Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Chiếc Máy Bay Do Người Việt Nam Chế Tạo

    Chiếc Máy Bay Do Người Việt Nam Chế Tạo
    Brown Sugar

    Máy bay đó có tên là “Tiền Phong 001” có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v.

    Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.

    Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.

    Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.


    Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
    Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.





    Last edited by BachMa; 02-22-2018, 10:16 PM.

    Comment


    • Người Ở Lại Charlie, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo

      Người Ở Lại Charlie, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo
      Nguyễn Bảo Tuấn



      https://www.youtube.com/watch?v=y5uTQxAtTiE
      (Click attached link với nhạc phẩm “ Người Ở Lại Charlie”)

      LTS - Rất đông độc giả liên lạc tòa soạn, hỏi về gia cảnh cố Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo, người mà chúng ta đã quá quen thuộc qua nhạc phẩm “Người Ở Lại Charlie,” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết gia đình bà quả phụ Nguyễn Ðình Bảo hiện sinh sống tại Sài Gòn. Bà Nguyễn Ðình Bảo nay 76 tuổi, vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Hai ông bà có ba người con. Trưởng nam, Nguyễn Bảo Tường, là một bác sĩ Nhi Khoa. Thứ nữ, Nguyễn Bảo Tú, làm việc tại Tòa Lãnh Sự Anh Quốc tại Sài Gòn. Con trai út, Nguyễn Bảo Tuấn, kiến trúc sư và đang giảng dạy tại một đại học ở Sài Gòn. Dưới đây là bài viết hồi năm 2012 của anh Nguyễn Bảo Tuấn, về thân phụ mình. Tòa soạn tìm thấy bài viết này trên trang Facebook riêng của Nguyễn Bảo Tuấn, xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

      oooOooo

      Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

      Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5 giờ sáng phải chạy lên Gò Vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y Khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Ðôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

      Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 6 tháng 1, 1972 đến ngày 25 tháng 3, 1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi:

      “Tại sao?”

      Charlie, tên nghe quá lạ!

      “Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ... Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt...
      Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.

      Mùa Hè năm 1972 - Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.

      Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972 thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.

      Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Ðường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
      (Trích trong “Mùa Hè Ðỏ Lửa” của Phan Nhật Nam)

      "Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4,000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Ðình Bảo nằm lại với Charlie."
      (Trích lời giới thiệu trong CD Chiến Tranh và Hòa Bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

      Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ “ trong bài hát “Người Ở Lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.

      Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người.

      Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” (biệt danh của Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa: Giỏi võ, dũng cảm và cao thượng.

      Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu Ðoàn Trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy Dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù, tất cả mọi người, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai gọi Cha tôi là Trung Tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng: “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết.”

      “Anh Năm,

      “Ngoài đời anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật ‘giang hồ’ với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, anh chia sẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp.

      “Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?

      “Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy màu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng. Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Siết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa anh.

      Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:

      “- Thuốc lá ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao ông Trời bắt đi sớm như vậy!?”
      (Trích trong “Máu Lửa Charlie” của Ðoàn Phương Hải)

      Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.

      “Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người ‘mặc quần mới áo đẹp’ và ‘ăn to nói lớn,’ thích ‘nhảy đầm’ và ‘xếp hàng để lên hát’...

      Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được ‘ở lại Charlie’ với Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì ‘sướng hơn nhiều.’”
      (Trích trong “Tô Phạm Liệu: Người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)

      Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người, “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung Tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do chú Ðoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe).

      Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?

      Tôi chỉ có thể kết luận một câu: “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại.”

      Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa...

      Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
      Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
      Charlie gầm thét trong lửa đạn
      Gọi mãi tên người nước mắt rưng
      Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
      Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
      Charlie vẫy gọi người ở lại
      Cởi áo trần gian tặng núi rừng
      (Kính dâng tặng hương hồn Cha)


      Sinh nhật mẹ tôi ngày 11 tháng 4. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25 tháng 3, Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật mẹ. Ðến ngày sinh nhật, mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ...

      Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12 tháng 4 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao...?

      Nguyễn Bảo Tuấn
      nguồn:
      http://www.nvbonphuong.com/forums/sh...n-Đình-Bảo
      Last edited by BachMa; 02-24-2018, 12:38 AM.

      Comment


      • Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng

        Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng
        Thân tặng các anh em Lôi Hổ và Lực Lượng Đặc Biệt…
        Trường Sơn Lê Xuân Nhị

        Câu chuyện ngắn sau đây, tuy dựa trên những sự kiện của lịch sử, nhưng, ngoài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tất cả các nhân vật khác và chi tiết khác đều là một sản phẩm của tưởng tượng. Nếu có một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào, đó là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.
        Trân trọng.


        Thiếu Tướng Phạm Văn Phú

        Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II rút điếu thuốc lá 3 con 5 ra khỏi cặp môi đen sạm, phà khói vào tấm bàn đồ trước mặt. Như thường lệ, mỗi khi có gì cần phải suy nghĩ, mặt ông tướng Phú nhăn lại một cách thảm hại…

        Trước mặt ông ta là tấm bản đồ tình báo tối mật với những tin tức mới nhất của phòng II quân đoàn vừa trình lên cho ông, chi chít những hình vuông, tròn, tam giác và những mũi tên dấu xanh dấu đỏ vẻ bằng bút chì mở. Màu Xanh là biểu hiệu của phe mình, còn màu Đỏ là Việt Cộng. Đứng bên phải ông là ông là đại tá Vân, Tham mưu trưởng quân đoàn II. Bên trái ông là đại tá Phùng, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn III Xung Kích Lực Lựơng Đặc Biệt. Bên cạnh ông đại tá Phùng là Trung Tá Khiếu, trưởng phòng II của quân đoàn, “tác giả” của tấm bản đồ bí mật.

        Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cái hai đường gạch đỏ kẻ bằng bút chì mỡ rất đậm nét bắt đầu từ một mép ngoài bản đồ, phía bên kia của biên giới Việt Nam, trong khu cao nguyên Boleven của đất Lào. Xuất phát từ đây, một con đường bút mỡ đỏ bò ngoằn ngoèo, chạy xuống phía Bắc của Daksut rồi tẻ ra làm hai nhánh. Một nhánh đi xuống phía Bắc của Dakto, còn nhánh kia rẻ phải một chút, bò qua Thanh An, Thuần Mẫn và chấm dứt ở Băng Đôn, một quận lỵ nằm ở phía Bắc thành phố Ban Mê Thuột khoảng 50 cây số đường chim bay.

        Con đường bút đỏ thứ hai chạy xuôi về phía Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh ở bên kia biên giới rồi bất ngờ rẻ vào mật khu Bù Gia Mập. Tại đây con đường tẽ ra làm hai, một đi ngược lên phía bắc, xuyên qua quận lỵ Đức Lập rồi tiến về phía Nam Ban Mê Thuột, đường kia đi xa hơn lên phía Đông Bắc, xuyên qua Quảng Nhiêu và ngừng lại ở phía Tây Ban Mê Thuột.

        Ở cuối con đường thứ nhất, có một hình vuông có “nhốt” một ngôi sao, dấu hiệu của sư đoàn bộ binh và con số 968. Ở cuối con đường thứ hai thì có tới ba hình vuông nhốt ba ngôi sao với những con số 316, 10 và 3…

        Tướng Phú có vẻ không khoái những cái ngôi sao này nên mặt ông nhăn lại một cách khổ sở. Thỉnh thoảng, ông ho lên sù sụ. Bốn người đứng yên, nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ một lúc, không ai nói với ai một lời nào. Cuối cùng, tướng Phú cầm cây gậy chỉ huy gõ nhẹ nhẹ vào cái con đường chỉ đỏ thứ hai trên tấm bản đồ:

        -Pourquois? Ban Mê Thuột… Ban Mê Thuột… Merd… có lẽ nào chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột? Tôi biết tụi nó đang chuẩn bị tấn công mùa khô nhưng tại sao lại đánh Ban Mê Thuột? Qu’est ce que la raison… Merd…

        Tướng Phú ít khi chửi thề, trừ những khi gặp những vấn đề gì quá rắc rối. Và ông không chửi tiếng Việt mà bằng tiếng Pháp. Tiếng “Merd” là ngôn ngữ nặng nhất của ông tướng.

        Đại Tá Phùng và Trung Tá Khiếu liếc nhìn nhau trao đổi một cái nhìn bí mật. Trung Tá Khiếu tính nói gì đó nhưng tướng Phú đưa tay ngăn lại, rồi tướng Phú lại… nhăn mặt nói tiếp:

        -Merd, không khéo là mình bị lừa. Tôi nghi là chúng nó muốn làm cho mình rối lên thôi… Chúng nó chỉ muốn kéo quân về đó để làm nghi binh. Coi chừng Ban Mê Thuột chỉ là diện, còn Pleiku mới thực là điểm. Dĩ nhiên Ban Mê Thuột dễ đánh hơn, nhưng, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì? Chỉ toàn cà phê không thôi chứ có mẹ gì… Merd…

        Không có ai có thể trả lời nổi câu hỏi của tướng Phú. Phải, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì?

        Tướng Phú xoay người ngồi xuống chiếc ghế tư lệnh rất đồ sộ bằng da cọp. Chiếc ghế đó là món quà tặng đặc biệt của ông Tư Lệnh Sư Đoàn 23 năm rồi. Đám Sĩ Quan liền đứng vây chung quanh bàn giấy ông. Ông dụi điếu thuốc, lý luận tiếp:

        -Tôi nghĩ chúng nó chỉ đặt nghi binh để chia lực lượng của quân Khu II mình ra thôi. Cứ theo dõi những trận đánh mấy tháng gần đây, tôi thấy chiến dịch mùa khô năm nay chúng nó sẽ đánh như thế này: Trước hết, về phía Tây, chúng nó sẽ cắt quốc lộ 19 để chặt con đường tiếp viện duy nhất của mình với miền duyên hải và hải cảng Qui Nhơn. Đồng thời ở đây, chúng nó sẽ làm mọi cách để làm tê liệt Phi trường Phù Cát… Phía Bắc, Kon Tum sẽ bị đánh. Phía Nam, chúng sẽ cắt quốc lộ 14 nối liền với Ban Mê Thuột. Cũng có thể, một vài quận lỵ nhỏ ở đây sẽ bị tấn công như Buôn Hô, Thuần Mẫn v.v… Nếu chúng nó thực hiện được chuyện này mà mình không chia quân ra giữ thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ bị vây hãm. Còn nếu mình chia quân để tăng cường Ban Mê Thuột thì bộ tư lệnh sẽ bị tràn ngập trong vòng một đêm…

        Nói đến đó đột nhiên Tướng Phú đưa mắt nhìn ông trung tá Khiếu, ngừng một chút rồi lại nói tiếp. Hình như cái chữ Ban Mê Thuột cứ trở về ám ảnh lấy ông:
        -Tuy nhiên, nếu chúng nó xuất kỳ bất ý đánh Ban Mê Thuột, thì tôi thấy thành phố này khó mà đỡ nổi. Khó lắm, trừ phi mình có tiếp viện. Nhưng, chuyện… tận cùng, nếu mất Ban Mê Thuột, mình còn có thể gởi quân xuống lấy lại được. Còn để mất Pleiku là cả cái quân đoàn II này coi như mất. Anh Khiếu này, lúc nãy anh tính nói gì?

        -Trình thiếu tướng, phòng II chúng tôi có thêm tin tức là một trung đoàn xe tăng và một trung đoàn cao xạ nặng cũng đã xuất hiện ở khu Bù Gia Mập.

        -Như vậy thì chung quanh Ban Mê Thuột có tới 4 sư đoàn chính qui Bắc Việt và 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng?

        -Thưa Thiếu Tướng, đúng vậy nhưng tôi chưa vẽ trên bản đồ vì chưa kiểm chứng được.

        -Đó là chưa nói tới hai trung đoàn 95A và 95B vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng Kontum?

        -Thưa thiếu tướng đúng như vậy.

        Tướng Phú xoay chiếc ghế tư lệnh, nhìn vào tấm bản đồ nơi có cái ngón tay của ông Trung Tá Khiếu đang chỉ. Bố khỉ, ngón tay đó lại nằm ở phía bắc của Ban Mê Thuột nữa.

        Tướng Phú chau mày, thò tay móc điếu thuốc lá, châm lửa, trán nhăn lại…

        Ông không nói ra nhưng tướng Phú xưa nay có cái tật không tin… người Việt Nam lắm, nhất là những tin tức tình báo. Tướng Phú là một vị tướng thuộc vào hạng khá của QLVNCH, nhưng suốt quãng đời quân ngũ của ông, ông chỉ làm việc với người Pháp và Mỹ. Xuất thân là một sĩ quan nhảy dù Pháp, làm việc với Pháp, ông tập được lối đánh giặc và suy luận theo lối Pháp. Sau Điện Biên Phủ, ông Phú vào Nam. Quân đội VNCH bấy giờ được Mỹ tái huấn luyện và trang bị nên trong các chức vụ đơn vị trưởng, chung quanh ông luôn luôn có cố vấn Mỹ. Tất cả mọi chuyện, từ quân xa cho đến yểm trợ cho đến tin tức tình báo, ông luôn luôn nhờ người Mỹ lo liệu. Đến khi ông về nắm Tư Lệnh Lực Lựơng Đặc Biệt thì cái bịnh “tin Mỹ” của ông lại càng trở nên nặng vì đơn vị này do Mỹ thành lập và yểm trợ 100 %. Khi ông ra nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bệnh này vẫn không thuyên giảm vì nếu không có sự yểm trợ ồ ạt và táo bạo của không quân Mỹ thì cái sư đoàn ở vùng địa đầu giới tuyến này chắc đã bị tràn ngập nhiều lần rồi. Bây giờ, không còn tin tức tình báo của Mỹ, là một vị tư lệnh quân đoàn, tướng Phú cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề và khó khăn vô cùng.

        Nhìn ông Trung Tá Khiếu, tướng Phú phải công nhận rằng đây là một sĩ quan trẻ, rất có tài và làm việc rất tận tâm nhưng ông vẫn cho rằng khả năng và kiến thức của một ông Trung tá trưởng Phòng II của Quân Đoàn vẫn chưa đủ để phán đoán hay nhận xét về những cuộc điều binh cấp sư đoàn hay quân đoàn. Chỉ có ông. Phải, chỉ có ông hoặc là những sĩ quan cấp tướng như ông mới đủ khả năng để lượng định.

        Tướng Phú nhìn quanh một lượt rồi hỏi trống không:

        -Bon, các anh em ở đây, có ai có ý kiến gì không? Đừng quên một chuyện là chúng nó cũng có thể đánh Quảng Đức. Về chiến lược, Quảng Đức càng dễ đánh hơn nữa vì ở gần Phước Long hơn, gần quân đoàn III, gần Sài Gòn hơn.

        Không có tiếng trả lời…

        Ngay lúc đó, như một kẻ nhô ra từ trong bóng tối, ông đại úy sĩ quan tùy viên xuất hiện bên cạnh tướng Phú như muốn làm dấu nhắc nhở một điều gì đó. Tướng Phú hiểu ý, nhìn đồng hồ tay rồi dụi tắt điếu thuốc, đưa mắt làm dấu cho người sĩ quan tùy viên chuẩn bị cái cặp táp rồi nói:

        -Cám ơn các anh em đến tham dự buổi giải trình hàng tuần của phòng II. Không ngờ hôm nay lại có chuyện quan trọng như vậy…

        Nghe vậy thì tất cả các ông sĩ quan cấp tá trong phòng liền đứng thành một hàng ngang trước mặt tướng Phú để chờ lệnh. Tướng Phú nhìn quanh một lượt. Người đầu tiên được ông tướng Phú để ý tới là trung tá Khiếu. Ông nhìn trung tá Khiếu nói:

        -Cám ơn anh Khiếu đã cho tôi những tin tức vô cùng quý giá. Anh tiếp tục theo dõi, bám sát, ghi nhận và nếu có thêm tin tức gì thì anh cho tôi biết liền. Sur tout, anh đưa báo cáo và bản giải trình của anh cho phòng truyền tin để họ chuyển sang mật mã gởi về Tổng Tham Mưu và dinh Độc Lập gấp cho tôi nội trong ngày hôm nay.

        -Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.

        -Bon. Anh Vân, anh đánh công điện mời tất các Tiểu khu trưởng của Quân đoàn II về họp tại Nha Trang trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Riêng hai ông Tiểu khu trưởng của Ban Mê Thuột và Quảng Đức, tôi muốn họ mang theo đầy đủ kế hoạch phòng thủ của tiểu khu họ. Tôi muốn tất cả các Tiểu khu trưởng phải có mặt trong buổi họp này.

        -Trình thiếu tướng tôi nhận rõ.

        Tướng Phú ngừng một chút. Người cuối cùng chưa nhận được lệnh lạc gì cả là đại tá Phùng, Chỉ huy trưởng chiến đoàn III xung kích Lôi Hổ.

        -Anh Phùng…

        Ông tướng Phú bỏ dở câu nói. Đại tá Phùng đứng thế nghiêm.

        -Tôi nghe phòng Quân Cảnh và người ta than phiền mấy thằng lính của anh… ba gai, đánh lộn, phá quán tùm lum… Anh về coi lại chúng nó. Tôi sẽ không tha thứ những chuyện đó.

        -Trình thiếu tướng tôi sẽ thi hành theo chỉ thị.

        Tướng Phú lắc đầu:

        -Chưa hết đâu…

        Ông ta đứng lên, từ từ tiến tới tấm bản đồ ở phía sau lưng. Đại Tá Phùng thấy tim mình đập nhanh hơn.

        Tướng Phú đứng yên ngắm cái bản đồ một lúc rồi đưa cây gậy chỉ huy chỉ vào một điểm phía bắc của quận Dakto, nơi một nhánh của con đường đỏ chấm dứt ở đó:

        -Tôi muốn anh cho con cái anh nhảy vào đây cho tôi. Ít nhất là 2 toán. Tôi muốn tìm hiểu xem lực lượng của chúng nó ở đó có bao nhiêu quân? Bao nhiêu tăng? Nhà cửa và trang bị thế nào?

        Đại tá Phùng ghi nhanh mấy cái tọa độ vào sổ tay rồi nói:

        -Thưa thiếu tướng tôi nhận rõ.

        -Còn nữa, chưa đã hết đâu…

        Cái cây gậy chỉ huy của tướng Phú lại chỉ xuống cái chỗ tẻ hai của con đường bút đỏ thứ hai, trong khu Bùi Gia Mập. Ông gõ vào đấy mấy cái thật mạnh, giọng đanh lại:

        -Đây là ổ tập trung quân an toàn nhất của tụi nó, anh cho 2 toán nữa nhảy xuống đây cho tôi. Ngay chỗ này này. Phải ráng làm sao bắt được vài thằng lính, nếu sĩ quan càng tốt của chúng nó đem về đây cho tôi. Đó là một bằng chứng xác đáng nhất về sự có mặt của chúng nó.

        Đại Tá Phùng gật đầu:

        -Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

        -Bon. Anh có 24 tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Trễ lắm là tối mai, tôi muốn con cái anh phải nhảy xuống và có mặt ở vùng làm việc. Trong giai đoạn này, tôi chỉ muốn biết quân số cùng trang bị của chúng nó như thế nào thôi. Nhớ lấy điểm đó.

        -Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

        Tướng Phú đội cái mũ lưỡi trai lên đầu, đeo giây súng vào người:

        -Trung tá Khiếu!

        -Thưa Thiếu tướng tôi nghe.

        -Anh làm việc chung với ông đại tá Phùng, phối kiểm các tin tức tình báo của anh và tin của Lôi Hổ rồi làm cho tôi một tờ báo cáo. Đồng thời, làm việc đắc lực với Không quân, cho chụp càng nhiều không ảnh càng tốt. Tôi muốn anh chụp bất cứ cái gì mà anh có thể nghi ngờ. 3 ngày nữa, sau khi tôi đi họp ở Nha Trang về, tôi sẽ đọc báo cáo kế tiếp của anh.

        -Tôi nhận rõ.

        -Đại tá Văn!

        -Tôi nghe.

        -Anh cho mời 2 ông tư lệnh Sư đoàn, các ông Trung đoàn trưởng và Liên đoàn trưởng Biệt Động tối mai về họp tại đây lúc 18 giờ. Nhớ mời luôn ông tướng Nhân Không Quân và mấy ông Không đoàn trưởng qua luôn. Tôi có nhiều chuyện muốn bàn.

        -Tôi nhận rõ.

        Lúc này thì tướng Phú đã đứng ở cửa văn phòng mình. Ngoài sân, chiếc UH-1 có gắn bảng đỏ và hai ngôi sao bạc của tướng Phú bắt đầu quay máy. Hai người phi công đang bận rộn với mấy cái công tắc. Hai cánh quạt dài khẳng khiu đang chậm chạp liếm từng luồng gió một và từ từ tăng tốc độ…

        -Ngoài ra có ai còn hỏi gì nữa không?

        Không có tiếng trả lời.

        -Bon, chào tất cả các anh.

        -Tất cả… Nghiêmmm.

        Đại tá tham mưu trưởng hô to và nghiêm trang dơ tay lên chào theo đúng thủ tục của quân đội. Tướng Phú gật đầu có vẻ hài lòng, dơ tay lên chào lại. Thì Đức Khổng Tử đã chẳng bảo là khi người nước nào còn biết được giữ được lễ nghĩa thì nước đó sẽ còn tồn tại được mà? Tướng Phú mỉm cười nhẹ nhàng khi nghĩ đến đó.

        Ông bước từng bước một nhẹ nhàng ra khỏi phòng, tiến về phía chiếc phi cơ…

        Lúc cánh quạt chiếc trực thăng tăng tốc độ để bốc máy bay lên, tướng Phú nhìn qua đám cuồng phong của bụi mù đất đỏ phía dưới con tàu và lại lẩm bẩm: “Ban Mê Thuột, Ban Mê Thuột… đất Buồn Muôn Thuở, xứ Bụi Mịt Trời…” Ông lẩm bẩm như vậy và mặt ông nhăn dúm lại một cách thảm hại…

        * * *

        Tại Ban mê Thuột, trong căn gác nhỏ nhưng sạch sẽ và tươm tất ở số 74 B đường Lý Thường Kiệt, người đàn ông mặc quần đùi nhà binh và áo thun trắng nằm nghiêng mình trên chiếc giường nhỏ đọc say mê cuốn truyện. Trên đầu giường có treo bộ đồ rằn ri, một cây súng lục, một con dao đi rừng. Chiếc áo rằn ri có huy hiệu con cọp ở ngực và cặp lon đại úy màu đen nơi cổ. Dưới giường là một đôi giày bốt đờ sô tuy cũ nhưng được đánh bóng cẩn thận.

        Bên cạnh giường, trên chiếc ghế làm bằng gỗ thùng đạn, một người đàn bà xinh đẹp ngồi vòng tay trước ngực tư lự nhìn ra ngoài. Hai người vừa làm tình với nhau xong. Mặt người đàn bà vừa như giận dỗi và vừa như còn luyến tiếc hương vị của cuộc ân ái vừa qua…

        Một lúc sau, người đàn ông xoay người hỏi:

        -Em có đói bụng không Diễm?

        Diễm lắc đầu không nói gì.

        -Em muốn đi ăn không?

        Diễm cay đắng:

        -Đi ăn với người đã có vợ, thiên hạ cười chết.

        Người đàn ông vất cuốn sách xuống giường, nhăn mặt có dáng mệt mỏi và hơi khó chịu. Tuy vậy, giọng nói của anh ta rất dịu dàng:

        -Em cứ đay nghiến anh mãi.

        Rồi anh ta ngồi dậy, thò tay với lấy gói thuốc Capstan trong túi áo, châm lửa mồi thuốc rồi uể oải đứng lên.

        Người đàn ông đã đứng sau lưng Diễm, vòng hai tay ôm lấy nàng. Diễm tính hất tay anh chàng ta ra nhưng nghĩ sao lại để yên. Nàng ngã người vào bộ ngực rắn chắc của người đàn ông, nói như qua hơi thở:

        -Em khổ lắm anh Huân ơi, anh có biết không?

        Huân gỡ điếu thuốc ra khỏi môi, hôn nhẹ vào má nàng:

        -Anh hiểu. Anh xin lỗi em.

        -Bây giờ anh tính sao đây?

        Huân lắc đầu, bất lực:

        -Anh ước muốn nếu mình có một quyền năng gì đó…

        Vừa nói đến đó, Diễm gỡ tay anh ra rồi bất ngờ tát đến bốp một cái vào mặt Huân:

        -Đồ đểu, đồ khốn nạn…

        Rồi Diễm ôm mặt bật khóc. Huân đưa tay lên xoa mặt, nhưng không hề biểu lộ một sự giận dữ.

        -Anh cút đi, anh đừng động đến tôi… Anh là đồ khốn nạn…

        Huân ngồi xuống giường trở lại. Mặt u buồn. Đấu điếu thuốc lại lóe lên liên tiếp. Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối.

        -Tại sao hôm đó anh lại tán tôi?

        Huân cảm thấy tim mình đau nhói, không trả lời nỗi. Ừ thì mình bậy thật, ai bảo mình tán tỉnh nàng làm chi để đến ra nông nỗi này? Nhưng mình là lính xa nhà, gặp con gái đẹp mà không tán thì biết làm gì? Chẳng lẽ chỉ đứng xa mà nhìn rồi tối về nhà thầm yêu trộm nhớ như hồi còn đi học ở trung học?

        Hai người quen nhau cách đây gần năm. Hồi ấy Huân còn đeo lon Trung úy, từ Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn vừa được đổi lên Ban Mê Thuột. Buổi chiều đầu tiên nhậu ở căn cứ say túy lúy. Buổi chiều thứ hai, chàng phóng xe díp ra phố để mua vài thứ lặt vặt và cũng để rửa mắt, coi thử thành phố Ban Mê Thuột tròn méo thế nào, dân tình ra sao. Huân thấy thành phố dễ thương lắm. Và dân Ban Mê Thuột hình như có một vẻ đẹp đặc biệt.

        Trong một tiệm tạp hóa, chàng chỉ cây bút máy Pilot trong tủ kính hỏi cô hàng trẻ tuổi đang ngồi mơ màng, không biết đang mơ mộng hay suy nghĩ chuyện gì:
        -Xin phép cô, nếu được, cô làm ơn cho tôi xem cây viết pilot.

        Đáng lẽ, Huân sẽ chẳng bao giờ thèm để ý đến nàng nếu nàng không ngước mặt lên nhìn chàng, rồi nhìn bộ đồ rằn ri như muốn hỏi tại sao một người mặt mũi lịch sự thanh tao như vậy lại có thể mặc được bộ đồ rằn ri dữ tợn. Lúc ấy, Huân mới để ý là cô nàng duyên dáng thật. Lại ăn bận lịch sự và đúng mốt, hợp thời trang nữa. Bộ quần áo của nàng đang mặc Huân nhìn thấy không nhiều ở đất cao nguyên này. Nhưng tất cả những cái đó không bằng cặp mắt. Ánh mắt của nàng như muốn nói cho Huân biết là nếu chàng chịu khó tán tỉnh, chàng sẽ chiếm đoạt được nàng. Đời Huân, Huân đã gặp ít nhất vài ba người đàn bà như vậy.

        Diễm mở cửa tủ kính, lấy cây viết đưa cho Huân. Chàng cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:

        -Cô cho mượn lọ mực, tôi viết thử được không?

        Diễm khoanh tay đứng nhìn Huân, ngần ngừ một lúc rồi xoay động đôi vai nói:

        -Đúng ra thì lệ ở đây không cho khách thử viết nhưng với ông thì… đặc biệt.

        Huân cười:

        -Tiệm này cũng có chương trình đặc biệt dành cho quân nhân chăng?

        -Không! Tại vì tôi thấy ông lịch sự và trang nhã.

        Huân cười nhẹ:

        -Riêng tôi, nói thật với cô hàng, tôi mua bút cũng đã nhiều nhưng chưa bao giờ muốn thử cả. Cô có biết vì sao tôi muốn thử cây bút này không?

        Diễm cười lên khanh khách, hàm răng thật trắng vào đều đặn:

        -Thôi đi, ông muốn nói tại vì tôi đẹp phải không?

        -Cô lầm rồi. Tôi không có thói quen khen người khác phái là đẹp. Tôi nghĩ một người đàn bà đẹp luôn luôn biết rằng mình đẹp, tất cả những lời khen tặng đều là dư thừa cả.

        Diễm mở nắp một bình mực, hút một tí mực vào bút. Nàng đưa cây bút cho Huân và để ý và nhìn thấy những ngón tay dài đầy lông măng của chàng không có đeo nhẫn cưới:

        -Vậy thì tại sao, ông lính?

        -Tại vì hồi nãy tôi để ý thấy cô cứ nhìn chằm chằm vào người tôi. Tôi biết cô có… cảm tình với tôi.

        Diễm đỏ bừng mặt, cặp mắt “ngổ ngáo” lúc nãy bây giờ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt người khách. Ông lính đẹp trai này quả là một nhà tâm lý tài tình, Diễm nói với lòng mình như thế. Một lúc sau đó, nàng mới lấy lại được bình tĩnh để nói:

        -Hay nhỉ, có cảm tình với ông. Sao mà ông lại tự tin lắm vậy?

        Huân cười, vẫn nụ cười ngạo nghễ, nửa như châm chọc, nửa như vuốt ve:

        -Không phải tự tin mà là linh cảm. Linh cảm của một người lính cô đơn và xa nhà.

        -Ông vừa mở máy tán?

        -Tại sao lại không nhỉ? Thật là bất lịch sự và ngu xuẩn nếu đứng gần một người đẹp như cô mà không chịu tán. Cô, à, cô gì nhỉ?

        -Diễm.

        -Diễm, hay quá. Tôi tên Huân.

        Diễm không nói gì, vòng tay lại nhìn Huân chờ đợi. Huân nhún vai, hỏi:

        -Cô Diễm cho tôi xin miếng giấy.

        -Ông tán gái hay lắm.

        Huân lắc lắc cho cây bút xuống mực, cúi người trên tủ kính rồi gạch vài gạch vào miếng giấy trắng. Rồi chàng xuống hàng, ngón tay đầy nhựa thuốc lá nắn nót viết chữ… “CAPSTAN” thật đều và thật đậm nét. Viết xong, Huân thẳng lưng lên, nhìn ngắm chữ CAPSTAN mình vừa viết như một ông cụ đồ nho ngắm câu đối tết vừa vẽ xong. Chàng xoay người đưa tờ giấy cho Diễm coi, hóm hỉnh nói:

        -Cô Diễm thấy chữ tôi viết có… đẹp không?

        Diễm bật cười, gật đầu, bắt đầu cảm thấy thích anh chàng. Nàng chưa gặp được một người nào tự nhiên và lại tự tin đến như vậy:

        -Kể ra thì đẹp thật. Nhưng trên đời này có thiếu gì chữ để viết, tại sao lại viết CAPSTAN là tên của một loại thuốc lá?

        -Cô Diễm cho thử một câu đi để tôi viết?

        Diễm cười:

        -“Anh Là Lính Đa Tình, ” được không?

        Huân cũng cười, nhưng nhún vai:

        -Đó là đầu đề của một bài hát, nhưng nghe thấy ghê quá cô Diễm ạ.

        -Vì sao thế?

        -Vì lính là những người cô đơn nhất trên trần gian này. Lính chẳng bao giờ có thể đa tình được cả.

        -Đáng buồn thật, thế mà Diễm cứ tưởng các anh lính đa tình lắm. Thế thì “Những Đồi Hoa Sim” được không?

        -Nghe buồn quá.

        -Thế “Xuân Này Con Không Về Mẹ Ơi” có được không? Nghe có vẻ … “hiền lành hiếu thảo” vô cùng.

        -Nghe ủy mỵ và yếu quá. Cô Diễm cho câu khác đi.

        Diễm suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nhún vai:

        -Tôi chịu!

        -Thế thì để tôi thử lại xem. Tôi vừa nghĩ ra một câu.

        Huân cười với ý nghĩ của mình. Chàng nhích người đứng sát bên nàng, rồi cúi đầu xuống, cố ý để ống tay áo rằn ri để cạnh tay áo màu xanh của Diễm. Diễm thấy hơi lạ nhưng để yên, coi thử ông khách hàng “âm mưu” gì. Huân nắn nót viết trên tờ giấy: “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

        Huân lại đưa miếng giấy cho Diễm coi:

        -CAPSTAN là ý nghĩa của câu này.

        Diễm nhìn mảnh giấy rồi nhìn Huân và cười thích thú, bảo:

        -Hay quá nhỉ? Rất đúng hoàn cảnh mà cũng hay nữa. Diễm không ngờ dân hút thuốc lá có nhiều thiên tài… thi sĩ đến như vậy? Ông đã tựa bao nhiêu chiếc áo nàng rồi?

        Huân không trả lời, đóng nắp cây bút lại, mắt vẫn không rời tờ giấy:

        -Cô Diễm biết xuất xứ cái câu này như thế nào không?

        -Bắt chuyện hay lắm. Ông kể cho tôi nghe đi.

        -Ngày xưa, có một ông Tây đi lính đánh trận sang Việt Nam…

        Huân ngừng lại ở đó, đưa cây bút cho Diễm:

        -Cô Diễm chọn cho tôi một màu khác đi, tôi không thích cái màu đỏ này. Nó hung dữ quá, không hợp với những người… có tâm hồn thi sĩ như tôi.

        -Nhưng ông chưa kể hết chuyện mà. Ông phải kể thì tôi mới chọn màu hộ ông được.

        -Chuyện hay lắm, nhưng kể trong không khí này mất cái hay đi. Tối nay, nếu Diễm có rãnh, mình gặp nhau ngoài công viên, tôi kể tiếp cho Diễm nghe…

        Ánh mắt Diễm thoáng lên một ngọn lửa hoan lạc. Nàng mỉm cười sung sướng, đứng lặng một chút rồi nói:

        -Dân nhà binh có khác. Đốt giai đoạn mau lắm. Tối nay thì không được nhưng chiều mai thì Diễm rảnh. Khoảng 2 giờ được không?

        Vậy là hai người quen nhau buổi chiều hôm sau. Dễ dàng và thơ mộng. Đi với Huân lần đầu trong công viên, nàng thấy bên trong lớp áo rằn ri dữ tợn của chàng là một tâm hồn thật trẻ trung, vui tính và yêu đời. Dưới mắt chàng, hình như, chẳng có chuyện gì là quan trọng cả. Đi ngang đám trẻ đang đá banh, anh chàng ngứa giò, xin phép Diễm rồi cởi giày chạy ra sút vài quả bóng với bọn trẻ. Nàng đứng im nhìn Huân lừa bên này lách bên kia với đám trẻ và mỉm cười thích thú.

        Diễm không biết trên thế giới này có được bao nhiêu người đi chơi với đào lần đầu tiên mà lại xin phép cởi giày để đá bóng vài phút với bọn trẻ. Đi dưới những tàng cây to lớn có đến hàng trăm tuổi, chàng chỉ và đọc tên vanh vách cho Diễm nghe từng loại cây. Có vài con chim bay lướt trên cao, Huân ngước nhìn rồi nói rõ lai lịch chúng nó. Kể cả những loại tre loại trúc, Huân cũng biết rõ xuất xứ. Hình như, với chàng, rừng rậm là một thứ mà chàng biết rất nhiều. Hình như, rừng rậm và cây cối mới là quê hương, là nơi mà chàng có thể sống thoải mái được.

        Diễm chỉ để ý đến một điều là anh chàng hút thuốc hơi nhiều. Một lần, Huân mồi thuốc và nói với Diễm:

        -Mỗi lần mua bột bao thuốc lá mới, anh luôn luôn bị ám ảnh bởi câu “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng” của gói CAPSTAN.

        -Nghe có vẻ buồn hơn “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

        Huân phà khói thuốc, hỏi:

        -Em có tin dị đoan không?

        -Thỉnh thoảng.

        -Hồi xưa, anh có một thằng bạn. Nó có đeo một cái nanh heo rừng trong người. Nó bảo anh là ngày nào nó còn mang nanh heo rừng thì súng đạn không đụng đến nó được…

        Huân bỏ lửng câu nói. Diễm nhận ra là nàng thích cái lối nói chuyện này. Nó làm cho người ta trở nên hồi hộp:

        -Rồi sao nữa?

        Chàng nhìn ra xa xa:

        -Một ngày nó đi nhảy toán, bị bắn chết, bạn bè đem xác về được. Anh liệm nó vào hòm, mò mẫm tìm cái nanh heo rừng nhưng không thấy.

        Ngừng một chút, Huân tiếp:

        -Em biết nó ở đâu không?

        -Không?

        -Anh cũng chẳng biết, cứ nghĩ là anh chàng nào đó đã lấy rồi. Chiều đó anh đi tắm, mới thấy cái nanh heo rừng nó bỏ quên, treo lơ lửng trên vòi nước.

        Diễm rùng mình. Huân nói:

        -Ở trên đời này, có nhiều chuyện mình không thể giải thích được mà nó vẫn xảy ra.

        -Chuyện nanh heo rừng em đã nghe vài lần, nhưng cái câu gì đó thì dị đoan gì?

        -Chính nó dạy cho anh. Nó bảo, khi mày yêu ai, đi mua thuốc lá đừng nói “Bán cho tôi gói Capstan mà phải nói bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

        Diễm cười:

        -Nếu không thì sao?

        -Tình yêu sẽ tan vỡ.

        Diễm lắc đầu:

        -Em không ngờ mấy ông nhà binh lại lẩm cẩm như vậy. Mà từ lúc gặp em, anh đã đi mua thuốc lá lần nào chưa?

        -Rồi!

        -Anh nói thế nào?

        -Anh bảo cô hàng bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng.”

        Diễm nhìn xuống đất, dấu nụ cười:

        -Sao anh lại nói vậy? Anh đã yêu Diễm đâu? Mình mới quen nhau mà…

        Huân cười:

        -Gặp được một người như Diễm mà không yêu thì thật là bất lịch sự…

        Diễm bật cười, nói theo với Huân:

        -Và ngu xuẩn… Diễm hỏi thật anh, anh đã nói câu đó với bao nhiêu người đẹp rồi?

        -Không nhiều lắm, chỉ với những người mà anh thật thích như là Diễm.

        -Đơn giản thật. Anh nói chuyện hay lắm. Anh kể chuyện đời anh cho Diễm nghe đi?

        -Chuyện đời anh nghe chán lắm, chỉ sợ em buồn ngủ.

        Diễm đưa mắt liếc Huân:

        -Xin anh chớ quên là từ chối lời yêu cầu của một người đàn bà trong hoàn cảnh này là bất lịch sự và ngu xuẩn đấy nhé.

        Huân cười:

        -Anh cũng định nói vậy. Thôi được, vậy em muốn bắt đầu từ lúc nào?

        -Từ lúc anh còn bé.

        -Xa quá, làm sao anh nhớ hết.

        -Thế thì từ lúc anh đi học.

        -Tuổi học trò anh chẳng có gì đáng nói. Từ lúc đi lính được không?

        -Chuyện mấy ông lính nghe chán chết.

        Tự nhiên, Huân xoay người đưa mắt nhìn Diễm. Ánh mắt người sĩ quan Lôi Hổ trẻ vừa lóe lên một tia nhìn đau khổ. Đau khổ nhưng tha thiết một cách lạ lùng. Diễm giật mình. Tia mắt đau khổ ấy trong mắt Huân dù rất nhỏ, dù rất tha thiết nhưng Diễm nhìn thấy được ngay. Nàng thấy xót xa và bối rối. Diễm cúi đầu, cấm lấy tay Huân:

        -Anh Huân, Diễm xin lỗi anh.

        Huân cười. Nhưng nụ cười hơi méo đi, đôi mắt vẫn còn đọng chút đau thương. Chàng búng điếu thuốc ra xa rồi đưa tay mình úp lên bàn tay của Diễm.

        -Diễm vô duyên quá, Diễm quên anh là lính.

        -Anh không trách. Nhưng Diễm có biết ai là người giữ cho thành phố làng mạc được yên bình không?

        -Mấy ông lính.

        -Ai là người bỏ gia đình, bỏ vợ con, bỏ tất cả ra sống ngoài rừng ngoài rú, kề cận với tử thần hằng ngày?

        -Cũng mấy ông lính.

        -Ai là người chịu thiệt thòi nhất trong cuộc chiến này?

        -Cũng mấy ông lính… Mà thôi, anh đừng hỏi nữa, Diễm hiểu rồi.

        Huân im lặng một lúc rồi nói thật dịu dàng:

        -Bây giờ để anh kể chuyện đời lính của anh cho Diễm nghe…

        -Thôi anh ạ, để lúc khác đi, Diễm hết muốn nghe rồi.

        Huân lại móc gói thuốc. Diễm cầm lấy điếu thuốc trong tay Huân, gõ gõ vào cái hộp quẹt Zippo một cách rất sành điệu. Huân nhìn nàng ngạc nhiên, không hiểu nhờ đâu mà Diễm lại gõ thuốc tài tình đến như vậy.

        Nàng ngồi sát vào Huân, đưa điếu thuốc cho chàng và khẽ nói: “Chiếc áo phong sương tình anh nặng…”

        Huân cắm điếu thuốc vào môi mình, nghiêng người xuống. Diễm đưa cái hộp quẹt Zippo của Huân lên, dùng ngón tay mở nắp rồi bật lửa cho chàng, tay kia đưa ra che gió.

        Huân rít một hơi thuốc dài, nhả khói ra, hỏi:

        -Em học ở đâu mà nhồi thuốc hay quá vậy?

        -Ngày xưa, bố em làm biếng, mỗi lần hút thuốc mà không tìm ra hộp quẹt hay bắt em xuống bếp mồi thuốc cho bố.

        -Ngoan quá nhỉ. Em kể chuyện đời em cho anh nghe đi.

        Diễm cười:

        -Bắt đầu từ lúc nào?

        -Lúc nào em thấy dễ nhớ nhất.

        Diễm ngước mắt nhìn lên trời, rồi lại cúi xuống, rồi lại nhìn lên:

        -Đời Diễm buồn lắm…

        Huân nghe vậy thì thấy xót xa trong lòng. Không hiểu sao, chàng đã mơ hồ đoán ra chuyện này.

        -Nhà em ở Nha Trang. Mấy cha con em đang sống an bình vui vẻ bỗng một ngày, năm Diễm học đệ tứ, bố em bỏ mẹ con em đi đâu mất biệt. Mẹ bảo bố đi theo vợ bé vào miền Tây sinh sống. Có một điều mẹ em không nói là ngày bố đi, bố nghe lời vợ bé, bao nhiêu vàng bạc trong nhà bố vét sạch đem theo…

        Huân hít thuốc lá liên tục. Diễm nhìn ra xa xa, tiếp, giọng đều đều:

        -Thế là em phải nghỉ học để phụ giúp mẹ. Bố đi rồi, mình mẹ lo không nổi mọi chuyện. Tội nghiệp mẹ lắm anh ạ. Em thương mẹ ở chỗ, dù bị bỏ rơi như thế, mẹ không hề mở miệng ra than thân trách phận, không hề chửi bố lấy một lời, dù sau lưng bố. Điều làm cho em đau khổ nhất là mẹ vẫn còn hy vọng một ngày nào đó bố sẽ về. Em biết bố sẽ không bao giờ về nhưng mẹ thì vẫn muốn tin như thế…

        -Sao em biết?

        -Đàn bà có một linh tính đặc biệt của trời cho anh ạ. Hơn nữa, em gần gũi bố nhiều, em biết tính bố. Bố đã quyết định chuyện gì rồi là không bao giờ thay đổi ý kiến… Em nghĩ mẹ em cũng phần nào biết được như thế nhưng mẹ không muốn tin như vậy…

        -Bản chất của con người. Trong cơn đau khổ hay nguy khốn, người người ta luôn luôn muốn tìm một cái gì đó để hy vọng, để tin vào…

        Diễm tiếp:

        -Buôn tần bán tảo mấy năm, để dành được ít vốn, mẹ em và bà dì hùn nhau lên Ban Mê Thuột mở cửa tiệm hàng xén. Ở đây làm ăn dễ quá anh ạ, người mua thì nhiều mà người bán thì ít. Em ở đây ba năm rồi, và cảm thấy thích cái thành phố nhỏ này.

        Huân nhìn xa xa phía trước. Bên kia công viên, cách con đường quốc lộ là một cái nhà thờ nhỏ nhưng rất dễ thương với cái tháp chuông cao vút.

        -Ở đây ba năm, em nhận xét thấy thành phố này như thế nào?

        -Hồi mới lên đây Diễm thấy hình như ai cũng… ở dơ hết vì đất đỏ kinh khủng. Đi ra ngoài đường một vòng là bụi đỏ bám đầy đầu tóc. Nhưng ở lâu rồi mới biết dân Ban Mê Thuột là dân sạch sẽ nhất nước vì ở đất đỏ mà hai ngày không tắm thì sẽ biến thành mọi ngay.

        Huân cười, hỏi:

        -Em có nhớ biển không?

        -Cũng nhớ nhưng không nhớ biển bằng nhớ bạn bè anh ạ. Hồi đó Diễm cô đơn và buồn kinh khủng, chẳng quen biết ai cả. Bạn bè cũng khó kiếm nữa. Nếu anh lên đây trước chừng… 3 năm thì Diễm đỡ khổ rồi…

        Cả hai người cùng cười. Rồi Diễm bảo:

        -Thôi mình đi về anh, chiều rồi…

        Chiều thứ bảy đó, Diễm nhận lời mời đi tham dự buổi dạ vũ Giáng Sinh trong căn cứ của Chiến đoàn. Hai người quấn quít bên nhau như đôi chim nhỏ…

        Tháng sau, Huân mướn căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt để làm chỗ hẹn hò. Mới đầu Diễm còn giấu mẹ nhưng sau thì mẹ nàng biết. Bà cũng chẳng cấm cản gì, chỉ bảo: “Con lớn rồi, con đủ trí khôn để quyết định lấy chuyện mình làm. Mẹ chỉ khuyên con nên cẩn thận.”

        Ba tháng sau, Diễm khám phá ra một chuyện động trời: Huân đã có vợ…

        Tối đó, Huân đang nằm ngủ trên giường thì Diễm lôi anh dậy. Huân chưa kịp mở mắt thì đã thấy hơi thép lạnh băng của họng súng Colt .45 chĩa vào thái dương mình. Trong lúc chập chờn, Huân tưởng mình đang đi nhảy toán và bị Việt Cộng bắt. Chàng đang suy nghĩ tìm cách thoát thân thì giọng Diễm rít lên:

        -Ngồi dậy đi! Anh là thằng khốn nạn.

        Huân chưa mở mắt nhưng nghe giọng nói đó thì biết chuyện gì đã xảy ra. Từ lúc quen nhau, Huân đã âm thầm chờ đợi một ngày như ngày hôm nay. Cái giọng đay nghiến đó không làm chàng ngạc nhiên lắm. Đàn bà khi ghen thường trở thành những con người lạ lùng. Huân chỉ ngán cây .45 của chàng đang nằm trong tay Diễm. Đạn Colt .45 của Lôi Hổ mà nổ gần vậy và nhè nổ ngay vào chỗ thái dương thì nhất định chết rồi mà người bị bắn vẫn chưa biết mình chết.

        Huân hít một hơi thở cho đầy lồng ngực rồi mở mắt ra. Chàng nhìn thấy Diễm đầu tóc rồi bù, nước mắt ràn rụa, cây Colt .45 trong tay nàng run lên từng hồi theo tiếng nấc.

        -Dậy đi, sao anh dám lừa tôi?

        Mồ hôi toát ra đầy trán nhưng Huân vẫn nằm im không cử động gì cả. Chàng biết Diễm chỉ muốn dọa chàng nhưng súng đạn là một thứ… rất dễ bị cướp cò bất tử. Nhất là khi nó lại nằm trong tay một người đàn bà chưa hề biết sử dụng súng và tâm hồn lại đang bị giao động mạnh như lúc này.

        Huân xoay đầu từ từ, giọng rất bình tĩnh:

        -Em cho anh hút điếu thuốc được không?

        Diễm gầm lên, đau đớn pha lẫn phẫn nộ:

        -Không có thuốc thang gì cả. Anh trả lời tôi đi, tại sao anh lại lừa tôi?

        Huân đâu có cần nghe câu trả lời của nàng, chàng chỉ hỏi vậy để có cớ tránh cái họng súng quái ác đang chĩa vào ngay thái dương mình và coi thử coi cái khóa an toàn cây súng có mở không. Huân tái mặt khi nhìn thấy cái khóa an toàn đã mở sẵn. Đúng ra là lỗi ở chàng. Huân không bao giờ khóa an toàn cây súng của mình. Trường tình báo dạy cho chàng biết cây súng khi hữu sự mà bị khóa an toàn thì chỉ là một miếng thép vô dụng.

        Huân nuốt nước bọt, cất giọng nhẹ nhàng:

        -Coi kìa, em muốn anh dậy thì để anh ngồi dậy, nhưng phải nhích ra một chút chứ…

        Diễm đang phân vân chưa biết phải làm gì thì trong một tích tắc đó, Huân đã chòm dậy nhanh như cắt, đưa tay chụp lấy cây súng trong tay nàng chĩa lên trời. Một tay chàng ôm Diễm, tay kia chàng lẹ làng gỡ cây súng ra thảy xuống một góc giường.

        Hú hồn

        Diễm gục đầu vào vai Huân và bắt đầu khóc. Mới đầu chỉ tấm tức nhưng trở thành nức nở chỉ trong vài giây đồng hồ. Huân ôm lấy Diễm, để những giọt nước mắt thấm ướt chiếc áo thun nhà binh. Chàng dỗ dành:

        -Anh xin lỗi em. Lỗi của anh, lỗi của anh hoàn toàn.

        Diễm lại khóc to hơn, đay nghiến:

        -Em khổ quá! Đời một người con gái, anh phải biết chỉ có được một lần làm con gái… Tại sao anh lại lừa em?

        Huân nhắm mắt lại, thấy đau đớn tận cõi lòng. Chàng vuốt ve lưng nàng:

        -Lỗi của anh hoàn toàn.

        -Tại sao anh lừa em?

        -Đừng bắt anh trả lời Diễm ạ, anh xin em…

        -Anh phải trả lời.

        Huân thở dài:

        -Anh đâu có lừa em, anh chỉ… chỉ… dấu em.

        Đột nhiên nàng xô Huân ra:

        -Đàn ông các anh chỉ rặt toàn là một bọn người khốn nạn. Tất cả đều khốn nạn…

        Cứ như thế, từ 10 giờ tối cho đến quá nửa đêm, Diễm lúc thì khóc, lúc thì im, lúc thì đay nghiến Huân bằng những lời lẽ nặng nề. Diễm chỉ ngừng lại khi có vài tiếng gõ vào bức vách báo hiệu sự khó chịu của người hàng xóm ở ngay phòng bên cạnh.

        Huân lắc đầu, đứng lên bước ra ngoài ban công, nhìn vào bóng đêm trước mặt. Diễm lưỡng lự một chút rồi bước theo. Hai người ngồi im lặng bên nhau trong bóng tối nhìn xuống con đường tối mù phía dưới. Xa xa, mãi gần đầu đường mới thấy ánh sáng vàng vọt hiu hắt của ngọn đèn đường. Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng gió thổi lồng lộng, phủ ngập cái khoảng không gian tối tăm bé nhỏ và u buồn của hai người. Huân đốt thuốc lá liên miên.

        Nhìn Huân hút thuốc, chưa bao giờ Diễm thấy ghét cái câu “Chiếc áo phong sương tình anh nặng” bằng lúc này. Láo khoét. Rẻ tiền. Cải lương. Kịch.

        Cơn bão đã đi qua và để lại sự tàn phá thê lương trong lòng Diễm. Diễm thấy đau đớn và chua xót vô cùng. Nàng chợt nhận ra rằng, dù biết rằng Huân đã có vợ, Diễm vẫn không thể bỏ chàng được. Nàng đã yêu Huân mất rồi, đã cho Huân hết rồi. Diễm lại khóc lên rưng rức trong bóng tối khi nghĩ mình chẳng còn gì cả. Không ngờ đời mình lại có lúc như thế này. Muốn nói gì thì nói, mình chỉ là một thứ vợ hai, vợ bé của người ta thôi.

        Huân kéo ghế ngồi sát bên Diễm, tiếp tục dỗ dành và vuốt ve. Diễm nín khóc, hỏi:

        -Trở lại thực tế đi, bây giờ anh tính thế nào?

        -Anh sẵn sàng ra đi để cho em được hạnh phúc.

        Diễm lắc đầu và thở dài, không nói gì. Một lúc, nàng cầm lấy tay Huân hỏi:

        -Sao anh đã có vợ rồi mà còn cả gan đi tán tỉnh em?

        Huân đau đớn:

        -Anh chẳng biết nữa. Tại anh xa nhà, anh yếu đuối, anh vô liêm sỉ.

        -Anh làm vậy lỡ ở nhà chị biết thì sao? Anh không sợ chị ấy buồn à?

        -Không!

        Diễm hất tay Huân ra:

        -Diễm không tin đâu. Anh đừng nói những câu bạc tình nghĩa như thế.

        Huân nghiến răng lại:

        -Em khỏi cần phải tin nhưng anh nói thật. Anh không yêu vợ anh…

        Diễm không nói gì. Huân lại thở dài, nhìn xuống đường, nơi xa xa có vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn nhỏ. Tiếng gió đêm miền cao nguyên thổi rì rào. Cây cối quanh căn gác nhỏ quặn mình trong bóng tối, kêu xào xạc.

        -Mà thôi, anh có nói gì em cũng chẳng tin, anh nghĩ, hay nhất, vì tương lai của em, hai đứa mình nên chia tay nhau. Em còn trẻ, còn tương lai, thiếu gì người sẽ theo đuổi em…

        Diễm vẫn không nói gì.

        -Đời anh coi như xong rồi. Anh sẽ về để tập yêu thương lại vợ anh. Còn em, tương lai em còn sáng sủa lắm, đừng vì một lỗi lầm nhỏ của mình mà bỏ phí cuộc đời đi. Mình chia tay nhau nhé?

        Huân im lặng chờ đợi nhưng chỉ có tiếng khóc thút thít trả lời cho chàng. Huân lại vỗ về, giọng nói và thái độ như người anh an ủi đứa em:

        -Anh biết em yêu anh, nhưng em sẽ quên anh được. Em phải nghĩ đến tương lai của mình. Em phải tập quên anh và anh cũng phải tập để quên em.

        -Anh nói thật hay anh chỉ làm bộ?

        -Anh đau lòng lắm nhưng anh chưa bao giờ thật bằng lúc này.

        Diễm lại bật khóc. Rồi, thật bất ngờ, nàng đưa hai tay ôm kín Huân vào lòng mình, xiết thật chặt, nghẹn ngào:

        -Trễ quá rồi anh Huân ạ, Diễm không thể nào bỏ anh được nữa rồi.

        -Diễm…

        -Nói đi anh, nói đi.

        -Nói gì?

        -Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…

        -Nhưng… nhưng… tụi mình…

        -Quên chuyện đó đi anh. Anh nói với Diễm đi anh, nói đi, nói “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”. Diễm năn nỉ anh. Nói để cho thần linh chứng giám chuyện tình của hai đứa mình, nói đi để cho chuyện tình của hai đứa mình sẽ không bị tan vỡ… Nói đi anh, nói mau đi… coi chừng thần linh sẽ giận.

        Huân nói liền, giọng thẫn thờ như người chưa thoát ra khỏi sự dày vò của suy tư: “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

        Thế là, truyện tình với người đàn ông… có vợ của Diễm lại tiếp diễn. Buồn phiền cũng lắm mà say đắm cũng nhiều. Diễm không rời xa Huân được và ngược lại, Huân cũng không thể nào làm khác hơn. Cả hai sống như vậy và không ai dám nghĩ đến tương lai. Vợ Huân lạnh lùng, cả năm trời mới gởi được cái thư chữ viết rời rạc, vô nghĩa lý. Huân nhìn lá thư, nhớ đến con, nghĩ đến người vợ và lắc đầu.

        Khoảng hai tháng trước lễ Giáng Sinh, Diễm thấy cơ thể khó chịu, ăn uống không được, ói mửa bất thường. Một chiều, Huân về nhà sau 15 ngày hành quân nơi vùng tam biên, chưa kịp cởi áo ra thì Diễm đã cho nổ một trái bom nguyên tử với sức mạnh cỡ 200 megaton ngay trước mặt chàng, trong căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt. Diễm bảo: “Em có thai.”

        Bom nguyên tử nổ thật là khủng khiếp. Huân thấy trời đất quay cuồng, vũ trụ đảo lộn. Chàng bị quật ngã xuống đất rồi lòm còm bò lên giường nằm bất động, không nói được một tiếng.

        Không phải chỉ có Huân mới bị ảnh hưởng của bom nguyên tử, Diễm cũng bị lây. Nàng chết trong lòng khi thấy Huân không lộ một chút vui mừng nào. Dù sao, đó cũng là giọt máu của chàng. Diễm bỏ mặc Huân nằm trên giường rồi lẳng lặng mở cửa bước ra khỏi nhà.

        Nàng khóa cửa, nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn cứng. Diễm đứng không muốn vững. Nàng phải vịn vào thành cửa một lúc thật lâu mới lấy lại được sự thăng bằng. Diễm lắc lắc chùm chìa khóa nhỏ trong tay rồi mím môi ném nó tuốt ra phía sau vườn, thật xa, nơi có mấy khóm chuối hoang, mấy cây tầm duột chẳng bao giờ có trái và cỏ dại cao lên tới đầu.

        Diễm nghẹn ngào nói nhỏ: “Vĩnh biệt anh Huân. Vĩnh biệt.”

        Rồi nàng bước từng bước một xuống cầu thang, tự nhủ với lòng mình rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở lại nơi này nữa. Nàng cũng tự nhủ sẽ chẳng bao giờ còn gặp Huân nữa. Không bao giờ.

        Gần chiều Huân giật mình tỉnh giấc và khám phá ra Diễm đã đi đâu mất rồi. Chàng ra ngoài ban công ngồi chờ. Chiều, Diễm cũng không về. Tối, 8 giờ nàng cũng không về. Huân thay quần áo, ra cái quán cóc đầu phố ngồi kêu bia uống để chờ. Uống đến chai bia thứ tám, đồng hồ trên tường gõ mười tiếng dài não ruột. Huân biết Diễm sẽ không đến vì đã tới giờ giới nghiêm.

        Chàng lắc đầu, thở dài một tiếng…

        Bà chủ quán đi ra đi vào, không dám than phiền nhưng dáng điệu rất khổ sở. Bia uống hết ngon, Huân liền kêu tính tiền rồi lạng quạng bước ra. Thành phố Ban Mê Thuột giờ giới nghiêm vắng ngắt như một bãi tha ma. Gió đêm thổi lên từng cơn rùng rợn. Huân lủi thủi bước về lại căn gác, lên lầu lấy cây Colt .45 nhét vào bụng rồi xuống đường mở máy chiếc xe díp. Chàng lái xe xuống nhà Diễm.

        Chiếc xe díp của Chiến Đoàn III Lôi Hổ phóng băng băng giữa thành phố vắng người…

        Đèn trong nhà Diễm tự nhiên tắt ngấm khi Huân vừa thắng chiếc xe. Huân lắc đầu ngao ngán. Chàng biết có vào gõ cửa cũng bằng thừa nhưng quyết định vào.
        Huân gõ đến lần thứ tư thì cánh cửa bật mở. Má Diễm ló đầu ra bảo: “Cháu về đi. Diễm nó mệt.”

        Huân chưa kịp nói thì cánh cửa đã đóng sầm một cái. Chàng đứng yên trong bóng tối một lúc rồi ngồi ngay xuống thềm nhà Diễm, dựa lưng vào vách đốt thuốc. Đàn muỗi đói xông tới tới công. Huân nới ống tay áo và kéo cao cổ áo lên. Muỗi vẫn tấn công tới tấp. Chàng bỏ mặt. Cứ coi như trực thăng đến trễ một ngày. Cứ coi như tối nay mình còn nằm trong rừng.

        Một lúc nào đó, Huân cảm thấy mệt nhoài. Sự mệt mỏi của gần tuần lễ trong rừng thẳm, sự tàn phá của trái bom nguyên tử và men rượu của tám chai bia lớn đẩy chàng nằm xuống. Huân ngủ thiếp đi trước thềm nhà Diễm, một tay thọc sâu vào bụng nắm chặt lấy cán cây súng Colt .45. Tay kia để ngược ra sau trong tư thế chuẩn bị. Đàn muỗi đói vẫn bay vo ve nhưng đối với Huân bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì nữa. Lính Lôi Hổ muốn ngủ là ngủ được, dù ở bất cứ chỗ nào.
        Huân ngủ rất ngon, không một tiếng gáy, không một lần trở mình như chàng vẫn thường ngủ ở trong rừng mỗi khi đi nhảy toán.

        Bỗng, trong một khoảng thời gian nào đó trong đêm, tai người sĩ quan Biệt Kích nghe được tiếng động lạ. Huân tỉnh giấc liền và nhận ra ngay đó là tiếng mở cửa. Ngón tay đang bám cứng vào cò súng của chàng liền nới lỏng ra. Nhưng Huân vẫn nằm im, chờ đợi. Rồi tiếng dép khua lẹp kẹp. Huân nhận ra bước chân của Diễm. Chàng vẫn nằm im, miệng lại nở lên một nụ cười.

        Diễm xách cây đèn dầu đến bên Huân, cúi nhìn người lính mặc đồ rằn ri đang nằm ngủ trên thềm nhà. Rồi nàng để cây đèn dầu xuống bên cạnh, ngồi xuống bên cạnh Huân, nâng đầu chàng lên để lên đùi mình…

        Trong một khoảnh khắc, nàng quên hết. Quên những gì vừa xảy ra chiều nay, quên giọt máu của Huân trong bụng mình, quên cái tương lai đầy bất trắc trước mặt để chỉ biết một điều: Nàng đã yêu đắm đuối cái con người đang nằm trong vòng tay nàng đây và không thể nào bỏ chàng được…

        Rồi chuyện đâu cũng vào đấy. Diễm lại trở về với Huân. Trở về với cái bào thai đang từ từ lớn dần trong bụng mình và chờ đợi. Cuộc sống hai người không còn như xưa nữa. Diễm vui buồn bất chợt. Có lúc vừa cười xong thì lại khóc ngay sau đó. Vừa mới âu yếm nhau thì lại gây gổ liền. Mỗi lần Diễm phản ứng như vậy Huân thấy đau đớn tận đáy lòng.

        Chiều nay cũng vậy, Huân nhói trong người không phải vì cái tát mà vì sự thay đổi tính tình bất thường của Diễm. Đàn bà có thai mà bị xúc động nhiều quá không tốt. Chàng nghĩ đến đứa con trong bụng mình và cảm thấy lo sợ…

        Rồi hai người lại làm lành với nhau. Diễm đã thôi khóc, thôi đay nghiến. Huân đang ngồi vuốt ve an ủi Diễm thì có tiếng xe díp thắng trước nhà. Huân nhóm người lên nhìn xuống và nhận ra đó là xe của Chiến Đoàn. Người trung sĩ tài xế trên xe phóng xuống như bay, chạy lên gác.

        Huân lắc đầu toan đứng lên nhưng Diễm đã ghì chặt lấy chàng, úp mặt vào ngực chàng, nói nhỏ:

        -Anh cứ ngồi đây với em, chừng nào ông ấy lên thì đứng dậy cũng chưa muộn…

        * * *

        Đám sĩ quan Lôi Hổ quay quần bên tấm bản đồ để trên bàn. Đại tá Phùng chấm dứt phần nói chuyện:

        -Còn ai có ý kiến hay thắc mắc gì nữa không?

        Không ai nói gì. Thực ra, người đáng lý ra phải có ý kiến nhiều nhất là Huân vì tất cả các sĩ quan có mặt đều được giao một công tác ngoại trừ chàng. Nhưng Huân không thèm mở miệng. Chàng biết, đã được gọi vào đây để tham dự phiên họp này thì trước sau gì tên mình cũng được nhắc đến, khỏi cần “mua việc” hay thắc mắc làm chi cho mất công.

        Đại tá Phùng đứng lên:

        -Vậy cứ theo kế hoạch mà làm. Ý của ông tướng Phú rất đơn giản. Ổng muốn xác nhận sự có mặt của sư đoàn 10 và sư đoàn 316 trong các khu vực đó. Anh em chỉ cần tóm một vài thằng đem về đây là xong công tác. Bây giờ anh em có thể giải tán được…

        Mọi người dơ tay lên chào, Huân cũng bình thản tính dơ tay lên chào để đi ra nhưng đại tá Phùng lại nói:

        -Khoan, Đại úy Huân ở lại chờ tôi một chút.

        Đã chuẩn bị từ trước, Huân thản nhiên bỏ tay xuống chờ đợi. Còn hai người trong phòng, Đại tá Phùng chỉ cái ghế gần mình. Huân ngồi xuống. Ông chiến đoàn trưởng nhìn Huân, giọng thân mật:

        -Gia đình anh lúc này thế nào?

        Huân hơi ngạc nhiên vì câu hỏi:

        -Cám ơn đại tá, vẫn thường thôi.

        -Vợ anh thế nào?

        Huân bối rối:

        -Cám ơn đại tá, cũng thường, nhưng lâu quá chưa liên lạc được.

        -Sao lâu lắm rồi không thấy anh đi phép về Sài gòn?

        -Tôi có nhiều việc làm ở Ban Mê Thuột quá…

        Huân không muốn nói nhiều hơn. Hai người im lặng. Đại tá Phùng tính nói một câu gì đó nhưng lại thôi. Cả hai đều đột nhiên cảm thấy là bầu không khí trong phòng đang trở nên ngột ngạt.

        Ông đại tá liền đổi đề tài:

        -Anh biết tại sao tôi mời anh ở lại đây không?

        -Tôi có linh cảm một chuyện đặc biệt nhưng không biết đặc biệt… cỡ nào.

        -Anh có một nhiệm vụ quan trọng hơn. Xác nhận sự có mặt của chúng nó chỉ là chuyện phụ… Tôi và ông Trung tá Khiếu phòng II biết rất rõ và có bằng chứng là chúng nó đã tập trung 4 sư đoàn ở mặt trận cao nguyên này…

        -Nếu biết vậy thì mình còn cho người đi bắt lính chúng nó về đây làm gì?

        Ông Phùng lắc đầu:

        -Để trình diện Quân đoàn, để làm đẹp lòng tướng Phú, khổ là như vậy. Ông tướng này có vẻ không mấy tin tưởng vào các tin tức tình báo của bọn mình đưa lên. Ổng muốn chứng minh, ổng muốn mình phải bắt được vài thằng lính của chúng nó làm bằng chứng. Nhưng chuyện này chẳng có gì khó, nghề của bọn mình mà. Xưa này mình đã làm bao nhiêu vố rồi, làm thêm một vố đâu có sao. Nhưng mà…

        Huân chờ đợi. Chàng biết những gì chàng sắp nghe quan trọng vô cùng.

        -Anh Huân, cái chuyện chính, chuyện tôi muốn nói với anh là cái chiến trường cao nguyên, đúng hơn, cái mặt trận B3 theo lời gọi của chúng nó sẽ bùng nổ rất lớn sau tết. Chúng nó sẽ đánh. Đánh cú chót cạn láng. Chúng nó sẽ ta pi mình một lần nữa như cái kiểu mùa hè năm 72…

        Đại tá Phùng ngừng nói. Ông nhìn xuống tấm bản đồ để trên bàn, lắc lắc cái đầu:

        -Chấp tụi nó. Biết nó đánh thì mình chuẩn bị, nó đánh lớn thì mình chuẩn bị lớn, đánh nhỏ thì chuẩn bị nhỏ, chuyện này cũng chẳng có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất, chuyện quan trọng nhất đang làm ông tướng Phú và toàn ban tham mưu mất ăn mất ngủ là không biết chúng nó sẽ đánh chỗ nào. Ban mê thuột hay Pleiku?

        -Ban Mê Thuột hay Pleiku?

        Huân lập lại như người chưa tỉnh cơn mộng và thấy đau nhói trong tim mình. Ban Mê Thuột, thành phố nhỏ bé hiền hòa này không phải là thành phố của chiến tranh. Người dân Ban Mê Thuột chưa sẵn sàng để hứng đạn đại pháo. Dân quân Ban Mê Thuột chưa được trang bị đầy đủ để chống tăng. Quan trọng nhất, Diễm và đứa con trong bụng nàng chưa chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chạy loạn.

        -Như tôi đã nói, ông tướng muốn bắt sống vài thằng tù binh, mình sẽ bắt đem về cho ông tướng đẹp lòng, nhưng đồng thời, lợi dụng việc đó, tôi cũng vừa nghĩ ra một cách để giải quyết mối lo trong gan ruột ông tướng…

        Ông ngừng nói, nhìn Huân như muốn ước lượng xem thử người sĩ quan thuộc quyền có thể đoán được những gì mình muốn nói. Đại tá Phùng kéo ghế ngồi gần sát Huân:

        -Sở dĩ tôi giữ anh lại đây là vì tôi muốn dùng anh vào việc này. Trong chiến đoàn của mình, nếu không có anh thì không ai có thể làm được việc này. Anh muốn giúp tôi không?

        Huân gật đầu liền. Đại tá Phùng khoái cái lối gật đầu kiểu này. Nó không điếu đóm, không kịch, và chắc chắn như một lưỡi dao chém sâu xuống mặt bàn.
        -Mình có bắt được một trăm thằng lính bộ đội ông Hồ cũng không biết được mấy thằng chóp bu của chúng nó đang âm mưu cái gì. Chắc anh cũng biết, Cộng sản làm gì cũng có chuẩn bị, có kế hoạch, có học tập, có nghị quyết v.v… Nếu chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku, chắc chắn mấy thằng Sư trưởng của chúng nó không thể nổi hứng rồi quyết định đánh khơi khơi được. Lệnh phải xuống từ Bắc Bộ Phủ cho mấy mấy thằng này thi hành. Rồi tiếp theo, các Trung đoàn trưởng phải biết, đúng không?

        Huân phần nào hiểu được công tác mình sắp được giao phó.

        -Đúng.

        -Rồi chúng nó phải học tập, phải thiết lập sa bàn, phải tập trận v.v… Vậy thì, nếu mình gài được con mắt mình ở trong “hậu phương” của chúng nó trong một thời gian dài, mình sẽ biết được ý đồ của chúng nó, đúng không?

        -Đúng, tôi đồng ý với đại tá.

        -Tốt. Anh nói vậy thì anh… biết công tác của anh rồi. Tôi muốn anh “Đặc Biệt” nhảy xuống mật khu Bù Gia Mập, nơi dưỡng quân của sư đoàn 316 rồi nằm trong đó chừng hai tuần lễ để quan sát và theo dõi. Anh sẽ theo dõi và điều tra thật kỹ cho đến khi nào anh nắm được trong tay một vài bằng chứng gì về ý đồ của chúng nó. Ví dụ một vài tài liệu về vấn đề di chuyển, hay những công điện truyền tin hoặc cái sa bàn tập trận hoặc là bất cứ một cái gì có thể nói cho mình biết về âm mưu của chúng. Công tác của anh tới đó là hết… Cũng có thể, nếu cần thiết, nếu không tìm được bằng chứng gì, anh phải tìm cách tóm cổ một thằng Trung Đoàn Trưởng hay tiểu đoàn trưởng đem về đây để khai thác.

        Ngừng một chút cho Huân thấm ý , ông tiếp:

        -Anh nên nhớ, việc tóm cổ một thằng trung đoàn trưởng hay tiểu đoàn trưởng chưa chắc phải là chuyện quan trọng. Bắt được chúng nó đem về đây mà không khai thác được thì cũng thành công cốc. Cái quan trọng là làm sao tìm biết được chúng nó sẽ đánh ở đâu, Ban Mê Thuột hay Pleiku. Anh phải biết cái tầm quan trọng của công tác này. Quan trọng vô cùng. Nếu mình biết được chúng nó đánh đâu, mình có thể dàn quân sẵn để chờ. Nếu chúng nó bị thảm bại thêm một cú nữa vào mùa xuân năm nay, chúng nó sẽ hết xíu quách. Cũng như mùa hè năm 72, chúng nó phải mất cỡ 3 năm nữa mới âm mưu chuyện khác được. 3 năm, biết đâu chính quyền mình sẽ đổi khác, biết đâu lòng người sẽ đổi khác, biết đâu cục diện thế giới sẽ thay đổi, biết đâu dân tộc mình rồi sẽ được ít nhất cũng sống được như nước Đại Hàn. Nhưng, ngược lại, mùa Xuân năm nay, nếu mình mắc mưu chúng để bố trí quân tầm bậy thì hậu quả sẽ không thể nào lường được…
        Ông đại tá ngừng nói ở đó, nhíu mày tư lự. Huân nói đỡ lời:

        -Nếu mình biết nó đánh đâu, mình có đỡ nổi cú này không?

        Cặp mắt đại tá Phùng rạng lên một ánh lửa:

        -Chẳng những đỡ mà mình còn dập chúng nó tan nát ra. 4 sư đoàn vào đây thì mình sẽ nướng hết cả 4.

        Huân thấy vui lây cái niềm vui của ông. Ông tiếp:

        -Vậy thì, anh Huân, sau khi nghe giải thích, anh có thể giúp tôi được không?

        -Xin Đại tá cho biết kế hoạch của chuyến công tác.

        Đại tá Phùng chỉ và mấy điểm trên tấm bản đồ:

        -Như sau đây, và tôi có bàn với ông trung tá Khiếu phòng II rồi… Chiều hôm nay, theo lệnh của ông tướng, tôi sẽ thả xuống mấy toán xuống khu Bù Gia Mập.
        Tôi sẽ cho chúng nó quậy nát một cách thật ồn ào rồi chụp vài thằng tù binh đem về…

        Đại tá Phùng mồi điếu thuốc rồi tự nhiên đổi đề tài, nhìn Huân hỏi:

        -Lôi Hổ xưa nay chuyên môn nhảy Trực Thăng, nhưng anh có bao giờ nghe Lôi Hổ nhảy… xe Lam chưa?

        Huân cười:

        -Trình đại tá là nhảy xe Lam thì lính tôi nhảy hoài, lúc nào về phép hết tiền mà chúng nó chẳng nhảy…

        Đại tá Phùng không để ý đến câu pha trò, ông đưa ngón tay chỉ xuống quận lỵ Đức Lập, một quận lỵ nằm giữa Ban Mê Thuột và Quảng Đức, phía Đông Bắc của mật khu Bù Gia Mập khoảng vài chục cây số:

        -Trong khi mấy toán ban nãy lục soát ở Bù Gia Mập, anh lẳng lặng dẫn toán của anh nhảy… xe Lam xuống chỗ này cho tôi.

        Huân nhìn vị chỉ huy:

        -Nhảy xe Lam? Lúc nãy tôi tưởng đại tá nói đùa.

        -Không đùa! Anh cho cả toán mặc đồ dân sự đón xe lam lên Đức Lập rồi tập trung tại đây cho tôi. Ở đây một một cái rẩy nhỏ có thể chứa các anh được, chi tiết sẽ cho anh biết sau.

        Huân sửa lại thế ngồi, chăm chú theo dõi.

        -Mình phải nhảy xe Lam bởi vì cái tầm quan trọng vô cùng của công tác. Việt cộng xưa nay biết biệt kích nhảy trực thăng, nhảy C-130 nhưng nó chẳng bao giờ ngờ là mình còn biết nhảy… xe Lam nữa. Vì chẳng ngờ cho nên chúng nó mới không đề cao cảnh giác, không chuẩn bị, không đề phòng. Các anh cứ nằm im trong cái rẩy này trong lúc các toán kia lục soát ở gần mé ngoài mật khu. Lúc rút các toán này về, tôi sẽ đình chỉ tất cả mọi hoạt động thám thính, kể cả của Không Quân. Sau khi không nghe thấy trực thăng của mình trong vòng 5 ngày, chúng nó sẽ yên chí lớn. Đó là lúc mà cái tài quyền biến của anh mới được đem ra áp dụng.

        Câu “Cái tài quyền biến” mà ông chỉ huy trưởng dùng làm Huân thích thú mỉm cười. Ông tư lệnh này cũng biết khích tướng đấy chứ.

        -Tại đây, Khi thời tiết tình thế cho phép, anh sẽ nhận được đồ tiếp tế và trang bị rồi xâm nhập bằng đường bộ vào vùng làm việc. Tại đây, anh cứ nằm yên một chỗ để quan sát tất cả những sinh hoạt của chúng nó. Theo sự suy nghĩ của tôi, nếu chúng nó sắp đánh lớn thì thế nào chúng cũng cho tập trận. Anh cứ nằm yên đó quan sát cho đến khi nào nắm vững được vấn đề. Tôi nghĩ, nếu chúng muốn đánh Ban Mê Thuột thì chúng sẽ thiết lập sa bàn. Nếu thấy sa bàn của chúng nó, chụp thật nhiều hình đem về đây cho tôi. Có được những tấm hình đó trong tay, mình có thể giải quyết mối lo trong ruột gan tướng Phú được. Mà anh có chuẩn bị được một chuyến đi dài không?

        Huân đốt điếu thuốc lá đầu tiên kể từ khi bước vào phòng họp:

        -Khoảng 3 tuần lễ?

        -Ừ.

        Đối với Lôi Hổ, 3 tuần lễ là quá dài so với những lần nhảy trung bình từ 3 hay 4 ngày nhưng Huân biết thời gian công tác không phải là một vấn đề có thể mặc cả trong trường hợp này. Chỉ có đồng ý đi hay không thôi. Chàng nhún vai:

        -Cũng phải chịu vậy.

        -Một điểm nữa là mình sẽ áp dụng “Im Lặng Vô Tuyến” tối đa để bảo mật. Mỗi ngày một lần, L-19 sẽ bao vùng cách chỗ anh khoảng… 100 cây số. Từ 8 giờ đến 9 giờ, anh chỉ cần mở máy theo phương thức số 3 của mình. L-19 cũng chẳng biết anh ở đâu nhưng sẽ thông báo tín hiệu về chiến đoàn để chúng tôi theo dõi.
        Huân gật gù cái đầu. Phương thức số 3 của Lôi Hổ là một trong những phương thức tối mật. Đúng vào giờ hẹn trước, thường thì trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ, người ở dưới chỉ mở máy lên đúng tần số, bấm hai cái vào ống liên hợp. Sau đó chờ đúng năm phút lại bấm thêm mấy cái nữa, tùy theo công điện mình muốn chuyển. Sau đó, lại bấm thêm nữa. Người nhận được vô tuyến sẽ giở cái “khóa” âm thoại truyền tin ra để dịch tin theo những cái bấm. Những tin này phát đi rất giới hạn, thường thì chỉ cho biết là tình trạng an toàn hay có những chuyện gì quan trọng xảy ra không. Nếu có chuyện gì quan trọng, người gởi điện sẽ sắp xếp một cuộc nói chuyện trong thời gian kế.

        -Tôi dự đoán là công tác rất nguy hiểm nhưng cũng có thể không. Cực chẳng đã, nếu không tìm thấy gì thì mới bắt cóc người của chúng nó. Tôi muốn cứ để cho chúng nó tưởng rằng mình không biết gì thì tốt hơn bởi vì nếu chúng có nghi ngờ thì chúng sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn.

        -Nếu tôi hoàn thành công tác hoặc nếu nhận được hàng tốt (bắt được tù binh như ý muốn) thì kế hoạch du lu (dọt) sẽ như thế nào?

        -Nếu anh lấy được tài liệu và bằng chứng về cuộc tấn công của chúng hay nếu tóm được giá chót là Tiểu đoàn trưởng của chúng nó thì mình break, gọi L-19 thẳng kêu chuồn chuồn lên bốc anh về. Mười ngày sau kể từ ngày hôm nay, chúng tôi sẽ có sẵn một hợp đoàn và một L-19 để chuẩn bị cho việc này.

        -Còn hàng xấu?

        Đại tá Phùng lắc đầu:

        -Không có vấn đề hàng xấu ở đây đại úy Huân ạ. Nếu anh muốn đi, anh phải tìm được bằng chứng hay đem được hàng tốt về, còn không thì anh có quyền ở nhà. Chuồn chuồn sẽ không lên để chở hàng xấu đâu. Anh biết được vấn đề sinh tử của công tác này mà.

        -Đại tá nói vậy có nghĩa là tôi có quyền chọn lựa để… không đi?

        -Đúng. Như những công tác thông thường thì anh không có quyền nhưng chuyến này rất đặc biệt, rất nguy hiểm và đòi hỏi một thời gian khá lâu nên tôi chỉ muốn chọn những người tình nguyện… Tình nguyện và có khả năng, dĩ nhiên.

        Huân dụi điếu thuốc, đầu óc chìm trong sự suy tư. Ở “hậu phương” thì đào có thai, chưa biết phải giải quyết như thế nào. Công tác sắp phải thi hành thì rặt toàn là những thứ tin mà mình không muốn nghe: Kéo dài 3 tuần lễ, xâm nhập bằng… xe Lam rồi bằng đường bộ, phải lấy được hàng tốt, không tốt thì không về v.v…

        Đại tá Phùng nhìn thấy Huân như vậy bèn đứng lên đi đi lại lại trong phòng như muốn tôn trọng sự suy nghĩ của chàng. Huân đốt một điếu thuốc khác. Tuy đang vận hết sức để suy nghĩ nhưng chàng có suy tư gì nổi đâu? Cứ nghĩ đến Diễm là mấy sợi thần kinh như cứng đơ lại, hết co giãn nổi.

        Đại tá Phùng đã đứng bên Huân, vỗ vai chàng:

        -Anh Huân, anh có muốn tình nguyện đi chuyến này không?

        Ngừng một chút, ông tiếp, dù giọng nói rất là… khó khăn:

        -Tôi lập lại là anh có quyền từ chối. Nhưng anh nên nhớ, ngoài anh ra, tôi không còn thấy ai ở trong chiến đoàn mình có thể làm được việc này.

        Huân vẫn trầm ngâm không nói gì. Trước một cái quyết định quan trọng như vậy thì người ta phải suy nghĩ và đắn đo. Người mà. Mà đã là người thì ai chẳng sợ chết?

        Đại tá Phùng nhìn đồng hồ rồi nói:

        -Tôi phải đi. Những gì cần nói tôi đã nói hết. Buổi họp đến đây coi như chấm dứt. Tôi cho anh suy nghĩ tới sáng mai để quyết định. Nếu anh không muốn đi cũng không sao cả, tôi sẽ tìm một phương cách khác. Còn bây giờ, chúc anh… về nhà vui vẻ.

        Ông đại tá chìa tay ra. Huân đứng lên dơ tay chào rồi bắt tay ông ta. Ông lại nói:

        -Nếu anh quyết định nhận công tác, tôi cần có cái danh sách 5 người đi chung với anh để trên bàn giấy tôi trễ nhất là 800 giờ sáng mai. Tôi sẽ đích thân đi gặp từng người để nói chuyện. À, còn chuyện này nữa, tôi có bảo phòng lương bổng ứng trước cho anh hai tháng lương, lát nữa nhớ ghé lấy về, cũng sắp đến Noel rồi… Thôi, vui vẻ nhé…

        Huân đứng nghiêm chào vị Đại tá. Nhưng ra tới cửa phòng, ông dừng lại, suy nghĩ giây lát rồi cúi đầu bước trở lại, đến gần Huân vỗ vai nói:

        -Anh Huân này, những gì tôi sắp nói không phải là của một Đại tá mà của một người anh em, một người lính nói với một người lính…

        Huân không biết ông muốn nói gì. Đây là lần thứ hai ông vỗ vai Huân, một việc mà ông ít khi làm.

        -Đất nước mình chiến tranh đã gần hai mươi năm rồi. Riêng tôi, đời tôi cũng gần 20 năm quân ngũ. Tôi biết, đứng trên cương vị và với danh dự của một người sĩ quan, mình luôn luôn cảm thấy khó khăn khi phải từ chối một trách nhiệm được giao phó. Nhưng, là một con người, mình có quyền thắc mắc. Cái thắc mắc đơn giản và thường nhất vẫn là: Tại sao lại tôi? Tại sao tôi phải hy sinh? Hy sinh cho ai và để làm gì? Hoặc giả, tôi hy sinh mà không biết có ai hy sinh chung với tôi không?

        Ông ngước mặt nhìn lên cái lá cờ vàng ba sọc đỏ vĩ đại treo ở giữa phòng, nói tiếp:

        -Ai cũng biết chiến tranh là tàn khốc nhưng ai cũng quên một điều quan trọng khác của chiến tranh là sự bất công. Bất công vô cùng. Đừng kiếm đâu xa, anh cứ ra trước cổng trại thì nhìn thấy ngay liền. Tại sao có những thằng sống phè phỡn ăn chơi và làm giàu nhờ cuộc chiến và lại có những thằng sống cực khổ như anh và tôi? Tại sao lúc nãy tôi ngồi đây để thuyết phục anh mà không chịu thuyết phục bao nhiêu người khác hy sinh?

        Ông đại tá nhìn Huân, giọng rất thành thực:

        -Ý tôi muốn nói, là một người chiến hữu, tôi khuyên anh đừng ngại ngùng nếu cần phải từ chối nhiệm vụ. Người ta luôn luôn có những lý do chính đáng để từ chối như vì chuyện gia đình, chuyện vợ con v.v… Mong anh đừng quên những điều ấy.

        Rồi ông cúi đầu bước ra. Bước thật mau như sợ người ta nhìn thấy mình vừa nói chuyện với Huân vậy…

        Xế trưa một chút ngày hôm đó, Diễm đang bán hàng ở tiệm thì giật mình khi nhìn thấy chiếc xe díp của Huân đỗ xịch lại trước cửa. Nàng đã tính ít nhất thì phải ba bốn ngày Huân mới về được. Huân bước vào, đi rất mau, mặt mày nửa rạng rỡ nửa lo buồn.

        -Sao anh về sớm vậy? Không đi công tác hả?

        -Anh được rảnh chiều nay. Em giao cửa hàng lại cho mẹ, đi với anh có được không?

        -Em tưởng anh phải mấy ngày mới về chứ.

        -Chuyện dài lắm, lát anh nói. Anh mới lãnh lương, mình đi bát phố, đi uống cà phê nghe nhạc, đi sắm đồ, đi coi xi nê rồi anh kể cho nghe…

        Diễm thấy lòng mình rộn lên một niềm vui khó tả. Niềm vui của cô học trò nhìn người tình đến chở đi chơi vào một buổi chiều thứ bảy.

        Xong ngay. 15 phút sau, hai người đã ngồi trong quán cà phê Tường Vân. Thành phố Ban Mê Thuột vào tháng 12 thì trời đã lạnh từ lâu. Diễm đẹp sắc sảo trong chiếc áo len tím. Đôi má nàng hồng lên tự nhiên. Hai người cười nói huyên thuyên.

        Từ ngày quen Huân, Diễm nhớ, đã lâu lắm rồi mình chưa có một buổi chiều thơ mộng ấm cúng như chiều hôm nay. Với Huân thì cà phê Ban Mê Thuột pha đậm, uống chung với… khói thuốc lá Capstan, bên cạnh người tình bé bỏng thì chẳng còn gì thú bằng.

        Rồi Huân chở Diễm đi chợ sắm một ít quần áo cho đứa đứa bé. Đi chợ ra đói bụng, hai người ghé vào tiệm tàu ăn mì, rồi chui vào rạp chiếu bóng LoDo xem phim “Tình chàng mãi mãi” của David Lean. Buổi tối, khi Huân dìu Diễm bước trở lên căn gác nhỏ thân thuộc thì chàng đã có quyết định: Ngày mai, chàng sẽ đi.
        Huân chờ cho đến lúc hai người lên giường ngủ, chàng mới nói, cố làm cho giọng mình thật tự nhiên:

        -Diễm ạ, ngày mai anh đi sớm.

        Diễm đã buồn ngủ, mắt ríu lại, rúc đầu vào ngực Huân, hỏi rời rạc:

        -Đi.. công… tác?

        -Ừ.

        -Chừng… nào… về…

        Huân không trả lời liền. Biết Diễm sắp chìm vào sắp ngủ, chàng không muốn phá giấc. Huân vòng tay ôm lấy vai nàng, và chờ đợi. Quả như ý chàng nghĩ, nhịp thở của Diễm trở nên đều hòa rồi nhỏ dần. Một buổi chiều giải trí vui vẻ làm người đàn bà có thai mệt nhoài.

        Huân ngắm người yêu ngủ một lúc rồi nhẹ nhàng đỡ đầu nàng lên gối. Chàng tốc mùng ngồi dậy, ra ngồi nơi chiếc bàn con bật đèn lên, lấy cây bút ra hí hoáy viết vào tập vở học trò:

        Ban Mê Thuột Thứ hai ngày 2 tháng 12 năm 1974,

        Diễm yêu dấu,

        Lúc em đọc những dòng chữ của lá thư này thì anh đang ở một nơi nào đó trên đường đi thi hành công tác. Anh ra đi nhưng để lại lòng anh ở đây. Chuyến đi này khá lâu, khoảng 3 tuần lễ hoặc hơn và không biết anh có về kịp vào lễ Giáng Sinh hay không. Em đừng buồn, đừng trách anh vì sao đi lâu vậy mà không nói cho em biết. Lúc chiều, anh không dám nói vì anh sợ buổi chiều cuối cùng của hai đứa mình sẽ trở nên buồn tẻ. Anh tính chờ khi lên giường rồi nói nhưng nhìn thấy em ngủ ngon lành như một đứa trẻ, anh lại đổi ý vì sợ em lại giật mình lo lắng suốt đêm. Anh đã làm khổ em quá nhiều, cho nên, anh muốn em có được một buổi tối an bình bên anh trước khi anh ra đi. Đừng buồn anh nhé, ráng hiểu cho anh.

        Và đừng khóc, Diễm ạ. Cũng đừng đay nghiến anh, tội nghiệp anh.

        Diễm ạ, lý do anh viết lá thư này vì có một chuyện rất quan trọng anh muốn nói từ khi hai đứa mình mới quen nhau nhưng anh chưa hề dám. Bây giờ, nếu em cho phép, anh xin mượn trang giấy này để giãi bày: Đó là chuyện đời anh…

        Từ hồi còn nhỏ đi học, đọc các bài thơ của các thi sĩ ca ngợi tình yêu, anh thấy tình yêu đẹp thật và thường ngồi mơ mộng hàng giờ. Anh mơ ước sau này lớn lên anh sẽ yêu và sẽ nếm được mùi vị của tình yêu.

        Chuyện đó bình thường quá phải không em, ai lớn lên mà chẳng mơ ước được như vậy? Nhưng để anh kể tiếp…

        Thế mà lớn lên, khi anh bắt đầu biết chải đầu cho láng, biết ủi quần áo cho thẳng để đi học thì lệnh đôn quân, lệnh bắt lính, lệnh gọi nhập ngũ ào ào đổ xuống đầu bọn anh. Bọn anh học ngày học đêm, học phờ cả mặt mày để đuổi theo cái tờ giấy hoãn dịch cứ lơ lửng ở trước mặt vào mỗi dịp bãi trường. Học ở trường ban ngày xong ra lại lọc cọc đạp xe đi học cour thêm, rồi về nhà chong đèn đến khuya để làm bài. Vừa học vừa đập muỗi chí chóe…

        Nhiều đêm, học mệt đừ, nằm vắt tay trên trán, anh cũng không thể tránh khỏi những thèm muốn rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của người con trai ở tuổi mới lớn. Anh thèm xiết bao một bàn tay, một đôi môi, một giọng nói ngọt ngào, một lá thư với dòng chữ mềm mại nghiêng nghiêng… Nếu đất nước mình thanh bình, nếu nhân loại không bị họa Cộng sản, thì những mơ ước ấy thật là đơn giản và dễ dàng, nhưng, với bọn anh lúc đó, những chuyện tự nhiên ấy đã trở thành khó khăn diệu vợi.

        Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy giựt mình. Thật chưa có một thệ hệ tuổi trẻ nào bị thiệt thòi nhiều bằng tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Chẳng ai có một tí thì giờ nào để dành cho tình yêu cả.

        Bọn anh học đến sì khói ra như thế mà cứ mỗi độ hè về thì thấy lớp học cứ vơi đi một cách đáng ngại. Thằng khoác áo đi Thủ Đức, đứa hành trang ra Nha Trang Đồng Đế. Bạn bè anh, có khi từng đứa, có khi từng nhóm một, lẳng lặng lên đường ra đi đáp lời sông núi. Tuy thân thiết nhau lắm nhưng những thằng ở lại không có thì giờ để nghĩ đến những kẻ ra đi. Bọn anh còn hàng trăm thứ khác phải lo nếu không muốn “noi gương” chúng nó vào mùa hè năm sau. Anh nhớ, ngày coi bảng đậu trung học xong thì bọn anh còn nghỉ được một tháng để vi vút nhưng coi bảng Tú Tài I xong thì chẳng có được một ngày nghỉ, phải lo mượn sách Đệ Nhất để gạo và chuẩn bị thi tú tài 2 ngay từ mùa hè năm ấy liền.

        Nhờ cần cù học ngày học đêm, anh lọt qua nhiều cửa ải cho đến năm Đệ Nhất…

        Ôi cuộc đời mình thật có nhiều cái bất ngờ. Năm đó, vào lúc anh tưởng mình là một trong những người may mắn nhất còn lại thì tấm bi kịch của đời anh mới bắt đầu. Em đừng cười. Anh bị gia đình bắt đi… lấy vợ. Chuyện thật là khó tin nhưng nó đã xảy ra ở thế kỷ 20 này.

        Một buổi sáng thứ bảy, ông nội dắt anh đi ăn sáng. Ngồi trong tiệm phở, ông anh đưa cho anh coi một tấm hình của một người con gái… xấu ỉn. Rồi ông bảo hai gia đình đã đồng ý cho bọn anh lấy nhau, ăn xong chở ông đi may quần áo cưới rồi lên nhà đàng gái để hai đứa làm quen nhau.

        Mới đầu, anh tưởng ông nội anh đùa. Anh là con trai, có học thức và lại đang sống ở thế kỷ 20, đâu phải là cô Loan trong Đoạn Tuyệt của thế Kỷ 19? Ông anh lắc đầu bảo chuyện thật đấy, không đùa đâu. Anh phản đối dữ dội. Ông anh chẳng nói chẳng rằng, bỏ đũa đứng lên bảo: “Con cháu bất hiếu như thế thì tao đâm đầu vào xe tao chết đi chứ sống làm gì.” Rồi ông bỏ chạy ra ngoài, cứ đòi đâm đầu vào cái dòng xe cộ đang đi lại như mắc cửi ở đường Trương Minh Giảng. Anh phải can mãi mới được.

        Tối về nhà, anh nói chuyện với bố, bố anh bảo: “Tao cực khổ suốt một đời nuôi mày khôn lớn, mày chưa làm gì đền đáp bây giờ lại cãi tao à? Nhà người ta cũng là chỗ môn đăng hộ đối chứ có phải cùi hủi gì đâu.” Anh bảo: “Con không dám cãi thầy nhưng con còn đang đi học, con chưa nghĩ đến chuyện ấy.” Bố anh lại bảo: “Lấy vợ về học cũng được. Ý tao đã quyết mày đừng có gàn dở.”

        Mãi sau này anh mới biết là anh được “gả” để trừ đi số nợ nhà còn thiếu người ta hồi ở miền Bắc.

        Anh buồn khổ đến sinh bệnh nhưng chẳng tìm được một lối thoát nào cho mình cả. Anh đành phải “vâng lệnh song thân” mà lấy vợ như người ta thường đề trong mấy cái thiệp cưới.

        Lúc đứng làm lễ tế gia tiên, anh dâng hương mà không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt cứ trào ra, anh sụt sùi khóc. (Vợ anh thấy thế liền bắt chước khóc theo, và còn khóc to hơn cả anh nữa.) Anh khấn rằng: “Ông bà tổ tiên linh thiêng về đây chứng giám cho con. Đạo làm trai của người Việt là Trung và Hiếu. Con đã vâng lệnh song thân lấy vợ để làm tròn chữ Hiếu. Lấy vợ xong, con sẽ đi lính để giữ trọn chữ Trung.”

        Tiệc cưới to lớn, ai nấy mặt mày hả hê sung sướng. Riêng anh, anh có cảm giác như bài thơ của đời mình mới làm được hai câu, chưa kịp đọc lại thì bị một bàn tay vô hình nào xé toạc mảnh giấy ấy vất đi. Anh nhìn hai họ vui cười mà mơ ước được vui vẻ như họ. Tàn tiệc, bố anh đến bên anh, vỗ vai anh bảo: “Rồi mày sẽ quen đi con ạ.” Cho đến bây giờ, anh vẫn không thể nào quên được câu nói ấy.

        Rồi anh đi lính. Rồi anh gặp em…

        Mới đầu, gặp em, anh chỉ muốn đùa một tí với em nhưng không ngờ anh yêu em thật. Đây là lần đầu tiên anh khám phá ra sự tuyệt vời của tình yêu. Nhờ tình yêu mà thế giới này tồn tại được, thi sĩ làm thơ được, người thợ mộc đóng bàn ghế được, thầy giáo dạy học được v.v… Anh biết yêu trễ đến hơn 10 năm nhưng anh cảm ơn trời đã cho anh biết được mùi vị của tình yêu. Tuyệt vời lắm. Mỗi lần nhìn em, anh quên hết. Quên chiến tranh, quên hận thù, quên luôn cả tấm bi kịch của đời mình nữa để chỉ nghĩ đến em.

        Diễm yêu dấu,

        Bây giờ là 2 giờ sáng rồi. Anh vừa kể lại chuyện đời mình cho em nghe, không phải để chạy tội, không phải để em thương xót mà để chứng tỏ tấm lòng của. Dù tốt hay dù xấu thì anh cũng là nạn nhân. Anh hiểu trách nhiệm nặng nề của mình đối với em và anh đã có một quyết định dứt khoát: Xong chuyến công tác này trở về, anh sẽ dắt em về nhà nói với bố mẹ anh là anh là đã yêu em, đã có con với em và sẽ ly dị vợ anh để cưới em.

        Em có tin không? Nếu bố mẹ anh không chịu, anh vẫn cưới em như thường. Sau 6 năm ở lính, anh học được một điều quan trọng: Con người ta chỉ sống có một lần, cho nên, đừng để bố mẹ hay bất kỳ ai sống giùm mình cuộc đời mình.

        Thôi, anh dừng bút. Nhớ đừng khóc, đừng buồn và ráng ăn thật nhiều. Anh đi chuyến này là để kiếm một món quà vô giá tặng thành phố Ban Mê Thuột. Anh không tiện nói ra bây giờ nhưng anh sẽ nói khi anh trở về. Và anh sẽ về trước lễ Giáng Sinh. Anh hứa.

        Yêu em,

        Anh…

        * * *

        Thiếu Tướng Phạm Văn Phú gấp tập hồ sơ lại để trên bàn họp rồi đứng lên tiếng gần tới tấm bản đồ sau lưng. Ngồi dài theo hai bên dãy bàn họp trước mặt ông là 4 ông tướng: Tư lệnh phó Quân đoàn, Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 bộ binh, ông tướng Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân và khoảng 25 ông tá, toàn là sĩ quan tham mưu của quân đoàn II. Ai nấy nghiêm trọng nhìn lên chờ nghe tướng Phú.

        Tướng Phú vỗ cây gậy chỉ huy trong tay rồi nói:

        -Cách đây hơn tuần, tôi được thông báo của phòng II quân đoàn là họ phát hiện được một lực lượng khá đông quân số của các sư đoàn 320 và 968 ở phía Tây và phía Nam Pleiku, sư đoàn 10, sư đoàn 316 và sư đoàn 968 chính quy Bắc Việt ở mật khu Bù Gia Mập. Thêm vào đó, còn trung đoàn 3 cao xạ nặng, 1 trung đoàn pháo nặng và 1 trung đoàn xe tăng cũng ở khu Bù Gia Mập.

        Cả phòng họp… nín thở. Nét ưu tư hiện rõ trên từng khuôn mặt của mỗi vị sĩ quan. Tướng Phú liếc nhìn đại tá Phùng rồi tiếp:

        -Để xác nhận tất cả chuyện này, tuần trước, tôi cho Lôi Hổ mình nhảy xuống phía bắc của KonTum và xuống Bù Gia Mập để “tìm hiểu.” Anh em Lôi Hổ đã bắt được nhiều tù binh và đã xác nhận được tất cả chuyện này. Những tin tình báo mới nhất của phòng II cũng tái xác nhận chuyện này, và không ảnh của Không quân cũng xác nhận. Đây là một bất ngờ đối với tôi…

        Tướng Phú ngừng nói và nhăn mặt lại. Rồi ông chỉ cây gậy vào mật khu Bù Gia Mập:

        -Điều khó hiểu hơn cả là tại sao chúng nó lại ở đây?

        Ông lại… nhăn mặt, lắc đầu nói tiếp:

        -Đây là câu hỏi nằm trong gan trong ruột tôi suốt tuần lễ qua. Chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay đánh Quảng Đức? Hay chúng nó không đánh cả hai mà chỉ muốn lừa mình để đánh Pleiku? Nói về sự kiện thì chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột hay Quảng Đức, còn theo sự suy luận của tôi thì Ban Mê Thuột hay Quảng Đức chỉ là diện, còn Pleiku mới là điểm…

        Tướng phú tiến trở lại bàn họp, bỏ cây can lên bàn, ngồi xuống mồi điếu thuốc:

        -Bon. Tôi mời anh em tới đây để thảo luận vấn đề này. Vậy thì, anh em có ý kiến gì, cứ tự nhiên trình bày…

        Chỉ chờ có thế là cả phòng họp có nhiều bàn tay dơ lên xin phát biểu liền. Ai cũng muốn cho tướng Phú thấy cái tài kinh luân của mình. Tướng Phú chỉ từng người một để cho ý kiến. Ai nói sao ông cũng gật đầu nhưng chỉ trả lời rất ít.

        Khoảng một tiếng sau, tướng Phú dơ tay làm dấu cho mọi người im lặng. Ông đứng lên bục gỗ:

        -Cám ơn các anh em đã bàn thảo thật sôi nổi và hào hứng. Bây giờ tôi quyết định như thế này. Trước hết, tôi nhờ Tham mưu trưởng quân đoàn gọi điện thoại cho tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, và tỉnh trưởng Quảng Đức bảo hai ông này ngày mai đem hết sơ đồ cùng kế hoạch phòng thủ mới nhất của tiểu khu mình lên đây gặp tôi. Tôi muốn biết rõ chi tiết từng viên đạn và từng trái mìn, từng vị trí của các đơn vị phòng thủ.

        -Nhận rõ thiếu tướng.

        Tướng Phú chỉ cây gậy vào bản đồ:

        -Anh Thịnh, anh cho một thành phần của thằng 45 (Trung đoàn 45, sư đoàn 23 bộ binh) của anh hành quân lục soát từ chỗ này, phía Nam của Đức Lập về tới phía Bắc của Quảng Đức cho tôi. Đồng thời, cho một thành phần của thằng 53 (Tr/Đ 53/SĐ 23 BB) cũng hành quân lục soát từ Ban Mê Thuột về hướng Nam. Tướng Nhân Không Quân lo đầy đủ trực thăng để vận chuyện hai toán quân này nội trong ngày mai.

        -Nhận rõ Thiếu tướng

        -Nhận rõ.

        -Anh Tài, anh cho thằng 21 Biệt Động của anh di chuyển gấp về án ngữ ở phía Nam Ban Mê Thuột, ngay chỗ này để làm trừ bị cho tụi 23 bộ binh.

        -Nhận rõ…

        -Anh Viễn, về phía Bắc KonTum, anh cho thằng…

        Tướng Phú ra lệnh và chỉ thị một thôi không ngừng nghĩ. Đại tá Phùng nhìn ông Khiếu trao đổi một cái nhìn thỏa mãn. Cuối cùng, ông tướng có vẻ bắt đầu nghĩ tới Ban Mê Thuột rồi. Tuy nhiên, đại tá Phùng biết, ông tướng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Ở địa vị ông, ông phải thận trọng để điều quân đi thăm dò như vậy. Tướng Phú ra lệnh “một phần của trung đoàn” tức là 1 hoặc 2 tiểu đoàn. Phần còn lại ông vẫn còn muốn bố trí để giữ Pleiku. Theo ông, chỉ có Pleiku mới quan trọng thôi, còn ngoài ra đều có thể cứu được hết. Kể cả Ban Mê Thuột, kể cả Quảng Đức. Tuy nhiên, Đại tá Phùng cùng Trung Tá Khiếu đã liệu trước việc này. Hai người sẽ có trưng bằng chứng cho tướng Phú biết về ý đồ của Cộng Sản.

        Và tất cả chuyện quan trọng này đều nằm trong tay một sĩ quan Biệt Kích tài giỏi của ông: Đại Úy Huân. Phải, chỉ có Đại úy Huân mới cứu Ban Mê Thuột được.

        * * *

        Khi chiếc trực thăng chở toán của Huân đáp xuống bãi đậu của Chiến đoàn, chàng chẳng ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy, ngoài đại tá Phùng cùng toàn bộ ban tham mưu của chiến đoàn ra đón còn có cả có cả Thiếu Tướng Khấn, Tư lệnh phò Quân đoàn II và ít nhất là 3 ông Đại tá khác của Quân đoàn. Huân hiểu những gì nằm trong chiếc máy hình và những gì chàng ghi nhận được suốt 20 ngày qua trong mật khu Bù Gia Mập sẽ có một giá trị to lớn mà không ai có thể ước lượng được. Nhưng Huân không có thì giờ để suy nghĩ nhiều. Đầu óc chàng đang bận rộn để chuẩn bị cho bài thuyết trình về chuyến công tác vừa qua của chàng.

        Huân thò tay ra bắt hai người phi công trực thăng rồi nhảy xuống. Đại Tá Phùng dơ tay đáp lễ cái chào của Huân rồi giới thiệu chàng với ông tướng và mấy sĩ quan cấp tá của Quân Đoàn. Huân chào họ và đón nhận những cái bắt tay vồn vã và những cái nhìn thán phục.

        Một tay bắt tay Huân, tay kia nắm lấy vai chàng, Đại tá Phùng nói:

        -Chúc mừng anh. Kết quả sơ khởi mà tôi nghe được rất là khích lệ, lát nữa mình nói nhiều.

        Đại tá Phùng quay nhìn ông tướng Tư Lệnh Phó:

        -Kính mời Thiếu tướng cùng phái đoàn vào Câu Lạc Bộ dùng cơm trưa, chừng nửa tiếng nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng họp Chiến đoàn để thuyết trình cho Thiếu tướng cùng quý vị.

        Phái đoàn ông tướng bước về phía Câu Lạc Bộ. Đại tá Phùng phóng lên chiếc xe díp, Huân leo lên ngồi bên cạnh, ông Trung tá Khiếu cũng leo lên ngồi phía sau. Đại tá Phùng chưa kịp đề máy xe thì Huân đã hỏi liền:

        -Đại tá… cho xin điếu thuốc.

        -À, xin lỗi, tôi quên… Anh giữ nguyên cả gói mà hút.

        Huân nhận gói CAPSTAN còn đầy từ tay người chỉ huy trưởng, kẹp một điếu vào môi rồi chẳng cần khách sáo, thản nhiên bỏ nguyên gói thuốc vào túi áo mình. 20 ngày qua trong rừng rậm, không biết bao nhiêu lần Huân mơ ước chỉ được cầm một điếu thuốc lá trong tay như thế này.

        Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng cái bật lửa. Chiếc xe phóng vút đi. Ông Phùng cố gắng để giữ cho giọng mình được bình tĩnh để hỏi câu hỏi quan trọng nhất của chuyến công tác:

        -Ban Mê Thuột hay Pleiku?

        Huân mỉm cười, chưa thèm trả lời vội. Chàng hít thêm một hơi thuốc lá cho đầy hai buồng phổi, rồi mới đủng đỉnh trả lời qua làn khói:

        -Ban Mê Thuột!

        Đại tá Phùng nghiến răng sang số xe thật mạnh như muốn bộc lộ một sự giận dữ nào đó:

        -Chắc không?

        -Chắc như bắp Đại tá. Không trúng tôi nghĩ ăn lương chính phủ.

        Đại tá Phùng tiếp tục nhăn mặt lại nhưng Trung tá Khiếu lại gật gù cái đầu:

        -Quả đúng y như bọn mình dự đoán.

        Chiếc xe díp thắng lại trước ban II của Chiến đoàn. Một người sĩ quan chạy vội ra như đã chờ đợi sẵn từ lâu. Huân đưa cho anh ta hai cái máy hình và cái túi đựng tài liệu cùng phim ảnh của chuyến công tác. Đại tá Phùng hỏi người sĩ quan:

        -Nửa tiếng xong không?

        Vị sĩ quan gật đầu:

        -Thưa hình thì chúng tôi sẽ rửa được nhưng sẽ còn hơi ướt. Về tài liệu thì chúng tôi chỉ phối kiểm những tin quan trọng trước thôi.

        -Tốt. Hình ướt cũng được. Phần tin tức thì giải trình được bao nhiêu đem hết sang tôi liền.

        Chiếc xe lại lao vút đi. Huân mồi điếu thuốc thứ hai. Ba người sĩ quan bước vào phòng giải trình của Chiến đoàn. Đại tá Huân mở tủ lạnh, khui cho mỗi người một chai bia 33:

        -Ăn mừng. Phải ăn mừng chuyến công tác này mới được.

        Huân ngửa cổ tu một hớp bia. Tiên sư, trên đời sao lại có những thứ thức uống ngon đến như vậy nhỉ? Âu đây cũng là một phần thưởng trời dành cho những người lính như chàng. Ở trong rừng gần một tháng không được uống bia, không được hút thuốc, lúc cầm lại điếu thuốc hay chai bia mới thấy giá trị của nó và mới thấy được làm người, được… uống bia hút thuốc, được hít thở khí trời tự do quả thật là thú. Chàng lắc lắc chai bia trong tay rồi lại đưa lên cao. Lần này Huân uống hết sạch. Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng một chai nữa.

        “Cám ơn Đại tá” Huân nói rồi từ từ tiến tới tấm bản đồ treo trên tường, cầm cây thước trong tay để chuẩn bị phần giải trình nhưng ông Phùng đã gạt đi:

        -Khỏi, cứ ngồi xuống đây, chờ lát nữa sang thuyết trình với ông Tướng anh trình bày cặn kẽ luôn cũng được.

        Xong ngay, đại tá muốn vậy thì đỡ mất thì giờ với phần thủ tục. Ông chiến đoàn trưởng đi thẳng vào vấn đề:

        -Tóm tắt, chuyện gì làm anh quả quyết là chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột?

        -Sa bàn.

        -Sa bàn thành phố Ban Mê Thuột?

        -Đúng. Chỗ chúng tôi nằm là khu tập trung không phải của tụi 316 mà của trung đoàn 95 B.

        Đại tá Phùng nhìn Trung tá Khiếu. Ông Khiếu gật đầu như xác nhận sự xuất hiện đó là đúng.

        -Chúng nó tập trận liên miên cả tuần lễ. Riêng tiểu đoàn gần tôi nhất thì chúng nó thực tập đánh cổng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

        -Sao anh biết đó là cổng trước của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23?

        -Tôi ở Ban Mê Thuột này gần năm rồi. Đường đi vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 có cái cái công viên, bên cạnh công viên là cái nhà thờ Quân Đội… Chúng nó có cả hình dáng cái nhà thờ này. Lát nữa hình rửa xong đại tá sẽ thấy…

        -Về cái sa bàn của thành phố, anh thấy ở đâu?

        -Trong phòng họp của bộ chỉ huy Trung Đoàn. Tôi chụp được hình ảnh đầy đủ, lát nữa đại tá sẽ thấy.

        -Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?

        -Chúng tôi phát giác và nghe lóm được đường dây điện thoại giữa trung đoàn và sư đoàn, tôi có ghi lại nhiều chi tiết. Lát nữa phòng II đưa qua trung tá sẽ thấy…
        Đại tá Phùng thở dài, mồi điếu thuốc. Ông quay sang Trung Tá Khiếu:

        -Anh Khiếu có gì hỏi không?

        -Thưa có!

        -Mời Trung Tá tự nhiên…

        -Trước hết, tôi xin cám ơn và chúc mình anh về chuyến công tác đầy cam go. Chiều nay tôi và đại tá Phùng sẽ tháp tùng tướng Khấn về Pleiku để gặp tướng Phú liền. Thực ra bọn tôi đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, nhưng kẹt một cái là ông tướng Phú… Anh biết, ông Tướng có vẻ không tin tưởng những tin tức tình báo của chúng ta đưa lên lắm… Ngoài những gì anh nói, anh nghĩ anh có tấm hình hay bằng chứng nào để tôi có thể thuyết phục được tướng Phú không?

        Tự nhiên, Huân bỗng nỗi giận. Mình và lính vừa lội vừa nằm gần đúng 20 ngày trong lòng đất địch, sự sống như treo chỉ mành hằng ngày để khám phá ra cái tin tức quý giá này đem về. Nhưng như vậy chưa đủ, ở trên còn muốn mình phải tìm cách chứng mình hay thuyết phục họ. Chuyện đánh Việt Cộng là chuyện của ai nhỉ? Khôi hài thật. Chẳng khác gì một nhà buôn ngọc, sau khi tìm ra viên ngọc quý, không đem bán mà lại đem cho, nhưng trước khi cho người ta còn phải mất công thuyết phục người nhận ngọc đó là viên ngọc thật…

        Chàng nhìn Trung Tá Khiếu:

        -Thưa Trung tá, tôi được giao một bổn phận và đã làm xong, những gì còn lại như vấn đề ở trên có tin hay không không thuộc thẩm quyền của tôi.

        Trung tá Khiếu gật gù cái đầu ra dấu thông cảm.

        Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa rồi vị sĩ quan phòng phim ảnh của Chiến đoàn xuất hiện với một núi hình ảnh trên tay. Mặt mày anh ta vừa hớn hở vừa… tái mét, nhìn đại tá Phùng nói nhưng giọng lạc đi vì xúc động:

        -Tụi mình phải cho vợ con đi khỏi Ban Mê Thuột này càng sớm càng tốt Đại Tá ơi. Em coi mấy tấm hình chụp em muốn lạnh gáy…

        * * *

        Huân và Diễm tối hôm ấy lại trở về ngồi trên chiếc ghế đá công viên của thành phố Ban Mê Thuột. Ngay trên chiếc ghế cũ mà hai người đã ngồi ngày mới quen nhau. Chỉ khác hơn là, lần này họ ngồi sát nhau, cùng nhìn về hướng ánh đèn sao chổi sáng lừng từ cái tháp chuông của Nhà Thờ Quân Đội ở bên kia đường chiếu ra…

        Tự nhiên, Huân hỏi:

        -Em biết nhà thờ đó tên là gì không?

        -Không!

        -Vậy là em thua anh rồi. Đó gọi là nhà thờ Quân Đội.

        -Ừ. Anh đi đạo lúc nào mà rành quá vậy?

        -Không đi nhưng anh biết. Em biết đằng sau ánh đèn sao chổi đó là gì không?

        Diễm co ro vì lạnh, áp người thật chặt vào lưng Huân:

        -Không…

        Huân lại nhớ đến cái sa bàn của Việt Cộng ở trong mật khu Bù Gia Mập. Theo đúng kế hoạch, khu vực này được giao cho trung đoàn 95 B và một đại đội xe tăng. Sau cỡ 5 ngàn trái pháo, chúng nó sẽ đi diễn hành trên quốc lộ mà vào, làm một mũi dùi chính đánh thẳng vào đây để nuốt gọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Huân nhăn mặt:

        -Là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

        Diễm cười rất vô tư:

        -Tưởng chuyện gì, anh thì lúc nào cũng hết Bộ Tư Lệnh rồi đến Bộ Chỉ Huy… Ở bên em anh tạm quên mấy thứ đó đi có được không?

        Huân đốt điếu thuốc lá, lòng se lại khi nghĩ đến vùng đất hiền hòa này sẽ trở thành một bãi chiến trường đẫm máu nay mai. Chàng thấy thương cho Diễm cũng như cho tất cả những người dân của cái thành phố này.

        Diễm cầm tay Huân:

        -Quên chuyện đó đi anh, anh viết thư hay lắm, cứ như văn sĩ.

        Huân cười:

        -Ở gần một người đẹp như em mà không trở thành văn sĩ thì thật là bất lịch sự và ngu xuẩn. Mà này, nói thật đi, sáng hôm ấy em có khóc không?

        -Có.

        -Anh cũng đoán vậy.

        Rồi Huân đứng lên:

        -Em muốn đi bách bộ một lát không?

        -Đi thì đi.

        Hai người đi bên cạnh nhau. Diễm cúi đầu đến bước, quàng hai tay qua tay Huân. Huân thọc hai tay vào túi, cứ ngước mặt lên nhìn cái sao chổi làm bằng mấy trăm cái bóng đèn chạy dài từ trên tháp chuông xuống. Tới cuối công viên, Huân rủ:

        -Mình đi bộ qua nhà thờ chơi..

        -Ý kiến hay!

        Vừa băng qua đường, Huân nghe được tiếng tập hát từ trong nhà thờ vọng ra: “Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa…” Huân hỏi:

        -Mau quá, tối ngày mốt là Noel rồi nhỉ?

        Huân dừng bước trước hang đá Đức Mẹ trước nhà thờ, hỏi Diễm:

        -Em biết cầu kinh không?

        Diễm lắc đầu:

        -Không nhưng trông bà ấy đẹp và hiền hậu ghê nhỉ? Em nghĩ ai đến cầu bà này điều gì bà ấy cũng cho hết. Bả hiền quá.

        -Vậy thì em cầu thử đi.

        -Anh phải cầu với em.

        -Ừ. Nhưng phải bỏ tay anh ra và đứng nghiêm trang lại, chắp lên ngực như cái ông đang đứng đàng trước em kia kìa.

        Hai người chấp tay. Diễm lẩm bẩm mấy lời cầu rồi cúi đầu vái mấy cái. Huân cười, bảo:

        -Đừng có vái, người ta cười. Ở đây em thấy có ai vái đâu?

        Diễm vẫn tiếp tục vái và nói:

        -Ai cười mặc họ, Diễm muốn tỏ lòng tôn kính. Cầu mà không vái thì mất linh đi.

        Hai người đi dạo một vòng rồi trở về công viên. Huân hỏi:

        -Lúc nãy em cầu gì vậy?

        -Cầu cho hai đứa mình được nên duyên vợ chồng. Em lo quá.

        Huân cười:

        -Muốn nên duyên vợ chồng thì em phải cầu cho vợ anh nó… trúng gió chết.

        -Anh chỉ nói bậy. Những gì anh nói trong thư có thật không anh?

        -Thật, thật lắm.

        -Còn anh, lúc nãy anh cầu gì vậy?

        -Cũng cầu như em nhưng anh có thêm một lời cầu đặc biệt…

        Huân bỏ lửng câu nói, đứng lại cầm tay Diễm:

        -Diễm, em nghe cho kỹ đây. Sau Noel, anh muốn em và má dọn hết đồ đạc về Nha Trang ở tạm một thời gian…

        Diễm sững sờ:

        -Sao vậy anh?

        Huân kéo Diễm ngồi xuống ghế, nói thật chậm, thật rõ ràng và thật tha thiết:

        -Những gì anh sắp nói, em phải thề giữ tuyệt đối bí mật.

        -Mà chuyện gì vậy… rồi, em hứa

        -Em có biết chuyến đi công tác 20 ngày vừa rồi của anh không?

        -Sao?

        -Anh biết được một chuyện rất quan trọng. Việt Cộng đã đem 4 sư đoàn vào đây để chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.

        Một cái tin động trời như vậy, cái tin làm cho cả quân đoàn II từ ông tướng Phú xuống đến anh lính hạng bét mất ăn mất ngủ mà với Diễm thì chẳng có nghĩa lý gì. Đánh nhau thì hai bên ngày nào lại chẳng đánh, sao lại lo sợ vậy nhỉ? Giọng Diễm vẫn tỉnh bơ, chẳng có chút gì hốt hoảng hay sợ hãi:

        -4 sư đoàn là nhiều lính không anh?

        Huân lắc đầu chán nản. Hình như lúc trời sinh ra đàn bà, ngài quên nhét vào đó một chút óc nhà binh. Huân kiên nhẫn giải thích:

        -4 sư đoàn là cỡ vài chục ngàn thằng lính bộ đội. Mỗi thằng một cây AK. Khi vào đây rồi, chúng nó sẽ tàn phá, sẽ bắn giết, sẽ cày nát cái thành phố thơ -ộng này ra như cám hoặc trước tết hoặc sau tết.

        Diễm tròn mắt:

        -Anh nói thật?

        À, thế này thì có ép phê rồi. Huân tiếp tục:

        -Chưa bao giờ thật bằng. Em tưởng tượng đi, hai chục ngàn thằng lính vào đây, mỗi thằng chỉ cần bắn một phát thôi thì Ban Mê Thuột cũng đủ tan hoang. Đó là chưa nói tới xe tăng, chưa nói tới đại pháo… Vì vậy cho nên lời cầu đặc biệt của anh lúc nãy là cầu cho Ban Mê Thuột, cầu cho thành phố yêu dấu này. Cầu cho ông tướng Phú được sáng suốt để đỡ trận này. Nhưng quan trọng nhất là em và mẹ phải đi khỏi nơi đây. Đi liền càng sớm cáng tốt. Đang thai nghén như em, ở lại đây không tiện chút nào hết.

        Giọng của Diễm trở nên hơi gay gắt, nhưng Huân chưa để ý đến:

        -Anh muốn em đi. Nhưng còn chuyện thành hôn của hai đứa mình như anh nói trong thư thì thế nào?

        -Mình không còn thì giờ nữa! Nội trong tuần tới, em và má phải thu xếp cho xong đồ đạc và dọn đi liền.

        Nói xong thì Huân đọc ngay được vẻ bất mãn trong đôi mắt Diễm. Hình như đã có chút nước mắt trong đó rồi. Giọng nàng như cố giấu một nỗi chua xót trong lòng:

        -Em thì sao cũng được, nhưng má em chắc không chịu đi đâu…

        Huân nắm tay Diễm:

        -Em phải bắt má đi.

        Diễm hất tay Huân ra, quay nhìn đi nơi khác để che giấu một giọt nước mắt:

        -Má em cứng đầu lắm…

        Huân lại nắm tay Diễm. Diễm lại hất tay chàng ra. Rồi quay lại nhìn Huân, hai hàng nước mắt chảy dài trên má:

        -Anh Huân, nếu anh đổi ý, không muốn cưới Diễm nữa thì cũng được, anh cần gì phải bày vẽ 3 sư đoàn với 4 sư đoàn Việt Cộng làm gì. Chẳng thà anh nói thật đi, Diễm thông cảm anh. Diễm tha thứ cho anh. Dù sao, Diễm cũng chỉ là người đến sau… Diễm biết thân phận mình, Diễm không có quyền…

        Huân tròn cặp mắt lại:

        -Diễm, em nói gì vậy?

        Diễm nghẹn ngào, vừa nói vừa khóc:

        -Diễm nói anh muốn cưới Diễm thì cưới, còn không thì cứ việc đi đi, không ai giữ anh đâu. Làm gì phải đem Việt Cộng vào đây mà dọa nhau…

        Rồi nàng đứng dậy bỏ đi mau như chạy. Huân bước mau theo và thấy cổ họng mình muốn tắt nghẹn. Trời cao có mắt về đây chứng giám cho thằng Huân này.

        Huân bắt kịp Diễm, níu lấy tay nàng. Diễm lại hất ra. Nước mắt tiếp tục chảy đầm đìa trên mặt nàng. Huân khổ sở:

        -Diễm, em phải hiểu. Anh thương em nhất trên đời này.

        -Tôi không cần. Anh về với vợ anh đi. Anh đi đi, và đừng bao giờ trở lại đây gặp tôi nữa. Con tôi, tôi sẽ nuôi được. Nếu tôi đẻ con gái, tôi sẽ cấm nó tuyệt đối không được quen với lính, không được yêu lính, nhất là thứ lính… Lôi Hổ… con cọp bạc tình bạc nghĩa như anh…

        -Diễm, anh năn nỉ em… Em nghĩ lại, lòng anh, em biết…

        -Tôi không cần thứ lòng đó. Anh bảo anh đi công tác 20 ngày. Anh về Sài Gòn với vợ anh 20 ngày chứ công tác gì. Anh sợ trách nhiệm, sợ nuôi con, muốn dứt tình thì cứ nói, việc gì phải đem Việt Cộng vào tận Ban Mê Thuột để dọa mẹ con tôi…

        Huân thấy trời đất quay cuồng chung quanh mình. Chàng đứng sững người lại làm như nếu bước thêm một bước nữa thì sẽ nhào xuống liền tức thì. Rồi đột nhiên, chàng nổi giận. 20 ngày công tác đói rét nguy hiểm trong rừng, một trái tim rướm máu vì tình yêu, một tuổi thơ đầy dẫy bi kịch và chưa hề được yêu, được sống như một người bỗng bùng dậy trong lòng người đại úy Lôi Hổ trẻ tuổi…

        Huân chạy theo nắm lấy tay Diễm kéo lại thật mạnh. Diễm mất đà khựng người lại, cả cánh tay đau nhói lên vì bị cú kéo ngược bất ngờ quá đau. Nàng kêu lên một tiếng kêu đau đớn, loạng choạng mất thăng bằng. Huân đỡ được nàng ngã vào lòng mình. Chàng giữ chặt lấy Diễm.

        Nhìn những giọt nước mắt trên mặt Diễm, lòng Huân lại mềm ra. Diễm dùng hết sức để xô Huân ra và đay nghiến:

        -Anh cứ việc giết tôi đi. Sao anh không giết tôi đi? Anh giết người quen rồi, anh cứ việc giết tôi đi…

        Rồi Diễm khóc lên nức nở. Huân ghì chặt lấy Diễm, lắp bắp:

        -Không, Diễm, anh yêu em, anh yêu em… Em đừng nói thế… anh yêu em… Anh xin lỗi…

        Diễm toan đay nghiến nữa nhưng bỗng im bặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt và trên má chàng. Nàng ngạc nhiên lắm. Không ngờ ông đại úy dày dạn phong sương này cũng khóc được.

        Huân ôm lấy Diễm, tha thiết nói như một người trong tận cùng của sự thống khổ:

        -Diễm, anh yêu em… Anh yêu em… Anh xin lỗi…

        Diễm không trả lời, luồn tay vào tóc Huân, kéo đầu chàng xuống, đặt lên đôi mắt u buồn ướt lệ ấy một cái hôn.

        Nàng biết, biết từ lâu rằng Huân yêu mình thật…

        * * *

        Tướng Phú ngừng nói. Phòng họp Bộ Tham Mưu Quân Đoàn im lặng như tờ. Ông nhìn cả phòng họp một lúc rồi tiếp tục:

        -Như vậy, tất cả những thắc mắc của tôi đã được giải đáp thỏa đáng… Và câu trả lời đã trở nên rõ ràng như ban ngày: Chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột…

        Đến đó, tướng Phú ngừng nói và bỗng bật lên một cơn ho sụ sụ. Lát sau, Tướng Phú lại hỏi khi dứt cơn ho:
        -Có ai thắc mắc gì hay có điểm gì không đồng ý với tôi không…

        Không có tiếng trả lời.

        -Bon, bây giờ tôi có thể an tâm để dồn hết sức lực chuẩn bị cho chiến trường Ban Mê Thuột. Tôi muốn phòng III trình cho tôi một kế hoạch phòng thủ toàn diện thành phố Ban Mê Thuột trong vòng 24 giờ đồng hồ. Kế hoạch các anh em làm, phải trả lời và đi sâu những chi tiết sau đây cho tôi:

        Thứ nhất, mình có cách nào để ngăn chặn cuộc tổng tấn công điên cuồng này trước khi nó bắt đầu hay không? Hãy nghĩ đến lực lượng và những ưu điểm mà mình có trong tay, hoặc bằng Không quân, hoặc bằng bộ binh, hoặc bằng Pháo v.v… Hoặc giả, mình có thể kiếm một cái vùng giao tranh nào khác ngoài Ban Mê Thuột để ép chúng nó nhận làm chiến trường không?

        Thứ hai, nếu không ngăn chặn được, mình phải bố trí lực lượng như thế nào để chuẩn bị đón đánh và tiêu diệt được 4 sư đoàn bộ, 2 trung đoàn địa phương, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn cao xạ nặng, 1 trung đoàn xe tăng và một tiểu đoàn đặc công của chúng. Anh em chớ quên một yếu tố quan trọng là bây giờ lá bài nằm trong tay mình. Mình đã biết đâu là điểm đâu là diện. Yếu tố bất ngờ đã mất, chúng nó đưa vào bao nhiêu thì mình sẽ nướng hết mấy nhiêu.

        Thứ ba, tôi sẽ xin tăng viện từ Sài Gòn, anh em nghiên cứu cho tôi mình bao nhiêu lực lượng. Theo tôi nghĩ, mình phải được tăng cường ít nhất là 4 lữ đoàn Dù hoặc TQLC đang nằm nghỉ mát ở miền Trung. Các lực lượng trừ bị tinh nhuệ này hoặc sẽ làm búa tấn công chúng nó trước, hoặc sẽ làm đe để chận đường rút của chúng. Về Không Quân, tôi sẽ xin tăng cường 2 phi đoàn trực thăng và 2 phi đoàn khu trục. Tướng Nhân lo chỗ ăn ở cho 4 phi đoàn này và trình cho tôi một kế hoạch để sử dụng những lực lượng tăng phái này.

        Thứ tư, quan trọng nhất, Việt cộng đã biết đánh nghi binh suốt mấy tháng qua để dụ mình thì mình cứ để cho nó… dụ. Đại tá Long Công binh cho tăng cường xây thật nhiều công sự phòng thủ ở Kontum, và anh Tài, anh cho 2 liên đoàn Biệt Động của anh cứ tiếp tục hành quân lục soát dữ dội ở phía bắc Dakto để cho chúng nó tưởng rằng nó dụ được mình. Tất cả các lực lượng đang hành quân lục soát ở phía Nam Ban Mê Thuột của Sư Đoàn 23 cho rút về hết để chờ lệnh mới.
        Thứ năm, trong vòng một tuần lễ, các tiểu đoàn Địa Phương Quân của các tiểu khu Pleiku, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận sẽ trở thành lực lượng chính để bảo vệ lãnh thổ mình. Tôi sẽ đưa tất cả quân số của hai sư đoàn 22 và 23 và các liên đoàn Biệt Động Quân lên Ban Mê Thuột để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.

        Thứ sáu, anh Vân cho bí mật thiết lập một bộ chỉ huy tiền phương của Quân Đoàn tại thành phố Ban Mê Thuột cho tôi. Chính tôi sẽ về đó để chỉ huy trận này…
        Tướng Phú dừng lại ở đây một chút, rồi ông tiếp tục, mắt long lên:

        -Mình sẽ thiết lập một lò thịt sống để chờ chúng nó. Mất 20 năm nhưng cuối cùng tôi vẫn trả thù được trận Điện Biên Phủ…

        Ngồi xen lẫn với khoảng chừng 30 ông tá và 4 ông tướng ở phía dưới, mặt mũi Đại tá Phùng cùng Trung tá Khiếu trở nên rạng rỡ. Riêng đại tá Phùng, trong đầu ông vừa nẩy ra một ý nghĩ táo bạo khác. Khi lập kế hoạch, ông sẽ đề nghị tướng Phú cho Lôi Hổ nhảy xuống phía sau khu tập trung quân để hướng dẫn phi cơ oanh kích. Chỉ có Lôi Hổ bám sát chúng nó thì mới oanh kích chính xác được. Và không phải oanh kích ngay bây giờ mà chờ cho đến khi chúng nó sắp sửa tấn công, khi chúng nó tập trung quân số lại mới làm. Một trái bom thả ở giờ phút này có giá trị bằng mười trái bom lúc bình thường…

        Buổi họp hôm ấy chấm dứt vào lúc 7 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1974. Sau buổi họp là buổi dạ tiệc và khiêu vũ Giáng Sinh do Quân Đoàn II khoản đãi. Tất cả mọi người,từ ông tướng Phú cho đến ông đại úy Quận Trưởng, ai nấy đều hả hê vui vẻ. Riêng Tướng Phú thì khỏi nói. Ông không ở lâu trong một nơi ngộp khói thuốc được nhưng chưa bao giờ có ai nhìn thấy ông vui vẻ như vậy kể từ lúc về nắm Quân Đoàn II. Trước khi ra về, ông đến vỗ vai đại tá Phùng:

        -Toa hay lắm, moa cám ơn toa rất nhiều.

        -Thưa Thiếu Tướng, tôi chỉ làm bổn phận.

        -Très bien, xong trận này thì công của toa nhiều nhất đấy. À, đại úy Huân, moa định móc Thiếu Tá cho nó, toa nghĩ thế nào?

        -Trình thiếu tướng, tôi cũng tính đề nghị với thiếu tướng như vậy. Nếu Thiếu tướng móc Thiếu tá cho Đại úy Huân, đề nghị thiếu tướng cho mỗi người trong toán lên một cấp luôn.

        -Coi như xong, moa sẽ nhớ chuyện này. Thôi ở lại chơi vui vẻ… Joyeux Noel…

        -Joyeux Noel Mon Général…

        Đại tá Phùng đứng nghiêm chào. Tướng Phú cùng người sĩ quan tùy viên bước ra khỏi phòng. Cây gây chỉ huy trong tay ông ta đánh lên đánh xuống một cách trẻ trung và vui vẻ…

        * * *

        Sau chuyến công tác thành công, Huân được thưởng một tuần phép vào dịp lễ Giáng Sinh. Trước khi chia tay lên đường đi Pleiku họp với tướng Phú, đại tá Phùng gọi Huân vào văn phòng chúc mừng, vẻ mặt ông hân hoan, phấn khởi:

        -Tướng Phú đã đồng ý với tụi mình rồi. Như vậy là Ban Mê Thuột sẽ giữ được. Công của anh trong vụ này sẽ không nhỏ.

        Huân cũng không giấu được vẻ vui sướng trên nét mặt:

        -Đó là công chung của chiến đoàn chứ đâu phải riêng gì tôi Đại tá. Nhưng nếu trời còn thương nước mình thì Ban Mê Thuột sẽ vững như bàn thạch…

        Đại tá Phùng chợt nhìn Huân đăm đăm. Làm gì mà Huân không nhận ra được ánh mắt này? Chàng cười:

        -Đại tá sắp có công tác mới cho tôi?

        -Anh đeo đại úy mấy năm rồi?

        -Hơn một năm nhưng thực thụ thì mới 6 tháng. Đại tá muốn thay lon cho tôi?

        -Anh… dám đeo lon Thiếu tá không?

        -Tôi nhát lắm nhưng nếu có ai gắn cho mình thì cũng làm gan đeo thử.

        Hai người bật cười lên. Đại tá Phùng lại tiến tới tấm bản đồ, chỉ vào khu Bù Gia Mập:

        -Đi phép về, anh cùng với đại úy Tú trưởng ban III Chiến Đoàn soạn cho tôi một kế hoạch nhảy liên tục, bám thật sát vào chúng nó. Nếu biết được vị trí đóng quân chính xác, Không Quân có thể tiêu diệt gọn một nửa lực lượng của chúng trước khi chúng bắn được một phát súng. Phần còn lại để dành cho bộ binh mình. Ông tướng Phú đang nấu sẵn một cái chảo nước sôi lớn để chờ chúng nó vào. Mình sẽ luộc sống không còn một mạng.

        Huân gật đầu phấn khởi:

        -Coi như xong đại tá, nghề của bọn tôi mà.

        -Tốt. Bây giờ, anh về nghỉ Noel cho vui vẻ… Có lẽ tôi sẽ bị kẹt khoảng 1 tuần lễ ở Pleiku để thiết lập kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột, khi anh hết phép trở về chắc tôi cũng về tới, vào văn phòng gặp tôi để nhận chỉ thị liền. Mình không có nhiều thì giờ.

        Huân gật gù cái đầu.

        -Anh ráng lợi dụng kỳ phép này để dưỡng sức vì khi trở lại, chúng mình sẽ có rất nhiều việc để làm. Cho đến khi nào dập xong tụi nó, mình ngủ chưa nhắm mắt được.

        -Tôi hiểu Đại tá!

        Đại tá Phùng lờ luôn cái vụ thay lon và Huân cũng chẳng muốn nhắc đến. Không phải Huân… chê cái bông mai bạc nhưng đầu óc chàng lúc ấy đang bị xâm chiếm bởi một chuyện quan trọng hơn: Làm thế nào để bám sát chúng nó và chỉ điểm chính xác cho Không quân tiêu diệt. Tiêu diệt trước khi chúng mò được tới Ban Mê Thuột…

        Một tuần lễ phép nhân ngày Giáng Sinh trôi qua êm ả. Huân và Diễm sống với nhau những ngày thật đầm ấm, hạnh phúc. Cuối cùng thì chàng cũng thuyết phục được Diễm rời khỏi Ban Mê Thuột sau lễ Giáng Sinh để tránh cuộc binh đao sắp sửa xảy ra. Diễm chịu đi nhưng mẹ nàng nhất định ở lại. Diễm có nhiều bạn bè ở Nha Trang nên việc “tị nạn” cũng coi như một cuộc nghỉ mát nhỏ…

        Sáng hôm hết phép, Huân lái xe díp vào trại. Diễm ở nhà lo sắp xếp và dọn dẹp đồ đạc. Hai người sẽ sống với nhau một đêm cuối cùng trước khi Huân đưa Diễm lên trực thăng về Nha Trang.

        Buổi sáng, Diễm về ở nhà với mẹ nàng. Mẹ đưa cho Diễm mấy lượng vàng để phòng thân. Buổi chiều, Diễm về nhà tiếp tục lo thu dọn đồ đạc…

        3 giờ chiều, Diễm vừa nhét xong bức hình của Huân vào vali thì có tiếng xe thắng gấp ngoài cửa. Diễm ngạc nhiên nhìn ra và thấy Huân cùng một người sĩ quan Lôi Hổ khác từ trên xe bước xuống…

        Nhìn hai người, Diễm ngạc nhiên đến độ sợ hãi vì nàng chưa bao giờ thấy Huân hung dữ như vậy. Cả người bạn chàng cũng vậy. Mắt chàng ngầu đỏ, tóc tai rối bù.

        Như thường lệ, Diễm đứng trên gác nhìn xuống, mỉm cười và vẫy tay chào nhưng Huân nhìn thấy mà không thèm đáp lễ. Diễm mơ hồ đoán ra rằng người yêu mình đang bị một chuyện gì bực mình lắm…

        Lúc hai người xuống xe bước vào thì có con mèo đen phóng lên chiếc xe díp ngồi. Con mèo này vẫn đến như thường lệ nhưng không hiểu sao hôm nay Huân lại thấy ngứa mắt. Chàng nhìn thấy thì liền đứng lại, chửi thề, bảo:

        -Đù mẹ cái giống mèo đen này thật là xúi quẩy, không bắn mày thì để làm gì?

        Huân quay lui. Nhanh như cắt, một tay chàng chụp cổ con mèo đưa lên cao, tay kia móc cây Colt .45 trong bụng ra kê vào giữa hai con mắt xanh lè của con vật bóp cò oành một phát. Máu óc và sọ con mèo đen bay tuốt lên cao rồi rớt lả tả xuống đường.

        Từ trên lầu, Diễm rú lên một tiếng thảm thiết…

        Hai ba người hàng xóm nghe tiếng súng nổ, bung cửa chạy ra. Một trong những người đó là một gã cảnh sát, mặt mày coi khó chịu thấy rõ. Gã đang mặc áo thun liền quay trở vào khoác chiếc áo cảnh sát vào rồi hùng hổ xông ra, tay chỉ, miệng nói:

        -Anh… Đại úy kia, sao lại nổ súng bừa bãi thế? Anh tưởng đây là đâu? Tôi phải gọi Quân Cảnh mới được…

        Người bạn của Huân rít lên một tiếng, toan xông tới nhưng Huân làm dấu cản hắn lại. Chàng xoay người đưa mắt nhìn người cảnh sát.

        Cái nhìn của một ông Đại Úy Lôi Hổ, một tay còn cầm con mèo đen máu nhỏ từng giọt, tay kia còn thủ cây Colt .45 quả có thần lực đặc biệt. Chỉ một cái nhìn đơn giản vậy thôi mà gã cảnh sát đã mất hết hồn vía, mặt mày tái mét.

        Dưới cặp mắt thất thần của gã, chàng lù lù tiến tới phía gã, chẳng nói chẳng rằng. Gã cảnh sát lúc ấy mới biết mình vừa hơi… quá lời, đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn Huân như chờ đợi hình phạt sắp đổ xuống đầu mình.

        Cũng chẳng thèm nói năng, Huân nhét con mèo đẫm máu vào tay gã ta rồi đứng yên… nhìn. Gã kia sợ quá, không nói năng gì được, mặt méo đi thảm hại. Huân đưa nguyên cái bàn tay còn dính đầy máu mèo chùi vào ngực gã, rồi quẹt mấy cái lên mặt:

        -Tập ăn thịt mèo cho quen đi là vừa, mai mốt Việt Cộng nó vào đây thì cả thành phố này phải ăn thịt mèo.

        Rồi Huân quay gót, nhét cây súng vào bụng mình, bình thản tới chỗ rô bi nê rửa tay.

        Huân mở cửa phòng bước vào. Diễm đứng nhìn sững Huân và không biết phải nói gì. Từ ngày quen nhau, nàng chưa bao giờ nhìn thấy Huân hung dữ như vậy.
        Nhưng nhìn ánh mắt ngầu đỏ đầy uất hận của hai người sĩ quan trẻ, Diễm biết họ vừa gặp phải một chuyện gì rất bực mình hay đau đớn.

        Huân chỉ nhìn Diễm chứ không cười, không chạy đến hôn nàng như mọi lần:

        -Đây là Tú, bạn anh.

        -Xin chào chị.

        -Không dám, chào anh.

        Rồi hai người ngồi xuống bàn. Đại úy Tú lấy chai Martel cầm theo ra, mở nắp. Huân lật ngửa hai cái ly.

        Hai người lính trẻ uống rượu trong im lặng, bốn con mắt ngầu đỏ, bắn ra những tia lửa tuyệt vọng và uất hận. Hết ly này đến ly kia, không ai nói với ai một lời nào.

        Diễm ngồi nhìn hai người một lúc, đứng lên bảo “Để em đi mua khô mực” rồi bỏ xuống nhà. Huân không thèm nói năng gì. Nàng xin lỗi người cảnh sát lúc nãy rồi ra đầu hẻm mua mấy con khô, một ít nước đá.

        Lúc Diễm trở về thì chai rượu đã gần cạn. Diễm nướng mấy con khô mực. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra. Nàng đưa vạt áo lên chùi nước mắt rồi bảo “Khói quá”.

        Diễm lấy cán dao đập mấy con khô rồi bỏ vào đĩa, để trên bàn. Lúc ấy Huân mới chịu mở miệng, nhìn nàng:

        -Em ngồi đây, anh có chuyện muốn nói.

        Nhà chỉ có hai cái ghế, Diễm đành ngồi trên giường.

        -Ngày mai em đi?

        -Vâng.

        -Em có quen ai ở Sài Gòn không?

        -Có, bên nội. Sao anh hỏi vậy?

        Huân thở dài:

        -Anh nghĩ em về Nha Trang rồi phải tìm đường về Sài Gòn luôn.

        Diễm hốt hoảng:

        -Sao vậy anh?

        Huân lắc đầu, nói như khóc:

        -Ông tướng Phú hủy bỏ kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột rồi. Vậy là xong. Thành phố này sẽ chìm trong cơn Đại Hồng Thủy của máu lửa và bom đạn. Ban Mê Thuột sẽ chẳng bao giờ còn như xưa nữa.

        -Nhưng tại sao lại hủy bỏ? Hủy bỏ hồi nào?

        Huân lắc đầu tính không nói nhưng không hiểu sao lại trả lời:

        -Hai ngày sau Noel… Một phái đoàn của dinh Độc Lập gồm báo chí và chuyên viên tình báo Mỹ của DOA lên Pleiku thăm ông Phú. Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, “cố vấn đặc biệt” của Tổng Thống và các “thiên tài tình báo” Mỹ thuyết phục được tướng Phú là Việt cộng sẽ không đánh Ban Mê Thuột mà đánh Pleiku…

        Rồi Huân lại lắc đầu, nâng ly rượu lên uống cạn. Tú rót thêm rượu vào ly. Diễm còn muốn hỏi nữa nhưng hình như Huân không còn muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Chàng bảo:

        -Em phải về Sài Gòn. Nếu mẹ không đi thì em về một mình. Đây là cái địa chỉ nhà anh, em nhớ lấy.

        Diễm đứng dậy tới sát bên Huân:

        -Còn anh thì sao?

        -Nếu trời còn thương, mình sẽ gặp nhau…

        Diễm gào lên, đau đớn:

        -Anh nói vậy nghĩa là sao?

        -Đừng bắt anh nói gì nữa Diễm ạ. Anh cũng chẳng hứa hẹn được gì. Đừng quên một điều quan trọng là anh là một người lính. Anh còn có bổn phận của anh.

        Diễm thẫn thờ, đứng nghệt mặt ra. Hạnh phúc mới vừa đó mà đã bay vút đi. Huân đưa tay nắm tay Diễm, vuốt ve gò bàn tay, cúi đầu xuống. Giọng chàng thật mềm mại và thật ấm:

        -Anh chỉ nói được một điều trong lúc này là anh yêu em, anh sẽ yêu em mãi mãi…

        Kể từ khi quen nhau, Diễm chưa bao giờ thấy mình thật gần Huân mà lại thật xa Huân như lúc này. Nàng mơ hồ mường tượng ra rằng, chia tay lần này, chắc sẽ không còn bao giờ còn gặp nhau nữa. Diễm nhẹ nhàng rút tay ra khỏi tay Huân, gạt nước mắt rồi bỏ ra ngoài ban công đứng nhìn xuống đường. Huân nhìn theo, cặp mắt như ngây dại. Chàng lắc đầu, nghĩ thầm rằng trời sinh mình ra để bị đàn bà làm khổ và làm khổ đàn bà. Ai gặp mình rồi cũng khổ cả, dù có tình yêu hay không.

        Huân quay mặt lại, mồi lửa một điếu thuốc, nói với Tú:

        -Thôi uống đi mày! Phần số nước mình nó như vậy rồi, có lo lắng cũng chẳng làm được gì. Bọn mình phải chuẩn bị để chết. Nhưng dù có chết đi nữa thì mình cũng tự an ủi được một điều là mình đã làm hết bổn phận mình… Xuống dưới suối vàng, thằng nào lạng quạng mình… đá thấy mẹ.

        Nụ cười nở nhạt trên môi Tú rồi tắt đi ngay. Chàng nâng ly nhưng lại bỏ xuống, cất giọng buồn buồn hỏi:

        -Mày nhớ bọn thằng Thành thằng Xú không?

        -Nhớ, chết trận An Lộc. Sao mày hỏi vậy?

        -Không ngờ rằng rốt cục, tụi nó chết trước mà lại sướng hơn mình. Chúng nó còn được thiên hạ lập mộ chí và được nhân dân miền Nam nhớ đến qua hai câu thơ:

        “An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích, Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân”… Riêng bọn mình, sau trận Ban Mê Thuột này thì chỉ mong mỗi đứa có được một nấm mộ cho đỡ tủi thân mà thôi…

        -Nhằm nhò gì, chết là hết. Uống đi mày, “Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi…”


        Trường Sơn Lê Xuân Nhị
        nguồn:
        https://lengoctuyhuong.wordpress.com...le-xuan-nhị/

        Comment


        • Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt

          Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt
          Kỵ Binh Vũ Đình Lưu

          Lời giới thiệu của KB NgụySaigon:

          Trong Bản Tường Trình của Thiếu Tướng John Muray , Trưởng văn phòng Tùy Viên Quân Sự, Tòa Đại sứ Mỹ cho biết: Vào lúc cao điểm của cuộc chiến Quân Đội Mỹ và Đồng Minh có 433 Tiểu Đoàn và Quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược (CSBVXL) có 180 Tiểu Đoàn. Năm 1974, Khi Quân Đội Mỹ rút quân về nước thì QLVNCH có 189 Tiểu Đoàn. Quân số CSBVXL tăng lên 330 Tiểu Đoàn. QLVNCH không còn được Hoa Kỳ yểm trợ Hải Pháo, Không Quân chiến lược B52 và KQ chiến thuật F4. Quân viện bị cắt giảm chỉ bằng 2% tổng số kinh phí đã sử dụng cho Quân Đội Mỹ. Thượng Đế dĩ nhiên nghiêng về phe có nhiều Tiểu đoàn hơn. Thượng Đế đã mĩm cười với quân CSBVXL. Biết được điểm yếu của QLVNCH cho nên sau khi thất bại thê thảm tại đồn Biên Phòng Đức Huệ, Sư đoàn 5 CSBVXL đã bị Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh/LLXKQDIII đánh tan chỉ trong một ngày, vào tháng 5 năm 1974 Quân CSBVXL đã đồng loạt tấn công và tràn ngập 2 tiền đồn Rạch Bắp, Căn cứ 82 và sau đó tấn chiếm An Điền tại khu Tam Giác Sắt.Đây là một trận chiến lớn trong lảnh thổ Quân Đoàn III. Trước tình hình quân viện bị cắt giảm thảm thiết, QLVNCH đã mất đi ưu thế di động và hỏa lực yểm trợ dồi dào. Các đơn vị Tổng trừ bị bị cầm chân trong thế diện địa.

          Trong hội nghị Diên Hồng khi được hỏi “Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh”. Các bô lảo đồng thanh trả lời “Hy Sinh“. Gần 800 năm sau, không có Hội nghị Diên Hồng, không có cả câu hỏi năm xưa. Nhưng người lính chiến QLVNCH đã thể hiện lòng dũng cảm , tinh thần bất khuất và sự Hy Sinh vô bờ bến đã chiến đấu trong thế cùng lực tận để Bảo Quốc An Dân.

          Đọc bài viết “Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt , tác giả Đại úy Vũ Đình Lưu, con chiến mã đầu đàn của Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ lừng danh sông núi để ngậm ngùi, để tưởng nhớ, để vinh danh những Kỵ Binh Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã Hy Sinh thân mình cho Tổ Quốc Việt Nam. Xin đốt một nén nhang để tưởng niệm hai người bạn thân: Kiến trúc sư Thiếu úy Công Binh Vũ Văn Dũng , và Thiếu úy Kỵ Binh Nguyễn Trung Đồng Dinh đã đền xong nợ nước tại mặt trận An Điền năm xưa.

          Cuộc chiến năm xưa dù đã qua đi nhưng tinh thần chiến đấu dũng mảnh và sự Hy Sinh cao cả của những chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất diệt. Tổ Quốc Ghi Ơn.



          Hình minh họa

          Lời nhận xét của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi:

          Trong trận An Điền-Rạch Bắp chống lại SĐ9CSBV, vì địa thế chiến trường không thuận lợi đối với Thiết Giáp, nên QĐ3 sử dụng trong giai đoạn đầu SĐ18BB tiến chiếm An Điền. Trong giai đoạn 2, sử dụng SĐ5BB tái chiếm Rạch Bắp. Trong cả 2 giai đoạn, LĐ3KB chủ yếu dùng hỏa lực yểm trợ (PB 105 + 155 của LĐ và M48). Chiếc T54 mà Tr.Đ52/SĐ18 kéo về (chiến lợi phẩm) là do hỏa lực của đại bác M48A3 bắn hạ.

          Bài viết của Đại úy Vũ Đình Lưu khá chính xác nhưng chỉ trong phạm vi của SĐ18. Về sau phải đến cuối tháng 8/74 SĐ5 mới thanh toán xong Rạch Bắp. SĐ9CSBV bị tổn thất rất lớn.


          “Vó câu muôn dặm không sờn chí,
          Xích sắt nghìn miles chẳng sợ mòn”

          Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã xua Chiến xa tiến gần Thủ Đô Sài Gòn nhất. Chúng dùng Chiến xa cùng Bộ Binh với trọng pháo tầm xa yểm trợ tiến chiếm xã Phú Thứ (Quận Phú cường,Tỉnh Bình Dương). Một địa danh cực Nam của vùng mà Cộng Quân gọi là Vùng Tam Giác Sắt cách Sài Gòn 30 Km về hướng BắcTây Bắc vào thời điểm giữa tháng 5 năm 1974.



          Hình minh họa

          Tam giác Sắt, vùng đất hình tam giác nhọn nằm về hướng Tây của Bến Cát. Một địa danh nổi tiếng với rừng cây rộng lớn khoảng 80 cây số vuông, Cộng Quân gọi là vùng bất khả xâm phạm vì nơi đây là căn cứ hậu cần của chúng tại miền Đông Nam Phần. Nhìn vào bản đồ vùng Tam Giác Sắt tựa như đầu một mũi tên sắt nhắm thẳng vào tim của miền Nam Việt Nam.

          Vì tầm mức quan trọng chiến lược của vùng Tam Giác Sắt; năm 1967, Liên quân Việt Mỹ đã huy động một lực lượng hùng hậu gồm Sư Đoàn 5 BB, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm của Quân Đoàn 3 và một phần lực luợng Tổng Trừ Bị tăng phái. Lực luợng Hoa Kỳ có Sư Đoàn 1và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Lữ Đoàn 173 Dù và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh. Lực lượng Việt Mỹ đã đánh tan căn cứ hậu cần nầy của CQ sau 17 ngày đêm hành quân tiêu diệt.

          Năm 1974, một năm đẫm máu tại vùng Tam Giác Sắt. Không có cuộc hành quân hay chiến dịch nào lâu dài hơn, dữ dằn hơn hay tổn thất hơn là trận đánh vùng Tam Giác Sắt. Tại đây, một vùng tương đối bằng phẳng, cầy nát bởi vô số bom đạn, soi thủng bằng một hệ thống đường hầm chằng chịt. Loang lỗ bởi những vết thẹo của trăm, ngàn cuộc đụng độ lớn nhỏ đã diễn ra khắp cùng mọi nơi của khu rừng An Sơn dày đặc bụi rậm, cây gai suốt 20 năm qua.


          Phóng Đồ Hành Quân Tái Chiếm An Điền – Rạch Bắp Tháng 6 Năm 1974

          Nếu chiếm được vùng này, Cộng quân sẽ đặt Khu Quân Sự Tân Sơn Nhất và các vị trí phòng thủ của QLVNCH tại Phú Cường, Củ Chi, Lai Khê trong tầm đạn của đại pháo.

          Quận Bến Cát nằm về phía Đông Mật khu Tam Giác Sắt, cách Biên Hòa 35 Km hướng Bắc Tây Bắc. Một Thị trấn nhỏ nằm cạnh Quốc lộ 13, bao lâu nay đồng bào được sống yên bình, sinh hoạt bán buôn thịnh vượng.

          Ngày 16 tháng 5, hai Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 Bắc Việt cùng Chiến xa với trọng pháo yểm trợ chiếm Rạch Bắp ( là căn cứ cuối cùng của QLVNCH trấn giữ mạn Bắc của vùng Tam Giác Sắt ) và tràn ngập Căn Cứ 82 cách xã An Điền 4 km về hướng Tây. Sau đó, ng ày 17 th áng 5, gần năm ngàn thường dân An Điền, Bến Cát lũ lược tháo chạy từ bỏ làng xã,Thị Trấn, khi CSBV dùng đại pháo và Súng cối xua đuổi tàn bạo. Tiếp theo Trung Đoàn 95C Cộng Quân tấn chiếm xã An Điền. Trung Đoàn 272 đâm thẳng xuống phía Nam chiếm Phú Thứ để tiến về Phú Cường nhưng QLVNCH đã chận đứng bước tiến tại đây.

          Xã An Điền, nằm về phía Tây Thị trấn Bến Cát một cây số rưỡi nối liền bằng một con đường độc đạo đất đỏ là Hương lộ 7, với chiếc cầu sắt yếu ớt bắc qua sông Thị Tính hiền hoà, nước trong vắt. Chung quanh xã, từ hướng Bắc qua Đông xuống mạn Nam là ruộng lúa, sình lầy. Đây là địa danh cực Đông của vùng Tam Giác Sắt.

          Tướng Phạm Quốc Thuần Tư Lệnh Quân Đoàn 3 dàn Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra nhiều cánh quân phản công tái chiếm các vị trí đã mất. Sự phản công khởi sự khoảng ngày 22 tháng 5. Các Chiến Đoàn Thiết Kỵ của Lữ Đoàn 3 Xung kích( LĐ3XK) tham chiến. Chiến Đoàn 322 gồm Thiết Đoàn 22 Chiến xa và Tiểu Đoàn 2/43 Bộ Binh tấn công từ hướng Nam lên đồi 82 và Rạch Bắp. Chiến Đoàn 318 tiến công từ Bến Cát vào An Điền. Cùng một lúc 3 Tiểu Đoàn của Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân từ hướng Bắc tấn công xuống Căn cứ 82. Tất cả mọi nỗ lực tái chiếm đều không đem lại kết quả và bị tổn thất nặng nề. Đại tá Dư Ngọc Thanh Tư Lệnh phó L Đ3XK bị thương hư một mắt tại khu vực chiếc cầu phao đuợc Công Binh can đảm bắc qua sông Thị Tính dưới đạn pháo của địch quân. Chiếc cầu phao chiều dài khoảng 50 mét dùng cho Chiến xa xử dụng vì chiếc cầu sắt Thị Tính không chịu nổi sức nặng của Chiến xa. Bốn ngày sau tức ngày 26 tháng 5 Tướng Thuần quyết định thu quân đề chuẩn bị cho một kế hoạch mới.

          Tại Bộ Tư Lệnh Tiền phương của Sư Đoàn 18 Bộ Binh cạnh Quốc Lộ 13 cách Bến Cát chừng 5 Km về hướng Nam. Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Lê Minh Đảo,Trung tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 Bộ Binh ( TR/Đ52BB ) các Tiểu ĐoànTrưởng Bộ Binh, Pháo Binh cùng Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ ( CĐ2/5 TK ) nhận lệnh tấn công tái chiếm An Điền. Và từ đây làm bàn đạp cho các đơn vị QLCVCH tái chiếm Căn Cứ 82, Rạch Bắp.

          Trên Quốc Lộ 13 từ hướng Nam, CĐ2/5 TK cộng một Chi Đội Chiến xa M41cùng Đại Đội 52 Trinh Sát ( ĐĐ52/TS ) tùng thiết di chuyển trong đêm tối. Đoàn Thiết Kỵ chỉ được mở đèn “ mắt mèo” và im lặng vô tuyến. Theo sau là đoàn xe GMC chở Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh ( TĐ1/52BB ) tiến vào Thị Trấn Bến Cát lúc 5 giờ sáng ngày 1 tháng 6 năm 1974.

          Thị Trấn Bến Cát nhỏ bé, trong thời gian này càng thấy bé bỏng hơn vì không còn sự sinh hoạt nào của dân chúng, một Thị Trấn chết, quá vắng lặng. Không còn ánh sáng đèn điện nào, đây đó một vài đám cháy do đạn pháo kích của CSBV ngày hôm qua.Trên không trung những hỏa châu treo lơ lửng rọi ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống thành phố. Nhà nhà cửa đóng then gài. Đây đó gặp những toán Biệt Động quân (BĐQ) tuần canh trong thành phố. Chúng tôi tiến xuyên qua thành phố và hướng đến bờ sông Thị Tính. Trong lúc di chuyển thỉnh thoảng vài trái đạn pháo kích rơi rải rác khắp nơi vì bọn chúng biết có một lực lượng mới đến đây. Trấn giữ thành phố là một Đại Đội BĐQ, còn Tiểu Đoàn BĐQ (-) trấn giữ mạn Bắc. Chi Khu Bến Cát phụ trách phòng thủ mạn Nam của Thị Trấn.

          CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52 TS (cánh quân 1) tiến sát bên này chiếc cầu phao. Đơn vị bố trí sát nhà máy xay lúa rất lớn đã bị hư hại vì đạn pháo của CSBV . TĐ1/52 BB ( cánh quân 2 ) dàn quân hai bên trái phải của Chi Đoàn, dọc theo bờ sông Thị Tính. Trục tấn công chính diện từ Bến Cát vào An Điền lấy con đường độc đạo làm chuẩn.

          Theo kế hoạch, hai Tiểu Đoàn 2/52BB và 3/52BB ( cánh quân3 ) sẽ đánh từ hướng Nam lên Bắc để cùng cánh quân 1 và 2 tái chiếm xã An Điền.
          Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 6 -1974, ba cánh quân của Chiến Đoàn 52 bắt đầu vượt tuyến xuất phát tấn công vào An Điền cửa ngỏ vào mật khu Tam Giác Sắt.

          Tôi điều Chi Đội 4 Chiến xa M41vượt cầu phao, kế tiếp là xe Chỉ huy, và lần lược các Chi Đội Thiết Kỵ theo sau. Đơn vị di chuyển hàng dọc vì chỉ có1con đường duy nhất để vào An Điền. Hai bên con lộ đất đỏ nhỏ bé là ruộng lúa, nước và sình lầy. Một địa thế hoàn toàn bất lợi cho Thiết Giáp, mặc dù là loại xe M113 cũng không thể nào vượt qua được cánh đồng bề ngang một cây số này. Bất lợi hơn nữa là xữ dụng đội hình Chi Đoàn hàng dọc để trực diện tấn công mục tiêu khá rộng lớn.

          Áp dụng chiến thắng cuộc tấn công giải tỏa tiền đồn cấp Đại Đội Địa Phương Quân bị 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn Bình Giả bao vây tại Xà Bang, Bình Giả tháng 3 năm 1973. Tướng quân Lê Minh Đảo và Đ/tá Trần Bá Thành đã dùng Tiều Đoàn 2/48 ( Th/tá Phúc ) của TR/Đ 48 BB cùng CĐ2/5 TK tấn công vũ bão chiếm mục tiêu thật nhanh chóng. Thà có thể bị thiệt hại vào giờ phút đầu, nhưng về sau thì bảo toàn nhân mạng. Không thể tấn công nửa vời vì trên trục tiến quân Cộng Quân bao giờ cũng đặt chốt kiền và trận địa pháo. Sau khi chọc thủng cụm phòng tuyến ngoại vi sẽ bung rộng đội hình đánh mục tiêu kế tiếp.Chúng tôi áp dụng phương thức tấn công này.

          Ba chiếc M41cùng với ĐĐ52/TS tiến quân 2 bên trái phải con lộ, đã qua bên kia sông, cách cầu phao khoảng 500 mét. LLCSBV bắt đầu pháo vào đoàn quân bằng Súng cối 82 ly. Chi Đội Chiến xa nới rộng khoảng cách và tiếp tục tiến tới nhanh chóng cùng chiến sĩ Trinh Sát. Tôi thấy chiếc Chiến xa M41 dẫn đầu khựng lại một cách bất thường, và nhận báo cáo của trưởng xa là gặp một chiếc cống sập bề dài bằng CX M41, khá sâu, không thể băng qua được. Tôi gọi lên Chiến Đoàn để báo cáo. Tiếp liền theo Chiến xa T54 từ An Điền khai hỏa nhắm vào đội hình Chi Đoàn. Từng cục lửa đỏ hực liên tiếp bay đến với tiếng rít rợn người của đạn Đại bác 100 ly trên Chiến xa T54. Tôi liền cho lệnh Đại bác 76 ly trên CX M41tác xạ, dựa vào điểm lóe sáng khởi đầu của Đại bác trên T54. Thật tình nói rằng tác xạ để anh em binh sĩ lên tinh thần chứ không thấy được chiếc T54 nào vì chúng nằm dưới hầm và nguỵ trang. Hơn nữa bên An Điền mịt mù khói lửa bởi hàng trăm quả đạn đại bác 105 ly,155ly của các Pháo Đội đang trút xuống hầu đè bẹp mục tiêu.


          Hình minh họa

          Ngoài bìa làng có nhiều chốt của chúng sát cánh đồng lúa, chúng dùng Đại bác 82 ly không giật của Liên Sô tác xạ vào đội hình Thiết Giáp và Bộ Binh. Trong bìa làng thì Thượng liên khạc lửa. Những khẩu Đại liên 50 bây giờ được khai hỏa vì các chốt nằm trong tầm sát hại của Đại liên 50 là 800 mét. Các chốt này ngay giữa đồng trống nên bị Đại liên, Súng cối 81ly và Đại bác 76 ly tiêu diệt dễ dàng. Tiếp liền sau đó chiếc M41 thứ 4 bị T54 bắn trúng pháo tháp ngay trên chiếc cầu phao. Chiếc M41, bị xô lệch nằm chênh vênh một nửa trên cầu phao, một nửa chấm nước làm chiếc cầu nghiêng một góc 30 độ.

          Hởi ôi!!! một tình huống nguy hiểm không lối thoát, tiến không được, thoái cũng không còn đường. Sông thì sâu làm sao Chiến xa M41 có thể băng qua được. Trong lòng tôi lo lắng và bối rối vô cùng, nhưng vẫn cố giữ bình tỉnh để tìm một cách cứu nguy nhanh nhất. Tôi nghĩ ngay đến kế dùng “Hỏa Mù” đề che mắt địch nên bảo anh Th/úy Tiền Sát Viên Pháo Binh xin bắn đạn khói. Được Chiến Đoàn đáp ứng ngay tức khắc. Một màn khói dày đặc bao phủ bìa làng An Điền, hiệu quả tức thời, T54 ngưng tác xạ vì chúng không còn thấy chúng tôi nữa. Việc cấp cứu xa đội CX bị nạn thực hiện ngay. Các chiến sĩ Trinh Sát và Kỵ Binh bất chấp hiểm nguy, chạy như bay và nhảy phóc lên xe cứu bạn, rất may xe không bị nổ và cháy.

          Một HSQ Trưởng xa và tài xế bị thương nặng, hai KB hy sinh. Chiếc M 41 lủng pháo tháp một lổ bằng cái chén!

          Tất cả các cánh quân của TRĐ52BB bây giờ đều nằm trong trận địa pháo của địch. Hệ thống liên lạc Truyền Tin bắt đầu bận rộn với những báo cáo thiệt hại về nhân mạng của 3 Tiểu Đoàn. Trước mắt tôi, mũi tiến công của TĐ1/52 BB hai bên trái phải của con lộ 7 bị ngưng lại vì bãi mìn “cóc” trước mặt, cách bìa làng An Điền khoảng 800 mét ( Mìn “cóc”, một loại mìn nhỏ hình trụ cao khoảng 5cm, đường kính khoảng 6cm không đến nổi nguy hiểm đến tính mạng nhưng khi đạp phải, bàn chân chắc chắn không còn).

          Một vài chiến sĩ gục ngã, tiếp đến cả chục người, rồi hàng chục người ngã gục xuống ruộng lúa sình lầy vì mìn và đoàn quân đang hứng pháo của CSBV. Tất cả đơn vị bây giờ là mục tiêu quá lộ liễu của địch. Phía trước là bãi mìn dầy đặc, rộng lớn được đặt sẳn bởi Cộng Quân từ trước. Trên không những quả đạn pháo đủ loại trút xuống đoàn quân. Từng cột bùn đen liên tiếp bắn lên cao khắp nơi trên cánh đồng lúa.

          Một tình huống khốn đốn, nguy kịch, hàng trăm chiến sĩ bì bõm dưới sình lầy quá đổi gối, không thể chần chờ, các cánh quân của BB bắt đầu lui binh để tránh bị tiêu diệt. Một chiến sĩ bị thương kèm theo một chiến sĩ xách nách dìu lê lết trong bùn lầy để mau chóng thoát khỏi bàn tay Tử Thần oan nghiệt. Có hành động nào can đảm và cảm động bằng, có hình ảnh nào đau thương hơn! Tình đồng đội, tình chiến hữu cao cả tuyệt vời.

          Tôi cho Chi Đoàn Phó (Đ/Úy Hồ Thúc Hạ) điều động các Chi Đội phía sau rút lui về nhà máy xay lúa cạnh bờ sông bố trí chờ lệnh. Tiếp đến tôi tìm cách để 3 CX M41 lui về bên này sông.

          Có ba cách, thứ nhất là ủi chiếc M41 nằm chênh vênh trên cầu phao rớt xuống sông nhưng xe nào leo lên được chiếc cầu nghiêng như thế này! Cách thứ nhì dùng Chiến xa bắn, nhưng nếu chẳng may làm lủng phao, chiếc cầu chìm thì càng thêm nguy.Thứ ba có thề thực hiện được bằng cách móc “ cáp” kéo cho nó rơi xuống sông dù rất nguy hiểm vì đạn pháo kích đang nổ khắp nơi.

          Tất cả các cặp mắt của những Kỵ Binh và Bộ Binh ngồi trên xe Chỉ huy đều nhìn tôi đợi chờ một quyết định cuối cùng. Họ mong cho bạn bè đồng đội về bên này sông càng nhanh càng tốt. Tội nghiệp thay, với những ánh mắt nhìn tôi chia sẽ, chia sẽ những gì tôi đang lo lắng, hồi họp. Tôi điều Xa Đội M 86 ( loại xe phóng cầu, gắn lưỡi ủi đất, có sợi dây cáp thật dài cuộn trong một cái trơi dùng lực của động cơ ) tiến lại chiếc M 41 bị nạn và bắt đầu công việc dưới đạn pháo của Cộng Quân. Nhưng…

          Trong chốc lác một loạt Hỏa tiễn 122 ly của CSBV với tiếng xé gió đầy uy hiếp bay đến đâm xuống giòng sông nổ tung toé nước gần chiếc cầu phao. Với sức dội mạnh mẽ chiếc cầu bị chấn động gần như bung lên khỏi mặt nước. Chiếc M41 chao qua chao lại rồi nhào xuống giòng sông, chiếc cầu nổi trở lại vị trí cân bằng. Trong cái xui tận mạng cũng còn có cái hên đến với mình, trường hợp này Chi Đoàn gặp may mắn một cách quá bất ngờ. Tôi và mọi người trên xe chỉ huy đồng ồ lên một tiếng thật lớn như trút bỏ một sức nặng ngàn cân đè bẹp thân người.


          Hình minh họa

          Ba Chiến xa M41 lần lượt lui về bên này sông Thị Tính. Các cánh quân của TRĐ52 BB cũng lui binh, bố trí phía Đông giòng sông để thực hiện công việc tải thương. Ngoài các chiến sĩ tử thương vì pháo, các thương binh hầu hết bị mất một bàn chân hoặc cụt giò vì đạp phải loại mìn cóc nguy hiểm. Thế là nỗ lực tấn công tái chiếm An Điền không thực hiện được.

          Chiếc cống bị giật sập đêm qua, nhưng lực lượng chúng tôi tấn công quá sớm nên chưa nhận được một báo cáo nào. Nên tình hình cánh quân Thiết Giáp mới ra nông nổi. Mới hôm qua đây thôi, Tướng Tư Lệnh quyết định dùng Thiết Giáp tấn công vào An Điền kèm theo lời khích lệ: “… Cặp lon Thiếu tá của em…trong An Điền…”. Riêng tôi cũng tin tưởng dùng Chiến xa cùng Bộ Binh đánh chớp nhoáng làm địch trở tay không kịp, bám lấy bờ làng, làm bàn đạp tấn công mục tiêu kế tiếp.

          Kế hoạch này có thể thực hiện được, nhưng phải chấp nhận một tổn thất rất lớn về Chiến xa và nhân mạng vì tôi biết CX M41 không phải là đối thủ của T54. Chi Đòan có 3 khầu Đại bác 106ly không giật và 2 khầu Hỏa tiển Tow được tăng phái gắn trên M113. Nhưng Hỏa tiển Tow muốn bắn được, nhanh nhất cũng phải sau 15 phút vì chờ trên BộTổng Tham Mưu chấp thuận, ngán ng ẩm thay! ( ?) còn Đại bác 106 ly tác xạ cũng không nhanh chút nào, dùng để phá vỡ công sự kiên cố thì tốt hơn.

          Quân lệnh phải thi hành, dù hy sinh mạng sống.

          Cách đây mới hơn một tuần lễ, Chiến Đoàn 318, lực lượng Thiết Giáp có nguyên 1 Chi Đòan Chiến xa M41và 2 Chi Đoàn M113 cùng Bộ Binh. (So sánh Thiết Giáp, Chiến Đoàn 318 mạnh gấp 4 lần hơn chúng tôi ) cũng tấn cống hướng chính diện từ Bến Cát vào An Điền nhưng đã thất bại. Huống chi bây giờ chỉ có một Chi Đoàn M113 và 4 chiếc Chiến xa M41.

          Đến bây giờ, tôi nghĩ rằng ví như không có chiếc cống sập cản trở Chiến xa, không có bãi mìn chận đứng BB. Đoàn quân có thể chiếm được An Điền, nhưng e rằng CĐ 2/5TK sẽ mất tên! BB phải đánh cận chiến với địch và thiệt hại ít nhất cũng phân nửa. Vì sau khi vào An Điền chúng tôi nhận biết số Chiến xa T54 trên 10 chiếc có hầm ẩn núp ngụy trang. Hầm hố địch quân kiên cố cấp Trung Đoàn.

          Với hàng Tướng, Sĩ có thể nghĩ rằng những con “Tốt” đã qua sông, có Xe Pháo Mã hổ tương yểm trợ. Theo luật trên bàn cờ bằng mọi giá phải tiến dù bị loại khỏi cuộc chơi, không hề có nước lui. Nhưng ở đây thì không. Hoàn toàn không thể nào hy sinh những con “Tốt” đó, bằng mọi giá phải về bên này sông. Giòng sông có tên Thị Tính. Vì với nhiệm vụ chỉ huy cánh quân 1gồm ĐĐ52/TS và các M41, đó là những Xe, Pháo, Mã,Tốt thiện chiến, nhanh nhẹn, ngang dọc vẫy vùng, hữu xung tả đột, tiến hoặc thối và chúng không bao giờ là những con Tốt thí mạng.

          May mà tôi không được “thêm lon giữa 2 hàng nến trong” với Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu! Người thân của tôi không phải nhìn tôi qua làn nước mắt:

          “Chiếc quan tài phủ cờ màu
          Hằn lên ba vạch đỏ au phủ phàng”

          – thơ Lê Thị Ý-

          Chiếc cống sập, đã làm hỏng hoàn toàn cuộc tấn công của CĐ2/5TK và ĐĐ52 TS. May mắn hay kém may mắn (?)

          Tôi vẫn còn nhớ một sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lệnh sau buổi họp hành quân mời tôi một ly rượu trước khi tôi quay trở về đơn vị. Đó là ly rượu whisky bình thường nhưng được mời lúc bấy giờ được xem như “Bồ Đào mỹ tửu..”.mặc dù tôi không hề uống rượu từ năm 1971 sau khi bị thương nặng tại chiến trường đồn điền cao su Mimot, Kampuchia.

          Không có tiếng “Tỳ Bà dục người ra đi” tôi vẫn Thiết Kỵ lên đường.Mong rằng tôi và tất cả chiến hữu ngày mai ra đi không như “Kinh Kha Tráng sĩ”. Tôi biết rằng An Điền chiếm đóng cả một TR/Đ Cộng Quân có cả Chiến xa. Nên phần thắng về ta không dễ dàng chút nào.

          CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52TS r út lui bố trí ven theo bờ sông Thị Tính sát nhà máy xay lúa bên này chiếc cầu nổi.

          Nửa đêm ngày 2 tháng 6-74, thêm một lực lượng mới mạnh mẽ dày dạn chiến trường, đó là Trung Đoàn 48 BB ( TR/Đ 48BB ) của Đ/tá Trần Bá Thành. Đại Đội 48 Trinh Sát làm mũi dùi và 3 Tiều Đoàn 1,2,3 khởi động các cuộc tấn công tốc chiến. Xuất phát từ hướng Nam cách An Điền 2 cây số, bằng rất nhiều toán nhỏ đột kích chớp nhoáng , không gặp trở ngại vì bãi mìn cóc như cánh quân của TR/Đ 52BB.

          Khoảng 4 giờ sáng ngày 3-6 chúng tôi nhìn thấy xuyên qua màn đêm một CX T54 lù lù xuất hiện, chạy vội vàng từ An Điền theo con đường độc đạo hướng về Bến Cát vì bị các chiến sĩ của TR/Đ48BB oanh liệt truy kích. Tôi cho lệnh 3 Chiến xa M41 và 3 M113 có trang bị Đại bác bắn thẳng 106 ly sẵn sàng và chờ lệnh tác xạ. Tôi cũng thừa biết rằng T54 không thể nào vượt qua chiếc cống sập.

          Chiếc T54 chạy đến chiếc cống sập và nhào đầu lọt xuống đó. Khói đen mù mịt tuôn ra vì chúng có gắng bò lên, nhưng vô ích. Tôi nhìn bằng hệ thống hồng ngoại tuyến chỉ thấy có cái pháo tháp nhô lên khỏi mặt đường. Kế tiếp thêm một T54 nữa cũng từ An Điền chạy ra, tiến lại sát đồng đội bị nạn, tìm cách kéo lên. Những tràng đạn Pháo Binh ta bắt đầu nổ chung quanh 2 chiếc T54. Chiếc T54 thứ nhì loay hoay một lúc rồi quay đầu bỏ chạy về hướng An Điền, chúng thất thần vì những quả đạn pháo nổ quá gần nên lọt xuống ruộng sình cách bìa làng khoảng 200mét. Thế là hai chiếc T54 nằm chết cứng nơi đây. Nhiều đơn vị báo cáo lên Sư Đoàn về hai chiến xa T54 bị lầy ….

          Đến trưa ngày 3 tháng 6 chiếc T54 sa lầy dưới cống mới thật sự bị khống chế sau nhiều tiếng đồng hồ khi diệt được tên xạ thủ Thượng liên bị xích trong pháo tháp. Xa đội 2 chiếcT54 đã tẩu thoát trong đêm. Một số chiến sĩ tử thương và bị thương khi bò lại gần Chiến xa vì cây Thượng liên trên xe nhả đạn. Phóng viên nhà báo chụp bức ảnh T54 này đầu tiên là một phóng viên của báo chí Hoa Ngữ. (Tôi đã giữ tờ báo có hình chiếc T54 bị nạn đến 30-4-75 trong xe M113. Đó là một sự thật nhưng rất tiếc đến bây giờ không còn).


          Hình minh họa

          Đến chiều Bộ Chỉ Huy TH/Đ5KB và Công Binh cấp tốc trục kéo chiếc T54 và lấp chiếc cống để lực lượng tiếp tục tấn công vào An Điền. Chiếc T54 này về sau được trưng bày trước Dinh Độc Lập.

          Ngay lập tức CĐ2/5TK cùng ĐĐ52/ TS, các cánh quân 3 Tiều Đoàn của TR/ Đ 52BB và TR/Đ48BB ồ ạt chiếm cứ hoàn toàn xã An Điền. Liền sau đó truy kích chúng gần đến đồi 82, đoàn quân bị khựng lại vì vào trận địa pháo của chúng bắn chận. Phải nói rằng vùng đất An Điền thì đúng hơn vì có còn gì để có thể gọi là một Xã. Đến nổi không còn viên gạch nào nguyên vẹn, nói chi đến một bức tường nhà. Một bình địa ngổn ngang nghi ngút khói lửa, nhiều xác địch quân nằm rải rác khắp nơi, mùi xú uế xông lên nồng nặc. Chung quanh những hầm của Chiến xa T54 còn rơi rớt nhiều vỏ đạn đồng sáng bóng và nhiều bó thuốc bồi hình đủa dùng cho đạn Đại bác. Các Kỵ Binh thâu lượm vũ khí còn sót lại và không quên mang về cả chục vỏ đạn đồng của Đại bác 100 ly đã kích hỏa. Riêng tôi, các Kỵ Binh cũng có tặng 4 vỏ, đem về hậu cứ làm kỹ niệm và dùng làm bình để cắm cành Mai.

          An Điền đã giải tỏa xong trưa ngày 4 tháng 6 -1974. TR/Đ48 BB cấp tốc rút về Long Giao, để phòng thủ Long Khánh vì các Quận Định Quán, Tánh Linh ( Bình Tuy) bị áp lực nặng của CSBV. TR/Đ 52 BB và CĐ 2/5 TK vẫn phòng thủ và chờ kế hoạch tấn công đồi 82.

          Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 6 Cộng Quân lại mở cuộc tấn công dữ dội vào lực lượng phòng thủ An Điền hướng tấn công chính nhắm vào Bộ Chỉ Huy TR/Đ 52BB, một Tiểu Đoàn BB và CĐ2/5 TK bằng 2 Tiều Đoàn trừ bị, mặc dù cách đó 2 ngày chúng bị tổn thất nặng nề. Chúng dùng 4 chiếc máy cày giả dạng T54 để “hù” chiến sĩ ta. Chỉ vài loạt Đại liên 50 chính xác, 4 chiếc máy cày bốc cháy nghi ngút. Lực lượng phòng thủ đánh trả tơi bời, làm sao xuyên thủng vị trí của các chiến sĩ TR/Đ52 BB đầy kinh nghiệm chiến trường cộng với hỏa lực kinh hồn của một Chi Đoàn cộng ( cộng 4chiếc M41 )Thiết Giáp. Đến gần sáng chúng tháo chạy về hướng đồi 82 sau khi bị tổn thất trầm trọng.

          Tổng kết trong 6 ngày, CĐ2/5 TK có một Sĩ quan tử trận, đó là Th/Úy Nguyễn Trung Đồng Dinh. Thương tiếc một Sĩ quan trẻ, học lực cao và cá tính rất văn nghệ đã ra đi quá sớm để trả nợ nước non. Anh đã hy sinh như biết bao nhiêu lớp người trẻ tuổi tài cao đã phải nằm xuống vì Tổ Quốc, cho cuộc chinh chiến điêu linh. Bên Thiết Giáp có 3 hy sinh (một SQ, một Trung sĩ, một Hạ sĩ ), 3 bị thương nặng. Một M41 lủng pháo tháp, một M113 bất khiển dụng. Phía Bộ Binh phải đến con số hàng trăm bị loại khỏi vòng chiến đấu.

          Đến bây giờ nhắc lại lòng còn ngậm ngùi. Nén hương lòng của những KB còn lại thắp lên để nhớ, để thương các Chiến Sĩ can trường đã anh dũng hy sinh, tri ân các Anh đã một thời cùng chia sẽ hiểm nguy với chúng tôi.

          Sau đó vài ngày Tướng Đảo,Tướng Khôi và Tr/tá Dũng lên xe M113 chỉ huy của tôi thám sát địa thế để mở cuộc tấn công Căn cứ 82 cách An Điền 4 cây số về hướng Tây. Đến khi xe tiến gần bìa rừng cùng hai Chi Đội hộ tống thỉ bị pháo liên tục gần xe nên phải đưa 3 vị trở về căn cứ.

          Tiếp theo các lực lượng của Sư Đoàn thay nhau tấn công tái chiếm đồi 82 nhưng không đem lại kết quả nào. Không Quân bị hạn chế bởi mùa mưa, mây thấp và hệ thống Phòng không dày đặc, mặc dù các Phi Tuần đã nổ lực oanh tạc các vị trí Đại pháo, Hỏa tiễn, Súng Phòng Không nhưng kết quả không như ý. Cũng như lực lượng VNCH chỉ có một hướng tấn công duy nhất vào đồi 82 là trực diện, xuất phát từ An Điền với địa thế cây rừng, giai góc và giây leo chằng chịt. Thiết GiápBinh bị hạn chế tầm nhìn, quan sát chỉ trong vòng vài, ba mét. Chung quanh Căn Cứ 82 hệ thống giao thông hào, mìn và giây kẽm gai bao phủ rộng lớn. Khi các lực lượng tiến vào vùng trận địa pháo của chúng bị tổn thất nặng nề, và là mục tiêu quá lộ liễu vì chúng quan sát lực lượng ta từ địa thế cao là đồi 82.

          Chiến Đoàn 52 BB trấn giữ An Điền hơn 3 tháng , không có ngày nào pháo địch không rơi xuống vị trí chúng tôi, không hàng loạt thì cũng 5,7 trái pháo mỗi ngày. Không có ngày nào các chiến sĩ Bộ Binh không nhảy vội vã xuống hầm hố cá nhân; các Kỵ Binh vội vàng chạy vào trong xe để tránh pháo. Sau khi An Điền được giải tỏa đồng bào Bến Cát lần lượt hồi hương, những quán ăn, quán Café bắt đầu mở cửa, nhịp sống đang hồi phục. Nhờ vậy những người lính trẻ chúng tôi mới có được ly Café nóng ấm lòng người. Tạm thời quên đi lửa đạn mặc dù trong giây phút ngắn ngủi, đó cũng là hạnh phúc, tuy nhỏ nhoi của người lính chiến nơi trận mạc.

          Đến ngày 7 tháng 9 TR/Đ 9 của Sư Đoàn 5 BB và TH/Đ 10 KB vào An Điền thay thế TR/Đ 52BB và CD2/5 TK. Các cuộc tấn công mới bắt đầu và cho đến xế trưa ngày 4 tháng 10-1974 quân ta mới cắm cờ trên đồi 82.

          Đơn vị tôi di chuyển khỏi An Điền, đóng quân tại trường Trung Học Bến Cát. Theo lệnh Sư Đoàn, một Chi Đội M113 ( Th/úy Hòa ) di chuyển xuống xã Phú Thứ phối hợp cùng Bộ Binh (TR/Đ 43BB) phòng thủ vì nơi đây áp lực địch vẫn còn nặng. Chi Đội báo cáo ngày nào cũng hứng pháo của CQ. Và “chịu trận” pháo hơn 45 ngày đêm ròng rã.

          Và đến 6 tuần lễ nữa ( ngày 20 tháng 11-1974 ) QLVNCH mới đánh bật Công Quân ra khỏi Rạch Bắp địa điểm cuối cùng của vùng Tam Giác Sắt.
          Cuộc chiến vùng Tam Giác Sắt tạm thời kết thúc, sau khi kéo dài đến 7 tháng của năm 1974. Nhưng TĐ/5KB vẫn “Rền tiếng xích sắt thét vang…”, tiếp tục bước quân hành đến vùng trách nhiệm mới. Nhưng, kém may mắn thay! chỉ trong một đêm của năm 1974 sắp tàn, Thiết đoàn đã phải gánh chịu đau thương nghiệt ngã và đầy tang tóc.

          Ngày 19 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TĐ/Đ 5KB ( Tr/tá Trần Văn Nô: Thiết Đoàn Trưởng, Th/tá Mai Văn Thân: Thiết Đoàn Phó ) và CĐ 2/5 TK ( Trừ CĐ3/5TK, đã cùng TR/Đ 48BB di chuyển về Long Khánh từ trước ) chuyển quân về Ngã Ba Ông Đổn – Núi Chứa Chan lúc 6giờ chiều tăng phái cho TR/Đ 48 BB phòng thủ Long Khánh và chuẩn bị tiếp ứng cho Quận Tánh Linh Tỉnh Bình Tuy bị Cộng Quân tấn công và sắp bị tràn ngập.

          Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn và một Đại Đội BB đóng quân đêm trong một Căn Cứ Pháo Binh dưới chân núi Chứa Chan. CĐ 3/5TK ( Đ/úy Lê Sơn ) và một Đại Đội BB đóng quân cách BCH/TĐ khoảng 3km về hướng Tánh Linh. CĐ 2/5 TK và một Đại Đội cũng đã được chỉ định đóng quân cách BCH/TĐ 5 km về hướng Bắc.

          Khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TH/Đ 5 KB bị Cộng Quân đột nhập tấn kích.

          Nhiều tiếng nổ lớn xé màn đêm tĩnh mịch phát xuất từ hướng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn. Tôi bật dậy leo lên xe quan sát, nhìn về hướng Thiết Đoàn, từng lằng đạn lửa đan chéo nhau dày đặc. Nhất là trên lưng chừng núi Chứa Chan Cộng quân dùng Đại bác 57 ly, 75 ly và Thượng liên12ly8 bắn xối xả xuống vị trí đóng quân. Tôi bấm máy liên lạc với BCH/TĐ nhưng im hơi lặng tiếng. Gọi mãi chẳng có thẩm quyền nào trả lời, ban Truyền Tin cũng im bặt.Trong lòng như dầu sôi lửa bỏng. Tôi cũng như Sơn muốn kéo Chi Đoàn về để phản công, chúng tôi gọi lên Chiến Đoàn 48 để xin di quân nhưng Chiến đoàn cho biết cũng không liên lạc được với Thiết Đoàn nên đành chờ lệnh.

          Đến nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới liên lạc được với Chiến Đoàn và cho biết Thiết Đoàn bị đánh Đặc Công. Tôi xin Chiến Đoàn cho Chi Đoàn xuống tiếp ứng nhưng Đ/tá Chiến Đoàn Trưởng không chấp thuận vì lý do địch đánh từ bên trong vị trí chứ không có từ ngoài tấn công vào. Chúng tôi kéo quân xuống sợ thêm rối ren vì hỏa lực Đại liên của Thiết Giáp, nên để BB thanh toán từng tên một trong vị trí . Ông cho biết các Chi Đội Chỉ Huy đã phản công hiệu quả bằng súng cá nhân và lựu đạn.Và ông bảo tôi sẳn sàng hành quân truy kích khi có lệnh….Tiếp ứng với phản công! tất cả đã quá muộn màng! Trong vòng 15 phút đầu tiên BCH/TĐ đã bị tê liệt, vì địch đánh bằng lựu đạn và B40 từ bên trong vị trí phòng thủ. Kết quả vô cùng đau đớn.

          Riêng bên Thiết Giáp: Th/tá Mai Văn Thân Thiết Đoàn Phó, Th/tá Viễn Sum Trưởng Ban 3/ HQ tử thương. Đ/Úy Lê Văn Nhơn phụ tá Ban 3/ HQ bị thương nặng. Và nhiều KB các cấp tử thương hoặc bị thương. May mắn Tr/tá Thiết Đoàn Trưởng thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần trong gang tất. Hai M113 ( có M113 của TH/Đ Phó ) 1M577 ( xe ban Tuyền Tin ) bị hư hại.

          Nguyên một Trung Đội Đặc Công địch bỏ xác tại chỗ cùng vũ khí, chấc nổ, 3 tên bị bắt sống.

          Chiến tranh đồng nghĩa với tang tóc, đau thương. Sau 37 năm, thời gian dài bằng nửa đời người. Nhìn lại chỉ có 6 tháng cuối năm 1974, tim vẫn nhói đau, nước mắt vẫn lưng tròng. Thiết Đoàn 5 KB đã mất đi 4 Sĩ Quan ưu tú, nhiều HSQ và KB can trường đã ra đi, bỏ bạn, bỏ bè.Trong tim, trong óc, mọi người còn hằn lại những đau xót, nhớ nhung và thương tiếc.

          Với cái chết đầy thương tâm của Th/tá Thân mọi người đều rơi lệ nghẹn ngào. Anh, một cấp Chỉ huy ưu tú trong Binh chủng Thiết Giáp. Kỵ Binh các cấp trong đơn vị đều mến thương và kính phục. Nhưng, khi ra đi vĩnh viễn Anh không kịp giã từ vợ con, bè bạn. Đớn đau thay! vợ Anh, chị LCH nhìn biết được xác chồng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua chiếc quần cộc màu đỏ chị đã may cho Anh cách đó 2 tuần. Anh đã thật sự muôn đời, mãn kiếp là chồng của người vợ hiền thục thủy chung. Các con Anh còn quá thơ ngây, dại khờ, nhưng giờ đây chinh chiến đã cướp đi một người cha quý mến.

          “Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
          Người xa người tội lắm người ơi”


          Có ai cầm được 2 giòng lệ tuôn! Có ai chận được tiếng nấc uất nghẹn từ đáy lòng vì thương vì tiếc các Anh.

          Than ôi! với mẫu tự có 26 chữ cái, tôi cũng không biết cách sắp xếp thế nào để diễn tả hết ý nghĩa, sự hy sinh đầy cao cả của những người lính trong QLVNCH. Làm sao viết lên hết những nghiệt ngã các anh đã chịu, làm sao nói lên hết được lòng can trường xã thân vì 4 chữ Bảo Quốc An Dân trong suốt những tháng năm chiến tranh tàn khốc.

          Chiến chinh đã cướp đi niềm hạnh phúc của những người Cha, người Mẹ, người Vợ. Chiến chinh đã lấy mất hạnh phúc của tuổi trẻ dại khờ. Nhưng chiến chinh không thể đốt cháy hết được những khổ nạn đời sống của người hệ lụy.

          Các Anh đã trả nợ nước non, nay các anh đang được vui sống muôn đời. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” – Kinh Hoà Bình- Nguyện cầu Thượng Đế xoa diệu nỗi đau và phù trợ cho những người còn lại.

          ( Những nén hương lòng thắp lên, kính dâng đến Anh Linh của Cố Tr/tá Mai Văn Thân, Cố Tr/tá Viễn Sum, Cố Tr/úy Nguyễn Trung Đồng Dinh và những Chiến Sĩ VNCH anh hùng Vị Quốc Vong Thân trong trận chiến năm 1974 ).


          Vũ Đình Lưu CA – 2011
          nguồn:
          http://www.thietgiapbinhvnch.com/Web...tamgiacsat.htm
          Last edited by BachMa; 03-01-2018, 08:45 PM.

          Comment


          • Cố Đại tá Phạm Phú Quốc ✈

            Cố Đại tá Phạm Phú Quốc


            Hình minh họa

            Cố Đại tá Phạm Phú Quốc, Anh Hùng Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (1935-1965) anh gốc làng Đông Bàn, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là cháu gọi ông Phạm Phú Thứ là ông cố, một đại thần triều nhà Nguyễn và là con của ông Phạm Phú Phò (một doanh nhân rất thành công và nổi tiếng trên thương trường tại đất Đà Nẵng trong thập niên 1930-1940), (gốc họ Đoàn của cụ tổ Đoàn Thế Thân).

            Thưở nhỏ, anh Quốc học tại trường Chasseloup-Laubat (bây giờ là trường Lê Quý Đôn). Thời gian còn là học sinh, anh Quốc rất đam mê về máy bay, bao nhiêu tiền mẹ ông cho để ăn quà, anh Quốc đều dành để gởi mua tận bên Pháp các sách kỹ thuật dạy cách chế tạo các loại máy bay nhỏ (tạp chí Mécanique populaire) lắp ráp đem ra thực dụng trên bầu trời thuộc Tân Sơn Nhứt bây giờ.

            Sau khi thi tốt nghiệp trung học, gia đình định cho anh Quốc sang Pháp để tiếp tục con đường học vấn, nhưng Quốc cũng vì quá ham thích máy bay nên xin gia đình được đầu quân vào quân chủng Không Quân.

            Sau đó anh Quốc được gởi sang học lái máy bay chiến đấu tại một trường huấn luyện của Pháp tại Marrakech thuộc Maroc, và đã tốt nghiệp với bằng cấp Chuẩn úy phi công.


            Hình minh họa

            Nhấn vào link bên dưới để xem thước phim hai phi cơ khu trục dội bom Dinh Độc Lập:

            https://youtu.be/C4YPPFem0L8

            Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vì bất đồng chính kiến, vào ngày 27-2-1962 Trung úy phi công Phạm Phú Quốc cùng với bạn đồng đội là Thiếu úy Nguyễn Văn Cử, nhân một chuyến hành quân nhưng không thi hành nhiệm vụ mà quay về Sài Gòn để oanh tạc dinh Độc Lập (bây giờ là dinh Thống Nhất) đánh sập một góc dinh nhưng Tổng Thống đã may mắn thoát chết.

            Máy bay anh Quốc bị phòng không của Hải Quân ở bến Bạch Đằng bắn trúng, anh Quốc phải đáp xuống sông Sài Gòn, gần một đồn bảo an vùng kho xăng Nhà Bè và bị bắt giam cầm cho đến năm 1963 thì được quân đảo chính giải thoát và phục hồi quân ngũ, thăng dần lên làm tới chức Trung tá và được cử làm Chỉ huy trưởng căn cứ Không Quân Biên Hòa.


            Hình minh họa

            Ngày 19-4-1965 Trung tá Phạm Phú quốc gãy cánh trong một phi vụ Bắc phạt,cách thị xã Vinh về phía đông nam 10 km. Lúc đó là 15 giờ 04 phút. Trung tá Quốc trong phi vụ này với nhiệm vụ đánh trục giao thông cách 10 cây số phía nam thành phố Vinh. Sau khi hoàn tất phi vụ, trên đường trở về thì phi đội của Trung tá Quốc đã đụng phải một lực lượng phòng không của QĐND Việt Nam, súng cao xạ bắn lên dữ dộI, một phi cơ trúng đạn phía đuôi thiệt hại nhẹ, phi cơ của Quốc lao vào lửa đạn, bị trúng đạn và bốc cháy.


            Hình minh họa

            Trung tá Phạm Phú Quốc Truy Phong Đại tá.

            Chức Vụ:
            Trưởng phòng Hành Quân năm 1960
            Chỉ huy trưởng phi đoàn 516 năm 1964
            Tư lệnh Không Đoàn 23

            Chiến Công:
            2 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Đồng
            5 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc
            1 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng
            1 Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu
            Phi Dũng Bội Tinh với Cánh Chim Vàng
            Đệ Nhị Không Lực Huy Chương
            Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với Ngành Dương Liễu
            Với 12 lần được tuyên dương công trạng và nhiều lần khen thưởng

            Cố Đại tá Phạm Phú Quốc có vợ và một con trai, ngày tử trận vợ anh Quốc mang thai đứa con đầu lòng được 3 tháng và đã di tản sang Mỹ trước năm 1975. Con trai ông hiện là bác sĩ khoa thẩm mỹ ở bên Mỹ.


            Hình minh họa

            Năm 1997 hài cốt của Phạm Phú Quốc được người chị ruột là Phạm Thị Xuân Cơ (Đông Hải) cải táng đem về chôn tại khuôn viên chùa Phước Lâm, Thành Phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

            Nhà văn Triều Vũ từng viết một bài văn tế Phạm Phú Quốc. Cũng thời gian đấy, nhạc sĩ Phạm Duy viết nhạc phẩm "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" để tưởng nhớ ông.

            nguồn:
            https://www.facebook.com/CONGHOATHOI...74929756078845
            Last edited by BachMa; 03-04-2018, 03:49 PM.

            Comment


            • Mộ Cố Phi Công Đại Tá Phạm Phú Quốc ♥

              Mộ Cố Phi Công Đại Tá Phạm Phú Quốc
              soncuongde


              Chùa Phước Lâm - Hội An

              Ngày 19-4-1965, cách thị xã Vinh về phía đông nam 10km, lúc đó là 15 giờ 04 phút, phi cơ Phạm Phú Quốc bị rơi và ông đã tử nạn tại Hà Tĩnh làm sôi động một thời gian. Sự việc cùng thời gian trôi qua cho tới ngày Bắc-Nam thống nhất.

              Sau khi cuộc chiến kết thúc, việc tìm hài cốt của đại tá Phạm Phú Quốc đã được sự giúp đỡ của đại tá Phạm Quế Dương, một sĩ quan phòng không của quân đội Bắc Việt.

              Theo chính quyền huyện Thanh Hà tỉnh Hà Tĩnh được biết xác phi công Phạm Phú Quốc đã được chôn cất bởi dân chúng với quan tài chu đáo với bia ghi " mộ ông Phạm Phú Quốc".

              Tuy được chôn cất cẩn thận nhưng một thời gian dài không người trông nom nên đã mất dấu tích. Đại tá Phạm Quế Dương đã giới thiệu cho gia đình Phạm Phú Quốc một người chuyên tìm hài cốt thất lạc: Ông Đỗ Bá Hiệp nổi tiếng có khả năng ngoại cảm (Telepathy) đã cùng gia đình về vùng Cồn Cỏ, Hà Tĩnh để tìm di hài phi công Phạm Phú Quốc.




              Mộ phi công Cố Đại Tá Phạm Phú Quốc trong chùa Phước Lâm

              Dưới đây là bài tường thuật của ông Phạm Quế Dương:

              "Năm 1990 gia tộc anh Quốc từ miền Nam ra Hà Tĩnh tìm xin hài cốt anh ấy đưa về quê ở Quảng Nam. Nhưng các cơ quan tỉnh, huyện, xã ở đây chỉ có thể xác nhận trong văn bản: "hài cốt của ông Phạm Phú Quốc đã được tỉnh đội Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà cất bốc, trong khi cất bốc đều có quan tài chôn cất chu đáo. Cơ quan quân sự huyện Thanh Hà đã nhất trí vối gia đình Phạm Phú Quốc: "khi truy tìm được nơi chôn cất cụ thể sẽ thông báo sau".

              7 năm sau -1997- được biết có ban liên lạc giòng họ Phạm trong UNESCO có thông tin nhờ ban liên lạc giúp đỡ. Tôi là thành viên trong ban liên lạc giòng họ Phạm được giao làm việc này...

              Tháng 5-1997, ban liên lạc đã gửi văn bản tới các cơ quan chính quyền tỉnh Hà Tĩnh giúp đỡ việc xác minh địa điểm chôn cất anh Phạm Phú quốc. Sự việc vẫn yên lặng. Tháng 9 -tháng 12-1997 ban liên lạc gửi liên tiếp hai văn bản tới các cơ quan tỉnh Hà Tĩnh và cả Đoàn Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 2, 3, 4-1998 ban liên lạc được các cơ quan xã, huyện tỉnh Hà Tĩnh trả lời hoàn toàn tán thành và ủng hộ việc tìm hài cốt phi công Phạm Phú quốc. Song thật sự chỉ biết mộ anh Phạm Phú Quốc đã được dời về nghĩa trang Cồn Cổ. Do thời gian quá lâu mộ thất lạc không xác định được nơi chôn cất cụ thể.

              Ngày 01-5-1998 tôi và một anh bạn nhà báo vào Hà Tĩnh, được sự giúp đỡ tích cực của báo giới Hà Tĩnh, chúng tôi gặp các cấp. Họ đều tiếp chu đáo, thành thật trình bày sự việc như trên. Chúng tôi ra nghĩa trang Cồn Cổ mênh mông, bao nhiêu là mộ và không ai biết được mộ anh Quốc ở đâu. Chúng tôi xin phép địa phương mời ông Đỗ Bá Hiệp, một nhà ngoại cảm nổi tiếng đã giúp tìm mộ bao người thất lạc, giúp cho việc này. Họ nhất trí.

              Ngày 07-5-1998, ban liên lạc đã thảo văn bản mời ông Đỗ Bá Hiệp, đồng thời báo cáo địa phương. Ông Đỗ Bá Hiệp nhận lời. Được tin ngay ngày hôm sau, 08-5-1998 , bà chị anh Phạm Phú Quốc đã 83 tuổi cùng cháu gái bay ra Hà Nội gặp ô. Đỗ Bá Hiệp.
              Sáng 11-5-1998 , tôi làm liên lạc đưa ông Đỗ Bá Hiệp và ông Doãn Phú, nhà địa lý thân quen ô. Hiệp cùng bà chị, cháu gái anh Phạm Phú quốc vào Hà Tĩnh.

              Sáng hôm sau, 12-5-1998 , ra nghĩa trang Cồn Cổ. Chúng tôi nghĩ ông Đỗ Bá Hiệp sẽ vào bên trong nghĩa trang, nhưng ông chỉ đi trên đường bên ngoài nghĩa trang. Khi ông nhìn lên trời cao, lúc ông nhìn xuống như nhìn cái gì đó sâu trong lòng đất. Chúng tôi vẫn đi theo phía sau ông. Bỗng ông rẽ vào phía đường bên kia nghĩa trang, một vùng đất rộng lồi lõm sát với ruộng nước và dừng lại chỉ xuống một chỗ đất bằng phẳng. Ông bảo : "Mộ anh ấy ở đây. Bên mô cát bên phải này hai bước, bên hố nước bên trái này một bước. Chú ý đánh dấu để khỏi lẫn. Đến ngày 10-10 ta mới được bốc." Một lát sau ông lại bảo : "số lính của anh ấy là số 0 gì đó rồi 4, hai số cuối cùng là 65 hay 56." Theo thói quen tôi ghi số hiệu trên vào tờ cart visit vì không mang theo sổ tay.

              Ra về, khoảng nửa tháng sau tôi nhận được điện thoại gia tộc anh Quốc nhờ tìm hộ số quân của anh Quốc. Tuy nhận lời nhưng không biết tìm ở đâu. Mấy hôm sau tôi sang thư viện báo Quân Đội Nhân Dân nhờ lục tìm trong báo cũ. Trong số báo QĐND ngày 22-4-1965 tả việc máy bay anh Quốc bị bắn rơi, viết cụ thể : "Phạm Phú Quốc chứng minh thư số 007. 455 cấp 01-12-64 tư lệnh đoàn máy bay khu trục số 23, tư lệnh sân bay Biên Hòa, quân hàm trung tá ". Thật kỳ lạ ! thông tin của ô. Đỗ Bá Hiệp về số lính với số chứng minh thư của anh Quốc ghi trong báo gần giống nhau đến thế!

              Ngày 09-10 Âm Lịch tức 27-11-1998 , ông Đỗ Bá Hiệp bận không vào Hà Tĩnh được, nhưng ông đã hướng dẫn tỉ mỉ việc đào tìm mộ. Tôi nhờ nhà tôi cùng đi với cháu gái anh Quốc vào lo việc này. Nhà tôi vốn rất thành tâm nên sẵn lòng giúp đỡ như việc nhà. Ngay chiều tối hôm đó, vào xã Thạch Trung. Chúng tôi xin phép địa phương và họ đã giao cho đội phục vụ nghĩa trang lo việc bốc mộ sáng sớm hôm sau.

              Sáng hôm sau trời vẫn mưa, phải làm lều che nơi bốc mộ. Đào sâu gần nửa thước không thấy gì đã lo. Nhưng may sao chỉ thêm vài nhát xẻng nữa là một vũng nước đen rồi thấy Cốt hòa lẫn trong đất bùn. Đúng như địa phương nói từ năm 1976 hài cốt anh Quốc dời chuyển từ trong làng ra đây, cốt để trong tiểu gỗ và đã hơn 20 năm tiểu gỗ không còn chỉ còn xương cốt. Xương cốt anh Quốc được bới tìm chu đáo, rửa sạch bằng nước thơm rồi đặt vào tiểu quách. Bà con đến xem khá đông cùng thắp hương viếng Anh...

              Ngay chiều hôm đó 28-11-1998. Hài cốt phi công Phạm Phú Quốc được đưa về quê quán, chùa Phước Lâm, thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam...

              Mộ anh Phạm Phú Quốc đã được xây cất nghiêm trang với bia đá khắc hình và tên tuổi Anh cùng những hàng chữ đầy nghĩa tình với Người đã khuất."


              soncuongde
              nguồn:
              http://soncuongde.blogspot.com/2010/...-co-ai-ta.html

              Comment


              • Ride The Thunder

                Ride The Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph


                Ride the Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph. Nguồn: WorldNetDaily

                Cưỡi Ngọn Sấm kể lại câu chuyện có thật về tình “huynh đệ chi binh” hiếm có của một toán nhỏ cố vấn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa trên một mặt trận hết sức đặt biệt của Chiến Tranh Việt Nam: Quảng Trị – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ của cả hai bên nên dù bị đẩy vào một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt họ vẫn làm nên một chiến tích lẫy lừng: chặn đứng bước tiến của Cộng quân tại cầu Đông Hà.

                Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh 1972 đã thể hiện trọn vẹn trên khắp các vùng bị Cộng quân tấn công. Vì thế phải cần nhiều cuốn sách mới có thể ghi nhận đầy đủ về tình hình chiến sự cũng như về nhân cách của các chiến sĩ đã tham gia trận đánh.

                Riêng tác phẩm “Ride The Thunder” của Richard Botkin chú trọng tới mặt trận Quảng Trị – Đông Hà trong đó câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính: Trung Tá Gerry Turley, Đại Úy John Ripley và Thiếu Tá Lê Bá Bình.


                Đại úy John Ripley (thứ hai từ trái sang) cùng Đại tá Gerald Turley (thứ hai từ phải sang) ngày trước khi bắt đầu
                các cuộc tấn công của CSVN trong mùa Hè đỏ lửa (Easter Offensive 1972) tại một căn cứ quân sự phía Tây Đông Hà.
                Nguồn: http://nobility.org/

                Trung Tá Gerry Turley có mặt trong Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật Ái Tử hai ngày trước cuộc tấn công trong một cuộc viếng thăm bình thường dự tính chỉ chừng vài ngày. Nhưng khi cuộc chiến nổ ra, ông được cấp chỉ huy gọi riêng và trao cho quyền tạm thời đảm trách toàn bộ hoạt động tại trung tâm này.

                Đại Úy John Ripley là một “skipper”- sĩ quan chỉ huy, của Đại Đội Lima 6 TQLC Hoa Kỳ tại VN. Ông trở thành cố vấn cho Tiểu Đoàn 3-Sói Biển TQLC cuối năm 1971. Ông đã sát cánh với hơn 700 chiến sĩ VNCH đồn trú tại căn cứ Alpha 2 nằm trong tỉnh lỵ Đông Hà. [Chức vụ sau cùng của TQLC John Ripley là Đại tá TQLC Mỹ (USMC) – DCVOnline]

                Trung Tá Lê Bá Bình trình diện Tiểu Đoàn 3 TQLC cuối năm 1962 với chức vụ thiếu úy và đã tham dự nhiều trận đánh trên khắp các vùng chiến thuật. Ông từng được huấn luyện tại Trường Căn Bản Quantico tại Virginia năm 1964. Năm 1972, ông giữ chức vụ Thiếu Tá -Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 3 TQLC.


                Thiếu tá Lê Bá Bình đứng ở Quảng Trị trước khi bị thương lần thứ 9, 1972. Nguồn: OntheNet

                Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” (tên tiếng Anh: Easter Offensive) là một kế hoạch táo bạo của Bắc Việt nhằm đánh một trận quyết định để tiêu diệt nền Cộng Hòa miền Nam đang mất dần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Giữa trưa ngày 30 tháng Ba 1972, quân đội Bắc Việt đã phối hợp bộ binh, thiết giáp, pháo binh cộng thêm hệ thống phòng không tối tân nhất của Liên Xô đã viện trợ, đồng loạt tấn công 12 căn cứ quân sự VNCH trải dài từ Đông sang Tây trong vùng phi quân sự và từ Bắc xuống Nam sát với biên giới Lào. Những đợt pháo kích đầu tiên nhắm vào các vị trí pháo binh VNCH mà chúng đã rõ. Đàng sau những cuộc pháo kích là hơn 30.000 lính Bắc Việt và – lần đầu tiên tại VN – xuất hiện hàng trăm chiến xa T-54 và PT-76 do Liên Xô cung cấp. Không chỉ hạn chế ở các mục tiêu quân sự, Cộng quân còn pháo kích vào các khu đông dân cư nhằm gieo rắc hoảng loạn và phá chặn các mạng lưới giao thông quan trọng, từ đó làm chậm thêm phản ứng của Quân Lực VNCH.

                Với tình hình chiến sự thảm hại diễn ra khắp phía Bắc Vùng I Chiến Thuật, Tướng Vũ Văn Giai ra lệnh cho những người Mỹ phải rút ra khỏi TTHQCT Ái Tử. Riêng Trung Tá Gerry Turley, với tư cách là sĩ quan Hoa Kỳ thâm niên nhất, phải ở lại điều hành công việc với một nhóm nhỏ và tiếp tục hướng dẫn các hỏa lực yểm trợ cho đến khi nào tổng hành dinh mới được thiết lập xong. Dĩ nhiên Turley không đồng ý với quyết định ấy với lý do mình chỉ là “một thằng TQLC ghé thăm”. Thế nhưng, cuối cùng “gã TQLC” này vẫn phải nhận lãnh trọng trách.

                Rạng sáng ngày Chúa Nhật-Lễ Phục Sinh, khi 10 căn cứ hỏa lực lớn đã bị Cộng quân chiếm đoạt, khi xe tăng địch đã tàn phá hết phía bắc sông Cam Lộ-Cửa Việt, khi trong vùng chẳng còn mục tiêu nào đáng cho chúng tấn công nữa, Trung Tá Turley nhận ra rằng mũi nhọn tiến công của chiến xa và bộ binh Bắc Việt đang nhắm thẳng tới Đông Hà. Nếu chúng vượt qua được cây cầu này thì toàn bộ tỉnh Quảng Trị, và rồi Huế, sẽ lọt vào tay bọn chúng. Không cần suy tính lâu, Turley quyết định: bằng mọi giá phải phá nổ cây cầu Đông Hà. Trớ trêu thay, vì thời tiết xấu không thể xử dụng lực lượng Không Quân để ném bom, do đó cách duy nhất là phải có người trèo lên cầu và đặt chất nổ.

                Cầu Đông Hà đã được “Toán Ong Biển” – một tiểu đoàn Công Binh Hải Quân Hoa Kỳ, xây mới vào năm 1967. Đó là một con “mãnh long” kiên cố có bộ khung bê tông và thép khổng lồ với những phiến gỗ chắc nịch. Để chống lại sự phá hoại của bọn đặc công, những hàng rào xích sắt và dây kẽm gai được dựng lên dày đặc dưới gầm cầu. Muốn phá hủy cây cầu ấy dù trong lúc bình thường cũng không hề là điều dễ dàng, nên khi ra mệnh lệnh cho toán Alpha 2–Bình/Ripley: “somehow destroy the bridge”, Turley hiểu rõ rằng ông đã ký vào bản khai tử cho họ.

                Để đến gần Cầu Đông Hà, toán Alpha 2 đã bắn hư một chiếc xe tăng T-54. Khi thấy Cộng quân không tỏ dấu hiệu tiến lên thêm, John Ripley, Jim Smock và Lê Bá Bình nhanh chóng chạy tới chân cây cầu. Bộ ba chỉ có chưa đầy 4 tiếng đồng hồ và 500 cân thuốc nổ để thực hiện sứ mạng. Ripley từng được huấn luyện tại trường US Army’s Ranger School. Tại đây, ông đã được học về cách xử dụng chất nổ. Do đó, trong toàn thể binh sĩ nhóm Alpha 2, Ripley là người duy nhất biết cách phá hủy cây cầu. Trước tiên, Ripley đu người qua những hàng rào kẽm gai sắc lẻm. Sau khi nhận khối thuốc nổ do đồng đội chuyển qua rào, ông phải thực hiện công việc khó khăn nhất: leo lên cầu. Với sức mạnh và sự dẻo dai không ngờ, Ripley bám lấy những thanh sắt chữ I, đu người lên, và cuối cùng, bò vào trong khoang cầu. Bên dưới cầu là dòng nước sông chảy xiết, sẵn sàng cuốn phăng đi kẻ nào không may tuột tay rớt xuống. Phải mất 12 lần “đánh đu tử thần”, Đại Úy John Ripley mới đặt được hết toàn bộ khối thuốc nổ dọc theo cầu. Bốn tiếng đồng hồ tưởng chừng vô tận! Và rồi đất trời rung chuyển với một tiếng nổ vang dội. Ngày 2 tháng Tư năm 1972, Cầu Đông Hà bị phá hủy.


                Tranh của Đại tá Charles Waterhouse vẽ cảnh Đại úy John Ripley đu lủng lẳng trên cầu Đông Hà
                ở sông Cửa Việt trong làn mưa đạn của cộng quân Bắc Việt.
                Nguồn: http://nobility.org/

                “Cưỡi Ngọn Sấm”, tuy nhiên, không phải là câu chuyện chỉ có cơ bắp và hành động, cũng không phải là truyện ca ngợi vài đấng anh hùng theo kiểu phim Viễn Tây. Để kể lại thấu đáo “Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” thì bên cạnh những nhân vật sáng chói như Turley, Ripley, Bá Bình, tác giả đã không bỏ quên những con người khác. Họ là những chiến sĩ Mỹ và Việt như Phillip, Eisenstein, Goggin, Lương, Nhã, Lượm,.. Họ cũng chính là vợ con, cha mẹ của các chiến sĩ đang ngày đêm trông ngóng tin xa như Bunny, Moline, Bành Cầm. Họ còn là những người dân bất hạnh vô tên vô tuổi bị Cộng quân tàn sát trên đường chạy loạn mà hình ảnh thảm khốc của họ đã đập vào mắt những người lính đang cố thủ tiền đồn. Chính tình cảm, suy tư, hành động của những nhân vật tưởng chừng không quan trọng ấy đã tạo nên cái nền vững chắc để rồi trên đó những người anh hùng mới có đủ quyết tâm và dũng khí để làm những điều họ phải làm.

                “Cưỡi Ngọn Sấm” – qua 700 trang sách, trong khi kể về Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 nhưng không quên nhắc lại Tết Mậu Thân 1968; trong khi kể về sự thành lập lực lượng Thủy Quân Lục Chiến VNCH nhưng vẫn nhắc đến các cuộc huấn luyện TQLC tại Hoa Kỳ, kể chi tiết về các trận đánh và cũng rất tỉ mỉ trong các vấn đề kỹ thuật. Cuộc sống và tâm tư của thân nhân các chiến sĩ được mô tả cặn kẽ dù đó là Bunny-vợ Turley, Moline-vợ Ripley, hay Bành Cầm-vợ Bá Bình, cho thấy dù Mỹ hay Việt bất kỳ người vợ lính nào cũng đều phải chịu đựng những thiệt thòi, lo sợ, đau đớn không khác gì nhau.

                Những gì còn đọng lại trong tâm trí những người đã từng thấy, từng nghe, về trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa thường là cảnh tượng kinh hoàng của bom đạn, hỗn loạn và xác chết. Thế nhưng, ít ai biết trong những thời khắc đau thương tột cùng ấy đã từng có những câu chuyện cảm động về tình người, tình chiến hữu mà “Cưỡi Ngọn Sấm: Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” là một.
                Người viết bài này thuộc một thế hệ lớn lên sau chiến tranh, trong đời chưa từng nghe một tiếng súng nổ, một tiếng bom rơi dù sống ngay trong lòng nước Việt từ 1962. Cuộc sống hồn nhiên của đứa nhỏ ấy trong nhiều năm dài có được là do đâu? Nếu như năm 1972 miền Nam bị rơi vào tay Cộng quân thì nó sẽ ra sao? Những câu hỏi ấy chợt bùng lên sau khi đọc những dòng máu lệ Ride The Thunder, và rồi cứ ở mãi trong đầu…

                Phải cần bao nhiêu hy sinh mới có được Tự Do?

                Câu trả lời ở những chiến sĩ quyết tâm giữ vững bờ cõi thật đơn giản:

                Chỉ cần duy nhất một hy sinh – Đó là hy sinh mạng sống của chính mình.

                Những ngày cuối năm 2014
                nguồn:
                http://svqy.org/2015/2-2015/cns/frame/cns.htm

                Comment


                • Một Tài Liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia & Các Sĩ Quan Tốt Nghiệp - Nguyễn Kỳ Phong

                  Một Tài Liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia
                  & Các Sĩ Quan Tốt Nghiệp

                  Nguyễn Kỳ Phong



                  Hình minh họa

                  Trong hai năm 1973 và 1974, một tham vụ chính trị ở Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tên là James Nach, bắt đầu thâu thập một số chi tiết lịch sử về nguồn gốc các trường đào tạo sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và sĩ quan tốt nghiệp từ các trường đó. Tác giả ghi lại rất nhiều chi tiết về mười khóa đầu của Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt và năm khóa đầu của Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức. Ðây là một tập tài liệu với nhiều chi tiết lý thú. Ông James Nach còn bỏ công ra ghi lại chức vụ đương nhiệm của một số sĩ quan tốt nghiệp. Theo sự hiểu biết của người viết bài này, tài liệu của James Nach là một trong hai tài liệu duy nhất của người Mỹ nghiên cứu về hệ thống đào tạo sĩ quan và xuất thân của sĩ quan QLVNCH. Năm 1970, cơ quan Advanced Research Projects Agency (một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực hiện một nghiên cứu với tựa đề An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Tuy nhiên, nghiên cứu này có tính cách chính trị nhiều hơn là lịch sử, vì tài liệu chỉ nói đến hệ thống sĩ quan tướng lãnh và phân lọai họ có chiều hướng theo “phe” nào trong thời điểm đó. Tài liệu của James Nach được viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với sự chuẩn hành của Đại sứ Graham Martin. Vì tài liệu nằm trong dạng công văn, nên chỉ được lưu trữ trong văn khố hay các trung tâm nghiên cứu về Việt Nam. Bài viết dưới đây sơ lược lại những chi tiết lý thú của tác giả James Nach trong The National Military Academy and Its Prominent Graduates và Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools.

                  The National Military Academy and Its Prominent Graduates

                  Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lược lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12-1948, và Khóa 2 tháng 9-1949. Tháng 10-1950 trường dọn về Ðà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10-4-1963).

                  Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960. Thủ khoa Khóa 1 là Trung tướng Nguyễn Hữu Có; Khóa 2 là Thiếu tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức). Những tướng lãnh tốt nghiệp Khóa 1 như các Trung tướng Ðặng Văn Quang; Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Thiệu; Trần Văn Trung. Một số sĩ quan cấp Thiếu tướng và Chuẩn tướng như, Bùi Ðình Ðạm; Phan Xuân Nhuận; Tôn Thất Xứng; Nguyễn Văn Chuân. Khóa 2 có chín sĩ quan trở thành tướng lãnh, Trung tướng Ngô Dzu và Nguyễn Văn Mạnh; các Thiếu tướng Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn Cao; Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc Triển; và Chuẩn tướng Lê Trung Tường. Trung tá Vương Văn Ðông, một trong những nhân vật chủ mưu đảo chánh 11-11-1960, cũng ra từ Khóa 2 này.

                  Khóa 3 Trần Hưng Ðạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp. Ðây là khóa đầu tiên khai giảng ở Ðà Lạt. Có chín sĩ quan trở thành cấp tướng — cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa có bốn Trung tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Ðoàn I; tốt nghiệp hạng 5); Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh binh chủng Pháo Binh; hạng 8); Lâm Quang Thi (tư lệnh tiền phương Quân Ðoàn I; 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Ðoàn II, 24). Hai sĩ quan tốt nghiệp trở thành tướng của Quân Chủng Không Quân là Chuẩn tướng Võ Dinh (tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Oánh (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huyến Luyện Không Quân). Hai Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (á khoa, tư lệnh phó Quân Ðoàn III khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.

                  Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11-1951 – tháng 12-1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10-1953 – tháng 6-1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh. Phần lớn là những tướng hành quân/tác chiến, hơn là tướng tham mưu/ hành chánh. Khóa 4 có hai Trung tướng là Nguyễn Văn Minh (tư lệnh QÐ III, 1972) và cố Trung tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh QÐ IV khi tử nạn tháng 5-1970). Hai sĩ quan kia là Chuẩn tướng Ðỗ Kiến Nhiểu (Đô trưởng Sài Gòn) và thủ khoa Nguyễn Cao Albert (giãi ngũ). Riêng tên của cố Trung tướng Nguyễn Viết Thanh được đặt cho hai khóa tốt nghiệp sĩ quan của QLVNCH: Khóa 6/1970 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức, và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Khóa 5 Hoàng Diệu (8-1951 – 5-1952), với 225 sĩ quan tốt nghiệp, là khóa đào tạo nhiều tướng lãnh nhất — 10 sĩ quan cấp tướng. Các Trung tướng Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư Quốc Ðống; Phan Trọng Chinh. Hai Thiếu tướng Trần Bá Di và Ðỗ Kế Giai. Các Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chương Dzềnh Quay; Lê Văn Tư. Có ba Đại tá tốt nghiệp khóa này cũng được nhắc đến nhiều là Dương Hiếu Nghĩa (thủ khoa, liên hệ đến vụ đảo chánh 1-11-1963); Phạm Văn Liễu (ra trường hạng 19, liên hệ đến nhiều vụ đảo chánh); và Lê Ðức Ðạt (hạng 20, tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh khi bị mất tích ở Tân Cảnh tháng 4-1972). Khóa 6 Ðinh Bộ Lĩnh (12-1951 – 10-1952; 181 sĩ quan tốt nghiệp) có ba Chuẩn tướng Lý Tòng Bá (thủ khoa); Trần Quang Khôi (hạng 6); và Trần Ðình Thọ (hạng 79). Nhà văn Trung tá Nguyễn Ðạt Thịnh cũng đến từ khóa này. Khóa 7 có Chuẩn tướng Trương Quang Ân (thủ khoa, tử nạn trực thăng năm 1968); Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai. Khóa 8 có Thiếu tướng Phạm Văn Phú, và Chuẩn tướng Huỳnh Thới Tây (tư lệnh Cảnh Sát Ðặc Biệt). Khóa 9 không có sĩ quan tốt nghiệp nào lên tướng. Khóa 10 Trần Bình Trọng (10-1953 – 6-1954) là khóa đông nhất của 10 khóa đầu tiên, với 400 sĩ quan tốt nghiệp. Thiếu tướng Lê Minh Ðảo (hạng 18); hai Chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trần Văn Nhựt. Mười khóa đầu của trường Võ Bị Quốc Gia đào tạo tất cả 40 tướng trong số 80 tướng hiện dịch của năm 1974 (80 tướng hiện dịch không kể tướng của Quân Chủng Hải Quân hay Ngành Quân Y).

                  Trong khi 10 khóa đầu đào tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy của QLVNCH, các Khóa 11 đến 20 đào tạo nhiều sĩ quan trung cấp, cột trụ của quân đội. Những sĩ quan cấp trung tá và đại tá của Khóa 14-18 hiện diện và chỉ huy hầu hết các đơn vị chủ lực của QLVNCH. Khóa 16 Ấp Chiến Lược (226 sĩ quan tốt nghiệp; thủ khoa Bùi Quyền) có nhiều sĩ quan đã lên đến cấp bậc trung tá hay đại tá, chỉ huy trung đoàn hay lữ đoàn trong quân đội. Hai Khóa 19 và 20 thì có nhiều sĩ quan tiểu đoàn trưởng. Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt nghiệp và là khóa kém may mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt nghiệp vài ngày đã tử trận ngay ở chiến trường, trong đó thủ khoa Võ Thành Kháng (trận Bình Giả). Khóa 20 được coi là đông nhất (406 tốt nghiệp; thủ khoa Trần Thanh Quang). Khóa 22B là khóa đầu tiên ra trường với trình độ văn hóa bốn năm. Nhưng khóa cũng không được may mắn khi thủ khoa Nguyễn Thanh Phóng bị tử trận vài tháng sau đó, trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt năm 1970.

                  Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools

                  Ðây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Ðội Quốc Gia, Hệ Thống Sĩ Quan, và Các Trường Huấn Luyện Quân Sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Ðông Dương, tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Ðây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho thế chiến thứ hai bắt đầu nhen nhúm. Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như, Nội Ứng Nghĩa Ðinh và Nội Ứng Nghĩa Quân. Theo tác giả Nach, Trung tướng Văn Thành Cao và Trình Minh Thế của quân đội Liên Minh Cao Ðài được huấn luyện từ trường này. Người Pháp cũng lập ra một vài trường huấn luyện quân sự cho các giáo phái. Trường huấn luyện Cái Vồn của Hòa Hảo là nơi xuất thân của các tướng Trần Văn Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành Nguyên. Tác giả cho biết sau khi trường Cái Vồn bị đóng cửa, một số sinh viên được phép ghi danh nhập học trường Võ Bị ở Huế. Những trường khác được nhắc tên trong giai đọan này như Trường Móng Cáy, Trường Quân Chính, Trường Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (một trường quân sự chính trị do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lập).

                  Năm 1946-47 Ðảng Ðại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung. Trường này đôi khi còn được gọi là trường sĩ quan Yên Bái. Những người đã theo học trường này gồm có Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu; Đại tá Phạm Văn Liễu; Đại sứ Ðinh Trình Chinh (đại sứ ở Thái Lan); Đại sứ Ngô Tôn Ðạt (đại sứ ở Ðại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (Nhật Báo Chính Luận).

                  Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thành sĩ quan ở Thủ Dầu Một và Tong. Ðại tướng Dương Văn Minh, và Tổng trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các Trung tướng Trần Văn Ðôn; Linh Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.

                  Sau đệ nhị thế chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Ðội ở Dông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này. Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Ðông được thành lập tháng 7-1946 tại Ðà Lạt. Trường chỉ khai giảng một khóa duy nhất, với 16 sĩ quan tốt nghiệp. Những sĩ quan tốt nghiệp trường này gồm có hai Đại tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm; Trung tướng Trần Ngọc Tám và Dương Văn Ðức; các Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiểm (chánh võ phòng của Tổng thống Thiệu); Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn; Cao Hảo Hớn; và Dương Ngọc Lắm. Năm 1947-1948 trường được dọn về Vũng Tàu và có tên mới là École Militaire Nước Ngot (Trường Võ Bị Nước Ngọt, Vũng Tàu). Những sĩ quan tốt nghiệp trường này có cố Trung tướng Ðỗ Cao Trí; Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham Mưu Phó Phòng Nhân Viên, Bộ Tổng Tham Mưu); Đại tá Trang Văn Chính (chỉ huy phó Chiến Tranh Chính Trị); và Đại tá Bùi Quang Ðịnh (Bộ Chiêu Hồi). Trong năm năm, 1949-1953, một trung tâm huấn luyện hoàn hảo sĩ quan được thành lập ở Cap St. Jacques. Trung tâm huấn luyện năm khoá. Khóa 1 có những sĩ quan tốt nghiệp như cố Đại tướng Cao Văn Viên; cố Trung tướng Nguyễn Chánh Thi; Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh; và Đại tá Vũ Quang Tài.

                  Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948 một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế để bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia. Tác giả James Nach đã sơ lược về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Ðức. Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt lại những chi tiết đáng ghi nhớ. Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và Nam Định (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi, Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Thủ Ðức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Ðịnh có 218. Khóa 1 đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn Trung tướng, Trần Văn Minh; Nguyễn Ðức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Ðồng Văn Khuyên (á khoa). Sau Khóa 1, trường dời về Thủ Ðức. Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (12-1953 – 6-1954) và Khóa 5 Vì Dân (6-1954 – 2-1955) có số sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1.148 sĩ quan cho Khóa 4; 1.396 cho Khóa 5. Khóa 4 có được năm sĩ quan lên cấp tướng: cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng; Thiếu tướng Bùi Thế Lân; cố Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung Hậu; và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Khóa 5 có Chuẩn tướng Lê Văn Hưng. Trừ những sĩ quan tướng lãnh, Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp trung tá và đại tá chỉ huy những đơn vị chủ lực của QLVNCH. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến, đây là những sĩ quan đứng mũi chịu sào của giai đọan khói lửa 1965-1972. Theo tài liệu của James Nach, từ năm 1951 đến năm 1965, Thủ Ðức đào tạo 20.927 sĩ quan. Ðến tháng 9-1973, có tất cả 80.115 sĩ quan tốt nghiệp từ trường.

                  Nguyễn Kỳ Phong
                  nguồn:
                  http://www.quocgiahanhchanh.com/truongvobiquocgia.htm
                  Last edited by khongquan2; 03-14-2018, 02:54 PM.

                  Comment


                  • Phi Vụ Bất Khả Thi

                    Phi Vụ Bất Khả Thi
                    Nguyễn Thạch Giang

                    Vào cuộc

                    Khu phố nhỏ thuộc vùng ngoại ô, nhà nào cũng có sân trước vườn sau, khung cảnh yên tĩnh êm đềm.
                    Buổi sáng hãy còn sớm, ông Hai đã tắm rửa sạch sẽ sau khi đi bộ quanh xóm vừa tập thể dục vừa tán chuyện xưa chuyện nay với mấy người bạn mới vừa quen. Ông đứng trước nhà xem hoa ngắm cảnh, ngắm người ta ngắm xe cộ… sao lúc rày… đông nhiều vô kể.

                    Thằng Tâm Tư là cháu gọi ông Hai bằng cậu, lần nào cậu Hai từ Mỹ về chơi nó cũng lãnh phần hướng dẫn viên du lịch. Lần này cậu Hai về một mình, không có mợ Hai đi theo, hai cậu cháu tha hồ… Không ai càm ràm ý kiến bàn ra tán vào nên hay không nên, coi chừng hoá chất, coi chừng lường gạt, coi chừng chặt chém.
                    Thằng Tâm Tư từ trong nhà bước ra.

                    – Ðể bữa nay con dẫn cậu tới cái quán này mới mở, chuyên trị hủ tiếu, đặc biệt hủ tiếu bà Năm Sa Ðéc.

                    – Bà Năm Sa Ðéc ngày xưa là kịch sĩ nổi tiếng, sao bây giờ con cháu đi bán hủ tiếu khắp năm châu bốn biển, đi đâu cũng thấy. Mà con nói cái quán này sạch sẽ lắm phải không. Cậu bây giờ rất kỵ cái cảnh vừa ăn vừa đuổi ruồi, vừa nhìn người ta thảy xương xuống đất… có mấy con chó đứng chờ.


                    Thắm Nguyễn

                    – Dạ con biết, cậu bây giờ không giống cậu ngày xưa.

                    – Cháu ơi, mày đừng có thổi phồng quá đáng. Ăn xong hai cậu cháu mình kiếm quán cà phê ngồi nhâm nhi, tuần tới cậu về Mỹ rồi, cậu có chuyện muốn nhờ con.

                    – Dạ, mà cậu thích ngồi quán kiểu nào, dành cho người đứng tuổi hay cho giới trẻ. Cậu thích vô quán chém gió hay vô quán… để ngó… hì hì…

                    hay vô quán… để ngó… hì hì…

                    – Cậu muốn chỗ nào yên tĩnh, ngồi ngoài trời vừa mát mẻ vừa tránh ba cái khói thuốc mịt mù.

                    Chuyện bây giờ mới kể

                    Ông Hai chọn một bàn khuất cuối sân vườn, cẩn thận nhìn trước nhìn sau, kề tai thằng cháu nói nhỏ.

                    – Cháu à, mấy năm nay cậu gặp nhiều chuyện xui rủi, lúc nhà lên giá, mỗi tháng mỗi lên, lên thấy ham, cậu mợ vốn liếng để dành được bao nhiêu mót vét mua hai căn cho mướn chờ lên giá bán. Vừa mua xong, nó xuống giá tuột dốc không phanh. Cậu mợ ráng cầm cự, lỡ phóng lao thì phải theo lao chớ sao, theo riết theo hoài tới chừng theo hết nổi, buông tay, lỗ bao nhiêu cũng bỏ. Mẹ rượt, mới vừa bán xong, nhà nó lên giá trở lại, lên không ngừng nghỉ. Có phải mình xui không, nói hết thời mới đúng. Thằng con trai của cậu, tự nhiên dọn nhà qua tiểu bang khác, nói là hãng dời đi… nó phải đi theo. Mợ mày mới vừa nghỉ hưu, suốt ngày đi ra đi vô, than than thở thở, nhớ con nhớ cháu. Cậu buồn quá, sanh bịnh. Lo nghĩ vẫn vơ, lo đủ thứ, lại mang bịnh hồi hộp, cái gì cũng sợ, rồi bây giờ mang cái bịnh sợ chết.

                    Thằng Tâm Tư nghe vậy hết hồn hú vía, ngó ông cậu trân trân. Sao thấy cậu cũng giống y chang cậu của ngày hôm qua. Ðâu có gì khác.

                    – Cậu mang cái bịnh sợ chết từ lúc nào vậy. Cháu thấy cũng còn hơi sớm, cậu để chừng mười hai mươi năm nữa rồi sợ cũng vừa. Mà sức khỏe của cậu có vấn đề gì không?

                    – Thật ra cũng chưa có gì, tại cậu có cái tật hay lo trước thời hạn. Mới vừa đi khám tổng quát tháng rồi. Mọi sự trên dưới trong ngoài đều ổn. Tim mạch, huyết áp, mỡ trong máu, đường trong máu đều ở mức “bo đờ lai”, bác sĩ nói ráng ăn uống kiêng cữ, chịu khó tập thể dục thì khỏi cần uống thuốc.

                    – Bo đờ lai là gì vậy cậu.

                    – Là đang đứng ở cửa biên giới. Bên này thiên đàng bên kia địa ngục.

                    Thằng Tâm Tư gãi gãi đầu, lần đầu lâm vào tình thế không biết phải ứng xử thế nào cho đúng bài bản.

                    Cậu Hai vừa nói mà miệng cười gượng gạo thấy rõ.

                    – Có người giới thiệu cho cậu một ông thầy lừng danh, chuyên nghề giải xui giải hạn. Thầy nói có một bài thuốc chuyên trị… hê hê… khó nói quá… hê hê…
                    Cậu Hai ngó quanh mặt mày tay chân ngượng nghịu như con nít ăn vụng bị bắt gặp.

                    – Cháu à, cậu mợ hồi nào tới giờ tuy không giàu có gì…

                    – Dạ cháu biết, cháu không hề hỏi xin cậu điều gì.

                    – Không phải, ý cậu muốn nói là cậu tuy không phải là người khá giả gì nhưng cũng hưởng đủ cả. Ði du lịch đây đó, món ngon vật lạ nào cũng biết qua.

                    Cậu lại nhìn trước nhìn sau, ngập ngừng…

                    – Có một điều mà cậu chưa từng biết… khó nói quá…

                    – Cậu nói đại ra đi, ở đây không ai nghe.

                    – Cháu phải giữ kín, mợ mày biết được bả cạo đầu tao.

                    – ???

                    – Không phải cậu ham hố gì ba cái chuyện này. Người ta ăn chay ngủ mặn, còn cậu thì ăn mặn mà ngủ chay lâu rồi. Cái này là tại thầy phán. Thầy nói phải dùng hương trinh thì mới giải được hạn.

                    – Hương trinh… là cái con gì vậy cậu?

                    – Là con gái, gái còn trinh. Trời ơi, có vậy mà cũng không biết.

                    Thằng Tâm Tư bỗng cười hô hố, cười sặc sụa, vừa cười vừa nhìn cậu nó giễu cợt. Ông cậu thì ngượng như con nít vừa thú tội.

                    – Tội cho cậu của tui quá… để con ráng lo cái phi vụ này giúp cậu… trước khi mọi việc… quá trễ.

                    – Mày phải hứa là không nói cho ai nghe, không bao giờ, nhe, sống để bụng chết mang theo, bí mật của một người đàn ông, cái gì cũng biết qua… chỉ trừ một điều… hơi khó nói.

                    – Dạ hứa, nhớ.

                    Thằng Tâm Tư lại gãi gãi đầu, chắc cái điệu này phải hỏi đốc tờ gú gồ.

                    Cậu Hai tròn mắt. Hỏi đốc tờ?

                    Thằng cháu móc cái phone xịn ra bấm bấm bấm.

                    – Tưởng gì, gu gồ thì nói gu gồ, bày đặt lên xuống gú gồ, rồi còn gắn cho ổng học vị đốc tờ. Ổng có thi tuyển vào công chức biên chế đâu mà chạy bằng cấp cho ổng.

                    – Con bấm chữ trinh nữ. Ðể coi kết quả nhe. Hoa Trinh Nữ, một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Biết rồi, nghe hoài. Trinh Nữ Lầu Xanh, tuồng cải lương trước năm 1975, do Mỹ Châu, Ngọc Giàu, Tấn Tài… thủ diễn. Wow! Sao hồi xưa người ta đặt tên tuồng hay quá! Hé cậu, bá cháy, đỉnh của đỉnh, vô đối. Nào là… Tâm Sự Loài Chim Biển, rồi thì… Người Tình Trên Chiến Trận, điếc con ráy với…Yêu Người Ðiên, hôm nay thì cúi đầu bái phục, Trinh Nữ Lầu Xanh. Cái lầu xanh này mà khai trương, khỏi tốn tiền quảng cáo, bảo đảm thiên hạ xếp hàng bắt số.

                    – Cháu ơi, thằng cháu chuyên lạc đề lạc đường. Cháu làm ơn trở về con đường xưa em đi cho cậu mày nhờ.

                    – Dạ dạ, có ngay. Bấm chữ gì bây giờ cậu? Mình cứ việc bấm đại… nhe cậu…bấm là… phi vụ mua bán trinh… nhe cậu.

                    – Ừ, thì bấm đại đi, hỏi đốc tờ gú gồ, chớ bộ hỏi công an sao mày sợ.

                    Thằng cháu Tâm Tư lại bấm bấm bấm. Nó chu miệng, trố mắt, kêu trời. Thiệt… không thể tưởng tượng. Không thể tưởng tượng.

                    – Rồi, không kết quả, phi vụ bất khả thi.

                    – Không phải cậu ơi, đừng vội. Nhờ cậu mà hôm nay con mới biết một việc, một việc tưởng là người ta phải len lén nói nho nhỏ thì thầm, ngờ đâu nó nở rộ khắp bốn phương trời, để con đọc cậu nghe.

                    “Kiều nữ Jacky, 20 tuổi, muốn bán cái ngàn vàng hai mươi ngàn Bảng. Chỉ nhận tiền mặt. Cash only.”

                    – Hai mươi ngàn Bảng là cỡ bao nhiêu cậu? Nhiều hay ít?

                    – Nội cái Việt Nam Ðồng đây tao lo còn chưa xong, mày nói chi tới ba cái đồng Bảng Anh, thôi trở về cây nhà lá vườn đi con.

                    “Nữ sinh viên đại học học đại, tuổi vừa đủ vào quán ba uống rượu, lỡ dại theo bạn bè đập đá, giờ muốn trở về mái nhà xưa không khác xưa, bán cái quý nhất hai mươi triệu. Miễn mặc cả, giá đã hạ tới sàn.”

                    – Có hình không? Mà ở đây hay ở đâu vậy?

                    – Chắc cái mối này không xong, ở đâu xa lắc tí tè đi máy bay chớ đi xe đò biết chừng nào tới.

                    – Ở đây không có ai à?

                    – Chắc có, ở đâu mà không có, tại mấy người này không dám bỏ hình lên mạng.

                    Ðể cháu tìm thằng Tửng, thằng này cái gì nó cũng biết, hỏi nó có biết chỗ nào chỉ dùm. Bây giờ cậu về nhà nghỉ ngơi lấy sức. Khi nào xong việc con cho cậu hay. Mà cậu cho con biết ý thích của cậu như thế nào.

                    – Cậu thì chủ yếu là để giải hạn, không cần đẹp chỉ cần là đừng xấu quá. Cậu không thích người ốm quá, mà mập quá thì nhìn… hổng phê. Tuổi tác thì đừng cứng quá mà cũng đừng mềm quá. Con đừng tin ai, phải chính mắt con nhìn, thấy mới tin. Tuổi cỡ ba mươi thì cũng được, chỉ sợ cái đó nó đem rì biu lại thì coi như mình xài hàng si đa. Mà cậu sợ nhứt là mấy đứa tuổi nhỏ, nó túng cùng làm liều khai đội tuổi lên cho đủ tiêu chuẩn, tới chừng đổ bể mang tội làm tình với trẻ vị thành niên, cậu đọc báo thấy hoài.

                    – Cậu khỏi lo, con biết cậu rất cẩn thận. Con cũng vậy… Rồi, có gì con cho cậu hay.

                    Phi vụ không cần công chứng

                    Tâm Tư có hẹn với thằng Tửng tại cổng trường tiểu học, chỗ này vắng vẻ ít người qua lại, học sinh đang nghỉ hè, nó cải trang cho giống thám tử phim bộ Hồng Kông. Mang kính đen và đội mũ lưỡi trai. Thằng Tửng đi xe xịn đời mới từ từ ghé lại. Nó cũng đội mũ lưỡi trai mang kính đen. Ðụng hàng.

                    – Chào chú em. Anh là Tửng.

                    – Chào đại ca, em là Tâm, Tâm Tư.

                    – Biết mà, ở đây ai không biết chú mày Tâm Tư.

                    – Em có chuyện muốn nhờ đại ca. Chắc đại ca lo được.

                    – Vô đề đi, ngắn gọn.

                    – Có một người đàn ông, đang gặp một… có thể nói đang bị bao vây… bởi một đại hạn không gì gỡ nổi. Thầy Ba núi Ông Tà phán mau mau đi tìm mùi hương trinh nữ mà giải hạn.

                    – Người đàn ông đó chắc hẳn không phải là chú em?

                    – Chính xác. Nhưng em được ủy thác đứng ra đại diện thương thảo, đàm phán… cho cái phi vụ không cần công chứng này.

                    – Tốt, tốt, nhưng anh nói cho chú em mày biết điều này, anh không làm nghề dẫn gái, chưa từng, không hề. Nghe chú em mày than thở, anh cũng liều một phen giúp cái người đàn ông nào đó ham vui mà mang mặt nạ. Chú em mày cho biết yêu cầu như thế nào, ông anh sẽ cho biết giá.

                    – Biết là gặp đại ca thì thế nào cũng xong. Chỉ có một yêu cầu duy nhất là Ngọc nữ phải đủ tuổi làm chuyện người lớn. Xin lỗi, em phải xét căn cước.

                    – Ô Kê, theo như anh được biết thì giá cả từ khoảng hai mươi triệu cho đến một trăm triệu. Tuổi càng nhỏ thì tiền càng lớn, chân càng dài thì giá càng cao. Ðó là nói mấy em không tên tuổi. Còn mấy nàng thường xuyên xuất hiện trên in tờ nét thì nói thật, chúng mình không có cửa.

                    – Ô kê, vậy đại ca có sẵn hàng chưa? Có thể nào nhá nhá cho em thấy được không?

                    – Chờ chút, chờ coi anh mày làm việc.

                    Thằng Tửng móc phone ra bấm bấm bấm. Là em? Em muốn làm cái vụ này hả? Còn nguyên xi chưa bóc tem? Thiệt không đó? Hoàn tiền một trăm phần trăm nếu khách hàng không hài lòng. Ô kê, chờ chút có gì anh gọi lại sau.

                    – Có mối này tự động tình nguyện dâng hiến. Chỉ lấy mười triệu, giá cực thấp không nơi nào thấp hơn. Gái ba mươi nhưng vẫn còn nguyên. Ðây là bộ hình mới nhất chụp chưa quá ba mươi ngày. Nhìn thẳng nhìn nghiêng đủ kiểu. Mặc đồ xuyên thấu nhìn rõ nội y phô trương ba vòng đầy đủ.

                    – Nhìn hình thì quá bốc, trẻ như gái hai mươi. Nhưng nói thật, mình gặp hoài, bị hoài, hình trên phây với lại người thật khác nhau một trời một vực. Nếu tính theo phần trăm thì cũng phải đến tám chục. Em nói em ba mươi thì cộng thêm năm tuổi nữa là vừa.

                    – Chú em mày nhiều kinh nghiệm quá he, ở đời tiền nào của đó.

                    – Tiền bạc không thành vấn đề, quan trọng là ở chỗ hàng thật hay hàng giả. Giải hạn mà gặp đồ giả thì ăn làm sao nói làm sao với ông thần trù ẻo cho được đây.

                    – Thôi được, có chỗ này ngon lắm. Bảo đảm chín mươi chín phần trăm. Ðể anh mày liên lạc rồi cho chú mày biết. Ô kê.

                    – Ô kê.

                    Khách sạn hào hoa

                    Gọi là khách sạn Hào Hoa cho nó kêu bởi đó là tên một bộ phim nổi tiếng ai cũng biết, chánh thức có bảng hiệu đàng hoàng là khách sạn Ngàn Hoa, nhưng người dân ở đây gọi là nhà nghỉ. Nhà nghỉ ngàn hoa, hoa thật thì ít mà hoa biết nói thì nhiều.

                    Buổi trưa mùa hè nắng nóng đổ lửa có hai người đàn ông và một cô gái trẻ làm thủ tục mướn phòng. Họ xưng là người trong gia đình dù ba người ba họ khác nhau. Họ chỉ có nhu cầu nghỉ vài tiếng đồng hồ nên được hưởng giá đặc biệt. Nhân viên nhà nghỉ thì biết quá nhiều mấy cái chuyện này. Một nguyên tắc làm ăn hàng đầu của giới kinh doanh nhà nghỉ là không dòm ngó khách hàng.

                    Người đàn ông lớn tuổi kề tai cô gái trẻ nói nho nhỏ.

                    – Phòng số 35 trên lầu ba, cháu đứng đây chờ chú mở cửa vô trước, lát hồi cháu vô sau, nhe.

                    – Dạ.

                    Trước cửa phòng số 35.

                    Hai người đàn ông một già một trẻ, nhìn trước nhìn sau nhẹ mở cửa phòng, len lén bước vào như dân ăn trộm.

                    – Cháu vô phòng tắm núp trong đó, nhớ quan sát nghe ngóng. Hễ thấy có gì khả nghi bất thường, hoặc nghe cậu la cấp cứu thì nhào ra ứng cứu, thời buổi này không tin ai được, ghê lắm, báo ngày nào cũng có đăng.

                    – Dạ dạ… con lúc nào cũng cảnh giác. Hồi nãy có “chách ai đi” của con nhỏ đó rồi, chính xác hai mươi tuổi dư sáu tháng. Hình trong ảnh và người thật giống chín mươi phần trăm. Nói nó không được đem gì vô phòng kể cả phone cầm tay và nước uống. Ghê lắm, sợ nó bỏ thuốc mê vô trong nước, bị cái vụ này hoài. Con cũng cẩn thận rà soát khắp người nó rồi, không có gì nổi cộm.

                    – Vậy là tốt. Thôi vô phòng kiếm chỗ núp, nó lên tới gõ cửa kìa.

                    Ông Hai bước đến mở cửa cho người ngọc bước vào. Ðã lên chức ông ngoại rồi mà sao hồi hộp lúng túng còn hơn cái lần đầu tiên.

                    Cả hai nhìn nhau không biết phải bắt đầu như thế nào. Con Lành thì đã được anh Tửng dặn dò chỉ dẫn. Luôn nhớ là phải gọi chú bằng anh.

                    – Trời nóng quá mà sao anh mặc đồ nhiều vậy.

                    – Ờ ờ … tại cái thằng cháu… nó vẽ làm sao… thì chú…thì anh… diễn như vậy.

                    – Cái màn dạo đầu… là hai người ngồi cách xa… như vầy hả anh.

                    – Em nói còn y nguyên…chưa từng… sao cũng biết cái màn dạo đầu.

                    – Anh Tửng nói với em, ảnh dạy em là mới vô đầu thì phải làm như vậy như vậy.

                    – Bạn trai của em không có dạy em sao?

                    – Ðâu cần dạy, mấy cái chuyện này đâu cần ai dạy, tự biết.

                    – Bạn trai của em… ảnh dạo đầu như thế nào.

                    – Ảnh hả… cười… Ảnh hổng có màn đầu màn giữa màn cuối gì hết, nhập cục, ba hồi nhập một.

                    – Như vậy thì em đâu còn nữa.

                    – Dạ còn, còn y nguyên. Ảnh sung lắm, mới có ôm hun chút xíu là rồi, xong. Mau lắm lần nào cũng vậy.

                    – Bây giờ ảnh ở đâu?

                    – Dạ ảnh lên thành phố làm công nhân, hai ba tháng về thăm nhà một lần.

                    – Mai mốt ảnh về, rủi ảnh biết cái chuyện này thì sao?

                    Con Lành không nói gì, nó bắt đầu khóc. Ông Hai thật bối rối trước một tình cảnh không có trong kịch bản.

                    – Em ơi, em đừng khóc. Anh có bịnh, cái bịnh không thuốc chữa, anh đây rất khó chịu khi nhìn một người phụ nữ khóc. Dù đôi khi đó chỉ là những giọt nước mắt cá sấu.

                    Lành quệt nước mắt, cố nín.

                    – Bộ cá sấu cũng biết khóc nữa hả anh?

                    – Nghe người ta nói bắt chước nói theo, chưa từng thấy qua.

                    Ông Hai bước đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Tự nhiên thèm một ly rượu.

                    – Anh ơi, nhà này có ma. Em thấy sao cánh cửa nhà tắm nó nhúc nhích.

                    – Không sao đâu đừng sợ, để anh đập con ma này cho nó tởn.

                    Ông Hai đi vô nhà tắm khép cửa lại.

                    – Mày làm cái gì mà thập thò, ló ra ló vô vậy.

                    – Cậu ơi, bề gì mình cũng đã trả tiền đầy đủ, nếu cậu nhắm cậu làm không xong, để con tiếp sức, bỏ uổng.

                    – Thằng khùng, mày nói cái gì vậy.

                    – Cậu nghĩ coi, sức trai trẻ như con, coi phim còn chịu không nổi, đằng này coi “lai”, thánh sợ còn nhịn không được nữa là con.

                    – Mày đừng có nhìn, nghe chưa.

                    – Anh ơi, hết màn dạo đầu chưa?

                    – Chi vậy em?

                    – Tới cái màn thứ nhì thì mình cởi ra nằm xuống phải không anh?

                    – Từ từ chút, anh đâu phải như cái thằng người yêu của em.

                    – Dạ, em chỉ hỏi để em chuẩn bị.

                    – Em ơi, sao tự nhiên tới đây cái nó ngừng. Tự nhiên sao tới đây cái nó nói thôi. Kể như xong, úm ba la giải hạn.

                    – Anh sao vậy, bộ yếu lắm hả, sao anh không uống cái thuốc gì đó, nghe nói ở bên Mỹ bán rẻ lắm, hay lắm mà.

                    – Cái gì cũng biết vậy mà nói em chưa biết gì.

                    – Lại nằm đây để em mát xa cho anh một hồi coi anh có khá hơn không.

                    – Ừ phải, anh thích.

                    Lành thò tay xuống gầm giường lấy cái phone, ông Hai thấy vậy người giận run lên.

                    – Em định làm gì vậy, cái phone này của ai, ở đâu em có cái phone này?

                    Ông Hai định nhào tới giật cái phone, em định chụp ảnh nóng của anh phải không?

                    – Anh ơi bớt giận, để em nói. Ðại gia người ta mới sợ có người tung ảnh nóng lên mạng khống chế. Chớ còn ảnh nóng của anh và em bốt lên phây, thì chỉ hai đứa mình thôi nhé… hốt đá mấy ngày cũng chưa hết.

                    – Phi vụ đến đây coi như là xong, nói chuyện đàng hoàng.

                    – Dạ, anh bớt nóng, em sợ nhất là nhìn một người đàn ông lúc nổi giận.

                    Ông Hai bước đến bàn lấy nước uống, nhìn ra bên ngoài không nói gì. Lành ngồi im lặng, không hiểu sao tiệc vui chưa tàn lại xảy ra chuyện đáng tiếc.
                    Ông Hai bước đến ngồi cạnh bên Lành.

                    – Tôi sẽ trả tiền sòng phẳng như cam kết. Ðừng bao giờ nhắc tới cái chuyện này nữa. Ðã biết trước, cẩn thận dặn dò vậy mà cái thằng chết tiệt đó cũng để lọt cái phone.

                    – Dạ em cám ơn anh rất nhiều, anh rất tốt.

                    – Từ giờ gọi tôi là chú, đừng bao giờ gọi chú bằng anh.

                    – Dạ chú, chú đừng trách anh Tâm Tư tội nghiệp ảnh. Ảnh có khám xét con kỹ càng.

                    – Khám sao để lọt cái phone vô đây.

                    – Dạ con có chỗ giấu.

                    – Giấu chỗ nào?

                    – Chú ơi, trên thân thể người đàn bà có chỗ nào kín hơn chỗ kín.

                    Ông Hai đưa tay lên trời, thiệt chưa từng thấy. Ngày xưa, người đàn bà đẹp khêu gợi, trong quán ba hay vũ trường, mặc áo hở cổ, một tay cầm ly rượu, một tay thò vào ngực từ từ rút đồng bạc trong áo cọt xê bo cho anh bồi, mà phải đẹp mới làm như vậy. Còn thời bây giờ, cái phone chần dần như vậy mà cũng… giấu được. Thiệt tình nghĩ không ra.

                    Thôi bỏ qua hết, coi như cái phi vụ này đã xong. Giải hạn được thì tốt, giải không được thì cũng thây kệ… mẹ. Con ma trong nhà tắm mày đâu rồi, sao nãy giờ có chuyện mày trốn mất dấu vậy hả con?

                    – Dạ con đây xin trình diện, con thấy cậu nổi giận sợ quá… chờ cậu bớt giận.

                    Từ trong góc phòng lù lù xuất hiện một con ma khác, thằng Tửng. Ông Hai nhìn thằng cháu, giỏi quá hé, ông con sê cu ry ty, ông làm ơn lập bảng báo cáo trình thượng cấp.

                    – Thưa chú, xin phép cho con nói trước. Lúc đầu con đánh giá chú là một người tử tế đàng hoàng. Có thể tin được. Sau con thấy chú với thằng cháu của chú hai người rù rì to to nhỏ nhỏ. Biết đâu được gián điệp gài độ. Con phải thủ một đường hạ cánh an toàn. Con nói con Lành giấu cái phone, có gì gọi con ứng cứu.
                    Con đi lòng vòng bên ngoài sao không thấy bóng dáng thằng Tâm Tư. Bụng bắt đầu đặt dấu hỏi. Thôi chết mẹ rồi. Nó ở trong phòng với chú. Con Lành thấy nó thập thò trong nhà tắm sợ điếng hồn, thừa lúc chú vô đó bàn tính điều gì với nó, lén mở cửa cho con vô.
                    Nãy giờ con làm con ma xó.

                    – Vậy là nãy giờ mày nghe hết, thấy hết.

                    – Dạ, lúc đầu giống như phim hài, lúc sau hết cười, cái lúc mà chú bước lại cửa sổ nhìn ra bên ngoài, thấy gương mặt chú buồn bã tội nghiệp. Con ứa nước mắt, biết chú không làm là tại chú không muốn chớ không phải chú không còn sức.

                    – Mấy cháu ơi, thôi lỡ rồi, cũng may, chưa xảy ra điều gì. Quên hết đi, đừng nhớ cũng đừng nhắc. Lành đâu. Dạ. Chú còn ở nhà một mớ, gom lại đâu cũng cỡ trăm triệu… cho con hết. Coi như chú mua đứt cái đó của con, đừng đem đi bán nữa nhe. Dạ, con hứa. Thôi, đừng khóc. Tâm Tư, dạ, mày biết tiền của cậu để đâu không. Dạ biết. Về nhà lấy hết dùm cậu, cậu ra quán nhậu ngồi chờ. Tự nhiên bữa nay thèm nhậu. Con ma xó có muốn đi theo không. Dạ muốn. Chú ơi cho Lành đi theo, cháu ăn mồi.

                    NTG Tháng 08-2016
                    nguồn:
                    http://baotreonline.com/phi-vu-bat-kha-thi/
                    Last edited by BachMa; 03-16-2018, 06:32 PM.

                    Comment


                    • Kỵ Binh QLVNCH: Trận Cửa Việt

                      Kỵ Binh QLVNCH: Trận Cửa Việt
                      Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng


                      Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…Riêng tôi là một trong hàng trăm chiến sĩ của QLVNCH có mặt trong trận đánh đó. Ở đây tôi không dám lạm bàn về Anh Hùng hay Bại Tướng mà chỉ muốn nóí lên niềm tự hào của môt người lính Thiết Giáp trên chiến trường giới tuyến vì đã tham dự nhiều trận chiến trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 và trận đánh ác liệt, đẫm máu, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất, mở đường cho những trận tái chiếm tỉnh lỵ và Cổ thành Quảng Trị, và lại có mặt trong cuộc hành quân tái chiếm Cửa Việt: Một cuộc hành quân thần tốc do Thiết Giáp làm Lực Lượng Tấn Công chính, phải chiếm cho bằng được mục tiêu trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vượt qua đoạn đường hơn 10 cây số với vô vàn chốt và tuyến chặn của địch mà trước đó các đơn vị bạn đã phải mất hàng tháng trời, khó khăn lắm mới tiến lên được vài trăm mét, sau cùng vẫn bị đẩy lui về vị trí ban đầu…….

                      “Truth is the only merit that gives dignity and worth to history.”
                      Lord Acton

                      Toàn bộ quá trình kế hoạch Hành Quân mang tên Tango bắt đầu từ buổi họp hành quân đặc biệt vào lúc 09:00 giờ ngày 26/01/1973 tại Phòng Họp Hành Quân BTL/Lữ Đoàn 147/TQLC tại Hội Yên, Hải Lăng, Quảng-Trị, gồm có:
                      – Tr/tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1)
                      – Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC)
                      – Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLP/SĐ/TQLC)
                      – Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC

                      – Các Thiết Đoàn trưởng gồm:
                      – Tr/tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn20CX),
                      – Tr/tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn17KB),
                      – Th/tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn trưởng TĐ18KB)
                      – Các T/Đoàn trưởng TQLC
                      – Và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (C/Đoàn trưởng CĐ1/20CX)

                      NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT

                      Lệnh của Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu:
                      – Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/01/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris)

                      TỔNG CHỈ HUY CUỘC HÀNH QUÂN TANGO

                      Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)

                      CHỈ HUY CÁC CÁNH QUÂN

                      1. Cánh A (Nổ lực chính)
                      Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 1/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ).
                      Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng C/Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.

                      Lực lượng gồm:

                      – C/Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/C/Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]

                      Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:

                      – Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), C/Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). C/Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
                      – ĐĐội4/TĐoàn2TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)

                      Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/01/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.

                      2.Cánh B (Nổ lực phụ)

                      Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 3/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ).


                      Thiết Đoàn 20 Chiến Xa M48 – Quảng Trị 1972

                      Lực lượng gồm:

                      – C/Đoàn 3/20CX (- 1 C/Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm12 CX M.48 + M.113

                      Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:

                      – C/Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) C/Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).

                      – ĐĐ3/TĐoàn4TQLC (Kình Ngý) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)

                      Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.

                      – T/Đoàn 4 (-) TQLC của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống (khóa 16 TVBQG/VN), có nhiệm vụ phải tiến quân theo sau Cánh A, điền trám vào những mục tiêu đã được Thiết Giáp càn lướt qua và diệt những ổ kháng cự còn sót lại trong các mục tiêu.

                      – T/Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đ/Đội của T/Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng bắc.

                      Giờ G (xuất phát tấn công): 07:00 ngày 27/01/1973

                      – Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
                      – Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
                      – Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
                      – Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
                      – Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
                      – Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
                      – Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.

                      Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.

                      Sau khi Đ/tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
                      “Thưa Đại tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các T/Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”

                      Và Ch/tướng Lân nói:
                      “Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”

                      Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng C/Đội của mình phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung bảo Đ/u Cảnh (C/Đoàn trưởng 2/17TK) cùng C/Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.

                      (- Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Ch/Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Th/Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.

                      – Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các T/Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)

                      Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp:
                      – Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?

                      – Tại sao không để cho mình chỉ huy C/Đoàn (-), tức là 2 C/Đội cơ hữu của C/Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 C/Đội và lại tăng phái cho mình 1 C/Đội của C/Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?

                      – Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?.

                      Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra C/Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của C/Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là C/Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ C/Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với C/Đoàn 2/17TK và 1 Đ/Đội TQLC của T/Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.

                      Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/C/Đoàn 1/20CX cùng C/Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐoàn 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho C/Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn C/Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.

                      Khoảng 17:20, các C/Đội và C/Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đ/Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết

                      Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.

                      DIỄN TIẾN TRẬN ĐÁNH

                      Khoảng 05:30 ngày 27/01/73, Đ/Đội 4/TĐ2 TQLC của Tr/u Công đến trình diện. Tôi gọi Đ/u Cảnh, Tr/u Kính, Th/u Quang, Th/u Sa và Tr/u Công đến họp ngay sau xe M.113 thuộc Phân đội chỉ huy của tôi. Tôi chỉ vào bản đồ vị trí hiên tại, vị trí quân bạn, tuyến xuất phát, tiếp đến nói ngắn gọn về kế hoạch tiến quân của Cánh A, và mục tiêu chính là Cửa Việt. Cũng nói sơ về Cánh B (nổ lực phụ rôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC tùng thiết lên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và chờ lệnh.

                      Chúng tôi chỉ họp trong vòng khoảng 20 phút. Vào lúc này thì Pháo binh đủ loại bắt đầu TOT (time on target) vào các làng dọc theo bờ biển trên trục tiến quân của Cánh A của tôi.

                      Khoảng 06:20 ngày 27/01, tôi gọi về BTL/Hành Quân/ SĐ/TQLC để họ báo cho T/Đoàn 4TQLC ra lênh cho Đ/Đội TQLC đang giữ tuyến đầu rút lui để chúng tôi tiến đến tuyến xuất phát.

                      Khi Cánh A của tôi đến tuyến xuất phát, Pháo binh vẫn còn hoạt động. Chỉ tiếc một điều là đạn pháo chỉ rơi vào bên trong các làng mà VC thì lại đào giao thông hào để bố trí kháng cự hoàn toàn ở ngoài khoảng cát trống nhưng có những ụ cát mấp mô, rải rác những cây bụi nhỏ, phía trước làng. Tôi cho C/Đội CX của Th/u Quang dàn hàng ngang bên phải (song song và cách mé biển chừng 100m), và Th/u Sa dàn hàng ngang bên trái, mỗi chiến xa cách nhau chừng 50m vì còn phải có khoảng trống để cho những M.113 của C/Đoàn 2/17TK dàn hàng ngang xen kẻ giữa những chiến xa nhưng lui về phía sau với cự ly chừng 20m.

                      Tôi chưa kịp ra lệnh tấn công thì địch đã dồn dập nổ súng từ trong làng kèm với đạn cối 82 ly rơi nổ ngay trên tuyến xuát phát. Tôi tức tốc cho lệnh tấn công ngay, dồn hỏa lực đại liên 30 ly M.73 song hành và đại liên 50 ly của Chiến xa và của M.113 vào mục tiêu đầu tiên (làng Gia đẳng).

                      1). Nhưng địch vẫn bắn trả rất mảnh liệt bằng thượng liên và súng chống chiến xa AT-3 cũng như B-41. Điều này khiến tôi hồi tưởng đến trận đánh ở Quảng Tín (Quảng Nam) vào đầu Tết năm 1970, lúc tôi còn làm C/Đoàn Phó C/Đoàn 2/17TK.

                      (Đây là cuộc Hành Quân mang tên Dương Sơn 3 do Lữ Đoàn 1 KB cùng với Liên Đoàn 1 BĐQ do Đ/tá Phan-hòa-Hiệp (TL/Lữ Đoàn 1KB hồi đó) chỉ huy. Khi C/Đoàn tôi đang dàn hàng ngang trước mục tiêu chừng 100m và bắt đầu tiến vào mục tiêu thì địch đã tấn công trước vì chúng đã đào hầm hố và giao thông hào trước mục tiêu chừng 50m. Yếu tố bất ngờ này khiến C/Đoàn lúng túng, nhưng tôi đã ra lệnh tiếp tục tấn công bằng cách dùng đại liên 50 bắn vào mục tiêu, còn 2 khẩu đại liên 30 gắn 2 bên hông phía trên xe M.113 thì bắn vào các ụ đất và lùm cây nhỏ trên trục tấn công. Nhờ vậy mà C/Đoàn đã diệt được các chốt phía ngoài trống và xông thẳng vào chiếm được mục tiêu. Sau đó thì thả BĐQ xuống vào sâu lục soát tiêu diệt tiếp. Và tôi đã được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận do Đ/tướng Cao.văn-Viên gắn lon tại BTL/Hành Quân/Lữ Đoàn 1KB đóng tại đồi Hương Sơn, Quảng Tín).

                      Chính vì thế mà tôi ra lệnh cho Chiến xa M.48 và M.113 tấn công bắn phá theo chiến thuật đó. Đặc biệt là Chiến xa vẫn tiến liên tục cán luôn lên hầm hố và giao thông hào của địch, còn M.113 của C/Đoàn 2/17TK vẫn tiến theo sau, đồng thời thả TQLC trên xe xuống để dùng súng cá nhân thanh toán địch trong những hầm hố và giao thông hào đã bị Chiến xa cán lướt qua. Tiến được chừng hơn 200m thì lính TG trên M.113 thuộc Phân đội Chỉ huy của tôi đã nhảy xuống bắt sống một tên địch với khẩu súng bắn tỉa có máy nhắm. Tôi mới chợt nhớ ra tại sao hai bên tai của tôi đã có những tiếng nổ toác toác. Đó là đạn phát ra từ khẩu súng bắn tỉa này. Mục đích là muốn tỉa rụng cấp chỉ huy trước. Tôi nhảy xuống khỏi Chiến xa và hỏi tên địch: “Anh thuộc đơn vị nào?” Tên tù binh mặt mày xanh mét, trả lời, giọng miền Bắc run run: “Em thuộc Z6/304. Xin các anh cho em sống. Xin các anh cho em sống!” Tôi cho lệnh chở tên tù binh về phía sau để được khai thác tiếp, rôi lại tiếp tục tiến quân.


                      Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972

                      Kể lại phần này thì chỉ mấy dòng và như chuyện đã xảy ra trong thoáng chốc, nhưng trên chiến trường, thời gian cần thiết để thực hiện bước tiến qua từng thước đất của địch rất khó xác định.

                      Cánh quân của tôi đã vượt qua được khoảng 400m, cách làng Gia Đẳng I khoảng70m, thì pháo 130 ly của địch bắt đầu dập xuống, tức là địch pháo chặn đường tiến của cánh quân do tôi chỉ huy, đồng thời cũng thí luôn quân của họ đang chống cự ngoài khoảng cát trống, còn trong làng thì địch vẫn liên tục bắn ra.
                      Ngay vào lúc này, Th/u Đăng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, gọi máy báo đã bị thương. Mới bước đầu mà tôi đã mất đi một sĩ-quan thiện chiến rồi. Tôi lập tức ra lệnh cho Tr/u Tống-huy-Kính cùng với Chiến xa của anh lên thay thế và cho M.113 chở Th/u Quang về phía sau gần tuyến xuất phát để được tải thương sau khi đã liên lạc thông báo với T/Đoàn4TQLC đang tiến lên từ phía sau để điền vào phần đất cánh quân của tôi đã chiếm được nhưng rất chậm do pháo của địch cứ dồn dập.

                      Nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này đã hơn 10:40, tôi ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Sa tạt xéo về hướng Tây cách xa làng Gia Đẳng chừng 70m, chuyển thành hàng ngang như cánh cung rồi tiếp tục tiến, riêng Th/u Sa phải ra lệnh cho 2 chiến xa phía tận cùng bên phải tác xạ vào làng bên phải (làng Gia Đẳng, dọc sát bờ biển) bằng đại liên M.73 song hành (với đại bác) và đại lên 50 hướng về phía làng, vừa tác xạ vừa tiến về hướng bắc chứ không tấn công. Còn C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh thì nhanh chóng cho TQLC tùng thiết lên M.113 tiến dọc phía bên trái (phía bên trái tức là phía tây thì đã có Cánh B của Đ/u Nam, vả lại chỉ là khoảng trống nên không có gì nguy hiểm.)

                      Cánh A của tôi, kể từ tuyến xuất phát, đã tiến được hơn 2km vào khoảng 13:00. Tôi liên lạc với cánh B để biết vị trí của họ thì biết họ cũng đang gần đến ngang với Cánh A của tôi (Dĩ nhiên Cánh B là nổ lực phụ, tức là phải hổ trợ cho cánh quân của tôi khi cần, nên dù không chạm địch cũng không được tiến nhanh hơn Cánh A, và qủa thật thì cánh B chẳng gặp trở ngại gì nhiều trên đường tiến quân vì bên phía trái của họ đã có T/Đoàn2 và T/Đoàn9TQLC trong các làng thuộc mé ruộng).

                      Tôi tự nghĩ: mới mức độ tiến quân như thế này thì khó có thể đến được Cửa Việt vào buổi chiều tối. Vả lại địch quân vẫn bắn trả ráo riết. Tôi ra lệnh tiếp tục tiến quân càng nhanh càng tốt, dù biết những làng dọc mé biển vẫn còn địch quân. Chính vì thế mà T/Đoàn4TQLC không thể nào hoàn thành nhiệm vụ điền trám quân kịp thời vào những mục tiêu mà cánh quân của tôi đã càn lướt qua.

                      Bỗng chiến xa của Th/u Sa bị súng chống chiến xa AT-3 của địch bắn nổ sớt qua pháo tháp nhỏ (của đại liên 50 ly) và nhân viên xa đội của anh báo Th/u Sa đã bị thương. Tôi bèn ra lệnh cho C/Đoàn dừng lại chuyển thành hàng ngang tác xạ vào làng Gia Đẳng 3 và Ba Lăng bên phải (dọc biển) để cho M.113 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi (có y tá đi trên xe này) đến băng bó tạm thời cho Th/u Sa. Tôi hỏi tình trạng thì biết anh bị thương ở mắt và gãy cánh tay trái, tóc bị cháy xém. Sau khi Th/u Sa nhảy ra khỏi chiến xa lại còn bị miểng pháo 130 ly chém gãy luôn chân trái. Dù lệnh là không tải thương, nhưng cũng giống như tình trạng của Th/u Quang (C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX của tôi), vả lại khoảng cách với tuyến xuất phát chỉ hơn 2km, tôi ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh bung rộng yểm trợ cho M.113 chở Th/u Sa về phía sau và báo cho T/Đoàn 4 TQLC tiếp nhận tải thương. Nhưng vào lúc này thì họ lại điền trám quân chưa kịp với tốc độ tiến quân của chúng tôi nên hơn 40 phút sau xe M.113 mới trở lại. Và Th/u Thăng thay thế chỉ huy C/Đội của Th/u Sa (sau khi đã trực tiếp nói chuyện với Th/u Sa để hỏi tên của sĩ-quan này). Như vậy, C/Đoàn 1/20CX (-) của tôi chỉ còn Tr/u Kính là sĩ-quan kỳ cựu mà thôi. Chưa tiến quân được bao nhiêu cây số mà tôi đã thiếu vắng 2 sĩ-quan thiện chiến rồi. Thật không may chút nào!

                      Đến khoảng 17:40 thì Cánh A của tôi đã tiến được khoảng 5km. Trời đã sẩm tối vì đang là mùa đông. Tôi bèn cho lệnh ngưng tiến quân và tìm nơi bố trí đồng thời gọi cho Cánh B lên cùng phối hợp bố trí đóng quân (ngang với làng Long Quang).

                      Sau khi bố trí xong thì quân lính bắt đầu ăn uống vì đã không ăn trưa. Lúc này tôi mới gặp Th/tá Hoàng-Kiều, Th/Đoàn Phó Th/Đoàn20CX và mới biết được ông đã được lệnh đi theo để chỉ huy các cánh quân. Còn có cả Th/tá Phạm-văn-Tiền, T/Đoàn Phó T/Đoàn4TQLC nữa. Trời đât! Vậy mà trước đó tôi đã không được thông báo gì cũng như trong hệ thống liên lạc, tôi không nghe ông ra lệnh gì cả, vì BCH/Th/Đoàn 20CX đi theo Cánh B cho an toàn. Ông hỏi tôi: “Sao anh không tiếp tục tiến quân?” Tôi nói: “Trời sắp tối rồi thì TG làm sao mà tấn công được chứ. Vả lại, sáng mai là ngưng bắn, là Hòa Bình rồi. Mình đã chiếm được khoảng hơn 5km là tốt lắm rồi.” Ông chẳng nói gì thêm. Tôi nói: “Vậy bây giờ tôi báo cho Th/tá biết tọa độ vị trí đóng quân của toàn bộ 4 C/Đoàn để Th/tá báo về cho Đ/tá Trí.” Tôi lấy bản đồ và chỉ vị trí xong rồi nói tiếp: “Nếu họ bảo mình tiếp tục tiến quân thì Th/tá cứ nói là TG không hành quân vào ban đêm được.”

                      Tôi về lại BCH/C/Đoàn và nghĩ rằng ý kiến và lý do của mình nghe rất hợp lý trên mặt chiến thuật, cũng hy vọng là cuộc hành quân tạm thời có thể chấm dứt.
                      Nào ngờ, khoảng 20:45, Th/tá Kiều đi bộ đến BCH của tôi và nói: “Sý Đoàn TQLC ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải tiếp tục tấn công và chiếm cho được Cửa Việt trước 8 giờ sáng mai (tức là sáng ngày 28/01/1973), đúng theo lệnh ban đầu.” Ông chỉ nói có thế mà thôi.

                      Mọi suy nghĩ và hy vọng của tôi trước đó đều tan biến trong phút chốc. Nhưng đã là lệnh thì phải thi hành thôi. Tôi gọi máy cho Đ/u Nam, Cảnh, Minh cùng với các Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết đến xe tôi để họp khẩn cấp, đồng thời bảo họ cho các C/Đoàn và TQLC tùng thiết chuẩn bị.

                      Trong khi chờ đợi, tôi vào xe M.577, rọi đèn pin vào bản đồ suy nghĩ cho kế hoạch tiến chiếm Cửa Việt. Khi cả 3 Ch/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng đến, tôi nhắc lại lời của Th/tá Kiều về lệnh của Sý Đoàn TQLC rồi rọi đèn pin vào bản đồ và nói:
                      “- Mình chỉ còn cách Cửa Việt khoảng hơn 5km về hướng bắc, cách bờ biển chừng hơn 400m về hướng đông (sát nước biển). Muốn chiếm Cửa Việt thì bắt buộc phải tấn công bằng tốc độ mới kịp, tức là phải tiến ra sát bờ nước biển rồi phóng nhanh về hướng bắc.


                      Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972

                      – Trên đường tiến quân ra sát biển, tất cả mọi loại súng trên Chiến xa M.48 và M.113 đều phải xen kẻ quay về bên trái và bên phải. Chỉ có những xe hướng súng về phía trái, tức là hướng bắc, mới tác xạ khi cần. Còn về hướng nam, tức là bên phải, thì phải cẩn thận vì có thể sẽ gây thiệt hại cho quân bạn, tức là T/Đoàn4TQLC, dù tôi biết họ không thể nào điền trám quân kịp.

                      – Sau khi ra đến sát bờ biển thì từng xe phải chuyển hướng qua trái và hướng mọi loại súng về bên trái vừa tác xạ vừa tiến theo hàng dọc (bên phải lúc đó là biển). Chỉ còn có một cách này mà thôi. Tôi sẽ không cho gọi Pháo binh bắn chiếu sáng vì như thế địch sẽ thấy rõ các xe của mình để nhắm bắn. Cũng không cần Pháo binh yểm trợ vì sẽ mất yếu tố bất ngờ. Chiến xa nào xuất phát đầu tiên ra hướng biển thì có thể dễ nhận ra đường đi vì là khoảng trống giữa 2 làng Bình An và Thanh Hội Phường, và chân trời phía biển thì mờ sáng. Khi ra đến bải cát sát bờ biển thì sẽ dễ thấy hơn nữa vì ban đêm thì cát thường sáng hơn (kinh nghiệm từ những lần đi tắm biển vào ban đêm của tôi).

                      – C/Đoàn của Đ/u Nam sẽ đi đầu, kế tiếp là C/Đoàn của tôi, sau đó là C/Đoàn 2/17TK và sau cùng là C/Đoàn 3/18TK. Khi di chuyển, mỗi xe chỉ cách nhau chừng 20m cho dễ thấy nhau. Bây giờ, tất cả trở về ra lệnh cho TQLC tùng thiết lên xe. Sau 40 phút sẽ xuất phát, tức là 22:40. Tất cả các C/Đoàn Trưởng đều phải vào hệ thống truyền tin của Th/Đoàn 20CX (ngoài hệ thống chi huy nội bộ của từng Ch/Đoàn)”

                      Cuộc họp khẩn cấp này chỉ gồm có 4 C/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết. Có lẽ vì quá vội, tôi quên mất Th/tá Kiều và Th/tá Tiền. (Thật ra thì ngay từ buổi họp tại Lữ Đoàn 147 TQLC, Đ/tá trí đã trực tiếp ra lệnh cho tôi chỉ huy Nổ lực Chính -Cánh A- chứ không đề cập gì đến việc có BCH/Th/Đoàn20CX đi theo. Vả lại, khi Th/tá Kiều chuyển lệnh của BTL/HànhQuân/SĐ/ TQLC cho tôi, ông cũng không đề cập gì đến vấn đề kế hoạch tiến quân).

                      Đúng 22:40 thì Ch/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam bắt đầu di chuyển, tiếp đến là những C/Đoàn khác đúng như kế hoạch.

                      Có lẽ vì địch quân không thể nào ngờ được TG lại tiến quân vào ban đêm. Lại không có Pháo binh bắn yểm trợ hay chiếu sáng, nên hoang mang và không trở tay kịp. Do đó hầu như địch không có phản ứng kịp thời để ngăn chặn bước tiến của TG trên đường tiến ra sát bờ biển.

                      Khi Đ/u Nam báo cáo C/Đội đi đầu đã ra sát bờ biển, tôi cho lệnh từng Chiến xa M.48 và M.113 sau khi ra sát bờ mới quay về trái và tiếp tục tiến, như vậy mới không mất đội hình di chuyển vào ban đêm. Và sau khi C/Đoàn 3/18TK báo cáo M.113 cuối cùng của họ đã quẹo trái, tôi cho lệnh nới rộng khoảng cách từng xe lên khoảng 30m, tất cả mọi loại súng đều hướng về bên trái, tức là vào dảy cây dương liểu dọc theo các làng dọc biển, cách bờ chừng 60 đến 70m và vừa di chuyển vừa tác xạ cầm chừng.

                      Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này là 00:20 ngày 28/01/73 (tôi mang đồng hồ dạ quang kèm một địa bàn đeo tay do Cố vấn Mỹ đã tặng tôi năm 1970), ước tính chiều dài đội hình di chuyển của các C/Đoàn để biết khi nào thì Chiến xa đầu tiên đến Cửa Việt.

                      Đoàn TG tiến quân chừng hơn 1km thì địch bắt đầu khai hỏa mạnh. Đạn địch bay sớt qua các xe rơi lỏm bỏm ngoài nước biển. Tôi cho lệnh tất cả vẫn tiến quân và tác xạ nhiều hơn vào dọc các làng trên đường đi, đồng thời di chuyển nhanh hơn.

                      Đoàn quân tiến được hơn 1 km nữa thì Đ/u Nam báo cáo chiến xa đầu tiên bị sụp xuống giao thông hào địch quân đã đào trong đêm để chận bước tiến của chúng tôi. Tôi bảo Nam tiếp tục cho các chiến xa kế tiếp lách sát ra ngoài mé nước biển vượt qua chiến xa đó để tác xạ yểm trợ và cho Chiến xa khác đến dùng dây cáp ngắn để kéo xe lên (loại dây cáp ngắn này đều được trang bị trên mỗi Chiến xa M.48). Đoàn quân tạm thời phải dừng lại để giải quyết tình huống này.

                      Khi được bào cáo chiến xa bị sụp xuống giao thông hào đã được kéo lên, tôi ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tiến, nhưng bổng có một tiếng nổ lớn và ánh sáng chớp lên từ phía sau, và C/Đoàn 2/17TK báo cáo chiếc M.113 chỉ huy của Đ/u Cảnh đã bị bắn. Cũng may xe không cháy, vẫn còn chạy được và Đ/u Cảnh cũng chỉ bị thương nhẹ nên vẫn có thể chỉ huy (nếu bị thương nặng hơn thì cũng phải được mang theo mà thôi, vì không thể nào tải thương được), còn có 2 BS bị thương. Tôi cảm thấy yên lòng và bắt đầu tiếp tục di chuyển. Bổng một phát đạn chống chiến xa của địch trúng ngay vào xe tôi, chớp lên một bụm lửa sáng lóe, lọt vào khoang xe từ phía tài xế và chiến xa rung mạnh. Tôi búng người ra ngoài pháo tháp chiến xa, tiếp đến là HS Thẩm, xạ thủ chiến xa của tôi, trồi đầu ra báo HS Thìn, tài xế chiến xa, đã chết. Tôi bảo HS Thẩm cùng Binh 1 Đá, nhân viên nạp đan, kéo HS Thìn ra khỏi xe rồi nhảy vào lại trong pháo tháp và gọi máy cho xe M.113 của tôi đi theo sau đến để chở thi thể HS Thìn và ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tác xạ vào làng. Sau đó tôi bảo HS Thẩm nhảy vào lái chiến xa của tôi (điều này rất bình thường vì khi chỉ huy, C/Đoàn Trưởng thường kiêm luôn xa trưởng và có thể tác xạ thay cho xạ thủ bằng cò điện trên cần điều khiển của trưởng xa) Phát đạn chống chiến xa của địch đã trúng ngay vào mặt nạ đại bác và miểng đạn đã phủ xuống đầu tài xế, nhưng lại không xuyên thủng vào trong khoang chiến xa được vì giữa mặt nạ đại bác và thành pháo tháp còn có một khoảng hở. Chỉ kẹt một điều là đại bác xe tôi không còn hửu dụng vì không thể hạ thấp được do mặt nạ đại bác đã bị cong úp xuống chạm và thành pháo tháp. Như vậy thì cây đại lên 30 ly M.73 song hành với đại bác cũng không còn sử dụng được nữa.

                      Tôi bảo Đ/u Nam tiếp tục di chuyển với tốc độ nhanh hơn nữa, vì bây giờ đã là hơn 05:00 giờ (ngày 28/01/73).

                      Đoàn quân di chuyển thêm được khoảng 1km thì trời đã hừng sáng (ở vùng biển thì trời sáng sớm hơn trong đất liền), tuy nhiên sương mù dày đặc, tầm nhìn chỉ chừng 50m. Bổng nhiên Đ/u Nam báo là đã đến Cửa Việt. Tôi hỏi Nam: “Như vậy, chiến xa đầu tiên đã thấy được nước mênh mông trước mặt chưa?” Nhưng Nam lại khẳng định là Cửa Việt, còn nói là anh ta đã đến Cửa Việt nhiều lần hồi còn ở C/Đoàn 1/7CX M.41.

                      (Trước năm 1970, Th/Đoàn 7KB thường xuyên tăng phái một C/Đội chiến xa M.41 cho căn cứ Hải Quân Cửa Việt – Cảng Mỹ -, (Và hồi còn ở cấp Th/u thi Nam đã có thời gian ở C/Đoàn 1/7CX M.41) nhưng đãc biệt là hàng tháng thì hoán đổi với C/Đội CX M.41 khác. Lý thuyết thì thế, nhưng thực tế thì chỉ thay đổi nhân viên xa đội mà thôi, vì như thế sẽ đở tốn nhiên liệu và thời gian cho các CX M.41 di chuyển hoán đổi. Nói thật thì loại CX M.41, nếu di chuyển đường dài từ Huế ra đến Cửa Việt, thường bị hỏng hóc dọc đường).

                      Lúc này, đồng hồ của tôi đã là 06;35. Tôi lật bản đồ, sau khi tính tốc độ và thời gian di chuyển cùng với khoảng cách từng xe, tôi bảo Nam: “Phải hơn 1 clic (mỗi cạnh ô vuông trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 = 1km) mới đến mục tiêu”. Có lẽ vì có trục trặc gì đó, Nam đã không chịu tiến quân tiếp, tôi bèn bảo Nam: “Mày cứ ở đó đi để tao cho C/Đoàn tao qua mặt.”

                      Tôi ra lệnh cho Tr/u Kính tiến tiếp, qua mặt C/Đoàn 3/20 CX, đồng thời ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK theo sau. C/Đoàn 1/20CX của tôi và C/Đoàn 2/17TK vừa qua mặt C/Đoàn của Nam xong thì tôi cho lệnh tăng tốc. Trên đường tiến quân, Tr/u Kinh báo cáo có rất nhiều giao thông hào phía trước, nhưng tôi cho lệnh: “Thấy giao thông hào nào rộng thì lách ra mé nước để vượt qua, còn giao thông hào nào hẹp thì cho chiến xa cán qua luôn.”

                      Trời sáng dần và sương mù đã tan. Tr/u Kinh báo cáo đã nhìn thấy rõ cửa biển trước mặt. Tôi bảo; “Bây giờ mới đúng là Cửa Việt.” Rồi cho lệnh toàn bộ C/Đoàn cho chiến xa xoay về bên trái và nới rộng khoảng cách chuyển thành hàng ngang để cho M.113 của C/Đoàn của Đ/u Cảnh tiến lên và xen kẻ. Tôi cũng bảo Nam và C/Đoàn 3/18TK của Đ/u Minh cũng dàn quân y như thế và bắt đầu tấn công hướng về căn cứ Cửa Việt.

                      Đạn địch từ phía trước bay đến như mưa, nhưng điều này cũng là chuyện bình thường đối với một đơn vị xung kích như chiến xa. Toàn bộ 4 C/Đoàn đã tiến sâu vào đất địch được khoảng 400m thì tôi nghe Đ/u Minh, C/Đoàn trưởng 3/18TK, báo có chiến xa địch xuất hiện từ hướng trái, tức là hướng Tây Nam của chúng tôi, từ trong rừng dương. Dĩ nhiên, M.113 không thể chọi với Chiến xa của địch, dù có gắn đại bác không giật 106 ly (vì việc sử dụng đại bác này không đơn giản như lý thuyết, vả lại xoay xở rất chậm vì phải lệ thuộc vào hướng của xe). Tôi bảo Đ/u Nam theo dỏi để bắn hạ.

                      Thật ra thì đơn vị chiến xa của địch đang ở hướng nam từ trong làng mé ruộng bung ra để chạy về hướng bắc là căn cứ Cửa Việt. Với địa thế mấp mô lồi lỏm, nhắm canh chừng để bắn một mục tiêu di động không dễ chút nào, trừ phi phải có những xa đội M.48 đã từng hạ chiến xa địch. Vì những chiến xa của địch chạy rất nhanh nên C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam đã không bắn kịp. Nhưng C/Đoàn của tôi, vì đang dàn hàng ngang xa về hướng bắc nên tôi đã tức tốc ra lệnh cho Tr/u Kính chỉ huy C/Đội đón bắn ngay (Tr/u Kinh là một trong những sĩ-quan nổi tiếng bắn đại bác rất hay kể từ ngày thành lập Th/Đoàn20CX vì đã được Mỹ huấn luyện rất kỷ và thực tập rất nhiều hồi ở căn cứ Ái-Tử. Với kinh nghiệm đã có, chính Tr/u Kính đã đón đầu bắn hạ 2 chiếc nằm im tại chỗ, chiếc còn lại bị một xa đội của C/Đội 3/1/20CX bắn hạ. (Những gì xảy ra trước mắt tôi nên không thể nào quên được).

                      Tôi liếc nhìn đồng hồ, lúc này là 07:43. Phía địch bắt đầu ngưng bắn nên tôi ra lệnh cho TQLC tùng thiết trên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK nhảy xuống trước và bung ra phía trước cắm cờ, rồi bố trí, còn lính trên chiến xa và M/113 thì nhảy xuống sau và tiếp tục cắm cờ phía trước, cách chiến xa chừng 30m để phân ranh giới rồi lên chiến xa trở lại nạp đạn chài (canister- loại đạn đại bác dùng để chống biển người) vào đại bác để đề phòng. Chỉ trong thoáng chốc thì đồng hồ đã chi 07:57.

                      Không còn tiếng súng nổ. Tôi nhảy xuống khỏi chiến xa chỉ huy và vào xe truyền tin M.577 báo cáo thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC là đã chiếm được Cửa Việt và đã cắm cờ, nhưng không thể tấn công vào căn cứ còn cách chừng hơn 500m được vì đã đến giờ ngưng bắn. Tôi hỏi tiếp vị trí của các cánh quân khác thì được biết cánh quân của T/Đoàn2 và T/Đoàn 9TQLC trong mé ruộng chỉ tiến vượt qua khỏi Long Quang chừng 200m, như vậy là cách chúng tôi khoảng 5km về hướng nam. Còn cánh quân của T/Đoàn 4 TQLC thì chỉ đến được gần Bình An. Như vậy thì còn cách chúng tôi đến hơn 5km.

                      Ngay lúc này, tôi nhìn ra biển thoáng thấy một chiếc L-20 đang bay lượn xa trên biển và bắn 2 qủa rocket xuống biển. Tôi gọi BTL/SĐ/TQLC và hỏi thì Đ/tá Trí bảo đó chỉ là bay ra để xác định chính xác vị trí đã chiếm được mà thôi.

                      Tôi cho Chiến xa chỉ huy của tôi cùng với chiếc M.577 truyền tin và chiếc M.113 lùi lại cách mé nước biển chừng 40m, báo cho các C/Đoàn vẫn lo việc canh gác như thường lệ, rồi cho lính pha cà phê trong C-ration (thùng lương khô) để uống và cho lo cơm nước.

                      Như vậy, BCH/C/Đoàn của tôi nằm xa nhất về hướng bắc. Lui về phía nam là BCH/C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh, cách nhau chửng 70m. Xa hơn chừng 100m nữa về phía nam là BCH/C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam + C/Đoản 3/18TK của Đ/u Minh + BCH/Th/Đoàn 20CX của Th/tá Kiều cùng với Th/tá Tiền, TĐP T/Đoàn 4TQLC và Tr/u Hiếu, Đ/Đội trưởng ĐĐ2/TĐ4TQLC tùng thiết cho C/Đoàn 3/18TK. Tôi bào Đ/u Nam phải cẩn thận đề phòng hướng nam vì chắc chắn còn lực lượng địch trong những làng mà trước đó chúng tôi chỉ dùng tốc dộ càn lướt qua mà không tấn công.

                      Tóm lại, chúng tôi chỉ có 2 mặt an toàn: phía biển Đông sau lưng và cửa biển bên phải về hướng bắc. Còn 2 mặt tây và nam thì đều có địch. Nếu cuộc chiến vẫn tiếp tục thì đường tiếp tế của chúng tôi đã bị chặn do TQLC không tiến kịp để điền trám các mục tiêu dọc trục tiến quân.


                      02 May 1972, Quang Tri, Vietnam — South Vietnamese soldiers helping the wounded. — Image by © Henri Bureau/Sygma/Corbis

                      Dù sao thi Niềm Vui Hòa Bình đã đến, tức là không còn chiến tranh, không còn bắn giết, không còn phải chiếm mục tiêu này, mục tiêu nọ, không còn bị tấn công, không còn bị thương hay chết chóc, mà sẽ được cùng với người thân, bạn bè thoải mái vui chơi trong những ngày nghỉ phép, vân vân và vân vân…Tất cả đều được diễn đạt theo nhiều cách. Kẻ thì bộc lộ quá mức bằng cách reo hò, kẻ thì thầm lặng, dấu kín trong lòng và chỉ bộc lộ bằng nụ cười mỉm. Mùi thuốc súng chiến trường không còn lảng vảng trong bầu trời trong sáng và êm ả của vùng biển…

                      Khoảng 10:15, Tr/u Kính báo có cấp chỉ huy của địch muốn vào gặp cấp chỉ huy trận đánh này. Tôi gọi máy báo cho Th/tá Kiều, nhưng ông bảo là không nên gặp. Tôi nói: “Nhưng bây giờ là Hòa Bình rồi thì có gì phải sợ chứ.” Ông trả lời: “Câu muốn gặp thì gặp, nhưng phải cẩn thận.” Tôi bảo Tr/u Kính chỉ cho người đó và một lính truyền tin của ông ta vào mà thôi.

                      Khi họ đến, tôi xuống khỏi chiến xa và đến gần anh ta (lớn hơn tôi chừng hơn 10 tuổi), chưa kịp chào thì anh ta tự giới thiệu là T/Đoàn trưởng của đơn vị đang ở tuyến đối đầu với tôi, và hỏi tiếp có phải tôi là người chỉ huy cuộc tấn công này không. Tôi trả lời: Đúng như vậy. (Có lẽ anh ta ngạc nhiên khi thấy bộ mặt non choẹt của tôi mà lại chỉ huy một lực lượng lớn như thế. Còn hỏi tôi là người ở đâu. Tôi nói ở Huế. Anh ta nói là đã vào trong Thành nội Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Anh ta tiếp tục hỏi tại sao tôi lại chiếm Cửa Việt. Vì đang trong tâm trạng vui vẻ nên tôi trả lời là tôi rất thích nơi này vì tôi rất thích tắm biển, nhất là nơi nào có cửa biển. Đặc biệt anh ta còn than phiền vì sao tôi lại cho lệnh bắn 3 chiến xa của họ. Tôi nói: vì lúc đó vẫn chưa đến giờ ngưng bắn. Tôi còn nói với anh ta nên cho vài người không được mang súng vào rồi đi xuống hướng nam để đào các giao thông hào đã bị chiến xa cán lướt xem ai còn sống thì mang về. Anh ta gật đầu và còn ngỏ ý mời tôi vào BCH/TĐoàn của anh ta chơi, đưa tay chỉ vào lùm dương cách vòng đai bố trí của chúng tôi chừng 500m. Tôi chỉ ừ è cho có lệ. Sau đó thì anh ta ra về. Tôi tà tà đi bộ dọc theo mé biển đến gặp Th/tá Kiều và kể lại chuyện này cho ông nghe. Ông nhắc nhở tôi phải cẩn thận vì ý đồ của anh ta có thể chỉ là vào để biết vị trí của BCH. Tôi chỉ nói: có thể là như vậy, nhưng Hòa Bình rồi thì lo làm gì cho mệt chứ.

                      Đến tối ngày 28/01/73, sau khi nhắc nhở toàn bộ 4 C/Đoàn trực máy và lo canh gác như thường lệ, thay vì ngủ trong xe M.577, tôi bảo lính căng ghế bố nằm bên hông chiến xa cho mát, nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc phải hưởng một giấc ngủ êm ái nhất trong đời lính và hít thở không khí về đêm của biển, nhất là sau 1 ngày và 1 đêm vất vả chiến đấu và không ngủ.

                      Trong đời, thật chẳng ai biết được chữ ‘Ngờ’. Tôi đang ngủ say sưa thì bổng nhiên những tiếng nổ thật lớn khiến tôi bừng giấc, đứng vọt dậy từ chiếc ghế bố và phóng thật nhanh lên chiến xa chỉ huy, nhìn quanh, những tiếng nổ và chớp lòe khắp nơi. Tôi biết chúng tôi đang bị pháo. Lúc này tất cả đều đã vọt dậy phóng lên chiến xa và M.113. Tôi gọi các C/Đoàn thì tất cả cũng đã lên xe và nghe báo cáo đã có mấy anh em ở các C/Đoàn khác bị thương do bị pháo. Tôi ra lệnh tất cả sẵn sàng ứng phó, vì theo kinh nghiệm, địch có thể sẽ tấn công sau những đợt pháo.

                      Tôi nhìn đồng hồ: 23:25 (ngày 28/01/73). Như vậy là mình bị pháo lúc khoảng 23:10. Lo thì cũng có lo, nhưng đạn pháo thì giống như “Trời kêu ai nấy dạ” (câu chúng tôi thường đùa với nhau khi bị pháo, vì không sao né tránh gì được). Tôi tự hỏi: “Hòa Bình rồi thì tại sao chúng nó vẫn còn pháo mình. Như vậy là vi phạm Hiệp Định rồi còn gì!” Trên hệ thống truyền tin, tôi không nghe Th/tá Kiều lên tiếng gì cả bèn chuyển qua hệ thống của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo cũng như nêu thắc mắc của tôi: “Hiện chúng tôi đang chịu những cơn mưa rất nặng hạt (bị pháo dữ dội). Như vậy là sao? Nếu chúng tấn công thì chúng tôi có được phép nổ súng không? Và điều này rất có thể xảy ra. Và thế thì mình có vi phạm Hiệp Định Paris không?” Ngay lúc này Tr/u Kính và Th/u Thăng báo lả đã thấy địch lố nhố phía trước nhờ ánh sáng của những lằn chớp của đạn pháo nổ. Tôi hỏi: “Cách xa bao nhiêu?” Tr/u Kinh nói: “Chừng 70m. Có bắn không, Hồng Nhạn?” Như vậy là cách tuyến của TQLC tùng thiết chừng 40m. Với phản ứng cấp thời, tôi nói: “Chưa nhận được lệnh. Nhưng nếu chúng nó tiến gần trong khoảng 50m thì phải nổ súng.” Lúc này Đ/tá Trí gọi máy và báo: “Nếu chúng nó tấn công và nổ súng trước thì phải chống trả”. Trời đất! Nếu chúng nó cứ ào ào tiến vào mà không nổ súng thì tình sao đây! Tôi biết tại BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC, ai cũng có thể nghe và thấy được những tia chớp do đạn pháo nổ vì chỉ cách chúng tôi chừng hơn 8Km, vả lại đang là ban đêm, nhưng không biết rõ là do pháo hay do 2 bên đang giao chiến. Đây là lúc không cần và cũng không có thời gian để suy nghĩ vớ vẫn về Hòa Bình, về Hiệp Định Paris nữa, mà phải tùy cơ ứng biến thôi. Tôi báo cho Đ/u Nam (3/20CX) và Đ/u Minh (3/18TK) biết tình hình địch phía bên tôi và hỏi tình hình bên đó thì biêt là không có dấu hiệu địch hoạt động trước tuyến. Tuy vậy tôi vẫn bảo Nam và Minh phải cẩn thận quan sát. Đồng thời tôi cũng báo cho Tr/u Công (TQLC tùng thiết) là chỉ được nổ súng khi địch nổ súng tấn công trước. Tôi cũng thầm nghĩ: Chắc địch muốn tấn công vào tuyến phòng thủ của tôi trước vì là tuyến đầu nằm xa nhất về hướng bắc và còn ngay trước căn cứ Cửa Việt.

                      Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và yêu cầu cho Pháo binh chuẩn bị để phản pháo vào những tọa độ tôi sẽ cung cấp, hy vọng địch sẽ vì thế mà giảm bớt cường độ pháo. Nhưng Đ/tá Trí bảo là không được. Tôi chẳng biết nói sao. Có lẽ ai cũng sợ vi phạm Hiệp Định và nếu thế thì số phận tương lai của cấp ra lệnh sẽ ra sao nếu bị kết tội. Pháo của địch vẫn dồn dập đủ loại vào vị trí của các C/Đoàn, ngoài loại 130 ly, còn có cả cối 82 ly. Cũng may chẳng có qủa nào rơi ngay trên Chiến xa M.48 hay M.113.

                      Tôi nhìn đồng hồ: đã là gần 05:00 ngày 29/01/73. Thời gian trôi thật nhanh khi người ta không cần để ý đến nó. Tôi mừng thầm và mong cho trời sáng nhanh hơn. Như vậy mới dễ quan sát và xoay xở hơn. Bổng Tr/u Công gọi máy báo địch chỉ còn cách tuyến của TQLC chừng hơn 10m. Tiếp là Tr/u Kính cũng báo địch đang tiến đến gần hơn nhưng lại không nổ súng. Không thể chần chừ được nữa, tôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC bò lui về ngang với các Chiến xa M.48 ngay. Chỉ 3 phút sau, tôi bảo Tr/u Kinh và Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bắn đạn chài và mỗi xe chỉ cần bắn 1 hay 2 qủa tùy phản ứng của địch. Một loạt đạn chài từ các các đại bác chớp sáng liền nhau. Tr/u Kính và Th/u Thăng lần lượt báo địch đã im lìm, không còn thấy lố nhố nữa. Tôi bảo: “Phải quan sát liên tục và cẩn thận hơn, vì chỉ còn chừng 1 giờ nữa là trời sáng rồi thì tụi nó chẳng dám tấn công đâu.” Cũng chừng hơn 5 phút sau thì Tr/u Kính báo đã quan sát thấy địch lại lố nhố nhưng hình như là đang tải thương vì chúng đang lùi lại. Tôi nói: “Thế thì tốt!”

                      Nhưng vẫn thầm lo không biết mình cho lệnh bắn như thế có vi phạm Hiệp định không. Mặc kệ! Với tình hình hiện tại, lo nghĩ vẫn vơ cũng vô ích. Phải tự cứu mình trước thôi! Không thể để “nước đến trôn mới nhảy”, như người xưa đã nói.

                      Địch vẫn pháo khắp vị trí của các đơn vị TG, nhưng vì lính TG đều ở trong chiến xa và M/113, và chỉ quan sát bằng tiềm vọng kính nên không bị gì. Còn TQLC thì đang ở gần sát với địch nên pháo hầu như không rơi nhiều ở tuyến này.

                      Trời bắt đầu sáng dần. Tôi nhìn đồng hồ: bây giờ là 06:30. Sương mù đã tan gần hết nên tầm quan sát xa và tốt hơn. Tôi cũng tạm thời yên lòng. Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cho biết những gì đã xảy ra trong đêm và hỏi xem có lệnh gì mới không thì Đ/tá Trí nói: “Tạm thời thì phải cố thủ. Sẽ có lệnh sau.”

                      Một điều đặc biệt là các đơn vị Pháo binh yểm trợ cho cuộc Hành Quân Tango hoàn toàn không phản pháo yểm trợ một viên đạn nào, ngoại trừ thời gian trước khi Cánh A của tôi bắt đầu xuất phát rồi thì ngưng luôn từ đó.

                      Mặt trời đã lên khá cao. Bây giờ là 08:05. Pháo địch bổng nhiên nổ thưa dần, rồi lâu lâu mới bay vào nổ 1, 2 qủa. Lính TG lợi dụng lúc này nhảy ra khỏi xe nấu nước sôi đổ cơm sấy, còn tôi thì chỉ cần cà phê nóng.

                      Đến khoảng 08:35 thì pháo địch ngưng hẳn. Tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhỏm. Tôi gọi máy cho Đ/u Cảnh, Nam và Minh và nói: “Có lẽ đã có sự can thiệp của mấy ông lớn về Hiệp Định Paris rồi nên tụi nó mới chịu ngưng pháo. Nhưng phải luôn cẩn thận đấy!” Tôi cũng gọi báo cho Đ/tá Trí về việc này.

                      Đến khoảng 09:15, sau khi nhắp hết cà phê được pha trong chiếc lon bằng thiếc trong xe M.577, tôi mồi điếu thuốc và hít vài hơi sảng khoái thì bổng nghe một tiếng nổ lớn trên tuyến và Tr/u Kính gọi báo 1 chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX đã bị trúng đan SS-11 (loại hỏa tiển chống chiến xa gọi là hỏa tiển địa-địa – surface-to-surface – và C/Đoàn chúng tôi đã từng bị bắn trong những cuộc hành quân với NDù trước đó). Tôi vọt ra khỏi M.577 và phóng lên chiến xa chỉ huy của tôi, ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Thăng cho lệnh từng xa đội xả đại liên 30 ly M.73 song hành về phía địch nhưng chỉ cầm chừng vì phải tiết kiệm đạn sau khi đã sử dụng nhiều trên đường tiến quân. Th/u Thăng nói là không thấy địch, nhưng tôi bảo vẫn cứ bắn vì chúng đều ở trong hầm và giao thông hào nên mình không thấy được và phải bắn từng loạt để chúng không thể ngóc đầu lên để bắn mình. Tôi gọi luôn cho Đ/u Cảnh dùng đại liên 50 ly trên M.113 để bắn cầm chừng (vì vùng tác xạ hẹp hơn do xen kẻ và hơi thụt về phía sau các chiến xa.) Tr/u Kinh báo cáo toàn xa đội của chiến xa đã bị bắn đều bị thương: 1 nặng, 3 nhẹ. Tôi ra lệnh cho M.113 chỉ huy khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa của tôi đã chết trong đêm tiến quân) đặt xuống cát rồi chạy lên đến phía sau chiến xa bị bắn để cho y tá băng bó và báo cáo tình trạng bị thương. Tôi gọi cho Đ/u Nam và Đ/u Minh báo tình trạng này và nhắc nhở đề phòng.

                      Y tá báo 3 BS bi thương nhẹ còn tác chiến được, còn 1 BS bị ở chân năng phải chở về. Tôi cho lệnh chỉ chở BS bị năng về theo M.113. Vừa nói xong thì 1 chiến xa khác cũng bị trúng SS-11 và lại được báo cáo thêm 2 BS bị thương: 1 ở vai và 1 ở tay. Tôi cho lệnh y tá ở lại băng bó tiếp.

                      Rồi đến 1 chiến xa của C/Đoàn 3/20CX nằm giáp với tuyến của tôi cũng bị bắn. Đ/u Nam báo với tôi và tôi trả lời là tôi đã thấy rồi. Và tiếp đến thì pháo 130 ly lại của địch bắt đầu rơi nổ khắp nơi trên các vị trí của TG.

                      Lúc này đã là khoảng 11:00. Tôi thấy tình trạng này không ổn chút nào, vì địch chỉ muốn diệt các chiến xa M.48 trước bằng SS-11 vì là những hung thần chúng rợn nhất. Mà các chiến xa hiện giờ chỉ còn là những mục tiêu cố định nên rất dễ bị bắn, dù tôi đã cho các đại liên bắn cầm chừng để ngăn chặn vì còn phải giữ lại một số đan dược cho tình huống khẩn cấp có thể xảy ra trong khi chưa có tiếp tế.

                      Tôi gọi thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC báo tình trạng này để xin được tiếp tế và tải thương. Đ/tá Trí nói: “Tôi đã biết tình trạng hiện giờ tại đó vì luôn theo dỏi hệ thống nội bộ của các C/Đoàn và BCH/Th/Đoàn 20CX kể từ lúc rời tuyến xuất phát. Nhưng giá nào anh cũng phải cố giữ vững tuyến. Sẽ có quân tăng cường.” Hy vọng lại nhen nhúm trong tôi. Tôi gọi báo cho các C/Đoàn biết tin này.

                      Pháo địch không còn liên tục như trước mà chỉ pháo từng đợt vào những giờ giấc không đoán trước được. Điều này sẽ không có lợi cho quân mình vì lính thường lợi dụng những lúc pháo địch ngưng để nhảy ra khỏi xe để nấu nướng hay cho những nhu cầu cá nhân cần thiết rồi không kịp nhảy vào xe trước khi pháo địch rơi xuống.

                      Tôi lại nhìn vào đồng hồ. Lúc này đã là gần 15:00 giờ. Tôi bảo lính pha cho tôi 1 xuất cà phê nữa và nhâm nhi cùng với những điếu thuốc nối đuôi. Đây đã là “lon cà phê” thứ 3 trong ngày 29/03/73 rồi. Lòng tôi cứ thấp thỏm chờ đợi tin tốt lành từ BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC, chốc chốc lại nhảy vào chiến xa để quan sát tình hình phía trước, rồi lại nhảy xuống vào M.577 nhâm nhi cà phê tiếp. Lính đưa cơm sấy và thức ăn khô đến nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào để ăn được.

                      Đến khoảng 16:30 thì nghe Th/tá Kiều gọi và báo tin: “BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC đã dự trù tăng cường 2 lần 2 râu (2 tiểu đoàn) cho chúng ta, nhưng vì biển hơi động nên không thể nào đổ bộ vào vị trí của chúng ta được. Tuy nhiên họ đang tính một kế hoạch khác.” Tôi nhìn ra biển, nói: “Có thấy tãm hơi chiếc tàu nào đâu. Biển như thế này mà gọi là hơi động sao?” Th/tá Kiều trả lời: “Họ nói như vậy thôi.” Dĩ nhiên, trên hệ thống này thì các C/Đoàn đều nghe được như thế. Thế là hết! Hy vọng đã biến thành thất vọng. Tôi tự hỏi: “Họ đang cố an ủi mình chăng?” Những suy nghĩ miên man của tôi lại bị ngắt Quảng bởi một đợt pháo khác của địch. Tôi lại phóng lên chiến xa chỉ huy của mình, tiếp tục quan sát toàn bộ tình hình.

                      Trời đã ngả màu hoàng hôn. Lúc này đã gần 18:00 giờ. Tôi gọi máy nhắc nhở các C/Đoàn và Đ/Đội/TQLC tùng thiết lo việc canh phòng cẩn mật. Để đề phòng địch có thể tấn công vào ban đêm, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng: “Hảy cẩn thận đề phòng vì địch có thể dùng pháo, rồi đến đặc công, sau đó mới tấn công. Vì thế các chiến xa M.48 phải thay phiên sử dụng Hồng ngoại tuyến dùng để bắn đại bác trên xe để quan sát, nhưng chỉ trong vòng vài phút thôi, nếu không thì các bình điện sẽ không còn đủ cung cấp để nổ máy chiến xa cũng như để điều khiển hệ thống tác xạ bằng điện được. Tất cả đều phải thức suốt đêm để phản ứng cho kịp thời.”

                      (Trong thời gian thành lập Th/Đoàn20CX ở Ái-Tử, mỗi chiến xa M.48 đều được trang bị ống nhòm Hồng ngoại tuyến để cho các trưởng xa quan sát vào ban đêm. Nhưng sau khi mất Quảng-Trị và Th/Đoàn được tái thành lập ở Phú Bài – Huế để Tái chiếm Quảng-Trị thì các chiến xa không còn được trang bị loại ống nhòm này cũng như không còn Cố vấn Mỹ nữa).

                      Màn đêm đã buông xuống. Trong bóng đêm, chỉ có những khoảng trống có cát là vẫn sáng mờ. Còn nhìn vào hướng tây thì chỉ thấy một lằn đen kịt lô nhô tiếp giáp với chân trời xanh đen.

                      Pháo địch vẫn chỉ còn rơi lác đác, có lúc ngưng hẳn, rồi lại tiếp tục nhưng cường độ không cao. Tất cả chúng tôi đều không dám ngủ, chỉ chợp mắt vài phút do mệt mỏi. Những lo lắng của tôi (và cũng của tất cả vì thế lại cứ chồng chất vì chưa nghĩ ra được cách nào đối phó với tình huống hoàn toàn nằm trong thế bị động này.

                      Từng giờ phút nối tiếp trôi qua. Cứ khoảng chừng 30 phút, tôi lại gọi các C/Đội của tôi cũng như các C/Đoàn để nhắc nhở, đồng thời cũng để kiểm tra sự cảnh giác của họ. Pháo thì vẫn pháo, lo thì cứ lo, nhưng có lẽ có lúc tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn. Chỉ chắc chắn một điều là vào ban đêm thì địch chẳng thấy được chiến xa để bắn AT-3, SS-11 hay B-41.

                      Dần dần, bóng đêm nhường chỗ cho ánh sáng yếu ớt của ban mai. Tôi thức dậy bảo lính pha cà phê và lợi dụng thời gian ngưng pháo của địch để nấu nước sôi đổ vào cơm sấy. Từ trên Chiến xa chỉ huy, tôi quan sát khắp nơi và thấy lính của từng chiến xa M.48 và M.113 phóng lên rồi nhảy xuống xe của họ trong lúc nấu nước để đề phòng pháo bất ngờ rơi xuống. Điều này không thể nào tránh được. Ông bà mình thường nói: “Dỉ thực vi tiên” thật không sai chút nào. Ai biết được cuộc chiến sẽ như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu nữa.

                      Tôi lại nhảy xuống khỏi chiến xa, ngồi ở xe M.577 để theo dỏi báo cáo trên máy và vừa nhắp cà phê, vừa hút thuốc, mắt nhìn đồng hồ đeo tay.
                      Phút chốc mà đã 07:50 ngày 30/01/73. Tôi tiếp tục suy nghĩ xem phải làm thế nào để thay đổi tình thế này. Thế rồi càng suy nghĩ lại càng lo, cứ thắc mắc hoài: “Không tiếp tế, không tải thương, rồi lại không có Pháo binh, Không quân yểm trợ. Như vậy là sao? Không lẽ họ bỏ rơi toàn bộ anh em mình?” Biết hỏi ai đây! Vì không thể gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC để lý lẽ với Đ/tá Trí. Biết đâu ông ấy cũng đang rối trí vì đến lúc này vẫn không có chỉ thị gì từ BTL/QĐ1 hay cấp cao hơn.

                      Đến khoảng 09:20, trong lúc tôi đang ở xe M.577 và nhân viên trong chiến xa chỉ huy đang ở bên ngoài xe để ăn cơm thì một tiếng xẹt kèm theo một tiếng nổ lớn. Tôi ngoái nhìn thì thấy chiến xa M.48 chỉ huy của tôi đang bốc khói từ trong pháo tháp. Trên máy, tôi nghe tiếng nói của Đ/u Nam: “Xe của Hồng Nhạn bị bắn cháy rồi, chắc Hồng Nhạn đã tiêu rồi.” Tôi bèn chộp ống nói và lên tiếng ngay: “Tao vẫn còn đây. Hảy bình tỉnh!” Tôi nhìn kỷ lại chiến xa của mình thì 2 cần ăn ten đã bị đứt cụt và khói vẫn tỏa ra nhưng không còn dày đặc như trước. Tr/u Kính và Th/u Thăng cũng gọi về hỏi và tôi nói sẽ kiểm soát lại và cho biết tình hình sau. Còn dặn dò họ phải cẩn thận hơn vì xe tôi đã bị SS-11.

                      Ngay lúc này, tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi khi một ý nghĩ dị đoan lẽn vào đầu óc: anten của máy truyền tin là linh hồn của đơn vị, hay nói đúng hơn là đơn vị trưởng. Nếu anten bị gảy hay đứt thì đơn vị trưởng cũng sẽ bị tiêu đời. Tôi tự hỏi: Không lẽ ngày 28/01 là sinh nhật của mình cũng là điềm gở báo trước ngày tử của mình sao? (tôi sinh vào ngày 28/01). Rồi tôi nhớ lại một người bạn đã nói: “Đã nói là dị đoan thì nếu tin thì có mà không tin thì sẽ không có.” Do đó tôi cố gạt ý tưởng dị đoan này, nhưng thật không dễ chút nào.

                      Chứng 10 phút sau, bổng HS Thẩm đến đưa cho tôi xem đoạn dây màu trắng nhỏ xíu nhặt được từ phía trước chiến xa của tôi. Tôi nói: “Đây là dây điều khiển của loại Hỏa tiển chống chiến xa SS-11.” HS Thẩm lại nhảy vào trong chiến xa một lúc rôi nhảy xuống và nói: “Pháo tháp xe đã bị thủng và lỏi hỏa tiển đã xuyên vào 2 máy truyền tin VRC-46 và VRC-47 nên cả 2 máy đều bị cháy mới bốc khói như vậy.” Tôi bảo kiêm tra ‘núm điện chính’ (Power switch) của bảng điều khiển trước mặt tài xế thì HS Thẩm nói là vẫn còn hoạt động. Tôi nói: “Như vậy là xe vẫn còn nổ máy được.” Và bảo lính gở thêm 1 máy PRC-25 trong M.577 ra khỏi giá khung và đặt vào khoang tài xế chiến xa để cho tài xế sử dụng khi cần.

                      Như vậy, lúc này địch đã dùng hỏa tiển chống chiến xa điều khiển từ xa để diệt các cấp chỉ huy khiến cho các C/Đoàn trưởng lo lắng hơn. Tình hình càng lúc có vẻ càng nguy ngập nhưng tôi vẫn không báo cáo về cho BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì biết Đ/tá Trí luôn theo dỏi trên các hệ thống chỉ huy của các C/Đoàn và Th/Đoàn20CX.

                      Khoảng 10:10, trên hệ thống nội bộ của C/Đoàn tôi bổng có tiếng gọi Hồng Nhạn (danh hiệu của tôi) nhưng nghe giọng nói có vẻ khác lạ. Tôi cầm máy trả lời thì mới biết đó là tiếng của Đ/u Tạ-quang-Trung báo C/Đoàn 1/17CX M.41 của anh ta đang tiến gần đến vị trí của chúng tôi, mang theo lương thực tiếp tế. Tôi liền báo cho các C/Đoàn biết để thông báo cho TQLC tùng thiết. Tôi gọi tiếp Đ/u Trung và hỏi trên đường đi có gì không và Trung nói chỉ gặp vài loạt súng lẽ tẻ thôi nên C/Đoàn vô sự. Tôi hỏi có tùng thiết không thì Trung bảo là có 1 râu (1 đại đội TQLC- đó là Đ/Đội 2/TĐoàn2TQLC của Tr/u Từ đức-Thọ.


                      Khoảng 10:20, chiếc M.41 đầu tiên đến gần vị trí tận cùng phía nam của chúng tôi. Một đợt pháo nữa của địch, toàn là loại 130 ly, lại bắt đầu rơi xuống các vị trí. Tôi gọi và bảo Đ/u Trung cứ bình tỉnh tiếp tục cho C/Đoàn M.41 bố trí xen kẻ và nối thêm vào khoảng trống còn lại, quay đầu xe bố trí về hướng nam, còn BCH/C/Đoàn 1/17CX thì tiến thẳng về hướng bắc đến gần BCH/C/Đoàn 2/17TK và nằm ở đó. Tôi cũng báo cho các C/Đoàn cho anh em từng đợt đến nhận lương thực tiếp tế.

                      Dù muốn dù không, có thêm lực lượng tăng cường cũng khiến cho anh em vững tâm hơn. Nhưng tôi thì lại nghĩ khác: phòng tuyến vẫn rất vững vàng, địch không dám tấn công mà chỉ dùng pháo và súng chống chiến xa để làm tiêu hao quân mình, như vậy thì việc tăng cường lực lượng TG để phòng thủ có lẽ không có lợi lắm.

                      Như vậy, lực lượng TG đang cố thủ tại Cửa Việt kể từ 11:15 trưa ngày 30/01/73 gồm:
                      – C/Đoàn 1/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 + M.577 : 14 chiếc
                      – C/Đoàn 3/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 : 13 chiếc
                      – C/Đoàn 1/17CX gồm 15 M.41 + M.113 : 16 chiếc
                      – C/Đoàn 2/17TK gồm 22 M.113 : 22 chiếc
                      – C/Đoàn 3/18TK gồm 21 M.113 : 21 chiếc
                      – BCH/Th/Đoàn20CX gồm 5 M.113 + 2 M.48 : 07 chiếc
                      Tổng cộng: 93 chiếc

                      Và Lực lượng TQLC gồm:
                      – ĐĐội 4/TĐoàn 2 của Tr/u Trần-đình-Công tăng phái cho Đ/u Xứng
                      – ĐĐôi 3/TĐoàn 4 của Tr/u Mai-văn-Hiếu tăng phái cho Đ/u Nam
                      – ĐĐội 2/TĐoàn 2 của Tr/u Từ-đức-Thọ tăng phái cho Đ/u Trung
                      Tổng cộng: khoảng 200 người.

                      Khoảng 11:00, Đ/u Trung gọi máy báo cho tôi và các C/Đoàn trưởng khác đến M.113 của anh để lai rai vì có mang theo nhiều thức ăn đang chuẩn bị cho Tết. Chờ pháo địch ngưng rơi, chúng tôi chạy đến phóng vào xe M.113 của Trung, cùng nhau uống bia và ăn. Đã 1 ngày 1 đêm tôi chỉ uống cà phê và ăn bánh trong thùng lương khô, không thể nào nuốt nổi một muổng cơm sấy nào do vừa mệt vừa lo. Giờ lại có thức ăn tươi và anh em đầy đủ tôi mới ăn được mấy miếng. Th/tá Kiều và Th/tá Tiền không đến. Sau khi ăn xong, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng và các Đ/Đội trưởng TQLC: “Anh em phải rất cẩn thận và cố giữ vững tuyến. Với tình hình này, tôi sẽ báo cho Th/tá Kiều gọi xin lệnh rút quân và tôi cũng sẽ gọi thẳng về Đ/tá Trí xin lệnh rút. Đây là lúc tinh thần anh em BS không còn vững và ngay chúng mình cũng vậy. Tuy nhiên không ai trong chúng ta muốn trở thành một Phạm-văn-Đính thứ hai (Tr/tá Tr/Đoàn trưởng Tr/Đoàn 56/BB đã đầu hàng địch tại Carroll năm 1971). Còn nếu tự ý rút quân thì sẽ bị ra Tòa án quân sự và thế là ‘thân bại danh liệt’đó! Một điều rất quan trọng là: tất cả Chiến xa và M.113 tuyệt đối không được nổ máy xe, vì nếu chỉ có một xe nổ máy thì toàn bộ sẽ nghĩ là ‘bỏ chạy’ và sẽ chạy theo.”

                      Khoảng 25 phút sau, chúng tôi đều trở về BCH/C/Đoàn của mình. Tôi gọi và nói với Th/tá Kiều liên lạc với BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh rút quân vì nếu tiếp tục ở trong tình trạng bị động như thế này thì sớm muộn cũng chỉ bị thiệt hại thêm mà thôi. Và ông Kiều trả lời là sẽ gọi.

                      Từ khoảng 12:00 giờ đến gần 14:00 giờ ngày 30/01/73, pháo địch lại ngưng hẳn và cũng không nghe các C/Đoàn báo cáo bị hỏa tiển chống chiến xa. Tôi lại bảo lính pha cho tôi cà phê và vừa nhắp cà phê vừa phì phà thuốc, suy nghĩ: Ý nghĩ đầu tiên khá lạc quan, tức là, có lẽ mấy ông lớn đã thỏa thuận với nhau để xác định giá trị của Hiệp Định Paris nên ra lệnh cho tụi nó ngưng bắn. Như vậy là quá tốt! Rồi ý nghĩ thứ hai lại xen vào: biết đâu tụi nó đang dự trù một kế hoạch tấn công khác dử dội hơn hay đang cần thời gian để chuyển quân đến thêm hay đang vận chuyển thêm loại súng chống chiến xa để diệt Chiến xa và M.113 đang cố thủ và là mục tiêu cố định cho chúng nhắm bắn. Và chính ý nghĩ thứ hai này đã khiến tôi càng lo lắng hơn, nhưng cũng vẫn không kiếm ra cách giải quyết.

                      Chiến trường vẫn tiếp tục yên lắng. Ý nghĩ lạc quan của tôi chiếm chỗ của ý nghĩ bi quan và tiếp tục dâng tràn. Không lẽ mình đoán thế mà lại đúng sao? Tôi gọi BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo tình hình và hỏi xem có tin tức gì mới không, nhưng Đ/tá Trí nói là không có gì, còn nhắc nhở tôi cẩn thận cố giữ tuyến. Có lẽ Th/tá Kiều vẫn chưa liên lạc với Đ/tá Trí do tình hình im lắng của chiến trường trong mấy giờ liên tục.

                      Đến khoảng 15:05, bổng có một tiếng nổ lớn từ trên tuyến của C/Đội M.48 của Th/u Thăng và tôi nghe ông báo là 1 CX đã bị bắn bằng AT-3, tiếp đến là pháo 130 ly của địch rơi dày đặc và dử dội trên toàn vị trí của chúng tôi. Tôi bảo Th/u Thăng báo cho tôi biết chi tiết, nhưng ông bảo là không còn liên lạc được. Như vậy là hệ thống điện của CX đã bị bắn hỏng. Tôi ra lệnh cho Tr/u Kinh và Th/u Thăng cho dùng Đại liên 30 ly M.73 song hành bắn quét rộng phía trước rồi cho M.113 chỉ huy chở y tá phóng lên chỗ chiến xa bị bắn dưới cơn mưa pháo của địch. Chứng 10 phút sau mới nghe báo cáo toàn bộ nhân viên xa đội 4 người đều bị thương, kẻ ở chân, kẻ ở tay. Chiến xa này đã bị tê liệt toàn bộ hệ thống điện. Tôi ra lệnh: “Nhân viên nào trong xa đội còn leo lên chiến xa được thì dùng cuộn dây mang theo leo vào xe, cột chặt vào cần cò tay của đại bác rồi thả lần dây ra khỏi pháo tháp, kéo xuống phía sau chiến xa. Sau đó tất cả đều nằm vào dưới lườn chiến xa để tiếp tục quan sát phía trước. Chờ khi nào địch tấn công thì giật kéo dây cò bắn đạn chài đã nạp sẵn. Rồi leo lên nạp đạn tiếp và nhảy xuống. Như vậy thì an toàn hơn.” Chỉ phải như vậy thôi, vì không có nhân viên thay thế. Tôi bảo Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bên phải và bên trái chú ý yểm trợ cho chiến xa đó.

                      Với tình hình hiện tại, một lần nữa tôi lại phải nhắc nhở các C/Đoàn bắn đại liên 30 và 50 ly rà quyết cầm chừng phía trước. (Không thể sử dụng đại bác khi không nhìn thấy mục tiêu phù hợp).

                      Bây giờ đã là gần 17:00 giờ, cũng gần hết ngày 30/01. Như vậy, chúng tôi đã chịu pháo và đạn chống chiến xa của địch 2 ngày và gần 2 đêm rồi. Riêng C/Đoàn của tôi bị tổn thất nhiều nhất do địch đặt trọng tâm vào đơn vị nằm ở tuyến đầu, xa nhất về hướng bắc. Và đã có 4 CX M.48 bị bắn AT-3 và SS-11 (2 của C/Đội 3/1/20CX + 1 của C/Đội 1/3/20CX + chiến xa của tôi). Có 9 HSQ và BS bị thương (1 nặng + 8 nhẹ -vẫn còn chiến đầu trên tuyến. Chưa nói đến thi thể của HS Thìn – tài xế chiến xa của xe tôi chết trong đêm tiến quân ra Cửa Việt)). Điều đặc biệt là không có M.48 hay M.113 nào bị cháy do bị bắn (chỉ không còn nổ máy hay liên lạc được nữa mà thôi). Nhờ vậy mà tinh thần anh em cũng không bị sa sút nhiều.

                      Lúc này tôi không muốn gọi các C/Đoàn báo cáo tổn thất vì nếu làm thế sẽ gây hoang mang và lo lắng thêm cho tất cả. Tôi lại gọi cho Th/tá Kiều nhắc ông xin lệnh rút lui, nhưng hình như ông không dám. Còn tôi thì vẫn còn do dự. Giá nào thì trời cũng sắp tối và như thế thì bớt bị đạn chống chiến xa hơn. Còn pháo địch thì như ‘cơm bữa’ rồi, lo lắng cũng vô ích. Tr/u Kính và Th/u Thăng thỉnh thoảng lại gọi tôi hỏi xem có lệnh gì khác không. Tôi đã đoán biết tâm trạng của họ, nhưng chỉ bảo họ cố gắng giữ tuyến, hy vọng tình hình sẽ chuyển biến tốt. Phải nói như vậy thôi, trong khi tâm trạng của tôi không tốt chút nào và tôi nghĩ rằng tất cả anh em các cấp cũng thế hoặc còn nản hơn.

                      Rồi màn đêm lại buông xuống. Một đêm nữa sắp đến và tất cả sẽ ra sao đây! Như một thói quen của một người lính đã từng lăn lộn trên chiến trường của vùng Hỏa tuyến, tôi lại gọi nhắc nhở các C/Đoàn cẩn thận và chịu khó thức để kịp đối phó ý đồ của địch. Cũng may, với chiến xa M.48, nguồn năng lượng của 6 bình điện trong xe tương đối dồi dào, có thể đã chịu nổi 2 ngày và gần 2 đêm mà hao hụt không nhiều, vì các máy truyền tin và hệ thống tác xạ đại bác cũng như đại liên 30 ly M.73 song hành đều cần có điện mới sử dụng nhanh được (dĩ nhiên là vẫn có thể sử dụng các loại súng bằng tay, nhưng máy tuyền tin thì không được). Ngoài ra, vào ban đêm thì phải dùng Hồng ngoại tuyến trên xe để quan sát. Rồi đạn dược dành cho đại liên 30 và 50 ly thì cũng đã gần cạn kiệt, dù các đạn đại bác vẫn còn, nhưng đạn chài (canister) chống biển người thì số lượng cũng hạn chế thôi. Hết lo cái này đến lo cái nọ để tìm cách giải quyết dự phòng! Có lẽ nhờ thế mà tôi không còn suy nghĩ vẫn vơ khiến mình lo lắng, sợ hãi.

                      Tôi nằm nghỉ trên xe M.577, tai luôn lắng nghe những động tỉnh trên các hệ thống truyền tin. Đến khoảng 21:00 giờ thì Tr/u Kinh và Th/u Thăng báo thấy địch dàn hàng ngang chuẩn bị tấn công chúng tôi, khoảng cách chừng 70m. Tiếp đến thì Đ/u Nam cũng báo cáo như thế. Tôi nhỏm dây ra lệnh cho Tr/u Công cho lính TQLC bò về ngang với chiến xa để cho chúng tôi đối phó. Tôi bảo Đ/u Nam cũng làm y như thế. Riêng C/Đoàn 1/17CX M.41 thì không bị như thế vì đang phòng thủ về hướng nam. Còn C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK cũng chuẩn bị.

                      Tr/u Kính lại báo thêm là địch chỉ còn cách từ 40 đến 50m thôi, cứ tiến gần chúng tôi nhưng lại không nổ súng. Không cần suy nghĩ, tôi ra lệnh: “Nếu tụi nó đến gần trong khoảng 40m thì bắn đạn chài ngay, tiếp đến là sử dụng các loại súng đại liên.”

                      Pháo 130 ly của địch vẫn rơi đều trên khắp vị trí của chúng tôi, nhưng vào lúc này thì hầu như không ai còn để ý đến, vì đang phải lo đối phó với tình huống nguy hiểm trước mắt.

                      Đến khoảng 21:30, loạt đan chài từ các đại bác của chiến xa M.48 nổ rền, kèm theo từng loạt đại liên. Và phía địch cũng bắt đầu nổ súng nhưng rất yếu ớt, vì không chịu nổi hỏa lực của chúng tôi. Tr/u Kính báo cáo: “Đợt này ngả xuống thì chúng dàn hàng ngang đợt khác.” Tôi nói: “Cứ bình tỉnh. Tụi nó không chịu nổi đạn chài của mình đâu! Nhưng phải chờ chúng đến đúng tầm thì mới tác xạ!”

                      Phía C/Đoàn của Đ/u Nam cũng báo như thế và tôi cũng ra lệnh như thế. Để quan sát toàn bộ vị trí, tôi xách máy PRC-25 lên chiến xa chỉ huy (vì máy truyền tin trên chiến xa đã bị bắn hỏng) và chỉ nhìn thấy chớp sáng của những lằn đạn giao nhau từ phía địch và phía chúng tôi. Tôi lại nhảy xuống vào M.577 báo cáo tình hình về BTL/HànhQuân/ SĐ/TQLC và Đ/tá Trí nói: “Tôi vẫn đang nghe và theo dỏi. Phải cố giữ tuyến.”

                      Bây giờ đã gần 23:00. Bổng nhiên tiếng súng im bặt. Toàn bộ các đơn vị đều không bị tổn thất gì cả. Tất cả báo cáo đợt tấn công thứ hai của địch đã tiêu tùng và không còn thấy động tỉnh gì nữa. Tôi chỉ nhắc nhở như thường lệ vì có thể sẽ có những đợt tấn công khác. Riêng Tr/u Công thì tôi bảo phải chú ý hơn để diệt những tên địch còn sót có thể bò vào sát các chiến xa cũng như ngăn ngừa địch sử dụng những toán đặc công cảm tử.

                      Tiếng súng thì không còn, nhưng tiếng nổ của 130 ly vẫn còn lai rai.

                      Vào ngồi lại trong xe M.577, tôi miên man suy nghĩ: vừa mong cho trời nhanh sáng để địch không còn dám tấn công vì quá lộ liểu; vừa mong cho trời chậm sáng để địch không thấy rõ các chiến xa M.48 để bắn AT-3 hay SS-11. Đúng là mâu thuẩn!

                      Đến khoảng 02:15 ngày 31/01/73 thì đột nhiên tiếng 130 ly nổ dồn dập hơn. Còn có những tiếng nổ nhỏ hơn của cối 82 của địch. Tiếp đến thì Tr/u Kính và Th/u Thăng lại báo địch đang từng cụm bò vào. Tôi hỏi Đ/u Nam thì biết tình hình bên phía đó cũng như vậy. Tôi vẫn cho lệnh phản ứng như lần địch tấn công ban đầu trong đêm.

                      Chỉ khoảng 10 phút sau thì tiếng đại bác của chiến xa và đại liên nổ rền. Với loại đạn đại bác chống biển người thì địch dù đông bao nhiêu cũng không thể tràn qua tuyến phòng thủ của chúng tôi. Đợt trước ngả xuống thì lớp sau lại tiến lên, nhưng địch vẫn chẳng tiến được bước nào. Th/u Thăng còn báo 2 tên địch bò vào sát một chiến xa của C/Đội và định leo lên thì bị TQLC tùng thiết bắn hạ ngay.

                      Tiếng nổ của các loại súng rền vang trong khoảng hơn 15 phút rồi dần giảm bớt. Lúc này đã gần 03:00. Không cần các C/Đội và C/Đoàn báo cáo, tôi cũng biết địch đã không còn tấn công nữa. Chúng tôi vẫn không bị thiệt hại gì. Tuy nhiên, tinh thần anh em cũng có phần giảm sút, và ngay bản thân tôi cũng càng thêm lo lắng vì đạn dược dùng cho các loại đại liên trên chiến xa M.48 và M.113 cũng như của súng cá nhân của TQLC tùng thiết đang cạn kiệt dần, chưa nói đến sự giảm sút về sức lực sau hơn 2 đêm không chợp mắt. Tôi chỉ còn cách gọi nhắc nhở các C/Đoàn mà thôi và cũng không cần báo cáo về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì chắc họ cũng đang theo dỏi nhưng không biết phải cho lệnh gì nữa.

                      Chỉ hơn 30 phút sau, khoảng 03:40, tiếng đại bác và đại liên của chúng tôi lại nổ rền một lần nữa. Địch lại tấn công lần thứ 3 trong đêm. Chỉ khác là lần này thì mức độ tấn công liên tục hơn. Súng nổ rền một chốc rồi lại giảm bớt rồi lại nổ rền. Quân địch, lớp này ngả gục lại đến lớp khác. Cho đến khi lớp thứ tý ngả xuống, chúng mới chịu ngưng. Tôi đoán biết phía địch đã tổn thất không nhỏ, mà chẳng thể nào phá thủng phòng tuyến của Chiến xa M.48 được. Tôi không gọi mà chỉ theo dỏi trên máy các C/Đội của tôi và của các C/Đoàn. Đãc biệt là hướng phòng thủ (hướng nam) của C/Đoàn 1/17CX M.41 của Đ/u Trung thì lại không bị tấn công do địa thế phía trước rất trống trải, chỉ là cát, không mấp mô những ụ cát và cũng không có những bụi cây nhỏ, còn cách xa ven làng Hà tây đến khoảng 400m.

                      Đồng hồ đeo tay của tôi đã chỉ 04:35. Nhận định tình hình, tôi đoán địch thế nào cũng cố chọc thủng phòng tuyến của chúng tôi để tràn ngập. Nhưng trời cũng sắp sáng rồi, không biết có lợi hay có hại đây! Lòng tôi cứ hoang mang vì không nghĩ ra được cách nào đối phó với ý đồ kế tiếp của địch.

                      Thế rồi thời gian cứ trôi qua. Pháo địch cũng giảm bớt và ngưng hẳn. Lúc này đã là 07:05 ngày 31/01/73. Sương mù đã tan hết từ lâu nhường chỗ cho ánh nắng ban mai. Tôi leo lên chiến xa M.48 chỉ huy quan sát kỷ toàn cảnh một lần. Phía trước mặt chúng tôi, quang cảnh trông hầu như không có chuyện gì xảy ra trong đêm ngoại trừ một số bụi cây nhỏ đã bị trốc gốc và một số đụn cát đã bị bắn banh ra. Có lẽ địch đã tải lính bị chết và bị thương trong đêm. Thật sự, tôi không thể đoán ra điều gì sẽ xảy ra.

                      Đến khoảng 07:40, tôi nghe máy gọi Hồng Nhạn và nhận ra tiếng của Binh 1 Thạch Minh, tài xế xe jeep của tôi. Tôi cầm máy, bảo: “Hảy qua số nhà cũ!” (đây là tần số riêng để tôi liên lạc về với gia đình khi cần). Binh 1 Minh nói: “Ở Huế, người ta đã loan tin rằng toàn bộ quân mình ở Cửa Việt đều đã bị bao vây, không ai về được cả. Chị rầt lo lắng nên bảo em ra Tiền cứ liên lạc với anh.” Dù trong lòng đang lo lắng, tôi vẫn điềm tỉnh trả lời (vì biết chỉ hai mươi mấy ngày nữa là vợ tôi đi sinh, nên không muốn gây lo lắng cho bà trước khi sinh): “Đừng nghe tin đồn bậy bạ. Anh vẫn bình yên. Nói với chị chuẩn bị đồ ăn mang ra cho anh và bạn bè lai rai. Khi nào anh gọi thì mang ra.” Đúng là chết đến nơi rồi mà vẫn còn nói xạo!

                      Tôi buông máy nhảy ra khỏi M.577 nhìn ra phía trước thì thấy số anh em bị thương trước đó đang dìu nhau lò cò đi về phía BCH/C/Đoàn của tôi. Tôi bảo anh em lên và tiếp dìu họ về. Thấy vẻ mặt của họ, lòng tôi thật xốn xang, nhưng biết làm sao đây. Sau khi y tá thay băng và chích thuốc cho họ xong, tôi nói: “Với tình hình này thì anh em cũng sẽ chết và tôi cũng sẽ chết. Chỉ có một con đường sống mà thôi. Đó là tiếp tục chiến đấu. Anh em phải cố trở lên tuyến và làm theo những gì tôi đã hướng dẩn hôm qua. Tụi nó sẽ không làm gì được mình đâu. Còn nếu ở lại BCH/C/Đoàn thì không còn ai sử dụng đại bác trên chiến xa của anh em và thế thì phòng tuyến sẽ bị thủng. Lúc này, lời tôi nói là lời khuyên chứ không còn là lệnh nữa. Tùy anh em suy nghĩ. Không thể dùng xe M.113 đưa anh em lên tuyến được vì tất cả các xe đều không được nổ máy.” Tôi không ngờ được rằng chỉ trong vòng không đến 1 phút, tất cả các anh em đang bị thương, có 2 người bị thương đến 2 lần, đều nhỏm dậy dìu nhau bước hướng lên tuyến. Tôi buồn bả nhìn theo, tràn đầy khâm phục, thầm nói: họ mới đúng là những anh hùng thật sự.

                      Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 08:20 (ngày 31/01/73). Bổng một tiếng nổ vang lên từ phía tuyến của C/Đoàn 3/20CX, và tiếng của Đ/u Nam: “Thêm một xe nữa đã bị bắn AT-3”. Tôi chụp máy nói ngay: “Cứ bình tỉnh! Hảy cho y tá chạy bộ lên chãm sóc anh em bị thương đi! Không được dùng M.113, vì không xe nào được nổ máy.”

                      Tôi lại leo lên chiến xa của tôi để quan sát. Lúc này pháo địch chỉ rơi rất thưa thớt. Chỉ khoảng 3 phút sau thì tôi thấy một vệt sáng xẹt vào hướng về BCH/C/Đoàn 1/17CX M.41 và trúng ngay vào chiến xa chỉ huy của Đ/u Trung, tiếp đến là 2 Binh sĩ phóng ra từ trong chiến xa. Tôi vội nhảy xuống vào xe M.577 gọi Đ/u Trung thì nghe được tiếng của anh báo là xe bị bắn nhưng lúc đó anh đang ở trong xe M.113. Nghe thế, tôi cũng yên lòng phần nào. Nhưng nổi lo sợ của tôi lại càng tăng khi chợt nghĩ đến viêc địch đang và có thể sẽ dùng toàn bộ súng chống chiến xa các loại để tiêu diệt chúng tôi. Vì không thể tấn công bằng bộ binh hay thiết giáp được, địch sẽ sử dụng chiến thuật này.

                      Và tôi đã đoán không sai. Chỉ chưa đến 8 phút sau thì một qủa đạn chống chiến xa nữa bay vào trúng vào một xe M.113 của BCH/Th/Đoàn20CX. Tôi vội nhảy lên chiến xa của tôi để quan sát và thấy được tình trạng hổn loạn của đám lính của xe M.113 đã bị bắn tranh nhau chạy leo vào các xe M.113 khác của BCH nằm cạnh đó. Tôi gọi ngay cho Th/tá Kiều và nói ông gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh cho rút quân. Và chỉ 2 phút sau, ông báo: “Lệnh phải cố thủ. Không được rút quân vì đây là mục tiêu của tonton (Tổng Thống) và chỉ có tonton ra lệnh rút thì mới được rút quân.”

                      Địch đã hầu như ngưng pháo, và chỉ sử dụng các loại súng chống chiến xa mà thôi. Và chiến thuật này đã có hiệu qủa vì vừa gây thiệt hại cho Thiết giáp vừa khiến cho tinh thần của các lực lượng đang phòng thủ sa sút.

                      Tôi lại nhìn đồng hồ: 08:45. Tôi rất muốn ra lệnh rút quân nhưng lại không dám. Tử thần cứ như lảng vảng trước mắt. Đang lúc rối trí thì lại nghe một tiếng xẹt và thấy chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị trúng một qủa đạn chống chiến xa. Và chiến xa này đột nhiên nổ máy quay đầu phóng chạy về hướng nam (hướng quân bạn). (Thật ra thì khi chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị bắn, anh đang ở trong xe M.113. Do đó, tài xế chiến xa của anh quá hoảng mới nổ máy phóng chạy.) Thế là các loại xe khác đều nổ máy chạy theo. Tôi gọi Th/tá Kiều, rồi Đ/u Nam, rồi Đ/u Cảnh, rồi Đ/u Minh nhưng hệ thống truyền tin đã im lặng. Ngay cả khi tôi gọi máy cho Tr/u Kính khi thấy chiến xa của anh chạy ngang qua mặt tôi, tôi vẫn không nghe trả lời.

                      Tôi tức tốc bảo HS Thẩm lên chiến xa và tôi cũng cho mang 1 máy PRC-25 vào khoang trưởng xa để liên lạc, đồng thời cho khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa cũ của tôi) lên M.577. Tôi nhìn quanh, tất cả những loại xe còn nổ máy được đã chạy hết, trên tuyến của tôi chỉ còn lại 4 chiến xa M.48 đã bị bắn trước đó còn nằm tại chỗ. Tôi đang định ra lệnh cho BCH/C/Đoàn của tôi bắt đầu chạy thì thấy cách tôi chừng 30m, các anh em đã bị thương đang cố dìu nhau chạy bộ về. Tôi tức tốc ra lênh cho M.113 và M.577 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi phóng đến đón họ vào hết trong 2 xe và ra lệnh: “M.577 sẽ chạy song song phía bên trái chiến xa của tôi (tức là sát mé nước biển) để được che chắn vì xe này không có trang bị súng. Xe M.113 sẽ chạy sau tôi chừng 20 đến 30m và quay súng đại liên 50 và 30 ly về phía bên phải và bắn cầm chừng khi chạy ngang qua các làng dọc biển. Tất cả đều phải phóng rất nhanh.”

                      Lúc này tôi không còn suy nghĩ gì nữa ngoại trừ việc ra lệnh cho HS Thẩm, tài xế chiến xa của tôi, xe M.577, và M.113 còn lại của tôi khi cần mà thôi. Trên đường về tôi còn thấy chiến xa M.41 của Đ/u Trung bị bỏ lại. Tôi phải phóng khoảng gần 500m mới hết ranh giới vòng đai phòng thủ của chúng tôi, và tôi mới thấy lính TQLC, vì không kịp leo lên xe của các C/Đoàn, đang chạy bộ về hướng nam, nhưng cách xa tôi về phía tây chừng 200m. Tôi không thể nào dừng lại để đón họ được, dù lúc này tôi nhìn lại thì tuyến vẫn chưa bị địch chọc thủng vào. Có lẽ những chiến xa M.48, M.41 và M.113 đã bị bắn tê liệt còn nằm lại khiến địch nghi ngờ chúng tôi đang chuyển một số quân qua hướng khác.

                      Mấy cụ thường dạy: “Tấn công thì nên đi sau, còn chạy thì nên chạy trước” thật không ngoa chút nào. Vì tôi chạy sau một khoảng thời gian, có lẽ chừng 15 đến 20 phút, do vị trí ở xa nhất về hướng bắc và còn phải đón anh em bị thương từ tuyến chạy về, nên địch còn nằm ở các làng dọc biển có thời gian chuẩn bị đón bắn chúng tôi. Súng địch từ trong làng bắn ra liên tục. Dọc đường, tôi còn thấy rõ 2 tên địch ngang nhiên đứng giang chân kê B-41 lên vai định bắn vào chúng tôi, nhưng đại liên 30 ly bên hông M.113 đã quạt ngả chúng. (chiến xa M.48 chỉ huy của tôi thì không còn bắn ai được nữa sau khi bị bắn 2 lần, nhưng tôi vẫn không rời nó được)

                      Tôi nhìn địa hình và đoán mình đã vượt qua được chừng 5km. Tôi gọi báo cho xe M.113 biết sắp đến tuyến của quân bạn rồi, vì không còn thấy trong làng bắn ra, và ra lệnh ngưng tác xạ. Chỉ chừng 15 phút sau, tôi đã thấy phía trước lố nhố rất nhiều lính bạn đang đứng sát mé biển trông về hướng bắc. Khi chiến xa tôi đến, họ reo hò: ‘Đ/u Xứng đã về rồi! Đ/u Xứng đã về rồi!”.

                      Thở phào nhẹ nhỏm, tôi ra lệnh cho tải thương ngay những anh em bị thương và đưa thi thể HS Thìn về Bệnh viện. Tôi bảo Tr/u Kính kiểm tra quân số về được thì được biết còn thiếu B1 Hoàng-Hoàng (tài xế, đã chết ngay trong chiến xa vào giờ phút cuối nên không kịp mang theo về, còn số chiến xa M.48 thì tôi đã thấy tại tuyến nên đã biết được.

                      Sau đó, tôi lại leo lên chiến xa của mình đang hướng đầu về phía biển, ngồi xuống phía trước ngang với nắp tài xế, nhìn ra biển. Trời se lạnh vì chỉ còn mấy ngày nữa là Tết. Tôi bảo lính đưa cho tôi chiếc mền mỏng thường đắp, rồi quàng lên hai vai, cố hình dung ra một người lính của mình đã hy sinh và bị bỏ lại. Một cái tên rất khó quên. Họ là Hoàng và tên cũng là Hoàng. Và cũng suy nghĩ không biết phải nói gì khi Đ/tá Trí hỏi tại sao lại chạy về.

                      Còn về TQLC thì chỉ có 3 Ban Chỉ Huy Đ/Đội và BCH của Th/tá Tiền (đã ở sẵn trên các M.113 chỉ huy của các C/Đoàn) cùng một số thì đã nhanh chân kịp leo lên M.113 mới về được. Số còn lại thì hoặc chết hoặc bị bắt sống phải trên 100 người.


                      Thủy Quân Lục Chiến & Thiết Giáp – Quảng Trị 1972

                      Ngay lúc này, lính đến báo với tôi là xe jeep của tôi đã ra đến, mang theo đồ ăn do bà xả tôi chuẩn bị. Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 10:10 sáng ngày 31/01/73. Binh 1 Minh đã bày hết mọi thứ ra trên nắp máy xe jeep. Thế là chúng tôi đến ăn uống lai rai. Có cả Đ/u Trung, Tr/u Nga, Tr/u Lân của C/Đoàn 1/17CX M.41 và vài sĩ-quan các C/Đoàn nữa. Mỗi người chỉ nhấm nháp được 2, 3 miếng là hết thức ăn, rồi chỉ nhâm nhi bia, nhưng niềm vui thoát được nguy hiểm đã tràn ngập tâm hồn.

                      Sau đó, Tr/tá Tá đến chúc mừng tôi. Tôi nói: “Chắc tôi phải về nhà nghỉ vài ngày. Việc lảnh chiến xa bổ sung và sửa chửa xe bị hỏng đã có Tr/u Điệp (C/Đoàn phó của tôi) lo.” Và ông đồng ý. Tôi vào BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC gặp Đ/tá Trí. Ông bắt tay tôi và nói: “Tôi cứ ngở cậu không về được chứ. Nhưng theo dỏi trên máy vẫn còn nghe tiếng của cậu nên tôi vẫn hy vọng. Chúc mừng!” Tôi cảm ơn và cảm thấy yên lòng vì không nghe ông hỏi han gì về việc bỏ vị trí chạy về.

                      Trước khi lên xe jeep về nhà, tôi gọi Đ/u Nam và trả lại C/Đội chiến xa M.48 đã tăng phái cho tôi (nhưng giờ thì không còn đủ. Rồi dặn Tr/u Kính dẩn toàn bộ C/Đoàn với số chiến xa chỉ còn chừng 1 C/Đội về tiền cứ ở Hòa Mỹ.

                      Cuộc Hành Quân Tango đã kết thúc. Kể từ lúc Cánh A – Nổ lực chính- của tôi vượt tuyến xuất phát và C/Đoàn tôi đã đến Cửa Việt đầu tiên cho đến khi tôi là người trở về cuối cùng là 4 ngày + 4 đêm + khoảng 3 giờ 30 phút.

                      Ngang qua căn cứ Hòa Mỹ, tôi tạt vào dặn dò Tr/u Điệp những việc cần làm, nhất là phân phối cho anh em đi phép, rồi lên xe tiếp tục về Huế nghỉ ngơi để ngày hôm sau còn vào Bệnh viện thăm anh em bị thương và kiểm tra xem thi thể của HS Thìn đã được chuyển về quê nhà trong Nam chưa.

                      Vậy là tôi được nghỉ 3 ngày và ăn Tết tại nhà ở Huế, quá đầy đủ đối với một người lính tác chiến. Sau đó, tôi trở lại đơn vị tại tiền cứ tại Hòa Mỹ.

                      Khoảng 4 ngày sau, vào lúc gần trưa, tôi đang ở trong văn phòng C/Đoàn trưởng thì nghe có tiếng máy bay trực thăng. Tôi ra ngoài nhìn thì biết ngay là trực thăng của Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC). Tôi nghĩ rằng ông ghé xuống BCH/Th/Đoàn 20CX nên chẳng quan tâm gì. Không ngờ, chỉ mấy phút sau thì tiếng trực thăng đáp xuống vang lên rất gần, tôi nhìn ra và thấy trực thăng đã đáp xuống khoảnh đất trống trong vị trí của C/Đoàn tôi. Tôi vôi vả bước ra, chẳng kịp nai nịt súng ống gì cả, thì đã thấy Ch/tướng Lân và Tr/tá Nguyễn-kim-Để bước vào. Tôi chào và lúng túng kéo 2 chiếc ghế salon đóng bằng két đạn bằng gổ mời họ ngồi và kêu lính gọi nước uống từ Câu lạc bộ Th/Đoàn. Nhưng ông Lân khoác tay bảo không cần. Ông ngồi xuống và mỉm cười nói: “Bây giờ cậu muốn được thưởng gì đây? Muốn thăng cấp Thiếu tá hay nhận Bảo Quốc Huân Chương?” Tôi chẳng biết trả lời sao vì mọi chuyện xảy ra quá đột ngột. Tôi chỉ nói được: “Thưa Thiếu tướng, đơn vị tham chiến gồm 4 C/Đoàn và thêm 1 C/Đoàn tăng cường nữa. Và chúng tôi đã tự ý rút về.” Ch/tướng Lân nói: “TOC (Trung tâm Hành Quân) đã theo dỏi hệ thống truyền tin nội bộ của các đơn vị suốt cuộc hành quân. Cậu đã có kế hoạch và chỉ huy toàn bộ 4 C/Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Giai đoạn sau thì không tính.” Tr/tá Để xen vào: “Xin Thiếu tướng đề nghị thăng cấp Thiếu tá mặt trận cho Đại úy Xứng. Như vậy thì cụ thể hơn.” Và Ch/tướng Lân nói: “Như vậy cũng tốt. Chúc mừng cậu trước!” Ông đứng dậy bắt tay tôi. Tôi chỉ cảm ơn và mỉm cười. Chỉ trong khoảng 15 phút sau, tôi tiển ông và Tr/tá Để lên trực thăng bay luôn. Khi trở lại, tôi thấy Tr/tá Tá, nai nịt gọn gàng bước đến, hỏi tôi: “Ông Tướng xuống C/Đoàn anh có nói gì không?” Tôi nói dối: “Ông chỉ ghé xuống thăm và hỏi tình hình C/Đoàn mà thôi.” Và sau này ai hỏi, tôi cũng chỉ nói như vậy.

                      Chỉ khoảng hơn 2 tháng sau thì tôi (sĩ-quan duy nhất được thăng cấp) được mang cấp bậc Thiếu tá (thăng cấp đặc cách mặt trận) do SĐ/TQLC đề nghị.

                      Tôi chỉ đưa ra một Tổng kết tương đối chính xác của Lực Lượng Tấn Công Chính trong cuộc Hành Quân Tango như sau:

                      – Địch:
                      1 – Nhân mạng: 01 bị bắt sống. Chết và Bị thương khoảng trên 300 trên đường tiến quân của tôi và trong các loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của các C/Đoàn tại Cửa Việt.
                      2 – Quân dụng: 3 T.54 hay T.59 bị bắn tê liệt

                      – Bạn (Lực Lượng Tấn Công Chính):
                      1 – Nhân mạng:
                      – Thiết giáp: 2 chết (1 bị bỏ lại Cửa Việt) khoảng 30 bị thương (trong đó có 2 sĩ-quan của Cánh A của tôi + 1 SQ của BCH /Th/Đoàn20CX)
                      – TQLC tùng thiết: Chết và Bị thương khoảng 30. Bị bắt sống khoảng trên 100.trên đường tháo chạy
                      2 – Quân dụng: -6 CX M.48 (4 của Cánh A và 2 của Cánh B); 1 CX M.41; 5 M.113 bị bắn tê liệt và bị bỏ lại tại Cửa Việt. Không có loại nào bị cháy.

                      Tổng cộng: 12 xe các loại.
                      – 3 CX M.48 bị bắn hư hỏng nhưng vẫn chạy về được.
                      – Phần đất Lực Lượng Tấn Công Chính đã tấn công càn lướt và TQLC theo sau đã điền trám được: hơn 5km (đến gần Bình An).
                      – Riêng về Kết qủa của các T/Đoàn TQLC thì tôi không rõ.

                      Mượn Tựa đề và Lời Mở đầu của Th/u Đặng-văn-Quang, tôi đã viết lại những hồi ức, mà lẽ ra đã muốn giấu kín trong lòng và giữ làm kỷ niệm cho quãng đời lính của mình, về Trận đánh Cửa Việt với toàn bộ sự thật, (nói là toàn bộ sự thật thì không đúng hẳn vì: thứ nhất, ngoài giờ giấc ngưng bắn là 07:57 ngày 28/01/73, các số giờ khác có thể có sự chênh lệnh về số phút nhưng không sai lệnh nhiều. Thứ hai, có một số chi tiết tương đối không quan trọng mà, vì tế nhị, tôi không tiện nêu ra vì muốn giữ lại những tình cảm rất đáng trân trọng của anh em thuộc cả 2 binh chủng đã dành cho tôi sau 36 năm dài dằng dặc) chỉ với mục đích xin dùng bài viết này thay cho:

                      – Ba nén nhang cắm vào trước mộ của HS Thìn, tài xế chiến xa chỉ huy của tôi, đã hy sinh trong đêm tiến quân ra Cửa Việt và đã phải được gói chặt trong poncho (áo mưa của lính) suốt hơn 3 ngày liền, nghe thêm tiếng pháo nổ đạn bay cũng như hòa quyện linh hồn mình với niềm vui và nổi lo của đồng đội trong cuộc chiến khốc liệt nhưng bế tắc này.

                      – Ba nén nhang cắm vào trước chiếc chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX do Binh 1 Hoàng- Hoàng làm tài xế và đã hy sinh anh dũng, yên nghỉ ngay trong khoang tài xế chiến xa của mình tại phòng tuyến Cửa Việt.

                      Xin cầu nguyện cho linh hồn hai em ở thế giới bên kia siêu thoát và cảm thấy thanh thản hơn, nếu đọc được bài viết này.

                      Bài viết này cũng để thay lời cảm ơn:
                      – Th/u Đặng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, đã bị thương ngay sau khi đã đánh tan tuyến chặn đầu tiên và kiên cố nhất của địch.
                      – Th/u Nguyễn-văn-Sa, C/Đội trưởng C/Đội 1/3/20CX, được tăng phái cho tôi, đã bị thương nặng trên đường tiến quân và sau đó phải giải ngủ.
                      – Tr/u Tống-huy-Kính, người đã cùng tôi vượt qua suốt chặng đường đầy cam go tiến chiếm Cửa Việt.

                      Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng
                      nguồn:
                      https://ongvove.wordpress.com/2017/0...tran-cua-viet/

                      Comment


                      • Cần Thơ... Đi Dễ Khó Về

                        Cần Thơ Đi Dễ Khó Về
                        Đoàn Xuân Thu


                        Chữ rằng: “Cần Thơ đi dễ khó về! Trai đi có vợ; gái về có con!”

                        Đó đó! Đúng y hịt đời tui vậy đó bà con ơi!

                        Như ai nấy nếu để ý đều biết bất cứ thị trấn, thị xã nào của Lục tỉnh Nam Kỳ, quê mình, đều kề cận một dòng sông.

                        Vì cũng có câu rằng:

                        “Sông Cửu Long chín cửa hai dòng!
                        Người thương anh vô số, nhưng anh chỉ một lòng với em!”


                        Rồi thòng thêm câu hỏi nữa:

                        “Bên dưới có sông; bên trên có chợ.
                        Ta với mình chồng vợ nên chăng?”


                        Thì em yêu, dân Cần Thơ, tóc em dài em cài hoa thiên lý, nghe anh hỏi mi mí… là em biết tỏng cái tim đen, bèn trả lời móc họng anh, như vầy: “Biết rồi mà bày đặt hỏi lôi thôi!”

                        Có nghĩa là:

                        “Anh có thương em thì thủng thẳng em ừ!
                        Anh đừng thương vội mẫu từ ‘quánh’ em!”


                        Ha ha! Mẫu từ, mẹ hiền, mà roi vọt bất tử quá vậy ta? Nhưng có nhằm nhè gì! Quánh em; chớ có dám quánh thằng rể đu đủ tương lai trời đánh nầy sao mà mình sợ chớ?! Nên tới luôn bác tài…Vì em đã chịu đèn rồi!

                        Chẳng qua là tới tuổi quân dịch, tui vào lính; nhưng bị bịnh mộng du! Bác sĩ quân y thuộc Hội đồng giám định y khoa khám, cho tui về hoãn dịch vì lý do sức khỏe!

                        Vì tối nào tui cũng ngủ mớ, tuột cái rột, ra khỏi giường, đi vòng vòng doanh trại, dạo mát trăng thanh; nhưng không có ý thức gì ráo!

                        Mật khẩu không biết, đêm cà lơ phất phơ… lính canh nó phơ ẩu là bỏ mạng sa tràng…

                        Thôi lính chê thì mình về đi học nữa vậy!

                        Năm 1970, tui theo thằng bạn thân, sau Tết, mùng Bốn, đi

                        " Cần Thơ cho biết đó biết đây,
                        Ở nhà với Má biết ngày nào khôn?"



                        Từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, trên Quốc lộ 4, qua Bắc, leo lên xe Lam, chạy một hơi thôi, khoảng 1300 mét, là tới Ngã ba Lộ tẻ. Rẽ trái vào trung tâm thành phố Cần Thơ! Rẽ phải vào liên tỉnh lộ dẫn đến Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên.

                        Tại Ngã ba Lộ tẻ, có Bến xe mới xe lên Sàigòn; hoặc xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, chạy thẳng tắp từ đây tới tận quận Cái Răng; mà không phải đi qua trung tâm thành phố. Vào trung tâm Cần Thơ phải qua cây Cầu đôi bằng sắt, kiểu Eiffel, bắc ngang qua rạch Cái Khế.

                        Bên kia cầu là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, xưa dành cho mấy ông Tây; sau nầy là Dinh của Tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa .

                        Đi tới là dinh Tỉnh Trưởng! Trước mặt là một bùng binh khá rộng, nơi hội tụ của nhiều con đường chạy vòng vòng để khỏi đụng nhau.


                        Đường Phan Đình Phùng xuất phát từ đây, coi như là cái xương sống của thành phố, chạy ngang qua Ty Bưu điện, Tòa án, Tòa Thị Chính, Ty Cảnh Sát, Trường Tư thục Nam Hưng, v.v… xuống tận khu Cầu Xéo.

                        Một đường khác cũng từ dinh Tỉnh Trưởng hướng về Cầu Tham Tướng, là Đại lộ Hòa Bình. Nhưng dân quen gọi là đường Hàng Xoài, vì dọc theo đường có trồng xoài.

                        Đại lộ Hòa Bình, lớn nhưng ngắn ngủn, chấm dứt khi tới Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa (Nơi em yêu của tui làm đó nhe!). Đường Lý Thái Tổ, bắt đầu từ đây, chạy dài tới cầu đúc Tham Tướng.

                        Qua cầu, là đường Mạc Tử Sanh, phía bên trái là chợ chồm hổm, chỉ nhóm vào buổi sáng, nhưng tấp nập quanh năm vào buổi chiều tối vì có xề bánh cống, quầy hủ tiếu, gánh cháo gà cho dân nhậu bình dân.

                        (Tham Tướng là Mạc Tử Sanh, con của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên), làm cận vệ cho chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần.

                        Năm 1777, quân Tây Sơn ồ ạt tấn công xuống miệt Trấn Giang (Cần Thơ)! Mạc Tử Sanh bị vây, chết trận nơi khoảng rạch nhỏ đổ ra sông Cần Thơ! Sau nầy dân chúng đặt tên là rạch Tham Tướng!)

                        Rạch Tham Tướng chạy vòng vòng phía trong, cắt ngang đường Tạ Thu Thâu, chui qua cái cầu sắt nhỏ, cầu Rạch Bần, vốn là đường thoát nước mưa tự nhiên cho Cần Thơ! Sau nầy nghe nói đã bị lấp! Nên bây giờ mưa lớn một chút là Cần Thơ ngập thấy thảm… thương luôn?! Tội nghiệp mấy em mắc mưa, ướt luôn cái quần lãnh Mỹ A hết ráo!

                        Cầu Tham Tướng đã biến mất, đường Mạc Tử Sanh đi về hướng Cái Răng cũng bị mất tên luôn, thành đường 30 tháng 4.

                        Ngã ba Tham Tướng xưa có doanh trại của đại đội Quân vận 411, dưới hàng cây bã đậu. Sau nầy là quán cà phê và quán nhậu bình dân.

                        Ôi những ngày đói rách, lang thang sau khi mất nước, tui không biết làm gì; chỉ biết long nhong như ở không lắm vậy! Và từng đóng đô thường trực ở đó.

                        Ngồi tréo ngoảy, trước mặt ly rượu thuốc ngâm ô môi, có màu cho dễ ực; vì màu trắng mắt mèo, e nó có nhúng một đầu tăm thuốc trừ sâu cho rượu trong veo…

                        Thấy ớn quá hà!

                        Xa em, người đã cả gan bán chịu cho tui ngày cũ (mà không sợ bị giựt)! Biết giờ em giờ phiêu bạt tận phương nào, để tui gởi về em một, hai trăm đô Úc, bồi đáp cái ‘bát cơm phiếu mẫu’ ngày xưa?!

                        Phần để cho em có tiền mua trầu nhai bỏm bẻm, chống tay lên cằm mà nghĩ tui vẫn còn thương tưởng tới em?!

                        Nhưng nếu bà con mình ở tỉnh khác tới chơi; người ta khoái cái bến Ninh Kiều hơn là chợ Tham Tướng!


                        Bến Ninh Kiều, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã đánh quân Minh xâm lược một trận tơi bời; nên nằm trên đường Lê Lợi.

                        Thế mới biết ông cha mình đặt tên đường, tên bến nước là đầy trí tuệ, có hậu ý; chớ không phải như sau nầy muốn đổi tên đường sao cũng được; tùy bữa say nhiều hay xỉn ít đâu nha mấy cha?!

                        Nhạc sĩ Lam Phương, là thầy giáo, miệt Rạch Giá, gần biển, nên 75, ông chạy sớm hơn ai hết thảy. Xa quê, tuốt bên trời hải ngoại, ông vẫn còn nhớ tới bến Ninh Kiều để:

                        “Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về,
                        Thăm quê xưa với vườn cau thề,
                        Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô,
                        Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô!”


                        Đó là ông ước, ông mơ, ông nhớ về ngày tháng cũ:

                        “Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều
                        Sao anh không thấy về Ninh Kiều?
                        Dường như anh nghe đời nặng trĩu trong màu đen
                        Đen như manh áo buồn chưa quen!”


                        Rồi ông nhớ cái thuở học trò!

                        “Ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường
                        Nay nghe sao khác từ tên đường
                        Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương
                        Tây Đô sẽ sống lại yêu thương!”


                        Cái trường, ông Lam Phương, đã từng theo học, bây giờ vẫn còn nhớ, là trường Phan Thanh Giản, trường công lập lớn nhất ở miền Tây, được thành lập vào đầu thế kỷ 20.

                        Học sinh ở các tỉnh lân cận, như nhạc sĩ Lam Phương hay nhà văn Sơn Nam, miệt Rạch Giá, vẫn phải khăn gói đến trường Phan Thanh Giản để học tiếp bậc “Đút rơm trâu ăn mê” (Diplôme) tức Trung học Đệ nhất cấp!

                        Tới năm 1964, trường Phan Thanh Giản lại được tách ra để thành lập Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm. (Em yêu của tui đã từng đi học ở đó!)
                        Sau 75, Trung học Phan Thanh Giản bị thay bằng Châu Văn Liêm.


                        Mà không phải chỉ cái trường học bị đổi tên đâu mà những con đường chu vi trường cũng chịu cùng chung số phận. Cổng trường nằm trên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tỉnh. Đường Pasteur, giữa trường Phan Thanh Giản và trường Đoàn Thị Điểm, bị đổi tên là Võ Thị Sáu.

                        Ông Pasteur, dù là Tây; nhưng có công lớn là đã chế ra thuốc chủng ngừa, cứu mạng hàng triệu người, không phân biệt màu da sắc tộc, khỏi bệnh tật! Công lớn với nhân loại khó có ai sánh bằng vậy mà cũng bị đuổi đi… để thay bằng chị Sáu… ‘mùa lê kim ma’ nở?

                        Nhưng tui buồn nhứt có lẽ là đường Võ Tánh, dọc bên hông trường, từ đường Phan Thanh Giản tới đường Ngô Quyền; đã đổi thành đường Trương Định.

                        Không phải tui (dám) ghét bỏ ông Trương Định, một anh hùng kháng Pháp, gì đâu. Mà chẳng qua con đường Võ Tánh, dẫu ngắn, có một khúc tẻo tèo teo thôi; nhưng nó lại mang quá nhiều kỷ niệm…

                        Phía sau lưng đường Võ Tánh nầy là xóm Cả Đài (theo tên Hương cả Phạm Thành Đài), bắt đầu từ cái chợ nhỏ cũng gọi là chợ Cả Đài kéo dài dài đến chùa Cây Bàng; nơi tui từng ở trọ gần trường để tiện đường… đi gõ đầu trẻ hồi năm nẳm.

                        Tui nhớ quán Ngọc Lan, chuyên bán cơm tháng cho quân nhân và công chức. Năm 1973, nếu mua vé cả tháng, sáng ăn đưa một vé, chiều ăn đưa một vé, bữa nào hỏng ăn, lại đi ăn cháo, gỏi đầu cá lóc (bự ế kinh), ngon hết biết, với em yêu ở đường Nguyễn Trường Tộ thì khỏi đưa vé…

                        Ăn hết xấp vé đó mua xấp vé khác, tốn 4 ngàn đồng bạc, dằn túi; không sợ đói bất tử vì đôi khi hứng xài ẩu… (Hồi thanh niên, đứa nào hỏng vậy cà?)

                        Từ quán cơm Ngọc Lan, có ông chủ lúc nào cũng mang mặc áo bỏ vô thùng bảnh tỏn, đi vài căn nữa thì tới tiệm chụp hình Phúc Vinh, nơi em yêu làm duyên, chụp tấm hình cho anh lộng bóp; để lúc nào cũng phải nhớ tới em! Và nếu vắng em, có con ‘quỷ hó’ nào dám lục bóp anh, thì nó thấy tấm hình bà La Sát nầy là nó sẽ bỏ chạy sút dép luôn!

                        Sau 75, người ta đói xanh râu, đói đến lòi hai cái lỗ tai; nên tiệm Phúc Vinh không còn chụp hình nghệ thuật nữa mà quay sang bán cháo, gỏi gà… để kiếm cơm!
                        Tui đã từng theo Giáo M. dạy Việt văn, em Bác sĩ H. ở hẻm 5, đường Phan Thanh Giản tới đây nhậu.

                        Giáo M. có người em gái trắng như bông bưởi!
                        Tắm xong, em hay ra hàng hiên ngồi hong tóc,
                        Mà tui tình cờ trông thấy… phải há hốc cái mồm!


                        Thưa bà con! Dù Cần Thơ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của tui nhưng là quê hương yêu dấu ngậm ngùi của em yêu. Cần Thơ là quê vợ, là người tui rất sợ; nên tui còn yêu Cần Thơ hơn cả quê tui nữa đó!

                        Vì nơi đó có em… và còn có mấy em khác (tui thầm thương trộm nhớ) nhưng vì đã có vợ rồi nên tui đành phải giữ mối tình câm…Nên riết rồi… tui bị ‘hâm hâm!”

                        Tui xa Cần Thơ… Đi và đi luôn mấy chục năm!

                        Người xưa bên ấy, mới đây, gởi cho tui câu ca dao nầy, tui lén vợ, tui học thuộc lòng, kẻo quên:

                        “Con chim buồn, chim bay về cội
                        Con cá buồn, cá lội trong sông
                        Em buồn em đứng em trông
                        Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”


                        Thôi xin tạ lỗi cùng em hẻm 5, đường Phan Thanh Giản!

                        Thân anh giờ như:“Chim vào lồng; như cá cắn câu! Cá cắn câu biết đâu mà gở; chim vào lồng biết thuở nào ra!”

                        Thôi đành “Hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau!”

                        Đoàn Xuân Thu
                        Melbourne

                        nguồn:
                        https://canhthep.blogspot.com/2017/0...-xuan-thu.html

                        Comment


                        • Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I - Lê Bá Chử

                          Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
                          Lê Bá Chử

                          Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng Thống và Thủ Tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân Ðoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Ðà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư Ðoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di dịch là: Phải rút khỏi Quân Ðoàn 1 càng sớm càng hay.


                          18/5/1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, kiểm tra vũ khí của người lính. 900 binh sĩ Sư đoàn 2 đã được trực thăng vận vào
                          căn cứ pháo binh Rakkasan, 15 dặm phía Tây của Huế, để tạo thành “vòng tròn thép” bảo vệ cố đô – Hình ảnh của ©Bettmann / CORBIS

                          Trở ra Quân Ðoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị Tư lệnh sư đoàn, Tỉnh trưởng, Tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rút cục tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ nói với một mình tôi là Tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Ðoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Ðoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.

                          Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị Tư lệnh các quân binh chủng, Tổng bộ trưởng, Tư lệnh sư đoàn, v.v… đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân Ðoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có Tổng thống, Thủ tướng, Ðại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân Ðoàn 1), và Tư lệnh Quân Ðoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Ðà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Ðà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.

                          Tôi ra lệnh cho tướng Trần Văn Nhựt rút Sư Ðoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hàng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng 1.


                          Ngày 29 tháng 6/1972 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng 1,500 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến
                          tại Tân Mỹ, chờ trực thăng vận đến một địa điểm phía đông Quảng Trị – nguồn: quora.com

                          Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi Đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng Thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng 1 được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.

                          Tổng Thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân Ðoàn 1) đang chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Ðà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh Tổng Thống yêu cầu tôi “bỏ Huế.” Thật làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ.

                          Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: “- Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao?” Tôi buồn bã trả lời: “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được.” Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải Quân rút về Ðà Nẵng.

                          Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ Tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh “phải rút càng sớm càng tốt” lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ Tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả các vị Tư lệnh sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ tham mưu, và các Trưởng phòng sở của hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.

                          Trước khi Thủ Tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để Thủ tướng biết rõ tình hình và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ “trình thưa dạ bẩm” trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi Thủ Tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói Thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: “Thưa Thủ Tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa Thủ Tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó?” Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì Thủ Tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Ðoàn 1 và Quân Khu 1 càng sớm càng tốt.

                          Ðúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh trả Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Ðà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng Thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Ðà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Ðà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Ðà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đã cặp bến Cam Ranh rồi.

                          Tôi nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.

                          Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây, tôi gặp phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Không Quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng Thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: “Xã ấp tốt quá mà bỏ là sao?” Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng này bị phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn tại Sài Gòn.

                          Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có nói rằng: “Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh là không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi, họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này.” Phòng họp lặng ngắt. Ðại tướng Viên nhìn qua trung tướng Trần Văn Ðôn. Tướng Ðôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức Tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Ðôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Ðôn làm đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế và rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Ðôn, mà chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê Nguyên Khang với giọng giận dữ đã buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!”


                          Di tản chiến thuật tại Đà Nẵng – nguồn: PennLive.com

                          Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của tướng Thoại và tướng Khánh. Là vị tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, thấy đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh, Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.

                          Lê Bá Chử
                          ghi chép (Lịch Sử Ngàn Người Viết)
                          nguồn:
                          http://www.generalhieu.com/nqtruong-u.htm
                          Last edited by BachMa; 04-04-2018, 02:48 PM.

                          Comment


                          • Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I - Trần Vũ

                            Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
                            Trần Vũ

                            Tôi khám phá tướng Ngô Quang Trưởng lần đầu qua bút ký Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam. Một tướng Trưởng lo âu lặng cứng trong đồn Mang Cá khi Việt cộng chiếm Huế năm Mậu Thân. Việt cộng vào đầy Huế nhưng tướng Trưởng và bộ chỉ huy sư đoàn 1 bộ binh cương quyết chống trả, lập đầu cầu cho lữ đoàn Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng vào giải vây Huế. Cũng chính tướng Trưởng đã giữ vững Huế năm 1972 và tái chiếm Thừa Thiên. Một Patton của miền Nam. Nhưng khác Patton, tướng Trưởng không thô tục mà điềm đạm, cũng khác Patton, tướng Trưởng không đánh lính mà lập hội cứu trợ gia binh và gắn bó với binh sĩ, ông để lại trong lòng dân miền Nam hình ảnh của một vị tướng tài và liêm khiết.


                            Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

                            10 tháng 3-1975 Ban Mê Thuột thất thủ. Kể từ lúc này là một chuỗi tan vỡ dây chuyền. Tin chiến sự dội về Sàigòn liên tiếp những thành phố bỏ ngỏ. Việt cộng càng lúc càng áp sát xuống phía Nam. Bố mẹ tôi lo lắng cùng cực. Những bữa cơm chiều thay bằng cảnh cả nhà túm tụm trước tivi theo dõi tin tức, đôi khi mở radio cùng lúc. Toàn quân đoàn 2 với sư đoàn 23 bộ binh và 5 liên đoàn Biệt Động Quân tan vỡ trên cao nguyên. Quân đoàn 1 của tướng Trưởng rơi vào tình trạng bị chia cắt với Sàigòn. Mỗi ngày tivi phát hình dân chạy loạn gồng gánh đổ xô giành giật lên những chuyến tàu cuối cùng. Tôi còn nhớ nhật báo Sóng Thần chạy tít lớn: “Tướng Trưởng cố thủ ngoài Trung.” Ngô Quang Trưởng, tên ông như lá bùa hộ mệnh.

                            Chiều 18 tháng 3, lần đầu tiên tôi nghe giọng nói của ông. Cuộn băng ghi âm phát trên đài phát thanh Huế rồi phát về Sàigòn lúc 6 giờ chiều. Giọng ông trầm trọng nhưng chắc chắn: ông tuyên bố tử thủ Huế, nếu cần chết tại Huế. Tiếng nói của ông đem cho bố mẹ tôi niềm hy vọng. Gia đình tôi di cư từ Bắc, không ngừng tin vào quân lực.

                            Một tuần sau, 25 tháng 3-1975, u già nấu canh mồng tơi với cá chim trắng chiên vàng là món tôi ưa thích. Tin bỏ Huế đột ngột vang lên trên radio. Bố mẹ tôi buông đũa chết sững. Tô canh trở nên nguội ngắt. 4 ngày sau, đến phiên Đà Nẵng. Rồi Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi, rồi Sa Huỳnh…

                            Nhiều thập niên sau đọc Vì Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn 1, tôi mới hiểu tướng Trưởng đã bất lực như thế nào khi phải thi hành lệnh của Phủ Tổng thống. Trong thâm tâm ông hẳn đã phải giận dữ tột bực. Vì sao Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên không hiểu lui binh khó khăn hơn tấn công? Vì sao cả hai quên những thất trận cay nghiệt của quân đội Pháp: Liên đoàn Sơn cước Bắc Phi và chiến đoàn Charton tan hàng trên đường biên giới tháng 9-1950. Liên đoàn 100 Lưu động bị phục kích tan nát trên quốc lộ 19 ngay khi rời An-Khê tháng 6-1954. Trận đánh diễn ra ngay trên đèo Mang-Yang ở cây số 15, không xa mặt trận Khánh Dương vừa xảy ra trận đánh khốc liệt suốt tuần lễ giữa Lữ đoàn 3 Nhảy dù với Sư đoàn 10 của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Vừa xảy ra? Vì chỉ mới là hôm qua. Vẫn còn là ngày 29 tháng 3-1975 khi tướng Trưởng phải rời Đà Nẵng trong hỗn loạn và vẫn còn là ngày 30 tháng 3 khi Lữ đoàn 3 Nhảy dù phải lui về Dục Mỹ với thiệt hại 3/4 quân số. Phòng tuyến phía bắc Nha Trang tan vỡ.


                            Trung Tướng Ngô Quang Trưởng giữa các cố vấn Mỹ

                            Vì sao cố Tổng thống Thiệu ra lệnh triệt thoái? Vì sao Đại tướng Cao Văn Viên không từ chức? Vì sao tướng Viên không nghiên cứu học thuyết chiến tranh hay chiến lược của Việt Minh trong chiến tranh Việt-Pháp, vì vẫn cùng một kẻ thù, cùng hàng tướng lĩnh Việt Minh đang cầm quân đánh miền Nam mà tướng Viên lại ghi danh Văn khoa Sàigòn? Chức Tổng tham mưu trưởng không đủ làm ông bận rộn? Và vì sao ông quan tâm văn chương trong lúc chiến tranh đã kề cận thủ đô? Tôi không giận tướng Trưởng vì trong lòng tôi giữ sự tôn kính đối với ông, nhưng tôi bực mình Đại tướng Cao Văn Viên đã không làm đúng phận sự là phải đề ra những kế hoạch khác một khi thấy quyết định của Phủ Tổng thống là sai lầm. Hoặc từ chức. Chậm rãi, tôi chú ý đến chi tiết: Cả hai Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên, đồng khóa sĩ quan Nam Định, đều cùng theo học khóa tham mưu cao cấp do Trung tá Paul Vanuxem giảng dạy. Vanuxem chính là liên đoàn trưởng Liên đoàn 3 Lưu động bị vây tại Vĩnh Yên Tết Tân Mão 1951. Tuy là một chiến thắng, nhưng từ sau trận Vĩnh Yên này suy nghĩ quân sự của Vanuxem thay đổi. Trong các văn bản viết về chiến tranh Đông Dương, Vanuxem tin cẩn tuyệt đối tránh để bị vây. Nếu cần, bỏ đất một khi cán cân binh lực không cân xứng. Navarre đã không chọn Vanuxem chỉ huy Điện Biên Phủ vì ý niệm chiến thuật này. Mệnh lệnh triệt thoái của Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên có chịu ảnh hưởng tinh thần của Vanuxem?

                            Cá nhân tướng Ngô Quang Trưởng không thể thay đổi quyết định của Phủ Tổng thống nhưng ông vẫn mang trách nhiệm tổ chức lui binh không chặt chẽ. Sau thảm bại El Alamein, Thống chế Erwin Rommel lui binh 2,000 km trên sa mạc trước áp lực của Đệ Bát Lộ quân của Montgomery mà vẫn bảo toàn Quân đoàn Châu Phi về đến Tunisia để phản công chiến thắng trong trận Kasserine. Sau thảm kịch Stalingrad, Thống chế Erich von Manstein lui binh từ vùng núi Caucase trùng điệp về đến sông Don, rồi từ sông Don lui về sông Donetz, rồi từ sông Donetz lui về sông Dnieper mà vẫn giữ được tính hợp nhất của 6 Lộ quân để phản công hủy diệt Tập Đoàn quân Sô-viết tại Kharkov. Đứng về phương diện hành quân, tướng Trưởng là một tướng tài nhưng ông chưa vươn lên tầm cao hơn của một tướng lĩnh đảo ngược được thế trận.

                            Sang Hoa Kỳ tướng Trưởng giữ im lặng, vì quân cách của một quân nhân cần giữ, ngay cả sau bại trận. Cũng vì ông mang trong mình nỗi đau đã để mất Quân đoàn 1. Nỗi đau thật, là nỗi đau câm.


                            Trần Vũ
                            nguồn:
                            http://baotreonline.com/tai-sao-toi-bo-quan-doan/

                            Comment


                            • Ngày Cuối Cùng Của Sư Đoàn 5

                              Ngày Cuối Cùng Của Sư Đoàn 5
                              Nguyễn Minh Tánh



                              Lời nói đầu.

                              Ngày tàn chiến cuộc Việt Nam cũng là ngày tạm ngưng hoạt động của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau hơn 24 năm thành lập (Tôi nói tạm ngưng vì Quốc Gia chúng ta còn, chúng ta sẽ còn Quân Lực Quốc Gia). Ngày tàn binh nghiệp của chúng ta đã có những Tướng lãnh tuẩn tiết hi sinh thân mình nêu danh hậu thế. Các vị này, đã tượng trưng tinh hoa, anh hùng tính dân tộc của chúng ta, xứng đáng được dựng bia để con cháu ngày sau tôn thờ. Các vị này thà tự giải quyết sinh mạng của mình chứ không muốn rơi vào tay giặc cũng như không muốn phí sinh mạng Binh sỉ thuộc cấp một cách vô ich. Các vị anh hùng đó từ vị Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú cựu Tư Lệnh Quân Ðoàn II/V2CT, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hai. Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và cuối cùng là vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đáng kính yêu của tôi, cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ.


                              Các vị nầy nếu ra lệnh cho thuộc cấp tiếp tục chiến đấu thì chắc chắn tất cả sẽ tuân lệnh nhưng cũng chỉ tổn thất thêm sinh mạng một cách vô ích. Thiếu Tướng Hưng cũng từng là người hùng của trận An Lộc khi chỉ huy Sư Ðoàn 5 Bộ Binh năm 1972 người đã làm rạng danh Khóa 5 Vì Dân Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức của chúng tôi.

                              Có nhiều bạn bè tôi khi đi tù hàng chục năm về hơi khó tính từng nói là họ không tôn trọng và không xem các tướng lãnh rời miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước khi miền Nam thất thủ, là các cấp chỉ huy của họ. Tôi thì thông cảm tình cảnh quí vị này nhất là những vị rời miền Nam ngay sau khi Dương Văn Minh đầu hàng. Một điều tôi và đa số bạn hữu đều công nhận là nhờ có những người thoát ra nước ngoài năm 1975 và hoạt động tranh đấu với quốc tế, với Hoa Kỳ và cả Cộng Sản Việt Nam nên “Chương Trình Ra Ði Có Trật Tự” (ODP) mới được thành hình và chúng tôi dân H.O mới sang được đất hứa.

                              Vì có những vị bỏ đi nên những người vĩnh viễn ở lại trong lòng quê hương, đã dùng những giọt máu đào của mình rải thắm đất mẹ rất xứng đáng được tôn vinh. Do đó chúng ta chỉ xếp hạng các người “hùng” và không “hùng” thôi. Chúng tôi chỉ xin quý vị sang trước đây, đã có một thời gian dài ổn định, con cái nên người, thành những người dân địa phương chánh gốc nếu không thể cưu mang các cựu chiến hữu của mình vì lý do nào đó đã ở lại miền Nam sau 30 tháng 4 năm 75, (Có người đã chết trong các ngục tù Cộng Sản) bị đối xử tàn bạo trong các ngục tù cộng sản mới sang đây thiếu thốn mọi bề, thì cũng đừng tuyên bố những câu đau lòng về những người tuẩn tiết và chúng tôi là những “Tên ngu dại không biết thời cơ.” Thế thôi ! Nhân danh là một người tù cải tạo 10 năm và mới sang đây tôi cũng xin cám ơn quý vị đó một lần.

                              Ðã có nhiều người viết về ngày cuối cùng của Ngũ Hổ Tướng (Các tướng Nam, Phú, Hưng, Hai, Vỹ) đặc biệt về Tướng Vỹ trong số KBC Ðặc Biệt vừa qua, nhưng còn nhiều chi tiết còn thiếu vì tác giả nghe người khác kể lại.

                              Hôm nay tôi xin bổ túc về cái chết oanh liệt của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ vì chính tôi và một số Sĩ quan cao cấp đơn vị trưởng của Sư đoàn đã ở gần cố Thiếu Tướng Lê nguyên Vỹ trong những giây phút cuối cùng.


                              Cuối tháng 9 năm 1974 tôi được thuyên chuyển từ Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (Đồn trú tại Ban Mê Thuột nhưng đang hành quân ở Vùng Pleiku KonTum), về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh sau hơn 9 năm rời khỏi đơn vị nầy lúc đó là tôi là Ðại Úy Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 3/1 Thiết Quân Vận.

                              Vì bất bình vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh khi vừa xuống trực thăng trong vùng hành quân Pleime (Pleiku) đã “xài xễ” tôi trước mặt các Sĩ Quan thuộc cấp và tăng phái do một lý do tôi không thể nào kiểm soát nổi hoặc Chỉ huy được là Thiết Vận Xa bị mìn khi đơn vị được lệnh tiến nhanh, nên dò mìn không kỹ, tôi bỏ vào Bộ Chỉ Huy Hành Quân của tôi và đề nghị Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh tìm người khác thay thế tôi. Vị này đùng đùng bỏ về và bảo Ðại Tá Nguyễn Văn Ðồng Tư Lệnh Lữ Ðoàn II Kỵ Binh bổ nhiệm Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðêm Thiết Ðoàn Phó Thiết Ðoàn 21 Chiến Xa M48 thay thế tôi và đặt tôi dưới quyền xử dụng của Lữ Ðoàn II Kỵ Binh dù tôi là quân số của Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp (nguyên Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị BCH/TGB QLVNCH) trở lại chức vụ cũ của tôi vào tháng 4 năm 1974 là Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh, đơn vị tôi phải rời bỏ cuối tháng 10 năm 1972 vì bị trọng thương.

                              Thiếu Tá Ðêm đã bị VC bắt làm tù binh khi chúng tấn công Ban Mê Thuột vào trung tuần tháng 3 năm 1975 và đã ở tù 7 năm. Chính ra, nếu Sư đoàn không dùng tôi thì phải trả tôi lại đơn vị gốc nhưng Chuẩn Tướng Tường muốn giữ tôi lại “Ngồi chơi xơi nước” tại Lữ Ðoàn II Kỵ Binh cho Ðại Tá Ðồng “trù” tôi. Nhưng nhờ có Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh can thiệp và được Trung Tướng Nguyễn văn Toàn Tư Lệnh Quân Ðoàn II chỉ thị xuống, Tướng Tường mới thả tôi đi về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh khi Việt Cộng còn đang chiếm Căn Cứ Rạch Bắp thuộc Quận Bến Cát và Trung Tá Nguyễn văn Tá (Khóa 11 phụ VBQG Ðàlat) đã hy sinh ngày 5 tháng 9 năm 1974.

                              Khi được cho biết về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh (Một đơn vị “nát nhất” trong các Thiết Ðoàn Kỵ Binh) tôi muốn từ chối (Tôi được xếp Loại 2 sau khi bị thương nặng ngày 31 Tháng 10 năm 1972 tại Pleiku, do đó tôi có thể không đảm nhận chức vụ chỉ huy các đơn vị chiến đấu nếu tôi không thích ) vì khi tôi rời khỏi Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh năm 1965 lúc đó Ðại Tá Phạm Quốc Thuần là Tư Lệnh Sư Ðoàn, hiện lúc đó là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn III, Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đương kim Tu Lệnh Sư Ðoàn thì năm đó là Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, Ðại Tá Ðào Ðức Chinh (Hiện định cư tại Virginia) hiện là Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn thì trước kia là Trưởng Phòng Ba Sư Ðoàn đều biết tánh ba gai của tôi năm 1965 và có vẻ không thích tôi !? Nhưng Chuẩn Tướng Bá cho biết là tướng Thuần nói trước kia tôi không có lỗi gì cả‚ và đồng ý cho tôi về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh còn khuyến khích tôi nói là tôi về chấn chỉnh lại Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh vì “nó” quá nát rồi nhất là sau cái chết của Trung Tá Nguyễn Văn Tá Thiết Ðoàn Trưởng.

                              Các vị trong quân đội nếu không biết rõ Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh “nát” như thế nào thì chỉ nghe tôi kể sơ sơ đây cũng đủ ớn lạnh rồi ! Không kể tiểu sử trước năm 1972 của Thiết Ðoàn, nhưng kể từ đầu năm 1972 khi Trung Tá Tôn Thất Hoàng (Khóa 14 VBLQ Ðàlat) rời chức vụ chỉ huy thiết đoàn đến tháng 9 năm 1974 tôi là vị Thiết Ðoàn Trưởng thứ sáu trong vòng chỉ hơn hai năm ! Trong thời gian này một Thiết Ðoàn Trưởng Trung Tá Nguyền Ðức Dương (khóa 11 phụ VBQG Ðalạt) bị đơn vị chiến xa CSBV bắt cùng cả bộ Chỉ huy Thiết đoàn làm tù binh tại mặt trận Lộc Ninh (Bình Long) vào tháng 3/72(?), được trao trả 13 tháng sau nhờ Hiệp Ðịnh Ba Lê; Thiếu Tá Bùi Thường, khóa 5 SQTB Thủ Ðức cùng khóa 5 SQTBTÐ với tôi chỉnh trang đơn vị lại vài tháng, Trung Tá Nguyễn Mạnh Lâm cũng khóa 5 SQTBTÐ chỉ huy vài tháng rồi cũng đi, Trung Tá Nguyễn Ðức Dương sau khi được trao trả‚ trở lại đơn vị cũ vài tháng rồi đi vì Cục An Ninh Quân Ðội không đồng ý, kế đến Trung Tá Nguyễn Văn Tá từ Vùng 1 CT thuyên chuyển vào Chỉ huy Chỉ hơn 3 tháng là tử trận.

                              Thiết Ðoàn này cũng có nhiều thành tích rất đặc biệt là đã từng nuôi dưỡng cả một ổ nội tuyến mà không hay. Tháng 4 năm 1965, khi tôi bị đổi đi khỏi Thiết Ðoàn thì Việt Cộng nội tuyến trong đêm 22 rạng 23 tháng 4 lấy đi 2 chiến xa M41, một chiếc chạy về bỏ tại ngã tư Bình Hòa (Gia Ðịnh) khi chúng định dùng chiến xa này tấn công phi trường Tân Sơn Nhất, còn một chiếc chúng đem lên chiến khu của chúng vùng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh để nghiên cứu hành quân chống Thiết Giáp.

                              Trong trận nội tuyến này Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh đã tổn thất vừa chết, vừa bị thương gần 70 quân nhân các cấp trong đó có 1 Sĩ quan trực đơn vị. Ðau đớn nhất là toàn thể các Hạ sĩ quan Chi đội phó các Chi đội của Chi Ðoàn 3/1 TQV (Đang tập họp điểm danh tối) những người đã giúp tôi rất đắc lực trong trận Chiến Thắng tại Ấp 13bis Xã Ðinh Thọ Quận Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (đêm 22 tháng 11 năm 1965),vì thời gian đó các Sĩ quan chi đội trưởng hầu hết mới ra trường và chưa hề đụng trận, đã hy sinh. (Chi Ðoàn 3/1 TQV đã được hấp lại sau hai trận Bình Giã, một Tháng Mười Một và một Tháng Mười Hai năm 1964.

                              Trận đầu, Ðại Úy Nguyễn Hữu Trung Ngọc (Khóa 14 Trường VBQG Ðà Lạt) Chi Ðoàn Trưởng tử trận, trận sau Ðại Úy Võ Văn Bẩm (Khóa 7 VBLQ Ðalat) bị trọng thương. Trong trận đầu, Chi Ðoàn 3/1 TQV tăng phái Chiến Ðoàn 5 Chiến Xa dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Thành Lý (khóa 4 SQTBTÐ), Ðại Tá Lâm Quang Thơ Chỉ Huy Trưởng TGB/Chiến Ðoàn Trưởng đã ở hậu cứ. Thiếu Tá Nguyễn Thành Lý cùng Trung Úy Nguyễn Văn Bảy (Khóa 5 SQTBTÐ) Chi Ðoàn Phó Chi Ðoàn 2/5 Chiến Xa cũng đã hy sinh. Rất nhiều Quân nhân các cấp thuộc Thiết giáp đã hi sinh trong hai trận này khi bọn VC bắt đầu triển khai giai đoạn trận địa chiến của chúng (Thời gian này tôi đang theo học khóa 2 Sĩ Quan Cao Cấp Thiết Giáp (niên khóa 1964-1965) tại Trường Thiết Giáp Fort Knox Kentucky Hoa Kỳ. Tin tức trên do một anh bạn tại BCH/TG viết cho tôi hay.

                              Xin cho phép tôi khỏi nêu tên các vị chỉ huy các đơn vị này từ Thiết Ðoàn Trưởng, Thiết Ðoàn Phó, hai Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 1/1 CX và 3/1 TQV chỉ biết rằng Trung Tá Lý Tòng Bá cựu Thiết Ðoàn Trưởng đã rời đơn vị đảm nhận chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Dương và Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hường đã bị thuyên chuyển lên Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh (Ban Mê Thuột) vài tháng trước đó.

                              Hai tên chủ chốt bị Việt Cộng móc nối này là Thượng Sĩ Phùng Văn Mười Hạ Sĩ Quan Quân Xa của Chi Ðoàn 1/1 CX và Trung Sĩ Nguyễn Văn Tiểng Hạ Sĩ Quan Tiếp Liệu của Chi Ðoàn 3/1 TQV. Cả 2 tên này đều đã dưới quyền tôi khi tôi Chỉ huy 2 Chi đoàn trên (Chi Ðoàn 1/1 CX năm 63-64, Chi Ðoàn 3/1 TQV năm 1965 (Tháng 7 đến tháng 12 1965) và tôi đã không dùng chúng vì lý do chúng lem nhem tiền bạc.

                              Nhưng sau khi tôi bị thuyên chuyển, chúng “mua chuộc” các người thế tôi trở lại đơn vị cũ để làm nội tuyến.

                              Sau này, trong chiến dịch “Junction City” Trung Ðoàn 11 Thiết Giáp Hoa Kỳ (U.S Army 11th Cavalry Regiment) tìm thấy chiến xa này tại khu rừng rậm Tây Bắc Tây Ninh.

                              Một chuyện khác khó tin nhưng có thật là trong trận Snoul thuộc lãnh thổ Miên tại một đồn điền cao su phía Bắc Quận Lộc Ninh Tỉnh Bình Long (Cuối Tháng 6 năm 1971) Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh tăng phái cho Trung Ðoàn 8/SÐ 5BB rút lui khỏi đồn điền Snoul bị Việt Cộng rượt chạy có cờ đến nỗi bỏ lại một Thiết Vận Xa trên QL 13 độ 20 Km Bắc Lộc Ninh trong đó có nhiều xác đồng đội kể cả xác Thiết Ðoàn Phó Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và một Tiểu Ðoàn Phó Pháo Binh !
                              Nếu bảo là đơn vị Bộ binh bỏ xác đồng đội lại thì còn có lý, nhưng với một Thiết đoàn kỵ binh mấy chục xe vừa chiến xa và thiết vận xa bao nhiêu là hỏa lực mà bỏ lại xác đồng đội thì khó thể chấp nhận được ! Vì Chiến Ðoàn 8 Bộ Binh không chờ Lữ Ðoàn III Kỵ Binh lên giao tiếp đã di chuyển xuôi Nam về hướng Lộc Ninh (Xuyên qua khu vực chưa được giải tỏa trên QL13) nên mới bị tổn thất nặng nề như vậy (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, trong thời gian này là Ðại Tá Bùi Trạch Dzần đã cho lệnh “Chạy”).

                              Do đó, dù Thiết Ðoàn 1 KB là một trong những đơn vị Thiết Giáp gần Thủ Ðô nhưng ít ai muốn về đơn vị này nhất là trong những tháng cuối cùng của năm 1974 khi các đơn vị chánh quy Cộng Sản Bắc Việt có chiến xa nằm cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê không xa hơn tầm đạn hỏa tiễn 122 hoặc 107 ly chứ không nói đến Ðại Bác tầm xa 130 ly của chúng.

                              Với tình hình như vậy tôi vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn trình diện Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bô Binh (Lúc này ông chưa thăng cấp chuẩn tướng) vào ngày 20 tháng 9 năm 1974.


                              Vừa gặp tôi câu nói đầu tiên của ông ta với một nụ cười, có Ðại Tá Ðào Ðức Chinh (cùng khóa 5 SQTB Thủ Ðức với tôi) Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đứng bên cạnh:”Quả đất tròn, chúng mình lại gặp nhau, phải không anh Tánh.”

                              Câu đó vừa là một câu vui mừng chào đón mà cũng là một câu như hăm dọa vì năm 1965 (22/11) trong trận Dầu Tiếng lúc có đơn vị tôi thì thắng trận nhưng năm ngày sau Trung Ðoàn 7 Bộ Binh rời khỏi đơn vị tôi trên đường chuẩn bị hành quân lên núi Tha La (phía Bắc Dầu Tiếng) bị Trung Ðoàn Q 762 VC tấn công gây tổn thất rất nặng cho cả 3 Tiểu Ðoàn (Tiểu Ðoàn 1/7,Tiểu Ðoàn 3/7, và Tiểu Ðoàn 4/7). Trung Ðoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Văn Tư, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 1/7, Thiếu Tá Nguyễn Văn Chuyên, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn, Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh v.v… tử trận. Số chết và bị thương lên đến hàng trăm.

                              Khi gặp Ðại Tá Phạm Quốc Thuần sau khi Trung Ðoàn 7 Bộ Binh tan tác, Ðại Tá Thuần nói một câu :” Hôm trước mình thắng, hôm nay thua, huề.” Tôi phản ứng lại ngay : “Ðâu có, Ðại Tá, hôm trước Thiết giáp thắng, còn bây giờ bộ binh thua chứ đâu có huề.” Vì câu nói thẳng tính này đã đưa tôi ra Vùng 2 Chiến Thuật gần 5 năm ! (Lúc đó Trung Ðoàn 1 Thiết Giáp còn là đơn vị biệt lập thuộc dụng QÐ III không thuộc Sư Ðoàn). Sau này tôi nghĩ lại là mình quá bồng bột nông nổi để làm phật lòng cấp Chỉ huy.


                              Khi bắt tay tôi xong, Ðại Tá Vỹ hỏi tôi cần gì. Tôi nói muốn đi phép. Ðại Tá Vỹ hỏi tôi cần mấy ngày thì tôi nói chỉ xin 4 ngày thôi. Tôi đã đi phép do Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và Lữ Ðoàn III Kỵ Binh cho cả gần 10 ngày khi tôi từ Pleiku về Saigon nên tôi chỉ xin có bao nhiêu đó thôi (Tôi quên nói là cùng đi với tôi lúc đó có Ðại Tá Trần Văn Thoàn, Tư Lệnh Phó Lữ Ðoàn III Kỵ Binh, chưa về làm tư lệnh phó sư đoàn)..

                              Sau nầy tôi mới biết là Ðại Tá Vỹ quá ưu ái với tôi chứ với các Sĩ quan tiền nhiệm chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh không dám xin phép chỉ thỉnh thoảng “dù” thôi. Còn tôi mỗi tháng nếu không có hành quân tôi đều đi phép 48 tiếng. Do sự cởi mở lúc đầu nầy mà tôi quý mến Ðại Tá Vỹ và đồng thời tôi cũng trọng tánh tình thẳng thắn bộc trực của ông.

                              Thượng tuần tháng 10 năm 1974, Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh do tôi chỉ huy và Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Trung Tá Trần Phương Quế (Khóa 9 VBQG Dalat dường như cùng khóa Ðại Tá Vỹ) chỉ huy đã đẩy lui Việt Cộng khỏi các căn cứ chúng chiếm được từ mùa hè 74. Trung Tá Trần Phương Quế được thăng cấp Ðại Tá, và Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn tướng. Chiến Thắng Rạch Bắp được trình chiếu trên băng tần số 9 cũng như các chương trình phông vấn các vị chỉ huy hành quân (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đến thị sát chiến trường, gắn lon cho quân nhân thuộc đơn vị sau khi Sư Ðoàn 5 Bộ Binh chiến thắng), tôi thì chỉ được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Ðội + Nhành Dương Liễu vì không đủ thời hạn chức vụ (dưới 6 tháng (!)).


                              Cuối tháng 12 năm 1974, tỉnh Phước Long thất thủ vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Ðơn vị của tôi đang hành quân vùng phía Nam Quận Phú Giáo chuẩn bị để tái chiếm Phước Long và tôi sắp sửa để “sinh tử” với địch theo lời của chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, nhưng lệnh tái chiếm không thành vì không còn quân để bảo vệ ven đỏ nếu Sư Ðoàn 5 BB rời bỏ căn cứ hiện tại để hành quân xa.

                              Thượng tuần tháng 3 năm 75 Ban Mê Thuột thất thủ kéo theo sau cuộc rút lui hỗn loạn trên Tỉnh Lộ 7 Pleiku Phú Bổn của các đơn vị thuộc Vùng 2 Chiến Thuật, cuộc “Tháo chạy tán loạn” ở Vùng 1 Chiến Thuật từ Quảng Trị chạy dài đến Nha Trang.

                              Khoảng gần hạ tuần tháng 3 năm 75, đơn vị tôi nhận nhiệm vụ mở đường từ Lai Khê lên Chơn Thành dọc theo phía Ðông Quốc Lộ 13, một con lộ huyết mạch đã bị bỏ cho VC kiểm soát từ mùa hè đỏ lữa năm 72 trong khi tại tỉnh lỵ Bình Long còn Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Vùng 3 và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân; ở tại Chơn Thành thì còn Chi Ðoàn 1/15 CX, và các đơn vị thuộc dụng của Tiểu Khu Bình Long và Chi Khu Chơn Thành. Nhiệm vụ của đơn vị tôi : Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và Tiểu Ðoàn 3/9 Bộ Binh tăng phái do Thiếu Tá Ðổng Huy Hùng. chỉ huy là để mở đường và bảo vệ cho các cánh quân rút lui từ Chơn Thành về Lai Khê.

                              Vì hành quân cấp tốc và bất ngờ nên sau hai ngày phá vở các chốt dọc trục lộ 13 đơn vị của tôi đã bắt tay được các đơn vị ở Chơn Thành với tổn thất tương đối nhẹ. Nhưng vì các đơn vị ở Bình Long chưa di chuyển xuống kịp tại Chơn Thành nên Thiết Ðoàn của tôi phải trở về lại hậu cứ.

                              Cuối Tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II cũng như Vùng 2 Chiến Thuật kể như tan rã và tỉnh Phan Rang đặt thuộc khu vực trách nhiệm của Quân Ðoàn III/V3CT. Một Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn III do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cựu Tư Lệnh Vùng IV chỉ huy được thành lập và bố trí tại đây, cần có lực lượng cơ hữu của Quân Ðoàn III để phối hợp với đám tàn quân của Vùng 1 và Vùng 2 còn sót lại ! Do đó tôi lại phải mở đường lên Chơn Thành đón các đơn vị BDQ QK 3 về Lai Khê chuẩn bị cho ra Phan Rang. Do đó, tôi được lệnh trở lại vùng hành quân cũ với đơn vị tăng phái thường lệ là Tiểu Ðoàn 3/9 BB.Tôi còn nhớ lúc tan buổi họp hành quân vào lúc 22 giờ đêm ngày 27 tháng 3 năm 1975, Chuẩn Tướng Vỹ bắt tay tôi và nói : “Quân Ðoàn bây giờ trông vào anh đấy, anh Tánh. Anh cố gắng đem các đơn vị BÐQ về đây an toàn để họ ra Bộ Tư Lệnh Tiền Phương.”

                              Nhiệm vụ lần nầy thật khó khăn vỏ cùng ! Tuần lễ trước, địch chưa rõ ý đồ của ta nên chúng bị bất ngờ. Nhưng bây giờ, dù có “ngu” cách mấy chúng cũng biết là tôi sẽ lên lại vùng hành quân nầy vì tin tình báo của chúng cho chúng hay là các đơn vị phía Bắc của ta sẽ rút về hướng Nam và đơn vị hướng Nam sẽ đến giao tiếp, do đó chúng bố trí các ổ phục kích dày đặc dọc trục lộ và tôi phải dằng co với chúng trong ba ngày ba đêm mới hoàn thành được nhiệm vụ, sau khi tổn thất hai xe Thiết Quân Vận, một Sĩ quan hy sinh, một Sĩ quan khác bị thương cùng một số kỵ binh khác tữ trận hay bị thương, nhưng đã gây tổn thất khá nặng cho địch quân nhất là bắt được 7 tên tù binh CSBV mặt còn non choẹt vừa được bổ sung từ ngoài Bắc vào.

                              Khi tiếp đón được Bộ Chỉ Huy BÐQ Vùng 3 CT gồm có Ðại Tá Nguyễn Thành Chuẩn Chỉ Huy Trưởng BÐQ Vùng và Ðại Tá Nguyễn Văn Biết. Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 3 BÐQ (sau 22 giờ đêm) tôi gọi âm thoại báo cáo cho Tướng Vỹ biết thì ông nầy rất mừng và nói âm thoại bằng bạch văn là đại diện cho quân đoàn cám ơn tôi. Một điều ông ít khi làm là nói bạch văn trong máy liên lạc âm thoại và mấy hôm trước đây ông đã gửi trả Thiết Ðoàn 22 Chiến Xa về lại Lữ Ðoàn III KB và phạt Thiết Ðoàn Trưởng 15 ngày trọng cấm Trung Tá Nguyễn Văn Liên Thiết Ðoàn Trưởng khi vị nầy sơ ý xin Sư Ðoàn cho phép ngày hôm sau mở đường ra Quốc Lộ 14 để tiếp tế xăng nhưng không “ngụy” (code) cẩn thận.

                              Cuộc hành quân thành công, đơn vị tôi trở về lại hậu cứ.

                              Các tuần lễ sau tôi có tham dự các cuộc hành quân vùng căn cứ “Ba Lê” thuộc xã Tân Hưng nhưng không có chạm súng và đến ngày 17 tháng Tư năm 1975 thì làm trừ bị tại Lai Khê.

                              Bây giờ Lai Khê là vùng tiền đồn vì Chơn Thành không còn lực lượng bạn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Ðoàn III lên Lai Khê nói với tướng Vỹ là nên di chuyển Bộ Tư Lệnh về Phú Lợi chỉ để một trung đoàn nào đóng tại đây thôi. Ðiều nầy rất đúng chiến thuật vì không khi nào một bộ tư lệnh sư đoàn lại làm tiền đồn bao giờ. Nhưng tướng Vỹ không đồng ý. Ông thường nói với các Sĩ quan thân cận là : ”Nếu tôi cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn về Phú Lợi, lính tráng sẽ nói mình ‘Di tản chiến thuật’ sao ? Tôi ở mãi nơi đây và chết cũng tại đây !”

                              Một điểm son cho chuẩn tướng Vỹ là ông không hề ỷ lại vào Hoa Kỳ bao giờ và rất có tinh thần “Tự lực cánh sinh” hay có nhiều sáng kiến.

                              Trong một buổi họp bàn về phòng thủ, có một vị Trung đoàn trưởng báo cáo là thiếu kẽm gai, cọc sắt vì tiếp liệu loại 2 và 4 khan hiếm do Mỹ hạn chế viện trợ, Tướng Vỹ liền tức giận hét lên : ”Cái gì cũng Mỹ. Mỹ nó bỏ anh rồi biết không ? Vùng nầy thiếu gì tre gai, cho lính trồng dọc theo vị trí phòng thủ một thời gian sau sẽ thành một vòng đai tre gai dày đặc, đặc công nào vào được ?” Sáng kiến nầy của ông rất hay nhưng đáng tiếc là quá trễ.

                              Vì tôi kính mến tướng Vỹ khi tôi xin phép về lo đám tang bà mẹ vợ tôi từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 4 năm 75 ông sẵn sàng cho ngay không phân bua gì cả nhưng chỉ đùa với tôi một câu là “Đừng bỏ tôi nghe anh Tánh.” Tôi đã hứa sẽ lên lại Lai Khê và đã giữ lời trong khi những người có quyền thế tại Thủ Ðỏ miền Nam đang rục rịch “Di tản chiến thuật” khỏi nước bằng đường thủy và đường không.

                              Ngày 28 tháng 4 năm 1975. Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Văn Thoàn Tư Lệnh Phó chỉ huy cùng với Trung Ðoàn 8 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng (Khóa 10 VBQG Ðàlạt hiện định cư tại CA) cùng Chi Ðoàn 3/1 Thiết Kỵ do Ðại Úy Nguyễn Văn Thiệp (hiện định cư tại CA) chỉ huy di chuyển về Phú Lợi. Cũng sáng nay, Chuẩn Tướng Vỹ cho chúng tôi biết là “Các anh em ai có thể cho vợ con đi nước ngoài được thì cho đi, còn các anh ở lại với tôi. Tôi cũng vậy cùng ở bên các anh.”

                              Sau nầy, đến ngày 21 tháng 5 1975 khi Việt Cộng đưa anh Thoàn từ Bình Dương lên Trại Tù GK3 của VC tại Long Khánh thì tôi được biết là trước ngày 30 tháng 4 năm 75 chị Thoàn (dân Pháp có Passport thường trực) đã đưa gia đình anh Thoàn và gia đình Chuẩn tướng Vỹ đi Pháp. Hiện giờ bà Vỹ đang định cư tại vùng Virginia.

                              Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975. Sau cuộc họp Tham mưu thường lệ xong vào lúc 17 giờ, các đơn vị được lệnh chuẩn bị bỏ Lai Khê về Bình Dương. Các quân dụng hư hỏng, cũng như các giấy tờ không cần thiết bỏ lại phải được tiêu hủy tại chỗ. Do đó trong căn cứ Lai Khê từng đám lữa đỏ rực các góc trời. Xa xa vùng Phú Giáo cũng thế vì Quận Phú Giáo đã di tản.

                              Màn đêm buông xuống trong nổi kinh hoàng. Nơi phía Quốc Lộ 14 các đoàn xe đủ loại kể cả chiến xa của VC di chuyển chạy để đèn sáng cả con đường dài. Tôi trở qua Bộ Tư lệnh Sư Ðoàn lúc 19 giờ để nhận lệnh thì được tướng Vỹ cho biết là do tin báo cáo có cái chốt của VC trong khu vực Xã Mỹ Thạnh phía Nam Bến Cát. Tôi nói Sư Ðoàn cho Ðại Ðội 5 Trinh Sát tăng phái cho tôi (Tôi không biết là Ðại Ðội 5 Trinh Sát đã ở Bình Dương với Bộ Tư Lệnh Nhẹ Sư Ðoàn) tôi dùng Chi Ðoàn 1/1 CX bức chốt đó cho, nhưng tướng Vỹ nói ban đêm khó phối hợp thôi để sáng hôm sau.

                              Tôi về hậu cứ của tôi và gọi điện thoại về Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Trại Phù Ðổng về nhà tôi. Trong điện thoại tôi nghe có tiếng súng các loại nổ xa xa và tiếng động cơ trực thăng nổ rất gần. Vợ tôi đã di tản lên nhà ông anh tôi ở Nancy từ chiều chỉ có chú lính giúp việc nhà trả lời cho tôi biết là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III đã di chuyển về đóng quân tại đây. Vì trong thời gian đó, Tướng Toàn kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp nên có toàn quyền xử dụng cơ sở nầy.

                              Tôi liền cho Tướng Vỹ biết tin nầy.(Vừa rồi khi hỏi thêm tin tức về các giây phút cuối của tướng Vỹ khi tôi không có ở bên ông, tôi được Trung Tá Tống Mạnh Hùng (Khóa 5 Thủ Ðức, Pháo Binh Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn 5 BB) cho biết là trước đó tướng Vỹ đã gọi điện thoại về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn không có ai trả lời, ông liền chửi thề : ” Ð.M tụi nó chạy trốn cả rồi.”)

                              Ðêm 29 tháng 4 năm 1975 là một đêm khủng khiếp nhất của đời tôi, một đêm mà tôi nhớ mãi. Các tiền đồn tiếp tục báo cáo quân xa địch các loại di chuyển nhưng chúng đi vòng không tấn công Lai Khê. Tôi đang chuẩn bị đón cái chết gần kề vì tất cả không còn gì để cứu vớt cả. Các vị từng hô hào sống chết với quân đội đã yên thân nơi nước ngoài rồi, còn tôi với trọng trách nhỏ nhoi là Chỉ huy một thiết đoàn kỵ binh tôi phải làm gì đây ?! Ngày tàn binh nghiệp của mình và niềm hãnh diện được chết trên xe Thiết giáp cùng binh sỉ trong đơn vị cũng như các Hiệp sĩ ngày xưa chết trên lưng ngựa !?

                              Ðêm 29 tháng 4 là một đêm dài nhất đối với tôi vì không chợp mắt được, chỉ nằm dài trên ghế bố xếp nhìn trời xanh, sao sáng ! (Giuờng ngủ đã được xếp lên xe GMC chờ di tản). Nhưng rồi đêm dài cũng qua đi nhưng các đốm lữa ở trong cũng như ngoài căn cứ vẫn sáng rực ánh hồng !

                              Bảy giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi họp tại Phòng Hành Quân Sư Ðoàn. Không còn một nụ cười trên các đôi môi thường lệ hay khỏi hài. Tất cả đều lộ vẻ mất ngủ. Tình hình “Ðịch” dày đặc điểm “Ðỏ” trên Bản Ðồ Hành Quân. Tình hình bạn chỉ có nội bộ Sư Ðoàn, còn các đơn vị bạn thuộc Vùng 3 CT thì không tài nào biết được. Riêng Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tại Củ Chi thì bị tấn công sáng ngày 29 vì có một thành phần Thiết Giáp chạy về Bình Dương tối ngày 29.
                              Từ sáng ngày 29 các khẩu Ðại Bác 175 nòng dài tại căn cứ Lai Khê đã tác xạ về hướng Củ Chi để yểm trợ tổng quát tăng cường cho Sư Ðoàn 25 BB nhưng không hiệu quả mấy.(Sau nầy tôi được biết Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đã bị VC bắt làm tù binh đêm 29 tháng 4 năm 1975.) Nhưng Sư Ðoàn cũng vẫn họp và cũng chuẩn bị di chuyển xuôi Nam về Bình Dương.

                              Vừa họp xong Ðại Úy Nguyên, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh xuống báo cáo tướng Vỹ là 10 giờ sáng Tổng Thống Dương Văn Minh sẽ đọc diễn văn quan trọng. Nghe thế, tướng Vỹ cho lệnh tất cả Sĩ quan chờ tại chỗ bên chiếc Radio Zenith và bên tách cà phê. Nhờ sự kiện nầy mà chúng tôi được nghe bản phát thanh đầu tiên của Big Minh trong khi có tiếng nhắc phía sau : “Ðọc đi.”

                              Sau nầy phối hợp các tài liệu do VC phổ biến tôi được biết là Dương Văn Minh khi gọi chúng vào Dinh để “bàn giao” đã bị chúng gạt dùng áp lực bắt đọc tuyên cáo đầu hàng theo ý chúng. Chớ theo bản “kêu gọi” đầu tiên, tướng Minh mời đại diện Mặt Trận Giải Phóng vào để bàn giao ! Nhưng chúng bắt ông ta đọc lại theo nội dung khác. Tức là bản tin thứ hai hoàn toàn khác bản tin đầu.

                              Theo báo chí của chúng, chúng tự đề cao là do “Sáng tạo lợi dụng thời cơ” khi chiếm Dinh Ðộc Lập là chúng nói với Dương Văn Minh :”Anh còn gì để mà bàn giao. Anh chỉ có một điều là đầu hàng vô điều kiện thôi !” ông Tướng Minh ơi ! Ông lại hại chúng tôi rồi !

                              Khi nghe lệnh tiếp của tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tham Mưu Trưởng là các đơn vị ở tại chỗ chờ bàn giao thì tướng Vỹ cho lệnh Trung Tá Nguyễn Tấn Văn Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Ðoàn (Anh đồng hao của tướng Vỹ) cho người ra cổng căn cứ treo cờ trắng đầu hàng, đồng thời ông nói : “Từ nay tôi không còn chỉ huy các anh nữa, các anh tự lo liệu lấy.”

                              Lúc đó Tướng Vỹ cho lệnh tìm Y sỉ Thiếu Tá Hiếu Tiểu Ðoàn Trưởng 5 Quân Y có lẽ định tìm thuốc tự tử nhưng ông sau nầy đã lánh mặt. Tất cả anh em chung quanh tướng Vỹ đều tìm cách dấu tất cả các súng cá nhân vì sợ ông tự tử. Các anh em khuyên ông thì ông nói : “Các anh chờ ở đây để cho tên Huyện ủy Bến Cát vào tiếp thu các anh à !” Lúc đó trong đầu óc tướng Vỹ chỉ có một ý định tự sát thôi.


                              Tôi quay về Thiết Ðoàn. Trong khi xe đang chạy về doanh trại của tôi thì Hạ sĩ Nguyễn Văn Sơn tài xế xe Jeep của tôi (Anh nầy sau năm 75 đã bị VC hạ sát trong một cuộc tranh chấp làm ăn gì với chúng) nói : “Trung Tá thay đồ xi vin đi hai thầy trò mình đi xe Vespa về Saigon.” Hạ Sĩ Sơn có để xe Vespa Ý tại Lai Khê đặng thỉnh thoảng anh ta đi phép về Saigon. Nhưng tôi không đồng ý.

                              Tội nghiệp anh này không bỏ tôi khi tôi di chuyển bằng M113, anh vẫn theo tôi và bỏ xe lại dù lúc đó tôi cho anh toàn quyền quyết định.

                              Vì như tôi đã nói ở trên là có một số Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Kỵ binh của Thiết Ðoàn bị bắt năm 1972 và lại trở về lại đơn vị gốc năm 1973 sau khi được trao trả (Điều này trái với nguyên tắc an ninh nhưng tôi không hiểu do ai chấp thuận việc này ?). Tôi sợ thế nào cũng có người bị địch mua chuộc, móc nối nên tôi về tập họp thiết đoàn lại gồm có Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn với Chi Ðoàn 1/1 CX (Chi Ðoàn 2/1 Thiết Kỵ tăng phái Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, Chi Ðoàn 3/1 TK tăng phái cho Trung Ðoàn 8 BB).

                              Khi tôi tuyên bố là : “Tôi cám ơn tất cả các anh em đã giúp tôi trong thời gian qua đã chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó và giúp tôi, giờ đây tôi không còn chỉ huy các anh em nữa. ” Tôi nói bằng cả sự xúc động thật sự trong khi khóe mắt của tôi hơi cay cay. Nhìn thẳng vào gương mặt các anh em đối diện tôi thấy mắt nhiều người cũng nhuốm đỏ. Cùng lúc đó có những tiếng “nhao nhao lên” : “Trung Tá đi đâu chúng em xin đi theo đó.” Ðây là những lời tâm huyết của các thuộc cấp mà tôi nhớ đến suốt cuộc đời còn lại.

                              Không có một huy chương nào cao quý hơn các lời nói mộc mạc chân tình nầy trong khi tôi chẳng còn là gì cả ! Sau này khi nghĩ lại tôi thấy tôi thật quá liều lĩnh đùa giởn sinh mạng của các chiến hữu của mình trong khi tự mình không biết phải làm gì trong tương lai, trong khi không có chính phủ, không có cấp Chỉ huy ? Nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Ðoàn III Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp thì không liên lạc bằng hệ thống liên lạc truyền tin được.

                              Tôi nói : “Các anh em đã tin tôi thì tôi cũng sẽ cùng sống chết với các anh em.”

                              Tôi cho lệnh Thiếu Tá Ðổ Cao Thượng (chú ruột Tướng Ðổ Cao Trí mấy năm trước định cư tại Maryland và Virginia, nhưng hiện nay đang định cư tại Georgia, Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 1/1 Chiến Xa về doanh trại của anh ta chờ lệnh.

                              Tôi quay xe lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn để đón Ðại Tá Nguyễn Mạnh Tường Phụ Tá Hành Quân Sư Ðoàn và Trung Tá Tống Mạnh Hùng Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn (Hiện định cư tại San Francisco CA), cả hai cùng khóa 5 SQTB Thủ Ðức với tôi như đã hứa trước.

                              Ðến Bộ Tư Lệnh thì Hùng chạy ra gặp tôi nói :”Anh vào chào Chuẩn Tướng Tư Lệnh đi, người đã tự sát rồi !”

                              Tôi đứng chổ cửa “Trailer” nhìn vào thì thấy tướng Vỹ đã ăn mặc chỉnh tề, có huy chương trên túi áo và xếp tay lên ngực. Các viên đạn 6.35 ly của súng lục Beretta trổ từ dưới cằm lên trên đỉnh đầu. Tôi đã chào kính vị anh cả của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đồng thời cũng là một Anh hùng của Quân đội theo đúng lễ nghi quân cách rồi quay ra.

                              Sau nầy do anh Hùng kể lại là lúc tôi về rồi, tướng Vỹ cho gọi tất cả các anh em thuộc Bộ Tư Lệnh sang tư dinh cho lệnh dọn cơm ăn. Vừa ăn xong một chén cơm một cách hấp tấp, tướng Vỹ chạy vội vào “Trailer” mà không ai hay chỉ vì đang lo ăn. Thình lình có 2 tiếng súng nổ. Các anh em chạy vào thì thấy tướng Vỹ gục đầu trên vũng máu bị đạn như đã nói trên. Dù tất cả các súng được cất dấu kỷ nhưng còn một khẩu súng lục Beretta 6.35ly để trong Trailer không ai biết, trừ tướng Vỹ và Người đã dùng khẩu súng nầy để đi vào lịch sử. Chính Từ Vấn, anh Hùng và các anh em khác đã mặc quần áo tươm tất cho tướng Vỹ.

                              (Trong số báo Thời Mới Phụ Nữ Mới số 405 nhân tưởng niệm ngày 30/04/1975, nữ thi sĩ Ngô Minh Hằng có làm một bài thơ tứ tuyệt như sau :

                              Tướng Lê Nguyên Vỹ
                              Bình Long anh dũng góp tài năng
                              Làm tướng như Ông, mấy kẻ bằng
                              Quốc sĩ đầu hàng sao được giặc
                              Sân cờ Tư Lệnh, ánh sao băng !!!


                              Như tôi đã kể rõ cái chết của Tuớng Vỹ vì thế tôi đã đề nghị (Trong e-mail) và giờ đây tôi xin nữ thi sĩ sửa đổi lại câu gì khác chứ đừng để câu chữ nghiêng. Câu đề nghị của tôi nếu được thì xin nữ thi sĩ tạm dùng chứ để Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tự sát ngay sân cờ Tư Lệnh trong khi có mặt rất nhiều Sĩ quan và Quân nhân thuộc Sư đoàn thì thấy không ổn. Câu thơ đề nghị thay thế là :

                              “Trailer” Trây lơ người gục, ánh sao băng !!!

                              Tường và Hùng theo tôi về Thiết Ðoàn. Khi xe bắt đầu lăn xích ra khỏi cổng trại của tôi thì thấy Ðại Tá Từ Vấn (Khóa 12 VBQG Ðà Lạt gốc BÐQ Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn), Trung Tá Nguyễn văn Khách (Khóa 10 VBQG Ðàlạt gốc Lực Lượng Ðặc Biệt) Trưởng Phòng Ba Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Nghĩa. Trưởng Phòng Nhất Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Hòe. Trưởng Phòng Nhì Sư Ðoàn cũng vừa đến tháp tùng lên các Thiết vận xa của chúng tôi. Tôi quên nói là đơn vị VC tại Bến Cát có vào hệ thống liên lạc Sư Ðoàn đòi gặp tôi ở đầu máy nhưng tôi đã báo hiệu thính viên trả lời là tôi không có ở đây.


                              Theo thứ tự di chuyển thì Chi Ðoàn 1/1 Chiến Xa dẩn đầu kế đến là Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn của tôi. Khi ra khỏi căn cứ Lai Khê tôi thấy Chi Ðoàn 2/1 Thiết Kỵ do Ðại Úy Nguyễn Văn Thống chỉ huy (Anh nầy chết trong tù mấy năm sau 1975 tôi không rõ). Ðại Úy Thống vào hệ thống liên lạc hỏi tôi xem đi đâu. Tôi hỏi anh ta có muốn đi theo tôi không thì anh ta đồng ý. Tôi bảo gắn vải trắng ở đuôi ăng-ten và cho lệnh anh ta xem tôi làm gì thì anh ta làm theo.

                              Ðơn vị tôi ra khỏi căn cứ Lai Khê quay về hướng Ðông căn cứ băng đồng, chạy song song theo hướng Ðông Quốc Lộ 14. Tại vùng nầy, mới tuần trước Thiết đoàn tôi hành quân tại đây tìm đỏ con mắt không thấy một tên VC nào nhưng chiều nay sao đông thế ! Từ hướng Ðông trong khu rừng, từ hướng Tây bên Quốc Lộ chúng tủa ra nhắm vào đoàn xe Thiết Giáp di chuyển tác xạ tới tấp. Cũng may là đơn vị chúng tôi cách xa tầm bắn B40 và B41 nên không có xe nào trong đoàn xe của tôi bị trúng đạn. Một điều tôi hãnh diện về đơn vị của tôi và cũng nhờ ơn trên là không có một binh sĩ nào của Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh tác xạ lại. Họ rất giữ đúng kỷ luật là không tác xạ bừa bãi và không có “Một sự cướp cò” nào. Nếu không, có lẽ tôi khỏi đi tù và không còn để viết những dòng chữ nầy.

                              Ðoàn xe di chuyển được hơn 10 km thì Ðại Úy Thống Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 2/1Thiết Kỵ hỏi lệnh tôi thế nào khi VC chận đầu xe. Tôi nói trong máy cho anh ta biết thôi trình diện họ đi còn tôi lên trên nầy gặp “Thằng Ba” tức Chi Ðòan 3/1 Thiết Kỵ (Đang tăng phái cho Trung Ðoàn 8 BB tại Bình Dương) cũng trình diện luôn (?).

                              Khi Chi Ðoàn 1/1 CX dẫn đầu đi qua cầu xã Tân Phước Khánh vừa sang được chiếc thứ 5 thì cầu sập. Lý do là cầu cây quá yếu và chiến xa lại di chuyển nhanh qua cầu và quá gần nhau, nên sức trọng tãi của cầu không chịu nổi sức nặng của chiến xa (Thường lệ, gặp trường hợp này trưởng xa phải xuống xe hướng dẩn cho xe chạy chậm qua cầu từng chiếc một). Toán đã qua cầu tiếp tục di chuyển ra đường Quốc Lộ 13. Toán còn lại quay trở lại nhập chung với Thiết Ðoàn.

                              Ðến cuối tháng 6 năm 1975 khi gặp tôi trong Trại 1 Cải Tạo Cát Lái (Trung Tâm Huấn Luyện Quân Khuyển của QLVNCH cũ) thì anh Thượng nói anh đi ra Quốc Lộ 13 thì gặp đoàn chiến xa T54 đang tìm hướng về Dinh Ðộc Lập và chúng đã nhờ anh chỉ đường (Thành Phần tiền phương của chúng là Lữ Ðoàn 103 Thiết Giáp đã đi với Ðại Tá Bùi Tín tiếp thu Dinh Ðộc Lập và nhận lệnh đầu hàng).

                              (Khi gặp lại tôi tại Virginia sau năm 1995, thì Thiếu Tá Thượng cho biết là nhờ sự khéo léo anh đã gạt được chúng và thoát khỏi bị bắt trong ngày 30 Tháng 4 1975. Anh đã nhờ tôi đính chính lại.)

                              Ðoàn xe của tôi quay vòng lại vào giữa xã Tân Phước Khánh. Việt Cộng đã tiếp thu xong xã này. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo đầy trước các căn nhà và dọc theo đường. Dân chúng ùa ra đường cản đoàn xe tôi lại. Lúc đó vào khoảng 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi xuống xe thì tên chủ tịch xã tiến đến ôm chầm lấy tôi nói câu đầu tiên : “Chúng ta không ai thắng, ai bại, chỉ có Ðế Quốc Mỹ là thua thôi !

                              Các anh về với Cách Mạng (sic!) là có công rồi sẽ được biểu dương (Lần đầu tiên tôi nghe được danh từ “biểu dương”). Cũng lần đầu tiên, tôi biết thế nào là sự xảo trá của VC. Dù chúng biết rằng chúng tôi chạy trốn, không lọt nên mới tạt vào đây, nhưng chúng đã mở cho chúng tôi một lối thoát danh dự (?) bằng cách nói câu trên để tôi an tâm và đỡ mất mặt !

                              Cùng lúc đó một binh sĩ đến báo cáo là Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Súng Phun Lửa, ở sau tôi hai xe, đã tử trận. Vừa nghe câu này tên chủ tịch xã liền nói :”Anh cho tên anh ấy để ghi công vì anh ấy về với Cách Mạng mà bị hi sinh là thành liệt sĩ (Thêm một từ mới) rồi ! Trời ! Chúng giết mà lại thành liệt sĩ của chúng ?! Nhưng tôi cũng phục phương tiện liên lạc của chúng – không hiểu chúng liên lạc thế nào – mà thân phụ của Thiếu úy Tiền từ Bến Tre ngày hôm sau đã lên đến xã Tân Phước Khánh Bình Dương để đem xác con về.

                              Sau khi gom góp hết các súng cá nhân và các đồ dùng của chúng tôi như Radio Cassette, thùng đựng nước đá, v.v…của tôi mà chúng bảo là của “ngụy”, chúng cho chúng tôi tự do đến nhà dân chúng gần đấy để tắm rửa với sự kiểm sóat của chúng. Vì tôi là Chỉ huy nên chúng chỉ để ý đến tôi thôi. Anh Tống Mạnh Hùng. Pháo Binh vì theo sát tôi nên không thoát được; Ðại Tá Tường, Thiếu Tá Hòe, Thiếu Tá Nghĩa trốn thoát; Ðại Tá Từ Vấn và Trung Tá Khách cũng trốn nhưng bị bắt lại bởi du kích tại địa phương, (Những tên này lúc sáng còn là Nhân dân Tự vệ của Việt Nam Cộng Hòa nhưng đến chiều là du kích của Việt Cộng !)

                              Trừ chúng tôi, các Sĩ quan cấp Tá ra, chúng tập trung tất cả Quân nhân thuộc quyền tôi ngồi bẹp trước sân cờ của Văn Phòng Xã Tân Phước Khánh. Khi tôi đi ngang qua nhóm Quân nhân này, có một Hạ sĩ quan nói một câu tôi vẫn nhớ đến bây giờ, trong lúc đó trong tôi nỗi lên niềm xúc động lẫn chua cay. Anh đó nói : “Trung Tá, sao họ lấy súng của mình hết vậy ?” Tôi đã trả lời anh ta mà nước mắt cứ muốn trào ra : “Mình đâu còn cần các thứ đó nữa đâu anh, hết chiến tranh rồi !”

                              Tên chủ tịch xã cho chúng tôi ăn cháo gà và uống bia (Bia chúng lấy trên Thiêt Vận Xa chở hàng Quân Tiếp Vụ của Thiết Ðoàn) và nói một câu khách sáo :”Chúng tôi vừa tiếp thu nơi đây, cơ sở vật chất chưa có gì, các anh ăn tạm.” Ðó là bửa ăn cháo gà cuối cùng của cuộc đời tự do đánh dấu bước đầu đi tù Cộng Sản. Tôi chỉ có thể ăn lại cháo gà như thế này 10 năm sau !

                              Vừa ăn xong, có một tên VC người Nghệ Tĩnh mặc thường phục, tóc rụng gần hết trên dưới 50 tuổi gương mặt đầy sát khí đến chất vấn tôi với giọng hằn học chứ không có những lời nói dịu dàng như của tên Chủ tịch xã người miền Nam kia. Lúc đó, tôi cảm thấy hối hận là mấy giờ trước còn quân trong tay tại sao tôi không “Một mất một còn” với chúng thà rằng chết với vũ khí trong tay còn hơn bây giờ đang đợi quyền sinh sát của chúng ! Do các câu nói của tên này thì chúng tôi là những tên “Tội phạm chiến tranh, trời không dung, đất không tha, lá rừng xanh không ghi hết tội, còn nước đại dương chẳng rửa sạch thù, là công cụ đế quốc Mỹ v.v.. (Các câu đầu trong bài 3 ‘Quân Ngụy là Công Cụ của Ðế Quốc Mỹ kẻ thù của nhân dân Việt Nam v.v..’” trong 10 bài căn bản của chúng mà chúng tôi sẽ được chúng ‘lên lớp’ vài tháng sau đó).

                              Ðang lúc chúng đang điều tra tôi, thì có một chiếc xe Jeep A2 ngừng trước cửa, môt tên Cộng Sản Bắc Việt xuống xe (Sau này tôi mới biết tên này là Ðại úy thuộc cơ quan chính ủy của Công Trường 7 VC). Tên này hỏi ai chỉ huy Thiết Giáp ở đây. Tôi xác nhận là chính tôi thì chúng cho lệnh tất cả các Sĩ quan cấp Tá đi theo chúng.

                              Vì xe Jeep của hắn không đủ chỗ nên hắn chạy trước và cho tôi đem theo 2 M113. Trên mỗi xe M113 của chúng tôi chúng cho một tên VC ngồi trên thiết vận xa với chúng tôi trong khi các thùng đạn Ðại Liên 50 và 30 còn đầy đạn và súng vẫn ở trên giá súng. (Ðây là một hành động tương đối tốt của Công Trường 7 VC khi chúng cho người đến đón chúng tôi. Chúng sợ quân du kích hay địa phương của chúng vì muốn “trả nợ máu” đối với chúng tôi nên “làm bậy”‚ làm hại đến đường lối tuyên truyền chiêu dụ của chúng chăng ?

                              Chúng đưa chúng tôi về Trường Công Binh QLVNCH tại Bình Dương (Bản Doanh của Công Trường 7 lúc đó) và cho chúng tôi ngủ tại phòng của các Sĩ quan khóa sinh của các lớp học Công Binh đã trống vắng.

                              Ngày hôm sau, 1 tháng 5 năm 1975, Ðại Tá Từ Vấn Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 BB đại diện đơn vị được chúng chấp nhận là “hàng binh”(?) dẩn chúng lên lại Căn Cứ Lai Khê để tiếp thu nơi đây vì các đơn vị của chúng chưa dám vào đó.

                              Cũng chiều hôm đó, các phóng viên của báo “Quân Ðội Nhân Dân” của chúng đến phỏng vấn, chụp hình chúng tôi gồm có Ðại Tá Từ Vấn. Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 BB, tôi, Trung Tá Tống Mạnh Hùng. Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn, Trung Tá Nguyễn văn Khách. Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng. Thiết Ðoàn Phó, Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và Ðại úy Nguyễn Văn Vũ. Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 5 Trinh Sát người đã lái chiếc xe Jeep A2.

                              Hinh ảnh chúng tôi được chúng cho trình chiếu trên TV là các tên tàn quân của Sư Ðoàn 5 BB bị chúng bắt ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vào cuối tháng 6 năm 1975 khi chúng tôi tập trung về Trại Cát Lái thì chúng cho chúng tôi đọc được tờ báo Quân Ðội Nhân Dân có câu chuyện của chúng tôi và bức ảnh ghi trên.

                              Trong gần hết trang 3 của tờ Quân Ðội Nhân Dân của chúng, chúng đăng một bài báo với tựa đề : “Vây Diệt Sư Ðoàn 5 Ngụy.” hoàn toàn là hư cấu.

                              Trong đó chúng bịa ra giống như là tiểu thuyết trong đó có nêu đích danh tên tôi ra (Nhưng để tên là Nguyễn Minh Tránh) là đã đề nghị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thế này, thế nọ v.v… Có một điều quá nham nhở khi nó kể cái chết của Tướng Nguyễn Văn Vỹ, bằng những câu hạ cấp hòng hạ uy tính của ông nầy. Chúng viết đại khái như sau và vì lâu quá tôi không nhớ rõ.

                              Chúng bảo khi tự sát thì trên bàn của chuẩn tướng Vỹ, chuẩn tướng đã viết “Ðô la, đô la, đô la nhiều quá.” Vì sự kiện này cho chúng tôi thêm một bằng chứng là “Cộng Sản VN không có nói điều gì đúng cả.”

                              Trong thời gian “đi tù” nhất là trong các tháng đầu tôi bị “mệt” do các cuộc thẩm vấn tới tấp là tại sao tôi không ở Lai Khê (Hậu cứ của tôi) mà lại chuyển quân đi. Thêm vào đó, có nhiều bạn đã đổ lỗi cho tôi là dẩn họ đi nên tôi càng bị bọn cán bộ trại trù ẻo tôi dữ ! Tôi không buồn giận gì các bạn nầy và rất thương các anh em ấy là trong giờ phút “Thập tử nhất sinh” đó dám phó cả sinh mạng theo sự “bốc đồng”(?) của tôi ! Tôi đã phải tìm hết cách trả lời thật khôn khéo để làm nhẹ bớt các áp lực của chúng đối với tôi.

                              Kết thúc bài hồi ký tôi xin kính cẩn nghiêng mình bái phục vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đáng kính mến của chúng tôi và thắp lên nén nhang tưởng niệm cũng như choàng một vòng hoa chiến thắng tưởng tượng lên vong hồn người. Chúng tôi cũng đã cám ơn người cũng như 4 vị Tướng khác, rất nhiều Quân nhân và nhân viên hành chánh, thành viên các đảng phái đã tự sát khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam về những điều sau đây:

                              1. Cho bọn Cộng Sản Bắc Việt cũng như các bạn bè năm châu biết chúng ta, dân miền Nam không phải đều là những tên hèn nhát !

                              2. Chứng tỏ cho thế giới biết quyết tâm của chúng ta là thà chết chứ không thèm sống với cộng sản.

                              Riêng cái chết của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ đã khuyên một dấu son cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, một đơn vị Bộ binh chịu nhiều tổn thất chiến trận nhất trong chiến tranh VN được kể là một trong những Sư đoàn “yếu” của QLVNCH, một đơn vị mà trước kia các cố vấn Hoa Kỳ “rất sợ” khi bị đưa về đây nên đã gọi Sư Ðoàn này là Sư Ðoàn Máu” (Blood Division).

                              Còn tôi, tôi không ngờ là lại trở về Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh trong những ngày tàn binh nghiệp khi trước kia, nhờ 2 Chi Ðoàn 1/1 CX và 3/1 TQV đã giúp tôi được thượng cấp biết tiếng với các chiến công đã thu hoạch được. Một điều tôi mản nguyện là trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 75 nhiều đơn vị QLVNCH đã rã ngũ nhưng Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh chỉ có 5 % binh sĩ đào ngũ.

                              Tôi cũng xin nhân dịp này, chân thành cám ơn tất cả quân nhân các cấp thuộc Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh những người đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ khó khăn và đã không bỏ tôi khi nhà tan, nước đã mất. Tôi cũng đã hãnh diện vì các bạn, nhất là Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng (Khóa 19 SQTBTÐ) (?).Thiết Ðoàn Phó của tôi, một con người bất khuất, một trong những Quân nhân hăng hái nhất trong ngày 30 Tháng Tư 1975 để theo tôi. Anh là một trong những người tù cải tạo can trường đã dám trốn trại và đánh bọn quản giáo khi chúng bắt anh chở trên xe Jeep về trại.

                              Tôi cũng nghiêng mình xin lỗi và chia buồn với gia đình cố Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Súng Phun Lữa, đã hy sinh ngày tàn cuộc chiến mà tôi không thể phúng viếng gia đình được (Khi tôi về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh, tôi đã hứa trong đầu là khi có một Sĩ quan thuộc Thiết đoàn hy sinh tại chiến trường, tôi sẽ đến phúng điếu (Với một phần lương của tôi + quỷ của Thiết đoàn nhưng đã không làm được).

                              Tôi xin phân ưu với gia đình cố Trung Úy Liêu A Thành. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Thám Xa V 100, Trung úy Nguyễn Văn Lệnh. Sĩ Quan Quân Xa, Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Quan. v.v… những người đã đến thăm tôi khi nghe tôi được về khoảng đầu Tháng 10 năm 1984 và rũ tôi tham gia phục quốc, nhưng tôi đã biết là tổ chức này dỏm không tham gia và khuyên họ chớ bị mắc lừa nhưng họ đã không nghe và đã bị gài bẫy bắt vào đêm giao thừa Tết Ất Sữu 1985 và sau đó đã bị chúng tra tấn đến chết trong tù. Dù đã bị tra tấn nhưng họ không khai bậy tên tôi. Cám ơn các bạn !

                              Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của 1 Quân nhân và cấp Chỉ huy thời chiến của tôi một cách tốt đẹp đến cuối ngày 30 Tháng 4 năm 1975 và đã đi tù trong các trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc rồi trở về Nam đến 10 năm sau.


                              Nguyễn Minh Tánh
                              nguồn:
                              https://ongvove.wordpress.com/2014/0...cua-su-doan-5/

                              Comment


                              • Cuộc Vượt Thoát Kỳ Diệu - Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm

                                Cuộc Vượt Thoát Kỳ Diệu
                                (Hồi Ký từ Mặt Trận Khánh Dương. Đèo M’s Drak – Cuối Tháng 3/1975)
                                Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm
                                Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù




                                Lời giới thiệu Của NT Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND:

                                Bác sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND khi tôi là TĐT. Trong trận Khánh Dương, khi theo lệnh BCH/ LĐ3ND triệt thoái về sau tuyến II, tức phía sau khu vực TĐ6ND.Tôi quyết định cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban đêm. Khi ĐĐ54 dẫn đầu cánh quân B chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà BS Liêm và là SQ được tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ, tân ĐĐT/ ĐĐ54. Tr.Úy Vũ hy sinh và Đ.Úy Chiêu cùng BS Liêm mất tích. Khi về đến Sài Gòn tôi đến nhà 3 SQ này để phân ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau, Quân cảnh Vũng Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có 2 SQ tên Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng Tàu và nhất là họ mang theo chiến lợi phẩm là súng AK-47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày sau 2 vị này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm chỉ kể qua loa chuyện vượt thoát của ông. Hôm nay được đọc bài BS Liêm viết chi tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất vui và xin giới thiệu với bạn đọc câu chuyện vượt thoát hy hữu của 1 y sĩ quân y nhẩy dù.

                                Đã 42 năm qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát y như phim ảnh nầy đã chìm vào dĩ vãng. Nào ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi nên ghi lại để được tỏ tường Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ lại để không phụ lòng anh em mong đợi.


                                Ngày 1 (28/3/1975): Trời chiều của Tháng 3 thật là nóng bức. TĐ5 ND đóng trên sườn đồi gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên Quốc Lộ 21 dài khoảng 20 Km. Đầu đèo cách Ban Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột) 96 Km. Đoạn đường đầu đèo dài 4 Km nằm giữa hai dãy núi khácao, vách núi dựng đứng. Núi Chu Kroa cao 958 m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ hơn màđỉnh cao nhất là 609 m về phía Nam. Các bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên đồi cao, tôi nhìn qua Quốc Lộ 21 là Buôn Làng M’Mo của người ÊĐê với chừng năm ba mái nhà sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuột kéo về Nha Trang. Tôi nhìn thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc Lộ 21.


                                Tất cả đều ở tư thế sẳn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi rớt ầm đâu đó dưới chân đồi. Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5 ND tiên liệu địch sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật tiền pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người đều phải sẳn sàng. Trời tối đen như mực, dưới đồi có tiếng chân người đạp lá rừng nghe xào xạc, có vẻ như rất đông người đang bò lên đồi. Lệnh triệt thoái, đi hàng một, im lặng, súng cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di chuyễn theo nhau về hướng Đông Nam. Lúc đó là 7 giờ tối. Tôi đi theo Tr. Tá Quyền, cố gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm vì trời tối quá, đường đồi nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn trợt. Cũng may có Đại Úy Chương lâu lâu gọi khẻ “Bác Sĩ đâu rồi”.

                                Khoảng 10 giờ đêm thì Tiểu Đoàn dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Pháo địch từ chân đồi phóng lên, nhìn rất đẹp y như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ 5 và nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh. Mọi người phóng nhanh về điểm hẹn để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc đàn từ phút ấy!!!

                                Ngày 2 (29/3/1975): Nhiều tiếng hét đồng loạt “hàng sống chống chết” vang lên hung bạo và đầy hận thù từ dưới đồi dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng lạ thường, tay chân tôi luống cuống, mắt tôi may còn kính cận thị chưa bị rớt. Tôi chui lẹ vào đám rể cỏ tranh rậm rạp mọc cao hơn đầu người, sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân ngọn đồi nhỏ. Lúc này, địch dàn hàng ngang, cầm AK có lưởi lê nhọn gắn đầu súng, vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh. Trong số đó không có tôi.

                                Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm yên, lạnh và ướt dưới đám cỏ tranh. Trổi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có tiếng gọi của ai đó, nằm rất gần. Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng quá, ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá đầy đủ thuốc men do Minh trao lại “Em giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm hướng Đông mà đi vì nghĩ đó là hướng biển, hy vọng gặp lại những người cùng cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi, bụng đói, miệng khát. Nhưng hai thầy trò may mắn gặp được Thiếu Úy H. và Trung Sĩ Q. cùng 3 lính Dù của TĐ5.

                                Riêng Th. Úy H. còn bản đồ hành quân và địa bàn, và mọi người vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghỉ, đêm đi, cả đoàn 7 người đều còn sức khỏe. Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi để địch không tìm ra dấu giày. Dọc đường dây điện thoại màu đen lẫn với lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm, địch sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây để chỉ hướng tiến quân về Nha Trang (dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K, dấu < mủi nhọn là hướng tiến của địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine mà chúng tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có rau tàu bay và mấy con cua kẻ đá, chúng tôi ăn sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị kiết lỵ, dài dài cho đến ngày về đến Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe mạnh nên túi cứu thương không có thuốc trị kiết lỵ!

                                Ngày 3 (30/3/1975): Đêm nay cả 7 người tiếp tục băng rừng, đi đầu là Th.Úy H. kế đó là tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến A Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và 2 lính Dù, Tr. Sĩ Q. đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách nhau 2 sảy tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn thấy bóng bạn phía trước. Tôi nhiều lần kêu khẻ “Th.Úy chậm bước chút xíu”. Cây rừng đan dày đặc, có cây to gốc 3 người ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có cây màu đen, có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng. Tôi đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ “rột một cái” dây đó rút lẹ lên trên cành cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình mồi. Thật hú hồn! Đoàn người cả đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng đóng quân cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa, chắc là địch đang đốt cháy tại nơi chúng vừa chiếm đóng. Th. Úy H. nói “mình phải đi thật nhanh hơn nữa”.

                                Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân đã mỏi nhừ, tìm được một chổ ẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm rừng để lại. Bố trí an toàn xong, cả đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy người mà không dám thở mạnh. Đó đây, nhiều tiếng vượn hú “Húhu u u…Chóc chóc chóc” chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để báo động có người. Lại còn có tiếng chim gì kêu nghe lạtai “cọc cọc cọc” y như điệp khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con vắt, đỉa và sâu đo, mấy ngày qua hút máu ở kẻ ngón chân và trong nách được chúng tôi “giải phóng” với cái bụng no nê đầy máu sau khi chúng tôi cởi giày ra và giủ áo mới thấy chúng còn bám chặc trong nách và các kẻ ngón chân. Miệng tôi đã khô đến nỗi không còn đủ nước bọt mà quyện với cỏ để dùng tay rứt chúng ra!

                                Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến, chúng tôi thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng vẫn cảnh giác đề phòng địch. Đang đi, bất chợt Th.Úy H. ra dấu dừng lại. Phía trước mặt, chỗ mấy cây cổ thụ to, có một đám lá rừng chất đống bất thường, một bầy ruồi nhăng bay lên với mùi hôi thối của xác chết!!! Địch đã giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ Binh, tháo giày vì các xác đều chân trần, rồi phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm chào kính và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân. Mong các anh thông cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ, cầu mong các anh phù hộ cho chúng tôi về được đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn:

                                “Hồn tử sĩ gió ào ào thổi,
                                Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
                                Chinh phu tử sĩ mấy người,
                                Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”


                                Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các tử sĩ dụm năm dụm ba, phủ lá đầy ruồi nhặng và đã phân hũy, do địch giết hại. Đếm được 4 chổ như vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong cánh rừng Khánh Dương này.

                                Ngày 6 (2/4/1975): Vẫn di chuyển hàng một với Th. Úy H. đi đầu và Tr. Sĩ Q. đoạn hậu. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng đất Cọp Khánh Hoà Ma Bình Thuận. Nhiều dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy gần các bụi tre gai rừng màu vàng sẩm. Đang đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám, chừng 8 con đang cúi đầu xuống uống nước hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng canh chừng. Đừng bắn, đừng bắn, địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và chúng ta khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng đói vì đã đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi, thấy động, thoáng một cái đã biến nhanh vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước, sau khi bụm tay lấy nước rửa mặt và uống thật no. Tôi cảm thấy cũng không xong vì đói lâu ngày chỉ nên uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ nửa giờ sau, chúng tôi gặp một cái chòi che đậy bằng cành cây lá rừng.

                                Chắc là địch di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới nền đất đào sâu đủ cho 3 người núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô, là các bánh cơm và các thẻ đường vàng bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây giờ, đoàn gặp phải một cái hào nước không sâu nhưng chạy dài về hướng Đông. Thôi đành phải lội, nước ngập tới ngực, súng phải kê cao khỏi đầu, đoàn lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.


                                Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh địch với 2 súng AK 47 chỉa thẳng vào và bắt tất cả chúng tôi buông súng. Gần đó có một ngôi chùa, chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn độ về đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi chung một chổ ngoài hiên chùa. Chúng gom hết súng và lựu đạn của chúng tôi để một chỗ xa hơn trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác 2 cây súng AK gần bên chảo dầu đang sôi sùng sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa bắt ở dưới hào.

                                – Hành động ngay. Hành động ngay. Th.Úy H. và Tr. Sĩ Q. bàn chuyện cướp súng và hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành ngay trong chớp nhoáng, 2 tên ngã quỵ vì đòn hội đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết cá chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng dây nịt bằng da nâu. Toàn là chiến lợi phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người chúng tôi chạy nhanh ra khỏi chùa để tránh địch trở về biết được và truy lùng.

                                Trời đã về chiều, ống cống thông thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi. Cả đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong đường cống có đường kính cao hơn đầu người. Đường tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm, mồ hôi nhể nhại, người nóng, tim đập thình thịch. Ra khỏi đoạn đường ống cống là khoảng đất trồng bắp của dân quê vắng ngắt, chúng tôi dừng lại, xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng. Thật tuyệt vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa kịp nhai đã nuốt, may mà không bị hóc xương cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ rồi chăng?! A. Chãy còn đi vào rẩy bẻ trộm bắp non được vài trái, xong cả đoàn chạy bang vào lùm cây trước mặt, thì trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng tiếng la của dân làng và tiếng chó sủa truy đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước để lắng chết mấy con đỉa nhỏ, uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp đi.

                                Ngày 7 (3/4/1975): Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Đông do địa bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai con chim nhỏ như chim cu, cứ bay trên đầu chúng tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu “hoạch hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị lộ nên cứ chạy thật nhanh để rút vào rừng cây trước mặt. Đến nơi, vừa lăng xuống đất nằm để thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà mỉm cười một mình “Te Te hoành hoạch, giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng phơi hàng rào, rách áo chồng tao” Đường đi bây giờ là con đường quanh co và xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng cản trở nữa, nhưng vượt qua những khoảng trống thật không phải dễ.

                                Để tránh địch thấy và bao vây bắt trọn, chúng tôi ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây rừng địa phương. Bảy bụi cây người di chuyễn chậm qua các khoảng trống. Đến chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng chĩu trái chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung gốc cây, thu được vài chục trái cam chín rụng xuống. Thôi rồi! nước cam đắng như nước trái khổ qua! Đàng kia có một cái mương nước đã khô nhưng kẻ đá chặn có nước nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa bi đông.

                                Đến chiều chúng tôi lọt vào vòng đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha Trang). Tối hôm đó chúng tôi yên lặng nằm nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức giấc vì tiếng thở phì phò của vài con bò bị chủ chạy giặc bỏ lại. Tr.Sĩ Q. và ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi bỏ vào ba lô và lấy lá gan còn nóng hổi chia cả đoàn cùng ăn sống cho đở đói. Gan bò sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói quá, tôi cũng nuốt được. Bây gờ, bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt nhiều, người gầy ốm và râu cũng mọc dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi vẫn còn đi khỏe lắm.

                                Ngày 8 (4/4/1975): Trời gần sáng, chúng tôi chạy vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm nhìn biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có một hòn đảo nhỏ, bản đồ hành quân ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà Nhỏ, bằng mọi cách cả đoàn phải bơi qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất. Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình vớt hay không? Cả đêm nằm suy nghĩ liên miên, tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa, cả một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch ngụy trang lá rừng tiến về hướng Nha Trang.

                                Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy như điên xuống mé nước. Thật là kỳ diệu, nói ra không ai chịu tin, một chiếc ghe nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau sậy và rong biển. Tôi định gọi chủ ghe xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A. Chãy nhảy vào khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!” Thế là cả đoàn lại được một bửa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người chúng tôi leo lên ghe, nhưng A. Chãy xin ở lại về với bà Dì còn kẹt ở Nha Trang, nên cậu ta khóc từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại, chỉ mặc áo thun quần đùi, đi chân không, chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ hướng về Nha Trang.

                                Sáu người còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay gở ván làm chèo phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước trong ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì hục, vội vã chèo ghe qua Hòn Bà Lớn. Nắng lên cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và lạnh. Ghe lại bị lổ mọt, hở, nước biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước vô ghe sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe cập bến cát và đá ngầm, chúng tôi ướt át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và núp trong một góc đá để nghe ngóng tình hình, chờ hết mệt mới tính tiếp. Đến 10 giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện. Nếu không thoát khỏi đây, thì chắc 6 người sẽ là tù binh của địch.

                                Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam mình. Mọi người buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ mình sẽ chết ở đây?! Ý nghĩ loé lên, đề nghị với Th.Úy H vàTr. Sĩ Q., tôi nói “Đã nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn mặc và nói năng giả làm địch, Th.Úy, Tr. Sĩ và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép râu, còn 3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh ngụy bị ta bắt được giải về Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ huy. Tôi có cây súng lục nhỏ đi đầu làm chỉ huy, kế đó là Th. Úy, còn Tr. Sĩ cầm AK đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở giữa. Tất cả quần áo Dù và giày, súng M16, nón sắt coi như chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái bao tải lớn của bộ đội này rồi Tr. Sĩ mang đi sau chót. Phải đóng kịch cho thật khéo, lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng ý làm theo kế hoạch của tôi, mọi sự phó cho Trời Phật giúp đở.

                                Hóa trang xong, cả đoàn theo thứ tự di chuyển về phía Nam trên Hòn Bà Lớn. Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi chạc trung niên, mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất liền đang làm việc đốt than. Nhà sư thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi “quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi trình bày là tiến quân vào Nam, bắt được 3 tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệng Đảng chỉ thị dẫn độ chúng vào Nam, ở đây có phương tiện đường thủy gì không.

                                Sư bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân và dân làng chài có thể giúp đở cho các đồng chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục đi thong thả về phía cuối đảo mà trong lòng vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ ra sao.

                                Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối. Đang đi, chúng tôi bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt chúng tôi dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên chỉ huy trông có vẻ nhà quê, hắn hỏi, tôi trả lời y như khi gặp Sư làm than. Chúng tạm tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1 giờ sau, chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi, rồi rót trà mời uống và nói chuyện. Đến 10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân dẫn chúng tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em bé còn ẳm trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng chí của chúng.

                                Ghe bắt đầu nhổ neo, chúng tôi thở phào thoát nạn. Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng Tr. Sĩ Q. vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào nội à?” Nhanh như chớp, Th.Úy H nhảy vào buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe bắt hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé sáng trên nền trời đêm. Cậu phụ ghe thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống biển thoát thân Vợ chồng chủ ghe khai thật, là dân quân bắt họ lái ghe vào đất liền (nội) để giao cho bộ đội lập công. Bây giờ xin các ông tha cho, tụi tôi không dám về lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe sắp cạn dầu, không đủ dầu để về đến Vũng Tàu.

                                Sẳn ngụy trang là địch, chúng tôi phải liều một phen nữa. Th.Úy H. đứng đầu ghe, Tr. Sĩ Q. ghìm súng AK ở buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm tay lái. Ở phía ngược lại đi về hướng Nha Trang có một ghe chài lớn mang cờ đỏ sao vàng đang lướt tới, đầu ghe có một cán binh địch cầm AK. Th.Úy H. cho ghe chậm lại. Tr. Sĩ Q. hét tên chủ ghe hãm tốc. Ghe bên kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc. Khi 2 ghe cập lại, Th. Úy H. xưng đồng chí, nhờ giúp dầu để về đến Vũng Tàu giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng. Lập tức 4 thùng dầu được chuyển qua ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt đêm, hướng về Nam.

                                Ngày 10 (6/4/1975): Dọc đường biển, ghe chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng Th. Úy H. canh địa bàn đúng hướng, im re không nói gì, tôi cũng yên bụng, nhưng lại ói vì say sóng. Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe có ghé vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu, chúng tôi kè sát vợ chồng chủ ghe vì sợ họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn mặc quân phục Dù lại như cũ. Chúng tôi cám ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch quá phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp Tôn Tữ chắc cũng có câu “phải đặt mình vào đường chết mới mong tìm ra lối sống”.

                                Ngày 11 (7/4/1975): Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm Dương) của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống thật rồi! Cả đoàn hân hoan nhìn rất nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô lên xuống theo sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ đêm là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ giả và cám ơn vợ chồng chủ ghe, sau khi tôi tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền ơn.

                                Chúng tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái quán gần đó, gọi chủ quán nấu cho 1 nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt dầm nước mắm thật cay. Chủ quán chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp quẹt. Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn cơm canh chua và uống bia, hút thuốc đầy tinh thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương thân tương ái đến như thế này. Giờ giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa. Đường phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này vô gia cư nên đành nằm ngoài sân trước quán mà ngủ.

                                Ngày 12 (8/4/1975): Trời đã hừng đông, người qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ ngác. Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón xe đò về SàiGòn. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút thán phục và thương hại vì Th. Úy H. luôn miệng nói “chúng tôi về từ mặt trận Khánh Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người về từ cõi chết”. Xe đò dừng lại, phụ xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông nghẹt khách, cho ngồi ghế “súp” vì xe hết chổ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.

                                Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân Cảnh 204 (là Quân Cảnh của Sư Đoàn Nhảy Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào Bác Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ đã chết. Mời BS và Th.Úy, Tr.Sĩ và 3 anh em đây lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón cối, súng AK, dây nịt, dép râu của địch, tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh luôn”.

                                Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm rửa, cạo râu và mặc quân phục chỉnh tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng và Trung Tá Bùi Quyền sau.

                                Vừa về đến nhà, chưa kịp hàn huyên với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep của Tiểu Đoàn 5 ND do đích thân Trung Tá Bùi Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu cứ củaTĐ là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân và mừng Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự. Nhảy Dù Cố Gắng.

                                Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm
                                Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù

                                nguồn:
                                Last edited by khongquan2; 04-15-2018, 06:47 PM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X