gửi em... cô gái Bình Long". Thơ rằng :

                  "Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc
                  Đội pháo trên đầu như đội mưa
                  Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc
                  Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.

                  Trong tiếng đạn reo mù khói trận
                  Bỗng gặp em, cô giáo như mơ
                  Em ngồi rũ tóc trong hầm tối
                  Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ".

                  "Lạy Chúa con là người ngoại đạo
                  Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
                  Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ
                  Thi sĩ cầm gươm như đi chơi".

                  "An Lộc địa sử lưu chiến tích
                  Biệt Kích Dù vị quốc vong thân"
                  Lời thơ hôm ấy sao hay quá
                  Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi.

                  Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ?
                  Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ?
                  Chúc em hạnh phúc răng long bạc
                  Còn anh hôm nay vào Phước Long.

                  Anh theo quân vào nơi hiểm địa
                  Hét tiếng xung phong đến vỡ trời
                  Bắn cháy xe tăng như uống rượu
                  Mà tưởng em đang rót chén mời.

                  Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ
                  Ba trăm quân đánh một sư đoàn
                  Mãnh hổ nan địch quần hồ bại
                  Anh thối binh về mà thấy oan.

                  Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa
                  Toán Delta bị kích giữa đàng
                  Ôi lại Phước Long lưu chiến tích
                  Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang.

                  Và chừ giờ đang ngồi bó gối
                  Tay xích chân xiềng trong trại giam
                  Máu bụng vẫn tuôn ra như suối
                  Anh biết mình thôi thế là tan.

                  Nhưng giây phút cuối anh vẫn nhớ
                  Màu áo hoa dù nón mũ xanh
                  Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ
                  Họa bút thành thơ như tiếng oanh.

                  "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
                  Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi"
                  Xá gì một cõi đi về đất
                  Biệt Kích lưu danh, Biệt Kích đời".


                  Và ơi.. cô giáo Pha ! Giờ, ở cõi trần thế chả hiểu cô có còn nhớ người lính Biệt Kích năm xưa ấy ? Thôi thì chào cô.. em gái Biệt Kích Dù !

                  Bao Bất Đồng
                  nguồn:
                  http://www.nvbonphuong.com/forums/sh...ệt-Kích-Dù
                  Last edited by BachMa; 02-03-2018, 09:12 PM.

                  Comment


                  • Đại úy Trần Thế Vinh

                    Đại úy Trần Thế Vinh


                    Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi cùng cả nước ra sức ngăn chận cuộc xâm lăng của Bắc quân trên cả ba mặt trận chính Quảng Trị, Komtum và Bình Long, các đơn vị và chiến sĩ KQVNCH đã tạo được nhiều thành tích chói ngời cho quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa góp phần quan trọng trong những chiến công giữ vững miền Nam. Tuy nhiên trong năm này Không Quân VNCH cũng phải chịu nhiều mất mát và một trong những cái tang gây nhiều tiếc thương cho cả trong lẫn ngoài Quân Chủng là sự ra đi của Đại úy Trần Thế Vinh Phi Đoàn 518 Phi Long trên vùng trời Quảng Trị.

                    Đại úy Trần Thế Vinh sinh ngày 27-9-1946 tại Ninh Cường, Nam Định, Bắc Việt. Cùng gia đình di cư vào Nam năm 1954. Anh gia nhập Không Quân cuối năm 1964 khi đang theo học Đại học Luật Khoa.

                    Sau khi mãn khóa hoa tiêu quan sát tại quân trường Nha Trang, Trần Thế Vinh được gửi theo học khóa phi công khu trục AD-6 tại Hoa Kỳ. Anh tốt nghiệp thủ khoa khi cùng học với nhiều phi công ngoại quốc khác. Được coi là một phi công “AS” sau các bậc đàn anh như Quốc, Chấn, Tế, Huề, Du . . . Về nước Trần Thế Vinh phục vụ tại Phi Đoàn 518 Phi Long, bên cạnh những bậc đàn anh lừng danh qua những phi vụ Bắc phạt. Anh lần lượt mang cấp bậc Thiếu úy từ tháng 3 –1967, thăng Trung úy vào tháng 3-1969. Đại úy từ tháng 1-1972, giữ chức Phi tuần trưởng A-1 và từng được thưởng rất nhiều huy chương các loại, đáng kể nhất là những huy chương Anh Dũng và Phi Dũng Bội tinh các cấp cùng Chiến Thương Bội tinh.

                    Khi chiến cuộc vùng Trị Thiên sôi động vì Bắc quân vượt vĩ tuyến mở cuộc tấn công đại quy mô vào Quảng Trị. Ngày 01-4-1972 Phi đoàn 518 được biệt phái ra Sư Đoàn 1 KQ để trực tiếp yểm trợ cho các cánh quân vùng địa đầu giới tuyến, và ngay lập tức Trần Thế Vinh hăng say tình nguyện tham dự tất cả các phi vụ không ngơi nghỉ bất kể thời tiết xấu như thế nào và phòng không địch đan kín bầu trời.

                    Ngày 2-4-1972 Trần Thế Vinh thực hiện phi vụ đầu tiên tại vùng giới tuyến, hạ 5 chiến xa Bắc quân ở phía bắc Đông Hà, phi cơ của anh bị trúng đạn phòng không 12 ly 7 bên cánh trái nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn. Liên tiếp 3 ngày tiếp theo sau đó, ngày nào Đại úy Vinh cũng cất cánh bay và ngày nào cũng bắn hạ được xe tăng địch. Tổng cộng chỉ trong vòng 3 ngày 2, 3 và 4-7-1972 anh hạ tất cả 20 chiến xa Cộng quân, nhiều lần phi cơ bị trúng đạn phòng không nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn.


                    Để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội. Bộ Tư Lệnh KQ/VNCH đã phối hợp với Cục Tâm Lý Chiến thực hiện một chương trình truyền hình về các chiến công của quân chủng phát trên đài truyền hình quốc gia tại Sài Gòn vào hai ngày 7 và 8-4-1972. Trong chương trình này Thiếu tá Lê Quốc Hùng, Phi đoàn trưởng PĐ 518 đã giới thiệu Đại úy Trần Thế Vinh là phi công anh dũng và xuất sắc nhất của đơn vị. Ông hứa với khán giả rằng trong tuần lễ kế tiếp sẽ đưa Đại úy Vinh về giới thiệu trực tiếp với công chúng. Trong khi mọi ngườI hân hoan và nóng lòng chờ đợi được thấy mặt viên phi công anh dũng một mình trong ba ngày liên tiếp bắn hạ 20 chiến xa CS Bắc Việt tại Quảng Trị thì bất ngờ sáng ngày 9-4 Đại úy Trần Thế Vinh gãy cánh trong khi thi hành phi vụ khẩn cấp giải vây cho căn cứ Phượng Hoàng lúc ấy do Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phòng thủ đang bị Cộng quân vây chặt và tấn công dữ dội bằng pháo binh, chiến xa và bộ quân.

                    Cùng Phi tuần viên Đại úy Phan Công Định, phi tuần trưởng Đại úy Trần Thế Vinh cất cánh rời phi trường Đà Nẵng vào lúc 8 giờ sáng Chủ nhật 9-4 trong lúc thời tiết rất xấu, trần mây rất thấp. Tầm nhìn xa không quá 50 mét khiến Đại úy Vinh đã quyết định áp dụng chiến thuật táo bạo là cả hai phi cơ bay rất thấp gần đến mục tiêu mới bốc lên cao và từ đó lách mây đâm xuống oanh kích để tạo yếu tố bất ngờ. Chiến thuật gan dạ nhưng đầy liều lĩnh này đã khiến địch quân không kịp trở tay và các chiến xa Cộng sản không thể tránh kịp phơi mình làm mục tiêu ăn bom và có 4 chiến xa trúng bom từ phi cơ của Đại úy Vinh ngay khi anh vừa đâm bổ xuống. Tuy nhiên vì xuống quá thấp, phi cơ của anh đã bị trúng đạn phòng không và bốc cháy không kịp bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Đại úy Phan Công Định đã báo cáo phi cơ của Đại úy Vinh đâm xuống đất và không thấy có chiếc dù nào bay ra.

                    Đại úy Trần Thế Vinh, Chim Thiêng đã bỏ trời xanh, bỏ người tình bỏ bạn bè . . . Chim Thiêng đã về ngàn. . . Vinh đã anh dũng hy sinh đền nợ nước khi tuổi đời chưa tròn 26. Anh ra đi trong sự xúc động của cả nước, từ dân đến quân, cả trong lẫn ngoài quân chủng. Chiến tích một mình trong một tuần lễ hạ 21 chiến xa địch đã khiến anh trở nên một huyền thoại có thực của Không Lực VNCH. Ngay sau đó chân dung Đại úy Trần Thế Vinh xuất hiện trên những tấm bích chương cổ động nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân được trưng bày khắp mọi ngả đường trên toàn quốc. Chưa bao giờ hình ảnh và tên tuổi một phi công được nhắc đến với lòng tiếc thương yêu mến mãnh liệt như thế !



                    Đại úy Trần Thế Vinh sống mãi trong Quân Sử hào hùng của Không Quân VNCH và Quân Lực VNCH !

                    Bài Vinh Thăng Cho Một Loài Chim (Thái-Thanh hát)
                    Trầm-Tử-Thiêng viết cho Đại úy Không Quân Trần-Thế-Vinh gãy cánh tại Đông Hà. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972

                    https://www.youtube.com/watch?v=J5z4Q9bdORM
                    Last edited by BachMa; 02-07-2018, 11:03 PM.

                    Comment


                    • Người Giữ Chìa Khóa Kho Vàng

                      Người Giữ Chìa Khóa Kho Vàng
                      Huỳnh Bửu Sơn

                      LTS.- Người giữ chìa khóa kho vàng lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn - làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát Hành Ngân Hàng Quốc gia. Dưới đây là hồi ức của ông về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng trước khi bàn giao cho chính quyền mới.


                      Hình minh họa

                      Khi lịch sử sang trang Sài Gòn ngày 30-4-1975

                      Đó là những giờ phút mà sau này tôi mới thấy hết ý nghĩa trọng đại của nó đối với lịch sử dân tộc, nhưng vào lúc đó tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng.

                      Những ngày đầu tháng 5-1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương Dương cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.

                      Phải nói đó là những ngày rất thảnh thơi đối với tất cả anh em chúng tôi, hầu hết ở độ tuổi trên dưới ba mươi. Chúng tôi vui vẻ, yên tâm. Thái độ của các anh cán bộ trong Ban Quân Quản rất lịch sự, đúng mực nhưng khá xa cách. Vào thời điểm đó, nhiều người trong chúng tôi chưa nghĩ đến tương lai như thế nào. Mong muốn của tôi cũng như những người khác vào lúc đó là an ninh trật tự sẽ được vãn hồi, mỗi người sẽ có một vị trí làm việc trong chế độ mới và tiếp tục đóng góp theo khả năng của mình cho xứ sở.

                      Cuối tháng 5-1975, chúng tôi được lệnh trình diện tập trung đi học tập cải tạo tại Trường Nữ trung học Gia Long (bây giờ là Trường Nguyễn Thị Minh Khai). Nhóm viên chức Ngân Hàng Quốc gia được xếp vào mấy tổ, tôi thuộc tổ 32. Trong ba ngày tập trung tại Trường Gia Long, chúng tôi được phục vụ ăn uống khá chu đáo. Chiều ngày thứ ba, sau khi dùng cơm chiều xong, vào khoảng 6 giờ, loa phóng thanh đọc danh sách những người phải thu dọn đồ đạc và tập trung tại sân cờ nghe lệnh. Tên tôi có trong danh sách đó.

                      Lúc đó tôi cảm thấy rất lo lắng, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nhất là khi thấy danh sách người được gọi tên chiếm không đến 10% sĩ số. Nhưng khi đến tập trung tại sân cờ, tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe ban chỉ huy trại thông báo là do số người trình diện quá đông nên một số được cho về nhà vào tối đó, hôm sau đến để nhận giấy tờ tùy thân và trình diện cơ quan đang công tác, chờ lệnh tập trung mới. Bảy giờ sáng hôm sau, tôi quay trở lại Trường Gia Long, thấy ngôi trường vắng lặng như tờ.

                      Như vậy là trong đêm trước mọi người đã di chuyển. Một lần nữa số mệnh đã cho tôi ở lại. Tôi đến trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia và được phân công tác tại Vụ Phát Hành và kho quĩ. Những ngày tiếp theo, Ban Quân Quản tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại và cấp giấy chứng nhận học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá bùa hộ mệnh.

                      Sau này, vào cuối tháng tám, khi có lệnh gọi tập trung lần thứ hai cho những người được trả về đợt trước, tôi có đến gặp và hỏi ý kiến anh Ba Sáng, cán bộ Ban Quân Quản. Sau khi tham khảo ý kiến Ban Quân Quản, anh thông báo cho tôi biết trường hợp của tôi đã được Ban Quân Quản xem xét, tôi được bố trí tham gia chiến dịch đổi tiền Sài Gòn cũ và cải tạo tư sản nên không phải đi trình diện học tập tập trung.

                      Lần kiểm kê cuối cùng

                      Vào đầu tháng 6-1975, tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của chế độ cũ, các kho tiền và vàng của Ngân Hàng Quốc Gia thuộc quyền quản lý của Nha Phát Hành, nơi tôi làm việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là Kiểm Soát Viên. Anh giám đốc Nha Phát Hành đã đi cải tạo tập trung, do đó trong số người còn ở lại chỉ có tôi là người giữ chìa khóa và anh Lê Minh Kiêm - chánh sự vụ - là người giữ mã số của các hầm bạc.


                      Hình minh họa

                      Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.

                      Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.

                      Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.

                      Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.

                      Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.

                      Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.

                      Chúng tôi thực hiện công tác kiểm kê trong hai ngày liền. Thật ra công việc cũng khá đơn giản. Số giấy bạc dự trữ giữ trong các thùng bằng gỗ thông được niền bằng đai sắt và niêm chì, mỗi thùng ghi rõ mệnh giá, loại giấy bạc, số lượng. Do đó chỉ cần kiểm kê số lượng thùng bạc, các chi tiết tương ứng và đối chiếu với sổ sách được điện toán hóa là biết khớp đúng ngay.

                      Lúc đó, loại giấy bạc mệnh giá cao nhất chỉ có 1.000 đồng, thuộc xêri mới phát hành, có in hình các con thú hoang dã trong rừng rậm Việt Nam. Ngoài ra vẫn còn tồn kho và tiếp tục phát hành loại giấy bạc nổi tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo, mệnh giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó (nếu tôi nhớ không lầm) khoảng hơn 1.000 tỉ đồng, gấp đôi lượng tiền lưu hành tại miền Nam vào thời điểm 30 tháng 4 năm 1975.

                      Chỉ trong một buổi sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng chiếm nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một để xem trọng lượng, tuổi vàng và số hiệu có khớp đúng với sổ sách hay không.

                      Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia.

                      Huỳnh Bửu Sơn

                      Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt:

                      Hầm số 3:
                      Tủ số 40:  80 thoi
                      Tủ số 41:  80 thoi
                      Tủ số 42:  80 thoi
                      Tủ số 43:  80 thoi
                      Tủ số 44:  80 thoi
                      Tủ số 45:  80 thoi
                      Tủ số 46:  80 thoi
                      Tủ số 47:  73 thoi
                      633 thoi

                      Hầm số 6:
                      Tủ số 202:  35 thoi
                      Tủ số 203:  80 thoi
                      Tủ số 204:  80 thoi
                      Tủ số 205:  80 thoi
                      Tủ số 206:  79 thoi
                      Tủ số 207:  89 thoi
                      Tủ số 215:  88 thoi
                      Tủ số 216:  70 thoi
                      601 thoi

                      Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
                      (Nguồn: Nha Phát hành, tháng 4-1975)
                       
                      nguồn:
                      http://www.quocgiahanhchanh.com/nguoigiuchiakhoa.htm

                      Comment


                      • Hồi Ký Của Vợ Người Tù

                        Hồi Ký Của Vợ Người Tù
                        Mai Thy


                        Hình minh họa

                        Vào thời thập niên 60 – 70, ở Sài Gòn, những rạp hát như Rex, Eden thường hay trình chiếu những cuốn phim ngoại quốc như: Ben Hur, Samson Dalida. v.v… Những nam minh tinh màn bạc có thân hình như tượng đồng những bắp tay cuồn cuộn, vòng vai, vòng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn chắc hiện thành 6 múi… có thể che chở và chống lại những bão táp phong ba đến với họ, đã làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?

                        Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện…

                        Một hôm, tôi đi vào Nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc.

                        Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.

                        Tôi lướt qua kệ sách của những Nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ: Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự Huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những Binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:
                        – Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?

                        Tôi vội gật đầu và nói:
                        – Dạ! Mua chứ!

                        Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi…!

                        ***

                        Năm 1966, tôi đã được xem Diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tôi cũng có ý muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đã thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng Cao su, còn chiếc xuồng khác thì các anh thân hình trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân hình lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đã kể ở trên, mình trần, quần Short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.


                        Hình minh họa

                        Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao mình có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thời gian đi qua tôi không còn ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!

                        Tôi đang cố gắng hoàn tất chương trình Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của mình.
                        Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! Vì Ba tôi đã mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ, (Vì lúc còn sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đình với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).

                        Vì tình trạng gia đình đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đình đã về miền vĩnh cửu! Tôi phải xin vào hát những Phòng Trà ở Saigòn vào mỗi tối. Sau đó, tôi đi làm việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương. Trong Đoàn công việc cũng nhàn nhã, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi viếng thăm, trình diễn Văn nghệ giúp vui cho các anh Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa trên bốn Vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng Duyên hải xa xôi…

                        Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu. Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy…

                        Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp Tôle rải rác. Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả… Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu..!

                        ***

                        Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nhìn xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng, điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, vì vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh Quân nhân tại Căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi Chiến thuật án ngữ con đường mòn Hồ Chí Minh giáp Biên giới Hạ Lào, các ngọn đồi Chiến thuật đó đều nằm trong vòng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo. Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng. Còn đi đường bộ rất nguy hiểm vì đường cong của các đèo và thung lũng, các anh Quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác. Thức ăn thì toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đãi một bữa bằng lương khô của Quân đội. Tôi còn nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run vì những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi… Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng…

                        Vào thời điểm này, chiến tranh đang xảy ra thật tàn khốc khắp nơi, những lần đi công tác xa ở những vùng chiến trận thật sôi động như tại Quảng Trị. Vào thời đó miền Nam chúng ta đã bị mất phần đất từ Vĩ tuyến 17 đến bờ sông Thạch Hãn. Khi Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương chúng tôi đến viếng thăm và tổ chức Văn nghệ để ủy lạo các Chiến sĩ thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang trấn đóng tại đây, chúng tôi được các anh Quân nhân đưa ra bờ sông Thạch Hãn để được nhìn về phía bên kia, cảnh vật điêu tàn đổ nát sau trận chiến lấn đất dành dân và những cuộc khẩu chiến giữa hai bên vẫn xãy ra hàng ngày… Chúng tôi đến Huế, Đà Nẳng, Pleiku, Kontum, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Bình Long, Củ Chi, Trảng Bàng v.v…

                        Ban Mê Thuột, địa danh của vùng đất đỏ mưa mùa gió núi! Quả thật vậy, chúng tôi đã đến trong một buổi sáng khi đặt chân xuống phi trường giữa cơn mưa gió lạnh của mùa Đông. Nhìn xa xa những hạt mưa rơi xuống phản chiếu ánh sáng mù mờ của buổi ban mai như những sợi tơ dài phất phơ theo chiều gió lộng mang theo luồng giá buốt… Chúng tôi vào Câu lạc bộ tại Phi trường uống Cà phê đặc sản của vùng nầy. Chúng tôi ngồi thu mình ở một góc phòng tránh gió cho đỡ lạnh, mặc dầu có đem theo sẵn áo len ấm. Vì là Phi trường vùng đồi núi Cao nguyên không có hành khách bao nhiêu, thường thường là cho Quân sự sử dụng. Chúng tôi ngồi chờ xe của Tiểu khu ra đón.

                        Đêm nay chúng tôi trình diễn cho các anh được đổi phiên từ các đỉnh đồi Chiến thuật về chung vui… Họ bước vào Hội trường với gương mặt tái lạnh vì giá buốt… Họ xúc động với tình người Hậu phương mang tình thương an ủi sưởi ấm đến cho họ trong đôi giờ giải trí… giữa vùng đồi núi hoang vu sương mù đất đỏ?

                        Sau khi đi thăm viếng các nơi. Tôi cảm thấy thương những người lính, những người đã đem xương máu và mồ hôi tưới lên khắp Chiến trường để cho người dân có được sự yên ấm, an lành. Những buổi chúng tôi trình diễn cho các anh Chiến sĩ trở về từ mặt trận, những gương mặt còn vương mùi khói súng, những bộ đồ trận còn dính đầy sình, rách tả tơi, và những anh thương binh nằm dưỡng thương nơi Hậu cứ, đang nằm trên những băng ca xem chúng tôi hát, ôi! thương làm sao, những người đã góp máu giữ quê hương…!

                        Trong một buổi thu thanh thơ cho Ban Thi Văn Mây Tần của chú Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tôi có dịp gặp chú Nhạc sĩ Lê Dinh đang làm Chủ Sự phòng điều hợp của Đài, sau khi nghe tôi đọc lời giới thiệu của Ban Thi Văn, chú Lê Dinh cho tôi biết là tôi có khả năng làm Xướng ngôn viên, chú mời tôi qua phòng thi…Và sau khi thi đọc qua nhiều thể loại, tôi được tuyển chọn vào Ngành. Và cũng từ đó tôi nghỉ việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương.

                        Một buổi trình diễn quan trọng tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc của Bộ Văn Hóa Giáo Dục do Quốc vụ Khanh – ông Mai Thọ Truyền tổ chức để trình diễn bộ môn Văn Nghệ Cổ Truyền của Dân Tộc cho các phái đoàn Ngoại Giao đến tham dự… Chúng tôi đang tập dượt ca hát trước khi trình diễn màn hợp xướng ba nhạc phẩm Hòn Vọng Phu của Nhạc Sĩ Lê Thương. Tình cờ, tôi thấy một số người đi ngang qua cửa sổ phòng nhạc của chúng tôi, trong số đó có một người gương mặt hơi ngâm đen sạm nắng, tóc anh dợn quăn nhẹ. Có vẻ giống như cầu thủ của đội bóng tròn, gợi cho tôi sự chú ý đặc biệt. Tôi có cảm giác hình như tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ! Họ đang nhìn vào và cười với chúng tôi, như là muốn làm quen thì phải. Và sau cùng các anh ngỏ ý muốn mời chúng tôi qua Câu Lạc Bộ của Phủ Tổng Thống, tôi cũng đánh bạo đi theo các cô bạn, nhưng trong lòng hồi hộp… và cũng hơi run.


                        Hình minh họa

                        Lúc đó, chúng tôi mới được biết các anh cùng làm việc trong Khối Cận Vệ của Phủ Tổng Thống đang kiểm soát lại vấn đề An ninh, bảo đảm an toàn cho các vị yếu nhân trong đêm nay. Nhưng anh chàng có nét đen sạm rắn rỏi đó, theo sát và nói chuyện riêng với tôi mãi, làm cho tôi thật là hồi hộp và cảm thấy ngượng ngùng. Tôi tự hỏi “Không biết có phải anh là người mà tôi mong được gặp gỡ hay không? Nhưng sao trong lòng nghe rung động chi lạ!” Đang say sưa với ý nghĩ lạ lùng đó, tôi… giật mình… khi nghe các anh đề nghị mời chúng tôi đi Cát Lái chơi Ski Nautique (trượt nước), mọi người đều đồng ý. Trên đường đi, anh có kể chuyện cho tôi biết, trước khi ở trong ngành này (Sĩ Quan Cận Vệ) anh đã xuất thân từ đơn vị Người Nhái. Tôi bỗng giật mình.. nghe xao xuyến… nhớ lại… mộng ước… và “đối tượng” của tôi từ hồi còn thơ ngây…

                        Khi đến nơi, bạn của anh là anh Trương Nghĩa Thành ra đón chúng tôi vào chơi Ski. Trong lúc anh đang lái chiếc Ca-nô, để cho anh Thành chạy Ski, thì trong đầu tôi đang xáo trộn dấy lên với nhiều ý nghĩ…

                        Bỗng chiếc Ca-nô chao mạnh nghiêng qua như muốn lật, tôi giật mình… chụp ngay cánh tay của anh…cánh tay của anh.. thật rắn chắc… như sắt thép. Luồng hơi nóng ấm từ anh chuyển sang tôi như mang theo cả sức mạnh lan truyền… Trong lúc đó anh đang giữ vững tay lái để giữ thăng bằng chiếc Ca-nô. Tôi đỏ mặt, ngượng quá! vội buông tay anh ra, và …không dám nhìn anh… Anh Thành đổi tay lái với anh, đến phiên anh chạy Ski…

                        Và sau buổi gặp gỡ đó, chúng tôi cảm thấy như có tiền duyên và chúng tôi bắt đầu yêu nhau với những buổi hẹn hò tiếp nối…Chúng tôi đã làm lễ thành hôn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan An Đông, vào thời Mùa Hè Đỏ Lửa nên chỉ diễn ra trong vòng thân mật giữa gia đình, các bạn học và những bạn Nghệ sĩ rất thân mà thôi.

                        ***

                        Đến ngày 30 – 4 – 1975 Miền Nam: VNCH bị mất vào tay bọn Cộng Sản khát máu… Những tên Việt cộng nằm vùng lộ mặt theo dõi chúng tôi từng giây từng phút…Tôi còn nhớ rõ anh như con cọp lìa rừng bị loài lang sói giỡn mặt… nhiều lúc tôi thấy mặt anh như đanh lại đôi mắt anh như rực lửa căm hờn …

                        Rồi anh cũng phải vào tù như những Sĩ Quan khác…”Học tập để biết đường lối mới của Đảng”. Còn tôi cũng bị đi “Học tập” trong ngành Truyền Thông tại Đài Phát Thanh Saigon. Họ bảo, tôi là Xướng Ngôn Viên, tôi đã “gián tiếp có tội ác với Nhân dân” vì bản tin viết ra tôi đã đọc cho thính giả nghe đó “cũng là có tội”. Nói chung, đối với Cộng Sản thì tất cả đều có tội, chỉ ngoại trừ Đảng Cộng Sản của họ.

                        Sau tháng Tư, 1975. Tôi là một người vợ của “Ngụy quân” hay là tù “cải tạo”. Tôi chỉ biết nhớ thương chồng qua hình bóng của con (Vì nó giống anh như đúc) Tôi thường thầm nhủ: Cảm ơn anh đã cho…em đứa con, nó như là sức mạnh nung đúc nghị lực cho em. Có nhiều lúc em nhớ anh…nhưng không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra..! Tôi lo sợ vì biết tánh của anh rất can cường…

                        Lúc đó, con trai tôi được 6 tháng, không biết lấy gì để nuôi con? Tôi đã gom hết những áo dài cũ, mới và tất cả đồ trang sức luôn cả những vật gì trong nhà có thể bán được, đưa cho một người bạn đem bán ở chợ trời để có tiền mua sữa cho con, nhưng rồi cuối cùng tôi không còn vật gì để bán, tôi đành dứt sữa cho con, và tập cho nó ăn cơm gạo mục và mốc (Lúc đó dân sắp hàng dài chờ đợi để được mua gạo như vậy đó, nên khi vo gạo phải vo nhẹ nhẹ nếu không sẽ bị nát). Tôi cố gắng nuôi con bằng đủ mọi cách để chờ chồng.

                        Hoàn cảnh của tôi thật không còn con đường nào để tính, vì không biết buôn bán như các chị em khác, bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng tôi nhận lãnh thật bất ngờ sau tháng Tư đen -1975. Đã hơn ba tháng rồi mà tôi không nhận được tin tức gì của anh, chớ đừng nói đến thăm nuôi, lúc đó bên ngoài gia đình và dân chúng đã hoang mang than oán. Đến tháng thứ Tư, tôi nhận được thư anh gởi về từ “Trại cải tạo” tôi vui mừng biết rằng anh vẫn còn yên lành. Nhưng… chỉ có 2 ngày sau tôi nhận được tin anh đã trốn thoát trại tù Thành Ông Năm và đang ở tạm nhà người Dì của tôi. Anh không về nhà vì biết bọn Việt Cộng đang theo dõi.

                        Tôi vừa mừng vừa lo sợ, buồn vui lẫn lộn. Nhưng anh không thể ở đâu được lâu, vì bọn Việt Cộng thường hay lùng xét để bắt phản động, Việt Cộng thường dùng “bọn 30″ theo dõi hành động của dân. Anh cho biết anh muốn đi tìm những đường dây kháng chiến để sát nhập với anh em cùng chống lại bọn Việt Cộng cho nên anh tìm cách trốn ra. Anh phải sống như những người dân du mục nay Saigon, mai Miền Tây, mốt Miền Đông mà trong người thì không tiền. Với chiếc xe đạp mượn của một người bạn, anh đạp cả ngày từ Chợ lớn ra Saigon hay ngược lại, anh phải sống nhiều ngày với nải chuối trên xe, vì nếu ngừng lại thì sẽ bị Công an khám xét. Vì anh không muốn liên lụy đến những người bạn nên có nhiều đêm không có chỗ ngủ, anh phải mướn chiếu để ngủ ở Nhà Ga Xe Lửa Saigon hay Xa Cảng Miền Tây. Có những lúc mang con, gặp lén anh ở những quán Café vỉa hè và các quán ăn, anh cho biết đêm nay anh không biết trú ngụ ở đâu… Trời ơi! Lòng tôi thật đau đớn vô cùng, tôi cố nén lòng, mà như ai bóp nát tim tôi, cố dằn nhưng nước mắt cứ đoanh tròng…, tôi không biết làm sao để giúp được cho anh…

                        May mắn tôi được sự giúp đỡ của một người bạn thân của anh tôi trở về từ Thụy Điển giúp cho vào làm việc cho một Công ty của ông ta với số tiền lương nhỏ.

                        Tai ách lại đến với anh.

                        Một hôm, anh hẹn tôi gặp anh ở một điểm hẹn gần Sở làm của tôi để giao lại cho tôi chiếc xe đã gắn cái yên nhỏ để chở con phía trước thay vì phía sau sợ con bị kẹt chân. Khi đến điểm hẹn, anh giao chiếc xe cho tôi rồi bảo: “Chạy gấp đi vì anh đang bị theo dõi”, tôi không dám đứng lâu vội lên xe chạy đi… Anh nói vói theo như một lời trối trăn:… Cố gắng nuôi con nghe em…!!

                        Trên đường về nhà tôi thật lo lắng! vì anh chỉ có giấy giả… mà lại mang tên giả! Người tôi như chùn xuống không còn sức chịu đựng nữa, đêm đó tôi bồn chồn thao thức, hình như đả xảy ra chuyện không may đến anh, tôi buồn rầu vật vả mãi cho đến sáng…

                        Sáng hôm sau, vào Sở làm, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi trong đầu về anh, thì anh bạn gọi tôi vào Văn phòng và cho tôi biết, chồng tôi đã bị bắt tối hôm qua và hiện đang bị giam trong phường Công An Huyện Sĩ, họ mời tôi qua gặp họ, để điều tra. Tôi vừa nghe, nước mắt tôi đang chực để trào ra, tôi ngồi phệt xuống ghế, và không biết tôi đang làm gì!… Tâm trí tôi lúc đó đang quay cuồng, lo sợ họ sẽ xử tử anh vì biết anh đã vượt tù…Phần thì lo sợ nếu tôi bị mất việc sẽ không có tiền nuôi con… Đang miên man suy nghĩ thì hình như anh bạn của anh tôi cũng hiểu sơ ý tôi nên anh nói: “Cô đừng lo! qua thăm anh ấy đi, có cần gì anh sẽ giúp cho, rồi trở lại làm việc sau”. Tôi vội qua Phường Công An thăm anh, tôi gặp tên Công an trưởng, và hắn cho biết:
                        – “Chồng chị, đã trốn trại học tập, về Saigon, sao chị không báo cáo cho Chính Phủ Cách Mạng? Dám đánh Công An để chạy trốn nhé “

                        (Lúc đó, tôi nổi nóng nên không sợ gì cả) – Xin lỗi! Tôi không thể báo cáo được, vì các anh đã hứa học tập chỉ có 10 ngày, nhưng không đúng như lời hứa, nên chồng tôi phải trốn ra…

                        Thì vừa lúc đó chúng dẫn chồng tôi ra, anh đi không nổi, tên lính Công an dìu anh ra. Nhìn anh với thân hình tiều tụy và gương mặt trỏm lơ vì thiếu ngủ, lòng tôi se thắt lại, tôi không cầm được nước mắt (Sau này anh kể lại đêm đó sau khi bắt được anh, chúng treo anh lên hổng mặt đất và 2 tên Công An thay phiên nhau đánh đấm vào ngực, bụng anh túi bụi, sau khi chúng thả anh xuống, hai tay anh không dở lên được…) Tôi đau xót vô cùng, nhưng anh sợ tôi khai không giống như lời khai của anh, sợ liên lụy đến anh em cùng hoạt động trong Thành phố, nên anh vội nói khi gặp tôi:
                        – Em nói cho mấy anh này biết là anh nhớ Mẹ con em nên anh trốn trại về. Và ngủ ở nhà ga xe lửa…

                        Sau khi được anh nhắc, tôi cũng lập lại lời anh nói với bọn Công an. Thấy không khai thác gì được ở tôi, nên tên Công an trưởng bảo dẫn chồng tôi vào và cho tôi về. Ngày hôm sau tôi đến đó hỏi thăm, thì họ cho biết, đang chuyển anh qua trại tù Quận Nhì Saigon. Chúng không trả anh trở về “trại học tập” cũ, có lẽ bọn chúng sợ anh sẽ trốn nữa. Tôi vội chạy đi mua một số thức ăn đi thăm anh, nhưng bọn chúng không cho gặp mặt, chỉ cho gởi thức ăn vào thôi! Cũng cùng lúc đó, thì chiếc xe chở tù cũng vừa ngừng lại trước cổng Quận Nhì, tôi vội chạy theo đưa thức ăn cho anh và chỉ kịp nhìn bóng anh khuất sau cánh cửa trại tù. Ôi! Cánh cửa oan nghiệt đó đã đóng kín chia cắt tôi và anh, tưởng như là vĩnh viễn… không gặp lại anh. Anh ơi!

                        Kể từ đó, tôi bặt tin tức của anh, buồn bã, thất vọng, tôi không biết tâm sự cùng ai! Nhưng, trong nỗi thất vọng đó, tôi cũng rất tin tưởng ở anh, và hãnh diện ở anh, Người hùng của tôi.

                        Lần vượt tù thứ nhất anh đã vượt qua những hàng rào kẽm gai kiên cố bao quanh trại học tập. Được biết theo lời “Ban Quản Giáo” của bọn Việt Cộng mỗi khi bắt lại được những Sĩ Quan nào trốn trại chúng đem ra sân cờ xử bắn để hăm dọa những người còn lại: “Các anh đừng hòng trốn thoát khỏi nơi đây, cho dù một con kiến cũng không lọt được”. Nhưng chúng đã lầm! Sau bốn tháng, tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, bất chấp lời hăm dọa của bọn chúng, đã có một Người Nhái vượt được khỏi vùng kiểm soát của lính canh và mười mấy lớp kẽm gai bao bọc. Anh đã cho chúng thấy sự gan lì của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không e ngại vì những lời hăm dọa đó anh đã ra khỏi trại mà chúng cũng không hay biết.

                        Tôi luôn nghĩ, anh vẫn còn sống và anh sẽ tranh đấu để sống còn, để còn có một ngày…Anh thường suy nghĩ rất nhiều về thế hệ tương lai con… cháu…sau này.
                        Sáu tháng sau khi bị bắt lại, chúng giam anh ở Quận Nhì… tôi nhận được thư anh là bọn chúng cho phép lên thăm nuôi, nhưng không phải ở Quận Nhì mà lại là “trại Phản Động K3” ở Gia Rây, tỉnh Long Khánh. Tôi vội vàng làm những món ăn để anh có thể giữ ăn được lâu và mang con theo lên thăm anh. Trong thư anh dặn mang theo Café và vài đòn bánh tét.

                        Sáng sớm ngày Chúa Nhật, tôi và con tôi đi xe lửa từ Saigon đến Gia Rây, Long Khánh thăm anh. Trưa thì đến nơi, trại tù này nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh có nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc thật kiên cố. Tôi phải chờ đợi đến gần chiều tối tôi mới được thăm anh, Trông anh sức khỏe khá hơn lúc gặp ở trại tù Quận Nhì, chúng tôi được gặp nhau trong vòng 15 phút, thằng bé lâu quá không gặp mặt Ba nên lạ, cứ nhìn Ba mà khóc hoài, tôi thật xót xa. Anh hỏi qua loa về những chuyện nhà, khi thấy tên Công An lơ đãng anh ghé vào tai tôi nói thì thầm:
                        – Khi nào trời có mưa, em nhớ cầu nguyện cho anh!

                        Tôi giật mình tôi hỏi nhỏ giọng lo lắng: – Anh…anh định… trốn nữa hả!

                        Anh không trả lời, nhưng tôi thấy ánh mắt sáng ngời của anh hiện lên nét cương quyết… Tôi gật đầu nhẹ vì tôi rất hiểu ý của chồng tôi khi mà anh quyết định việc gì thì có thể nói là không có gì lay chuyển anh được!…

                        Anh chỉ lấy Cà phê với mấy đòn bánh tét nhỏ, còn lại bao nhiêu đều để lại cho tôi đem về, vì anh biết khi đi thăm nuôi là tôi phải bán đi một vật kỷ niệm nào đó của chúng tôi… Tôi nghẹn ngào…

                        Tôi đứng lên từ biệt anh mà lòng đau như dao cắt. Trời đã bắt đầu tối, tôi bồng con đứng nhìn theo anh đang lầm lũi theo đoàn tù “cải tạo” hướng về trại giam… mà dòng nước mắt tuôn tràn… Anh ơi!!

                        Tôi bồng con vội vã ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ khi đến nhà ga thì cũng vừa kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang tới, khi lên được xe lửa thì trời tối đen như mực, đưa bàn tay lên không nhìn thấy gì cả, vì xe lửa không có đèn.

                        Tôi rất lo lắng cho anh lòng tôi đang rối loạn vì không biết lúc nào thì anh sẽ vượt tù?…Và anh vượt ra có an toàn không?

                        Vì tôi cũng có nghe vài người vượt tù bị bắn chết bọn chúng đem thây người chết mà vùi dập tại chỗ…Tôi miên man với nhiều ý nghĩ lo buồn bỗng giật mình vì nghe tiềng mưa rơi…Trời ơi…

                        Anh… Anh ơi! Em đang thầm cầu nguyện cho anh …

                        Vì tối quá, con tôi nó khóc mải cho đến khi về tới Saigon. tôi về đến nhà thì đã 12 khuya dưới cơn mưa tầm tã…

                        12 giờ trưa hôm sau, tôi được một người em bà con cho hay anh đã trốn thoát một lần nữa và đang có mặt tại Saigon. Anh đến tìm người em của tôi nhờ cho tôi hay!

                        Đêm qua tôi về đến Saigon cũng là lúc anh trốn trại vượt qua bao hàng rào kẽm gai kiên cố và nhất là Bãi Mìn đầy nguy hiểm để tìm tự do. Anh chạy bộ 35 cây số dọc theo đường rầy xe lửa từ Gia Rây về Long Khánh với một anh Trung Úy Bộ Binh, cả hai cùng ôm vai nhau làm thành khoảng cách như giữa 2 bánh xe lửa, rồi cùng chạy trên đường rầy…Khi về đến Long Khánh, hai anh đáp xe lửa về Saigon vào trưa hôm sau.

                        Tôi thầm nghĩ: “Người Nhái Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho bọn Cộng Sản thấy rõ ý chí can cường Bất khuất của một người Lính thiện chiến VNCH.

                        Sau đó, anh lẩn trốn rất nhiều nơi và cũng suýt bị bắt mấy lần, trước khi được một người bạn giúp đỡ tìm cách rời khỏi Việt Nam để tìm thuốc “Chữa bệnh”.

                        ***

                        Cuộc vượt biên đầy nguy hiểm

                        Một đêm hồi hộp phập phồng, vì mấy tên Công an đi dòm ngó vòng quanh, vì tất cả những người vượt biên đều ngủ tạm tại bến xe đò Cần Thơ để chờ sáng, khoảng 4 giờ sáng được người liên lạc của trong tổ chức tại địa phương hướng dẫn xuống bến Ninh Kiều và tất cả đều xuống đò đưa ra trên hai chiếc ghe chài đậu ở giữa sông, sau khi kiểm soát người đủ chiếc ghe chài trực chỉ ra cửa biển Tranh Đề, trên đường đi tất cả đều chun xuống khoang ghe, còn trên thì được ngụy trang đồ đạc chất đầy… Ghe chạy gần tới biển thì gặp chiếc ghe đánh cá Kiên Giang cập vào, tất cả leo qua ghe đánh cá nầy để vượt biên, khi qua chiếc ghe nầy mọi người cũng phải trốn dưới khoang chứa cá… Khi ra đến cửa biển thì trời đã tối, tất cả mọi đều vui mừng vì được ló đầu ra khỏi khoang ghe để thở không khí trong lành. Nhưng ghe chạy chưa được bao lâu thì lại vướng lên cồn cát, tất cả mọi người đểu xôn xao lo sợ vì có nhiều người đi trên ghe nầy đã bị bắt nhiều lần, có người bị bắt lại 9 – 10 lần, nên họ đã mất hết tài sản rồi, nếu bây giờ mà bị lần nữa thì hết mong vượt biên… Còn về phần chúng tôi được người bạn thân gởi đi nhờ nên anh không phải là tài công…

                        Vì cùng đi chung một chiếc thuyền nên phải tự cứu mình, anh đứng ra kêu gọi tất cả trên ghe phải nghe theo anh sắp xếp tất cả đàn ông và thanh niên. Chỉ định cứ hai người làm thành một tổ… anh nói:
                        – Bắt đầu các anh xuống nước lấy chiếc ghe làm chuẩn, mỗi tổ chia ra đều xung quanh ghe, hướng mặt ra ngoài và đi ra khỏi ghe khi nào các anh gặp chỗ sâu ngang cổ thì la lên…

                        Tất cả đều làm theo, trong lúc đó tiếng cầu Kinh của các bà thì thầm khấn vái trong gió biển dạt dào…

                        Khoảng độ 15 phút sau nghe có tiếng la to: “Chỗ nầy nước sâu lắm bà con ơi…!” Tất cả vui mừng cùng đẩy chiếc ghe đến chỗ nước sâu rồi anh tài công mở máy chạy thẳng ra biển… Nhưng chỉ chạy được vài trăm thước thì máy bơm nước trong ghe ra bị bể, mọi người lại lo sợ nữa… Anh liền lựa ra ba người lớn tuổi làm trưởng Toán rồi chia Thanh niên ra làm ba toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài…

                        Kể từ giờ phút đó anh trách nhiệm lái chiếc ghe vì anh có hỏi qua tài công không rành đường đi trên biển? (Hay có ý riêng tư?!) Anh vào phòng lái mà lái ghe đi theo hướng anh đã định…

                        Đến sáng hôm sau trời còn lờ mờ nhưng mọi người vì lo lắng nên đã thức dậy. Anh chỉ cho mọi người thấy hòn đảo Côn Sơn phía bên trái của chiếc ghe và nói:
                        – Mình đã đi đúng đường rồi! Ghe sẽ đi thêm ba tiếng đồng hồ nữa thì đến Hải phận Quốc tế…
                        Mọi người trên ghe đều vui mừng.

                        Giữa cảnh trời nước bao la tôi cảm thấy mình như quá nhỏ bé so với mặt Đại dương mênh mông… nhưng tôi đã có anh bên cạnh nên những hãi hùng lo sợ đã nhường lại cho bóng mát của niềm tin yêu…

                        Tôi ôm con ngồi dựa cột cờ nhìn anh làm việc mà lòng xúc động…Anh vẫn hiên ngang trước mọi biến cố…Rất cương quyết bất chấp hiểm nguy nhận lãnh trách nhiệm…và anh đã hoàn thành. Đưa tất cả là 59 người đến bến bờ Tự Do…Trên một chiếc ghe hư hại nặng mang số KG. 0660 không được sửa chữa, chai trét ghe đã bị sóng biển vỗ tróc ra nên nước biển vào rất nhiều, ba toán thanh niên phải vất vả tát nước suốt Hải trình từ Việt Nam đến Mã Lai hai ngày hai đêm rưỡi, trên ghe độc nhất chỉ có la bàn…

                        Khi anh lái ghe theo lộ trình của Hải Tiêu vừa vào đến bờ chiếc ghe ủi lên cồn cát thì ghe rã ra và chìm xuống nước. Tất cả mọi người đều nhảy xuống biển, mặt nước ngập sâu đến ngang cổ…mọi người đều bồng bế nhau và lội vào bờ của đất nước Mã Lai…

                        Chúng tôi đứng nhìn chiếc ghe tan rã chìm vào lòng biển cả, cảm nghĩ đó như thân hình bệnh hoạn yếu đuối của Mẹ Việt Nam nhưng vẫn cố gắng đưa đàn con thân yêu thoát khỏi vòng tù ngục Cộng sản…và đã trút hơi tàn…để vĩnh viễn trở về với lòng biển lạnh ngàn đời..! Hỡi ơi! Mẹ Việt Nam…!

                        ***

                        Chồng tôi đã sống lại từ cõi chết của ngục tù Cộng Sản, tôi nghĩ mình còn được may mắn hơn những chị em đã phải nhận xác chồng qua trận chiến tranh tàn khốc, hoặc tìm xác chồng trong các trại “Cải tạo” xa xôi qua cuộc trả thù người đồng chủng của bọn Cộng Sản tàn ác vừa qua…

                        Tôi ngậm ngùi thương cho thân phận người Việt Nam chúng ta…Tôi rất hãnh diện và tự hào về anh nói riêng và nói chung cho tất cả các anh Chiến sĩ Quân Lực VNCH, những người vợ lính đã chịu đựng những sự nhọc nhằn, ngược đãi của chế độ phi nhân.

                        Trong cuộc đời nầy và… mãi mãi chúng ta vẫn hãnh diện là người vợ lính VNCH. Chúng ta đã khổ sở, phải chịu nhục nhã và vợ chồng phải sống cách xa nhau… Những cảnh phân ly chồng vợ do bọn Cộng Sản gây nên, chúng ta may mắn vì đã được đoàn tụ. Vậy thì chúng ta phải quý mến những chuỗi ngày còn lại cho đến ngày tàn của cuộc đời chúng ta, phải không các Chị? Đó là câu tâm niệm của tôi.

                        Chúng ta đã vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn mới có được ngày hôm nay thì xin hãy quý trọng giữ gìn hạnh phúc và lo cho con cháu chúng ta sau nầy… và nếu hoàn cảnh đã không cho phép để thực hiện những gì mà chúng ta muốn, thì hãy cố gắng gầy dựng cho thế hệ mai sau nối tiếp con đường mà cuộc đời của các anh Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và của chúng ta phải bỏ dở dang…

                        Mẹ Việt Nam ơi! Chúng con cầu mong sẽ có một ngày trở về Việt Nam trong quang đãng, Thanh bình, Ấm no, Hạnh phúc và Tự Do… Nghĩa là trên toàn cõi đất nước Việt Nam không còn bóng dáng của lũ ác quỷ Cộng Sản dã man…!


                        Mai Thy
                        nguồn:
                        https://buonvuidoilinh.wordpress.com...a-vo-nguoi-tu/

                        Comment


                        • Cung Chúc Tân Xuân - Xuân Mậu Tuất 2018

                          Kính chúc quý độc giả, cùng quý anh chị thành viên HQPD
                          năm mới dồi dào sức khỏe, an khang thịnh vượng.

                          BachMa




                          Comment


                          • Một Giao Thừa Trong Ðời

                            Một Giao Thừa Trong Ðời
                            (Hồi ký của Vương Mộng Long K20)


                            Trại tù Suối Máu – Biên Hòa

                            Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ nhiều trại tập trung quanh Sài Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa.

                            Vào một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa Sĩ quan cấp Thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (Tháng 7, 1976). Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng Sản Việt Nam đang trên đường tiến chiếm Thái Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

                            Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, chính quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?).Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ đi về đâu.

                            Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là Khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế Bình (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh thiếu đói thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

                            Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù ở đây hầu như bất trị. Anh trưởng lán 24 tên Trần Thành Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng. Bác Sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “Học tập tốt” để được tha về với vợ con, vì vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.

                            Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh (K10/TÐ) người nằm cạnh tôi.

                            Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để trình diễn đêm giao thừa.

                            Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

                            Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

                            Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam Hiệp của Quân Ðoàn 3. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có sáu khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

                            Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.

                            Trên Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những Sĩ quan cấp tá của QLVNCH, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công Binh Việt Nam Cộng Hòa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

                            Sáng nay bầu trời mầu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên Hòa, bên kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng.

                            Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt Nam Cộng Hòa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc Việt lái những máy bay chúng ta còn để lại. Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

                            Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa nhìn những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

                            Rồi tới trận Mậu Thân (1968) với những chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam Ly, Ðà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn cao…

                            Còn nữa…

                            Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng pin, đạn, gạo sấy, con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy về Đông. Phòng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm rồi! Cám ơn người anh em Nguyễn Công Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc Long.

                            Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,”

                            “Thái Sơn đây Hỏa Long gọi!”

                            Chiếc AC-47 của anh Trần Bạch Thanh (K16) đã có mặt trên vùng. Những đóm hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng.

                            Ðã mất rồi, ngày xưa ấy!

                            Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

                            Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

                            ***

                            Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban Chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

                            Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Gì Quí Hơn Ðộc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

                            Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

                            Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời. Những vị Sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Gì Quí” ở trại tù Tam-Hiệp.

                            Tôi có quen vài người trong số những người hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu CHT/BÐQ/ QLVNCH là Ðại Tá Trần Công Liễu (K8 VB) và cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương Văn Vân (K20 VB). Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

                            Chín tháng sau ngày chế độ Cộng Hòa sụp đổ, tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh chẳng bao giờ ngờ:

                            Trên trời, phi công Việt Cộng đang lái F5, trước cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

                            Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu Tá Trần Ðạo Hàm, Thủ khoa K17/VB, bên kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng Nguyễn Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

                            Tôi thấy nhiều người đã để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài Gòn Giải Phóng. Ai chậm chân thì không còn chỗ tốt. Thời gian này TV Sài Gòn Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Ðại úy Ðen” của Ba Lan.

                            Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

                            Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc,

                            “Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đã đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

                            Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ, rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

                            Tôi bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói ngày nào:

                            – “Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả!”

                            Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý!

                            Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã không thể giữ nổi.

                            Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng.

                            Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi?

                            Lúc này chúng tôi đã mất tất cả rồi Tổng thống ơi!

                            Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn BÐQ Bắc Hải (Phan Văn Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi, Phan Văn Hải, cùng Phan Ðộ (K20), Huỳnh Bá An (K20), Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Ðà Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

                            Hải là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị BÐQ của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng TÐ89/BÐQ. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

                            Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu Tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đã chia hết phần đường cho người mua, anh Quý cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

                            Sáng ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to như nắm tay.

                            Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi thì hết gạo.

                            “Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồ-tê-in’, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

                            Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “đ.m, đ.m…”

                            Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm. Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thũng (?).

                            Sau này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

                            Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

                            Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

                            Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” nghe mãi cũng quen tai.

                            Anh Hoàng kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng LÐ24/ BÐQ của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao 555 và một lạng cà phê.

                            Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với Lưu Văn Ngọc (K20), cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Ðoàn 2.

                            ***

                            Tối ba mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam che kín cả sân khấu.

                            Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài Gòn Giải Phóng mà Tô lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

                            Tám giờ tối, buổi “Liên Hoan Văn nghệ” đêm ba mươi Tết bắt đầu.

                            Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như Có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình diễn.

                            Kế tiếp, người Thiếu Tá Không Quân Hoàng Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Võ Bị. Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên” thì bị “Cán bộ” chặn lại, đuổi xuống đài. Lý do, “Nhạc Ngụy ủy mị!” Sau đó, chỉ những bài hát “giải phóng” được phép trình diễn.

                            Tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân… Khắp sáu K sáng rực ánh đèn, vang rền tiếng nhạc…

                            Năm mới đang từ từ tiến về…

                            Ðến khi màn trình diễn của lán 24 vừa được giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

                            Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng lắm.

                            Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai BÐQ “Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương Bắc Kỳ đóng vai ông bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ý.

                            Anh Trai nói, “ban chỉ huy trại đã ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách “Lô gích lịch sử”(?). Và đêm ấy, anh Đội trưởng Trần thành Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

                            Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng xuân Bính Thìn, mùa xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” (Mùa xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước) anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được “ban Chỉ huy trại tuyên dương công lao” trước trại.

                            Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc. Một mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy! Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rối tiếng lên đạn súng AK…

                            Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

                            – “Anh kia! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

                            Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

                            Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

                            – “Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

                            Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

                            “Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ không biết xấu hổ!”

                            Tôi vẫn lặng thinh.

                            “Rầm!”

                            “Chảng!”

                            Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán. Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng hồ tay (Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

                            Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

                            Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có năm người, lần mò trên những nhánh của hệ thống “đường mòn Hồ chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao Thừa của Ðài Phát Thanh Quân Ðội.

                            Giao Thừa Xuân Bính Thìn là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi…”

                            Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử.

                            Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó.

                            Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca đó.

                            Một thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền đài…

                            Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh,

                            “Ðổi đời đã tới! Cách mạng đã thành công!”

                            Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái.

                            Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

                            Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau rền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.
                            Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Ðỏ”…

                            ***

                            Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng, Trần Thành Trai đã được tha khỏi trại cải tạo. Bác Sĩ Trai đã cùng Bác Sĩ Trần đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài Gòn. Tôi cũng đã nghe tin, giờ này, Bác Sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của “Quốc Hội nước CHXHCNVN”.

                            Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Võ Bị, cựu tù lán 24 K3 Tam Hiệp. Trong số những người bạn đó, thì hai người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay không? Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đã trở thành không thể nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

                            (Seattle, Lập Xuân)
                            Vương Mộng Long (K20)

                            nguồn:
                            https://baovecovang2012.wordpress.co...mong-long-k20/
                            Last edited by BachMa; 02-17-2018, 02:01 PM.

                            Comment


                            • Trễ Bắc Làm Sao Qua

                              Trễ Bắc Làm Sao Qua
                              Đoàn Xuân Thu


                              Năm rồi, cuối năm, ngày áp lễ Giáng Sinh, hai thằng ‘cu’ con của tui nghỉ cày, cao hứng lấy xe chở tui và em yêu cùng 4 đứa cháu nội của tui quánh một vòng từ phía Tây, Queenscliff trên bán đảo Bellarine xuống phà qua Sorrento trên bán đảo Mornington về phía Ðông của thủ phủ Melbourne.

                              Hải trình của chiếc phà ngoài cửa Vịnh Port Phillip, tiểu bang Victoria, Úc Châu nầy dài 10 cây số, mất 40 phút.

                              Từ 7 giờ sáng, hai chiếc phà biển nầy luân phiên chạy qua chạy lại tới 6 giờ chiều thì nghỉ.

                              Một chiếc xe tốn 62 đô. Người lớn 12 đô, thẻ giảm giá 10 đô. Con nít từ 4 đến 15 tuổi 8 đô; nhỏ hơn nữa thì được miễn.

                              Xe xuống phà đậu, hành khách phải rời xe, leo lên lầu thượng ngắm cảnh trời mây nước.

                              Từng đàn cá heo (dolphins) hụp lặn bơi theo phà như biểu diễn tài bơi lội. Mấy đứa cháu nội của tui chỉ chỏ, cười hi hi vì khoái quá trời hè!

                              (Ở nước Úc tư bản nầy đây kinh tế thị trường không có lòng thòng cái đuôi xã hội chủ nghĩa gì ráo, khi ngân sách của chính phủ Liên bang và Tiểu bang không kham nổi thì để công ty tư nhân nó làm.

                              Qua phà là trả tiền, không qua thì phải chịu khó chạy xa hơn, mất thời giờ hơn, tốn xăng hơn. Quyền chọn lựa là của mình chớ không có thằng cha căng chú kiết nào nhào vô nắm đầu mình trấn lột; không đi cũng phải trả như những đường ăn cướp trên quốc lộ Một ở Cai Lậy rùm beng mấy bữa nay đâu.)

                              oooOooo

                              Ðêm nay, đêm tháng Chạp cuối năm, tui nhớ chuyến phà xứ người năm ngoái; lòng tui lại nhớ những chuyến phà của quê mình năm cũ!

                              Ôi! Tháng của những ngày ly biệt, rồi ra đi biền biệt, dẫu quê lòng tha thiết nhớ… nhưng làm sao biết tới ngày nào mà về quê cũ?

                              Ðúng là Lục tỉnh Nam Kỳ mình sông rạch chằng chịt! Nào là đò dọc, đò ngang, xuôi dòng hay băng ngang qua bến khác, rồi lại quay về bến cũ.

                              Thủ đô Sài Gòn muốn qua bên Thủ Thiêm thuở ấy là mình phải đi đò. “Bắp non mà nướng lửa lò/Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm.”

                              Như vậy chiếc ghe trọng trọng một chút để đưa hành khách từ bên nầy sông qua bên kia sông gọi là đò, đò ngang.

                              Ðể chở được nhiều người, xe đạp, xe gắn máy, tàu có tài công, thì gọi là phà.

                              Còn bự kinh hơn nữa, chở cả chục chiếc xe hơi mỗi lần, trọng tải tới 100, 200 tấn thì mình gọi là bắc.

                              Như vậy theo ngu ý của tui, là xếp từ nhỏ tới lớn, từ thô sơ chèo tay đến chạy máy diesel hiện đại. Mình có đò ngang, rồi phà và ‘number one’ là chiếc bắc (âm tiếng Tây là Bac).

                              Nhưng sau 75, thì gọi búa xua bắc là phà. Sao vậy cà? Vì các nhà thơ, nhà nhạc ưa chữ phà hơn, vì vần điệu dễ hát; dẫu đã làm mất dần sự trong sáng của tiếng Việt đi! Hi hi!

                              (Chẳng hạn như xưa giờ, tui chỉ nghe trai cưới vợ; gái lấy chồng. Vậy mà báo chí quốc doanh trong nước dám viết là: em người mẫu chân dài đầu ngắn nầy ‘cưới’ chồng (?!)

                              Ðọc xong, tui cũng tự mình vò đầu bứt tai tự hỏi: “Ủa trong nước theo chế độ mẫu hệ hồi nào vậy cà?” Té ra không phải mà là dùng chữ tầm bậy tầm bạ, đụng đâu xắn đấy mà thôi!)

                              Tiếng Việt mình dĩ nhiên không ai hoàn hảo cả, nhưng làm cái nghề bán chữ thì cũng nên kỹ kỹ chút đi kẻo chúng nó khi!

                              Trước 75, khi viết về thời VNCH mình, mà dùng chữ phà thay cho chữ bắc là trật lất rồi! Bằng cớ là soạn giả Viễn Châu trong bài vọng cổ: ‘Người Ðánh Ðàn Trên Sông Mỹ Thuận’, toàn là chữ bắc Mỹ Thuận không hè, tui tìm đỏ con mắt mà hổng thấy chữ phà Mỹ Thuận nó nằm ở đâu?

                              oooOooo

                              Ôi nhớ xưa! Xe đò đi miền Tây như: Ðức Hiệp chạy Cần Thơ, rồi Thuận Thành, Lộc Thành, Nhan Nhựt, Quang Minh, Ðại Hưng, Thuận Hiệp, Vĩnh Phát, Thuận Lợi, Liên Hiệp, Nhơn Hòa, Phi Long, Hiệp Hưng, Kim Long, Nam Thành, Hữu Phước, Quang Minh, Hiệp Thành, Tam Hữu chạy tới Bạc Liêu, Cà Mau.

                              Tất cả các hãng xe nầy phải chờ qua cầu Bến Lức và cầu Tân An (chỉ cho chạy một chiều) rồi xuống tới Bắc Mỹ Thuận quẹo về tay phải đi Sa Ðéc qua Bắc Vàm Cống để về Long Xuyên và Rạch Giá.

                              Qua Bắc Mỹ Thuận, quẹo tay trái trước khi vô chợ Vĩnh Long là bà con mình phải qua cái quận Long Hồ. Nằm ép bên chân cầu là một cái chợ nhỏ tên là Trường An thuộc làng Tân Ngãi.

                              Trường An và Long Hồ là tên hai nhân vật trong tuồng cải lương ‘Tuyệt Tình Ca’ mà bà con mộ điệu cải lương đặt tên tuồng lại là ‘Ông Cò Quận Chín’ (do Út Trà Ôn đóng) của soạn giả Hoa Phượng và Ngọc Ðiệp. Trường An, vai chị, do Bạch Tuyết; Long Hồ, vai em, do Thanh Sang đóng!

                              Ðó là thời hoàng kim của sân khấu cải lương, của đoàn Dạ Lý Hương của bầu Xuân dù đất nước vẫn còn chìm đắm trong cuộc chiến tranh bảo vệ Miền Nam trước cuộc xâm lược của quân CS Bắc Việt.

                              Sau nầy, mất miền Nam, sân khấu cải lương cũng bị lụi tàn theo vận nước!

                              oooOooo

                              Tui vốn là dân “vưỡn”, dân miệt vườn, lớn lên một chút đã lội nát nước Nam Kỳ Lục Tỉnh! Ðã qua biết bao lần Bắc Mỹ Thuận, Bắc Cần Thơ và Bắc Vàm Cống.

                              Cái bắc cuối cùng tui qua là Bắc Rạch Miễu (nối Mỹ Tho với Bến Tre) và Bắc Hàm Luông về Mỏ Cày để đêm vừa xuống, leo lên thuyền xuôi Ba Ðông vượt biên cuối năm 1988; vì tháng Tư năm 1989 các trại tỵ nạn khắp vùng Ðông Nam Á sẽ bị đóng cửa.

                              Tui đi nhưng trong lòng vẫn thương nhớ những chiếc bắc ngày xưa cũ!

                              Nhớ Bắc Mỹ Thuận, ngang sông Tiền mênh mông, vàng quạch phù sa như màu của chè sương sa mình ăn hồi nhỏ vậy, mà Tây đặt tên là “les bacs de My Thuan”.

                              Nhớ Bắc Cần Thơ, ngang sông Hậu dài 1,840m! Phía Cần Thơ, cầu Bắc tại Cái Khế! Phía Vĩnh Long, cầu Bắc tại Cái Vồn, quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long.

                              Tài công của chiếc bắc ngồi trong buồng lái trên cao cho dễ quan sát thuyền bè qua lại hay lúc cặp vào bờ, giựt dây, chuông kêu leng keng, nắm cây ‘cần’ giảm tốc độ để Bắc từ từ ráp vào gờ phao nổi.

                              Rồi một nhân viên trên chiếc Bắc kéo một cái dây cáp móc vào cái trụ trên ‘ponton’ để ngăn không cho chiếc Bắc tuột ra, để xe đang ‘đề pa’ không rớt tuốt xuống sông!

                              Ðêm quê người, trong cơn mơ về quê cũ, trong tiếng mưa rơi lộp độp ở hiên nhà tui vẫn nghe văng vẳng tiếng: “Tới Bắc Cần Thơ rồi, bà con xuống xe đi bộ, qua Bắc”.

                              Tui tuột xuống giường cái rột làm em yêu giựt mình hỏi tui đi đâu đó: “Lẹ lẹ lên em ơi! Trễ Bắc, làm sao mình về lại Úc cho được! Hu hu!”

                              Em yêu đợi tui tỉnh ngủ, bình tâm lại, bèn vỗ về an ủi: “Mai anh phải đi khám bác sĩ tâm thần mới được!”

                              “Bắc Mỹ Thuận, nay đã nghỉ chạy; vì Úc đã giúp xây xong cầu Mỹ Thuận.

                              Bắc Cần Thơ, nay đã nghỉ chạy; vì Nhựt đã giúp xây xong cầu Cần Thơ.

                              Thì còn chiếc Bắc nào đâu mà anh sợ trễ chớ?”

                              “Phần hai vợ chồng mình đã bỏ xứ đi luôn rồi việc gì phải sợ trễ Bắc, trễ máy bay, kẹt lại ở Việt Nam đó anh yêu?”


                              oooOooo

                              Từ Cần Thơ đi Sài Gòn chỉ có 171 cây số bây giờ xe chỉ chạy mất 3 giờ 24 phút. Chớ hồi xưa cũng khoảng đường ấy qua sông nên phải lụy đò, phải qua hai lần bắc! Rồi VC đào đường, đắp mô nên mình rời Cần Thơ lúc tuổi thanh xuân vô tới cầu An Lạc ở Sài Gòn đầu muốn bạc.

                              Mất 8, 9 tiếng đồng hồ là thường. Cùng khoảng thời gian đó, bây giờ bằng mình leo lên máy bay ở phi trường Tullamarine, Melbourne đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt để đi uống bia ôm như thằng bạn nhậu (mất nết) của tui hay làm vào những ngày cuối năm giáp Tết.

                              Nó rủ tui về hè hoài. Nhưng tui lắc đầu quầy quậy, bà con mình đang đói khổ mà mình ỷ rủng rỉnh chút tiền đô, về để du hí thì thiệt là tệ hơn con khỉ.

                              Tỉnh cơn mộng du, trời chưa sáng (như quê mình vậy). Tui lui cui rót ra ly rượu đỏ làm một hơi để nhớ về người chiến hữu thương binh ngày cũ trên Bến Bắc Cần Thơ: “Chiều qua phà Hậu Giang tiếng ai hát dạo buồn thay/ Tiếng ca sầu mênh mang như khơi niềm đau năm tháng xưa/ Chân nạng gỗ thấp cao kéo lề đời theo dòng nhạc đưa/ Mảnh chiến y phai màu khúc ca nào gợi sầu khôn nguôi!”

                              Ðêm cuối năm về sáng quê người sao buồn quá Má ơi?!

                              Đoàn Xuân Thu
                              nguồn:
                              http://baotreonline.com/tre-bac-lam-sao-qua/

                              Comment


                              • "Nữ hổ tướng" Hồ Thị Quế - The Tiger Lady

                                "Nữ hổ tướng" Hồ Thị Quế - The Tiger Lady


                                Hồ Thị Quế là vợ của Thiếu tá Nguyễn Văn Dần, vị Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 44 Biệt Động Quân QL VNCH, đây là một tiểu đoàn ưu tú của VNCH vì có lực lượng rất thiện chiến và tinh nhuệ.

                                Hồ Thị Quế được các đồng đội miêu tả là con người quyết liệt trong việc chống Cộng. Được đa số quân lính nể phục vì bà hay bỏ tiền ra trợ cấp cho lính dưới quyền, bà Quế thường được tung hô là "Nữ Hổ Tướng". Hồ Thị Quế cũng nhận được rất nhiều huy chương danh dự của QLVNCH cũng như Quân đội Mỹ.

                                Trong một lần đối đầu với Quân Giải phóng, Tiểu đoàn BĐQ 44 tổn thất gần hết quân số, 1 cố vấn Mỹ cũng bị giết. Hồ Thị Quế đã cạo đầu, nguyện sẽ rửa hận cho các chiến hữu đã ra đi.

                                Tuy nhiên, chưa kịp ra chiến trường sau đó thì nữ tướng này bị chồng bắn chết. Trước toà, Thiếu tá Nguyễn Văn Dần khai rằng vợ ông đã tấn công ông bằng dao trước vì bắt gặp ông ngoại tình.:

                                "Trong cơn ghen bả còn dữ hơn lúc bả xông pha chiến trường".


                                Nguồn: Ký ức chiến tranh VN (chưa rõ link?)
                                Sưu tầm bởi Cộng tác viên Nguyễn Tài
                                nguồn:
                                https://www.facebook.com/TimHieuVeCh...type=3&theater

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X