Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trại Hoàng Hoa Thám Sư Đoàn Nhảy Dù

    Trại Hoàng Hoa Thám
    Sư Đoàn Nhảy Dù, QL-VNCH Một Thời Để Nhớ

    MĐ Vũ Viên


    Mỗi độ tháng Năm về, lòng bồi hồi nhớ lại Mùa Hoa Phượng, màu hoa tươi thắm, đỏ tươi như màu Nón Đỏ mà Bố tôi và tôi đã từng đội, màu nón ấy gợi nhớ cho tôi biết bao là kỷ niệm, và dù có đi đâu, ở đâu hay bất chợt gặp những cây Phượng ở nơi nào đó, tôi vẫn không bao giờ quên được những hàng cây Phượng trong Trại Hoàng Hoa Thám. Những ai đã từng ở Sài Gòn cho đến tháng 04 năm 1975, chắc hẳn còn nhớ trên con đường LÊ VĂN DUYỆT, hướng từ Sài Gòn về Bà Quẹo, cách Ngã Tư Bảy Hiền khoảng non một cây số, về bên tay phải là Trại Hoàng Hoa Thám, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, trong đó có Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám, nơi trú ngụ của vợ con và thân nhân các Chiến Binh Nhảy Dù.

    Nơi đó, với tôi có thật nhiều kỷ niệm, kéo dài từ tuổi thơ cho đến ngày tôi trưởng thành và trở thành người lính Nhảy Dù. Tôi chỉ còn nhớ lờ mờ khi gia đình tôi theo sự di chuyển của Bố tôi từ Biên Hòa(TĐ7ND) về Trại Gia Binh, lúc đó Cổng “C” còn nằm tận bên trong, hai bên đường vào Cổng “C” dành cho Gia Đình Binh Sĩ ra vào vẫn còn là những bãi đất trống. Tuổi thơ của tôi và các bạn cùng trang lứa là những ngày bắt dế, thả diều, bắn bi, chơi cù, chọi đáo, đào chì (*), tắm Quân xa (**)… thậm chí chơi đánh trận giả đều nằm trong vòng dây kẽm gai của Căn Cứ Hoàng Hoa Thám.

    Tôi học lớp Nhì(lớp 4) thầy giáo Hòe, lớp Nhất (lớp 5) thầy giáo Pháp và thi đậu vào Trường Công Lập Hồ Ngọc Cẩn năm 1966. Tôi còn nhớ cùng lớp có Hiệu, Hành (con ông Cúc); Lụa(con ông Tư); Chung(con ông Nhuần); Kim(con ông Thuận); Phụng, Lan(con ông Tán); Mỹ Hoa, Minh ”lừa”(con ông Hạnh); Thập, Dũng ”C”, Sáng ”sịt”, Lâm Bền, Khánh, Loan, Tấn, v.v..


    Trong Trại Gia Binh có mái trường Thống Nhất do Cha Vũ Ngọc Đáng làm Hiệu Trưởng, nhờ Ngài mà tất cả con em của lính đều được đi học. Nếu đi học Tiểu học Ngài không lấy tiền học phí, học Trung Học Đệ nhất Cấp học phí chỉ đóng một nửa, rồi kế tiếp Ngài mở rộng lên đến Trung Học Đệ Nhị Cấp, thì Ngày Đen Tối ấy sập đến và ngôi trường Thống Nhất của Cha cũng bị xóa sổ, Ngài cũng bị đi tù vì cấp bậc của Ngài lúc ấy là Trung tá, sau đó Ngài đi HO qua Mỹ, tuy bên đó nhưng Ngài vẫn luôn nhớ đến các học sinh bé nhỏ ngày nào, nên vì thế hằng năm Trường Thống Nhất (SĐND) tổ chức họp mặt vào Ngày Thánh Micae(29-9)do Ngài yểm trợ và giúp đỡ. Con viết những dòng chữ này như một nén nhang kính cẩn dâng lên Cha và xin thay mặt toàn thể Cựu Học sinh Thống Nhất muôn đời tri ân Cha đã khai sáng, giúp đỡ cho chúng con có được con chữ để bước vào đời.

    Ngài qua Mỹ định cư và ở cùng nhà với anh Ruân(Cựu ĐĐT 92/TĐ9ND) cho đến ngày Ngài qua đời(21-12-2007). Xin thay mặt toàn thể Cựu Học Sinh Thống Nhất, chân thành cám ơn anh Ruân cùng Gia Đình đã chia ngọt, xẻ bùi với Cha trong những tháng ngày qua.

    Trại Hoàng Hoa Thám từ cấp Lữ Đoàn lên cấp Sư Đoàn nên vì thế phải mở rộng doanh trại, gia đình tôi cũng vì thế di chuyển dọn nhà trong Trại Gia Binh tất cả là 4 lần và lần thứ 5 là vĩnh viễn mất tên trại Hoàng Hoa Thám, gia đình tôi “Được” đi vùng Kinh Tế Mới đợt đầu và Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám ấy mãi mãi là ký ức dù rằng nó vẫn đang hiện hữu… sau đó, nơi ấy được phép đi vào vì đã trở thành khu dân cư, mỗi lần có dịp đi qua lòng bàng hoàng nhớ lại cảnh cũ người xưa, mỗi người mỗi ngả, kẻ ly hương người ở lại… ngậm ngùi, chua xót, có chút gì cay cay trên đôi mắt, nhớ những hàng cây Điệp Tây kéo dài từ Cổng A đến Khối Bổ Sung thỉnh thoảng chen lẫn vài cây Phượng nở rộ vào mùa hè, màu Hoa Phượng đỏ tươi như những chiếc Nón Đỏ, màu nón của Binh chủng Nhảy Dù mà tôi đã chọn để tiếp nối bước chân Bố tôi là người lính Nhảy Dù. Những trưa hè, đi dưới hai hàng cây, lác đác vài cây Phượng trổ hoa, tiếng ve sầu kêu inh ỏi, khung cảnh thật yên bình, người Chiến Binh còn nhớ đến mùa hè năm nao? Ít nhiều trong chúng ta, ai cũng có một mùa hè cho riêng mình và… giá như… nhớ… nhớ… nhớ lắm Hoàng Hoa ơi!!!


    Vì nhà trong Trại Gia Binh nên những ký ức về chiến tranh luôn hiện hữu, nhớ Tết Mậu Thân, bác Thạch Phòng 2/Bộ Tư Lệnh ở đầu nhà đã hy sinh tại Ngã tư Bảy Hiền, tiếng khóc của vợ Bác Thạch và ánh mắt ngơ ngác của những đứa con Bác mãi mãi không bao giờ quên, tôi cũng theo chân gia đình bác lên Nghĩa Trang Gò Vấp để đưa tiễn Bác Thạch. Sau này, Quỳnh con trai bác cũng đi lính Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 14 Nhảy Dù, Hồng, chị Quỳnh lấy chồng là Anh Minh Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, lứa chúng tôi, khi lớn lên phần đông đều chọn màu Nón Đỏ và các bạn tôi cũng đã hy sinh cho Tổ Quốc như Hưng, Thắng (Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù), Hòa (Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù), Toàn(Đại Đội 2 Công Binh Nhảy Dù), Khánh đi Hạ Sĩ Quan và Tử trận, Sơn(con ông Tuệ) đi Hạ Sĩ Quan và cũng Tử trận… lâu quá không còn nhớ được nhiều, nếu các bạn nào đã từng sống trong Trại Gia Binh còn nhớ ai xin tiếp tục ghi vào.

    Còn nhớ khoảng thời gian khốc liệt của cuộc chiến như: cuộc hành quân Hạ Lào 71, An Lộc 72, tôi, mẹ tôi, và những người vợ lính trong Trại Gia Binh khắc khoải chờ tin Chồng, Con… từ chiến trường qua những người lính bị thương trở về. Lúc mùa Hè Đỏ Lửa nơi Sân Banh, kế bên là Bệnh Viện Đỗ Vinh vào khoảng chiều tối những chiếc trực thăng tản thương những người lính từ chiến trường An Lộc về, tôi, mẹ tôi, và những người vợ lính trong Trại Gia Binh cũng ùa lên đón thương binh và hỏi thăm tin tức người thân qua những người lính bị thương, di tản bằng trực thăng từ chiến trường về Bệnh Viện Đỗ Vinh(lúc đó Bố tôi ở Đại Đôi 81/Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đang tham chiến tại Mặt Trận AN LỘC)… và như thế… những vành khăn tang vội vã, tiếng khóc của những người vợ, ánh mắt buồn nhớ của những người con, Nhảy Dù oai hùng lắm, thương vong cũng nhiều lắm…. Nếu ai đã từng sống trong Trại Gia Binh mới hiểu thấu những chịu đựng, mong chờ của người vợ lính. Tôi còn nhớ, khi Bố tôi đi hành quân, hàng tháng Mẹ tôi thường lên Hậu Cứ gởi Cafe, thuốc lá, loại mà Bố tôi thích, kèm theo 2 lon guigoz mắm ruốc xào với thịt ba chỉ hoặc những gì cần thiết do Bố tôi gởi thư về yêu cầu khi Mẹ tôi lên nhận lương từ ông Kế Toán Trưởng Đại đội. Sau này Mẹ tôi cũng vẫn làm như thế khi tôi trở thành người lính Nhảy Dù và cũng đi hành quân, xin cám ơn Mẹ đã luôn chu đáo cho Bố và con, và tôi càng thấm thía nỗi mong chờ của người vợ, người Mẹ có chồng, con là lính Nhảy Dù. Xin vinh danh những người Mẹ, Vợ, Chị có Chồng, Con, Em là Lính Nhảy Dù đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, những mất mát đó không gì có thể bù đắp được và những chịu đựng ấy thật to lớn. Xin Kính Phục tấm lòng chịu đựng của Quý Mẹ, Vợ, và Các Chị. Xin Kính Cẩn thắp nén nhang lòng dâng lên tất cả các Chiến Sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc…. Luôn nhớ và Tri Ân các Chiến Sĩ đã bỏ lại một phần thân thể cho Quê Hương.


    Trại Hoàng Hoa Thám với những hàng cây Điệp chạy dài từ Cổng “A”, đi thẳng khoảng vài trăm mét, bên phải sẽ gặp Trại Trần Quý Mai, Hậu Cứ Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, xích lên chút nữa, bên trái là Ngôi Thánh Đường(nhà thờ của Sư Đoàn Nhảy Dù) và mái trường Thống Nhất thân yêu, đi thẳng, bên trái là Phòng Sĩ Quan Trực Sư Đoàn, kế bên là nơi trưng bày những chiến lợi phẩm như: Thượng Liên 12.7 ly, Đại pháo 130 ly, xe tăng T54, và các súng Cộng Đồng khác cùng những hình ảnh về Đoàn Quân Mũ Đỏ đã tịch thu qua các cuộc hành quân, bên tay phải là Sân Cờ Bộ Tư Lệnh, rẽ trái là nơi làm việc của các Phòng 1, 2, 3, 4, và Phòng Tâm lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh, rẽ trái lần nữa sẽ gặp Bệnh Viện Đỗ Vinh, Sân Đá Banh, đi thẳng nữa sẽ gặp Đại Đội 1 Quân Y, Tiểu Đoàn Truyền Tin, Phòng Huấn luyện Tae-kwon-Do, Ban Quân Nhạc, Nhà bếp Sư Đoàn, đằng sau là Phòng Khánh Tiết với những hàng cây Điệp thỉnh thoảng xen vào Cây Phượng Vĩ nở rộ vào mùa Hè kéo dài theo ký ức tuổi thơ của tôi, những ngày cùng các bạn đá banh, bắn chim, tắm Quân Xa(**), đào chì(*) trên sân bắn, lấy chì đổ chàm để chơi đánh đáo… nhớ lắm các bạn Trại Gia Binh ơi…. Trong Trại Hoàng Hoa còn có Trung tâm Huấn Luyện Nhảy Dù, có đài 11mét (thường gọi là Chuồng Cu), khi còn nhỏ, thường theo các bạn đi coi các Chú, các Anh học Nhảy Dù, thỉnh thoảng có Lực Lượng Mỹ đến nhảy Chuồng Cu, các bạn và tôi cũng Ô-Kê Salem với Lính Mỹ, chia nhau những hộp đồ hộp, những thanh kẹo Lính Mỹ cho…, nhớ lại thấy tếu, tuổi thơ của bọn mình sống trong Trại Gia Binh là như thế đấy, xin đừng cười.

    Cuối con đường kéo dài từ Cổng “A” quẹo phải, đi qua hậu cứ TĐ8ND (đối diện là Câu Lạc Bộ Hoa Dù) là Khối Bổ Sung/SĐND(đối diện là Trại DAVID-UBLHQS [Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự] Bốn Bên). Nơi đây những người lính Nhảy Dù được bổ sung về các Đơn Vị sau khi học dù xong. Đã là lính Nhảy Dù ít nhiều cũng một lần ghé chân Trại Hoàng Hoa Thám như học dù, bị thương điều trị tại Bệnh Viện Đỗ Vinh, hoặc những đơn vị đồn trú trong Căn Cứ Hoàng Hoa Thám như Bộ Tư Lệnh, Quân Y, Truyền Tin, Pháo Binh, Tiểu Đoàn Yểm Trợ, TĐ8ND, TĐ9ND, TĐ2ND, ĐĐ1TS [Trinh Sát], ĐĐ3TS… và các lý do khác để một lần đặt chân đến Trại Hoàng Hoa Thám…. Nhưng mọi việc không xảy ra như thế và có những trường hợp người lính Nhảy Dù chỉ đúng một lần ghé qua Khối Bổ Sung và vĩnh viễn không còn cơ hội để nhận rõ Trại Hoàng Hoa của mình như trường hợp mà tôi được biết, qua lời kể của Cựu Th/úy Dũng 93(khóa 4/71) mãn khóa ngày thứ Bảy và 118 Tân Sĩ Quan, về trình diện Sư Đoàn Nhảy Dù tại Khối Bổ Sung rồi lên đường ra mặt trận vào sáng ngày Chủ Nhật hôm sau, trưa Chủ Nhật đã có mặt tại chiến trường, và đã có những người bạn của anh, các Tân Sĩ Quan về Nhảy Dù, chưa được đi phép, chưa được học Dù… đã hy sinh…, [họ] cũng chưa biết rõ Hậu cứ của đơn vị mình, vì thế những người Lính không biết Hậu Cứ của mình và cũng chưa biết rõ về Trại Hoàng Hoa đã ra đi vĩnh viễn…. Đó là sự khốc liệt của cuộc chiến mà người Lính phải chịu đựng.


    Trong Trại Hoàng Hoa Thám có hai dãy nhà bán Cafe, quán cơm, ngôi chợ cho Vợ con Lính thường gọi là Chợ Sư Đoàn, nơi phục vụ cho các chiến binh khi bị Cắm trại, nơi lui tới của bạn bè trong Trại, cũng có quán nhậu lai rai, có bàn bi-da, cafe nhạc, điểm tâm, quán cơm… nơi này tôi cũng có dịp quen biết các anh, sau này nghe tin có anh đã hy sinh, có anh trở thành Thương Phế Binh… tôi còn gặp được TS1 [Trung sĩ] Kiệt 83 (hiện ở HOUSTON, TEXAS), anh Phương Kế Toán Trưởng 92, anh Cúc 204 QC [Quân Cảnh]… và cũng chính nơi này, những mối tình của các chàng Chiến Binh với các nàng thiếu nữ (con của Lính Nhảy Dù) đã nên duyên chồng vợ, và cũng có những mối tình không đoạn kết vì Chàng Chiến Binh đã đi mãi không về, Chàng đã hy sinh vì Quê Mẹ… và nước mắt khóc thầm của những nàng thiếu nữ cho những mối tình buồn trong cuộc chiến…. Thỉnh thoảng Phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn tổ chức chiếu phim vào chiều tối cho vợ con Gia Đình Binh Sĩ xem như các bộ phim mà tôi và các bạn thường được xem “Ánh Sáng Miền Nam”, “Chúng Tôi Muốn Sống”, “Bốn Ngày Phép”, v.v. mỗi lần có chiếu phim là cơ hội gặp gỡ của đám nhóc tụi tôi, để tụ tập chọc phá mọi người….

    Xin Quý Vị dừng lại, ghé vào một quán Cafe ở Chợ Sư Đoàn, uống một ly cafe, hút một điếu thuốc CAPSTAN, nghe một vài bản nhạc để sống lại quãng thời gian năm ấy…. Bản nhạc “Anh không chết đâu Anh” về người Sĩ Quan Pháo Binh Nhảy Dù, Đại úy Đương đã hy sinh tại Ngọn Đồi 31 trong cuộc hành quân HẠ LÀO, kiêu hùng lắm! Riêng bản nhạc “Người ở lại CHARLIE” nói về sự hy sinh của Cố Đại Tá [Nguyễn Đình] Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tại Căn Cứ CHARLIE, trong đó có Người Tài Xế kiêm Cận Vệ là Chú Thạch Phi, cấp bậc Trung Sĩ, khi nghe bản nhạc này lòng chợt buồn, có gì nghèn nghẹn… vì nhà chú Phi ở cùng dãy nhà với tôi trong Trại Gia Binh, thỉnh thoảng Chú lái xe JEEP đi công tác và ghé thăm nhà, Chú thường chở 2 thằng con trai của Chú, Cà Ri Lớn, Cà Ri Nhỏ, và tôi trên chiếc xe JEEP lạng một vòng Sư Đoàn cho thỏa chí, đôi lúc Chú cũng kể chuyện hành quân cho tôi nghe, Chú rất hiền và thương vợ con. Ngày nhận tin Chú tử trận, vợ Chú xỉu lên, xỉu xuống vì một nách 4 đứa con, tôi thấy đôi mắt của 2 thằng Cà Ri đượm vẻ buồn buồn… rồi thời gian trôi qua, tôi cũng là người Lính Nhảy Dù và từ ấy tôi cũng mất liên lạc với gia đình Chú. Sau cái ngày Vỡ Tổ, không biết gia đình Chú và 2 thằng Cà Ri về đâu? Bỗng nhiên tình cờ tôi liên lạc được với Hùng (con ông Đoàn, Bộ Chỉ Huy Pháo Binh) nhà ở gần tôi và nhà Cà Ri Lớn, hiện ở Mỹ, Chicago, Illinois cho tôi biết vào đầu tháng 4/75 có gặp thằng Cà Ri Lớn, đi lính Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 14, cùng Đại Đội 143 với Hùng, tên nó là Thạch Hùng và như thế nó cũng tiếp nối bước chân của Chú Phi, Bố nó, là đi lính Nhảy Dù, cho mãi đến bây giờ tôi mới biết được tên trong khai sanh của thằng Cà Ri Lớn là Thạch Hùng, mọi tin tức về nó và gia đình cũng chỉ có thế, cầu xin anh linh của Chú Phi luôn phù hộ cho vợ Chú và gia đình.


    Sau khi uống Cafe xong, lòng bồi hồi nhớ lại cảnh cũ người xưa… một chút hoài niệm về quá khứ, về đời Quân Ngũ…. Xin mời Quý Vị vui lòng trở lại Cổng ”A” để tiếp nối chuyến đi thăm Trại Hoàng Hoa Thám.

    Từ Cổng ”A” đi thẳng khoảng vài trăm mét, bên phải là Trại Trần Quý Mại, hậu cứ của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, có đường đi qua Cổng Phi Long của Không Quân, cổng này các Lính Nhà Ta thường “chuồn” khi có lệnh Cắm Trại 100%, mời rẽ trái khoảng vài chục mét sẽ gặp Quầy hàng của Quân Tiếp Vụ bên trái, Bảo Sanh Viện, Chuẩn Y Viện dành cho Gia Đình Binh Sĩ, đối diện là Gia Binh của Công Binh, qua Cổng ”C” cũ, bên phải có một Lô Cốt là Gia Binh của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, thẳng lên bên trái sẽ gặp Chùa Hưng Pháp, đối diện là Gia Binh của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, tiếp tục sẽ gặp Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, Trại Thạch Văn Thinh đối diện là Trại Trần Thanh Phương Hậu cứ của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, kế bên cuối con đường là Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
    Bên hông Hậu Cứ Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù có một con đường đất đỏ, bên phải là Trại Gia Binh, nếu đi thẳng sẽ gặp Hậu Cứ của Tiểu Đoàn Yểm Trợ, đi tiếp sẽ gặp lại nhà bếp Sư Đoàn, đối diện là Sân Bắn thẳng nửa là Đại Đội Quân Xa(có cái Hồ Nước mà bọn tôi thường tắm) cũng con đường này, khi đi hết vòng rào của Hậu Cứ Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, quẹo trái, thẳng lên là Hậu Cứ của Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ngó qua là Đài 7, Sân Bắn, qua khỏi Ụ Đất sân bắn là Kho Đạn của Sư Đoàn và Đài 8 (vọng gác vành đai của Sư Đoàn và Bảo Vệ kho đạn).

    Như vậy Quý Vị đã đi thăm một vòng Trại Hoàng Hoa Thám, vừa rồi Quý Vị đi thẳng từ Cổng”A” qua Sân Cờ quẹo trái, lần này đi lên chút nữa gặp Bồn Nước cao, rẽ trái sẽ gặp Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn, Đại Đội Kỹ Thuật bên phải, bên trái là Văn Phòng Chỉ Huy Căn Cứ Hoàng Hoa Thám, sau lưng Văn Phòng là Đại Đội 204 Quân Cảnh Nhảy Dù, từ Văn Phòng Chỉ Huy đi thẳng, bên trái là Bệnh Viện Đỗ Vinh mở rộng, có môt căn phòng dùng để Khám Sức Khỏe Học Dù, ngó qua là Sân Banh, nếu ai đã từng học dù còn nhớ, một lần khám là 10 người, bận Xà Lỏn, chạy từ Sân Banh, nơi để quần áo qua căn phòng khám sức khỏe học dù, sau khi đã sexy 100% trong phòng để Bác Sĩ khám. Đi qua Sân Banh, bên phải là Đại Đội Tổng Hành Dinh, đối diên là Hậu Cứ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, đi thẳng sẽ gặp Kho Quân Nhu, bên phải, đối diện là Phòng Khánh Tiết Sư Đoàn, đi thẳng thêm chút nữa sẽ có một ngã tư, bên phải là Đại Đội Quân Xa, bên trái là nhà bếp Sư Đoàn, đi thẳng tiếp là Kho Đạn, Vọng Gác Đài 8… như thế là giáp một vòng Trại Hoàng Hoa.


    Con đường từ Cổng “A” đi vào gặp Trại Trần Quý Mại rẽ trái, cuối con đường này là Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù, con đường này tuy không đẹp vì không có những hàng cây Điệp thỉnh thoảng chen lẫn vài Cây Phượng như con đường trong Bộ Tư Lệnh vì mới mở rộng thêm sau này, nhưng con đường này, tôi và các bạn thường đi để ra ngoài như xem Cine, coi đá banh tại sân Cộng Hòa, đi tắm hồ tắm Chi Lăng bên Gia Định hoặc đi ra ngoài Trại Gia Binh mỗi khi có việc.

    Kính thưa Quý Vị, với những ký ức này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, vì thời gian cũng tương đối dài hơn 36 năm, trí nhớ phần nào bị mai một nhưng cũng hy vọng gợi nhớ lại phần nào với những ai đã từng sống hoặc một lần nào đó ghé chân qua Trại Hoàng Hoa….

    Trại Hoàng Hoa Thám Sư Đoàn Nhảy Dù, đoàn quân đã làm quân thù khiếp sợ, chiến đấu vì an nguy của Tổ Quốc, đã bao chiến sĩ ngã xuống cho Quê Hương, cho màu cờ, sắc áo của Binh chủng và cuối cùng Đoàn Quân ấy cũng phải tan rã theo sự bội vong??? Phải chăng lịch sử đã lập lại, ngày xưa Cụ Đề Thám đã làm giặc Pháp kinh hoàng, ăn không ngon, ngủ không yên bởi các Nghĩa Binh của Cụ, Hoàng Hoa Thám được mệnh danh là Con Hùm Yên Thế… rốt cuộc Cụ cũng bị phản bội và bị giết chết. Ngày nay các Chiến Binh Hoàng Hoa Thám dù chiến đấu kiên cường nhưng cũng bị bội phản, và những cánh chim Dù bay muôn hướng, kẻ ở lại vướng vòng lao lý, bỏ mình nơi rừng thiêng nước độc, người người mưu sinh vất vả…. Trại Hoàng Hoa kể từ ngày ấy không còn nữa nhưng những hàng cây ít nhiều cũng còn hiện hữu, nhắc tôi rằng đã một thời đã cưu mang tôi và bao gia đình, những người đã từng trú ngụ nơi đây, những Chiến Binh của một thời lửa đạn, đã từng ghé qua đây, Trại Hoàng Hoa Thám.

    Nếu ai đã từng là Lính Nhảy Dù, ít nhiều cũng có kỷ niệm về Trại Hoàng Hoa…. Với tôi là những hoài niệm không bao giờ quên, thời gian hơn 1/3 thế kỷ trôi qua, trí nhớ phần nào bị bào mòn, lời văn không suông sẻ nhưng những gì ghi lại ở đây là tấm chân tình từ đáy lòng của người con đã sống và trưởng thành từ nơi đây, Trại HOÀNG HOA THÁM.

    Kính gởi đến tất cả những ai và các bạn đã từng sống ở Trại Hoàng Hoa Thám hãy yêu thương, đùm bọc lẫn nhau dù qua bao thăng trầm sóng gió của cuộc bể dâu….

    Sài Gòn, cuối tháng Năm, mùa Hoa Phượng 2011
    Người con Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám
    MĐ 90

    Chú Thích:


    (*) Đào chì: trong Trại Hoàng Hoa Thám, đối diện với nhà bếp Sư Đoàn có một Sân Bắn, dùng để huấn luyện cho các Tiểu Đoàn về tập bắn, dài khoảng 250 mét, có ụ đất cao khoảng chục mét để dựng bia tập bắn, 8 thế bắn di chuyển từ 200 mét… sau khi bắn xong, những đầu đạn bằng chì bên ngoài bằng đồng ghim vào ụ đất, bọn tôi thường canh vào buổi trưa (lúc này không có mấy Chú An Ninh trong Trại đuổi) khi những người lính bắn tập xong, a… a… lê… nhào lên đào chì anh em ơi… ơi! Tay cầm lon sữa bò, tay kia cầm theo vật nhọn như con dao dài khoảng 20cm, đào vào ụ đất để kiếm những đầu đạn ghim vào, sau đó để đầu đạn vào lon sữa bò, nấu lên lấy chì, vỏ đồng bên ngoài, cân ký, bán ve chai, còn chì sau khi nấu đổ vào đít chén để làm chàm chọi đáo, nếu nhiều thì bán ve chai lấy tiền đi xem Cine, đi coi đá banh, đi tắm hồ tắm Chi Lăng…, nếu không có tiền thì đi tắm Quân Xa.

    (**) Tắm Quân Xa: Kế bên nhà bếp Sư Đoàn là Đại Đội Quân Xa có một cái hồ dùng để rửa xe, [bề] ngang khoảng 2.5 mét, dài khoảng 3 mét, sâu khoảng 1.4 mét. Những trưa hè (lại buổi trưa vì buổi trưa các chú lính ăn cơm, nghỉ trưa) bọn tôi thường kêu nhau bằng ám hiệu: túc… túc a. a. là Tắm Quân Xa, lập tức có 3, 4 thằng hưởng ứng, theo nhau đến hồ Quân Xa. Khi tắm vì sợ ướt quần áo (khi về nhà sẽ bị ăn đòn) nên bọn tôi thường sexy 100% để tắm, mãi mê với kiểu bơi chó, bơi sải, thi nhau coi ai lặn lâu hơn…. Thình lình có chú lính hét lên ”bắt mấy thằng Quỷ con ưa phá này”… hoảng hồn bọn tôi nhào lên hồ, bỏ chạy quên cả lấy quần áo… thế là cả bọn long nhong không quần áo… về cũng không được, mà núp mãi cũng không xong… bàn tính một hồi, cả bọn cử tôi vào xin lỗi để xin lại quần áo, tôi không chịu mà bắt cả bọn phải theo tôi, không còn cách nào hơn, cả bọn theo tôi đi vào xin lại quần áo, tôi đi trước, hai tay bụm cái “của nợ”, cả bọn theo sau (4 thằng) tư thế giống tôi vào xin lỗi và lấy lại quần áo. Khi gặp chú lính cả bọn tôi mếu máo xin lỗi chú, chú lính nói: ”tụi mày vô đây tắm, lỡ xảy ra chuyện gì ai chịu trách nhiệm? Hơn nữa Sếp của tao la tao vì không trông nom cẩn thận để tụi mày vào đây tắm, nhớ chưa?” Cả bọn tôi dạ… dạ… lia lịa và hứa không tái phạm. Nhưng được khoảng một tuần lại nghe ám hiệu “túc, túc a.. a”, thế là lại lên đường, Hồ Quân Xa trực chỉ, lần này cử một em giữ quần áo, canh gác cho bọn tôi tắm nếu có chuyện gì, chạy được mà không sợ bị mất quần áo như lúc trước… đôi lúc cũng bị rượt đuổi nhưng chạy thoát… văng vẳng tiếng la từ đằng sau của chú lính: ”mẹ kiếp, mấy thằng con lính Nhảy Dù này, lì lợm quá!?!?!?”. Thưa Chú Lính, cho bọn cháu gởi lời xin lỗi chú, nếu tình cờ chú đọc được những dòng chữ này. Tuổi thơ của bọn cháu trong Trại Gia Binh, nhà nghèo, con đông nên niềm vui chỉ có thế, mong chú thông cảm. Chuyện này xảy ra vào khoảng năm 1966, 1967 lúc đó tôi và các bạn khoảng 11, 12 tuổi.


    MĐ Vũ Viên
    nguồn:
    http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_LS/QLVN..._2011DEC05.htm
    Last edited by BachMa; 11-08-2018, 05:41 AM.

    Comment


    • Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần I)

      Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần I)

      LTS. Sau tháng Tư 1975 tại Việt Nam , người viết loạt bài này từng lãnh án tử hình vì bị kết tội “phục quốc.” Đúng như quẻ bói đoán trước trong xà lim tử hình, người tù được giảm án xuống chung thân, hơn 8 năm sau, giảm thành 20 năm. Rồi nhà tù ăn có chính sách đổi mới, cũng đổi mới bằng cách cho tù đi phép để thâu tiền, người tù tử hình về nhà, và duyên số...

      ***
      1. Án Tử Hình

      Tôi lập gia đình năm 1977, vợ của tôi là cô bạn học chung lớp từ thuở lớp 10. Từ tình bạn đồng môn ban đầu, hai năm sau, năm lớp 12, một ngày nọ, bất chợt nhìn thấy ở cuối lá thư của nàng nhờ bạn học lén chuyền cho tôi trong giờ học, nội dung thư cũng chỉ là những chuyện tào lao, ta ri... ta ra... của tuổi học trò như hàng trăm lá thư mà chúng tôi đã gởi cho nhau trước đó, nhưng ở cuối thư nàng lại chấm dứt bằng ba chữ mới tinh: Em yêu anh!

      Nàng đã ngỏ lời yêu tôi trước, còn tôi lại cúi đầu run run e lệ, thẹn thùng, ngoẻo đầu, cắn móng tay... chấp nhận.

      Quen nhau năm 70, yêu nhau năm 72, nhưng mãi hai năm sau ngày “bể dĩa, tan hang” tháng Tư 1975, chúng tôi mới cưới nhau tháng12-1977. Không may, duyên số của chúng tôi lại quá ngắn ngủi vì đến tháng 4-1979, khi con gái đầu lòng của chúng tôi mới 8 tháng tuổi thì cả hai chúng tôi đều bị bắt vì tội "Chặt tre, chống Trời" (Chính trị) !


      Hình minh họa

      Khi ra tòa, tôi bị lãnh một bản án kinh hoàng: Tử hình! Còn vợ tôi, tòa án xét vì cô ấy chỉ làm theo lời chồng và con gái của chúng tôi còn quá nhỏ, cần phải có mẹ nuôi dưỡng nên đã tuyên cho cô ấy một bản án tù ở bằng đúng với thời gian tạm giam cho tới ngày ra tòa, nghĩa là trả tự do ngay tại tòa ngày tuyên án.

      Trong biệt giam tử hình, tôi có một người "bạn tù" cùng mức án, đã ở trong đó trước tôi và chờ ngày thi hành án là chú Ba P. tức là Tr/Tá Đinh Văn P. .

      Sau ngày 30/4/1975, chú Ba đã không chịu ra trình diện mà còn dẫn cả một đoàn quân hỗn hợp đủ mọi quân binh chủng thuộc QLVNCH vào rừng, lập ra một chiến khu kháng chiến chống chính quyền CS.

      Hơn một năm sau, vào đầu năm 1977, khi mật khu kháng chiến bị bao vây tấn công và tan rã, chú Ba bị bắt tại chiến trường, vì mải mê chiến đấu mà quên chừa lại viên đạn hay quả lựu đạn cuối cùng cho bản thân chú!

      Vì là bạn đồng chí & đồng cảnh nên chúng tôi rất mau chóng thân thiết nhau. Chúng tôi vẫn bình tĩnh, vui vẻ sống trong một hoàn cảnh mà giờ đây khi nhớ lại, tôi vẫn còn rợn người, không thể hiểu được vì sao chúng tôi lại tỉnh bơ khi cái chết cận kề đến như vậy?

      Cho đến một ngày kia, bên ngoài nổi cơn giông. Sau một hồi sấm sét rung rinh đất trời, cơn mưa tầm tã đổ xuống ầm ầm tưởng chừng như không bao giờ dứt.

      Tôi ngồi bó gối, ngước lên khe cửa sổ tí xíu nhìn ra ngoài trời mưa gió...nhớ lại hoàn cảnh của bản thân, nhớ tới vợ con, nhớ tới gia đình...tự nhiên tôi tuôn nước mắt trong lặng thinh. Dưới ánh đèn bóng vàng vọt của cát-xô, chú Ba trông thấy tôi như vậy, ông buột miệng:

      - Sao tự nhiên chú em có vẻ nản chí như vậy, chú em có chuyện gì mà buồn vậy?

      - Sao không buồn được chú Ba, chuyện mong ước chưa thành, chưa làm được điều gì cho dân tộc mình nhờ, chưa xong bổn phận với gia đình, vợ con; mới có hai mươi mấy tuổi đầu thì bản thân cháu đã lãnh án tử, nằm chờ ngày chết ở pháp trường thì làm sao mà cháu không buồn?

      Đang nằm, Chú Ba bật ngồi dậy, nhìn thẳng vào mặt tôi chăm chú một hồi rồi ông khẽ khàng nói:

      - Chú em yên tâm đi, chú em không bao giờ chết vì cái bản án tử hình này đâu, đừng có nản chí.

      - Trời đất, tòa đã tuyên án tử mà cháu thì không làm đơn xin tha tội chết, như vậy thì nay mai, sớm muộn gì tụi nó cũng sẽ xách cháu đem đi bắn là cái chắc rồi, làm sao mà cháu không chết vậy Chú Ba?

      - Tao nói chú mầy không chết đó! Nếu muốn biết chắc chắn thì mình xích ra xa nhau một chút cho trống chỗ, tao coi cho chú mầy một quẻ là biết liền.

      Sở dĩ ông nói vậy vì chúng tôi nằm trên nền tráng xi măng, cùng bị cùm hai chân vào một thanh sắt, hai tay của chúng tôi đều đeo đồng hồ Omega (còng số 8).

      Do căn biệt giam quá hẹp, muốn có một chỗ trống giữa hai người, chúng tôi phải dọn dẹp bớt những tư trang ít ỏi, những keo hũ lọ đựng thức ăn gia đình đã thăm nuôi mới có được một khoảng trống cỡ một mặt bàn học trò mẫu giáo. Ông kêu tôi khấn vái một câu gì đi rồi nói cho ông biết, căn cứ vào đó, ông sẽ coi cho tôi một quẻ. Và tôi đã khấn:

      - Cầu xin Trời Phật, những vị khuất mày khuất mặt... cho con biết tương lai, hậu vận của con ra sao.

      Chú Ba dùng chai dầu gió Song Thập viết dòng chữ này xuống nền xi măng, khoảng trống mà chúng tôi vừa tạo ra, rồi chú gạch gạch, xóa xóa, viết ra thành một dề số chi chít, kín cả tấm bản xi măng. Sau mươi phút im lặng, nhìn vào dề số chằng chịt đó, mặt ông dãn ra, tươi hẳn lên, ông thở một cái khì như cậu học trò vừa giải đúng được một bài toán khó. Chú nói:

      - Chuyện đầu tiên tao muốn nói với chú mầy là tao xác định chú mầy sẽ không chết trẻ như vầy đâu. Mạng của chú em mầy rất lớn vì nhờ luôn có ông Quan Đế Thánh Quân với lại nhiều vị Ơn Trên phò hộ. Chú em mầy thọ ghê lắm, tới gần ngót nghét một trăm tuổi lận đó! Hồi nhỏ thì hơi khó nuôi nhưng càng già thì càng mạnh giỏi, không có bệnh tật gì tầm bậy tầm bạ như người khác đâu. Từ bây giờ cho tới đó, có bỏ chú em vô cối mà giã thì chú em cũng văng ra, sống khỏe re. Bây giờ là tháng tư âm lịch phải hông, tới tháng mười, tức là sáu tháng nữa thì chú em sẽ thấy kết quả cụ thể là chú em sẽ không chết. Rồi đó, coi như chú em biết mình sẽ còn sống dài dài. Hễ còn sống tới già thì còn rất nhiều chuyện phải lo, vậy chú em muốn biết thêm chuyện gì nữa đây?

      Không biết có phải vì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nên khi tôi quớ được lời phán tiên tri đầy lạc quan của Chú Ba, kể từ giờ phút đó trở đi, tôi trở nên phấn chấn, yêu đời hẳn lên vì tin chắc chắn vào một tương lai tươi sáng (đã thoát chết án tử mà lại còn sống dai nữa) đang chờ đón tôi. Tôi vui vẻ hỏi:

      - Vậy chú Ba cho cháu biết chuyện gia đình, vợ con cháu sẽ ra sao đi?

      Nghe tôi hỏi như vậy, Chú Ba lại cắm cúi nghiên cứu tiếp, một lúc sau, chú trầm ngâm nói:

      - Chú em mầy không có duyên nợ lâu dài với vợ con lần nầy đâu! Vợ chồng, con cái đều... khắc tử với nhau. Nếu ở gần nhau thì vợ chồng, con cái tụi bây sống chưa nát tấm chiếu là sẽ bị mất mạng đó. Con gái của hai đứa bây cũng vậy, nó khắc với cha mẹ ghê lắm. Cái số của nó là phải làm con nuôi của người ta, nó mới không gây hại số phần của cha mẹ và mới nên người được. Sau nầy khi lớn lên, nó vẫn biết chú mầy là cha của nó nhưng nó sẽ không ở chung nhà mà chạy đi, chạy về thăm chú mày thôi. Nói là con nuôi người ta nhưng những người đó cũng là ruột rà, máu mủ gần như cha mẹ ruột của nó vậy.

      (Mãi sau này, tôi mới biết tin là khi chúng tôi bị bắt, vợ chồng người anh hai của vợ tôi đã đón con gái tôi từ nhà ba má vợ tôi mang về nuôi luôn, cho tới khi gả chồng năm nó 22 tuổi. Anh chị của vợ tôi chỉ có hai đứa con trai nên yêu thương, nuôi dạy nó như con ruột, nhưng khi nó vừa có đủ trí khôn, anh chị đã cho biết nó là con nuôi và đúng ra nó phải gọi anh chị là cậu mợ!)

      - Còn vợ của chú mầy thì... nói thật chú mầy đừng buồn, thím nó không có số sống gần chồng con! Hiện thím được thả ra rồi nhưng không có ở gần để nuôi dạy con đâu. Thím nó đang bôn ba kiếm sống xa nhà lắm, rày đây mai đó, đầu đình xó chợ mới có cái ăn qua ngày. Chú mầy đừng buồn, đừng tự trách bản thân đã thiếu trách nhiệm với vợ con. Tao nghiệm trong lá số này, biết chú mày rất thương vợ con và rất nặng lòng muốn lo cho vợ con, nhưng chỉ tại vì cái số của tụi bay là như vậy đó. Trời định rồi, không cãi lại được đâu!

      Và cũng rất lâu về sau, khi gặp mặt gia đình lúc được thăm nuôi, tôi mới biết vợ tôi khi đó đang đi theo một đoàn hát cải lương nhỏ của tư nhân, bán và soát vé vào cửa, vì vậy nên không thể mang con theo mà phải tiếp tục để nó lại cho anh chị hai nuôi và dạy học cho nó.

      Anh chị hai của vợ tôi trước 75 là hai nhà giáo dạy Trung học đệ nhị cấp. Anh bị động viên đi SQ Thủ Đức, cấp bậc & chức vụ sau cùng là Đ/úy chỉ huy phó Căn Cứ tồn trữ nhiên liệu Gò Vấp, cục Quân Nhu /QLVNCH. Sau ngày mất nước, anh bị đi tù cải tạo hơn ba năm, khi trở về thì nhà cửa, cơ ngơi đã bị tiếp thu nên anh phải sống tá túc trong nhà ba má vợ tôi, ngày ngày cùng chị làm những công việc lao động không tên để nuôi sống bản thân anh chị và hai đứa con trai và con gái tôi. Sau đó anh chị bị bắt buộc đi kinh tế mới tận vùng rừng sâu, nước độc Dương-Minh-Châu, Tây-Ninh.

      Đây lại là một câu chuyện dài có dính dáng, liên lụy tới vợ chồng, cha con tôi. Xin sẽ kể lại đoạn sau này.

      Thấy tôi ngồi im lặng không hỏi thêm điều gì nữa, biết tôi đang bị nhiều điều đau đớn cào xé tâm can, chú Ba nói tiếp tới như muốn giúp tôi quên đi cái số phần quá hẩm hiu, đen đủi, oan trái của gia đình và bản thân tôi:

      - Tao nói chú mầy đừng có buồn nữa, tại số Trời đã định như vậy rồi, có muốn cãi lại cũng không được đâu mà.

      Sau ngày mất nước rồi thì còn có biết bao nhiêu gia đình khác bị rơi vô hoàn cảnh túng cùng, khổ ải hơn nhà chú mày nhiều! Tan nhà, nát cửa, mất hết vợ con, còn bị mất mạng luôn nữa, như... tao nè! Vậy mà tao có buồn đâu, số Trời đã định rồi chú ơi. Biết như vậy rồi thì chú mày hãy yên tâm, cam phận. Nếu chịu chấp nhận số phận rồi thì nghe tao nói tiếp chuyện "con vợ sắp tới" của chú mầy nè.

      Vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh tiên tri một số phận nghiệt ngã của gia đình, tôi ngơ ngác nhìn chú Ba:

      - Vợ con... sắp tới là sao chú Ba, vợ con nào vậy chú Ba?

      Chú Ba như không nghe câu hỏi ngớ ngẩn của tôi, chú cúi sát bản số tiên tri vận mệnh của tôi, tính toán một hồi thật lâu rồi nói chầm chậm, thật rõ như sợ tôi không chú tâm nghe:

      - Tao nói trước 7 điều về người vợ sắp tới của chú mày nha:

      1/ Năm 36 tuổi, chú mầy sẽ gặp người vợ thứ hai.

      2/ Con nhỏ đó là một người lai nhiều dòng máu chứ không phải người Việt "chánh nòi" đâu.

      3/ Bên cánh tay trái của nó, từ bắp vai xuống tới cùi chỏ, có một cái thẹo hay cái bớt, cái vá heo gì đó dễ thấy lắm.

      4/ Nó ở gần nhà chú mày.

      5/ Nó có quen biết gia đình gia đình chú mày, quen biết luôn gia đình cô vợ hiện nay của chú mày nữa đó.

      6/ Con nhỏ đó chủ động tới tận nhà làm quen, chứ không phải chú mày là người tấn công nó trước đâu. Cái số của chú mày có trốn trong phòng riêng đi nữa thì cũng có đàn bà, con gái tụi nó tới ... kiếm mày hà. Tin tao đi!

      7/ Hai đứa tụi bay làm đám cưới khi đang có... đại tang!

      Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi chú Ba:

      - Cháu có thắc mắc này xin chú cho cháu biết, năm nay là 1981, cháu 28 tuổi, vậy năm cháu 36 tuổi là 8 năm nữa, năm 1989 phải không? Như vậy nếu cháu "bể án" tử hình xuống án chung thân, cháu chỉ mới ở tù có 10 năm thôi (tôi bị bắt năm 1979) mà án chung thân tội chính trị thì làm gì có chuyện được tha sớm để gặp gỡ rồi cưới vợ trong năm 1989 vậy chú Ba?

      - Nếu muốn biết chi tiết như vậy thì phải tính toán thêm nhiều lắm, mà cái chỗ này viết kín mít rồi làm sao viết thêm đây? Nhưng tao cam đoan 100% năm 36 tuổi chú mày sẽ có vợ, qua năm sau nữa khi 37 tuổi, chú mày sẽ có một thằng con trai. Có... chặt đầu tao, tao cũng vẫn cam đoan đúng là như vậy.

      - Chú cháu mình án tử hình, bây giờ tụi nó xử bắn không hà, chứ đâu còn xài máy chém hay mã tấu nữa, Chú Ba?
      Cả hai chúng tôi vô tư cười lăn ra sau câu nói đùa rùng rợn của tôi...

      Sau đó, tôi cũng quên hết buồn phiền, thản nhiên chờ đợi số phận, chờ đợi có một đêm nào đó, cánh cửa sắt cát-xô biệt giam này mở ra, rít lên ken két như tiếng nghiến răng của Tử Thần, tôi sẽ bị kêu tên để mang ra pháp trường khi trời chưa mờ sáng...

      Những năm đó, án tử hình tội chính trị có nhanh gì cũng phải 2-3 năm sau khi kêu án mới bị bắn. Không phải bởi lý do gì gì khác như chờ thẩm tra lại hồ sơ, chờ cứu xét giảm án, v.v... mà mục đích chính cho chuyện "câu giờ" này là để phòng ngừa tử tội có liên quan tới một hoặc vài vụ án khác, nếu bắn sớm quá thì e rằng sẽ bị những bị can khác đổ thừa cho tử tội đã chết mà chạy tội cho mình. Chính vì vậy mà có những tử tội bị tuyên đến hai, ba cái án tử hình!

      Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Câu nói đó có thể đúng với những người tù còn mong có ngày mãn án nên mới cảm thấy ngày tù quá dài. Ngược lại, người tử tù lại thấy sao một ngày trôi qua quá nhanh, cuộc đời mình sao quá ngắn ngủi. Những ngày nằm trong cát-xô tử hình, tôi "giải trí" bằng cách cố nhớ lại quá khứ, những ngày đã qua của cuộc đời mình, từ khi mới bắt đầu có ký ức của một đứa trẻ rồi từ từ lớn lên với bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn.

      Với những chuyện đáng tiếc trong quá khứ, tôi phân tách thật chi ly mọi khía cạnh, lỗi lầm, sai sót của tôi để suy ra phương cách hành xử hợp lý nhất cho chuyện đó kết thúc thật hoàn hảo, chứ không tệ hại như trong thực tế đã xảy ra. Với những kỷ niệm đẹp, tối cố tình "chế" ra thêm, tưởng tượng ra thêm cho nó được kéo dài như bất tận....

      Cứ như vậy, tôi sống những ngày trong biệt giam mà tâm trí lại bay thoát tự do ra ngoài trời cao, không còn nhà tù, không còn phòng biệt giam tù túng, chật chội, tăm tối...không nghĩ tới ngày mai tôi sẽ còn cơ hội nhìn thấy ánh bình minh ban mai nữa hay không...

      2. Nửa Đêm Đọc Lệnh

      Cánh cửa phòng cát-xô biệt giam bật mở kêu lên ken két trong đêm khuya khu biệt giam tử hình nghe thật ớn lạnh đến rợn người...

      Tôi và chú Ba ngồi bật dậy, hai cái vòng sắt cùm chân quá chật nghiến thịt tôi tóe máu mà tôi nào có biết đau đớn gì! Đứng ngoài cửa có ba tên cai ngục áo vàng, nón cối che sùm sụp tới tận sống mũi như sợ người tử tù trông thấy mặt rồi sau khi chết sẽ hiện hồn về đòi nợ máu vậy!

      - Thằng nào "nà" Nguyễn Như Ý, đứng "nên", chuẩn bị ra ngoài, đồ đạc để "nại" đó.

      Tôi đưa hai tay, đang bị đeo còng số 8, siết chặt hai tay chú Ba, run run nói:

      - Vậy là cháu "đi" trước chú Ba rồi! Chú ở lại... mạnh giỏi nha chú Ba.

      Chú nhìn thật sâu vào mắt tôi, rất chậm nhưng thật rõ ràng, chú nói lại câu nói ngày nào mà chú đã nói với tôi:

      - Chú em yên tâm đi, chú em không bao giờ chết vì cái bản án tử hình này đâu.

      Tôi choàng hai tay qua đầu chú Ba rồi ôm siết chú, như thay thế một lời vĩnh biệt mà tôi không sao nói lên được. Đó là lần sau cùng tôi còn nhìn thấy chú Ba...

      Ba tên cai ngục dẫn tôi vào văn phòng của tay Giám thị trưởng trại giam, nơi vẫn thường làm cái thủ tục đọc lại bản cáo trạng và bản án mà tòa án đã tuyên cho tử tội nghe, cho họ ăn một bữa ăn và hút một điếu thuốc, trước khi làm nốt thủ tục sau cùng là mang ra pháp trường.

      Trong phòng đã có ba tên nữa đứng dàn thành hàng ngang, chờ sẵn trước khi tôi bị áp giải vào. Tên Thượng tá trưởng trại tay cầm một xấp giấy tờ; tên Trưởng phòng chấp pháp trước kia đã từng trực tiếp "làm việc" với tôi trong thời gian lấy cung (đúng ra phải nói là khảo cung tôi) và một tay lạ mặt vận thường phục, mà sau này tôi mới biết là Thẩm phán đại diện cho tòa án. Tên Trưởng phòng chấp pháp nhìn mặt tôi rồi xác nhận tôi đúng là phạm nhân Nguyễn Như Ý và ký vô biên bản. Tôi thầm nghĩ: "Như vậy là...xong hồ sơ mình rồi!"

      Tên Trưởng trại lạnh lùng ra lệnh cho tháo còng tay tôi rồi nói lớn:

      - Phạm nhân Nguyễn Như Ý đứng nghiêm, nghe đọc quyết định của chủ tịch nước!

      Cái đầu tôi đang trống rỗng không chút suy nghĩ, bỗng làm việc lại thật nhanh: "Sao lạ vậy ta? Mình không làm đơn xin tha tội chết, sao lại có quyết định của chủ tịch nước?"

      Tôi chưa kịp nghĩ tiếp thì tên công an trưởng trại đã đọc một hơi cái quyết định. Thật ra hắn đọc lắp bắp, cà lăm cà lặp vì đọc chữ không thông, nhiều đoạn bị ngắt quãng, im lặng do hắn phải đánh vần thầm. Nội dung cái quyết định nhắc lại tội trạng "phản cách mạng, phản lại Tổ Quốc, phản lại Nhân Dân của tôi và tôi đã bị kết án tử hình.

      Lúc đó có thể vì không còn gì để mà sợ trước cái chết đang hiển hiện chắc chắn không thể thoát khỏi, tôi tự nhiên đâm ra bực bội, nổi giận vì tên này đang kéo dài thời gian chờ chết của tôi và tra tấn tinh thần tôi vì sự dốt nát của hắn. Tôi hít một hơi dài, tính yêu cầu hắn bỏ qua những phần thủ tục rườm rà, đọc ngay cái phần quan trọng nhất cho rồi, khỏi mất thì giờ!

      "Nhưng, xét vì tên Ý chưa gây ra nợ máu với nhân dân, chưa gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho đảng và nhà nước, chưa đến mức cách ly vĩnh viễn cuộc sống (?), còn có thể được cải tạo lâu dài nên nay chủ tịch nước quyết định ân xá cho tên Nguyễn Như Ý từ án tử hình, thành án tù chung thân kể từ ngày bị bắt!

      Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và công an nhân dân tỉnh....có trách nhiệm buộc tên Ý thi hành quyết định này"..........

      Hà Nội ngày.....tháng 11 năm 1981,

      Chủ tịch nước đã ký.....

      (Tháng 11 đương lịch là tháng 10 âm lịch năm 1981)

      Tôi bị áp giải ra phòng giam tập thể ngay sau khi nghe đọc quyết định nên không thể trở về cát xô nói lời từ biệt, vĩnh biệt chú Ba, nhất là nói cho chú Ba biết lời tiên tri đầu tiên của chú cho vận mệnh của tôi là hoàn toàn chính xác.

      Sau vài tháng giam ở phòng giam tập thể, đầu năm 1982, tôi được chuyển ra miền Trung thụ hình án tù chung thân khổ sai tại trại tù A-20 Xuân Phước. Trại cải tạo A-20 này còn có tên do anh em tù nhân đặt cho nó là "Thung lũng tử thần" hay như KQ Đỗ Văn Phúc gọi, nó là "Tầng địa ngục cuối cùng".

      3. Trại tù Chung Thân Khổ Sai

      Trong trại tù A-20, tôi có quen biết rất nhiều các bác, chú, anh em đồng cảnh ngộ tù chính trị như tôi. Các vị đó gồm đủ thành phần trong chế độ VNCH từ một người Nông dân chân chất, anh Sinh viên, Giáo sư đại học, Luật sư, Bác sỹ y khoa, các vị SQ Hải- Lục- Không quân QLVNCH, các vị Bộ trưởng trong chính phủ, các Thầy dòng hay Linh mục, các Đại đức, các vị Mục sư, các vị Quản đạo Cao Đài, Hòa Hảo... Và trong số các "bạn tù" đó có vài người thân tình như linh mục Đ., đại đức T.T.S, Đ.Úy ĐPQ H.M.Q, Th/Tá Tiểu đoàn trưởng Công Binh H.Q.T... đã chấm cho tôi lá số Tử Vi. Có một điều lạ lùng là các vị đó đều nói y chang như chú Ba về người vợ trong tương lai của tôi.


      Hình minh họa

      Đọc những hồi ký của cựu tù từ trước tới nay, tôi thường thấy người ta than rằng đói khổ lắm. Điều đó ai mà không biết. Đã thế chúng tôi lại là những Tù Nhân Khổ Sai, bị án chung thân, trong khi cả nước thiếu ăn thì bọn tù no làm sao được!

      Năm 1986, nhà nước CSVN thay đổi, đi theo chính sách gọi là "Đổi mới", xã hội và kinh tế VN như đang hạn hán gặp mưa rào, ngoi ngóp hồi dương sau hơn mười một năm hấp hối. Kinh tế VN khấm khá hơn. Ngoài xã hội "có ăn" thì trong nhà tù cũng được... ăn có!

      Khoai mì lát, bo bo, cao lương đỏ, bột mì luộc... từ từ biến mất trong bữa ăn của tù nhân, thay vào đó là cơm gạo. Thức ăn mặn truyền thống "canh đại dương" (nước muối luộc rau muống) dần dần trở thành: đầu tiên là xác mắm thối kho nước muối, sau rất lâu sau đó là thức ăn mặn thật sự, dù khẩu phần rất là khiêm tốn, như cá tạp kho, thịt mỡ kho...

      Đã đi qua giai đoạn thèm rau xanh tới mức vặt sạch cả cỏ kiểng để ăn, tới giai đoạn đội trồng rau xanh gánh sản phẩm củ cải trắng, cải bẹ xanh tù-xậy... từ ngoài đồng về bếp trại, cân để lấy số liệu báo cáo rồi lại gánh thẳng ra... hố rác đổ bỏ vì không còn bất cứ ai nuốt cho nổi nữa.

      Các CA quản giáo nhận các lô đất khoán, chuyển qua trồng những loại nông phẩm thật sự có lợi ích kinh tế, nhận các ao nuôi cá, lò gạch... hay làm cai thầu nhận các đội tù nhân có tay nghề xây dựng, làm mộc ra ngoài làm thuê nhà cửa cho dân. Tù nhân đã thật sự làm giàu cho các cán bộ CA (thay vì "làm giàu" cho nhà nước) thì cách nhìn của họ đối với tù nhân cũng thay đổi, không còn cực kỳ tàn độc, bất nhân như trước... Đã có những bữa tiệc ăn nhậu thường xuyên được tổ chức trong các nhà lô của các đội với những lý do vu vơ nào đó như mừng vụ mùa bội thu, mừng cán bộ quản giáo mới tậu được chiếc xe Honda cúp (xe second hand nhập cảng từ các nước Đông Nam Á)... mà các cán bộ CA quản giáo và quản chế dẹp cất hết súng ống, ngồi bệt xuống đất chung chén, cụng ly với tù nhân.

      Quà thăm nuôi không còn khống chế chỉ có 3 kí lô nữa mà xả cảng, tùy theo khả năng của gia đình cho bao nhiêu thì tù nhân được nhận bấy nhiêu. Định kỳ thăm nuôi từ ba tháng một lần tăng lên một tháng hai lần. Một nhà thăm nuôi mới khá rộng rãi, khang trang, có vườn hoa cây kiểng rất đẹp được chia ra thành nhiều phòng riêng có giường ngủ, bàn ghế để cho các phạm nhân "cải tạo tốt" được ở lại thăm gặp gia đình, vợ con có khi cả tuần lễ, ăn gần hết quà thăm nuôi mới chịu trở vô.

      Nhà tù “ăn có” đổi mới. Bể án

      Chính nhờ chính sách Đổi mới mà đến giữa năm 1988 có một chủ trương "cách mạng" trong chính sách cải tạo là: nếu các tù nhân đã thụ án được 1/2 bản án, không có thành tích trốn trại, không bị giam kỷ luật vì phạm nội quy trại, được gia đình làm giấy bảo lãnh... thì được phép "cải tạo không cách ly xã hội", nói nôm na là được trại giam cấp một giấy chứng nhận đang cải tạo không cách ly xã hội, mang về trình CA tại địa phương cư trú rồi ở lại nhà mình, đi làm ăn kiếm sống, nuôi gia đình như một người bình thường. Hàng tháng, tù nhân phải quay về trại đổi giấy chứng nhận và đóng cho trại một số tiền, gọi là tiền công lao động đóng góp cho quỹ của trại. Số tiền này không phải là nhỏ, nhưng có rất nhiều gia đình cắn răng ăn mắm húp dòi, chắt mót, tiện tặn để mua sự tự do(!) cho chồng con, cha anh. Chính sách cải tạo không cách ly xã hội này chỉ áp dụng cho tù chính trị phạm. Các tù nhân hình sự, dù chỉ còn dăm ba tháng của bản án cũng tuyệt nhiên không được hưởng chính sách này!

      Năm 1988, tôi "bể án" chung thân xuống mức án 20 năm, sau đó được giảm thêm 6 tháng vào đầu năm 1989. Tính ra từ khi bị bắt đến thời điểm đó, tôi đã thụ hình được 1/2 bản án 20 năm. Như vậy là tôi đã lọt vào danh sách đủ điều kiện "cải tạo không cách ly xã hội".

      Nguyễn Như Ý
      https://www.facebook.com/search/top/...E1%BA%A7n%20I)

      Còn tiếp Phần II

      Comment


      • Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần II)

        Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần II)

        4. Tù Đi Phép - Vợ Con - Duyên Số

        Sau khi má tôi đứng tên bảo lãnh và qua hàng loạt những thủ tục "đầu tiên", tôi đã cầm được tấm giấy xác nhận cải tạo không cách ly xã hội do trại giam A-20 cấp, có hiệu lực một tháng và cho phép tôi... "đi lại trên khắp lãnh thổ Việt-Nam, làm ăn mọi ngành nghề mà pháp luật CHXHCNVN cho phép."

        Không thể nào viết lại được niềm vui sướng tột độ của tôi khi cầm được tấm "bùa" sẽ giúp tôi trốn trại hợp pháp này. Đúng nghĩa đen là như vậy vì nhờ có được lá bùa này, đã có mấy chục anh em tù nhân chính trị trọng án như tôi, từ trại giam A-20 trốn trại, vượt biên thoát được ra nước ngoài an toàn. Sau đó họ lại nhờ tấm giấy bùa này, có đóng mộc đỏ chét của trại giam A-20, chứng nhận họ đang là tù Phản Cách Mạng, trọng án đang thụ hình mà họ và gia đình nhanh chóng được cứu xét cho đi tỵ nạn tại các nước tự do khắp thế giới. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ lại có một cơ hội như thế cho những tù nhân chính trị, gia đình và thân nhân của họ như thế nữa!

        Tôi trở về ngôi nhà cũ của mình, nơi đã lớn lên cùng cha mẹ, anh chị em sau mười năm lưu đày biệt xứ. Đã có quá nhiều thay đổi, khung cảnh xưa nay đã gần như không còn lưu lại được mấy nên khi đứng trước con hẻm dẫn vào nhà mình, tôi cứ tần ngần, nhìn đi nhìn lại coi đã đứng đúng con hẻm nhà mình hay chưa? Tôi mở cửa bước vào nhà mà lòng nửa vui mừng, nửa hồi hộp tưởng như mình đang xâm nhập vào nhà của ai đó, vì ngay trong nhà tôi cũng đã thay đổi quá nhiều.

        Nhà trước kia rất đông người, suốt ngày rần rần, rộ rộ nên tôi không thấy nó rộng lớn, nay thì anh em tứ tán bốn phương trời, ngôi nhà vắng ngắt như tờ, chỉ còn lại thui thủi một mình má tôi nên tự nhiên sao tôi thấy nhà mình rộng lớn quá chừng, phòng đâu mà nhiều phòng quá vậy? Nhà rất rộng nhưng gần như trống trơn, không có bao nhiêu đồ đạc vì sau 75, hưởng ứng chiến dịch "Nhà sạch nhà, phố sạch phố", bao nhiêu đồ gỗ như bàn, tủ, ghế, salon đều đã bị bán sạch trơn để đổi lấy cơm gạo! Ngay cái tủ chân quỳ bằng gỗ cẩm lai thật đẹp làm tủ thờ ông bà cũng đã biến mất, thay vào đó là một cái bàn thờ chân cao bằng gỗ tạp.


        Hình minh họa

        Tôi lặng lẽ thắp mấy nén nhang dâng lên, rồi đứng lặng im nhìn những di ảnh của những người thân yêu ngày nào, nay đã không còn nữa. Sau khi bị quy tội Tư sản mại bản và tịch thu hết cơ ngơi, tài sản, mọi xe cộ cơ giới, con cái thì bị đi tù cải tạo, ba tôi phát bệnh và mất năm 1977. Ba tôi trước 75 là một nhà khai thác lâm sản và đồng thời là thầu xây dựng cho Điện Lực Việt Nam , vì vậy nên bị kết tội "công tác với Ngụy quyền Sài-Gòn". Nhưng ngay khi thấy hình ảnh má tôi đang lúi húi nấu bữa ăn chiều sau bếp, cái cảm giác lạ nhà của tôi biến mất và tự nhủ "đúng nhà mình đây rồi"!

        Má tôi biết trước là tôi sẽ về nhưng bà không biết chính xác là ngày nào nên bà rất bất ngờ, vui mừng vì thật sự đã thấy thằng Út đang đứng ngay cửa bếp, im lặng nhìn bà, nó cười rất tươi nhưng trên đôi má lại ướt đẫm hai dòng nước mắt.

        Bữa cơm chiều được dọn ra bàn nhưng hai má con không ăn mà chỉ ngồi kể chuyện, đúng ra là tôi im lặng nghe má tôi kể lại chuyện gia đình. Khi nói đến vợ con tôi, bà ngập ngừng một lúc rồi khẽ khàng nói:

        - Con gái của con vẫn đang sống với cậu mợ Hai của nó ở đâu miệt kinh tế mới Dương Minh Châu, Tây Ninh, từ hồi hai vợ chồng con bị bắt cho tới bây giờ. Nó được cậu mợ Hai dắt về thăm má mấy lần, nó cũng biết mình chỉ là con nuôi của cậu mợ và biết má là bà nội nó, nhưng khi má xin "bắt" về đây mà nuôi thì nó không chịu! Má nói về đây có trường học đàng hoàng, có tiện nghi đèn đuốc đầy đủ, tiện cho nó ăn học hơn ở vùng kinh tế mới thiếu thốn, khổ cực mọi bề... nhưng nó khôn lanh giống con lắm, nó nói rành rọt như người lớn vậy. Nó nói nó sống với Ba Má Hai từ nhỏ tới giờ nên nó thương như ba má ruột, hơn nữa là Ba Má Hai là hai giáo sư hồi xưa nên dạy cho nó hay hơn thầy cô giáo trong trường nhiều. Nó nói trong trường học cái gì thì nó học cái đó, không thiếu một môn gì nhưng không có hắc ám như trong chương trình của Nhà Nước đâu nội ơi! Ba Má Hai còn dạy con tiếng Anh, tiếng Pháp nữa đó nội, trong trường học cỡ lớp của con, họ chưa có dạy nên mấy lần con thử nói chiện bằng tiếng Anh & Pháp với mấy đứa bạn bằng (tuổi) con, tụi nó hỏng biết con nói tiếng gì hết đó nội! Mà thiệt đó con, má thử hỏi nó mấy câu chào hỏi xã giao bằng tiếng Pháp, nó trả lời nhanh như két mẹ vậy, mà lại đúng giọng Parisiène nữa chứ! Ba Hai của nó là giáo sư Pháp Anh cho mấy trường trung học lớn ở SG trước khi ổng là Đ/úy, con biết mà phải hôn?

        Thấy tôi vẫn im lặng không hề hỏi hay nói một câu gì từ đầu câu chuyện, má tôi nói tiếp:

        - Còn vợ của con thì... thì... nó chết rồi! Má nghe cậu Hai nói, vợ con sau khi ra tù, nó đi theo một đoàn hát cải lương, làm nhân viên bán và xét vé vô cửa để kiếm sống. Cách đây mấy năm, đoàn hát đang lưu diễn ở miền Trung, gặp mưa bão, nó bị sưng phổi rồi viêm phổi cấp tính gì đó rồi chết... Đoàn hát chôn nó ở ngoài đó, cả năm sau khi họ có dịp lưu diễn ở DMC, Tây Ninh mới tới nhà báo cho Ba Hai của gái con biết tin!

        Sau đó, tôi có tìm gặp anh hai của vợ tôi, thăm con gái tôi. Anh cho biết vợ tôi mất năm 1985, tại tỉnh Phú Yên nhưng cũng không biết chính xác vợ tôi đã được chôn cất tại nơi đâu. Ngay cả ngày tháng vợ tôi mất cũng không biết, nên có muốn cúng giỗ cũng không biết phải làm vào ngày nào.

        Bất chợt tôi nhớ lại lời tiên tri của chú Ba về vợ con tôi. Chú đã nói trước tám năm nhưng không sai một ly. Cái tâm trạng đau đớn, chua xót dằn xé tâm can ngày nào khi tôi nghe chú Ba tiên đoán vận mệnh cho tôi trong phòng biệt giam, bỗng bùng dậy làm đau thắt tim tôi, đầu óc tôi quay cuồng chao đảo, tự nhiên tôi thấy không ngồi vững, phải lấy hai tay bấu chặt lấy cạnh bàn. Ngày dấn thân vào con đường tranh đấu cho Lý Tưởng Tự Do, tôi đã chấp nhận ngay cả cái chết, nhưng định mệnh đã khiến tôi không chết mà lại đổ ập bao đau thương, khổ ải, ly tán... lên đầu vợ con tôi như thế này? Như vậy khi tôi thoát chết có phải là điều may mắn cho tôi?

        Suốt cả tháng sau ngày trở về, tôi cứ thẫn thờ ra vô trong nhà, có khi ngồi hàng giờ một mình trong phòng nhìn ra cửa sổ, đầu óc trống không. Rồi có khi giữa đêm khuya, tôi lấy xe chạy ra công viên Hồ Con Rùa, ngồi ghế đá, nhìn cảnh đêm khuya cô tịch không bóng người, tôi lại cảm thấy lòng mình nhẹ đi.

        Rồi từ từ tôi lấy lại quân bình tâm trí và sống trở lại với thực tế, chứ không như một người bị mộng du giữa ban ngày nữa. Tôi thấy nguy cơ sẽ có ngày nào đó bị bắt buộc quay trở lại nhà tù, giống như một con dao nhọn hoắc lơ lửng ngay trên đầu mình. Tôi vẫn còn bản án chín năm sáu tháng tù khổ sai chờ tôi trước mắt.

        Tôi cảnh báo với má tôi nguy cơ ám ảnh này, tới lúc đó má tôi mới nói là bà đã lo trước tôi nữa kia. Bà đã âm thầm kiếm đường "binh" cho tôi vượt biên, trốn thoát ra nước ngoài rồi, nhưng vì thấy tôi chưa tỉnh hồn, tỉnh vía nên bà chưa dám "bấm nút". Bà nói sẽ gởi cho tôi đi ngay chuyến nào gần ngày nhất có thể, nhưng bà còn đắn đo vì nếu chẳng may mà tôi bị bắt lại thì phen này bị tăng án là chết chắc! Trời Phật, Thánh Thần không thích chuyện lặp lại hai lần đâu.

        Từ đó, tôi đã nhiều lần vượt biên bằng ghe đánh cá, bằng đường bộ xuyên qua đất Cam-Bốt nhưng... không thoát được. Lần nào cũng bể, bị đuổi bắt quyết liệt, bị bắn hụt xém chết mấy lần! Nhưng đúng như chú Ba đã nói, mạng của tôi rất lớn nên lần bể nào cũng thoát nạn, trở về nhà bình yên vô sự. Chuỗi ngày tháng tôi cải tạo không cách ly xã hội là những chuyến vượt biên ly kỳ còn hơn trong phim nữa.

        "Tận nhân lực, tri thiên mạng" Và rồi tôi đã đón nhận cái thiên mạng an bài cho tôi: gặp người vợ thứ hai!

        Tôi không nhớ rõ ngày nào, chỉ nhớ là sau chuyến đi vượt biên hụt, trở về nằm nhà chờ... chuyến khác thì má tôi nói:

        - Con đừng buồn, con người ta có số mà. Sao má thấy con lận đận quá, trong khi mấy đứa anh em mày hễ má lo cho đi là đi một cái một hà! Hồi lúc mới trở về, mày có kể cho má nghe chuyện chú Ba nào đó có bói là mày sẽ gặp con vợ thứ hai của mày trong năm nay phải hông? Hay là tại mày chưa gặp con vợ thứ hai của mầy nên mày mới... không đi được? Dám đúng là như vậy lắm à nha! Vậy để má dẫn con xuống chợ Bà Chiểu giới thiệu cho con một con nhỏ này ngộ lắm. (Ý bà nói là đẹp lắm) Má biết nó lâu lắm rồi. Nó cũng bán ở chợ Bà Chiểu, gần sạp vải của má. Nhà nó chỉ có ba chị em gái. Chị em của nó đều chồng con lâu rồi mà nó không chịu lấy chồng, cứ ban ngày lo buôn bán rồi tối tối thả đi... nhảy đầm với bạn bè. Má hỏi nó sao gần ba chục tuổi rồi mà không chịu lấy chồng đi, nó chỉ cười rồi nói là chưa thấy ai hạp với nó hết. Biết đâu duyên số khiến nó chờ... mày đó con. À nói vậy mới nhớ, mày có nói tới vợ hai của mày là người VN lai phải hông? Con này nó cũng... lai đó con, mà lai Ấn-Độ Bom-Bai hay sao đó mà nó đẹp ghê lắm, nhất là cặp mắt nó có lông mi dài như cánh con bươm bướm dậy đó.

        Bà nói say sưa một hơi không ngưng, đến khi nhìn thấy mặt tôi nhăn nhó, bà mới khựng lại.

        - Má à, con đang lo muốn chết luôn đây nè! Đi không được cứ bị bể riết, quay về hoài, tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện khác. Hơn nữa con vẫn còn là một thằng tù chính trị trọng án, ai mà thèm hay dám quen biết với con mà má tính giới thiệu chi cho mất công? Hơn nữa nếu nó có chịu làm vợ con thì chỉ khổ thêm vì con mà thôi. Cái thân con đã lo chưa xong, còn lôi kéo thêm người khác dính vô nữa. Con không muốn làm khổ lây cho ai đâu má ơi.

        - Mày nói vậy chứ một khi thương rồi thì mày có là tù đi nữa, nó cũng thương như thường con ơi. À! Mà con nhỏ này nó cũng... vượt biên nhiều lần lắm rồi đó nha con. Nó có kinh nghiệm vượt biên lắm, bể hoài mà có bao giờ nó bị bắt đâu. Hỏng chừng số tụi bay hạp với nhau, nó sẽ... dắt con đi trót lọt thì sao? Dám đúng như vậy lắm à nha.

        Bà nói xong, phớt lờ tôi cự tuyệt, bà bắt tôi phải chở bà xuống Chợ Bà Chiểu, nơi bà có một sạp bán vải trong nhà lồng, để dọn hàng ra bán phụ bà, mục đích là có dịp giới thiệu tôi với... con nhỏ lai Ấn Bom-Bai đó.

        Xuống tới chợ, bà dẫn tôi vô khu tầng trệt nơi có nhiều quầy bán vàng bạc nữ trang, dừng lại trước một quầy khá bề thế, không thấy có ai nên bà gọi:

        - Nga ơi, con đâu rồi?

        Từ phía sau tủ kiếng, một cái đầu tóc mô-đen xù như bờm sư-tử nhô lên và... nàng xuất hiện!

        5. Những Ngày Chưa Quên

        Dù thật lòng không muốn tham gia vô cái vụ giới thiệu này chút nào và tôi có đi cũng chỉ để làm vui lòng bà già thôi, nhưng ngay trong 1% giây đồng hồ khi "đọ nhỡn" với nàng, cái PC trong đầu tôi đã ô-tô-ma-tích cho ra ngay lập tức một nhận xét tổng thể về nàng: Đẹp!

        Đúng như má tôi nói, người con gái tên Nga này có một khuôn mặt và nhất là đôi mắt rất đẹp của những người mang trong mình hai dòng máu Việt - Ấn. Cao ráo, tướng người thon thả, nước da bánh mật, ăn vận rất hợp thời trang nhưng không quá lố lăng.

        Sau khi tươi cười chào hỏi má tôi, nàng nhìn qua tôi:

        - Dì Sáu, anh đây là...

        - Thằng C. con trai út của dì đó con! Cái thằng mà dì đi thăm nuôi nó ngoài miền Trung hoài đó. Nó về rồi nè.

        Quay qua tôi, bà nói:

        - Con nhỏ này là con Nga mà má nói với con đó! Nó bán gần sạp vải của má, nó mua hàng vải của má hoài nên quen, xuống nhà mình chơi... tứ sắc với má cho vui rồi nó chơi thân với con Điệp nhà mình luôn (Điệp là em gái út của tôi). Hai đứa tụi nó rủ nhau đi chơi chung hoài à.

        Nàng cười với tôi rất tươi:

        - Em mừng cho anh. Anh về lâu chưa, sao em gặp dì Sáu hoài mà không nghe dì nói chuyện anh được về, nếu biết thì em đã xuống nhà bắt dì Sáu mở party ăn mừng rồi.

        Chuyện buồn của vợ con vẫn còn sâu nặng và chi phối tinh thần tôi chưa nguôi ngoai. Đã mang mặc cảm tự ti nặng chình chịch trong lòng, nay lại bị bà già giới thiệu cho một cô chủ tiệm vàng xinh đẹp, tôi lại càng bị sốc nặng hơn nữa. Dù rằng gia đình tôi cũng không thua kém gì gia đình nàng, còn có phần nhỉnh hơn nữa kia. Các anh chị em tôi đều ở nước ngoài, còn lại mỗi mình tôi thì "giàu út ăn, nghèo út chịu". Nhưng bản tánh tôi rất độc lập, từ nhỏ đã không muốn lệ thuộc hay ỷ lại vào bất cứ ai, kể cả cha mẹ hay gia đình. Bất chợt tôi thầm nghĩ tôi giống như một tên lưu manh, đang âm mưu đào mỏ vàng với cả hai nghĩa trắng lẫn đen luôn.

        Suy nghĩ như vậy nên tôi chỉ ậm ừ trả lễ một cách miễn cưỡng với nàng cho phải phép lịch sự tối thiểu, rồi tôi tảng lơ qua các quầy hàng khác.

        Biết ý tôi nên sau vài câu xã giao với nàng, má tôi từ giã để kêu tôi vào dọn hàng phụ với bà bên sau nhà lồng. Trong khi hai mẹ con đang bày hàng, bà nói:

        - Con Nga này ngộ lắm nha. Nhà nó ở gần nhà mình, kế bên rạp xi-nê-ma Đại Đồng đó. Nó có mua bán qua lại với bên nhà của vợ con ở gần nhà nó, nên nó có quen biết vợ con nữa mà. Không biết nó có duyên nợ gì với con hay không mà có nhiều lần nó xuống nhà mình chơi, thấy má đang nấu nướng đồ ăn hay đi mua sắm ba món đồ khô để chuẩn bị đi thăm nuôi con, thì tự nhiên nó cũng nhào vô bếp phụ xào mắm ruốc (cái món này ăn thì ngon mà làm thì cực lắm, lại quến mùi vô tóc hôi hám, tắm gội hai ba lần cũng còn mùi nữa đó) rồi kho thịt kho khô, làm thịt chà bông... lại còn đi mua kẹo bánh đủ thứ để gởi cho con nữa đó. Có một lần nó đòi đi theo má ra Xuân Phước thăm con nữa chứ. Má cản không cho nó đi vì đường xá xa xôi, đi về phải mất mấy ngày cơm hàng cháo chợ, cực khổ tội cho nó. Má phải giả bộ hù nó, nói không phải thân nhân thì họ không cho vô thăm đâu, nó mới thôi không đòi đi theo nữa. Mà nó chỉ thân quen với má và con Điệp thôi, chứ nó có biết mặt mũi của mầy ra sao đâu.

        Biết là má tôi đang "châm" vô thêm nhưng tôi vẫn nín thinh không có ý kiến, ý mối gì hết. Vì thấy tôi hoàn toàn vô tâm, không để ý gì tới "con nhỏ Nga" nên sau đó hàng mấy tháng trời, má tôi không nhắc tới tên nàng với tôi, dù tôi biết rằng hàng ngày nàng vẫn gặp mặt má tôi và thỉnh thoảng có cùng bà đi hành hương chùa chiền, hoặc cùng bà làm từ thiện ở các trại tế bần, trại nuôi trẻ mồ côi nào đó. Sau khi tôi coi mắt nàng rồi trở về nhà, thì nàng cũng không còn lại nhà chơi đánh bài tứ sắc với má tôi nữa.

        Cho tới một buổi chiều, tôi còn nhớ rõ lắm, một buổi chiều thứ bảy thật đẹp... Tôi đang ăn cơm chiều với má thì nàng dẫn đứa cháu, con của em gái nàng, bước vào chào hai má con tôi rồi rất tự nhiên, nàng bồng đứa cháu cùng ngồi trên cái võng mắc gần bàn ăn, nói chuyện với má tôi, sau khi từ chối lời mời ăn cơm vì... “con mới ăn xong ở nhà.” Nàng liếng thoắng kể câu chuyện phim "Dòng sông ly biệt" của Quỳnh Dao do hai diễn viên Tần Hán và Lưu Tuyết Hoa thủ vai chính cho má tôi nghe (Trời đất! Chuyện đã hơn hai mươi năm rồi sao tôi lại còn nhớ kỹ chi tiết quá như vậy cà? Phim Tàu, diễn viên Tàu không phải là cái gu của tôi mà. Hay là vì đó là "Định mệnh đau buồn khó quên" chăng? Mong sao nàng đừng đọc được bài này, nhất là đọc được câu tự nhủ đó của tôi thì... hậu quả sẽ thật không lường cho tôi).

        Trong khi nàng kể rồi sau đó cùng bình phẩm truyện phim với má tôi, thì tôi vẫn im lặng lắng nghe chứ không hề góp vô một lời nào. Tôi thầm nhận xét kể ra thì cô nàng này ăn nói rất có duyên. Kể chuyện phim thuộc loại bi kịch mà lại có thể khôi hài hóa, khiến má tôi cười ngặt nghẽo (còn tôi cố làm nghiêm nhưng có lúc nín không nổi, cũng phải tủn tỉm cười theo) thì quả là nàng rất có khiếu hùng biện và vui tính.

        Thấy tôi đã ăn xong từ lâu nhưng không rời bàn mà còn trầm ngâm, đăm chiêu bên ly nước, nàng quay qua... tấn công tôi:

        - Anh C. ít nói quá hén dì Sáu. Từ khi anh về tới giờ cũng đã khá lâu rồi mà em nghe dì Sáu nói anh gần như không đi chơi ở đâu, hay có quen với ai hết. Sao vậy anh? Tù túng lâu ngày quá rồi, bây giờ có được chút tự do thì mình phải tận hưởng đi anh!

        Không đợi tôi trả lời, nàng tỉnh bơ cười lém lỉnh, tấn công tôi tới tấp:

        - Em nghe dì Sáu kể hồi xưa anh... bay bướm ghê lắm, nhiều đào nhất nhà mà phải hông? Dì Sáu nói hồi đó anh ghiền khiêu vũ lắm phải hông? Vậy để hôm nào em mời anh cùng đi chơi với tụi bạn em nha. Dancing của Caravelle có ban nhạc chơi xây tua rất hay, lại còn chơi đèn màu đúng theo điệu nhạc nữa. Chắc là anh sẽ thích lắm vì đúng gu hồi xưa của anh chứ không rầm rầm, tán loạn như mấy tụi nhóc bây giờ đâu anh. Nếu anh không có bận công việc gì thì sáng mai, em... mời anh đi uống cà phê với em nha. Quán cà phê Hồng ở Đinh Tiên Hoàng rất ngon mà khung cảnh, trang trí bên trong dễ thương lắm đó.

        Một cô nàng ngộ như vậy, khả ái như vậy, thân thiện như vậy mà lại ngỏ một lời mời chân thật như vậy, thì bụt trên bàn thờ cũng phải... phóng xuống chứ huống hồ gì là tôi.

        6. Lời Tiên Tri Thành Sự Thật

        Sáng hôm sau, như lời đã mời, nàng chạy xe tới nhà đón tôi ra quán cà phê Hồng thưởng thức. Quả thật, khung cảnh và trang trí của quán rất dễ thương như nàng nói khiến cho ly cà phê đã ngon lại càng ngon hơn. Khi vừa nhấm nháp vài hớp cà phê thì bên ngoài trời đổ mưa. Tôi có rất nhiều kỷ niệm có liên quan tới "chủ đề mưa" nên trong khi nàng nhỏ nhẻ kể chuyện gia đình nàng thì tôi lơ đãng nghe nhưng trong lòng lại bay bổng về những khung trời kỷ niệm...

        “...Ông nội em là người Ấn. Ông qua Cam-Bốt làm ăn và cưới bà nội em là người Cam-Bốt lai Tàu, sinh ra ba em. Ba em bỏ xứ qua VN sinh sống tại Long An và gặp má em tại đó. Như vậy là em lai tới 4 dòng máu lận đó anh..."


        Hình minh họa

        Ngoài trời, một tiếng sấm nổ vang rền khi nàng vưa nói dứt câu... Tôi bàng hoàng sực tỉnh, không phải vì tiếng sấm mà chính là do câu nói cuối của nàng. Chỉ trong tích tắc, tôi vụt nhớ lại chú Ba với 7 điều tiên tri của chú. Tim tôi tự nhiên đánh dồn dập làm tôi muốn ngộp thở. Tôi hít một hơi dài để giữ bình tĩnh rồi hỏi nàng một câu chẳng ăn nhậu gì với câu chuyện nàng vừa kể:

        - Hình như bên tay trái của em, từ vai xuống tới cùi chỏ có một cái thẹo hay bớt hoặc là một cái vá heo gì đó phải hông?

        Với đôi mắt mở to nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, nàng hỏi lại:

        -Sao anh biết hay quá vậy?

        Nói xong, nàng vừa vén cái tay áo mô-đen dài rộng đang che tới cổ tay nàng lên tận bả vai vừa nói:

        -Hồi nhỏ em trồng trái (chủng ngừa bệnh đậu mùa) bị làm độc lan rộng ra, khi lành lại thành một cái thẹo tròn quay như đồng tiền nè!

        Tôi không trả lời câu nàng hỏi mà lại nhìn trân trân vào cổ áo chữ V của nàng: một mảnh vải tang màu đen nhỏ xíu đang đính trên đó.

        Chiều tối qua, nàng đong đưa trên cái võng hơi xa nơi tôi ngồi, lại còn bị thằng cháu nàng đang bồng che mất nên tôi nào thấy được nàng đang để tang. Hơn nữa, nàng hay mặc áo tuy mô-đen nhưng chỉ có các hoa văn đen trên nền vải trắng, phải ngồi gần và để ý, tôi mới thấy mảnh vải tang có chút chíu rất... mô đen này. Sau khi tôi hỏi, nàng cho biết đang thọ tang ba nàng từ hơn một năm qua. Còn má nàng đã mất từ khi chị em nàng còn bé.

        Như một người đang mộng du đột ngột tỉnh giấc và cực kỳ tỉnh táo đầu óc, tôi bàng hoàng thầm "kiểm kê, đối chiếu" 7 điều tiên tri số mệnh của tôi với thực tế trước mặt:

        ..." Năm nay mình 36 tuổi... con nhỏ này lai nhiều dòng máu... ở gần nhà và có quen biết cả hai nhà mình và người vợ đã mất của mình... tay trái có một cái thẹo... mình đang ở nhà thì con nhỏ này tới làm quen... Trời đất ơi! Như vậy chỉ còn thiếu điều thứ 7 nữa là hai đứa sẽ làm đám cưới khi đang có đại tang là không sai một lai nào hết"...

        Có bao giờ ai đó đã gặp một tình cảnh tương tự như tôi chưa?

        Mới lần đầu tiên đi uống cà phê nghe nhạc với nhau chưa được nửa tiếng đồng hồ, trong lòng chưa hề dấy lên một tí xíu tình cảm nào chứ đừng nói chi tình yêu mà đã biết chắc chắn 100 % người bạn gái sơ giao này sẽ là người vợ "thiên định" của mình rồi.

        Trên đời này chúng ta phải công nhận là có những sự trùng hợp ngẫu nhiên rất bất ngờ, nhưng với câu chuyện của tôi thì phải nói là cực kỳ hiếm, có một không hai với xác xuất tiệm cận Zê-rô. Không ít trường hợp các quý bạn nam nhi vừa gặp "nửa kia của đời mình" là bị tiếng sét ái tình giáng cho một nhát choáng váng đến nỗi tối tăm cả... lý trí và "hạ quyết tâm" phải chiếm hữu vĩnh viễn cho bằng được nàng cho riêng đời mình và họ đã thành công. Nhưng xin quý vị công tâm xét trường hợp của tôi thử xem đúng là có một không hai hay không?

        - Anh ! Có chuyện gì mà anh có vẻ lo lắng quá vậy anh?

        Tôi giật mình, bối rối, không biết nói sao cho nàng tin tôi đây và có nên nói hay không? Chỉ mới sơ giao mà lại đi nói một chuyện "thần thoại" như vậy với người bạn gái có phải là thời điểm thích hợp hay không? Ngay chính tôi cũng không muốn nói một tí gì cho nàng vì tuy biết trước "tương lai hậu vận" của nàng và tôi sẽ ra sao, nhưng tôi cần có thêm thời gian để tìm hiểu rất nhiều về nàng trước khi tôi xuôi tay, nhắm mắt, phó mặc đời mình cho định mệnh và duyên số đẩy đưa.

        "Tận nhân lực, tri thiên mệnh". Đã biết con người có số thiên định rồi nhưng không có nghĩa là cứ nhắm mắt, há miệng chờ sung. Vận mệnh nằm trong tay ta.

        Lòng đã quyết định như vậy nên tôi kiếm chuyện đánh trống lảng cho qua luôn, không nói gì với nàng hết.

        Xong buổi cà phê, trở về nhà, khi tạm biệt nhau, nhìn nàng chạy xe đi mà tôi cứ bồi hồi nhìn theo, lòng tự hỏi... con nhỏ Nga đó sẽ là vợ mình sao ta?

        Sao lại có thể như vậy được?

        Nguyễn Như Ý
        https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

        Còn Tiếp Phần III

        Comment


        • Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần III)

          Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần III)

          7. Lễ Hỏi Để Vượt Biên

          Một người con gái như Nga đâu phải quá khó kiếm một tấm chồng, tại sao bao nhiêu năm qua vẫn chưa tìm được? Chị và em của nàng đều đã lập gia đình từ năm họ 18, 19 tuổi. Còn lại có một mình nàng, đã gần ba mươi rồi mà vẫn cứ phây phây rong chơi với cuộc đời độc thân vui tính. Lúc đó tôi chưa biết là có rất nhiều quý ông cộm cán, có cơ ngơi, vai vế địa vị trong xã hội đã và đang rắp tâm bắn sẻ trái tim nàng (vài người trong số đó là bạn bè rất thân của nàng từ thời còn đi học chung lớp, chung trường) nếu biết được như vậy, chắc là tôi sẽ còn thắc mắc ghê hơn nữa cho một câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.

          Ngoài ra, còn có một người nữa, đó là chính nàng. Mãi về sau, khi đã là vợ chồng rồi, nàng mới chịu nói cho tôi biết lý do vì sao nàng đã chấm tôi... trúng tuyển, mà lại còn chấm rất lâu, trước khi tôi trở về nhà và gặp nàng kia. Xin được dành câu trả lời này cho phần sau của bài viết sẽ phù hợp hơn.

          Nói thật với quý bạn, chính là xuất phát từ thắc mắc và tò mò muốn biết câu trả lời cho câu hỏi đó mà tôi đã bặm gan, liều mạng cho... tới luôn bác tài. Chứ lòng tôi vẫn chưa hề có một chút xíu nào gọi là phải lòng nàng, dù sau buổi cà phê kéo dài hết cả buổi sáng hôm đó, tôi đã thấy nàng có nhiều quan điểm, sở thích khá là phù hợp và tương đồng với tôi.

          Tôi đã gia tăng cường độ giao tiếp với nàng bằng vô số cuộc hẹn hò đi cà phê, xem ci-né, dancing... thậm chí còn đi coi khỉ trong Thảo-cầm-viên nữa, bất cứ lúc nào có thể. Và kết quả là các bạn bè cũ của nàng bắt đầu thắc mắc và than phiền là nàng đã quên họ và xé lẻ đi chơi riêng với ai đó, mà hỏi thì nàng dấu biến không nói. Vì trước kia, nàng luôn luôn có mặt và là MC, là cây đinh trong các cuộc tiệc tùng, vui chơi nên vắng nàng là bạn bè biết liền.


          Hình minh họa

          Cho tới một buổi tiệc sinh nhật của một cô bạn thân tổ chức tại nhà riêng, nàng mới chịu dẫn tôi đến ra mắt bạn bè. Tới lúc đó tôi mới biết bạn của nàng ngót nghét quân số của hai đại đội.

          Với bạn gái đã đành, đối với bạn trai hay kể cả vợ hay chồng của bạn cũng vậy, nàng đều xưng hô mầy tao hết ráo. Chính vì vậy nên khi thấy vài người bạn trai thay đổi cách xưng hô, nàng đốp chát liền:

          - Chaa.a.a... hôm nay mầy thành người lớn hồi nào dzậy? Cứ Nga Nga với mình mình hoài! Sao không đổi luôn thành anh anh, em em như tao với anh C. luôn đi. Rớt mặt nạ rồi nha con. Nhưng mà mầy chạy đua không kịp với ảnh đâu con ơi. Chờ kiếp sau nộp đơn đi con...

          Khi chỉ còn tôi với nàng, tôi hỏi vì sao nàng lại đốp chát thẳng tay với bạn bè như vậy thì nàng nói:

          - Mấy đứa đó là bạn học với em từ hồi nhỏ, rất là thân, nhưng khi lớn lên, đứa thì đi CA, đứa thì làm cán bộ. Tiền bạc, địa vị thì có nhưng tụi nó bị đỏ rồi, chơi không vô. Em ghét tụi nó vì tụi nó cơ hội chủ nghĩa lắm.

          Tôi lại biết thêm một quan điểm sống của nàng.

          Có hôm, tôi xuống nhà nàng chơi mà không báo trước. Thấy nhà đang được sơn phết, chà rửa, trang trí lại để chuẩn bị mở thành nhà hàng ăn uống. Tôi đi ngang qua nhóm nhân công, thợ thuyền đang làm việc để lên lầu tìm nàng mà không để ý, khi nghe tiếng nàng gọi giật ngược lại, tôi mới thấy nàng mặc một bộ đồ lao động cũ mèm, không biết mới tìm ở đâu ra, đang... bò càng trên nền nhà, chà rửa chí chạp như một công nhân vệ sinh rành nghề vậy.

          Trong khi chờ nàng lên phòng riêng tắm gội, thay quần áo để đi với tôi, mấy cô bé giúp việc nhà của nàng... nhiều chuyện với tôi, tôi mới biết nàng sống rất hòa đồng với người ăn, kẻ ở trong nhà.

          - Chị Ba (nàng thứ ba) hay phụ giúp tụi em làm việc nhà lắm. Chỉ hay xuống bếp ăn cơm chung với tụi em, chỉ nói ăn chung để giỡn với tụi em cho vui nhưng tụi em biết chỉ muốn coi tụi em ăn uống có bị thiếu thốn hay không. Chỉ cứ cho thêm tiền đi chợ để mua thêm đồ ăn cho tụi em hoài à.

          Biết thêm một đức tính của nàng, ngày qua ngày, tôi... phải lòng nàng lúc nào cũng không hay biết, chỉ biết rằng tôi khó mà tìm được một người nào khác ngoài nàng ra để nâng bóp, lục túi cho tôi.

          Và rồi trước khi nàng dẫn tôi đi trốn trại bằng ghe đánh cá, hai gia đình đã quyết định làm lễ hỏi cho chúng tôi. Hai ngày trước lễ hỏi, gia đình nàng đã làm lễ xả tang cho nàng. Trong lễ hỏi, cả hai gia đình lại quyết định thông báo rộng rãi cho bà con biết là tháng 12 âm lịch sắp tới, sẽ làm lễ cưới cho đôi trẻ bền duyên giai ngẫu.

          Ngay tối hôm lễ hỏi, nàng mở party tại nhà khi đó đã thành nhà hàng Thiên Hồng, Bình Thạnh để khoản đãi bạn bè. Khi nàng đang trong nhà tắm, nhờ tôi lấy dùm cái jupe soirée trong tủ áo. Tôi bất ngờ đến hoảng hồn, xém một chút là té xỉu khi trông thấy hai bộ võ phục đã bạc màu, một của Tae Kwon Do với đai đen... ba gạch (Tam đẳng) và một của Thiếu Lâm Bắc Phái với... Bạch Đai Sư Tỷ!!!

          Khi tôi hỏi thì nàng mới ngỏn ngoẻn cho tôi biết nàng là Huấn luyện viên Tae Kwon Do và Thiếu Lâm của Trung Tâm Thể Dục & Thể Thao quận Bình Thạnh lâu lắm rồi... " Nhưng năm ngoái khi ba mất, em buồn quá nên thôi, không đi dạy nữa". Tới lúc đó tôi mới tá hỏa khi nàng cho tôi biết là trong các buổi party, có những người bạn gọi nàng là Sư Tỷ, những người bạn đó nguyên là võ sinh đệ tử của nàng trước kia.

          Tại sao một tên tù tử hình ví dám làm chuyện "Đòi đội đá vá Trời", mà khi biết hôn thê của mình là một "Sư Tỷ" Thái Cực Đạo & Thiếu Lâm lại hoảng sợ muốn xỉu?

          Như đã kể, tôi bẩm sinh rất nhát gái. Nhưng Trời cho cái số phận tiền định là luôn luôn được (bị) các vị tiểu thư... chiếu tướng. Mà tôi thì không nỡ phụ lòng người, nên nếu phu nhân tôi là một cao thủ võ lâm như vậy, sớm muộn gì cũng có ngày sẽ phải trả giá đắt, rất là đắt cho cái tánh nhân ái của tôi.

          Xin thú thật là cho tới ngày tôi làm đám hỏi với nàng, nàng đã phải cất công "Bình Nam, Phạt Bắc" loại bỏ khỏi vòng chiến đấu... 4 con yêu nữ đã đeo theo rù quến tôi (Nguyên văn lời nàng nói, chứ tôi tuyệt nhiên không bao giờ dám cả gan xúc phạm bất cứ ai, nhất là các tiểu thư).

          Nguyên do sạp vải của má tôi tuy không lớn lắm nhưng rất nổi tiếng vì thường hay có hàng độc, từ vải vóc cho tới mỹ phẩm, nước hoa .v.v. ở nước ngoài gởi về (của 6 anh chị em tôi gởi cho má tôi. Năm 1989 vẫn còn cấm gởi USD và các thứ ngoại tệ về VN nên người ở nước ngoài phải gởi quà về cho thân nhân ở VN bán lấy tiền chi dùng). Mà nơi nào có vải vóc, lụa là, y trang đẹp và độc đáo... là có các quý tiểu thư thường xuyên lui tới.

          Một tháng má tôi nhận được ít nhất là 3 thùng hàng. Bà thông báo cho các mối quen tới tận nhà để họ chọn lựa trước khi má tôi mang ra chợ bán. Bởi lý do đó nên nhà tôi luôn luôn nườm nượp bóng dáng giai nhân.

          Má tôi ra chợ bán vào buổi sáng, chiều nghỉ nên bà chỉ tiếp mối quen vào buổi chiều tối tại nhà. Ấy vậy mà từ khi tôi trở về, các mối quen lại hay đến nhà tôi vào... buổi sáng, dù biết rõ ràng là chỉ có mình tôi ở nhà, để hỏi mua đủ thứ hằm bà lằng trên đời, những thứ tối cần thiết cho người phụ nữ. Và trong một hoàn cảnh như thế, tôi sẽ không cần phải thề độc để các bạn tin tôi là đã có rất nhiều lần, các mối quen này thử các món phụ tùng rất độc... địa như các sản phẩm Victoria’s Secret... ngay tại chỗ, ý tôi nói là vào phòng khác để cởi ra, bận vào. Nhà tôi có rất nhiều phòng ngủ bỏ trống từ khi anh em tôi đi nước ngoài, và nhờ tôi ngắm dùm coi có vừa vặn, đẹp đẽ hay không? Chưa bao giờ tôi lại thấy nghề bán vải vóc, mỹ phẩm và y phục của má tôi lại hạp với tôi đến vậy.

          Và chính là do không muốn tôi phải chịu cực, chịu khổ buôn bán, tảo tần phụ má tôi nên ngay sau khi vừa làm lễ hỏi xong, nàng đã xin phép má tôi cho nàng được gánh vác toàn bộ sinh kế của gia đình nhà chồng. Má tôi không cần phải ngồi sạp vải nữa, cứ dành trọn thời gian Ở NHÀ (xin nhấn mạnh hai chữ ở nhà. Coi như nàng nhờ bà làm... vú em trông coi, canh chừng tôi dùm cho nàng) mà điều binh khiển tướng tứ sắc cho vui thú tuổi già.

          Cái sạp vải muôn vàn kính yêu của má tôi, cái sạp vải đã từng nuôi sống tôi trong tù và nó vừa mới dạy cho tôi chớm biết thế nào là tình yêu lao động, cần cù tảo tần buôn bán... được nàng công khai tuyên bố với các mối quen là: Dẹp tiệm ! Nàng còn ngăn ngừa hậu họa bằng cách xin các anh em tôi không cần gởi quà về cho má tôi nữa, vì đã có nàng xung phong tự nguyện gánh vác giang san nhà chồng rồi.

          Cuối cùng, nàng xin phép má tôi cho nàng mua lại hết số hàng vải, mỹ phẩm, ba cái thứ Victorias Secret ác ôn... còn tồn kho mà tôi chưa kịp bán dùm má tôi để nàng nhổ cỏ tận gốc.

          Nàng thì như vậy đó còn tôi thì lại như đó vậy, thử hỏi làm sao tôi không chết điếng khi biết nàng tuy nhỏ nhỏ mà lại giỏi võ.

          Nhưng tôi đã lầm, nàng sẽ dùng bạo lực để trừng trị tội ăn vụng, cơm nhà không ăn mà đi ăn phở. Mỗi lần tôi bị Tam hợp chiếu, tôi nhiếm kín đến nỗi nàng không bao giờ biết được. Nhưng chính cái tánh thùy mị cùng những chăm sóc, yêu thương chồng, một lòng cung cúc lo cho gia đình hết mực của nàng luôn làm tôi tự cảm thấy ăn năn, hối hận vì đã lừa dối nàng, không xứng đáng với nàng... "Anh ơi, anh nhớ... anh ơi đừng quên... anh ơi trưa nay về ăn cơm nhà nha anh, em có nấu món ăn mà anh thích đó nha...".

          Nàng vẫn hồn nhiên vô tư tin vào tôi tuyệt đối và tận tụy chăm lo cho tôi từng ly từng tí, trong khi cái thằng tôi đốn mạt lại nỡ nhẫn tâm lừa dối nàng. Chịu không nổi sự ray rứt, cào xé của lương tâm, tôi đã quyết định hồi chánh, tự thú tất cả tội lỗi của tôi, xin nàng tha thứ và thề (lời thề cá trê chui ống cống) sẽ không bao giờ tái phạm nữa trước ánh mắt, thoạt đầu là mở to ngơ ngác vì bất ngờ, rồi sau đó là nhạt nhòa lệ đẫm đôi mi... Nàng chỉ khóc và khóc nức nở thôi chứ không hề bao giờ đay nghiến, nói nặng một lời nào với tôi chứ đừng nói chi tới chuyện "xử đẹp" tôi bằng bạo lực. Nhưng chính nhờ nàng cư xử như vậy nên nàng mới... gông cổ, túm dây cương con ngựa bất kham tôi được tới ngày hôm nay.

          Sau chuyến vượt biên... hụt, hai chúng tôi từ Cà Mau vừa trở về đến nhà tôi chừng mươi phút, thì thấy tên cán bộ quản giáo của tôi lù lù đứng trước cổng nhà bấm chuông inh ỏi. Tim tôi đau thắt lại vì biết ngay sẽ có tin dữ đến với tôi.

          Tháng đầu tiên là thời gian thử thách, tôi phải đi trở ra trại A-20 đổi giấy phép hết hạn để lấy giấy phép khác. Sau lần đó là cứ ngày 20 tây hàng tháng, tên quản giáo sẽ vô SG, đến từng nhà trong nhóm anh em tù nhân cải tạo tại địa phương cư trú để thu tiền hụi chết. Nhưng hôm đó mới có 5 tây mà hắn xuất hiện đột ngột như vậy là tôi biết ngay có chuyện chẳng lành rồi.

          8. Tiếp Tục Vô Tù

          Quả là đúng như vậy! Hắn nói vì có thanh tra đột xuất nên trại phải thu gom tất cả các tù nhân đang cải tạo không giam giữ trở về trại gấp. Vừa nghe hắn tuyên bố như vậy, nàng nấc lên một tiếng rồi ôm chặt tôi khóc nức nở, còn tôi chỉ biết đứng chết lặng, lòng đau như cắt theo từng dòng nước mắt tuôn rơi như mưa của nàng. Hắn cười giả lả rất giả tạo, rồi gượng gạo nói:

          - Không có dzì đâu, chuyện thường í mà. Chỉ mất mươi hôm thôi rồi sau khi thanh tra xong, đâu nại vào đấy. Anh C. sẽ trở về nhà như thường nệ thôi. Chị đừng có no!

          Ngày 4/ 6/1989 xảy ra sự kiện Thiên An Môn bên Trung Công, tưởng đâu rằng anh em tù chính trị chúng tôi sẽ bị gom bi về trại để phòng ngừa một chuyện tương tự sẽ xảy ra ở VN. Nhưng rồi lần đó sóng êm biển lặng.

          Ngày 9/11/1989, Bức tường ô nhục Bá-Linh sụp đổ lôi kéo theo hàng loạt biến động tại Đông Âu và Liên Xô. Bên VN, trông thấy tình hình các nước XHCN anh em đang hấp hối, chính quyền HN lập tức tung ra hàng loạt đối sách để phòng ngừa hiệu ứng Domino Dân Chủ lan sang VN. CA cơ động (cảnh sát dã chiến) được thay màu áo rằn ri dữ dằn, trang bị nón sắt, khiên và dùi cui... đứng đầy các ngã tư đường của các thành phố lớn, nhất là Sài Gòn và ngay cả Hà Nội.

          Tôi đã biết ngay là cái quãng thời gian thần tiên thơ mộng của tôi và nàng sẽ chấm dứt. Cái bản án chín năm sáu tháng tù khổ sai lại hiện hình ra trước mắt tôi như một tên ác thần không sao tránh khỏi nanh vuốt của hắn. Tôi đã cố hết sức vùng vẫy để hòng thoát thân bằng những cuộc vượt biên đầy cam go, hiểm nghèo với nàng nhưng chạy đàng Trời cũng không khỏi số.

          Sau cơn xúc động, tự nhiên tôi thấy nàng trở nên bình tĩnh dị thường. Với một khuôn mặt lạnh như băng, nàng trầm giọng nói nhỏ với tôi:

          - Anh vô phòng thu xếp quần áo, đồ đạc vô vali đi. Để em ở đây nói chuyện với thằng nầy một chút.

          Nhìn gương mặt kỳ lạ và nhất là đôi mắt của nàng, đôi mắt to rất đẹp với đôi hàng mi cao vút đã biến thành đôi mắt cá chết của những giai nhân máu lạnh trong các phim Hollywood mà tôi đã xem. Tôi hoảng hồn đến lạnh người, toàn thân nổi gai ốc vì đoán biết nàng chuẩn bị nói chuyện gì với tên CA quản giáo của tôi.

          Tôi đã được nàng cho xem những tấm hình kỷ niệm chụp lúc nàng thi lấy bằng Huấn luyện viên Tae-Kwon-Do, nên tôi biết cái cần cổ của tên CA quản giáo không thể nào cứng hơn cả một chồng gạch nén Đồng Nai rắn như đá, mà nàng đã dùng cạnh bàn tay chém đứt làm hai được. Hắn có lận khẩu K-54 sau lưng nhưng chắc chắn là không bao giờ nàng cho hắn có cơ hội rút súng ra đâu. Chính nàng cũng biết hắn có súng nên nếu nàng có ra đòn, chắc chắn phải là một đòn duy nhất hạ gục hắn ngay tức khắc, mà hắn không kịp phản ứng: Đòn chết!

          Tôi chụp lấy hai vai nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhỏ thật nhanh trong hơi thở dồn dập:

          -Không được đâu em! Đừng làm vậy. Còn một thằng nữa là của CA quận BT đi theo hỗ trợ cho nó, đang ngồi trong quán nước ngay trước cửa nhà mình nè. Hồi nãy ra mở cửa cho nó vô anh thấy. Nhà mình không có cửa sau, không thoát được đâu. Hơn nữa, chuyện anh đã làm, anh chịu. Anh không muốn em vì anh mà bị dính vô làm liên lụy tới em đâu.

          Khi nghe tôi nói như vậy, toàn thân đang vận công căng cứng của một võ sư từ từ mềm nhũn ra, nàng lại ôm chặt rồi vùi đầu vào ngực tôi, khóc mướt trong uất hận.

          -Eo ơi ! Hai anh chị mới yêu nhau mà khắn khít quá nhẩy! Chị yên tâm đi, anh C. chỉ đi vài ngày rồi nại quay về với chị ngay í mà.

          Tên quản giáo vừa nói vừa cười rất xỏ lá mà không hề biết là Tử Thần vừa mới lướt qua sát đầu hắn.

          Cũng cái kiểu nói đó, cũng luận điệu xảo trá đó mà tháng 6/1975, mấy trăm ngàn SQ, cán bộ, viên chức VNCH đã ra đi biền biệt không biết ngày trở về, có rất nhiều người đã không bao giờ trở về! Mười bốn năm sau, tôi lại nghe cái giọng điệu y hệt không thay đổi đó ngay trong nhà tôi. Nhưng có chút khác biệt là tôi biết rõ cái vài ngày hắn nói sẽ kéo dài... chín năm sáu tháng, mức án còn lại của tôi.

          Thời điểm mà tôi bị tập trung trở về trại A-20 là gần cuối tháng 11/89 =>10 â.l. , như vậy chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa là đến ngày cưới của chúng tôi như hai gia đình đã ước hẹn cùng bà con!

          Nàng đã hết lời van xin, thuyết phục tên quản giáo cho nàng đi theo tôi ra trại A-20 để chờ khi nào tôi được trở ra thì sẽ cùng theo tôi về nhưng hắn vẫn lạnh lùng từ chối.

          Không thèm nói thêm một tiếng nào, nàng cởi tấm lắc vàng 18k là sính vật đính hôn tôi đã tặng nàng, đặt lên bàn ngay trước mặt hắn. Hắn trố mắt ngó lom lom tấm lắc, không dấu được vẻ thèm thuồng trong ánh mắt tham lam. Hắn thầm ước lượng giá trị. Hắn có ngu dốt lắm cũng phải biết là cả đời lương CA chết đói của hắn cũng không bao giờ với tới được. Nhưng hắn làm bộ thở dài, chép miệng nói:

          - Theo đúng điều lệnh của CA thì..

          Hắn chưa nói xong thì thêm một sợi dây chuyền có kèm mặt saphia hình trái tim màu xanh lóng lánh được nàng đặt nhẹ nhàng bên cạnh tấm lắc.

          - Nhưng thôi ! Nể tình của anh C. là chỗ... quen biết với tôi lâu năm(!) chị chuẩn bị ngay đi, khoảng 10 phút nữa sẽ có xe của trại tới đón. Tôi sẽ bảo lãnh cho chị đi theo tiễn anh C. ra trại vậy.

          Vừa nói hắn vừa lấy cả hai tay hốt hai món nữ trang sính lễ, đút thật nhanh vào túi quần.

          Khi cùng thu xếp hành trang trong phòng với tôi, nàng nói:

          - Em sẽ vọt về nhà, 30 giây sau em sẽ trở lên cùng đi với anh. Nếu xe trại có tới, anh cố câu giờ chờ em nha!

          Tôi chưa kịp nói gì, nàng đã biến mất.

          9. Cùng Chung Một...Còng

          Loáng sau nàng đã xuất hiện, gọn gàng trong bộ đồ Jean với túi hành trang đeo bên hông.

          Nàng ngồi xuống trước mặt tên quản giáo, lấy trong túi hành trang ra ba cây vàng, nói với hắn, giọng tỉnh rụi:

          - Anh cho em... đổi lại hai món đồ sính lễ mà anh C. tặng cho em nha anh. Hai món đó coi rùm beng vậy chứ chỉ đáng chưa tới một cây rưỡi đâu. Đổi như vầy là anh... lời lắm đó!

          Giống như một thằng ăn trộm bị bắt quả tang, tên quản giáo run run quơ nhanh ba cây vàng nhét ngay vào túi trước rồi mới móc (rất chậm chạp, khó khăn) hai món nữ trang đặt lên bàn, miệng lí nhí:

          - Dzạ !... EM xin chị ạ !

          Trong khi tôi đeo trở lại cho nàng hai món nữ trang, nàng nói nhỏ đủ cho tôi nghe:

          - Nếu thằng giòi bọ đó mà đòi ba chục cây, em cũng thí cho nó chứ có xá gì ba cây!

          Tiếng kèn xe vang inh ỏi trước đầu hẻm cùng lúc với tiếng tên CA quận BT gọi với vào nhà. Chúng tôi ra tới thì thấy một chiếc xe đò lớn 50 chỗ ngồi đã hầu như kín người bên trong, gần như toàn bộ là những anh em tù cải tạo tại địa phương như tôi, số ít còn lại là mấy tên CA quản giáo.


          Hình minh họa

          Lên xe mới biết chỉ có mỗi mình tôi là được ưu ái cho phép người nhà cùng đi theo ra trại A-20. Các anh em bạn tù sau khi hỏi thăm tôi, biết được nàng chỉ mới là hôn thê chứ chưa là vợ tôi, đều không dấu được niềm mến phục nhưng không kém phần ái ngại cho chúng tôi.

          Thử thách cho nàng hãy còn nhiều lắm, lâu lắm vì các anh em đều biết rõ bản án còn lại của tôi. Dường như nàng hiểu được ánh mắt ái ngại của anh em. Rất bình tĩnh và đầy bản lãnh, vui vẻ, thân tình, nàng nói lớn cho cả xe đều nghe:

          - Thưa các anh! Nếu lần này ra A-20 rồi đều được trở về nhà thì em kính mời tất cả các ANH EM BẠN của anh C. đây vui lòng nhín chút thời gian tới dự đám cưới của tụi em vào ngày...........tại nhà của tụi em số ..........vào lúc...........giờ. Em nghĩ là các anh cũng không chấp nhứt chuyện tụi em vì hoàn cảnh nên thất lễ, không gởi thiệp mà mời miệng như vầy phải hôn?

          Cả xe (ngoại trừ mấy tên CA ra vì bọn nó biết nàng chỉ nói riêng với anh em bạn tù của tôi) vỗ tay hoan hô rần rần trong sự im lặng khó chịu của bọn CA.

          Từ SG ra tới trại A-20 gần 600 Km, chúng tôi không được xuống xe ở các tiệm cơm đọc đường mà phải ngồi ăn cơm ngay trên xe. Nếu có đi vệ sinh thì phải đi từng nhóm 5 người có 5 quản giáo đi kèm sát bên. Thấy kiểu cách siết cứng chúng tôi như vậy, tôi biết ngay là chuyến đi này của tôi khó lòng mà có ngày trở về như mong đợi. Tuy không nói ra nhưng nhìn ánh mắt thất vọng của nàng, tôi biết là cái kế hoạch nàng đã âm thầm trù tính cho tôi trốn thoát dọc đường sẽ không thể nào thực hiện được.

          Xe tới Đại Lãnh chuẩn bị leo đèo Cả gần nửa đêm, đột ngột dừng lại một nơi vắng vẻ. Đèn trong xe bật sáng soi rõ những gương mặt đăm chiêu, đầy ái ngại của anh em tù.

          Như kế hoạch đã bàn tính trước, tất cả các tên CA ngồi bật dậy, hai tên nhảy xuống đường đứng hai bên phải và trái của xe, tay cầm đèn pin bật sáng, tay lăm lăm AK-47, phòng ngừa có người trèo cửa sổ phóng xuống đường trốn thoát. Mấy tên CA còn lại lấy còng số 8 ra còng từng cặp hai người tù lại với nhau. Nhưng khi tới tôi (ngồi băng ghế sau cùng của xe. Nàng đã cố tình xin đổi chỗ ngồi của anh em cho chúng tôi ngồi băng ghế sau xe để dễ trốn thoát) thì bị... lẻ do không còn anh em nào để còng chung tay với tôi. Nàng tỉnh bơ giằng lấy cái còng trong tay tên CA (còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao) bóp vào tay tôi rồi vào tay... của nàng. Nàng đưa cao tay lên lôi theo cả tay tôi, nhứ nhứ trước mặt tên CA, nhìn thẳng vào mặt hắn, nói gằn từng tiếng:

          - Như vầy anh yên tâm chưa?

          Hắn càng thêm lúng túng, bối rối với hành động bất ngờ của nàng, miệng lí nhí:

          - Nhưng mà... chị không phải là... không được phép....

          Nàng cười khẩy:

          - Chấp nhận làm vợ của tù thì phải chấp nhận cùng chung số phận với chồng. Đeo còng vô tay chứ đâu phải đeo huy chương mà phải cần có phép vậy anh?
          Cả xe vỗ tay rầm rầm tưởng như không bao giờ dứt. Tên CA xớ rớ, ngần ngừ một chút rồi lẳng lặng bỏ về chỗ hắn ngồi!

          Nguyễn Như Ý
          https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

          Còn tiếp Phần IV

          Comment


          • Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần IV)

            Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần IV)

            10. Cùng Một Tử Vi Duyên Số

            Chuyện nàng theo tôi ra tận trại giam, nhất là hành động và lời nói khí khái của nàng trên chuyến tù xa, đã thành câu chuyện truyền miệng mãi về sau của các anh em tù chính trị trại A-20.

            Ra tới trại, trời vẫn chưa sáng. Xe dừng trước cổng nơi nhà thăm nuôi. Tên quản giáo gọi tôi và nàng xuống xe, dẫn vào giao cho tay CA quản lý khu thăm nuôi, nói là cho tôi được thăm gặp 24 giờ, sẽ nhập trại sau. Tên CA nhà thăm nuôi ngạc nhiên nhìn tay nàng đang bị còng dính tay tôi, cho tới lúc đó vẫn chưa được tháo ra. Thấy hắn đang trố mắt nhìn, nàng cười lớn:

            - À ! Cái này là em mượn của anh N. (tên quản giáo) để giữ anh C. lại với em cho chắc ăn! Em sợ ảnh... lường gạt em, làm đám hỏi với em rồi quất ngựa truy phong đó anh. Bây giờ em xin... bàn giao ảnh lại để các anh canh chừng ảnh dùm em nha.


            Hình minh họa

            Tên CA nhà thăm nuôi ngớ ra một lúc vì chưa kịp hiểu ra lời xiên xỏ, chưởi khéo của nàng. Khi đã thấm ý, hắn cười mếu máo, lắc đầu, chắc lưỡi:

            -Tôi chịu thua chị luôn! Ở đâu mà anh C. tìm ra được chị thật là xứng vợ, xứng chồng quá đi.

            Khi chỉ còn hai chúng tôi trong phòng thăm nuôi, nàng mất hẳn vẻ lanh lợi, sắc xảo mà trở nên mềm nhũn trong vòng tay tôi, khóc trong câm lặng. Tôi không ngờ, hoàn toàn không thể nào ngờ được nàng là một người con gái có bản lãnh khác thường như vậy. Ngay trong nghịch cảnh không lối thoát, nàng vẫn bình tĩnh ứng xử quyền biến, khôn khéo mà không phải ai cũng có thể làm được như vậy.

            Tôi đâu có chọn lựa và cũng không thể nào chọn lựa, chỉ nhờ duyên số tiền định mà thôi!

            Một lúc sau, nàng gạt nước mắt, mở cái túi xách, lấy ra một quyển tập học trò cũ, bìa bên ngoài đã ố vàng vì thời gian, lật lật rồi chọn ngay một trang đưa cho tôi:
            - Anh hãy đọc đi, đây là lá số Tử Vi trọn đời của em do một người bạn thân của ba em đã chấm và giải ra. Bác ấy là một SQ Hiến Binh thời ông Diệm chứ không phải chuyên làm nghề bói toán. Lúc em mới hai tuổi tức năm 1962, ông có tới nhà mừng sinh nhật của em. Không biết tại sao ổng bồng em một lúc rồi nói với ba em:

            - Mầy rán nuôi dạy con nhỏ này nha Ch. (tên ba vợ tôi), sau này khi lớn lên, nó sẽ là đứa vượt trội hơn hết trong số mấy đứa con của mầy. Số của mầy đừng mong có con trai, nhưng con nhỏ này còn hơn ba thằng con trai cộng lại nữa đó. Để tao chấm cho nó một lá số Tử Vi rồi giải ra cho mầy coi tao coi tướng nó có đúng không nha.

            Em đã gìn giữ lá số này bao nhiêu năm nay rồi và gần như em thuộc lòng nó luôn. Anh đã cho em biết 7 điều tiên tri số mệnh của anh rồi thì hôm nay, em sẽ cho anh biết số mệnh của em. Em muốn anh đọc ở cung Phu của em, tức nói tới người chồng của em, nhưng cái đèn dầu con cóc này lù mù lắm anh không đọc được đâu, để em đọc thuộc lòng cho anh nghe nha:

            # Đương số là một người rất gan dạ, bản lĩnh hơn người, cương trực, rất căm ghét sự bất công, áp bức, giữa đường gặp chuyện trái tai, gai mắt hay ra tay nghĩa hiệp, cứu người thế cô. Mạng nữ nhưng do tánh khí như trang nam tử hảo hán nên khó bề lập gia thất sớm được, phải tới năm ba mươi mới gặp được ý trung nhân.

            Chồng của đương số là một ... (xin phép bỏ qua vì không tiện nói về cái tôi) Do là người như vậy nên mới khắc chế, thu phục được đương số. THỜI GIAN ĐẦU, VỢ CHỒNG PHẢI GÁNH CHỊU TAI ÁCH LÀ BỊ MỘT THỜI GIAN DÀI SỐNG XA CÁCH, VỢ NAM CHỒNG BẮC HAI PHƯƠNG. Sau khi tái hợp mới hòa duyên sắt cầm, sống trọn đời hạnh phúc.

            Chính tôi đây cũng đã...thuộc lòng lá số của nàng nên khi viết đoạn này, tôi gõ một mạch từ đầu tới cuối mà không cần phải mở ra đọc lại.

            - Hôm vừa làm đám hỏi của tụi mình xong, anh có nhờ má kể lại cho em nghe chuyện anh đã nói trước với má 7 điều tiên tri về... em, để cho em thấy là anh không dựng chuyện. Em tức cười trong bụng lắm vì thấy sao mà lá số của anh và em giống như in khuôn với nhau vậy đó. Em muốn cho anh đọc lá số này của em rồi nhưng sợ anh nản chí. Em đã cố hết sức tận nhân lực cùng anh mong thoát số mệnh, nhưng cuối cùng thì mình cũng phải chịu thua! Thôi số tụi mình đã như vậy rồi thì anh cũng đừng buồn, đừng lo nữa. Thân cá chậu chim lồng, anh có lo cũng không có được gì đâu.
            Nàng còn dặn thêm:

            - Ở trong trại, em chỉ xin anh cố gắng giữ gìn sức khỏe để còn có ngày về với em. Em nghe má kể lại chuyện của anh trong trại thời gian trước khi anh về gặp em, anh rất là "cứng đầu, khó trị" nên cứ bị chiếu tướng hoài. Thôi bây giờ đã có em rồi, anh cố gắng sống sao cho phải đạo đi. Anh có thể vì nghĩ tới em mà chịu nhục, nhưng không thể vì em mà chịu hèn được. Anh cũng đừng sợ mất em. Như lá số của em đã nói thì không mong gì anh sẽ có mặt trong ngày cưới của tụi mình được đâu. Anh cứ để cho em lo, em sẽ thuyết phục gia đình hai bên cứ đúng ngày đã ước hẹn mà làm đám cưới, cho dù không có mặt... chú rể. Sau khi làm đám cưới xong, em sẽ ra đây hưởng “tuần trăng mật” với anh ở ngay nhà thăm nuôi này. Chịu hông? Cười cái đi em thương!

            11. Án Chung Thân Mãn Đời

            Nhìn cái cười méo xẹo trên gương mặt đau khổ giống như người bị bệnh trĩ kinh niên của tôi, nàng phá lên cười vang vô tư lự như không có chuyện gì bi đát đang xảy ra cho hai đứa, rồi vừa cười nắc nẻ vừa nói:

            - Em nói cho anh biết nha, nhà nước kêu anh án chung thân còn giảm án rồi có ngày tha cho anh về, chứ lần này em kêu cho anh cái án chung thân thì đừng hòng em... giảm án cho anh nha. Em sẽ xiềng cổ anh tới mãn đời luôn đó.

            Qua sáng hôm sau, tôi bị dẫn vào nhập trại, trở lại đội lao động khổ sai như ngày nào. Còn nàng thui thủi một mình trở về nhà báo tin dữ cho hai gia đình biết. Nàng đã thực hiện đúng như đã hoạch định với tôi đêm chia tay trong nhà thăm nuôi.

            Gia đình đôi bên đã tổ chức một đám cưới linh đình với đông đủ bà con, quan viên hai họ nhưng không có... chú rể! Má tôi đã đóng vai chú rể, thay tôi để theo như tục lệ, trao nhẫn cưới, bông tai, dây chuyền cùng các thứ lễ vật cưới cho nàng.

            Ngay sau lễ cưới, má tôi đã dẫn nàng ra thăm tôi và xin cho tôi được thăm gặp... mười ngày để cùng nàng "hưởng tuần trăng mật" ngay tại nhà thăm nuôi của trại tù A-20! (Xin nhắc lại: nhà tù thời đổi mới rồi, chuyện gì cũng có... thủ tục đầu tiên.)

            Có một chuyện đáng nhớ là trong những ngày trăng mật, tôi có nhắn lời mời anh bạn tù rất thân là Th/Tá H-Q-T. (vị Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh QLVNCH tôi đã nói ở phần trên. Hiện anh đang định cư tại CA, USA theo diện RD, tù chính trị) ra nhà thăm nuôi để tôi ra mắt vợ mới cưới của tôi cho anh biết mặt. Anh đã cho tôi biết từ năm 82 bảy điều tiên tri số mệnh của tôi giống y như chú Ba P. đã nói. Khi anh T. vừa an vị, tôi gọi nàng ra và nói:

            - Em rất cám ơn anh đã tiên đoán 7 điều về người vợ của em từ 7 năm về trước. Hôm nay em xin được giới thiệu với anh, đây là vợ của em. Anh coi có... đúng là cô này không, hay là còn cô... nào khác để em còn liệu bề tính toán chuyện tương lai.

            Anh T. phá ra cười trong khi tôi vẹo mình đi vì cái ngắt đau điếng một bên sườn non mà nàng tặng cho tôi. Sau tuần trăng mật, cứ mỗi ba tháng một lần, nàng đều đặn lặn lội, trèo đèo vượt suối (Đúng nghĩa đen! Những anh em nào đã từng ở trại tù A-20 và gia đình của họ sẽ rất thông cảm khi thấy tôi dùng câu thành ngữ này) ra thăm nuôi tôi cho tới ngày nàng không thể đi được nữa vì... cái bụng bầu đã gần tới ngày sinh nở, nàng mới bất đắc dĩ tạm giao lại chuyện thăm nuôi cho má tôi.

            Năm 1990, nàng đã sinh cho tôi một đứa con trai đúng như phần số đã định. Khi con tôi được bảy tháng, nàng bồng nó ra A-20 thăm ba của nó lần đầu tiên. Ông Giám Thị Trưởng A-20 hay tin, ra tận nhà thăm nuôi, vừa bồng bế đùa giỡn với con tôi, vừa chúc mừng chúng tôi. Ông ta nổi tiếng là không ưa trẻ con nhưng không hiểu sao lại rất thích thằng con của một tù nhân như tôi. Hễ cứ nghe vợ con tôi ra thăm là thế nào ông ta cũng có mặt làm vú em trông coi con cho chúng tôi.


            Hình minh họa

            Suy gẫm lại, có thể ông ta sau lần xém chết năm 89 may nhờ có cha D. báo trước nên nay ông ta lại một lần nữa chứng kiến tận mắt chuyện "Con người ta có duyên số và định mệnh hay không" nên ông ta mới có ưu ái đặc biệt với con trai của chúng tôi chăng? Và có thể do chính tác động đó mà thay vì phải chịu chung đủ chín năm rưỡi án khổ sai, tôi chỉ phải trả nợ số kiếp thêm có... bảy năm tù! Năm 1996, nàng dẫn con trai tôi, khi đó đã được sáu tuổi, ra tận trại giam đón tôi ngày mãn án, mà nhất quyết không để cho tôi về một mình. Chắc có lẽ nàng đã biết rõ lá số của tôi rồi, nên nàng sợ có con... yêu nữ nào đó phỗng tay trên, uổng công nàng chờ đợi ròng rã suốt bảy năm trời ngày tôi trở về.

            Từ ngày tôi mãn bản án chung thân sau 17 năm ba tháng thụ hình, tôi vẫn đang tiếp tục thụ hình bản án chung thân của chính nàng tuyên án, mà không bao giờ mong có ngày được ân xá!

            Xin chân thành cám ơn các bạn đã đọc chuyện này của tôi và qua câu chuyện dài dòng này, chắc có lẽ các bạn đã có câu trả lời cho câu hỏi mà hàng triệu triệu người trên thế giới vẫn thắc mắc, không biết "Con người có duyên số và định mệnh hay không?"

            Nguyễn Như Ý
            https://www.facebook.com/search/top/...%87n%20T%C3%B9

            Comment


            • Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người.

              Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người.
              Vương Mộng Long - K20

              Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

              Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

              Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.


              Người lính Việt cộng bị trói, người lính VNCH phải đút bánh tét cho anh ta ăn

              Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

              Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.

              Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư:

              - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?

              - Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!

              - Việt-Cộng à?

              - Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari, giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )

              - Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?

              - “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

              Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

              - Hắn thuộc đơn vị nào vậy?

              - Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.

              - Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?

              - Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.

              - Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.

              - “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm .

              Tôi gật đầu, tán đồng,

              - Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

              Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.


              Cảnh người lính VNCH đối xử với tù binh Việt cộng

              Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

              Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

              Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh.
              Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

              Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

              “ Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…”

              Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

              “Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

              Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

              Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì. Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

              Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

              Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều...


              Tù binh Bắc Việt được VNCH đưa lên xe trao trả cho miền Bắc sau Hiệp Định Paris 1973

              Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra. Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

              Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

              “Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

              “Here it is!”

              Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

              Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

              Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

              Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby...”

              Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

              Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người. Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

              Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:

              - Thank you!

              Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

              - Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!

              - Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,

              - Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.

              - Thuốc của đế quốc, không thèm hút!

              - Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.


              Đốt một điếu Salem đưa cho tên Việt-Cộng

              Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho. Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

              Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

              - Take it! It's good for you!

              Tôi chêm thêm,

              - Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

              Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

              - May you tell him to take it?

              Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm.

              - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

              Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

              Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe. Tôi mồi một điếu Salem, đưa cho tên Việt-Cộng,

              - Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

              Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

              - Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.

              - Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.

              - E mấy?

              - Hăm Tám (28)

              Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

              - Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó

              - Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.

              - Cấp chức gì?

              - Trung úy Đặc-Công

              - Quê ở đâu?

              - Hải ... Rương

              - Làng nào?

              - Hỏi gì mà lắm thế?

              - Thôi không hỏi nữa!

              Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

              Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

              Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:

              “Này! Này!”

              Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

              Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:

              - Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

              Tôi ngạc nhiên

              - Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

              Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

              - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.

              - Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

              Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:

              “Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

              - Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.

              - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

              Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.

              - Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

              Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.

              - Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...

              Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.

              - Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

              Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

              Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

              “Don't throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

              Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

              “Take care! Good bye! My son!”

              Phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

              Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

              Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

              Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

              Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình

              ***

              Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.

              - Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?

              - Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.

              - Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.

              - Sau này anh có còn gặp lại y không?

              - Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

              Tôi nhắc anh Tư.

              - Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?

              - “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.

              - Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam.

              Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
              - Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

              Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.

              - Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.

              Anh Tư gật gù.

              - Có khi hai người là bà con cũng nên?

              Tôi cũng gật gù theo.

              - Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.

              - Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!

              ***

              Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

              Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

              Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

              Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ. Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

              “Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

              Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng. Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa.

              Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

              Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

              Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.

              - Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.


              Tù cải tạo – nguồn youtube

              Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

              - Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

              “Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.

              - Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

              Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

              Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

              Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta. Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?


              Một lớp “học tập cải tạo” cho sĩ quan cao cấp gần Sài Gòn
              (thứ hai từ bên trái qua là Tướng Nguyễn Hữu Có). nguồn manhhai flickr.comf

              Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.

              - Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

              Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại! Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm! Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

              Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

              Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

              “Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

              Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

              Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

              Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

              - Lẹ lên! Lẹ lên!


              Từ trái: Đại tá Hứa Yến Lến, Thiếu tướng Lê Minh Đảo,
              Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Vương Mộng Long, Trung tá Xuân

              Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

              “Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư..”

              Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

              Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

              Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền. Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!...” Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
              “Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!...”

              Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!...” nhỏ dần.

              Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

              Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

              Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi. Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.


              Từ trái: Thiếu tá Hoàng Đình Hiệp, Đại tá Hứa Yến Lến, Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Vương Mộng Long

              Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng ... rồi đi vào.

              Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương. Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

              Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

              Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

              Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không? Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

              Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi. Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

              Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.

              Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.

              Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

              Vương Mộng Long - K20
              nguồn:
              https://hon-viet.co.uk/VuongMongLong...VaConNguoi.htm
              Last edited by BachMa; 12-19-2018, 05:26 AM.

              Comment


              • Chuyện Đi Lính

                Chuyện Đi Lính...

                Cuối tháng 5/1970, vợ chồng tôi từ Nam vang về Sàigòn lánh nạn “cáp duồn”.

                Được hoản dịch 18 tháng nên ngày đi làm ở L’UCIA, đêm đàn phòng trà, cuối tuần đàn đại nhạc hội do anh Duy Ngọc tổ chức tại rạp Quốc Thanh.

                Tôi đã đàn cho anh Hùng Cường hát kích động nhạc với cô Mai Lệ Huyền nhiều lần.

                Thấy anh mặc áo hoa rừng nên lân la hỏi “anh mặc áo lính gì vậy ?”.

                Anh HC trợn mắt nhìn tôi một hồi rồi hỏi lại “Mầy mấy tuổi rồi mà không biết tao mặc đồ Biệt-Động-Quân ? Bộ trốn quân dịch hả ?”.


                Hình minh họa

                Tôi cười, nói ảnh biết tôi là Việt kiều hồi hương, được hoản dịch 18 tháng, đến tháng 3/72 mới hết hạn. Ảnh nhìn tôi vài giây rồi dụ “vậy mầy đăng lính BĐQ đi, tao sẽ kéo mầy về ban CTCT/BĐQ ở trại Đào Bá Phước”.

                Tôi thấy có lý nên khi gần hết hạn hoản dịch, tôi ra chợ Bến Thành, tìm cái quầy tuyển mộ lính BĐQ xin ghi tên.

                Lúc đó tôi không biết LĐ5/BĐQ ở đâu và cũng không biết là BĐQ có nhiều LĐ ở khắp 4 vùng chiến thuật. Về nhà khoe với vợ, em làm thinh, mặt buồn hiu.

                Tối đó, lần đầu tiên, em cho con ngủ chung giường. Hai đứa nằm hai bên, ôm thằng con mới 2 tháng tuổi, thì thầm tới khuya. Em lặng lẽ chuẩn bị cho tôi cái túi xách nhỏ : một bộ quần áo ủi thẳng thớm, vài cái quần lót, một cái khăn tắm, một lon Guigoz thịt chà bông và một chai dầu nhị-thiên-đường.

                Đến ngày hẹn, tôi ra chợ Bến Thành, cùng gần chục thanh niên leo lên xe GMC về hậu cứ Củ Chi làm thủ tục đi thụ huấn tại Trung tâm Dục Mỹ tuốt ngoài Ninh Hòa-Nha trang. Buổi tối đầu tiên xa nhà, ngủ trên tấm chiếu trải trên sàn ván, bên cạnh cả chục thanh niên xa lạ, hai ba anh đua nhau ngáy như đang hòa tấu nhạc tàu, tôi không thể nào ngủ được. Còn muổi nữa ... hình như máu thịt tôi ngon hơn mấy anh kia nên nó cứ nhè tay chân mặt mủi tôi ... mà chích. Vậy mà cũng thiếp đi một chút.

                Sáng hôm sau qua Trung tâm 3 Nhập ngũ lấy số quân, nhận quân trang trong hoạt cảnh ... cười như mếu.

                Quần áo rộng thùng thình, phải tìm sợi dây cột lưng quần, nếu không nó tuột xuống tới đầu gối. Rồi hớt tóc, trời ơi ... mái tóc tôi nâng niu cả chục năm, bị ông thợ hớt tóc có trái tim bằng đá đẩy mấy phát tông-đơ chỉ còn 3 phân. Tếu nhất là lúc tập họp điểm danh. Vì có nhiều người trùng tên nhau nên ông hạ sĩ quan quân số gọi tên tân binh xong, nói luôn tên cha mẹ. Chúng tôi không thể nín cười khi ổng hô : Trần văn Quá, cha Chơi, mẹ Sướng. Rồi tập vào hàng, phắc, tan hàng ... cho đến hết ngày hôm đó.

                Hôm sau là ngày thứ Bảy, được ra vườn Vườn Tao Ngộ nghe nhạc sống. Không biết cô Tiên hỏi ai mà biết hôm đó cho thăm tân binh nên sáng sớm đã có mặt ngoài cổng với giỏ thức ăn. Hai đứa ngồi nghe nhạc như mọi người quanh sân khấu lộ thiên. Hổng dè có cô ca sĩ quen, đứng hát thấy tôi nên chạy xuống kéo lên sân khấu, yêu cầu tôi hát một bản.

                Không từ chối được nên tôi giới thiệu nhạc phẩm “Lính Xa Nhà”, nói hát để tặng cô Tiên.

                Dĩ nhiên là mọi người ở đó không biết cô Tiên là ai, chỉ có mình em nhìn tôi cười mủm mỉm ...

                ... Tôi có người yêu tuổi ngọc vừa tròn, vì chinh chiến ngược xuôi, ít về để hẹn hò.

                Nơi phố cũ bây giờ em có thường nhìn hoa rơi cuối đường rồi buồn riêng cho mình không ?

                ... Xa lắm người ơi ! Kỷ niệm thật nhiều. Còn đâu tiếng cười vui, mắt nhìn thật đậm đà. Phương đó nếu bây giờ mưa gió nhiều, đường trơn chân gót nhỏ cậy nhờ ai đón đưa về ?

                ... Đọc thư em hay hờn hay dỗi, trách tôi yêu tay súng hơn nàng. Vì sao yêu sa trường hiểm nguy hơn phố phường với bao chiều lang thang.

                ... Thương quá là thương kỷ niệm ngọc ngà và yêu quá là yêu áo đẹp chiều hẹn hò. Nhưng thép súng đang còn say máu thù. Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về....

                Đầu tháng 8/72 mãn khóa huấn luyện, từ Dục Mỹ về trình diện tại trại Đào Bá Phước, nhận sự vụ lệnh mai lên trình diện tại hậu cứ LĐ5, lúc đó vừa chuyển về cổng số 6, căn cứ Long Bình. Hỏi thăm anh HC ở đâu, ông sĩ quan ban 1 nghiêm giọng nói : “Lúc này chiến trường sôi động, tất cả quân nhân đều phải cấm trại 100%, HC cũng vậy”.

                Tôi thất vọng về nhà, trong đầu lảng vảng cảnh ghìm súng bắn nhau với Cộng quân. Đêm đó, em tắm cho tôi, em kỳ cọ, chăm chú nhìn tôi như người xa lạ. Tôi cười hỏi “bộ lạ lắm hả ?”. Em gật đầu “Toi đen hơn nhưng rắn rỏi hơn, mạnh mẻ hơn nhưng ... moi muốn coi toi có bị thương chỗ nào không ?”. Tôi cười ngất “moi học quân trường chớ đâu đã ra chiến trường”. Em vẫn kỳ cọ tôi một hồi nữa mới chịu lau mình cho tôi. Hai đứa ôm nhau ngủ tới sáng bét.

                Hôm sau, tôi lên hậu cứ Long Bình, trình diện chỉ huy hậu cứ lúc đó là Thiếu-tá Nguyễn văn Bếp. Thiếu-tá Bếp nhìn tôi chằm chặp hồi lâu rồi hỏi liên tục “Mầy có bằng Brevet ? Mầy từng làm kế toán ? Mầy từng đờn phòng trà ?” Tôi đứng thẳng người trả lời “Thưa thiếu-tá, đúng”. Ổng lại nhìn tôi một hồi nữa rồi quyết định “Được, tao cho mầy về ban 5”. Tôi nghe nhẹ người, không có anh HC, tôi cũng được về Ban 5 là ban CTCT của LĐ, đúng như hy vọng lúc ban đầu.

                Ban CTCT/LĐ5 lúc đó gồm Đại-úy Thái văn Nghiệp trưởng ban, ông Phó là Trung-úy La xuân Huệ, nhân viên gồm HS1 Tường Khắc Điện, HS Thạch Đức, một anh hạ sĩ viết/vẽ rất đẹp (sorry, quên tên anh này vì ít khi gặp), và tôi.

                Mới ở Long Bình mấy ngày thì có lệnh phải cấp tốc lên An Lộc trình diện Liên-Đoàn-Trưởng, lúc đó là Trung-tá Ngô Minh Hồng. Thời đó đâu có mobile phone, tôi viết vội vài hàng báo tin em biết. Lúc đó, ai muốn vô An Lộc phải đi trực thăng từ Long Bình hay Biên Hòa đến Lai Khê, đổi trực thăng tại Lai khê bay vô An Lộc. Đáp xuống An Lộc được hay không còn tùy tình hình, nếu Cộng quân pháo kích dữ quá đành phải bay trở lại Lai khê.

                Chuyến bay chúng tôi may mắn, sáng đi ... xế trưa là đến An Lộc. Ngồi trên trực thăng nhìn xuống, đất nước mình đẹp quá. Những ô ruộng xanh rì, xen với những mái nhà xám xịt, những vườn cây, những khúc sông nước biếc, cho người nhìn một cảm giác thật bình yên. Khi gần tới An Lộc, dấu vết chiến tranh hiện ra. Những hố bom B52 trải dài như những đóa hoa đỏ khổng lồ, nhiều khu rừng cao su chỉ còn thân cây trơ trụi lá.

                Lúc leo lên trực thăng ở Lai Khê, chúng tôi đã được dặn dò trước là ... khi đến An Lộc, lúc trực thăng còn cách đất khoảng 1-2 thước là phải nhảy xuống nên khi đến sân bay (quốc lộ 13), trực thăng xà xuống cách mặt đường 1-2 thước là chúng tôi lần lượt nhảy xuống chạy ngay đến các gốc cao su ngồi xuống, không nghe tiếng pháo mới đi bộ về BCH/LĐ.

                Từ đó đi bộ vài phút là tới đồn điền Xa Cam, nơi đóng quân của BCH tiền phương LĐ5/BĐQ lúc đó, cách thị trấn An Lộc khoảng 2 cây số.

                Trình diện Trung-tá LĐT. Ông này nhìn tôi rồi vui vẻ nói “cố gắng ăn cơm sấy, làm việc giỏi nghe em”.

                Ở An Lộc lúc đó (từ tháng 9/72), mặc dù Cộng quân đã bị đẩy về Lộc ninh, vòng đai an ninh quanh An Lộc đều có quân mình trấn giữ, nhưng An Lộc vẫn bị pháo kích sáng chiều mỗi tuần vài lần, mỗi lần vài chục trái hay cả trăm trái, trời kêu ai nấy dạ, nên tất cả quân nhân đều ăn ở dưới hầm.

                Những người lính như tôi đều có hầm cá nhân, bề ngang 1 thước, dài 2 thước, sâu cạn tùy người đào nhưng ít nhất phải 1 thước. Nhìn nó như cái huyệt để chôn chính mình. Cực nhất là những tháng mưa, nước mưa đỏ lòm tràn vô hầm đến ngang đầu gối, phải kê miếng ván làm giường ngủ ngủ lên cao, ra vô phải bò.

                Công việc của tôi cũng không có gì nặng nề, mỗi đêm ôm súng gác 2 tiếng, mỗi tháng nhận báo Tiền Tuyến để phát không, và đồ Quân Tiếp Vụ bán lại cho quân nhân từ LĐ đến các tiểu-đoàn.

                Vài tuần sau, HS Hồng thuộc đại-đội Trinh sát hy sinh không mang được xác về kịp thời, phải chôn tại An Lộc. LĐ5 xin khoảng đất nhỏ trước nghĩa trang Biệt-Kích-Dù trong khuôn viên chợ An Lộc để làm nghĩa trang cho lính LĐ5. Tôi được lệnh ban đất cho bằng phẳng, làm cổng, xây tường xung quanh cao tới đầu gối và viết 2 câu thơ trước cổng nghĩa trang:

                “Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.

                Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam”.

                Nhờ công tác này mà tôi được dịp đi quanh thị trấn An Lộc chụp hình, nói chuyện với những người dân đã ở lại hay mới trở về An Lộc. Được cơ hội uống cà-phê tại quán hai chị em cô ... (quên tên rồi). Nghe nói hai cô này dạy cùng trường tiểu học với cô giáo Pha, tác giả hai câu thơ bất hủ:

                “An Lộc địa sử ghi chiến tích.
                Biệt-Kích-Dù vị quốc vong thân”.


                Tôi làm một mình gần một tháng mới xong. Vừa làm vừa hát nghêu ngao vì nhớ vợ con vô cùng.

                Ở Xa Cam hơn 1 tháng thì BCH/LĐ chuyển về trường trung học Bình Long, nằm trong thị trấn An Lộc.

                Công tác vũ-như-cẩn, thêm vụ gác xác ban đêm. Khi có những quân nhân trực thuộc LĐ hy sinh không đưa xác về Biên hòa kịp trong ngày, chúng tôi phải bắt thăm gác xác ban đêm, mỗi người hai tiếng. Được gác trước 12 giờ đêm là một may mắn. Các phiên gác từ 12đêm-2giờ sáng hay 2giờ sáng-4giờ sáng ... chua lắm, vì lúc đó mình hay ngủ gục.

                Người gác xác đêm phải làm hai việc:

                Việc thứ nhất là phải ôm súng ngồi thẳng người, thứ hai là phải coi chừng nhang, hễ nhang sắp tàn thì phải đốt nhang mới cắm vô cái lư hương bằng lon sữa bò có chút gạo, đứng thẳng người chào rồi ngồi gác tiếp.

                Quí vị cứ tưởng tượng ... ngồi trong đêm đen, bên cạnh những cái poncho quấn xác người, trước mặt là mộ của hai cô nữ sinh bị pháo kích chết trước đó mấy tháng, nghe nói linh lắm ... thì mình đồng da sắt cũng nghe ớn ớn. Thêm mấy ông sĩ quan tuần phiên, mấy ông này ma-le lắm ... hổng biết mấy ổng rình ở đâu, mà ai vừa ngủ gục chưa kịp ngáy là đã bị nón sắt bay trúng đầu cái bốp.

                Tôi may mắn, dù gác phiên nào cũng chưa bị ăn nón sắt vì tôi nghĩ ... những quân nhân vừa đền nợ nước hay hơn mình, đáng kính trọng hơn mình, nên tôi ngồi gác với cái tâm tỉnh thức ... luôn tỉnh táo để biết mình phải làm gì, đối phó ra sao trong những hoàn cảnh bất ngờ nhất.

                Một ngày đầu năm 1973, trung-úy Huệ cho tôi biết “đã có hiệp ước ngưng bắn 3 ngày với Cộng quân nhân dịp Tết Quý Sửu 1973. Nhân dịp này, Trung-tá LĐT muốn tổ chức một đêm văn nghệ khoản đãi các chiến sĩ xuất sắc. Ban 5 mình phải lo mọi việc”.

                Sân bóng rổ được chọn làm nơi tổ chức. Lính các tiểu-đoàn chặt tre trúc gởi về làm hàng rào hai lớp quanh sân bóng rổ, một cái dù hoa được căng lên bên trên, một máy điện được Chinook đưa lên để có đủ điện cho ban nhạc. Các ca sĩ thuộc TĐ5CTCT được mời. Lúc đầu, có tên cô Ngọc Đan Thanh, hiện làm MC cho trung tâm Asia, nhưng vào giờ chót, cô NĐT bận công tác gì đó, bạn của cô là ca sĩ Hồng Hải đi thay.

                Khi trời sập tối, ban nhạc bắt đầu chơi, nhiều cặp ra sàn nhảy, ban 5 chúng tôi phục vụ ở quầy giải khát. Nhìn mấy ông sĩ quan khiêu vũ, tôi cứ ngở như mình đang ở Sàigòn. Ban nhạc chơi khoảng 15 phút thì trái pháo kích đầu tiên của Cộng quân bay qua đầu chúng tôi, tiếng pháo hú nghe rợn người, át hẳn tiếng nhạc, và nổ oành đâu đó cách chúng tôi khoảng 500m.

                Tôi đoán như vậy vì lúc này tôi đã có kinh nghiệm nghe tiếng pháo kích. Ở An Lộc, ai nghe tiếng pháo là sống, ngược lại là chết. Tôi đoán 500m vì mặt đất dưới chân tôi không rung chuyển. Tôi thấy Đại-tá Nguyễn thành Chuẩn, tư lệnh mặt trận An Lộc đứng lên cùng mấy anh cận vệ ra về ngay. Ông Trung-tá cố vấn Mỹ ở lại. Trung-tá Hồng ra lệnh ngưng đàn và gọi tên các chiến sĩ xuất sắc lên tặng quà.

                Tôi được tặng một hộp quẹt Zippo, có khắc chữ LĐ5/BĐQ. Ở An Lộc, hộp quẹt Zippo quý lắm, quẹt là có lửa dù bất cứ tình huống nào. Sau khi nhận cái hộp quẹt, tôi xin phép đại-úy Nghiệp qua nhà ăn sĩ quan hút thuốc. Nhà ăn sĩ quan chỉ cách sân bóng rổ vài bước chân, nóc lợp bằng các vĩ sắt dùng cho trực thăng đáp, thêm mấy lớp bao cát bên trên. Bàn ăn, ghế ngồi đều dùng vĩ sắt, tương đối an toàn hơn nơi tổ chức văn nghệ.

                Vừa châm điếu thuốc thì trái pháo thứ hai bay qua đầu chúng tôi, nổ oành đâu đó gần hơn trái trước vì mặt đất rung chuyển dưới chân tôi. Lại im lặng, cái im lặng rợn người. Khoảng 10 phút sau thì nghe tiếng nhạc trổi lên, cô ca sĩ mới hát đến câu thứ hai thì ... tôi nghe tiếng rú của trái pháo thứ 3.

                Nó nổ một tiếng ùm khủng khiếp, đâu đó ngay trên đầu tôi, và tiếng miểng pháo bay rào rào, như ai đó rải cát trên nóc nhà. Như một phản xạ tự nhiên, tôi lăn người nằm sát mặt đất, dưới cái bàn ăn. Hai lỗ tai tôi vo ve như tiếng muổi kêu ... rồi im phăng phắc, cái im lặng lạnh sống lưng.

                Chỉ vài giây sau là nghe tiếng rên la của phụ nữ ... “Má ơi ! Máu ! Máu nhiều quá !!!”.

                Tôi bật dậy, rờ mình mẩy tôi, coi có bị thương nơi nào không ? Hú hồn, cám ơn Trời Phật, thân thể tôi còn nguyên vẹn. Bèn đi qua sân bóng rổ. Trên đường đi, tôi thấy HS Thạch Đức lết trên mặt đất, tôi hỏi “Đức anh có sao không ?”. Đức không trả lời, mắt đã đứng tròng, miệng xùi bọt mép. Tôi la thầm trong bụng “không xong rồi” nhưng nhìn khắp người Đức không thấy máu, không thấy bị thương chỗ nào cả nên tôi chạy qua sân bóng rổ tìm hai ông xếp của tôi là Đại-úy Nghiệp và Trung-úy Huệ.

                Sân bóng rổ lúc này tối thui. Những người bị thương nằm ngồi khắp nơi như những bóng ma. Tiếng rên của nhiều phụ nữ nghe lạnh người. Những quân nhân còn khỏe cỏng, khiên những quân nhân bị thương xuống trạm quân y.

                Thấy hai ông đều ngồi dựa cái hàng rào tre, hỏi có bị thương ở đâu không, hai ông đều chỉ vô háng, nhưng không thấy máu me gì cả. Trung-úy Huệ chỉ qua đại-úy Nghiệp “mầy lo cho ổng, tao ok”. Tôi hỏi Đại-úy Nghiệp đi nổi không, ổng lắc đầu. Tôi bèn đi tìm cái băng-ca, nhờ một anh lao công giúp tôi khiên Đại-úy Nghiệp xuống trạm xá.

                Y sĩ trưởng LĐ5 lúc đó là bác sĩ Chung, cũng là bạn thân của Đại-úy Nghiệp. Bác sĩ Chung tự tay cởi quần cho bạn, và bật đèn xem vết thương nhỏ xíu nơi háng Đại-úy Nghiệp. Vì lúc đó có cả chục quân nhân bị thương, trạm xá nhỏ xíu nên tôi ngồi chờ ngoài cổng.

                Cộng quân tiếp tục pháo liên tục, tiếng nổ oành oành xung quanh tôi. Mọi người chạy vô hầm trú ẩn nhưng tôi không sợ, tôi vẫn ngồi tại cổng trạm xá, miệng lầm thầm cầu xin cho đại-úy Nghiệp tai qua nạn khỏi.

                Khoảng nửa tiếng sau thì bác sĩ Chung gọi tôi vô nói nhỏ “anh Nghiệp bị miểng pháo cắt đứt động mạch chính dẫn máu về tim. Chỉ cần giải phẩu kẹp hai đầu động mạch là ok. Tiếc là ở đây, tao không có đủ dụng cụ để giải phẩu ảnh. Mầy đưa ảnh ra phi trường, tao đã xin một phi vụ đặc biệt đưa ảnh về tổng y viện Cộng hòa. Nếu ảnh về tới Cộng hòa trước 5 giờ sáng thì ảnh sống”.

                Tôi lật đật chạy tìm anh tài xế ban 4, nhờ đưa Đại-úy Nghiệp ra quốc lộ 13. Tôi ôm súng ngồi bên băng ca, bụng thề rằng ... nếu anh VC nào léng phéng đến gần chúng tôi lúc này là tôi bắn nát óc. Khoảng nửa tiếng sau thì nghe tiếng trực thăng trên bầu trời đen kịt, đồng thời đạn pháo kích của Cộng quân cũng ào ạt bay vào. Tôi kéo cái băng ca đến gần gốc hai cây cao su, hy vọng tránh được miểng pháo. Tiếng trực thăng vần vũ trên trời nhưng không ai dám đáp xuống.

                Cộng quân tiếp tục pháo kích cho tới gần 5 giờ sáng. Đại-úy Nghiệp thều thào gọi tôi, đưa cái bóp và cái đồng hồ đeo tay : “Mầy đem về cho vợ tao”. Tôi im lặng gật đầu. Đại-úy Nghiệp từ từ nhắm mắt, thở nhẹ vài cái sau cùng. Nhìn ông như đang ngủ. Lúc này, máu của ông đã chảy ra quanh người ông, ướt cả băng-ca. Tôi đứng thẳng người chào từ biệt ông theo lễ nghi quân cách.


                Hình minh họa

                Trời hừng sáng, tôi lếch thếch đi bộ về An Lộc, đầu óc trống rổng. Về tới BCH mới biết ông trung-tá cố vấn Mỹ chết tại chỗ. Ca sĩ Hồng Hải, người đi thay cô Ngọc Đan Thanh chết tại chỗ (cô NĐT có nhắc chuyện này trong một cuốn băng video Asia, hình như là Lá Thư Từ Chiến Trường). Một ca sĩ khác tên Kim chết tại chỗ. HS Thạch Đức chết tại chỗ. Đại-úy Thái văn Nghiệp hy sinh sáng hôm sau.

                Nhiều người bị thương, tôi chỉ nhớ vài người: Trung-tá Ngô minh Hồng bị miểng chém mất tiêu đầu gối, Trung-úy Huệ bị một miểng nhỏ làm sướt đầu thằng em song sinh. Hai ông Thiếu-úy (không nhớ tên) gãy chân. Sau này gặp tôi, ông Huệ nói “lúc đó tao tưởng đâu mất giống rồi”. Cái may là ... sau khi trái pháo thứ hai nổ, các sĩ quan tiểu-đoàn đã dẫn lính mình về nơi đóng quân nên họ an toàn trên xa lộ.

                Một tuần sau, tôi được đi công tác 7 ngày, để đem di vật về trao tận tay thân nhân của những người đã chết. Cho tới bây giờ, tôi không thể quên được những khuôn mặt vô hồn, những đôi mắt đứng tròng nhìn tôi trân trân khi tôi mang di vật của người thân đến trao tận tay họ.

                Nói đi công tác nhưng cũng như nghỉ phép vì tôi được về nhà trong khoảng thời gian này.

                Tôi về tới Sàigòn khoảng 2 giờ chiều, đi ngay đến nơi làm việc của cô Tiên. Tôi vẫn còn mặc đồ hành quân lấm lem bụi đỏ, lưng đeo cái ba-lô xơ xác ... chỉ có vài hộp sữa ông Thọ, nghĩ là đem về cho con (lúc đó tôi quên là con tôi bú sữa Guigoz).

                Bước vào phòng em làm việc thấy có 5 người, 3 bà 2 ông. Em thấy tôi đầu tiên, liền bật dậy nhìn tôi trân trân, không nói tiếng nào. Người lên tiếng đầu tiên là chú Quỳnh ... “ahhhhh, người hùng An Lộc đã về rồi”. Chú chạy đến bắt tay tôi lắc lắc “vô An Lộc mà ra được là mạng lớn lắm ... chúc mừng, chúc mừng”.

                Tôi xin phép cho em về sớm, và nắm tay em đi bộ về nhà. Suốt đoạn đường khoảng hơn cây số, em im lặng đi nhanh như gió, mặt ngẩn lên hảnh diện. Về đến nhà, em bắt tôi đi tắm liền. Em tắm cho tôi, em kỳ cọ những nơi đất đỏ còn lem luốt trên hai chân ... em vừa kỳ cọ vừa khóc. Tôi ôm em thủ thỉ “moi về rồi đây mà”.

                Tối đó, em ôm tôi cứng ngắt, xoa xoa lưng tôi thì thầm “5 tháng 14 ngày rồi đó toi”.

                Thì ra, từ ngày tôi lên An Lộc, em ở nhà đếm từng ngày. Tôi ở trong cảnh sống chết chỉ cách nhau mong manh như sợi tóc, nên không nhớ ngày giờ, chỉ cầu mong được sống trở về với vợ con.

                7 ngày tràn trề hạnh phúc trôi qua nhanh chóng.

                Tôi trở về hậu cứ trình diện ông trưởng ban 5 mới là đại-úy Nguyễn thanh Bình. Ổng nhìn tôi một hồi, hỏi những câu y chang như thiếu-tá Bếp trước đây, chỉ thêm 3 chữ “mầy mạng lớn”. Ổng im lặng suy nghĩ mấy phút, rồi ban lệnh “mầy biết kế toán, mầy có Brevet, mầy mạng lớn, mầy về làm thủ quỹ QTV”.

                Từ đó, nếu tôi không được về phép thì cuối tuần em ẳm con lên hậu cứ thăm tôi.

                Đầu năm 1974, LĐ5/BĐQ đổi số thành LĐ32/BĐQ. Qua năm 1975, tình hình chiến trường sôi động hẳn lên ... đến tháng 3/75 thì lãnh thổ VNCH thu hẹn dần dần. Nhiều người ở hậu cứ cũng âm thầm biết mất, quân số càng ngày càng ít, tôi phải ra gác mỗi đêm tại vọng gác sau lưng kho QTV, nhìn ra đường từ Tam hiệp lên Hố Nai. Nhiều đêm ngồi gác, thấy đồng bào gồng gánh nhau từ miền Trung về Sàigòn, một thúng thường là trẻ em, thúng bên kia là tài sản ít ỏi còn sót lại.

                Họ thường dừng lại bên kia đường, đối diện với vọng gác, vì nơi này có đèn pha rất sáng. Nhiều người chỉ nghỉ chân cho khỏe ... rồi đi tiếp. Nhiều người đi chân trần, ngồi xuống cạy những viên đá nhỏ dính dưới bàn chân, viên đá rớt xuống mặt đường, máu chảy theo. Nhiều người mệt quá, ngủ luôn trên đường. Vì an ninh, tôi có quyền mời họ đi xa cái vọng gác nhưng tôi làm thinh và dặn anh em gác trước hay sau tôi đừng đuổi đồng bào đi ... tội nghiệp họ, chắc mệt quá rồi.

                Lúc này, bà xã cũng không còn bồng con đến thăm tôi mỗi cuối tuần như trước. Em bận học nấu ăn. Em muốn có thêm cái nghề, biết đâu sau này ...

                Sáng 29/4/1975 tôi được lệnh thiêu hủy tất cả hàng còn tồn kho QTV. Tôi thấy tiếc nên xin phép cấp trên cho tôi mở kho, cho quân nhân còn ở hậu cứ lúc đó ai muốn lấy cái gì thì lấy. Xong lên xe Jeep cùng tất cả mọi người về đóng quân tại rừng cao su Thủ Đức, bên cạnh Đường Sơn Quán. Trên đường đi, tôi thấy lính mình đánh nhau với Cộng quân tại cư xá Hải quân, bên bờ sông Đồng Nai (?). Nhìn như đang coi ciné.

                Sáng 30/4, tất cả được lệnh lên xe về trại Lê văn Duyệt, Sàigòn. Tại đây, tôi nghe ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Chia tay các chiến hữu trong đơn vi, tôi vẫn mặc đồ BĐQ, xách cây M16 đã nạp đạn, nhét thêm một trái lựu đạn vô túi quần, vai mang ba-lô tàng tàng ra cửa trại Lê văn Duyệt, đi bộ về hướng chợ Thái Bình.

                Nhiều người chạy Honda quay lại nhìn tôi như nhìn con quái vật. Một anh can đảm dừng xe Honda lại, hỏi tôi đi về đâu, ảnh chở không lấy tiền với điều kiện ... tôi bỏ cây súng. Tôi nói với ảnh “cây súng này đã theo tôi nhiều năm, nhờ nó mà tôi còn sống tới bây giờ, tôi chỉ bỏ nó khi nào tôi thấy không cần nó nữa”.

                Anh ta ngần ngừ vài giây rồi đồng ý chở tôi về chợ Thái Bình. Xuống xe, tôi móc tiền đưa anh, anh không nhận. Nhìn quanh, thấy không có bóng dáng anh VC nào, tôi quăng cây M16 vô thùng rác, đi bộ về nhà.

                Nhà tôi khóa cửa kín mít, tôi kêu cửa.

                Cô Tiên ra mở cửa. Vừa thấy tôi còn mặc đồ BĐQ, em kéo tôi mạnh đến độ tôi suýt té chúi nhủi vô phòng khách. Em thở hổn hển, nói không ra hơi ... “toi về rồi, toi về rồi ... moi mừng quá, moi mừng quá” rồi em ôm tôi hồi lâu, xong biểu cởi đồ ... đi tắm.


                https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1

                Comment


                • Lẩm Cẩm Tuổi Già Của Tôi

                  Lẩm Cẩm Tuổi Già Của Tôi
                  Zen master



                  Hình minh họa

                  Bạn già ơi, Tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện về cái tuổi già của tôi .

                  Số là sáng hôm nay, một ngày chủ nhật đẹp trời, tôi đang ngồi nơi bàn ăn đọc báo với ly cà phê sữa nóng bên cạnh. Khi tôi ngước mắt nhìn ra cửa sổ tôi chợt thấy chiếc xe của mình quá dơ, cần phải rửa.

                  Thế là tôi bỏ tờ báo đang đọc dở xuống bàn, đi tới chỗ máng chìa khoá và lấy chùm chìa khoá xe. Trên đường ra ga-ra, tôi chợt thấy đống thư trên cái bàn nhỏ đặt cạnh cửa ra vào . Tôi quyết định đọc đống thư trước khi đi rửa xe. Tôi đặt xâu chìa khoá lên bàn, cầm đống thư lên, lướt đọc qua những cái bill và vất những thứ không cần thiết vào cái thùng rác để dưới gầm bàn. Tôi thấy cái thùng rác đầy nhóc.

                  Thế là tôi lại đặt đống thư xuống, cầm cái thùng rác định đem đổ. Nhưng tôi nghĩ, đằng nào tôi cũng đi bỏ thư vả sẽ đi qua thùng rác lớn, vì vậy tôi quyết định trả bill trước khi đi đổ rác. Tôi ngồi xuống bàn, mở hộc kéo lấy quyển check, mở ra định ký tiền bill. Quyển check còn đúng 1 tấm. Tôi đặt quyển check xuống, đi vào phòng làm việc định lấy quyển check mới.

                  Khi đi ngang qua nhà bếp, tôi bỗng thấy lon co-ca đang uống dở trên mặt bàn bếp. Tôi cầm lon co-ca lên thì nhận ra nó không lạnh. Tôi định đi về phía tủ lạnh để cất nó thì mắt tôi bỗng thấy cái chậu hoa trên nơi cửa sổ nhà bếp và dường như nó đang thiếu nước. Tôi quyết định tưới chậu hoa trước khi tôi quên.

                  Thế là tôi bỏ lon coke lại xuống bàn bếp và đi tìm cái bình tưới. Chợt tôi thấy cái kính lão của tôi mà tôi đã khổ công tìm nó suốt buổi sáng đang nằm chình ình trên mặt bàn bếp. Tôi nghĩ là tôi phải cất nó vào hộc bàn làm việc trước khi tôi quên nhưng tôi chợt nhớ là mỉnh phải đi tưới chậu hoa.

                  Bỗng tôi lại thấy cái remote control của cái TV trên mặt bàn. Biết rằng mình sẽ cần đến nó tối hôm nay, tôi cầm cái remote control lên và dợm đi về phía phòng xem TV để cất nó.

                  Bỗng tôi chợt nhớ là mình phải tưới chậu hoa cái đã. Thế là tôi lại để cái remote control xuống, và đi tìm cái bình tưới. Mở tủ lục lọi một hồi và cuối cùng tôi cũng tìm được cái bình đựng nước. Hứng nước đầy bình, tôi tiến lại chỗ chậu hoa định tưới nó thì bỗng tôi vấp phải chiếc giầy của ai trên mặt đất. Tôi loạng choạng suýt ngã và nước đổ đầy ra sàn bếp. Ðặt bình tưới xuống đất, tôi đi vào nhà giặt tìm cái khăn lau nhà. Lau xong cái sàn nhà, tôi đem cái khăn đi cất.

                  Sau khi cất được cái khăn, đứng trong phòng giặt, tôi hoàn toàn chẳng nhớ mình muốn làm gì … Tôi bóp trán suy nghĩ … a, nhớ rồi, tôi định đi rửa xe. Móc túi tìm xâu chìa khoá chẳng thấy. Tôi lại bóp trán … tôi chẳng nhớ là mình để nó ở đâu nữa… Thế là tôi lại đi vòng vòng quanh nhà, lên lầu, xuống lầu để tìm xâu chìa khoá ….Lúc này trời đã quá trưa … Bài báo đọc chưa xong, ly cà phê chưa uống hết bây giờ đã nguội ngắt, chiếc xe dơ chưa rửa, đống bill chưa trả, cái thùng rác vẫn đầy nguyên, lon coke vẫn nằm chình ình trên mặt bàn với cái remote TV và cặp kính lão, cái bình vẫn còn nằm trên sàn nhà, chậu hoa vẫn thiếu nước, quyển check cũng chỉ còn 1 tấm, và tôi vẫn ... chưa tìm được xâu chìa khoá !!!!

                  Tôi ôm đầu suy nghĩ không biết thì giờ đi đâu. Rõ ràng là tôi bận rộn suốt buổi sáng . Tôi cảm thấy mệt mỏi. Tôi biết là tôi có vấn đề. Tôi dợm đi lấy điện thoại định gọi để lấy hẹn gặp bác sĩ nhưng tôi phải đi viết thư cho các bạn tôi cái đã. Tôi muốn kể cho các bạn tôi nghe về cái tuổi già của tôi.

                  Bạn, Ðừng cười tôi, vì nếu những điều này chưa xảy ra cho bạn thì tin tôi đi, nó sẽ xảy ra. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Và nếu bạn nhận được thư này của tôi, xin làm ơn giúp tôi gời cho những người bạn khác vì tôi không nhớ là tôi đã gởi cho ai nữa.

                  Cám ơn bạn lắm lắm..

                  Zen master

                  https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                  Last edited by BachMa; 01-16-2019, 03:58 AM.

                  Comment


                  • Lính Nghĩ Gì ???

                    Lính Nghĩ Gì ???
                    Châu Áp Tử


                    Hình minh họa

                    Từ thưở ấu thơ, tôi sống và lớn lên với hình ảnh của người lính quân lực VNCH qua những câu chuyện mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe vì ba đã đi tù cộng sản. Khi ấy, tôi còn quá bé nhỏ nên không nhớ mặt ba tôi ra làm sao nữa. Nhưng nhờ vài tấm hình còn sót lại trong nhà nên tôi nhìn thấy ba trong quân phục và các đồng đội của ba. Mẹ tôi hay kể là hồi xưa lúc có những đại hội chiến sĩ thì các nữ sinh từ những trường Gia Long, trường Trưng Vưng và các trường nữ trung học khác đến để tiếp đón, chào hỏi những người sĩ quan và lính VNCH trong những tà áo dài trắng thướt tha. Hồi xưa thì các trường nam và nữ học riêng. Cho nên chỉ nói tới trường Gia Long hay Trưng Vương là người ta biết ngay toàn là nữ sinh học trường đó hay nói tới trường Petrus Ký hay Cao Thắng thì toàn là nam sinh vậy.

                    Rồi mẹ cũng kể khi mẹ phải dắt anh Hai tôi bay ra ngoài chiến trường mà thường là ở miền Trung như Huế và Quảng Trị, nơi ba tôi đang đóng quân và tác chiến để thăm ba. Mẹ nói khi mẹ muốn có em bé thì phải đi thăm Ba cho nên mới có anh Ba tôi ra đời. Bởi vì ba là một sĩ quan tác chiến của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Vì vậy ba thường xuyên đi chiến đấu khắp nơi và thường là đi hàng mấy tháng trời mới về nhà thăm gia đình. Có khi ba về nhà giữa đêm khuya, tự động mở cửa vào nhà mà mẹ vẫn chưa hay biết. Ba cũng hay nhắc lại những việc này và còn nói là ba vào nhà nhìn thấy hai mẹ con nằm chèo queo ngủ thấy thương lắm.

                    Nhờ những mảnh chuyện từ ba và mẹ tôi kể về thời xưa nên tôi mới hiểu và nhìn thấy được bức tranh và tâm sự của người lính trẻ mà nhạc sĩ Trúc Phương muốn chuyển tải trong bài hát “Người xa về thành phố.” Tôi như được nhìn thấy hình ảnh của một người thanh niên có thể là là một anh lính tác chiến VNCH hay một người sĩ quan tác chiến VNCH khoác trên mình bộ quân phục phủ bụi phong sương trong một chuyến về phép. Anh lính trẻ ngơ ngác giữa chốn phồn hoa đô hội và nhất là chốn ăn chơi. Anh nhìn đâu đâu cũng thấy toàn những gương mặt lạ hoắc bởi vì anh suốt ngày chỉ làm bạn với súng đạn và rừng núi bên cạnh đồng đội của mình quanh năm. Nhưng thời gian cực khổ, gian lao cần phải được bù đắp với chút thời gian thư giản, nghĩ ngơi.


                    Hình minh họa

                    Tuy lạc lõng, bơ vơ giữa chốn thị thành nhưng ở nơi này có một người mà anh lính luôn mong mỏi được gặp hằng đêm. Tôi mường tượng đó là một cô nữ sinh áo trắng mà anh có dịp gặp tại một trong những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với các nữ sinh trung học. Người con gái đó và anh mới sơ giao đã trao vội thông tin liên lạc và rồi từ đó cả hai đã viết hàng trăm lá thư cho nhau gởi gắm những mơ ước ngày hội ngộ. Người con gái đó và anh dường như đều hoàn toàn không có chút kinh nghiệm trên tình trường.

                    Tuy nhiên, anh đã thú nhận rằng bản thân anh đã lạc lối vào tình yêu lúc nào mà chính anh cũng không hay biết mặc dù anh là người rất kinh nghiệm trên chiến trường. Tất cả đều chỉ diễn ra qua những lá thư làm nhịp cầu nuôi dưỡng và phát triển tình yêu ngày càng lớn dần lên giữa anh và người anh yêu. Tuy cả hai đã viết hàng trăm lá thư cho nhau mà hai người vẫn chưa hề nói lên tiếng yêu đương. Thế nhưng cả hai người đều đã tự biết lòng nhau và hôm nay đây, khi hai người được tao phùng thì ngọn lửa yêu đương đã lên đến đỉnh điểm. Và rồi thì việc gì giữa những người chân thành yêu nhau đến thì tự nhiên nó đến.

                    Làm trai thời loạn lạc cho nên anh lính VNCH phải gánh vác trách nhiệm quốc gia, dân tộc trên vai. Mặc dù bén hơi men yêu đương quá ngọt ngào nhưng anh lính vẫn vòng về đơn vị sau khi hết kỳ nghỉ phép. Anh mạnh dạn bước đi vào chiến trường tuy tâm tư rất luyến tiếc vì không muốn rời xa người mình yêu và cũng có thể đây là lần cuối hai người được gặp nhau. Nhạc sĩ Trúc Phương dùng đại danh từ “mình” trong suốt tác phẩm của ông kết hợp với giọng hát da diết, truyền cảm của nam ca sĩ Trường Vũ, tôi như được nghe trực tiếp những lời tâm sự của anh lính VNCH đang thủ thỉ kể chuyện yêu đương thầm kín của mình với một người đồng đội bênh cạnh mình trong chiến hào vào lúc giữa đêm khuya. Đó cũng là những lúc anh nhớ đến người yêu nhiều nhất hằng đêm.


                    Hình minh họa

                    Tôi nhìn thấy hình ảnh của anh lính VNCH thật là sống động, đáng yêu, đáng ngưỡng mộ và cũng thật là đáng thương làm sao. Không những anh là một người sống có lý tưởng sẵn sàng hy sinh tính mạng hay một phần thân thể vì quốc gia, vì dân tộc. Anh lại còn là người sống có đạo đức, người có tâm hồn cao thượng với phong cách đầy lòng tự trọng, nhẹ nhàng, sâu lắng trong tình yêu giữa người và người. Tuy có thể sống nay chết mai trên chiến trường nhưng anh không vì thế mà cố gắng sống chụp giựt. Anh không tham sống sợ chết, không chỉ biết nghĩ đến hạnh phúc riêng tư của bản thân và gia đình. Anh sống rất hiên ngang, có kỷ luật bản thân, rất thanh cao và cũng rất tình cảm.

                    Thời thanh niên thì ai ai cũng có những ước mơ, nhu cầu cho bản thân nhưng thanh niên thời trước 1975 ở miền Nam đa phần là những người sống có lý tưởng thật sự. Điều này đã được chứng minh khi đa số lực lượng quân lực VNCH đã chiến đấu tới giây phút cuối cùng để bảo vệ miền Nam Việt Nam mặc dù một số các tướng lãnh đã di tản. Những người lính và sĩ quan quân lực VNCH lại tiếp tục trả giá cho lối sống có lý tưởng của mình sau khi cộng sản Bắc Việt cướp nước tháng 4 năm 1975. Không riêng gì bản thân họ bị hành hạ trong ngục tù của cộng sản mà gia đình, vợ con của họ cũng cùng trả giá cho lối sống có lý tưởng này.

                    Nếu như chính phủ VNCH thắng cuộc tại Việt Nam thì tôi tin chắc rằng những chân giá trị làm người sống có lý tưởng như vầy sẽ được tiếp tục truyền bá khắp Việt Nam chứ không như thời nay. Nhắc đến công ơn của những chiến sĩ đã hy sinh cho quốc gia, cho dân tộc trong các trận chiến chống giặc Tàu phương Bắc cũng không được phép từ sách giáo khoa tới thực tế ngoài đời. Vậy hệ thống giáo dục XHCN của đảng CSVN đang đào tạo ra những con cừu non chỉ biết xôi thịt ăn chơi thôi hay sao? Chẳng biết nghĩ gì tới trách nhiệm của bản thân đối với quốc gia, với dân tộc? Ca dao Việt Nam có câu:

                    “Làm trai cho đáng nên trai,
                    Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên”


                    Nếu sống đời trai mà không “đáng nên trai” thì làm cái gì đây?

                    New Hampshire, Wednesday March 22, 2017
                    Châu Áp Tử


                    https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                    Last edited by BachMa; 01-19-2019, 06:52 PM.

                    Comment


                    • Truyền Hình Việt Nam Trước Năm 1975 Lần Đầu Tiên Phát Sóng

                      Truyền Hình Việt Nam Trước Năm 1975


                      Ngày 7 tháng 2 năm 1966, vào lúc 19h là buổi phát hình đầu tiên của Đài Truyền hình Việt Nam và cũng là buổi phát hình đầu tiên trên toàn cõi miền Nam. Lần đầu tiên người dân Saigon, Danang, Quy Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ được trực tiếp xem truyền hình đen trắng do Đài truyền hình Sài Gòn phát lúc 19 giờ, truyền qua máy bay. Đài phát sóng có công suất 225kw, bán kính hữu hiệu 75-90 dặm Anh ( 120-140km).


                      Chiếc máy bay dùng để phát sóng là loại máy bay cánh quạt có tên là BLUE EAGLE ( Đại Bàng Xanh) của quân đội Mỹ. Trên máy bay có máy phát hình, công suất 1kw do hãng RCA ( Mỹ) chế tạo, một studio đọc tin với một Camera, một máy Film Chain (hệ thống chiếu phim) và một máy video tape recorder ( máy ghi phát hình video băng trần, viết tắt là VTR) loại 4 đầu từ, dùng băng lớn 2 inches ( 50mm). Thời lượng phát sóng trung bình từ máy bay là 2 giờ/ đêm, bắt đầu từ 19 giờ và kết thúc lúc 21 giờ.


                      Trong giờ phát sóng, máy bay BLUE EAGLE bay trên không phận Sài Gòn và vùng lân cận. Sóng phát đi từ anten Dipole đặt dưới bụng máy bay. Với tốc độ cao phát sóng vài ngàn mét, vùng thẩm hình khi đó rất rộng, gồm hầu hết các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Từ Phan Thiết đến Cần Thơ đều có thể thu rõ. Do phát hình từ máy bay nên sóng truyền hình rất dễ thu, không cần đến anten cồng kềnh phức tạp. Tuy nhiên, kiểu phát hình như vậy hết sức tốn kém. Có lẽ phát hình bằng máy bay như đã sử dụng ở Sài Gòn cũng là một trường hợp hiếm có trên thế giới....


                      Để đào tạo chuyên viên Việt Nam, chính phủ cử tám người sang Đài Loan thụ huấn trong 6 tháng cùng hai học viên khác do cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu cử đi, tổng cộng là 10 người. Trong đó có một người là Tổng thư ký Bộ Quốc gia Giáo dục và hai cô nhân viên thuộc Bộ học về chương trình giáo dục bằng VTTH, hai người thuộc Thông tin Công giáo.


                      Phía Nha VTTH có các nhân viên học về kỹ thuật, về làm chương trình và về đạo diễn. Đến Đài Bắc, các học viên được tập huấn tại Quang Khải Xã, đài truyền hình lớn nhất Đài Loan lúc ấy. Họ được làm quen với tất cả các công đoạn làm chương trình truyền hình như lập kế hoạch, viết bản tóm lược, phân cảnh, đạo diễn, quay phim, thu hình, âm thanh, bày trí phông, hướng dẫn diễn viên và hóa trang. Người hướng dẫn là chuyên viên thuộc Quang Khải Xã và từ hai đài truyền hình ở Đài Trung và Đài Nam.


                      Họ được sử dụng máy móc giống như dàn thiết bị mới được trang bị ở Sài Gòn. Trong khi lưu lại, họ được dự các buổi phúc khảo hoặc việc sản xuất thực tế của các chương trình thường xuyên của Quang Khải Xã. Khóa huấn luyện kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1967. Sau khi về nước, họ đã có thể sản xuất trọn vẹn một chương trình Việt Nam...


                      Đài THVN được phát trên băng tần số 9 trong khi đài Quân đội Mỹ AFVN phát tín trên băng tần số 11.

















                      https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                      Comment


                      • Lấy Nhau Chẳng Đặng, Thương Hoài Ngàn Năm

                        Lấy Nhau Chẳng Đặng, Thương Hoài Ngàn Năm..


                        Hình người tỵ nạn vượt biển

                        Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lĩnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt, … đến khi chị vênh mặt hỏi … “ Tôi có chỗ nào không ổn ”... Anh mới ngượng ngùng sực tỉnh lí nhí …nói câu xin lỗi ….!

                        Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất viá, Còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày ...

                        Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp Đại Học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một điều là anh nói tiếng việt giọng bắc rất chuẩn, và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.

                        Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nỗi tính nghịch ngợm, muốn trêu cho anh …

                        .. Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử …, anh cũng tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc, còn chị, nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch …

                        Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em, bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói, Anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi ??

                        Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao ?? . Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ, anh đi công tác …
                        Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi .. áy náy đó thôi.

                        Tuần sau Anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách va li đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng .. làm chị thấy .. tự ái ghê gớm luôn …

                        Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma ..

                        Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và de xe ngược lại. Dù đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không …(đang hờn mát mà).

                        Gần tới nhà, Anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị :… ” sao em ghét tôi quá thế?? ”.

                        … Bị hỏi thình lình, Chị ấm ớ: ”Tôi có ghét anh đâu?.”

                        Anh nhìn vào mắt chị, (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao …) ... “thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười … ?”

                        Tự nhiên chị thấy lúng túng, …. May quá tới nhà rồi, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo ….

                        Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ về một chàng trai …

                        Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp.

                        Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, chị cứ ra vô, ăn ngủ không yên …Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy ??

                        Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ va li xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe, và cuối cùng hỏi chị một câu …:

                        ”Em nhớ tôi lắm hả ??? …“

                        Câu hỏi bất ngờ, làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt … như ăn trộm bị bắt quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ ??? …), chị vờ có việc … kiếm cớ bỏ đi.

                        Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ỉ.. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng, rồi anh bỏ đi.

                        Ôm bó hoa, chị hồi hộp… Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo:

                        “Em của tôi.

                        Lần đầu gặp, em đẹp như một bức tranh,

                        Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo,

                        Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi...
                        Bây giờ, tôi bắt đền …em để trái tim tôi ở đâu ???

                        Tôi muốn xin em trả lại …!”

                        Trời đất! phải làm sao đây, đọc xong bức thư, chị tái mặt … lại cả đêm trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao ..?? ...

                        Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.

                        Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học …

                        Nhưng một sáng đầu năm 75, Anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về … toàn bộ nhân viên Ngoại giao Mỹ được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba chị. Xin Ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu.

                        Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ ?.

                        Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã …

                        Biến cố tháng 4/75 ập tới. Ba chị đi tù (Là nhân viên cao cấp Bộ ngoại giao), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan.

                        Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài …

                        Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt, nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.

                        Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nổi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nỗi. Nhưng rồi … chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai ..

                        Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ, sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận … ” …. Biết vậy Ba gả con cho nó ..”

                        Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi. Nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau …và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa.

                        Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ & số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẵng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi …

                        Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que cũi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ ?.

                        Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng, lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.

                        Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển …

                        Môi nứt nẻ, rướm máu, sức làn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại, trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu trời.

                        Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bõng ngủ vùi trong lòng mình, và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.

                        Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê …

                        Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ, chị hỏi đây là đâu ? Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã lai .

                        Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê, trước khi ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa chỉ, giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây.

                        Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nỗi cả mẹ lẫn con không ? ..

                        Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bõng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi sinh lần nữa …

                        Bác sĩ quyết định mổ.

                        Như cơn gió lốc..

                        Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên hiệp quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt ...

                        Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.

                        Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời …

                        Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc Anh tràn đầy xúc động, anh véo tay mình mấy lần, để biết chắc, đây không phải là một giấc mơ.

                        Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.

                        Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng, chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.

                        Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé ...

                        Trước hôm về lại Mỹ, Anh & Chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc lá. Ánh mắt yêu thương, anh như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình.

                        Chị nhìn anh cảm kích ?, biết ơn ?. Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói, hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ … , tự nhủ lòng … phải quên thôi … !

                        Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu ” Em xin lỗi …..”

                        Có những niềm riêng một đời giấu kín ..
                        Như như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
                        Có những niềm riêng một đời câm nín
                        Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi …


                        Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt (USD). Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng Anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:

                        “Cứ coi như tôi cho mượn, sau này, anh có thì trả lại cho tôi …”

                        Bốn tháng sau, giữa năm 1980 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, California USA …

                        Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó, chị có thêm một thằng cu Tí ra đời, nhìn ba đứa con, ngày mỗi lớn. Chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều.

                        Mỗi năm đến ngày lễ lớn, hay sinh nhật của từng đứa con chị , Anh đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì … cố coi như “.. chỉ là giấc mơ qua”.. !

                        Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 3 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho Anh sau 3 năm tới Mỹ ..

                        … Nợ tiền đã trả được … nhưng nợ tình thì sao ??.

                        Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân …công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc, bận rộn làm vui ...

                        Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại Bà thương chị như con, dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị, qua tấm ảnh trong phòng anh.

                        Những gì bà ấy nói, thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh …

                        Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà Ngoại (Grandma).

                        Một chiều mùa thu, Bà gọi cho chị biết Anh đang ốm nặng.

                        Chị muốn đi thăm lắm... nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có những lý do tế nhị, chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh.

                        Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm, nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được. Mẹ anh, vừa khóc, vừa nói vớí chị:

                        Con biết không ? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều... nhưng cho đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu, mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà, để bên đầu giường”

                        Chị khóc !

                        Hai năm sau đang giờ làm việc mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công.

                        Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót …

                        Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của Anh và của chị. Khóc thương cho người đàn ông, đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một đều gì ..!

                        Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản, nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu … Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cám ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu ” Em xin lỗi ..”

                        Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:

                        Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi ...”

                        Đám tang anh vào một ngày đầu mùa Đông ….. buồn. Anh ra đi ở tuổi 46 tuổi.

                        Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh … nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ …. đặc biệt dành riêng.

                        Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.

                        Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết, cả ba đứa con chị, đều có phần trong tài sản của anh để lại, số tiền không nhiều, nhưng dư đủ cho cả ba đứa, vào học những trường đại học danh tiếng nhất.

                        Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống, chị đã không thể nói.

                        Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết, kiếp này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.

                        Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm “Nếu có kiếp sau, xin em đừng nói câu “Xin lỗi”….



                        https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                        Comment


                        • Bên Những Bờ Rừng

                          Bên Những Bờ Rừng
                          Phan Minh



                          Nhân vội vã bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nhìn lên bộ áo bay đã ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đã vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.

                          Nhân nhìn đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng không nghe rõ câu hỏi, nhưng nhìn theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".

                          Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đã bạc màu của chàng, trông thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.

                          - Cô về đâu? ...

                          Cô gái đáp ngay như đã sẵn sàng từ lâu:

                          - Dạ em về Huế, thế còn anh?...

                          Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nhìn kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tròn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả đào đang mùa.

                          Nhân trả lời:

                          - Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không còn xe để ra Huế, khi tàu về đến Ðà Nẵng chiều nay.
                          Nàng trả lời nho nhỏ:

                          - Dạ ...

                          ***

                          Nhân nhìn ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để tìm vui bên ly cà phê đen của quán "Dinh Ðiền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ, nhìn theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với những chiếc áo dài.

                          Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi còn ở Cần Thơ, phi trường Bình Thủy, nơi chàng đã sống bốn năm, bên dòng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang còn ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc bình minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước.

                          Có một lần chàng đã thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất hình chử "S". Từ trên trời cao nhìn xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang còn lảng vảng trên mặt đất.

                          Trong khung cảnh thanh bình đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.

                          Chợt cô gái quay lại hỏi:

                          -Anh đang nghĩ gì mà có vẽ đăm chiêu như thế?

                          Cô ta đang chăm chăm nhìn vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:

                          -Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

                          Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:

                          -Tôi tên Nhân, thế còn tên cô?

                          Cô gái có phần dạn dĩ hơn.

                          -Dạ em tên Hoá...

                          Nàng nói tên mình một cách rất tự nhiên và đang theo dõi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nhìn nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về mình, Hoá hỏi:

                          -Anh Nhân mới ra Pleiku?

                          Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:

                          -Vâng tôi ra Pleiku đã 3 tháng!... Thế còn Hoá?

                          Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương Hữu Lạc trưởng phòng QCTP Pleiku, Hoá nói:

                          -Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.

                          Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng tình nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đã bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:

                          -Anh Nhân có thường về thăm Huế không?

                          Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra mình đã ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đã về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lý do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.

                          ***

                          Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974). Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đã lên Pleiku sau ngày về nước, còn chàng thì về trình diện Vùng IV, phục vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn Phương, nhưng vì mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đã dí dỏm nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:

                          -Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.

                          Nhân mỉm cười, vì ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đã trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, vì tình hình hai toán Lôi Hổ vào lòng địch trước đây đã bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, thì bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào.

                          Phương và Nhân vào phòng hành quân để tham dự buổi thuyết trình của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, vì sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đã liên lạc về cho biết là họ đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đã phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.

                          ***

                          Những tháng cuối năm 1971, Nhân đã có dịp bay những phi vụ với các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quãng Lợi. Họ được đưa lên phi trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Ðây là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đã cùng bay với hợp đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có gì nghiêm trọng cả. Họ từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có thể oanh kích và bắt sống.

                          Trên vòm trời lúc ấy, còn có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ vì "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đã ra đi, còn Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.

                          Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt này, Nhân đã được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để phòng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn còn đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, còn họ thì lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính mình. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào lòng đất địch.

                          ***

                          Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần bãi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo.


                          Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đã tỏ bày những nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài Gòn, nơi người bạn gái anh hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối tình của một cô nữ sinh, với anh.

                          Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Ðại Học với nhiều lần hẹn hò. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Ðô. Ngày ấy cũng là lúc em học xong Ðại Học Sư Phạm. Họ đã ước hẹn một tương lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi chuyến bay.

                          Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Ðó cũng chính là những hình ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài Gòn vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.

                          Hôm nay Phương và Nhân nhận lãnh phi vụ bay vào lòng địch để bốc toán thám sát sáu người. Ðáng lý ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đã nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu.

                          Tuần trước Nhân tìm cách đổi chiếc radio của mình, vì chỉ chiếc radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Phòng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đã tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Ðúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đã nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về phiá mục tiêu.

                          Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên vòm trời ngoài chiếc C&C của Ðại Úy Hoàng, còn có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Ðình Bảo đã ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972.

                          Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dãy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay lượn trên vòm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Ðại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:

                          -Số hai, vị trí bãi đáp bên phải của anh.

                          Nhân trả lời:

                          -Số hai, nghe năm.

                          Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên bãi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.

                          Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:

                          -Có ground fire!...

                          Bên kia vô tuyến Ð/uý Hoàng đáp lại:

                          -Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!

                          Phương trả lời:

                          -Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.

                          Tiếng đạn bắn lên đã ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần tốc độ. Bãi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên bãi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây mục giữa Bãi đáp. Trong suốt đoạn đường vào bãi đáp thật yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , vì lực lượng địch quân đang trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ.

                          Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ, xong nhìn lên những thân cây cao trước con tàu. Ðấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vã, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi bãi đáp.

                          Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn phòng không đang bắn trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như khựng lại.

                          Chàng nhìn thấy Phương đã buông cần lái và đầu cúi gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không còn sức nâng, cần Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đã bị trúng đạn!... Con tàu tiếp tục lao xuống, Nhân cố kéo cần lái để bình phi. Hệ thống thủy điều đã bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều khiển. Sau khi bình phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.

                          Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.

                          Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt vòng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.

                          Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đã nổ tan tành, thân tàu đã xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...

                          Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Ðại (Cơ phi) và Tài (Xạ thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.

                          Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú bị cắt tiết.

                          Nhân nhìn qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của mình. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được.

                          Nhân nhìn quanh để tìm người giúp, nhưng chung quanh chỉ còn lại mỗi mình chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đã vội vàng đi theo các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ý nghĩ rằng chính Phương đã không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.

                          Nhân nhìn lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...

                          Khi đã ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ tình trạng của con tàu, chiếc cánh quạt đuôi vẫn còn đang quay tít. Một cành cây đã đập vào phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lý do tại sao tàu không tắt máy được. Nhìn ra bờ rừng thì cây cối dày đặc, tầm nhìn không quá 10 mét. Nhân lần bước tiến lên tìm một lối đi, chợt chàng nhìn thấy một cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đã bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm lên. Ði được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên nặng nề, vì trong túi bay Nhân đã để dây nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay.

                          Ðể khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú vẫn còn ở bên dưới chân núi vọng lên.


                          Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là bãi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đã bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép mình sau một bụi trúc tương đối rậm, và nhìn ra khoảng trống quan sát. Trên vòm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.

                          -Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên vòm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...

                          Nhân lập lại một lần nữa, thì thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên bãi vừa đáp.

                          Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo tình trạng của chàng dưới đất:

                          -Phương đã chết trên ghế lái, và xác còn ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đã dẫn theo Ðại và Tài, còn chỉ một mình tôi đang nằm cạnh bãi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây thì thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:

                          -Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.

                          Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vã rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu trò chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Ðịnh. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn nòng, dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:

                          " Ðám này chính là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dõi những bóng người giữa bãi đáp. Không còn nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng tìm. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp.

                          Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn còn vọng lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng không có vũ khí để tự vệ, thì làm sao để đối phó đây? ... Những ý tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:

                          " Chắc là không còn hy vọng gặp lại gia đình nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi bìa rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ không còn nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nhìn ra sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu lòng của Mẹ. Ðôi mắt mẹ chàng nhạt nhoà lệ, đã khóc oà lên khi nhìn thấy chàng từ đầu ngõ.

                          Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:

                          -Các đồng chí chờ chúng tôi.

                          Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội vã hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên vì mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn còn có một người đang quan sát họ từng giây, từng phút.

                          ***

                          Chờ cho bốn người kia đi đã khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Ðông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đã học được từ kinh nghiệm Hướng Ðạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng.

                          Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đã cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đãi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, còn rừng Trường-Sơn thì dày đặc, 10 mét đã không còn thấy lối đi!...

                          Nhân mò mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ý chí kiên trì của chàng.

                          Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, thì thấy ngay trước mặt một bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một bìa rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua cửa hầm.

                          ***

                          Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đã chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng còn nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái gì đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt mình. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước.

                          Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều bình biđông nước. Nhìn xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:

                          -Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với....

                          Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên nòng, những bóng người phía trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:

                          -Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.

                          Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Ðại và Tài nhận ra tiếng của Nhân, nên Ðại đã la lên:

                          -Trung Úy Nhân đây rồi, ... Ðừng bắn, đừng bắn...

                          Lúc ấy Ðại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn ghìm súng hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp cò nếu có gì nguy hiểm.

                          Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Ðại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:

                          -Ðừng bắn, đừng bắn...

                          Mọi người hú vía, vì trong rừng già, bất cứ một vật gì nghi ngờ lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp cò. Ðại và Tài còn đeo cây Colt-45 của họ, còn Nhân thì đã để cây súng P-38 của mình trong tuí bay, cái tuí bay này đã nằm lại bên một bìa rừng!....

                          Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là suýt nữa đã bóp cò. Người Chuẩn Úy trưởng toán còn cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi Nhân:

                          -Liệu có ai đến bốc mình không Trung Úy?

                          Nhân nhìn đồng hồ, đã 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:

                          -Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ tìm cách bốc chúng ta ngay chiều nay.

                          Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?

                          Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng bình bi-đông nước và dặn dò:

                          -Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó. Chàng nhận bình bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc nãy chàng nghe khi còn ở trong rừng, chàng hỏi:

                          -Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:

                          -Ðó là tiếng lựu đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để tìm bốc Trung Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang đứng cạnh tàu, nên đã tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đã rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:

                          -Thì ra là thế!...

                          Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường mòn trước mặt. Tất cả tìm cách băng qua con đường mòn này, các anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Ðại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một hòn đá ra giữa đường và chờ đợi.

                          Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất đỏ, do xe Công Binh đã xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao nghệu, còn bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá dò dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất đỏ.

                          Tài và Ðại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân còn đeo lủng lẳng cái bình bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất bình bi-đông nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không còn ai bên dưới cả. Nhân nhìn qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ý và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của anh.

                          Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Ðông-Nam tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại vì cơn mưa lớn đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nhìn những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó.

                          Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro tìm hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành.

                          Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để tìm sự che chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường đất nơi còn để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt.

                          Ðiếu thuốc đã tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ này.

                          Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của mình. Tài và Ðại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của mình. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục hành trình trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc lên đã nghe tiếng:

                          - .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.

                          Nhân vội đáp lời:

                          -Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rõ.

                          Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:

                          -Liệu họ có bốc mình ngay chiều nay không Trung Úy?...

                          Chàng gật đầu đáp:

                          -Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.

                          Chiếc máy bay L-19 đã nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:

                          -Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:

                          -Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:

                          -Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của mình. Xong Nhân gọi:

                          -Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?

                          -OK... Chúng tôi đã nhận ra vị trí của bạn.

                          Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio tìm cứu, Nhân nói tiếp :

                          -Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...

                          Nhìn con tàu như cánh chuồn chuồn trên vòm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội mình.

                          -Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp :

                          -Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển thì nhanh hơn. Bạn nghe rõ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng ra bãi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Bãi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh còn thấy các hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm bãi đáp.

                          -Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn

                          -Lạc Long, nghe năm trên năm.

                          Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.

                          -L-19, chúng tôi đã đánh dấu khói đỏ tại bãi đáp.

                          -Lạc Long, trực thăng đã thấy bãi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.

                          -L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.

                          Nhân quay lại nhìn những người đồng hành với mình, Ðại và Tài bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác bãi đáp. Nhân nhìn đồng hồ đã 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không còn sự an toàn để việc thực hiện việc tìm cứu như thế này. Nhân e ngại nhìn chiếc trực thăng đang tiến vào bãi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng tìm cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Ðại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đã lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào bìa rừng, để uy hiếp.


                          Nhân nhìn qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Ðình Minh, trưởng phi cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nhìn mọi người tươi nụ cười hiền hòa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku thay vì về đáp tại Kontum.

                          ***

                          Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm dò những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất tiếng:

                          - Anh đang miêng mang chuyện gì mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:

                          - Tôi đã nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của những người tình của “Lính”, và gia-đình của họ qua một phi vụ hai tuần trước đây.

                          - Anh kể lại cho Hoá nghe với.

                          Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đã mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một vòng qua thành phố đã hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Ðà Nẵng. Hành khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:

                          - Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng mình ra phố. Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay vì đi theo những hành khách để đi vào trong.

                          Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:

                          - Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:

                          - Nhân đây, Anh khoẻ không?

                          Kim gật đầu và nói:

                          - Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài Gòn ngay.

                          Nhân ghé qua Hoá nói:

                          - Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Ðà Nẵng.

                          Nàng cúi đầu chào:

                          - Hoá chào anh Kim.

                          Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:

                          - Chiều nay em về đâu?

                          Hoá trả lời:

                          - Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, còn anh?... Chàng trả lời:

                          - Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đình ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:

                          - Ðây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:

                          - Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?

                          Nàng trả lời:

                          - Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:

                          - Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:

                          - Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:

                          - Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...

                          Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:

                          - Anh ở lại làm việc trể quá vậy!

                          Kim đáp lại:

                          - Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Ðà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đình.Kim nói tiếp:

                          - Tôi đã liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buýt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:

                          - Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đã bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:

                          - Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:

                          - Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:

                          - Tôi sẽ đưa anh chị đi!...

                          Hoá xen vào:

                          - Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện trò lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:

                          - Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ý của cô, sau đó chúng ta đi phố.

                          Kim Tiếp:

                          - Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...

                          Nhân tiếp lời cho Hoá:

                          - Không sao, còn nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngã tư, Kim hiểu ý và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:

                          - Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...

                          Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:

                          - Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...

                          Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Ðằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đã có dịp chuyện trò về những buồn vui của đời lính, về thân phận của mình trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là những mất mát mà anh đã chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đã vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của mình.

                          ***

                          Trong hơi men Nhân nhìn ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nhìn qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đã lên đèn. Trên trời cao những vì sao đã lấp lánh, bên dưới là dãy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang chìm khuất trong bóng đêm đen như mực.

                          Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy Phan Văn Phương đã vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàigòn, vào lúc này, vẫn còn một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!...

                          Chiến tranh và số mệnh đã lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia đình Phan Văn Phương!.... Trung uý Phan Văn Phương bình thản, xuôi tay trong con tàu của mình, sau một phi vụ không hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của mình ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Ðình Bảo, Nguyễn văn Ðương, và nhiều người khác nữa ...

                          Những anh hùng không tiếc một điều gì cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ hoá thành một loài chim trên vòm trời xanh thật an bình. Nơi vùng trời này sẽ không còn hận thù, không còn những nổi niềm đau xót về đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và bom đạn điêu linh.

                          Phan Minh

                          https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                          Last edited by BachMa; 03-02-2019, 07:53 PM.

                          Comment


                          • Chưa Đi Chưa Biết..

                            Chưa Đi Chưa Biết..





                            Đến châu Âu mới biết đi shopping không sợ hàng giả

                            Đến Bắc Âu mới biết mặt trời cũng thích ngủ nướng

                            Đến Hong Kong mới biết minh tinh nào cũng đeo khẩu trang

                            Đến Hà Lan mới biết mực nước biển cao hơn mặt đất

                            Đến Thái Lan mới biết thì ra con cú cũng có gai

                            Đến Pháp quốc mới biết trêu hoa ghẹo nguyệt cũng cực kỳ có phong cách

                            Đến Nga mới biết Vodka chỉ là một loại nước giải khát

                            Đến Hawaii mới biết phụ nữ không cần phải mua áo dzú nga mi

                            Đến Hàn Quốc mới biết phụ nữ đẹp không phải do bẩm sinh

                            Đến Brazil mới biết mặc đồ thiếu vải cũng chẳng có gì phải thẹn thùng

                            Đến Anh quốc mới biết kết cục hạnh phúc mãi mãi về sau trong truyện cổ tích đều là hư cấu

                            Đến Nhật Bản mới biết ngay cả tội phạm cũng vô cùng lịch sự lễ độ

                            Đến Mexico mới biết có thể đi Mỹ bằng đường hầm

                            Đến Canada mới biết diện tích lãnh thổ lớn hơn Trung Quốc nhưng dân số còn kém Bắc Kinh

                            Đến Trung Quốc mới biết mười người hết chín người lừa đảo, người còn lại đang luyện tập ngày đêm

                            Đến Mỹ mới biết bất kể là ai, bạn đều có thể kiện họ ra toà

                            Đến Úc mới biết chuột túi và các loại động vật khác nhiều như quân Nguyên Mông dễ khiến con người phát điên

                            Đến Thuỵ Sĩ mới biết mở tài khoản ngân hàng, nếu có ít hơn 1 triệu USD sẽ bị cười thúi mũi

                            Đến Ý mới biết Gucci & Prada còn ít hơn Trung Quốc

                            Đến Áo mới biết người ăn xin nào cũng có thể đàn ít nhất một bản nhạc

                            Đến Vatican mới biết dù đứng ở bất kỳ vị trí nào trong nước cũng có thể bắn chết chim ở tận nước Ý

                            Đến VIỆT NAM mới biết....yêu quê hương là PHẢN ĐỘNG.


                            Tác dịch: Roger Doan
                            https://www.facebook.com/search/top/...epa=SEARCH_BOX
                            Last edited by BachMa; 03-08-2019, 06:03 AM.

                            Comment


                            • Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị

                              Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị
                              Trần Vũ
                              September 25, 2018



                              Hình minh họa

                              ĐẠI LỘ KINH HOÀNG
                              Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị

                              1. Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, khoá 19 Võ bị Đà Lạt. Khoá 19 là khoá tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến đông nhất, với 30 sinh viên sĩ quan kể cả thủ khoa Võ Thành Kháng. Thiếu Úy Huỳnh Văn Phú về Tiểu Đoàn 5 TQLC làm Trung Đội Trưởng năm 62 rồi nhiều năm sau giữ chức Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến TQLC cho đến 30 tháng 4. Sau 75 tù đày từ Nam ra Bắc, Thiếu Tá Phú còn là tác giả đã nhận giải thưởng Phóng sự Tiền phong 1972 do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH trao tặng. Tuy nhiên, bút ký Chiến Trường Trị Thiên và Những người lính Mũ Xanh in tại Sàigòn tháng 4-1975 đã không kịp phát hành. Thiếu Tá Phú định cư tại Philadelphia từ 1990.

                              Cùng với tuần san Trẻ, xin phép ông cho đánh máy lại Thủy Quân Lục Chiến đã phòng thủ Mỹ Chánh như thế nào trong Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972 của NXB Văn Nghệ Dân Tộc in năm 73 mà tôi may mắn tìm lại được.
                              Trần Vũ

                              GIÒNG SÔNG MỸ CHÁNH


                              Hình minh họa

                              Ðiều mà ít ai ngờ đến đã biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng hiện tại. Ðó là việc Hà Nội công khai xua quân tràn qua con sông ngăn cách Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly và hoả tiễn xâm lăng miền Nam. Và nếu chiến cuộc không bùng nổ lớn như thế, cái tên Mỹ Chánh cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ này đã không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện tại.

                              Vào những ngày đầu tiên của tháng 4-72 khi trận chiến bùng lên dữ dội, các căn cứ hoả lực của ta nằm dọc theo khu phi quân sự bị thất thủ, sự sinh hoạt ở Mỹ Chánh vẫn bình thường. Người ta vẫn tấp nập đi đi về về, và giòng nước vẫn lặng lờ chảy ra Phá Tam Giang. Và cũng không ai có thể nghĩ rằng một tháng sau đó, con sông Mỹ Chánh đã đi vào huyền sử đấu tranh của dân tộc.
                              Bây giờ thì bất kỳ người lính Thủy Quân Lục Chiến nào cũng có quyền hãnh diện khi nhắc đến địa danh đó. Nơi đây gót giày xâm lăng của quân Cộng Sản đã chùn bước và đã bỏ lại dọc theo giòng sông đó hàng trăm chiếc xe tăng đủ loại, hàng ngàn xác chết của đồng bọn khi chúng mưu toan tiến sâu hơn về phía Nam.

                              Trong bài viết này tôi sẽ ghi lại một cách tóm lược trong trường hợp nào mà con sông Mỹ Chánh trở thành phòng tuyến bảo vệ cố đô Huế từ sau cuộc lui binh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh ra khỏi tỉnh Quảng Trị ngày 1-5-72 cùng những diễn biến tổng quát và những người lính TQLC đã chiến đấu như thế nào để giữ vững phòng tuyến này.

                              Ngày 15-4 tôi từ giã Sàigòn ra đơn vị trong khi học “nửa chừng” khoá học “điều chỉnh” rất ư là “Cultivateur” tại trường Bộ binh Thủ Ðức, một quân trường mà buổi sáng ngủ dậy đã có gánh hàng rong bán bánh cuốn, bún riêu la ơi ới ở đầu giường, buổi trưa thì đậu hủ và chè cháo loạn xạ. Khoảng thời gian này, từ 10-4 đến 30-4-72, Lữ Đoàn 369 TQLC với các Tiểu Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 9 TQLC đang hoạt động ở phía Tây và Tây Bắc Mỹ Chánh trong một khu vực rộng chừng 200 cây số vuông gồm các căn cứ Nancy, căn cứ Barbara và căn cứ Ðộng Ông Ðô nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân từ mặt Tây Nam Quảng Trị. Ðơn vị tôi thì đóng tại căn cứ Nancy nằm bên trái Quốc Lộ 1, cách cây cầu Mỹ Chánh chừng một cây số về phía Tây Bắc, sau đó di chuyển ra đóng ở một ngôi làng nhỏ, kín đáo sát bên cạnh đường rầy xe lửa.

                              Gần một tháng trời chịu trách nhiệm khu vực trên, các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC đã chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Hàng ngày chạm địch liên miên từ cấp Tiểu Đoàn trở lên, đại pháo 130 ly của địch nã như mưa bấc, mọi công tác tải thương đều phải di chuyển bằng đường bộ, khiêng hoặc cáng đi trên một quãng đường dài gần 10 cây số đường núi vì trực thăng không có. Nhưng dù thế nào mặc lòng, các chiến sĩ TQLC cũng đã chiến đấu hăng say trong hoàn cảnh eo hẹp đó và mọi cố gắng của địch tiến quân ra vùng đồng bằng thuộc quận Hải Lăng đều bị chặn đứng hoàn toàn.

                              Vì ai cũng hiểu rằng nếu để địch xâm nhập thì Quảng Trị bị cô lập ngay và Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Do đó địch quân cay cú, hằng ngày chúng gia tăng pháo kích các đơn vị của ta. Các pháo đội của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh TQLC phải thay đổi vị trí đặt súng ngày một, nhưng di chuyển đi đâu cũng đều bị chúng pháo theo. Tiền sát viên của địch bám rất sát mọi sự xê dịch, di chuyển của ta. Lâu lâu quân ta bắt được một vài tên có máy móc vô tuyến đàng hoàng nhưng cường độ pháo kích của địch vẫn không hề suy giảm.

                              Tôi đã từng nghe những tiếng nổ, tiếng rít của các loại hoả tiễn 122 ly, 240 ly, nhưng lần này tiếng rít xé gió đi trong không khí cũng như tiếng nổ của loại đại bác 130 ly (bắn xa 27 cây số do Nga-Sô chế tạo) nghe thật khiếp. Tiếng rít xé gió bay qua đầu, tôi có cảm tưởng như là tiếng phản lực bay trên trời. Rồi tiếp theo là tiếng nổ thật lớn nhưng ấm, mảnh văng tung toé rơi trên những mái nhà tôn như có ai lấy thật nhiều đá ném lên. Mảnh nào mảnh nấy to bằng cái chén và văng ra xa trong vòng bán kính 200 thước. Chẳng có ai biết chúng đặt súng ở đâu cả (biết thì còn nói làm chi nữa) nhưng nghe được tiếng départ ở đâu trong dãy núi xa xa rồi sau đó khoảng chừng 5, 7 giây là đạn bay đến nổ ầm rồi.

                              Thường thì chúng cứ bắn hai quả một. Lính tráng hễ nghe hai tiếng départ ùng ùng thì la to “Một cặp” đó các anh em ơi! Thế là mọi người chui lẹ vào hầm. Ðịch bớt pháo thì chui ra. Cứ chui ra chui vào như thế suốt ngày. Cái hoạt cảnh lên hầm xuống hầm có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được, nhất là khi một mảnh đạn văng rơi trên cái mũ sắt của tôi đánh cồng một tiếng như tiếng chuông chùa. Ôi ta thương cái mũ sắt biết chừng nào! Có hôm mấy trăm quả nã vào đơn vị của tôi, ôi thôi tơi bời hoa lá nhưng khi kiểm điểm lại thì chỉ có 1 chết và 3 bị thương vì đạn rớt trúng ngay hầm. Giữa lúc bị pháo kích, ai nấy ở trong hầm tinh thần căng thẳng nhưng khi nghe một quả bị rớt không nổ thì mọi người lại vỗ tay cười.

                              Tôi cũng không biết họ nghĩ sao mà lại cười như thế, có lẽ cười vì cái khôi hài của chiến tranh tự nhiên khi không bắn giết nhau. Riêng tôi thì tôi thương cái hầm của tôi hết sức, hôm nào đổi vị trí đóng quân, tôi không tiếc cái gì hết chỉ tiếc có cái hầm mà mấy thầy trò, anh em tôi đã đào đắp công phu. Nhiều khi nhìn nó, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu của đất. Ðất nuôi sống con người, cứu vãn con người và khi người ta buông xuôi cũng trở về với 3 thước đất. Trên cõi đời ô trọc và buồn phiền này có gì tồn tại hơn là đất cát. Và đó có lẽ là cái ý nghĩa sau cùng của con người, nhưng buồn thay không mấy ai để ý đến, chỉ lo đi tìm những cái ảo ảnh, danh vọng để lừa dối, phản bội và bắn giết nhau.

                              HÀNH LANG MÁU

                              Khoảng thời gian đó, ngày cũng như đêm đối với tôi thật dài. Ngày thì nóng, nóng tàn nhẫn. Trời không một cơn gió. Mồ hôi vã ra như tắm. Bên tai lúc nào cũng nghe tiếng súng, tiếng pháo của ta và tiếng pháo của địch xen lẫn những tiếng súng nhỏ của các đơn vị đang đụng độ. Ban đêm thì trời trong, sao giăng mắc. Chùm Ðại Hùng Tinh với ngôi sao Bắc Ðẩu in rõ trên nền trời, còn chùm sao Hiệp Sĩ nữa, cả hai đều chỉ về phương Bắc, nơi đó thành phố Quảng Trị đang cố đẩy lui các cuộc tiến công của Cộng quân. Hoả châu thả sáng đầy trời, thỉnh thoảng ở phía Ðông những lằn lửa xẹt lên ngang bầu trời rồi vụt tắt. Có lẽ đó là Hải Pháo đang bắn đi từ ngoài biển, đôi khi tôi cũng thấy những cụm lửa thật to của chiếc hoả tiễn SAM của địch bắn lên các phi cơ.


                              Hình minh họa

                              Cho đến giờ phút đó, phòng tuyến ở phía Tây Mỹ Chánh do TQLC trấn giữ vẫn vững như bàn thạch. Và không một ai nghĩ rằng Quảng Trị sẽ bị thất thủ cả. Nhưng đùng một cái, trong các ngày 28, 29 và 30-4, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Quảng Trị. Thế là dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau chạy đi về Huế lánh nạn. Không thể nào kể hết những thảm cảnh của đám dân chạy nạn đó.

                              Trong hai ngày 29 và 30-4, trên quãng đường dài từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh, người ta đi chen chúc nhau chật cả quốc lộ từ sáng đến chiều vẫn chưa dứt. Thôi thì đủ các loại xe lớn nhỏ nối đuôi nhau đi nườm nượp về Nam. Nhưng người đi bộ gồng gánh vẫn nhiều hơn. Dưới mắt tôi, đó là một “con rắn người” khổng lồ ngoằn ngoèo dài đến hàng mấy chục cây số. Ðây, một người thanh niên cõng một người mù vừa đi vừa thở, đàng kia là một người đàn bà gánh đôi thúng, trên đó một em bé chừng 4 tuổi đang vốc cơm ăn ngon lành.

                              Chỗ khác, hết cả một gia đình đang ra sức đẩy một cái xe bò chất đủ thứ áo quần, bàn ghế và một con heo nằm co quắp ở phía trước. Một ông già, hình như là chủ gia đình, đang kéo chiếc xe một cách mệt nhọc. Chiếc máy ảnh cầm trên tay, tôi đến trước mặt ông và bấm một “bô”. Ông cố nở một nụ cười đau khổ. Không biết ông cười vì được chụp ảnh hay cười vì cảnh đời dâu bể này? Và trong ánh nắng hoàng hôn của ngày 29-4, một bà già có tật đang khấp khểnh đi nhờ chiếc gậy trên tay, cái bóng đổ dài trên mặt đường. Bà ta đi chừng mười bước thì lại dừng. Xa hơn một chút, một ông già và hai cháu nhỏ đang ngồi thở dốc trên vệ đường.

                              Ngay trước vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 5 TQLC, các anh chiến sĩ đem mấy thùng nước ra để bên đường cho dân uống. Có anh đem cả phần gạo sấy của mình chia cho những gia đình đang đói lả. Dù sao, đây cũng là những người còn được ít nhiều may mắn vì đã vượt về đến Mỹ Chánh. Một số lớn dân chúng bị kẹt trong vùng giao tranh giữa ta và địch tại cây cầu Bến Ðá, 6 cây số bắc Mỹ Chánh. Ðó là khoảng đường “hành lang máu” của hàng ngàn dân vô tội chết oan trong khi đi lánh nạn. Lợi dụng một lỗ hổng nhỏ do sự rút quân của Tiểu Đoàn 7 TQLC để đi ra tăng cường mặt trận Quảng Trị, Cộng quân đã xâm nhập được cây cầu Bến Ðá và từ đó chận đốt những đoàn xe chở dân chúng cũng như bắn giết dân chạy nạn không tiếc tay.

                              Dân chúng đang đi trên đường thì bị hàng loạt đại bác 130 ly ngã ra chết. Những cái chết vô lý bủa chụp xuống đời họ như những nỗi kinh hoàng. Họ có biết gì đâu. Có cả một chiếc xe bị bắn lật nhào xuống hố kéo theo 30 mạng người và cái hố đó là mồ chôn chính họ luôn. Trên khoảng đường này không có một gia đình nào nguyên vẹn, kẻ mất người còn và thất lạc tứ tung. Ðấy, sự nghiệp giải phóng của đoàn quân miền Bắc là như thế đó. Giải phóng người sống mau về bên kia thế giới, giải phóng tất cả sự nghiệp của mọi người trở về hai bàn tay trắng.

                              Những hình ảnh đó, có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Mỗi ngày, tôi từ vị trí đóng quân ra ngồi trên con đường sắt, con đường mà ngày xưa xe lửa đã chạy ra đến Hà Nội, nhìn đám dân lũ lượt kéo nhau đi mà trong lòng nghe chua xót. Tôi cố tìm trong đám người đi đó xem có ai quen thuộc không, nhưng không, không có ai cả. Tôi muốn chia sẻ những nỗi khổ đau với họ nhưng tôi đã hoàn toàn bất lực.

                              ***

                              2. Tháng 5-72, Thủy Quân Lục Chiến là hy vọng cuối cùng của Quân Đoàn I. Cộng quân đã vượt Hải Lăng áp sát sông Mỹ Chánh. Trong chưa đầy một tháng tin tức chiến trường ập xuống như bão lửa. Cồn Thiên, Khe Gió, Ba Hô, Gio Linh, Cửa Việt đồng loạt thất thủ. Tồi tệ hơn nữa: Trung Tá Phạm Văn Đính, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56 VNCH mà về sau thành Trung Tá Việt cộng, đầu hàng tại Camp Carroll. Mất tấm khiên chắn phía Tây, Sư Đoàn 3 Bộ Binh không thể giữ Đông Hà và Ái Tử.

                              Với dân Thừa Thiên, an nguy trao hết cho người lính mũ xanh. Phần bút ký tiếp theo của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú ghi lại những ngày này.
                              Trần Vũ

                              BÊN NÀY SÔNG, BÊN KIA SÔNG

                              Giữa đoàn người đi hỗn độn đó, Tiểu Đoàn 5 TQLC tung quân lên cầu Ðập Ðá để giải vây áp lực địch. Tại đây, Tiểu Đoàn 7 TQLC khi đi tăng cường cho mặt trận Bắc Quảng Trị vẫn còn bị kẹt lại hai Đại Đội ở khúc đường này. Hai đơn vị phối hợp nhau đánh bật địch quân về phía Tây, cuộc giao tranh kéo dài suốt ngày, các chiến sĩ TQLC đã thanh toán hết các phần tử địch vừa xâm nhập ở đây.


                              Nguồn ongvove.wordpress.com

                              Cho đến giờ phút đó, mặt trận ở phía Tây Mỹ Chánh vẫn vững như vách núi Trường Sơn, nhưng việc gì đã xảy đến. Ngày 1 tháng 5-72 các đơn vị tử thủ Quảng Trị rời bỏ thành phố di chuyển về Nam. Cuộc lui binh mà trước đó mấy ngày ít ai nghĩ đến đã thành sự thật. Và tình hình bây giờ đổi khác, Lữ Đoàn 369 TQLC trở thành tuyến đầu ngăn chặn địch tại Mỹ Chánh, không còn một đơn vị bạn nào khác nữa.

                              Bám sát các cánh quân của ta vừa di tản chiến thuật ra khỏi tỉnh Quảng Trị, Cộng quân lần tiến theo cho đến quận Hải Lăng. Tại đây, các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC một mặt “tiếp rước” các đơn vị bạn từ Bắc xuống, mặt khác cố đánh bật địch dội ngược trở lên. Nội trong buổi sáng ngày 1-5 Tiểu Đoàn 9 TQLC đã dùng súng M72 hạ một lúc 9 xe tăng T54 của Bắc Việt chặn đứng hoàn toàn sức tiến của địch. Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 2 TQLC đã quần thảo với địch suốt trong ngày dài nhất đó với một mục đích duy nhất: Không cho chúng tiến thêm một tấc đất nào nữa kể từ khu vực này.

                              Sau đó cây cầu Mỹ Chánh được giật sập ngay trong đêm và các đơn vị TQLC thiết lập một phòng tuyến mới ở bên này con sông. Theo sát những diễn biến, tôi đã nghĩ rằng nếu ngày hôm ấy mà không có các Tiểu Đoàn 2 và 9 TQLC kiên trì chận đứng được địch quân tại Mỹ Chánh giữa cơn ngặt nghèo đó thì không biết chiến trường trong những ngày kế tiếp sẽ diễn biến ra sao và đến đâu. Một Nguyễn Kim Ðể của Tiểu Đoàn 9, một Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu Đoàn 2 TQLC tại mặt trận Mỹ Chánh ngày 1-5 cũng như một Ðỗ Hữu Tùng của Tiểu Đoàn 6 TQLC trong trận “xa chiến lớn” tại căn cứ Phượng Hoàng ngày 9 tháng 4 là những Đơn Vị Trưởng đã góp công không nhỏ trên chiến trường Trị Thiên suốt 60 ngày chiến đấu đẫm máu.

                              Họ là những sĩ quan có đầy đủ kích thước, tài ba và mưu lược để chỉ huy những đơn vị cỡ trung cấp. Ðại Tá Phạm Văn Chung, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369, người chỉ huy trận đánh và đơn phương quyết định phải ngay tức khắc chận địch tại tuyến Mỹ Chánh cũng đã không tiếc lời khen ngợi hai đơn vị nói trên (bây giờ Ðại Tá Chung về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân, Trung Tá Nguyễn Thế Lương thay thế).

                              Buổi chiều, khi tôi rời Mỹ Chánh để về đóng quân tại Phong Ðiền, ánh nắng vàng vọt buồn bã ngả dài trên những dãy núi phía Tây lỗ chỗ những vệt xanh vệt trắng. Nhà cửa hai bên đường không một bóng người, quang cảnh thật thê lương. Ðã nhiều lần tôi bắt gặp lòng mình lắng sâu trong cảnh vật bởi tôi đã đi trên cái hoang vắng đó. Trên con đường nhựa duy nhất một ông già với chiếc bị da đã ngả màu trên vai, đi âm thầm trong ánh nắng hoàng hôn sắp tắt.

                              Ông già đã đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu? Tôi quay về phía sau, bóng những người lính in lên trên nền trời đang dần dần đổi sang màu đen của bóng đêm. Xa hơn, về phía Bắc những cụm khói đen khổng lồ bốc lên cao cùng những tiếng nổ ì ầm. Quảng Trị đã xa tầm tay! Ít ra trong phút này, niềm mơ ước có phút rỗi rảnh nào đó được “dzọt” lẹ về thành phố này uống một chai bia, ăn một tô bún đã không thể thành tựu được nữa.


                              Người lính cầu nguyện - Nhà thờ La Vang, Quảng Trị, 6/7/1972 - Photo by Michel Laurent/AP

                              Và cái truyện Bên Kia Giáo Ðường của tôi cũng tan thành mây khói, không biết đến bao giờ mới xong vì nhân vật chính đã phiêu bạt ở phương nào rồi. Tôi cũng ước mong được trở lại căn nhà mà tôi đã trú đóng bên kia sông Mỹ Chánh, không biết để làm gì, vì nơi đó không phải là quê hương của tôi nhưng tôi mong muốn như thế, sớm hơn. Niềm mong ước đó cũng giống như hàng vạn người dân Quảng Trị mong sớm được nhìn về giòng sông Thạch Hãn của họ. Nhưng tôi tin chắc rằng niềm mong ước của họ lớn lao hơn, to tát hơn. Trong buổi chiều đó, khi đi ngang qua cây cầu, tôi đã “tức cảnh sinh tình” và rất lẩn thẩn “mần” ra mấy câu “thi” thuộc loại siêu tự do, siêu khôi hài mà chỉ có những đại thi sĩ cỡ “khều mặt trời” mới mần ra nổi. Bài thơ như sau:

                              Tôi ở bên này sông Mỹ Chánh
                              Anh ở bên kia sông
                              Đứng bên này sông
                              Nhìn thấy bên kia
                              Đứng ở bên kia
                              Trông thấy bên này
                              Lội ra giữa giòng sông
                              Nhìn thấy cả hai bên
                              Lặn xuống nước
                              Chả trông thấy bên nào cả!


                              MỘT QUAN NIỆM VỀ PHÒNG THỦ TẤN CÔNG

                              Ðoàn xe chở chúng tôi rời Mỹ Chánh chừng 3 cây số về phía Nam thì thay vì chạy trên đường lại rẽ trái chạy trên khoảng đất song song với đường nhựa. Có lẽ khúc đường này bị đặt mìn chưa sử dụng được. Ðoàn xe chạy trên đường đất chừng 100 thước thì ầm ầm, những tiếng nổ vang dội ở trước đầu xe, bụi tung bay mù mịt không trông thấy gì cả. Ngay quả nổ đầu tiên, trong trí óc của tôi lúc bấy giờ, tôi tưởng rằng đoàn xe đã bị địch phục kích và trong giây phút, tôi cố chờ đợi những tiếng đại liên xổ ra như kinh nghiệm cho thấy những lần bị phục kích. Nhưng may quá, không có đại liên và súng nhỏ. Rồi những tiếng nổ ì ầm tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng nổ ấm và rất quen thuộc của loại đạn M79. Tôi chợt yên tâm hơn, phía trước 3 chiếc xe chạy đầu vẫn tiếp tục chạy, một chiếc xe Jeep đã bị nổ lốp nhưng vẫn cứ phom phom. Tôi giục tài xế: “Tống hết ga chạy nhanh lên”.

                              Chiếc xe chồm lên chạy giữa đám khói mịt mù cùng những tiếng nổ tiếp theo. Khổ quá! Vài người “anh em thù nghịch” mò ra ở khu rừng thấp bên phía Tây bắn M79 vào đoàn xe của chúng tôi chơi cho vui giữa lúc bóng đêm sắp sửa xông lên từ lòng đất. Ðến quận Phong Ðiền, kiểm điểm lại chỉ hai người bị thương nhẹ ở đùi mà thôi. Những chiếc xe chạy ở phía sau cũng đã đến an toàn. Buổi tối đó, tại Chi khu Phong Ðiền, Thiếu Tá Bích, Quận Trưởng, một niên trưởng của tôi, đã mời chúng tôi mấy chai bia. Chưa bao giờ tôi thấy bia ngon như đêm hôm đó.

                              Vài ngày sau, tôi có dịp đi Huế để nhìn ngắm kết quả của cuộc lui binh ngày 1 tháng 5 ra khỏi Quảng Trị. Phố xá tiêu điều, hàng quán đóng kín cửa, chợ Ðông Ba bị đốt cháy nám đen. Huế lúc đó là một thành phố chết, không thể mua được một cái gì cả.

                              Giòng sông Hương đã vắng bóng những con đò, “Ðệ Thất hạm đội” của “chị em ta” lừng danh một thuở cũng đã xuôi giòng ra cửa biển mất tăm! Huế của lãng mạn, của thơ mộng với những tà áo trắng phất phơ bay trên cầu Trường Tiền, chiếc nón bài thơ e ấp không còn nữa. Ít ra là ở trong giây phút đó.

                              Tuyến phòng thủ Mỹ Chánh đã đứng vững và được kéo dài thêm ra đến biển với hai Lữ Đoàn 258 TQLC và Lữ Đoàn 369 TQLC chịu trách nhiệm. Với một quan niệm là phòng thủ nhiều khi cũng phải tấn công để gây rối loạn hậu tuyến địch, phá vỡ việc địch tập trung để tấn công Huế và cho địch hiểu rằng ta muốn lấy lại những phần đất đã bị mất bất cứ lúc nào: ngày 13-5-72 Lữ Đoàn 369 TQLC đã bất thần mở cuộc phản công vào quận Hải Lăng, bằng cách trực thăng vận đổ Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC xuống trận địa. Trong khi đó thì Tiểu Đoàn 9 TQLC lại vượt qua sông Mỹ Chánh tiến lên phía Bắc để giao tiếp với các đơn vị bạn.


                              Ông già đã đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu?

                              Trước đó sự phối hợp yểm trợ hoả lực phi pháo cũng như của B-52 thật chặt chẽ. Trận đột kích đã gây náo loạn cho hàng ngũ Cộng quân, khi các trực thăng khổng lồ đổ những người lích TQLC xuống thì quân Cộng sản Bắc Việt tan rã hàng ngũ bỏ chạy tán loạn ra các cánh đồng, trong khi đó dân chúng cũng bắt đầu chạy về hướng TQLC. Một sự kiện lạ là trong khi Cộng quân bỏ chạy trước các cánh quân của Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC ở phía Bắc thì địch lại chịu chạm súng với Tiểu Đoàn 9 TQLC lúc đơn vị này vừa qua sông. Trung Tá Nguyễn Kim Ðể, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9, người hùng trong trận đánh chận đứng địch tại Hành Lang Máu ngày 1-5 đã quyết định táo bạo khi cho các “con cái” của ông vượt sông lúc 5 giờ sáng thay vì 7 giờ như đã ấn định.

                              Chính quyết định này đã gây hoàn toàn bất ngờ đối với địch quân và giảm thiểu mức độ thiệt hại quân bạn. Cuộc hành quân đã gây những yếu tố tâm lý quan trọng hiện tại và là một cuộc hành quân được phối hợp tuyệt vời nhất, kín đáo nhất. Hơn một ngàn ba trăm dân đã được giải thoát nhờ cuộc hành quân này.

                              ĐỊCH MƯU TOAN CHỌC THỦNG PHÒNG TUYẾN MỸ CHÁNH

                              Cuộc hành quân kéo dài trong ngày và các đơn vị TQLC lại về phòng thủ tại tuyến Mỹ Chánh. Trong suốt một tuần lễ sau đó, lằn mức giao chiến giữa ta và địch tại con sông Mỹ Chánh cứ nhập nhằng, thỉnh thoảng địch cố mở vài mũi dùi dò la sức phản công của ta rồi im lặng. Cho đến ngày 22-5, trận chiến dữ dội mở màn ghi một điểm son trong pho quân sử của binh chủng TQLC.

                              Trận đánh đã xảy ra 24 giờ đồng hồ trước khi những nút chai sâm banh được mở ra để đãi vị Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một bữa tiệc tại thủ đô Nga Sô mà 23 xe tăng PT76 và T54 của Cộng sản đã bốc cháy cùng 130 xác đồng bọn bỏ lại trên trận địa dọc theo phòng tuyến.

                              Theo ước tính của tình báo, lẽ ra trận tấn công trên của địch diễn ra ngày 19-5-72 nhưng không biết vì trục trặc gì đó mà trễ mất 3 ngày. Và người ta nhận định rằng chỉ có khoảng thời gian đó là thuận tiện cho việc tấn công vì ý đồ của Hà Nội đã thấy rõ:
                              Muốn biến cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Nga-Mỹ thành một hội nghị Genève mới. Và nếu để sau ngày Nixon Nga du thì mọi việc kể như xong rồi.

                              Ngày 21-5, Bắc Việt tung quân bộ chiến có xe yểm trợ tiến đánh một đơn vị Ðịa Phương Quân tại 9 cây số Ðông Bắc Mỹ Chánh. Lực lượng này không chịu nổi sức tấn công của địch đã phải tháo lui về phía sau phòng tuyến 2 cây số. Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 3 TQLC đã tức tốc đem quân chận đứng địch, đồng thời trám lại một lỗ hổng nhỏ trên tuyến phòng thủ chính. Hậu quả của sự tháo lui của lực lượng Ðịa Phương Quân này là một toán chốt của địch đã xâm nhập được phía Nam sông Mỹ Chánh. Do đó, con đường huyết mạch để tiếp tế cho các đơn vị TQLC từ quận Phong Ðiền đến phía Ðông Bắc phòng tuyến bị gián đoạn trong 3 tiếng đồng hồ.


                              Nguồn Philip Jones Griffiths @ Magnum Photos

                              Bộ Tư lệnh liền quyết định tung thêm Tiểu Đoàn 39 Ðịa Phương Quân tăng cường cho Lữ Đoàn 369 TQLC. Tiểu Đoàn này di chuyển bộ từ Phong Ðiền đến tiếp giáp với Tiểu Đoàn 8 TQLC đang trú đóng tại 3 cây số Nam phòng tuyến để phối hợp với đơn vị này càn quét và thanh toán chốt vừa xâm nhập đêm qua. Trong khi đó thì Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 9 TQLC vẫn giữ mặt Bắc không cho địch tràn xuống. Mục đích của địch là cho các toán chốt xâm nhập trước để quấy rối ta rồi sau đó các đơn vị hoả lực với tăng và pháo yểm trợ chọc thủng phòng tuyến.

                              Trong ngày 21-5, quân ta đã thanh toán xong các toán chốt của địch lẩn quất trong vùng. Bây giờ lằn ranh giao tranh giữa hai bên vẫn là con sông Mỹ Chánh. Ngay trong buổi chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 TQLC tung thêm một Đại Đội xa hơn về phía Ðông vượt qua con sông Ô Lâu; nhánh của Phá Tam Giang ăn thông với sông Mỹ Chánh nằm chặn địch tại đó. 23 giờ ngày 21-5, khoảng 30 xe tăng PT76, T54 và PT85 của Cộng sản với tùng thiết (bộ binh tháp tùng xe tăng) chia làm 2 mũi dùi từ Bắc và Ðông Bắc Mỹ Chánh ào ạt tiến xuống. Trận chiến bắt đầu từ giây phút này.


                              Xác Cộng quân - Nguồn artnet.com

                              Ðêm ấy tôi hoàn toàn thức trắng ngồi tại T.O.C. theo dõi diễn biến trận đánh. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 TQLC Lê Bá Bình cho lệnh các Đại Đội của ông sẵn sàng M72 và chờ cho chúng đến gần 100 thước mới khai hoả. Ngay phút đầu tiên, 7 PT76 bị hạ. Nhằm không cho các đơn vị của ta tiếp ứng lẫn nhau, Cộng quân đã pháo kích dữ dội vào vị trí của các đơn vị Tiểu Đoàn 9 TQLC trong khi tiến đánh Tiểu Đoàn 3 TQLC. Sau 3 giờ giao tranh, một Đại Đội của Tiểu Đoàn 3 TQLC đã phải lui về phía sau con sông Ô Lâu một cây số. Một phi cơ soi sáng từ Ðà Nẵng được gọi lên vùng, hai bên lại tiếp tục quần thảo. Một mũi dùi khác thọc xuống phía Nam né tránh hoàn toàn giao tranh với Tiểu Đoàn 39 Biệt Ðộng Quân.
                              Ðến đây thì cái mấu chốt của sự thảm bại của Cộng sản Bắc Việt bắt đầu.

                              ***

                              3. Mỹ Chánh là chiến thắng của Thủy Quân Lục Chiến. Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng này cần nhìn thấy rõ nỗ lực của Bắc quân. Đích thân Lê Trọng Tấn, tay Tướng được xem dũng lược nhất của Hà Nội nắm quyền Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên Xuân - Hè 1972. Cuối tháng 3, Lê Trọng Tấn ném 3 Sư Đoàn chính quy Bắc Việt 304, 308, 320B qua sông Bến Hải, tăng cường thêm 2 Sư Đoàn 324 và 325 sau khi chiếm Quảng Trị. Sư 304 là Sư Đoàn chuyên đánh đồng bằng. Sư 308 là Sư Đoàn đầu tiên của Việt Minh thành lập từ 1949 mà bộ chỉ huy Pháp đặt tên Division d’Acier, tức Sư Đoàn Thép. Sư Đoàn 320B thoát thân từ Sư Đoàn 320 là Sư Đoàn cũ của Văn Tiến Dũng. Sư Đoàn 324 “chuyên trị” “Nam-Ngãi-Bình-Phú” và Sư Đoàn 325 danh hiệu Đại Đoàn Bình-Trị-Thiên. Tất cả, nói lên ý chí chiếm Huế của Lê Duẫn.

                              Cả 5 Sư Đoàn trên đều dày dạn trận mạc. Nếu 304 và 308 từng đánh Điện Biên thì 3 Sư Đoàn còn lại am tường địa thế miền Trung. Bên cạnh, 2 Trung Đoàn chiến xa 202 và 203, rồi 4 Trung Đoàn Pháo binh gồm 408 đại bác mà 68 khẩu là pháo 130 ly, cộng 93 khẩu 122 ly Sô-Viết cùng 247 khẩu sơn pháo 76 và 85 ly, không tính súng không giật SKZ cũng như súng cối nặng 120 ly của bộ binh. Thêm 2 Sư Đoàn cao xạ 367, 376 và 2 Trung Đoàn tên lửa 238, 237 với hoả tiễn SA-2. Tỉnh Đoàn Thừa Thiên cung cấp thêm Trung Đoàn Độc lập 559 Chủ lực Miền. Một ưu thế tuyệt đối.

                              Chính với ưu thế này mà Lê Trọng Tấn đã tự tin đánh dàn trận bằng chiến xa và cũng lần đầu tiên Bắc-Việt sử dụng rộng rãi pháo 130 ly. Chỉ trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Bão Táp, đã pháo 11,000 quả đạn đủ loại.

                              Phía VNCH, đầu tháng 4 gánh nặng trên vai Sư Đoàn 3 Bộ Binh, là một Sư Đoàn tân lập đã phải thâu nhận khá đông đào binh, quân phạm từ các Trung tâm Cải huấn. Không thể xem quân phạm tác chiến kém. Sau cải hối, mỗi người lính là một binh sĩ Quốc Gia ngang đồng vị trí. Nhưng các sĩ quan cần thời gian để tái huấn luyện, thiết lập kỷ cương. Chính thời gian là điều Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai không sở hữu, vì chưa đầy 6 tháng sau khi thành lập với đảm trách nặng nề của vùng hoả tuyến, đã phải đương đầu với tổng tấn công của Bắc Việt. Thêm nữa, sự bội phản của Trung Tá Phạm Văn Đính đầu hàng tại Camp Carroll đã tạo ra khoảng trống cạnh sườn phía Tây Quảng Trị. Từ đây, Bắc quân tràn vào như thác.


                              Xe lội nước PT 76 cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy

                              Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị phòng Thanh Tra của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH câu lưu và đưa ra toà án binh vì đã để mất tỉnh địa đầu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm bị cách chức, thay thế bằng Tướng Ngô Quang Trưởng. Các sự kiện trên, nói lên tình hình nguy ngập cùng cực khi TQLC nhận vùng trách nhiệm Mỹ Chánh. Nếu TQLC buông tay, Lê Trọng Tấn sẽ vinh quang vào giải phóng – thảm sát Huế thêm lần nữa. Nhưng chính tại Mỹ Chánh, vào tháng 5-1972, những người lính TQLC đã giữ vững phòng tuyến và cùng lúc giữ vững danh tiếng của binh chủng này. Chính chiến thắng Mỹ Chánh đã cho phép Tướng Trưởng củng cố Quân Đoàn I và tái chiếm Quảng Trị. Cũng chính Mỹ Chánh, đã giúp Tổng Thống Thiệu có thể quỳ xuống giữa giáo đường La Vang về sau. Mỹ Chánh, là một phá lam đã làm gẫy mũi giáo phương Bắc.
                              Trần Vũ

                              GÀI ĐỊCH VÀO VÙNG TẬP TRUNG HOẢ LỰC

                              Cánh quân thứ hai của địch tưởng rằng đã chọc thủng được phòng tuyến rồi nên chúng cố thọc sâu hơn về hướng Nam từ lúc 4 giờ sáng ngày 22-5. Vùng tập trung hoả lực của LÐ 369 TQLC tại hơn 3 cây số về phía Nam phòng tuyến với Tiểu Đoàn 8 TQLC, hai pháo đội của Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC và một số chiến xa, 5 giờ, phi cơ bắt đầu soi sáng vị trí của Tiểu Đoàn 8 TQLC.

                              Khi trái sáng cuối cùng vừa dứt, tôi nhìn đồng hồ: 5 giờ 55 phút. Mặt trời chưa lên, đó là lúc “bình minh hàng hải” vừa để đủ trông thấy mọi vật một cách lờ mờ. Cánh quân của địch vừa thoát xuống chia làm hai mũi dùi tiến thẳng tới vị trí của Tiểu Đoàn 8 và hai pháo đội của Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC. Lúc bấy giờ mọi người đã sẵn sàng. Xạ trường ở phía trước trống trải toàn là đồng ruộng, xa hơn chừng 500 thước là những lùm cây thấp. Xe tăng địch lù lù tiến đến với tác xạ dữ dội với đủ mọi loại súng đặt trên xe cũng như của quân di chuyển bộ. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC và Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC vẫn bình tĩnh chờ đợi, không một ai nao núng.


                              Tổng Thống Thiệu cầu nguyện trong nhà thờ La Vang - Quảng Trị. Nguồn: Flickr.com

                              Xe tăng địch còn cách 500 thước, 400 thước, 300 thước, 200 thước rồi 150. Tất cả súng M.72 đồng loạt khai hoả, các khẩu pháo binh 105 ly thì bắn trực xạ. Ngay trong phát đầu tiên, các pháo thủ của pháo đội K do Trung Úy Vũ Quang Vinh chỉ huy đã hạ được một chiếc PT76 bốc cháy. Rồi lần lượt các chiếc chiến xa khác của địch trên một trận tuyến dài 500 thước đều bị bắn cháy.

                              Tiếng súng hai bên vẫn nổ dòn. Trước mắt tôi chừng 500 thước một chiếc PT76 bị bắn cháy nhưng vẫn còn chạy được trông không khác gì một con chuột bị người ta tẩm xăng đốt cháy. Chiếc hoả tiễn TOW, loại vũ khí chống chiến xa mới nhất do Hoa Kỳ cung cấp, đặt từ trong tuyến phòng thủ phóng bồi thêm một quả nữa. Chiếc xe tăng của địch đang chạy bỗng khựng lại, ngọn lửa bùng cháy cao hơn. Lúc bây giờ chung quanh tôi rào rào tiếng vỗ tay reo hò của lính.

                              Một chiếc T54 khác thì thê thảm hơn: Bị bắn cháy lật nằm nghiêng, ngọn lửa bùng lên từng chập như có ai đổ dầu thêm. Trong vòng 15 phút đồng hồ, tất cả xe tăng của địch đều bị hạ. Mọi người ai cũng thấy phấn khởi và lên tinh thần. Hai chiếc tăng khác hoảng sợ không dám tiến vào nữa mà ẩn núp sau lùm cây thấp và bị phát giác nhờ chiếc ống nhắm của hoả tiễn TOW khi thấy hai cái ăng-ten của hai chiếc xe ló lên. Lập tức, hai chiếc phản lực cơ được gọi đến hạ ngay tại chỗ. Lúc này thì trời đã sáng, ánh sáng tạm đủ để nhìn thấy cảnh vật qua lớp sương mờ mờ. Vài chiếc tăng không bị trúng đạn cố gắng tháo chạy về phía Bắc cũng bị phi cơ đuổi theo oanh kích cháy nốt.

                              Trải dài trước mắt tôi, dọc theo tuyến phòng thủ thành một hình vòng cung là 9 xác xe tăng của địch vừa PT76 vừa T54 nằm la liệt, lửa từ trong các xe bốc lên hừng hực. Trận chiến xảy ra như một cảnh trong cinéma. Tôi nghĩ rằng chỉ có trong ciné mới có thể có được những cảnh đó nhưng sự thật đã diễn ra trước mắt tôi và có lúc tôi tưởng rằng đó là cơn mê.

                              Một giờ sau, Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 TQLC tung quân truy kích địch. Cuộc chạm súng lẻ tẻ trong vòng bán kính 800 thước lại xảy ra. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC của Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán như say men chiến thắng ào ạt tiến lên tiêu diệt nốt những tên còn sót lại. Thiệt hại về phía TQLC chỉ có 3 chết và 5 bị thương, một số tổn thất coi như không đáng kể. Tôi không nhớ rõ các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC đã tịch thu được bao nhiêu súng cộng đồng và cá nhân nhưng chỉ biết là khá nhiều.

                              Tôi cũng như bao nhiêu người khác lúc đó chỉ khoái chú ý đến những chiếc xe tăng của địch còn bốc khói nghi ngút. Ðặc biệt trong số này có một chiếc PT85. Thứ này na ná như chiếc M113 của ta nhưng “đẹp” hơn nhiều. Chiếc xe đó đang được kéo về triển lãm ở Huế.


                              Xe tăng T 54 của cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy - Nguồn Photo by Bruno Barbey

                              Tôi cũng không thể hiểu được Cộng quân điều binh theo cái lối nào mà kỳ quặc đến thế: cho xe tăng dàn hàng ngang trước một tuyến hoàn toàn trống trải để đưa lưng mà nhận lãnh đạn. Ðiều đáng ghi trong trận đánh này là sự bình tĩnh vô cùng của các chiến sĩ TQLC. Một chi tiết đáng ghi khác là khi chiếc xe tăng đầu tiên của địch bị hạ, không một quân nhân nào của Tiểu Đoàn 8 TQLC còn núp ở trong hầm, tất cả đều đứng thẳng lên, M72 trên vai ngắm xe tăng mà bóp cò. Có anh bỏ vị trí chạy ra bờ ruộng để bắn gần cho chắc ăn.

                              Vài giờ đồng hồ sau đó, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC đã có mặt tại trận địa bên cạnh những chiếc xe tăng của địch còn cháy nghi ngút để khen thưởng các chiến sĩ thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC và đồng thời quyết định những kế hoạch kế tiếp.

                              Với chiếc máy ảnh trên tay, tôi mò ra chỗ những chiếc xe tăng bị hạ. Xác chết của địch nằm la liệt. Chung quanh những chiếc xe tăng, chỗ này 30 xác chết, chỗ khác 11 xác. Rất ít xác còn được nguyên vẹn. Có xác bị cháy đen thân thể co quắp lại như một đứa con nít. Nhìn họ, bỗng tôi nhớ đến buổi nói chuyện với một tù binh Cộng sản, Thượng sĩ Viên giữ chức vụ Ðại Đội Phó thuộc
                              Tiểu Đoàn K.2 Trung Đoàn 3 CSBV.

                              Anh nói với tôi:

                              - Tôi cũng biết rằng vào đây không có đánh Mỹ nữa vì Mỹ đã rút quân dần ra khỏi miền Nam rồi, nhưng lệnh bảo đi thì đi. Thế thôi, muốn cưỡng lại cũng không được. Rốt cuộc, chỉ chúng ta là những người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị chết trong cuộc chiến này.

                              Cũng trong trận đánh trên, TQLC tịch thu được hai khẩu súng SA7 (còn có tên là STRELLA) đó là loại hoả tiễn giật tay “dò tìm hơi nóng” để bắn phi cơ. Ðây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà tịch thu được loại vũ khí đó trên chiến trường. Thảm bại của CSBV lần này còn nặng nề hơn ngày 09-04-1972 mà Tiểu Đoàn 6 TQLC đã dùng súng M72 hạ hàng loạt chiến xa địch mở đầu cho chiến dịch thi đua diệt xe tăng Cộng sản Bắc Việt.

                              Những ngày kế tiếp, suốt dãy tuyến phòng thủ dọc theo Mỹ Chánh từ Quốc Lộ 1 ra đến biển, ngày nào cũng có xe tăng địch bị hạ, khi thì 2 chiếc, khi thì 3 chiếc. Nếu không bị các đơn vị của Lữ Đoàn 258 TQLC quất sụm thì cũng bị Lữ Đoàn 369 TQLC đốn ngã hay do phi cơ oanh kích cháy.

                              Ngày 25-05-1972, Lữ Đoàn 147 TQLC lại mở một cuộc tấn công khác sâu hơn vào hậu tuyến địch bằng trực thăng vừa đổ bộ bằng tàu của Ðệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ, tung các Tiểu Đoàn 6, Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 4 TQLC vào khu vực 15 cây số Ðông Quảng Trị. Trước đó vài giờ, toàn bộ Ban chỉ huy của Trung Đoàn 66 CSBV bị B.52 cày nát. Mặc dù vẫn có giao tranh ác liệt giữa các đơn vị TQLC với Cộng quân khi tiến sâu về phía Bắc nhưng điểm chính yếu ghi nhận được là phần lớn địch đã cố tình né tránh các cuộc tấn công của ta và đã rời bỏ vị trí tháo chạy.

                              Cuộc hành quân trên đã đạt được một kết quả đáng kể: hơn 5000 dân chúng đã theo các đơn vị TQLC về quận Hương Ðiền an toàn. Ðiều đó một lần nữa chứng tỏ rằng dân chúng không thể nào sống trong vùng Cộng sản kiểm soát.


                              Xe tăng T54 - Nguồn picssr.com

                              Ðến nay thì sau những lần mưu toan chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh để tiến về Huế của địch đã thất bại, thêm vào đó là Cộng quân nơm nớp lo sợ không biết ta tung quân tấn công lúc nào nên khi tôi viết những dòng này, chiến trường ở phía Ðông Bắc Mỹ Chánh đã bớt sôi nổi. Mặc dù vậy, địch cũng đang cố hướng mũi dùi về phía Tây, nơi đó Lữ Đoàn 258 TQLC đang ngày đêm chặn đánh kẻ thù và mọi cố gắng xâm nhập của địch đều hoàn toàn bị chặn đứng tại đây.

                              NGÀY MAI TRỜI SẼ SÁNG

                              Khác với mọi lời tiên đoán bi quan lúc đầu khi thành phố Quảng Trị bị thất thủ là cố đô Huế bị đe doạ nặng nề và không biết sẽ mất lúc nào, tình hình chung bây giờ đã sáng sủa. Những cố gắng của địch đều bị phá vỡ. Phòng tuyến Mỹ Chánh đã đứng vững.
                              Sự sinh hoạt ở Huế đã trở lại bình thường. Nếu bỏ qua một phần những giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam (…) theo đó sự tái chiếm Quảng Trị chưa cần thiết thì trên bình diện quân sự, việc tái chiếm Quảng Trị và những phần đất đã mất chỉ là vấn đề thời gian. Việc tiếp liệu về lâu về dài cho các đơn vị CSBV trên chiến trường miền Nam đã là một vấn đề nan giải trong cường độ oanh tạc miền Bắc của không lực Hoa Kỳ hiện tại.

                              Mặt khác, theo một nguồn tin tình báo Hoa Kỳ thì Cộng quân sẽ đánh mạnh để chiếm Huế trong khoảng thời gian từ 03-06-1972 đến 10-06-1972. Tuy nhiên, dưới con mắt nhìn của các giới quan sát quân sự thì việc đó đối với Cộng quân khó có thể xảy ra trong thắng lợi được vì sự thiệt hại của địch quá lớn lao sau gần 2 tháng xâm lăng, tinh thần cán binh thấp xuống đến mức e ngại mà theo tin tức thì các vị Tư lệnh chiến trường của CSBV đã khuyến cáo Hà Nội cũng nên tìm một giải pháp nào cho chiến cuộc này khác hơn là ở trên chiến trường. Thế nhưng chiến trường nào cũng có thể có những diễn biến bất ngờ và sự bất ngờ đó đối với Hà Nội chỉ có trong trường hợp Tướng Võ Nguyên Giáp có được chiếc đũa thần.


                              Xe tăng của cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy

                              Ðể kết thúc, tôi xin ghi lại ở đây nội dung buổi phỏng vấn Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, của phái viên “đầu bạc” Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận ngày 27-05-1972, theo đó vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC cho rằng:

                              - Vấn đề chống địch, phản công địch, diệt địch không khó. Ðiều quan trọng là nắm vững tình hình địch, điều quân mau lẹ như chính ông (phái viên Chính Luận) đã thấy tại trận địa và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị bạn. Ðiển hình là hành quân Sóng Thần 06-72 tấn công Hải Lăng ngày 25-5-72 đã được thiết kế và quyết định trong 24 tiếng đồng hồ.

                              - Còn tương lai?

                              - Ông không thấy trời rất đẹp sao?

                              Trần Vũ


                              https://www.facebook.com/photo.php?f...&theater&ifg=1
                              Last edited by BachMa; 03-27-2019, 06:53 PM.

                              Comment


                              • Đít Em Mấy Lỗ

                                Đít Em Mấy Lỗ..



                                Sáng nay, trên đường đi làm, tôi ghé vào đổ xăng, ngay lúc đó có một cô gái trẻ cũng vào đổ xăng đứng bên cạnh tôi.
                                Thằng bơm xăng nhìn cô gái rồi hỏi:
                                - Em gái, đít em mấy lỗ ?
                                Tôi giật mình, chỗ nhạy cảm của con gái mà thằng này dám hỏi như vậy à.
                                Tôi càng bất ngờ khi cô gái cười tươi trả lời:
                                - Đít em hai lỗ !
                                Sau một thoáng giật mình, tôi chợt hiểu ra "ĐÍT EM MẤY LỖ" là "ĐỖ EM MẤY LÍT", cô gái trả lời "ĐÍT EM HAI LỖ" là "ĐỖ EM HAI LÍT". Không nhịn được cười, tôi ôm bụng cười to, bất ngờ thằng bơm xăng hỏi tôi:
                                - Đít anh mấy lỗ ?
                                Tôi cười lớn hơn rồi trả lời:
                                - Cả đời anh, đít có một lỗ, mày tìm lỗ thứ hai cũng không có ha ha ha!
                                Ngay lúc đó, có bác xe ôm chạy chiếc xe cà tàng vào, có lẽ không có tiền nên trông bác rất rụt rè. Thằng bơm xăng nhìn bác rồi hỏi:
                                - Bác xe ôm, đít bác mấy lỗ ?
                                - Chú ơi ! Đít tôi nửa lỗ !
                                Ha ha ha lần đầu tiên tôi thấy có trường hợp "đít nửa lỗ", tôi cười sắp ngất, thì lúc đó xuất hiện một anh chạy xe SH vào, thằng bơm xăng nhìn anh rồi hỏi:
                                - Anh SH, đít anh mấy lỗ ?
                                SH trả lời:
                                - "ĐÍT TÔI ĐẦY LÔNG" là "ĐONG TÔI ĐẦY LÍT" (đầy bình).
                                Nghe đến đây tôi cười ngất luôn !!!


                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X