Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù - Chương 5

    Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
    Trương Dưỡng - K20

    Chương 5
     
    Những Ngày Trên Đất Mỹ
     
    1. Bước Đầu Tha Hương.

     
         Chiếc máy bay của hãng hàng không Air France vừa cất cánh, tôi cố nhìn qua cửa kiếng ngó lại Quê hương lần chót: kìa đám nhà tôi, nhà thằng Nhàn, và nhà Cụ Hiếu ở Cổng C, trại Hoàng Hoa Thám, mà lúc trước mỗi lần mang dù lên bãi nhảy, tôi thường liếc mắt nhìn xuống cho tới quen thuộc luôn. Giờ đây vĩnh viễn xa nó, bỏ lại biết bao nhiêu bạn bè thân thuộc, những kỷ niệm êm đẹp từ thuở học trò, và bao cơn ác mộng khi sống dưới chế độ Cộng Sản!
        Phi cơ cất cánh hơn 15 phút mà tôi vẫn còn lo sợ hảo huyền, có thể nào họ gọi quay trở lại vì mình còn thiếu giấy tờ nầy nọ không? Suốt 9 năm sống với bọn vô thần, tôi cũng như những người dân khác lúc nào cũng lo sợ phập phồng. Tới khi phi cơ đáp xuống phi trường Thái Lan thì tôi mới yên chí là mình đã được tự do hoàn toàn, được thoát khỏi cảnh địa ngục đen tối; tia sáng cuối đường hầm đang lóe lên phía trước!
        Tôi hít một hơi thật dài khoan khoái và bắt đầu quan sát xung quanh; thấy xứ nầy chỉ cách nước ta vài tiếng đường bay, mà sao họ phồn thịnh và văn minh xa hơn Việt Nam nhiều quá vậy? Họ có xa lộ cao tốc, xe cộ đầy phố; người phu quét đường, những cô y tá cũng có xe hơi làm phương tiện di chuyển đó đây. Sau khi làm thủ tục, họ chở tôi và cháu Tâm cùng những người già yếu bệnh tật đi tới một Bệnh Viện cách Phi trường khoảng 1 giờ xe. Ngồi trên chiếc Bus sạch sẻ đầy tiện nghi, thấy tài xế chạy trên xa lộ nhanh vùn vụt và cứ giữ theo lề trái, khác với hệ thống giao thông ở Việt Nam. Tôi sợ hãi, cứ nhắm mắt không dám ngó, tưởng xe sắp đụng đến nơi!
         Ở bệnh viện vài ngày thì phái đoàn Mỹ đến làm thủ tục bổ túc hồ sơ, đặc biệt họ có trả lại các hình ảnh quân đội quí báu mà trước kia tôi đã gởi qua Thái Lan theo đường bưu điện. Thực đơn Thái Lan thường để thêm nước cốt dừa và ớt, ăn rất ngon, vì trước kia ở Huế tôi đã quen ăn ớt trấy với món tôm chua, thịt luộc, và trái vả. Nhưng lúc đó tôi bị trở ngại về đường đại tiện, chỉ có vô mà không đường thoát thì thật khổ sở vô cùng!(vì thường khi hai ba ngày vợ tôi giúp rửa ruột một lần), bây giờ đã gần một tuần mà không ra được cục “Thuốc tể” nào, nên bụng lình bình no hơi không muốn ăn gì hết!    Hai hôm sau, phi cơ vận tải phản lực 747 đưa gia đình đến San Francisco. Tại đây tôi vô cùng ngạc nhiên vì phi trường quá to lớn vĩ đại, máy bay lên xuống liên tục, ngoài đường xe cộ đông nghẹt. So với Thái Lan thì xứ Mỹ còn phồn vinh gấp bội. Chúng tôi giống như chú mán về thành, gặp gì cũng muốn nhìn. Phái đoàn đại diện ICM chở mọi người về nghỉ đêm tại Motel, riêng gia đình tôi đợi sáng đổi máy bay đi Florida, nơi Tuấn Anh, con bà Dì, là người đứng tên bảo lãnh. Tối hôm đó Tâm, Thành, và Thiện mở TV coi chương trình hoạt họa suốt đêm, nhất là Thiện thích coi hoạt họa và comic tới bây giờ hai mươi mấy tuổi đầu mà vẫn còn đam mê!
        Khi đến phi trường Fort Lauderdale ở Florida thì được gia đình Dì Sáu ra đón, Tuấn Việt chở chúng tôi về tới nhà, nhìn đồng hồ đã điểm 11 giờ đêm. Dượng Sáu biết ngồi máy bay lâu mệt nên đãi ăn cháo gà cho nhẹ bụng, mọi người đều hết lòng chỉ dẫn. Nhất là Mợ Dõng thấy tôi ngồi cặm cụi viết hết lá thơ nầy tới lá thơ khác vì còn quyến luyến bạn bè thân thuộc, nên mua tem để sẵn thật nhiều. Việt và Dõng chở đi làm thủ tục xin trợ cấp và khám sức khỏe, ai nấy đều tận tình giúp đỡ cho gia đình tôi trong lúc khó khăn của thuở ban đầu trên xứ lạ quê người nầy.
        Nghe tin tôi đến Mỹ, ngay hôm sau, hai anh Lý Hải Vinh và Phạm Ngọc Thạnh, Khóa 22 ĐL, đã sách xe chạy ngược từ West Palm Beach tới North Lauderdale, để chở tôi lên Orlando họp mặt cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt tại nhà anh Vàng Huy Liễu, cùng khóa với Vinh và Thạnh. Tại đây Niên Trưởng Long và bạn cùng khóa Nguyễn văn Hơn đã đề nghị hội viên giúp đỡ để gia đình tôi được sớm ổn định trong giai đoạn đầu.  Hai hôm sau, Việt chở cả gia đình xuống Miami để lãnh tiền USCC cho mỗi đầu người 300 đô, tôi hỏi anh đại diện hội Thiện Nguyện về vụ bảo lãnh. Anh Hồ Kim Sanh nói muốn lãnh bao nhiêu người cũng được, ngoài tứ thân phụ mẩu, như vợ chồng, mẹ cha, anh em, con cái, những người khác phải là quân nhân (sĩ quan tù cải tạo).
        Ngay đêm đó, tôi tranh thủ điền các mẫu USCC cho thân nhân và bạn bè như Lâm Sanh Kim, Nguyễn văn Triệu, Vũ văn Luông, hơn 40 người,...và điền sẵn mẫu bảo lãnh cho Quách Vĩnh Trường, chờ vận động giải thích cho em rể Trường. Tôi đã copy các giấy tờ chứng nhận lãnh trợ cấp gởi cho em gái ruột của Trường hiện đang ở Delaware, một Tiểu bang thuộc miền Bắc nước Mỹ. Tôi rất thông cảm họ, vì ít ai dám lãnh của nợ (lúc còn tại Việt Nam tôi rất ao ước và chờ đợi tới 2 năm mới được tờ USCC nầy để bổ túc hồ sơ). Trường đã có giấy xuất cảnh đi Pháp, nhưng đứa em bên đó đổi ý, nên khi có giấy USCC, anh xin chuyển cảnh và qua được mau vì khỏi cần làm lại từ đầu. Khi Kim và Triệu gần qua, vì tôi không tự lái xe được, nên đùn về California cho anh Bùi Đức Lạc, Chủ tịch Hội Gia Đình Mũ Đỏ. Anh Lạc là người rất tốt, khi nghe tôi qua anh đã giúp đỡ, những hồ sơ bảo lãnh tôi nhờ, anh đều sốt sắng nhận lời (có rất nhiều người miệng cứ ba hoa nói chính trị nầy nọ, nhưng nghe tới giúp đỡ hoặc bảo lãnh người khác thì co cổ rút đầu!). Anh giúp đỡ rất nhiều người, một phần cũng nhờ sự ủng hộ của chị Lạc.
        Sau khi có đủ tiền đóng tháng đầu tháng cuối cho Apartment, tôi quyết định tự mướn nhà, vì không muốn lợi dụng lòng tốt của anh Các quá lâu, mong trả lại nếp sống riêng tư của người chiến hữu Không quân tốt bụng nầy. 
        Ngoài ra anh Tòng nghe gia đình tôi vì lãnh sớm tiền USCC nên bị cúp trợ cấp An Sinh Xã Hội (Welfare và Food Stamps) ba tháng đầu. Anh đã vận động các đồng hương giúp đỡ tiền nhà mấy tháng đầu. Một tuần sau, ở Miami cộng đồng có tổ chức ngày Quốc Hận, gia đình Dượng Sáu chở tôi đi dự. Sẵn dịp ban tổ chức mời tôi lên khán đài cho anh Cường phỏng vấn về tình trạng ở quê nhà. Ở nhà Dì Sáu được hai tuần thì anh Dương Văn Các chia cho hai căn phòng với giá tượng trưng thật rẻ, khoảng 1 tháng sau tôi mua được chiếc xe cũ hiệu Dodge, đời 1976 (tôi qua Mỹ ngày 14/4/84). Tâm lúc đó 16 tuổi nên cùng me nó tập lái xe, thỉnh thoảng tôi lên ngồi ghế trưởng xa cho họ tập dượt .  Bà xã tôi hơi nhát gan, mỗi khi thấy xe cảnh sát là quýnh lên muốn lái xe leo lề luôn. Hai tháng sau cả hai đều có bằng lái. Lúc đầu đi học Anh Văn, có ông Mỹ ở gần nhà anh Các, mỗi đêm tới đưa rước đi học tại trường Middle School ở Margate.
        Ba tháng sau, nhờ Đệ, em của Thạnh, ghi tên học trường nghề cho vợ chồng tôi và cháu Tâm vào buổi tối. Thành, 14 tuổi, và Thiện, 12 tuổi, mỗi buổi sáng có xe bus đưa tới Pompano Beach học ở trường Middle School; còn Tâm thì  học High school.
        Lúc đó tôi lật sổ điện thoại hỏi việc làm tại nhà hàng Tàu thì gặp bà chủ tên Nữ, có chồng là anh Minh, biết là đồng hương vừa mới qua, nên mời tới đãi ăn cơm tôm hùm rang muối, rồi mới cho vợ tôi làm; hằng ngày chị đích thân đưa rước, anh chị thật là người tử tế và phúc hậu. Còn cháu Tâm cũng được chủ nhà hàng Wangfu cho làm bus boy.
         Những ngày đầu vợ tôi hơi tủi thân khóc thầm, vì dù sao ở Việt Nam từng là bà chủ, tiền bạc vô ra như nước (mấy năm gần đi, VC quá khôn ngoan quỷ quyệt, nắm gọn tất cả nên không làm ăn gì được, chúng tôi cứ bán vàng ra xài gần tiêu vốn, chỉ còn một ít mua được mấy bộ sơn mài đem qua Mỹ). Tôi làm cha làm chồng mà ngày nào cũng ngồi xe lăn nhìn cảnh vợ yếu con thơ đi làm đêm khuya cực khổ! Lòng cảm thấy khó chịu vô cùng!
        Sau ba tháng học xong lớp Assembly tại trường Florida Atlantic Vocational, chúng tôi tiếp tục học lớp Technician. Bà xã học nghề Upholstery (may đóng ghế salon), tôi và cháu Tâm thì học lớp Electronic Industrial (Tâm học lớp nầy cũng được tính vào chương trình High School).
        Lúc đầu coi một trang của cuốn DC test book, tôi phải cặm cụi tra tự điển, rồi lấy viết chì ghi hết ba phần tư tờ giấy. Thầy giảng thầy nghe, tôi ngồi như phỗng đá, như đờn khảy tai trâu, không hiểu gì hết; vì họ nói quá nhanh, toàn danh từ chuyên môn. Nhờ ngày nào cũng tra tự điển và ghi chú, dần dần những chữ đã tra hai ba lần thì thuộc; ban đầu mỗi ngày chỉ coi được một trang sách. Rồi tăng lên hai trang, ba trang,...sau hai tháng thì tôi có thể đọc được 10 trang. Bây giờ thì mỗi trang chỉ cần tra tự điển chừng năm mười chữ, tôi thường căn cứ những thí dụ trong bài giảng hoặc trong các sách họ, để tập làm exercises, experiments, và home works. Tâm còn trẻ nên hấp thụ nhanh hơn cha, trong khi cháu đi làm đêm, tôi ở nhà soạn bài, để sáng vô trường tôi giảng lại những gì đã biết, còn Tâm thì nghe hiểu được lời thầy giảng và hỏi thêm bạn Mỹ cùng lớp rồi nói lại cho tôi.
         Hai cha con biết mình còn thua kém về sinh ngữ, nên cố gắng siêng năng sao cho theo kịp bạn học. Hai tháng đầu học xong cuốn DC (Điện một chiều). Tuy ở Việt Nam có học qua, nhưng ngành điện tử ngày càng phát triển, Transistor từ dạng vacuum tub (bóng đèn chân không) bây giờ thì chế bằng chất bán dẫn như silicon. Tiếp theo là điện hai chiều AC (Alternative Current); phần nầy tương đối khó hơn dòng điện một chiều. Nó giải thích tại sao điện xoay chiều mà có thể đi qua hai cực bằng kim loại bị ngăn cách bởi khoảng không cực nhỏ như Capacitor (Tụ điện). Dựa theo “Nguyên lý hai cực cùng tên đẩy nhau”, khi điện tích âm (electrons) trong đầu kim loại của Tụ điện bị đẩy qua cực bên kia và lập tức được điện dương hút đưa tới dây dẫn điện, và cứ thế lập lại từng chu kỳ, thế là ta có dòng điện chạy liên tục.
        Trong khi đó bà xã học bên lớp bọc nệm, gặp ông thầy tốt bụng và học trò siêng năng cùng khéo tay, nên chỗ nào không hiểu thì ông ra dấu (vì có nhiều học trò Nam Mỹ cũng kém Anh ngữ). Học được hơn sáu tháng thì ông giới thiệu cho đi làm, coi như thực tập, khi đủ giờ nhà trường sẽ phát bằng Technician về ngành Upholstery.
        Mỗi buổi trưa chúng tôi ra xe ăn cơm (mang theo), tôi tranh thủ vừa nằm vừa ăn, vì ngồi lâu không đi đứng dãn gân cho máu chạy điều hoà như người thường, nên máu dồn rất khó chịu. Hai mẹ con nhường cho tôi nguyên băng sau để ngã lưng, cả ba vừa nghỉ vừa tranh thủ lấy bài ra học.
        Tới môn thứ ba là Semiconductor, lúc nầy hai cha con tôi đã thuộc nhiều từ ngữ Anh văn, mỗi ngày có thể đọc được vài chục trang. Đầu óc tôi cứng ngắc, nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần gần thuộc luôn, để từ từ (chứ không nhanh lẹ như tuổi trẻ) nhớ lại và dùng tới khi cần. Trong những ngày theo lớp điện tử, ông thầy có đề nghị nhà trường cắt cử một cô giáo dạy thêm, Văn phạm Anh Văn và nghe thính thị Anh ngữ, mỗi ngày một giờ. Nhờ vậy sau nầy lên Đại học chúng tôi bớt bỡ ngỡ về các lớp Essay (cách đặt câu và tập làm Văn). Khoảng sáu tháng thì xong quyển thứ tư là Communication, lúc nầy thực tập rất nhiều, mỗi lần học hết sách thì ông thầy cho thi test, nếu trên điểm trung bình thì mới được học cuốn tiếp.
        Học hết môn thứ năm là Microprocessor, giáo sư thấy điểm test của tôi càng ngày càng cao, không biết ông báo cáo thế nào mà một hôm nọ có phóng viên truyền hình tới lớp học quay phim và phỏng vấn. Hôm sau trên đài số 10 có chiếu cuộc thâu ảnh nầy. Thầy thấy chúng tôi siêng năng tiến bộ vượt bực, nên mấy môn sau, ông tặng sách còn mới tinh, nhờ đó tiết kiệm được một ít tiền.
        Sau khi học xong cuốn Linear systems, Digital, và Communication thì được dự lễ phát bằng. Ông thầy đích thân đưa tôi lên khán đài nhận văn bằng, trong danh sách tốt nghiệp có đánh dấu cho tôi hạng Danh Dự. Gia đình tôi đã chụp chung hình với người thầy tốt bụng, lúc nào cũng nâng đỡ khuyến khích tôi trong giai đoạn khó khăn mò mẫm Anh ngữ từ những ngày đầu!
        Sau khi lãnh bằng Technician ở trường Vocational, tôi và Tâm theo danh sách các hãng điện mà thầy đã copy cho, chúng tôi thức dậy sớm khởi hành từ 7 giờ sáng, chạy xe vòng vòng ghé hỏi vài hãng điện nhưng chưa có kết quả, đến trưa thì tới hãng Computer Product. Họ phỏng vấn Tâm tại chỗ và nói lương bắt đầu là $4.50/giờ, chờ đủ hai tháng sẽ cho lên $6/hr. Vì cần việc làm nên Tâm nhận chịu. Còn tôi họ chê handicap (tôi nghĩ vậy thôi) nên không ai ngó tới.
        Lúc nầy thì Thành và Thiện vì học nhảy theo tuổi nên hơi chới với trong 6 tháng đầu; nhưng rồi giống như cuộc chạy đua, hai đứa đã rượt kịp toán cuối cùng (Điểm D), và tăng vận tốc dần lên bắt gần kịp toán thứ nhì (điểm B). Qua năm sau, ba đứa nói tiếng Anh trôi chảy, và bắt đầu có nhiều điểm A. Thành thì nhảy lớp và học bốn năm thì tốt nghiệp, nên điểm B nhiều hơn A, không có điểm C hoặc D. Còn Thiện nhờ có thời gian, nó đã lấy mấy lớp Honors và Advances nên tốt nghiệp High school top ten percent.
     
    2. Vào Đại Học


    a) Broward Community College
       Tôi và Tâm sau khi học xong ở trường Vocational, liền thi vào Broward Community College (BCC). Khi coi kết quả bài test, họ chấp thuận cho ghi tên nhập học và được cấp học bổng Pell Grants, nhưng các lớp Anh văn phải bắt đầu từ lớp ESL (English as Second Language).
        Hãng thấy Tâm chịu khó học hành, nên dễ dãi cho làm bù mỗi khi kẹt giờ ở trường. Nhờ vậy chúng tôi có thế lấy 3 lớp (courses) trong một khóa học (semeter). Term đầu học Pre- Calculus I, English ESL, và Direct Current (DC Circuits). Có điều buồn cười là, vì không phân biệt các tiền xu của nước Mỹ như đồng Dime, Nickel, và Penny, nên tôi bị trật hết một câu trong bài thi test đầu tiên. Tánh tôi thích đơn giản, không muốn bận bịu về tiền bạc (trái lại bà xã thì rất khoái đếm và xếp tiền; ở Việt Nam mặc dù cả ngày làm vất vả, nhưng tối nào bả cũng ngồi xếp tiền ngay ngắn không thua vì nhân viên ngân hàng!). Kể cả đồng hồ, cà rá, nhẫn,... tôi cũng không thích đeo. Có lần đi hành quân ở Quảng Trị, Hạ Sĩ Thương, đệ tử của tôi, bị tử thương tại ngã Tư nhà Thờ La Vang vào ngày mùng Một Tết năm Mậu Thân, tay của Thương có đeo chiếc đồng hồ Seiko vàng của tôi, vì lúc đó chiến đấu liên miên, nên phải nhờ ông Thượng sĩ thường vụ đi hỏi hậu cứ kiếm dùm hơn một tháng mới thu lại được!
        Lúc nầy hai mẹ con làm việc dành dụm được chút đỉnh, nên mua thêm một chiếc xe còn mới giá $6000. Chiếc Stations Wagon tuy đã tám năm cũ, nhưng cuối tuần chúng tôi cũng dám chạy đi xa như Tampa, Orlando,..để họp mặt gia đình Võ Bị (cứ hai ba tháng luân phiên tổ chức gặp nhau để nhắc lại những chuyện buồn vui quân trường). Thỉnh thoảng chúng tôi đi lên khu nhà anh Hiền, anh Huấn để câu cá, bắt cua, bắt sò,...cũng rất vui vẻ. Riêng Thiện thì đi cho có lệ, hắn chỉ thích ở nhà coi hoạt họa Comic thôi!   
        Lúc nầy tôi có thể đọc mỗi ngày ba, bốn chục trang vì đã rành hết các danh từ chuyên môn của điện và toán. Các lớp Hóa học và Vật lý thì hơi khó và nỗ lực rất nhiều mới mong được điểm cao, đặc biệt ông thầy Vật lý rất giỏi và tốt, còn độc thân, nghe nói sau nầy chết vì mang bịnh Aids!
        Sáu credits của môn Khoa Học Nhân Văn (môn chọn lựa) thì thật là buồn ngủ và nhàm chán, tôi đã chọn hai môn Nhân Chủng học (Anthropology) và Tôn Giáo (Religion). Môn Triết học thích thú hơn, nhưng không đủ từ ngữ để theo lớp nầy.
        Cuối năm 1988, tôi và cháu Tâm xong chương trình 2 năm (AS Degree), điểm tổng kết khá cao GPA: 3.8/4.0, mảnh bằng Technician nầy có giá trị hơn ở Vocational. Vì thế Tâm xin được vào hãng điện lớn tại khu nầy, Bendix trả lương nhiều hơn, mới vô là $9/hr. Vợ tôi lúc nầy cũng được $7/hr, chẳng mấy chốc (khoảng hai năm sau) là có tiền Down (đặt cọc) vay tiền ngân hàng, mua nhà giá $60,000 trả góp mỗi tháng $600.
        Ngôi nhà vừa mua nằm trong vùng Pompano Beach, mới xây cất, gồm ba phòng ngủ, hai phòng tắm. Xung quanh toàn người da màu, nên giá tương đối rẻ, mình cũng là người da vàng, chỉ cần có chỗ nào vừa túi tiền và khang trang là quí lắm rồi. Vừa có nhà đẹp vừa được tiết kiệm, vì cuối năm, Tâm sẽ được trừ bớt tiền thuế.
        Nhà có đất tương đối rộng, vợ tôi và cháu Tâm cuối tuần lo trồng rau sống và cây ăn trái như: nhản, mít, mảng cầu dai, bưởi, quít, bơ, chùm ruột,...
        Các cháu còn mua một con chó con giống Đức về nuôi, chó nầy càng lớn càng khôn, biết hiểu ý người, ba đứa thương và coi nó như là member of Trương ’s family (người trong nhà).
         Hôm có cơn bão lớn Andrew, gió tại nhà (cách trung tâm bão 30 miles) là 75 miles/hr, chó được đem vô garage; đêm đó nó sợ run quá muốn sổ bầu tâm sự mà cũng ráng nín; đợi tới khi Tâm cho phép, nó mới dám ỉa đái ngay trong garage. Các cháu thấy vậy vừa thương vừa tội nghiệp!
        Lúc nầy Thành đã xong High school, nó thường rủ bạn là Sơn tới nhà làm bài tập home work về Calculus, để nếu có phần nào không hiểu nhờ tôi chỉ dùm. Thành sáng đi học tối làm nhà hàng Wangfu để phụ giúp gia đình (chúng tôi quen sống đùm bọc lẫn nhau, cũng như ở Việt Nam, năm người cùng ngủ chung một giường, vừa ấm cúng, vừa tiện lợi, và cũng vừa là một khối đoàn kết không ai có thể tách rời).
       Mỗi lần có sinh nhựt một người nào, cả nhà thường kéo nhau ra nhà hàng để ăn mừng, tiện thể cho me chúng nó rảnh tay đỡ mất công nấu bếp một bữa. Vấn đề ẩm thực hằng ngày thật đơn giản, sáng sớm sách cơm theo, hoặc đem mì ly, mì gói vô trường, để trưa đến đổ nước sôi tranh thủ ăn nhanh. Cháu Tâm hoặc cháu Thành kiếm phòng học trống, đỡ tôi lên bàn giáo sư nằm ngửa cho thẳng người, vì ngồi lâu máu tụ một chỗ rất khó chịu và thật mỏi lưng nhất là nơi đốt xương gãy!
        Ngày nào ở nhà rảnh rỗi, tôi nấu nồi cơm vì bà xã đi làm xa, cách nhà nửa giờ xe chạy. Có hôm tôi làm đồ ăn luôn, nhưng khi ngồi vào bàn, thấy chúng nó (nhất là Thành) cứ nhăn mặt, như khó nuốt lắm vậy! Có lẽ ba đứa đã quen ăn đồ ngon, nhiều gia vị,  của đầu bếp chánh!
        Mỗi năm khai thuế, cháu Tâm đều nhờ anh Lâm làm dùm, mặc dù cháu nói đã đi làm có tiền và mua được nhà mới, nhưng anh  nói:
        - Làm dùm cho nhà anh Dưỡng mà tôi lấy tiền sao ?
        Anh, chị, và gia đình (anh Tòng, chị Oai) đã giúp đỡ thật nhiều trong bước đầu tha hương, chẳng những riêng chúng tôi, mà đối với những đồng bào mới qua, họ cũng đều sẵn lòng giúp đỡ, thật là một gia đình đạo đức! 
     
    b). Florida Atlantic University.
     
        Tôi và Tâm tiếp tục chuyển trường học tiếp. Tại Florida Atlantic University không chấp nhận một số Credits cho bằng AS (nếu biết trước như Thành và Thiện sau nầy thì học AA sẽ không bị mất Credit nào). Vì vậy hai cha con mất hơn 20 Credits (khoảng 7 courses)!
        Bắt đầu vào Florida Atlantic University, thông thường phải chọn các môn của năm thứ ba trước, nhưng vì kẹt giờ làm của Tâm, nên tôi nói với Doctor Gajulian, counselor, cho lấy thử course Linear Systems của năm thứ tư. Ông ta hỏi:
        - Are you sure ?(anh có chắc không)
        - Yes, I would like to try!(vâng, tôi muốn học thử)
        Ông ta ký giấy cho tôi ghi danh lớp mà ông sẽ phụ trách giảng dạy, để coi tôi làm sao có thể học nổi môn được nổi tiếng hóc búa nhất của năm thứ tư nầy?
        Nhưng muốn theo course Linear Systems thì phải học các lớp toán cao cấp như Calculus III về số phức tạp (complex number) như a+jb chẳng hạn. Tôi chưa từng biết qua về phần nầy, may nhờ có anh sinh viên người Mỹ gốc Phi Châu ngồi gần và anh Hồ Văn Kỳ Tháo cũng tận tình chỉ dẫn những gì tôi thắc mắc, nhưng thi thử lần đầu bị điểm D! (thường mỗi course thi test ba, bốn lần tùy theo thầy giảng dạy). Tôi phải vô thư viện mượn sách các lớp năm thứ ba có liên quan đến môn nầy, hằng ngày đọc tới mờ mắt mới theo kịp thầy giảng bài và từ từ làm được home work. Tới midterm tôi đạt được điểm B, mừng quá vì càng ngày càng hiểu thấu triệt (nhờ tham khảo rất nhiều sách). Đến khi thi Final (cuối khóa) chỉ có tôi được điểm cao nhứt lớp. Ông thầy khen ngợi trước mặt các bạn sinh viên cùng lớp và nói từ nay tôi muốn chọn course nào cũng được; nếu ai cản trở cứ lại văn phòng Counselor, ông sẽ ký giấy giới thiệu ghi danh cho!
        Florida Atlantic University nằm trên một khu vực rất rộng lớn, thuộc thành phố Boca Raton. Hằng năm có trên mười ngàn sinh viên ghi danh học. Trường gồm nhiều Phân khoa: Kỹ Sư Điện, Cơ Khí, Computer Sciences, Cử Nhân Kinh Tế, Xã hội,...và các lớp Cao học (MS, MA), Tiến sĩ (Doctor).
        Trường có một thư viện cao bốn tầng chứa rất nhiều sách, các lầu hai, ba, bốn có những phòng riêng biệt dành cho những sinh viên muốn học từng nhóm chung với nhau. Mấy cha con tôi ưa vào đây để làm homeworks và học bài, thỉnh thoảng tôi được ngả lưng trên những chiếc ghế đâu lại. Tôi ngồi lâu thì mỏi, cứ lo chống chỏi với cơn nhức mỏi thì không thu thập được nhiều, ngược lại nếu được nằm thoải mái thì đọc hiểu rất nhanh. Giống như “Vua ngọa triều” Lê long Đĩnh thời xưa! 
        Lúc mới vào học ở F.A.U., Tâm làm ca sáng, nên chỉ chọn được những lớp chiều. Vì thế buổi sáng tôi ở nhà học bài còn cháu Tâm phải tranh thủ học trong giờ ăn trưa và giờ break time. Tối về cháu thức tới khuya để học và làm bài; cuối tuần mấy cha con vô thư viện học bài cho yên tỉnh và dễ tập trung hơn, còn me chúng nó ở nhà lo làm món ăn ngon như bò nhúng dấm, bánh xèo, gỏi cuốn, bì cuốn, nem nướng, bún nước lèo, chờ mấy cha con về thưởng công siêng năng chăm học.
         Nhờ sự nhắc nhở khuyến khích nên các học trò đều cố gắng chuyên cần, để mong lấy được điểm cao về khoe và được bù bằng những nụ cười sung sướng hãnh diện của người mẹ hiền, người vợ ngoan!  Quả là:
               Gia đình phấn đấu vượt lên,
               Chàng lo đọc sách, nàng quên hưởng nhàn!
               Ba con cần kiệm siêng năng,
               Chăm lo đèn sách rạng phần công danh.
        Thắm thoát Thiện đã học xong High School, ngày lễ tốt nghiệp, cả nhà đều đi dự; và hãnh diện nhìn thấy cháu được choàng cổ đeo sợi dây danh dự của những học sinh Top Ten percent. Nhờ vậy nên Thiện được học bổng của một cơ quan cho suốt 4 năm, cùng với học bổng của nhà trường thì cháu đủ sức đóng tiền học phí và sách vở. Trong khi tôi và Tâm học tới 5 năm, Thiện chỉ 3 năm rưởi là tốt nghiệp Kỹ sư và hai năm sau xong luôn MS (Master Degree: Cao học). Thành thì tốt nghiệp BS trong vòng 4 năm.
        Các courses đáng chú ý trong năm thứ ba là Networks Analysis I và II, Electronic I, Electronic Lab I và II, Calculus III, và Microprocessor,... Vào năm thứ tư có vài lớp hơi khó chẳng hạn như Physis III và Matrix. Đặc biệt ông thầy dạy Electronic Lab thấy những ngày lễ July 4 mà tôi vẫn vô trường thực tập trong phòng Computer, nên để ý và cho điểm rất cao (trước đó chỉ được B trong mấy bài phúc trình thực tập đầu tiên).
        Những năm học ở FAU, ngày lễ hoặc cuối tuần, bốn cha con đều sách xe chở nhau vô thư viện hoặc vào các phòng Lab học, các cháu không đi chơi giải trí hoặc giao du bạn bè, chỉ cố lo học để sớm ra trường, làm việc giúp đỡ gia đình.
        Môn Senior Project ở năm cuối thì hơi gay cấn, mỗi nhóm chọn đề tài sáng chế một thứ gì về điện tử, có hai giáo sư cố vấn. Ngoài ra còn phải thi Clast Test mới được phát bằng.
        Thi Clast test (College Level Test) gồm 4 môn: Đại số, Hình học, Reading, và Writing. Thiện thi một lần thì đậu liền; Tâm, và Thành kẹt môn Writing tới hai hai lần. Còn riêng tôi thì phải thi lại tới lần thứ ba mới qua được môn Essay nầy! (Đa số sinh viên Việt Nam và Ngoại quốc đều bị thi lại nhiều lần, có vài người kẹt hoài phải làm đơn xin miễn trừ để được cấp bằng tốt nghiệp).
        Lần đầu bị rớt có lẽ vì viết ít hơn năm trăm chữ trong một giờ thi hoặc bị nhiều lỗi chánh tả. Lần thứ nhì tôi viết về Tướng Nguyễn Khoa Nam, phần nhập đề chửi Mỹ bỏ rơi Đồng Minh trung thành là Miền Nam Việt Nam, trong khi Trung Cộng và Liên Sô tăng cường viện trợ, khiến gây ra bao cảnh tang thương như tù tội, kinh tế mới, và Thuyền nhân bị chết chìm hoặc bị hải tặc. Đến khi thi môn Essay (Luận văn) lần thứ ba, họ cho đề tài: “Tập tục cần phải biết để giữ”, tôi đã tả về tục lệ mấy ngày Tết ở Việt Nam. Phần nhập đề nói tổng quát về tục lệ ở Nhật vào nhà phải cởi giày dép, ở Tàu thì phải tôn kính bề trên, rồi vô đề viết trong phần Thesis statement (giới thiệu Luận thuyết): tục lệ Tết ở Việt Nam chia ra làm ba giai đoạn: Lễ Đưa Ông Táo, Lễ Giao Thừa, và Ba ngày Xuân. Thân đề chia ra ba đoạn, mỗi phần chừng hơn trăm chữ nói về việc cúng Táo quân (dịch đại là Saints of Kitchen) để họ về trời báo cáo tốt (good report!) với God (Ngọc hoàng). Và tả tục lệ “Lì Xì” khiến người chấm bài thi thấy lạ và cho đậu môn Anh văn quá khó khăn đối với người chân ướt chân ráo, mới hội nhập trên đất Mỹ nầy!
        Về Senior Project, nhóm tôi ba người mua parts ở tiệm về ráp máy đo điện trở, rồi mời hai giáo sư phụ trách lên phòng họp, chiếu phóng đồ các mạch điện lên màn ảnh. Mỗi người thay phiên nhau lên thuyết trình chi tiết, và trả lời các câu thắc mắc của họ. Cuối cùng hai ông lấy điện trở 100 ohms để vô máy đo thử, các Giảng sư thấy kim chỉ số 101 ohms, sai số không đáng kể, thế là họ cho môn nầy thông qua, như vậy phần khó khăn cũng đã xong.
        Sau khi đã hoàn tất đủ 130 Credits (mỗi course tương đương 2 hoặc 3 credits) tiêu chuẩn, Ông Counselor dò đúng thì cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp. Phòng Quản trị Nhân Viên kiểm tra coi đã đậu xong môn thi trắc nghiệm Sinh Viên (clast Test), rồi họ mới chịu cấp bằng tốt nghiệp.
        Trước ngày Mãn khóa, nhà trường đã giới thiệu Phóng viên Báo chí đến nhà tôi để Phỏng vấn và đăng lên báo vào dịp lễ Tốt Nghiệp của các Tân Kỹ sư, Cao Học, và Tiến sĩ. Vì hai cha con tốt nghiệp cùng ngày và số điểm ra trường hơi khá(Tâm có GPA: 3.3, tôi được GPA: 3.64). Hệ thống tính điểm ở đây như sau: A:4.0, B+:3.5, B:3.0, C:2.0, D:1.0, F:0.0. Điểm C trở lên coi như được cho tốt nghiệp. Trong lễ Tốt Nghiệp nầy có ba người được quan khách vỗ tay tán thưởng nhiều nhất là một ông già 80 tuổi mà vẫn còn cầu tiến và tốt nghiệp Master Degree, một cô sinh viên trẻ tốt nghiệp bằng Tiến sĩ, và tới phiên cháu Tâm đẩy tôi lên khán đài thì xướng ngôn viên đọc lớn lên “Cha và con cùng tốt nghiệp ngành Kỹ Sư Điện....”
        Chúng tôi đã nhận được những tràng pháo tay liên tục, toàn hội trường, kể luôn cả những Giảng sư, đều đồng loạt đứng lên vỗ tay (có lẽ họ thấy tôi là người Á Đông ngồi xe lăn mà chịu khó đi học). Lúc đó tôi thật cảm động vừa sung sướng vừa vui mừng vì mình đã đem lại niềm hãnh diện, danh dự cho gia đình và một phần nhỏ nào cho dân tộc và xứ sở (Trên báo có nói về chế độ tù tập trung và sự độc tài tàn bạo của chế độ CS đã áp bức nhân dân miền Nam, sau ngày Quốc Hận).
        Trong lễ phát bằng, vì bục khán đài cao, mà chỉ có mình tôi ngồi xe lăn, nhưng họ vẫn làm đường ramp bằng ván để cháu Tâm đẩy lên chỗ nhận bằng và bắt tay President của trường.
        Nhờ có bằng cấp, vài tháng sau Tâm được nâng lên chức Kỹ sư và lương tăng từ $12/hr tới khoảng gần $18/hr (tính lương hằng năm). Riêng tôi thì không hy vọng được ai mướn, nhưng cũng gởi đơn đại tại ba hãng cầu may (đơn gởi thẳng cho President của hãng, có kèm theo hai tờ huy chương Hoa Kỳ và tờ báo đăng trong ngày lễ Mãn khóa). Thật bất ngờ có tới hai hãng gọi đi phỏng vấn (có lẽ họ thấy điểm GPA cao). Hãng Motorola ở Boynton Beach, cách nhà khoảng nửa giờ xe, gọi vào phỏng vấn từ 8:30 sáng tới 4:30 chiều, mỗi manager của một group hỏi hơn 1 giờ.
         Người đầu tiên xuống văn phòng nhân viên dẫn tôi lên lầu hai, tới phòng riêng ông ta rồi đóng cửa lại. Sau khi bắt tay nói vài câu xã giao là vào đề hỏi ngay. Các lý thuyết ngành Điện tử, trong đó có phần hơi khó trả lời là Microprocessor. Tôi viết programing về Assembly Language hơi kém; vì để cho ông ta khỏi kêu viết Program, tôi lanh lẹ tả về sự cấu trúc của hệ thống microprocessor, nào là CPU (center processor unit), nào là ALU (Arithmetic logic unit), tôi vẽ sơ đồ cấu trúc của Microprocessor, trong đó có Accummulator, Index Register, Program counter, Address Register, Stack Point, Control, Data Register, Memory,..Anh ta thấy vẽ đúng và nhanh nên bảo ngừng vì tưởng tôi thuộc rành về môn nầy. Nhưng sự thật thì khác hẳn và rất may mắn;  vì tôi đã đem hết sự hiểu biết ít ỏi ra hù trước, nếu hỏi thêm thì sẽ không còn biết gì nữa (giống như Trình Giảo Kim trong chuyện Tàu chỉ có tài ba búa đầu, búa thứ tư thì yếu không còn hữu hiệu nữa).
        Người thứ nhì là ông tiến sĩ, thầy dạy cũ của tôi ở trường Florida Atlantic University, vì vậy ông ta hỏi rất dễ, cuối cùng ông lật tờ thành tích biểu và hỏi :
        - Anh qua Mỹ được bao lâu? 
        - Tôi tới Hoa kỳ ngày 14 tháng 4 năm 1984!
        Ông nhìn tôi và trợn mắt nói:
        - Sinh viên Người Mỹ, rành Anh ngữ mà muốn có điểm GPA: 3.0 còn khó, anh mới qua có mấy năm, trở ngại sinh ngữ mà GPA: 3.64 thì thật đáng khâm phục, tôi sẽ phê tốt cho anh.
        - Thank you, sir!
        Người thứ ba hỏi cũng không khó mấy, sau khi khảo hạch đủ thứ về các hệ thống truyền thông (Communication) vì hãng nầy chuyên sản xuất máy pager (hay Beeper). Tôi vẽ hình Antennna dẫn vào Radio Frequency (RF: cao tần), tới Mixer (trộn sóng), Mondulator (Tách sóng) và cuối cùng là Audio Frequency (Hạ tần) tức phần lỗ tai người có thê thu nhận được. Nhưng tôi bị khựng ở một câu hỏi hơi hóc búa, đó là sự phân biệt giữa Điện trường (electrical) và Từ trường (magneticfield) của hai loại Antennas.
         Thấy tôi hơi ngập ngừng, anh manager vội giãi thích: Dipole antenna chịu ảnh hưởng của Điện trường còn Loop Antenna thì chịu ảnh hưởng của Từ trường. Ông ta bảo không sao; vì tôi đã trả lời được tám phần mười những câu hỏi, và điểm tốt nghiệp cao là đủ tiêu chuẩn rồi.
        Đến cửa ải thứ tư, bấy giờ đã 3 giờ chiều, bị hạch hỏi và ngồi suốt ngày, tôi cảm thấy quá mệt mỏi. Nhưng thật may mắn, người thứ tư hỏi rất dễ và ông Manager nầy chính là người xếp của tôi sau nầy. Sau khi hỏi xong, ông kêu một Kỹ Sư người Việt tên Tống Chung vô nói về công việc đang làm của nhóm nầy, Chung giải thích bằng tiếng Anh vì xung quanh toàn người Hoa Kỳ. Chung làm việc ở đầy 7, 8 năm, trước khi về Việt Nam, anh cho biết là tôi đã được ông Manager đó nhận rồi. Vì nhận được tin mẹ bịnh nặng, nên Chung mới về thăm nhà và nhờ vậy nên gặp được bà lần cuối!
        Khoảng một tháng sau tôi được hãng gọi điện thoại thương lượng về giá cả, đây chỉ là thủ tục vì với tiền lương kỹ sư đối với một người tưởng mình đã vô dụng như tôi là nhiều quá rồi. Tôi nhận lời một cách không do dự, mọi người trong nhà đều vừa mừng vì tìm được việc làm, vừa lo vì không biết tôi có chịu đựng ngồi mỗi ngày tám tiếng trong hãng hay không?
        Tâm lo mua thuốc đau bụng, nhức đầu để đem theo phòng ngừa; Thành mua nệm thông hơi cho ngồi lâu khỏi bị hầm, sợ lở mông; Thiện thì mua tập ghi chú và giấy bút; vợ tôi lo mua cà vạt áo quần cùng hộp nhựa, bình thủy để đem cơm, nước nóng theo. Tất cả người trong nhà đều ủng hộ, khuyến khích giống như chuẩn bị đưa em bé lần đầu tiên đến trường để  theo học mẫu giáo vậy! Ngày đầu tiên Thành chở tới hãng Motorola, tôi vô cùng hồi hộp! Vì thường ngày rất ít tiếp xúc với bạn Mỹ, sợ bị trở ngại trong việc xã giao. Khi vô tới cổng, thấy họ đã làm thêm một cánh cửa tự động và đường dốc thoai thoải dành riêng cho một nhân viên đi xe lăn độc nhất là tôi. Quả là xứ văn minh, những người tàn phế vẫn được tôn trọng và dành nhiều ưu đãi.
        Hãng nầy là một trong rất nhiều chi nhánh trên khắp thế giới, nhân viên tại đây khoảng 3000 trong đó kỹ sư có trên 2500 (toàn thế giới có mấy trăm ngàn nhân viên). Trụ sở chánh đặt ở Schaumburg, Illinois. Riêng Florida có hai chi nhánh, một ở Plantation, Fort Lauderdale, chuyên sản xuất về điện thoại cầm tay loại không dây (Wireless cellular Phones). Còn hãng tôi làm ở Boynton Beach, thì chuyên môn chế các máy Pager (Beeper); riêng nhóm tôi mới thành lập có nhiệm vụ phải đạt chỉ tiêu trong vòng hai năm nghiên cứu, chế tạo, và sản xuất loại máy Pager mới, có thể nhận và phát tín hiệu (Two way). Vì từ trước tới giờ các loại máy Pager, đang xử dụng ở thị trường, chỉ thâu (Receiver) tín hiệu rồi hiện số (thường là số điện thoại của người nhắn tin) và chữ lên cho người đang mang máy nhận biết ai đã gọi mình.
        Toán chúng tôi có tên là Tango Group gồm hai nhóm kỹ sư, nhóm software và nhóm hardware. Nhóm software bao gồm 3 kỹ sư cơ khí (mechanical) và các kỹ sư chuyên về Computer Sciences. Nhóm tôi do Kevin làm Section Manager chuyên về điện tử được chia ra thành hai tiểu tổ : tổ Transmitter (phát thanh hay phát tín hiệu) và tổ Receiver (Thâu nhận tín hiệu) .
        Tôi ở trong tổ Receiver gồm khoảng mười lăm Kỹ sư chuyên viên, mỗi kỹ sư lo một phần vụ riêng biệt như:  antenna, R.F Amplifier, Mixer, Oscillator, Mondulator, Audio Frequency,....
        Lúc đầu anh Chung coi tổng quát phần nầy, anh đã chỉ tôi cách hàn mấy parts (Transistor, capacitor, resistor,...), nhưng sau đó anh đổi qua toán khác. Tại chi nhánh Boynton nầy có nhiều kỹ sư Việt Nam làm lâu năm và rất giỏi như: Anh, Dũng, Khang, Long, Chung, Nha, Phong, Lâm, Khanh,...Lúc tôi mới vào thường học hỏi những kinh nghiệm quí báu của họ.
        Tôi là RF Engineer, đặc trách phần Radio Frequency, phần nầy được chỉ định thâu làn sóng cao tần có frequency là 940 MHz (tức 940 triệu chu kỳ trong một giây đồng hồ). Tôi có nhiệm vụ dùng Computer để phát họa và chạy hệ thống gọi là RF Stage sao cho khuếch đại tín hiệu (thu nhận từ antenna) được hơn gấp trăm ngàn lần tin hiệu thu trong không gian, mà danh từ chuyên môn toán học gọi là 15 db (decibel) gain và giữ Noise Figure nhỏ hơn 2.8 db. Tức là khuếch đại thật nhiều mà vẫn giữ sự nhiễu loạn làn sóng thật ít. Sau khi dùng MDS (Microwave Design System) trên máy computer do hảng H.P. sản xuất để phác họa các mạch điện cho RF stage, rồi design bằng cách simulation bởi software viết sẵn cho máy Suns, tôi bắt đầu hàn gần ba mươi parts gồm: Transistor, resistor, capacitor, inductor,...trên một vùng diện tích nhỏ bằng hột nút áo, trên PC Board bề mặt bằng cái hộp quẹt (nó chứa hằng ngàn parts trong đó có cả phần Receiver, Transmitter, và IC,..)
        Tôi đã học và nghiên cứu nhiều sách vở mãi tới 2, 3 tháng mới hiểu rõ cách design bằng MDS trên Computer. Còn vấn đề hàn các parts nhỏ li ti như sợi tóc là cả một vấn đề; mặc dù đã đeo kiếng tốt và đã học lớp Assembly (hàn PC Board), nhưng đây là một lãnh vực khác, thật khó khăn vô cùng.
        Các Resistors, capacitor, Inductors, Transistors,...đều làm bằng những miếng hình chữ nhựt nhỏ cỡ hai sợi tóc nhập lại! Phải cần kính lúp mới thấy được các số trên các components (parts) nầy. Hàn board nầy rất khó, chỉ cần để mũi hàn hơi lâu một chút là coi như board và part đều bị hư, tôi mang mắt kiếng mà chỉ nhìn thấy lờ mờ, rồi chấm nhẹ mỏ hàn vào hai đầu; sau đó, dùng kiếng lúp kiểm lại coi có đúng ngay chỗ không?
        Lúc đầu tôi xin vài Boards hư tập thử nhiều lần, tới hơn một tháng mới không còn hư nữa! Sau đó bắt đầu hàn thực sự các parts đúng như mạch điện (Circuit) đã có sẵn trên Computer, xong rồi làm các đầu nối để gắn vào máy đo như Network Analyzer, Nosie Figure Meter, Generators,....Rồi thay tới đổi lui sao cho đạt đúng mục tiêu chỉ định. Công việc nói thì đơn giản, nhưng trên thực tế thật khó vô cùng, vì vậy họ mới hạn định ký contract với các hãng thầu trong vòng hai năm cung cấp, nếu giao hẹn trễ phải bồi thường 20 triệu đô la cho hãng thầu Mtel. Trong hai năm, ngoài việc design RF Stage, tôi cũng được chỉ định làm về phần Mixer, thay cho anh Kỹ sư phụ trách phần nầy lúc đi phép thường niên.
        Mỗi ngày ngồi chừng 4 giờ là tôi bắt đầu mệt đừ, vì máu dồn một chỗ, không lưu thông như người khác vì họ đi tới đi lui, đứng lên ngồi xuống. Cứ 2 giờ làm việc thì có 15 phút nghỉ break time, họ xuống lầu vào cafeteria ngồi tán dốc xả hơi. Còn tôi thì cứ ngồi kiểu số 4 trên xe lăn, may nhờ ông trưởng Group thông cảm mua tặng cho chiếc xe lăn có thể điều chỉnh ngửa 120 độ, nên mỗi buổi trưa tôi tranh thủ ăn nhanh rồi ngã người ra một chút tại phòng (thường mỗi Kỹ sư có một phòng riêng). Phòng tôi có 4, 5 máy đo, máy hàn, máy computer, kệ tủ đựng sách và dụng cụ, mỗi ngày trước khi về bỏ các vật dụng quan trọng vào hộc tủ và khóa lại.
        Khoảng 2 giờ chiều thì mệt đừ người, tôi có đem theo trà sâm để uống vài hớp cho khỏe chút đỉnh; và thường tự nhủ  ráng lên đi bạn, mỗi giờ là hai chục đô đó, bằng một tháng lương công nhân ở Việt Nam, có thể mua được 3, 4 con gà,...Mỗi lần nhắc tới tiền thì mắt tôi sáng lên, khiến mọi mỏi mệt đều tiêu tan, đúng là tham tiền! Vì tôi nghĩ nếu làm việc có tiền sẽ mua căn nhà tiện nghi cho handicap (tàn phế); rồi trồng cây ăn trái, mỗi ngày ngó từng đọt non tăng trưởng, vui thú cảnh điền viên (chỉ coi vợ con trồng thôi!).
         Một năm sau, tôi có tiền down mua căn nhà mới xây, ở gần hãng. Nhà lợp ngói, có đất phía sau rộng để trồng vài cây ăn trái, rau sống, và nhất là phía trước có trồng ba cây mai vàng và một cây bông mai tứ quí!
        Trong hãng, tôi thường học thêm của một người Nhật tên Eshi Yashu, anh đậu bằng tiến sĩ, tuy nói tiếng Mỹ không trôi chảy, nhưng rất thông minh và sáng chế ra một transistor loại IC mà có thể làm cho Noise Figure rất thấp 2.0 db và Gain (khuếch đại) đạt tiêu chuẩn là 15 db. Ngoài ra có anh Wang Phang rất tử tế, thường giúp tôi khiêng những máy cần thiết về phòng tôi. Mỗi lần có gì thắc mắc thường điện thoại hỏi anh Khang hoặc Phạm Long (em Phạm Ngọc Thạnh, K22 ĐL).
        Nhưng ráng ngồi làm việc được hai năm rưởi thì group đã sản xuất xong loại máy mới nầy, sau khi cho làm hàng loạt để tung ra thị trường khắp thế giới, mọi người trong group đều nhận được giấy khen. Tưởng đâu đã thu hoạch mỹ mãn thì được nghỉ xả hơi một thời gian, ai dè cấp trên định tái phối trí, toán tôi và toán của Wang Phang được chỉ định dời qua Texas và hãng định cho nghỉ hưu non (tình nguyện và bắt buộc)1200 kỹ sư để bớt chi phí hòng cạnh tranh với các hãng Nhật. Tôi không thể đi xa một mình được, các người trong gia đình đều có việc tại đây, nên các con tôi bảo tôi nghỉ hưu non, hãng cho một ít tiền và lãnh thất nghiệp được sáu tháng. Bây giờ được hưởng trợ cấp tàn phế mỗi tháng $490, hằng ngày ngồi trước bàn computer, để hồi tưởng và ghi lại những thăng trầm buồn vui đời lính và cuộc sống phấn đấu bằng nghị lực, đã xảy ra cho đời tôi, từ ngày bước chân vào trường VBQG, ngày xảy ra tai nạn thảm khốc gây cho cơ thể bất toàn.
        Sự phấn đấu đã xảy ra thường xuyên và mãnh liệt với chính bản thân. Sống trong nỗi tuyệt vọng, mất niềm tin, cuộc phấn đấu nội tâm thật là cam go, nó còn khó gấp bội lần so với những giờ phút quyết liệt nơi chiến trường!
     
     
    Thay Lời Kết
     
        12 năm trong quân ngũ với nhiều vất vã gian nan, nhất là những lúc trèo đèo vượt suối. Ngoài ra những lần chạm địch, đạn thù không kiên nể một ai, lúc đó người chiến sĩ đem sinh mạng ra thử thách với tử thần! Người chinh phụ ở hậu phương lúc nào cũng phập phòng lo sợ.
        9 năm còn kẹt lại ở Việt Nam, sống dưới chế độ phe đảng, công an, và cảnh sát. Bọn cầm quyền độc tài chuyên chế, lúc nào cũng muốn áp bức người dân, nhất là dân Miền Nam. Chúng muốn đưa gia đình của những người liên hệ chế độ cũ đến đường cùng. Một chế độ kiểm soát bằng lý lịch, những người cựu quân, cán, chính lành mạnh mà còn phải “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi!”.
        Còn gia đình tác giả thì chồng bịnh tật, vợ ốm yếu, ba đứa con còn quá dại khờ (1, 3, và 5 tuổi). Tiền mặt sau khi đổi chỉ còn hai trăm đồng, không của cải quý giá (Honda, chiếc nhẫn truyền thống Đà Lạt bằng vàng 18,...đều bán sạch), vậy mà gia đình đã cố gắng ngoi từ đáy parapole để lên gần tới đỉnh.
        13 năm sống tha hương, lúc mới qua Mỹ, trong nhà có hai lao động: trưởng nam mới vừa 16 tuổi, và mẹ đi làm nhà hàng, dành dụm tiền mua sách vở. Tối đi làm tới gần nửa đêm, sáng sớm cả nhà năm người đều cấp sách đến trường để rồi 9 năm sau, 4 cha con đều tốt nghiệp Kỹ Sư (1 cháu đổ bằng Master).
        24 năm ngồi trên xe lăn, với nhiều biến chứng do bịnh tê liệt gây ra, khiến tác giả ngày đêm phấn đấu với những cơn đau nhức, khó chịu, nhất là ở vùng ranh giới thắt lưng, nơi đốt xương sống bị gãy. Đầu óc lúc nào cũng lo lắng trăm bề, nhiều khi cầm quyển sách mà trong óc nghĩ chuyện đâu đâu, tinh thần kém minh mẫn, chậm chạm, khó hấp thụ như tuổi thanh xuân. Vì vậy cần phải cố gắng gấp bội, mới có thể theo kịp bạn học, còn muốn điểm cao để đem lại vinh dự cho gia đình, cho sinh viên Việt Nam, thì khỏi nói quí vị cũng hiểu tác giả đã phải phấn đấu đến bực nào? Không được than van mệt mỏi, không được nghĩ đến những cơn đau do bịnh trạng gây ra. Phải tranh thủ từng giờ từng phút, kể cả những lúc các cháu ẵm lên bàn nằm nghỉ trưa tại phòng học, vừa cầm khúc bánh mì ăn, vừa đọc sách, ôn bài.
        Đoạn trường ai có qua cầu mới hay! Mỗi lần tác giả nghĩ đến giai đoạn dài đã trải qua mà thấy rùn mình ớn sợ ! Không ngờ mình có thể chịu được cảnh đó trong suốt 24 năm! Cộng thêm mười năm ở quân trường và đơn vị tác chiến! Thì tuổi xuân nầy chẳng hưởng thụ được bao nhiêu, cán cân giữa vui và buồn, sướng và khổ, quả thật là quá chênh lệch!
        Hôm nay ngồi đây viết lại hồi ký nầy để mong quí vị nào có phần số tốt hơn, đừng bao giờ buông xuôi, chán nản, mỗi khi gặp bất cứ trở ngại nào cũng cần phấn đấu ngoi lên.
                                                                  
     
    Florida ngày 1/8/1997
    Trương Dưỡng

                   
    HẾT
     
    Cám Ơn Các Anh


    Trương Dưỡng. K20
    nguồn:
    http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

    Comment


    • Những Mẫu Chuyện Vui..

      Chiện zui !

      - Hôm qua bồn cầu bị tắc, thấy trên mạng bảo đổ nước sôi vào có thể thông được, tôi mới đun 2 ấm nước sôi đổ thẳng vào, kết quả là, mẹ nó chứ, mùi còn nồng nặc hơn. Bạn cùng phòng tôi vừa về, nhìn tôi bằng ánh mắt quái dị nói, vãi, mày còn luộc cả cứt à?!

      ***

      - Nửa đêm hôm qua đi đánh bài về, lẳng lặng đi tới cạnh giường, cởi quần oánh một cái rắm rõ to trên đầu bà xã rồi cười sung sướng. Nếu không phải vì nhìn thấy bà xã đi từ trong toilet ra, và vẻ mặt của mẹ vợ đang nằm trong chăn hoảng sợ nhìn tôi, thì có khi tôi còn cười thêm được lúc nữa…

      ***

      - Đi ngân hàng rút tiền, dừng xe bên ngoài còn dặn thằng bạn là nếu có người đến phạt xe thì nhớ báo cho tôi biết một tiếng. Quả nhiên vừa vào được vài phút đã có cảnh sát giao thông đến. Thằng bạn kia xông vào trong ngân hàng gào ầm lên: Đại ca, cảnh sát đến, chạy mau!!! Mẹ nó chứ, cả một cái đại sảnh to mấy chục con người lập tức yên lặng không một tiếng động, sau đó cả đám đông ùn ùn chen nhau chạy ra khỏi ngân hàng như lũ quét. Tôi bị 5,6 nhân viên bảo vệ ấn xuống đất… Con mẹ nó oan chết đi được, đúng là không sợ đối thủ giỏi như thần, chỉ sợ đồng đội ngu như lợn.

      ***

      - Trên xe bus~ một đứa bé trai nghịch ngợm hô to với bố mình ~ Bố ơi bố ~ Con là sủi cảo đây, mau ăn con đi! Bố đứa bé cũng phối hợp ăn ầm một miếng rồi nói: Ngon quá, bảo bối, con là sủi cảo nhân gì thế? Đứa bé: Bố ~ con là sủi cảo nhân cứt ạ ~

      ***

      - Hôm nay xuống nhà gặp một ông cụ 100 tuổi, nhìn thấy cụ ngồi một mình liền tới hỏi: “Cụ ơi, sao cụ không xuống chơi cờ với mấy cụ dưới nhà ạ?” Không ngờ ông cụ lại nói: “Chơi với mấy thằng nhóc 60, 70 tuổi thì có gì vui đâu?”

      ***

      - Lúc đi học tôi cầm theo quả hồng, sau khi lên xe bus thì cắm cúi nghịch di động, tiện tay nhét quả hồng vào túi. Vừa ngồi xuống, có một tiếng pẹt vang lên, thịt quả hồng màu vàng đỏ lòi ra dưới mông, mọi người trên xe lập tức bịt mũi. Vì muốn giải thích rõ, tôi còn quẹt một tí đưa lên miệng, kết quả là cả xe thi nhau nôn ọe. Bác tài xế nói, đó là cứt thật, đứa bé kia vừa ị đùn ra, quả hồng của cậu rơi dưới đất kia kìa.





      Last edited by BachMa; 10-30-2017, 08:32 PM.

      Comment


      • Trình Độ Ngoại Ngữ Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm

        Trình Độ Ngoại Ngữ Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
        Vỹ Nhân Của Thế Giới

        Last edited by BachMa; 11-11-2017, 02:45 AM.

        Comment


        • Trình Độ Ngoại Ngữ Của Lãnh Tụ VNCH

          Trình Độ Ngoại Ngữ Của Lãnh Tụ..
          Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa


          Comment


          • Nhớ Ngày Sài Gòn Mất Tên

            Nhớ Ngày Sài Gòn Mất Tên
            (Hấp lực Của Một Thành Phố)

            Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên


            Tuy phải sống trong hoàn cảnh lửa đạn chiến tranh kéo dài, nhưng miền Nam VN lại là một quốc gia có sức hấp dẫn lạ kỳ. Trong đó, xã hội của thành phố Sài Gòn cũng là nơi tỏ sức thu hút đặc biệt với những mặt tốt xấu, buồn vui, thiện ác của con người được bộc lộ rõ nét.

            Đó là một xã hội thể hiện những phong tục và bản sắc của người dân VN được pha trộn thêm những nét văn hóa tiêu biểu của Trung Hoa, Pháp và Hoa Kỳ nên có thể nói đây là một sự kết hợp tính đặc thù giữa Đông và Tây, cũ và mới. Điển hình là có những người xem bói và nói về tín ngưỡng thần linh bằng tiếng Pháp một cách sành sỏi.

            Không hiểu đó có phải là do cá tính dân tộc của người miền Nam VN hay là vì những quan niệm về lẽ sinh tử bị ảnh hưởng từ chiến tranh, nhưng họ luôn bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp không cần che đậy hay đè nén. Họ vật vã gào khóc khi mất người thân, họ khiển trách than thở trước những tệ nạn của nhà chức trách, họ giận dữ lớn tiếng khi bị lường gạt hoặc mất tiền bạc của cải v.v….Tóm lại, việc bộc lộ tình cảm vừa trực tiếp vừa khích liệt là những điều xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của xã hội miền Nam VN. Điều này quả thật tương phản với hình ảnh những người Nhật Bản ngồi im lặng chịu đựng trên những con tàu điện ngầm chật kín trong giờ cao điểm đến hãng sở làm việc ở Tokyo.

            Tuy nhiên, ở mặt phản diện hầu như trong thâm tâm mọi người đều có khuynh hướng dè dặt và nghi ngờ hay nói cách là không thật tình tin tưởng kẻ khác và đây chính là hai mặt trái ngược khi diễn tả tâm tính của người Sài Gòn. Tức là tuy ta có thể nhìn thấy cảm tình của họ dường như bộc lộ ra hết bên ngoài nhưng mặt khác bên trong lại chất chứa sự nghi ngờ. Vì vậy cũng có thể nhìn được hai yếu tố gắn liền với mặt phản diện này là sự gian dối và sự lừa gạt. Ngoài ra, xã hội cũng nghiêng về sức mạnh của đồng tiền được coi là bối cảnh xuất phát tệ nạn tham nhũng.


            Thế nhưng, điều khiến tôi dao động mạnh nhất là nhìn thấy người dân miền Nam kể cả nam lẫn nữ đều có sức sống mãnh liệt dù trong tình trạng đất nước chiến tranh, không biết sống chết lúc nào. Họ luôn tươi cười rạng rỡ và bình thản trong cuộc sống. Quả thật, đối với một người từ thủ đô Tokyo Nhật Bản trong một buổi chiều Xuân êm đềm như tôi chợt thay đổi hoàn cảnh, đi đến vùng đất chiến hỏa này và được mục kích lối sống của người dân miền Nam VN nên tôi không khỏi ngạc nhiên.

            Tóm lại, kể từ sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng Giêng năm 1973, tôi càng có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người VN và cảm nhận được những biểu hiện tình cảm hỉ nộ ai lạc của họ. Đó là khoảng thời gian mà cho dù ai cũng biết hiệp định đình chiến Ba Lê chỉ là trò nguỵ tạo nhưng nhịp sống của xã hội Sài Gòn vẫn tiếp tục vươn lên và kỳ vọng về một tương lai hòa bình trong lúc tình hình chiến cuộc có lúc tạm thời lắng dịu.

            Riêng trường hợp của tôi, cho đến khi quen thuộc với cuộc sống ở Sài Gòn thì cũng phải trải qua nhiều kinh nghiệm thương đau. Nói chung, có những người dân ở đây suy nghĩ rằng người ngoại quốc vốn giàu có nên nếu lường gạt họ bao nhiêu cũng là điều bình thường. Hơn nữa, nếu sự lường gạt xảy ra giữa những người VN với nhau thì phía bị lường gạt lại bị coi là ngu khờ, dại dột và phải chấp nhận sự thiệt thòi này một cách đương nhiên.

            Điển hình là lúc tôi mướn căn phòng trọ trong thành phố do một phụ nữ trung niên kinh doanh tiệm uốn tóc làm chủ, tôi có ký vào một tờ giấy được coi là bản khế ước mướn phòng. Nhưng khi bắt đầu dọn vào ở ngày đầu tiên thì sáng hôm sau có một người đàn ông lạ mặt đến cho tôi biết rằng: “Anh là người nhập cư bất hợp pháp”. Thì ra người phụ nữ nói trên đã tự ý lấy danh nghĩa chủ phòng rồi cho tôi mướn. Sau đó tôi phải trả thêm tiền đặt cọc cho người chủ phòng thật sự.

            Chưa hết, khi tôi nhờ người bắt đường dây điện thoại trong phòng thì cũng ngay sáng hôm sau khi chuông điện thoại reo thì tôi bắt máy nhưng lại nghe tiếng hai người đàn ông khác đang nói chuyện. Bởi lẽ, đây không phải điện thoại bắt riêng mà họ câu dây từ máy điện thoại chính ở phòng bên cạnh. Dĩ nhiên là tôi bị mất tiền bắt đường giây này và sau đó cũng phải trả thêm tiền để bắt đường giây riêng cho máy điện thoại của mình.

            Ngoài ra, tôi cũng từng bị mất xe hơi, bị trộm vào phòng. Đó là lúc tôi ngã bệnh vì chưa quen phong thổ nơi này, sau mấy ngày nằm liệt tôi cảm thấy hồi phục và đi ra ngoài cho khuây khỏa nhưng khi trở về phòng thì thấy kiếng cửa sổ bị phá vỡ và lúc xem lại đồ đạc thì mới biết bị mất tiền, máy chụp hình máy thu âm v.v…

            Thêm một kinh nghiệm khác là do công việc bận rộn nên tôi có mướn một phụ nữ đến dọn dẹp, giặt giũ nhưng trải qua một thời gian dài sau đó tôi mới biết tiền bạc trong ngăn kéo và túi quần đã bị cô ta lấy đi từng chút, Có lần tôi cùng người bạn đi Vũng Tàu tắm biển thì bị trộm chìa khóa xe hơi, cuối cùng phải bỏ tiền ra chuộc lại chìa khóa. Trong khi đó, tôi cũng được nghe nói về tình trạng hối lộ hoành hành trong xã hội.


            Tuy vậy, bên cạnh những mặt tiêu cực cũng có biết bao điều tốt đẹp diễn ra nơi những góc cạnh khác của xã hội miền Nam với nhiều mảnh đời cùng cực đầy nghịch cảnh nhưng họ vẫn vững tin vào cuộc sống và giữ được nét thanh khiết trong tâm hồn vốn chứa đựng đầy ý nghĩa tình người khiến tôi vô cùng ngạc nhiên muốn tìm tòi học hỏi thêm. Hoặc có thể nói khác hơn là chính họ đã mang lại những nụ cười và niềm lạc quan yêu đời cho tôi mà từ trước đó tôi chưa hề cảm nhận được nguồn năng lực tạo nên sức sống mãnh liệt đến như vậy.

            Tóm lại, trong khi tôi cố gắng nhớ tiếng Việt bao nhiêu thì cũng tiếp xúc thân mật với những người thuộc giai cấp bình dân bấy nhiêu. Từ đó, tôi lại càng bị lôi cuốn vào hấp lực của thế giới nội tâm mang nét đặc dị của người dân trong xã hội miền Nam VN nói chung và Sài Gòn nói riêng.


            Nếu đối chiếu với xã hội Nhật Bản xưa kia, ta cũng thấy được nét tương đồng của xã hội miền Nam về đặc tính bổn phận của cá nhân đối với gia đình. Trong xã hội miền Nam, những người được coi là trụ cột của gia đình luôn có bổn phận phải chăm lo cho cha mẹ, anh chị em và người thân nên có thể nói là họ đã hy sinh cả cuộc đời để chu toàn bổn phận này. Trong mối quan hệ với bạn bè, người quen, người dân miền Nam còn có lối xử thế đặt trên căn bản coi trọng tình nghĩa lẫn thể diện. Tôi đã gặp rất nhiều người tuy trông bề ngoài có vẻ như họ rất chuộng tiền bạc vật chất nhưng bản chất thực sự của họ chính là những người tốt bụng, có lòng giúp đỡ tha nhân và hành xử theo hướng nhân nghĩa đạo đức rất đáng kính trọng.


            Thêm nữa, nếu ta xét về trường hợp người dân sống trong một xã hội lâm cảnh nhiễu nhương trong thời kỳ chiến loạn như miền Nam thì có lẽ họ không thể nào có được một cuộc sống nội tâm đơn thuần. Và vì vậy, họ phải thích ứng với hoàn cảnh để sinh tồn trong những môi trường lừa lọc, tính toán. Nói một cách đơn giản là trong bối cảnh cuộc chiến VN có sự xâm nhập của những thành phần hoạt động cho phía MTGP nên người dân miền Nam khó có thể phân biệt ai là thù ai là bạn và từ đó họ cũng không thể nào tin tưởng người khác một cách dễ dàng.

            Những nét đặc tính sinh hoạt của người dân miền Nam VN còn được một ký giả Nhật Bản nổi danh là Kondo Koichi miêu tả rất sống động qua các loại bài ký sự và tác phẩm của mình. Ông Kondo Koichi vốn là đặc phái viên của tờ báo Sankei tại Sài Gòn, từng lưu học ở Pháp và kết hôn với người trưởng nữ của vị đại sứ Nhật Bản ở Pháp vào năm 1967 nhưng chỉ ba năm sau vợ ông qua đời.

            Ông đến Sài Gòn làm việc từ năm 1971 và trong thời gian này đã tái hôn với một phụ nữ VN tên Bùi Thị Nâu. Sau đó, ông đã viết quyển sách “Saigon Kara Kita Tsuma To Musume” tức “Vợ Con Tôi Đến Từ Sài Gòn” để nói về đặc tính sinh hoạt của người dân miền Nam qua hình ảnh của người vợ ông là bà Nâu và người con gái riêng của vợ tên Mỹ Dung mà ông coi như con ruột. Tác phẩm này đã đoạt được giải thưởng văn học bộ môn tả chân mang tên văn hào Oya Soichi vào năm 1979.

            Từ năm 1980, ông Kondo Koichi còn thực hiện hàng loạt bài phóng sự về vấn đề người tị nạn VN và cũng nhận được nhiều giải thưởng văn học danh giá của Nhật Bản. Tuy nhiên, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông liên quan đến sự kiện Sài Gòn Thất Thủ” là quyển sách có tựa đề “Saigon Ichiban Nagai Hi” tức “Sài Gòn Ngày Dài Nhất”. Đáng tiếc là ông Kondo Koichi đã ra đi trong lứa tuổi hãy còn rất trẻ khi mất vào tháng Giêng năm 1986 vì chứng bệnh ung thư bao tử, hưởng dương 45 tuổi.

            Trở lại những mảnh đời nổi trôi theo số phận nghiệt ngã mà từ tôi từng chứng kiến tại Sài Gòn thì quả thật họ có sức chịu đựng vượt qua mọi sự tưởng tượng của tôi. Chẳng hạn như trường hợp một vị cao niên trong cùng năm có tới 3 người con trai tử trận nhưng ông vẫn đè nén nỗi đau để vươn sống và chăm lo cho các cháu của mình. Còn một người tôi quen khá thân là cô gái ở lứa tuổi đôi mươi làm việc ở quán bar có mang được 7 tháng thì nghe tin chồng chết ngoài chiến trường và cô vẫn tiếp tục vui sống vì đứa con và người mẹ già của mình. Ngoài ra còn biết bao cảnh ngộ bi thương khác nhưng lạ lùng là họ vẫn nở nụ cười như để trang điểm thêm cho cuộc sống.

            Nói chung, từ trong bóng tối chiến tranh, ánh sáng của những nụ cười sảng khoái và những câu nói đùa làm bầu không khí trở nên sôi động chính là hành trang trong cuộc sống của người dân miền Nam. Đó cũng là những bài học giúp tôi nhìn được ý nghĩa cuộc sống để đương đầu với nghịch cảnh.
            Lối sống của người dân miền Nam VN là như vậy đó và nó luôn thu hút tôi một cách đặc biệt.


            ©Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR
            nguồn:
            http://www.nvbonphuong.com/forums/sh...t-thành-phố
            Last edited by BachMa; 12-20-2017, 07:43 PM.

            Comment


            • Còn Nhớ Sài Gòn Không ♥

              Còn Nhớ Sài Gòn Không - Thanh Thúy

              Comment


              • Chuyện Về Chị Kim Chi

                Chuyện Về Chị Kim Chi
                Vĩnh Chánh

                Một chuyện tình đẫm lệ thời chinh chiến. Thật đáng thương cho những người đã sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến quốc cộng tương tàn thảm khốc.
                                                                    
                oooOooo

                Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.

                Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.


                Hình minh họa

                Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.

                Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.

                Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”

                Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.

                Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”

                Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”

                Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên tuôn trào.

                Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”

                ***

                “Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
                Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
                Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
                Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…” (1)


                Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.

                Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.

                Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.


                Hình minh họa

                Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.

                Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng, lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.


                Hình minh họa

                Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.

                ***

                Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
                Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.

                ***

                Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.

                Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.

                ***

                “Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
                Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
                Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)

                Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố đầy người.
                Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.


                Hình minh họa

                Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt. Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.

                Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước. Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.

                Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!

                “Trách chi người ai lỗi ai
                Trách chi người mi ướt cay
                Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
                Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)


                Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác trong cuộc đổi đời.

                Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị cũng hoàn toàn dấu con gái.

                Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.

                Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng; những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai.

                Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn cả thương tật của anh và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh, bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp. Không mây.

                ***

                “Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
                Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
                Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)


                Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để lại cho cha.

                Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.

                Tháng Giêng, 2017
                Mission Viejo, CA
                Vĩnh Chánh

                (1): “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên
                https://youtu.be/312lnbyEYV8

                (2): “Sài Gòn Thủa Đó Làm Sao Quên”, nhạc và lời của Y Sĩ Không Quân Lê Khắc Bình
                https://youtu.be/-shwXlcVuNY

                nguồn:
                https://buonvuidoilinh.wordpress.com...e-chi-kim-chi/

                Comment


                • Tháng Ba Định Mệnh

                  Tháng Ba Định Mệnh
                  Võ Đức Nhuận

                  Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975

                  March 12, 2017
                  …Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông Bình Định đã rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có gì để ăn, ruột đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những đám gò trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói lòng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ còn rất non. Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không còn đi nổi. Tôi thấy tình hình như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh còn sức cứ đi theo hướng Đông ra biển may ra còn tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài Gòn.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:
                  “Đại Uý đi thì chúng tôi đi, ông ở lại chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”

                  Không còn cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái chòi, chúng tôi vào chòi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng bình thường như những bà nông dân khác,không có gì phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa giờ sau, du kích đã vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ còn biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống còn phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đình làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê gớm nhất của cuộc đời, không biết còn có cảnh khổ nào hơn không?

                  Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có gì nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô định, ai biết mình sẽ bị đưa về đâu, và sống còn đến ngày nào. Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách gì cả, hễ ai bất tuân bọn chúng, thì coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ còn trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút thì bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dã man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19, từ Bình Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rõ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41. Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đã xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu sình thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác thì còn loang lổ một ít tóc trên phần sọ đã rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời. Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn Thị Điểm:

                  Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
                  Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
                  Chinh phu tử sĩ mấy người,
                  Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..


                  Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

                  Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:

                  “Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu.”

                  Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.
                  Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

                  Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:

                  “Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

                  Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

                  Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:

                  “Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản.”

                  Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

                  Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

                  Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

                  Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.


                  Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

                  Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không….

                  Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đình tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn, nên tôi đã dần dần hồi phục và giữ được cái mạng còm cho đến hôm nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi thì thế nào cũng được thả về, nhưng thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ thì nhìn thấy đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
                  “Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”

                  Tôi trả lời:
                  “Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”

                  Hỏi:
                  “Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uý sớm như vậy?”

                  Tôi trả lời:
                  “Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uý, được thăng Thiếu Uý, 2 năm Thiếu Uý được thăng Trung Uý. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm thì lên Đ/Uý.”

                  Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà mình tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….

                  Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ tình hình thanh lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lý. Trại này cũng là một trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm thì không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng vì đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mã thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngã thì coi như cái mạng đi đoong. Súng AK thì lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi tìm đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mã có khác gì nhau đâu.

                  Tôi còn nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đã từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao tìm gỗ vì dưới thấp không còn nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. Vì lúc đó tôi còn trẻ nên nghĩ rằng mình khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc vì nặng quá, không kềm được, nên đã té ngã nhiều lần. Rốt cuộc để khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc vì thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đình Khang nói nhỏ:
                  “Bác khổ là vì hồi đó bác hà tiện quá mà.”

                  Bác càu nhàu hỏi:
                  “Hà tiện gì?”

                  Anh bạn Khang nói:
                  “Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài Gòn ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển, thì đâu có ngày hôm nay.”

                  Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.

                  Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người còn lại tôi không nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….


                  Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các chòi, chòi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Hòa để cấp cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là tai nạn, vì các chòi nằm giữa miếng đất trống thì sao lại có hỏa hoạn.

                  Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đình từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo còn không đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này hình như anh đã quyên sinh vì nghịch cảnh gia đình. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử của nhân loại.

                  Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về còn xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo gì nghe đó, sự đối kháng không còn nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu còn sống sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có hình dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?

                  Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lý. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở Tuy Hòa. Trại này tập trung đủ các thành phần, hình sự, vượt biên, những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh Bình, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao mình ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà mình không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rõ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi thì mới lấy vợ, khi về vợ đã 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.

                  Dưới tay Công An quản lý, thật là một sự xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây thì gia đình thăm nuôi, tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, thì đâu có gì tốt bằng đâu nào. Các trại khác thì thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia đình tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt không thể nhìn hết. Chúng lại lên lớp:

                  “Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”

                  Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu gia đình chúng tôi không nuôi thì chúng tôi đã chết đói rồi.

                  Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy vì ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói gì đó, sau lên lớp…Vì hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an phòng vệ đã nhào vô bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam thì thấy anh như một đống thịt, máu me đầy mình! Ôi con người đến thế thì thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Hòa để điều trị và nghe đâu hình như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lãnh anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không còn được nghe gì hơn nữa, không biết anh có còn sống, và nếu như có đọc những dòng này của tôi, thì xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……

                  Tôi cũng không biết nói sao, vì mỗi con người có trình độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ thì sẳn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ thì tên Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám mì, giở trò giáo đầu là tôi lao động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù lì, là thành phần chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, vì nó đã nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:
                  “Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh thì anh phải theo dõi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách mạng, ai phát biểu những gì bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với tôi, hay bỏ vào hòm thư trước trại.”

                  Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
                  “Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi còn phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn trại.”

                  Hắn nói:
                  “Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối kìa.”

                  Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa vì không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
                  “Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”

                  Tôi nói:
                  “Tôi có để ý một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói gì, thành tôi không có gì để báo cáo.”

                  Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:
                  “Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ý.”

                  Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng còn có nhiều anh em nghĩa khí và có tình người.

                  Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
                  “Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đình anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đình ban đêm.”

                  Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên với gia đình sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn thì thấy là chuyện đau khổ thêm cho vợ mình, có người chuộng vật chất thì cho đó là một đặc ân của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:
                  “Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”

                  Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân rã rời, tai như bốc khói. Trên đường đi về trại, thân thể rã rời ngất ngưỡng như người mộng du, vì sức đã cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân vào cùm, làm bạn với gián…..

                  Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em còn rất trẻ, có em đã bị bắt vào đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho trình diễn những đêm thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung hình như chúng tôi gần như thuộc lòng, vì xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù lì. Có những trò khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đình chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối còn cho gặp. Ngày hôm sau, gia đình về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem trình làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế thì nhân đạo quá đi chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.

                  Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A 30 thì tên này đã được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lý và được đem gia đình đến sinh sống vì hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết vì vợ của hắn có chút bà con xa với gia đình tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đình cha mẹ vợ hắn, thì mới hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đã bỏ hắn, sống với người khác rồi.

                  Những khổ hình ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những điều mình nghe, mình chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai vì một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp hòa giải với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xã hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đã hy sinh cho con ăn học những mong cho con mình đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.

                  Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu bò cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ Bình Định trở vào, muốn bò quẹo trái thì gọi Thá, muốn bò quẹo phải thì gọi Dí, muốn chúng dừng lại thì gọi Dò. Còn ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái thì gọi Tắc, muốn quẹo phải thì dùng Rị, và muốn dừng lại thì dùng Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp bò và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển bò, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, bò nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Bò đi mãi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., bò vẫn đi, hoảng quá anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận bò lại, chúng tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:
                  “Bò nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”

                  Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen. Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ sình ngập lên tới cổ. Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật là hãi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, vì nhảy lên bờ thì AK chĩa vào đầu.

                  Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi vì tinh thần căng thẳng và hãi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ bắt. Tôi thì chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:
                  “Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ mò từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong lòng bàn tay rồi, thì dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm thì không bao giờ bị mất cả.”

                  Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng tôi không tìm được thứ gì để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho thì tiếc, bèn oảnh tù tì ai thắng thì ăn hết, ai thua thì nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi thì mới nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đã 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ mình cũng nên quên đi để sống những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hãi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được bình yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lý, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đã tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh bình…..

                  Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
                  Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
                  Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
                  Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
                  Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
                  Nước còn cau mặt với tang thương,
                  Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
                  Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.


                  Hay:
                  Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
                  Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
                  (Bà Huyện Thanh Quan)


                  Hoặc:
                  Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
                  Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
                  Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
                  Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
                  Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
                  Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
                  Đêm đêm ròng rã kêu ai đó
                  Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
                  (Nguyễn Khuyến)


                  Vận nước đã đổi thay, quê nhà chìm đắm trong cảnh bất công. Giới thống trị thì vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập dìu, người dân còn lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa, và còn phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như chúng ta không? Nếu có thì chỉ có sự thay đổi thể chế xã hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa vòng trái đất. Muốn tìm một chút tình cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:

                  Đau lòng tử biệt sinh ly,
                  Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….


                  Chúng ta đã may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà còn biết bao người thân đang trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo…..

                  Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và mãi mãi thanh bình trong chiều hướng tự do dân chủ…..


                  Võ Đức Nhuận
                  (Đây là những nhân vật có thật trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại cải tạo đã đi qua)

                  nguồn:
                  https://buonvuidoilinh.wordpress.com...-ba-dinh-menh/
                  Last edited by BachMa; 12-12-2017, 06:03 AM.

                  Comment


                  • Nàng Dâu Nam Kỳ

                    Nàng Dâu Nam Kỳ
                    Nguyễn Thị Thanh Dương


                    Tôi coi lại va ly quần áo và túi xách tay của mẹ chồng một lần nữa, rồi lảnh lót gọi với lên lầu cho thằng con trai:
                    – Cu Tí ơi, cu Tí à, con sẵn sàng chưa?

                    Mẹ chồng tôi không hài lòng, trách tôi:
                    – Con trai lớn tướng mà cứ gọi Cu Tí như thằng bé lên ba ấy.

                    – Mẹ ơi, con biết rồi, chỉ gọi giỡn “anh chàng” một chút cho vui mà. Andrew ơi, xong chưa con, chúng ta đi thôi?

                    Con trai tôi đã đến bên tôi, anh chàng nhìn bà nội âu yếm:
                    – Cháu cám ơn bà đã nhắc nhở mẹ cháu.

                    Bà cũng âu yếm nhìn cháu, Andrew lớn giống bố như khuôn như đúc, lại hiền ngoan học giỏi, ra trường là xin ngay được công việc như ý nên bà thương nhiều.

                    Bà khéo léo giục cháu:
                    – Thì cháu lấy vợ đi, mẹ cháu sẽ không bao giờ gọi là “Cu Tí” đâu. Bà già rồi phải cho bà thấy mặt cháu dâu và cả chắt nữa như người anh họ của cháu ở Calif. thì bà mới yên lòng.

                    Andrew hứa hẹn:
                    – Vì chúng cháu phải tìm hiểu nhau lâu để thử thách tình yêu nên chưa cho gia đình biết. Vâng, bà cứ đi California chơi, khi bà về cháu sẽ mang cháu dâu tương lai đến trình diện bà và bố mẹ cháu.

                    Mẹ chồng tôi vui mừng:
                    – Cháu làm bà sốt ruột, bà chờ đợi mấy năm nay mới nghe cháu hứa một câu làm bà hài lòng đấy.

                    Tôi cũng vui mừng không kém, hai vợ chồng tôi có con muộn, Andrew là con trai duy nhất, từ ngày Andrew tốt nghiệp đại học, có việc làm vững chắc đã nhiều năm nay tôi giục con cưới vợ mà nó cứ nói chưa có ai, tình yêu chưa đến, nên tôi không nhắc nó nữa. Hôm nay bất ngờ lại có tin vui.

                    Chúng tôi đưa bà ra phi trường về California, thăm gia đình con trai trưởng. Bà sẽ ở chơi Calif. một tháng. Bà chẳng ưa gì con dâu cả, nhưng bà thương con trai và cháu đích tôn nên về thăm họ.

                    Tiễn bà đi phải đầy đủ mặt con cháu, gồm vợ chồng tôi và Andrew. Tôi hiểu tính mẹ chồng lắm, bao giờ bà cũng muốn được con cháu quây quần chăm lo, quý mến, chứ không thể xuề xòa, lấy lệ cho xong.

                    Khi chồng con tôi đang check vé máy bay cho bà, thì bà chợt nhớ ra, dặn dò tôi:
                    – Chốc nữa về con nhớ đi gởi món tiền ấy về Việt Nam cho mẹ nhé. Lần này ngoài phần tiền của mẹ lại được con cho thêm vài trăm thì cậu Nụ tha hồ sửa nhà cửa. Cậu con già rồi, có căn nhà tử tế thì chết cũng yên lòng nhắm mắt con ạ.

                    ***

                    Ngày tôi và anh Bông yêu nhau, anh dẫn tôi về “ra mắt” mẹ anh, bà mẹ người Bắc tóc vấn trần cài lược, đôi mắt sắc xảo nhìn tôi không chút thiện cảm. Bà khéo léo hỏi thăm họ hàng tông môn nhà tôi, rồi phán:
                    – Hai đứa cứ tìm hiểu nhau cho kỹ, chứ Bắc Nam có nhiều điều không hợp nhau đâu.

                    Anh Bông quả quyết:
                    – Kỹ từ lâu rồi mẹ ơi, bây giờ chỉ đợi mẹ cho phép hỏi cưới thôi. Thí dụ… ngay ngày mai cũng được.

                    Bà nghiêm mặt lườm con trai:
                    – Anh đừng có nhanh nhẩu đoảng, chuyện hôn nhân hệ trọng cả đời.

                    Thế là mối tình nồng nàn của chúng tôi khựng lại vô hạn định vì mẹ anh chưa đồng ý. Thuở ấy anh Bông đang ở trong quân ngũ, một hôm anh mang về quả lựu đạn, đặt lù lù trên bàn, ngay trước mặt mẹ anh và thống thiết:
                    – Nếu mẹ không đồng ý cho chúng con cưới nhau thì quả lựu đạn này sẽ nổ tung chết cả con và cô ấy, và xin mẹ chôn chúng con chung một nấm mồ.

                    Mẹ anh hoảng hốt lên:
                    – Ối con ơi, bình tĩnh nào, việc gì phải mang vũ khí đạn dược ra thế!!

                    Anh ai oán:
                    – Sống mà không lấy được người mình yêu thì chết cho xong!

                    Mẹ anh năn nỉ:
                    – Đừng dại dột con nhé? Vậy con muốn cưới hỏi ngày nào thì mẹ sẽ làm ngày ấy.

                    Nhờ thế tôi mới sớm được làm dâu của bà, và vì thế bà càng ghét cay ghét đắng tôi.

                    Mãi sau này chồng tôi mới dám kể cho tôi nghe, mẹ anh đã chê tôi là con gái miền Nam quen ăn trắng mặc trơn, làm đồng nào “xào” đồng ấy, lấy cái “ngữ” này chỉ khổ vào thân, thằng chồng nai lưng đi làm nuôi con vợ ăn tiêu hoang phí.

                    Anh đành “khủng bố” mẹ bằng qủa lựu đạn, nếu không thì mẹ anh cho tôi đợi tới già hay chán quá tôi đi lấy chồng khác mà thôi. Tôi làm dâu nhà anh, cha anh mất trước đó vài năm. Anh cả đã lấy vợ và ở riêng một năm nay, vì anh cả thuyên chuyển công việc ra miền Trung nên vợ con cũng đi theo, chồng tôi là con thứ cũng là con út, đi lính đóng quân ngay Lái Thiêu, tiện đi về thành phố Sài Gòn mỗi ngày.

                    Mẹ chồng tôi nắm giữ quyền hành trong nhà, bà đảm đang trông coi cửa hàng bán vật liệu xây cất do chồng để lại, cửa hàng trước cửa nhà rất đông khách nên bận bịu cả ngày, nhưng bà vẫn đi chợ mỗi buổi sáng, quẳng cái giỏ chợ xuống bếp, vắn tắt ra mệnh lệnh cho tôi:
                    – Thịt bò thái xớ ngang, xào rau muống. Thịt lợn kho mặn, cua giã nhuyễn, nấu bát riêu cua cà chua…

                    Tôi hỏa mù trước những món ăn Bắc này, ở với má, tôi cà nhỏng ăn học và ăn chơi, má dễ dãi hiền lành thôi thì con gái ở với ba má sướng ngày nào thì cứ hưởng, chừng lấy chồng vất vả lo cho chồng con thì giờ đâu mà ăn chơi.

                    Hôm cuối tuần mẹ chồng tôi mua một con gà sống về ra một mệnh lệnh khác:
                    – Cắt tiết gà, luộc gà với hành gừng cho thơm, thịt gà phải vừa chín tới. Nước gà nấu bát miến, cho tiết luộc và lòng mề thái nhỏ lên trên.

                    Tôi rình lúc mẹ chồng không để ý, gọi chồng xuống bếp và than phiền:
                    – Mẹ anh đang chơi trò rượt đuổi em chạy trối chết luôn, bắt em nấu hết món này tới món kia, mà toàn là những món em chưa biết nấu bao giờ. Anh cứu em với.

                    – Mẹ đang dậy em nấu nướng đấy, trước lạ sau quen.

                    – Nhưng em không dám cắt cổ gà, nhìn nó đau em sợ lắm…

                    Má tôi Nam kỳ dễ tính, mua gà làm sẵn ngoài chợ cho lẹ, còn mẹ anh Bắc Kỳ tính toán chi li từng chút một, mua gà sống sẽ biết chắc con gà ngon vừa ý, và nhất là giá rẻ hơn gà làm sẵn.

                    Tôi cầm chân và hai cánh gà thật chặt còn mắt thì nhắm lại trong khi chồng tôi cắt tiết, đúng lúc ấy mẹ chồng tôi xuống bếp, giọng bà hùng dũng như một vị tướng mắng mỏ quân sĩ phạm luật:
                    – Giời ôi, hai vợ chồng mới cắt tiết được con gà cơ à? Này nhé, chị lấy hai chân kẹp cánh, kẹp chân gà và cầm cổ gà cắt vài nhát, dốc ngược gà lên cho chảy hết tiết là xong. Ngày xưa tôi làm dâu, nhà chồng có giỗ Tết một mình tôi cắt tiết một lúc mấy con gà nhanh như chớp.

                    Chồng tôi bênh tôi:
                    – Ngày nay khác rồi mẹ ơi, với lại vợ con chân yếu tay mềm…

                    Bà “mát mẻ”:
                    – À thì ra ý anh nói tôi vũ phu đấy, còn vợ anh thì yểu điệu thục nữ.

                    Để đáp lễ lại những món ăn Bắc mẹ chồng đã chỉ dạy, tôi về học cấp tốc má tôi mấy món miền Nam dễ nấu như canh khổ qua nhồi thịt và cá thu kho nước dừa, thì mẹ chồng tôi giẫy nẩy lên:
                    – Canh mướp đắng ư? Tôi chịu thôi, không ăn được.

                    – Cá thu kho nước dừa lợ lợ khó ăn lắm.

                    Tôi liền đổi sang món “canh rau tập tàng” cho lạ đời, thì bà mẹ chồng Bắc Kỳ vẫn không chấp nhận. Bà rên xiết:
                    – Canh gì mà lắm loại rau thế này? Nào mồng tơi, rau rền, mướp khía, bù ngót, bắp non. Chị nấu canh nào thì nấu một món rau thôi nhé, đừng hoang phí thế.

                    Trời ơi, món “canh rau tập tàng” của miền Nam dân dã hào phóng dùng nhiều loại rau chứ có phải tôi sáng chế ra đâu.

                    Tôi bất mãn lắm, chỉ muốn bữa nào… trả thù, làm món “Mắm kho quẹt” cho bà ăn, món này rẻ tiền, mặn mà ăn hoài không hết, đỡ tốn, hay cho bà uống nước mưa như ở dưới quê tôi thay cho uống nước trà, tiết kiệm được tiền mua trà, chắc bà sẽ không chê tôi hoang tàn nữa?

                    Những chuyện “mất lòng nhau” giữa mẹ chồng người miền Bắc và nàng dâu người miền Nam thường xuyên xảy ra.

                    Ngày giỗ tết gia đình anh cả về nhà, làm cỗ xong tôi cho hai con anh cả ăn trước thì bị mẹ chồng mắng cho một trận là không biết nề nếp gì cả, trẻ con không được phép ăn trước người lớn. Trong khi trong gia đình miền Nam chúng tôi cứ thoải mái dọn đồ cho tụi nhỏ ăn trước cho rảnh để rồi người lớn ăn sau.

                    Vốn chẳng ưa tôi, bà thường mang tôi ra so sánh thẳng thừng với nàng dâu cả của bà, nàng dâu Bắc, ăn nói ý tứ lịch lãm, sống căn cơ tằn tiện, biết thu vén trước sau chồng con sẽ được nhờ và chê tôi tuệch toạc bạ đâu nói đó, thích gì làm đó, mua sắm thì bất kể tiền còn nhiều hay ít. Nói trắng ra là tôi đang “phá của” nhà chồng.

                    Vì yêu chồng nên tôi nhẫn nhịn chịu đựng mẹ chồng, cũng như tôi đã chịu hy sinh bỏ nghề dạy học chỉ để ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán.
                    Tối về tôi chỉ biết khóc rấm rứt với chồng để cho anh vỗ về an ủi, thôi em cố chiều mẹ, sau này mẹ hiểu ra sẽ thương yêu em nhiều. Trời chẳng phụ công, phụ lòng tử tế của ai bao giờ.

                    Được một năm thì biến cố 1975 xảy ra, cả đại gia đình chúng tôi đều vượt thoát đến Mỹ.

                    Đầu tiên mẹ chồng tôi ở với gia đình anh cả, có nàng dâu Bắc Kỳ mà mẹ từng đắc ý, tấm tắc khen ngoan, hơn nữa anh chị cả có con trai đầu lòng, là cháu đích tôn của bà.

                    Nhưng khi sống chung lâu dài thì bà và nàng dâu cả lại có sự xung khắc, càng ngày càng nhiều. Mẹ chồng Bắc và nàng dâu Bắc, giống nhau cả tính ý, cả cách ăn ở mà vẫn không thể đi chung đường.

                    Một hôm chị Bích đã gọi phone cho tôi, thông báo khẩn cấp:
                    – Em chuẩn bị tinh thần đón mẹ về sống chung đi nhé, mẹ đang đòi về với vợ chồng em đấy.

                    – Có chuyện gì hả chị?

                    Chị Bích ấm ức kể:
                    – Bao nhiêu chuyện lặt vặt xưa nay chị kể em nghe nhiều rồi, chị không chấp, vì mẹ già rồi, tính nết lại khó khăn hơn người ta. Nhưng chuyện này thì không thể, “tiền già” mẹ lãnh hàng tháng mẹ cứ bo bo suốt bao nhiêu năm nay, ai đời ăn cây táo đi rào cây cam hở em! Mẹ để dành tiền gởi hết về cho cậu Nụ và thân nhân ngoài Bắc. Mẹ có cho ai thì cũng chừa lại phần mình tí chứ, đến lúc cần gì ở Mỹ thì lại hỏi vợ chồng chị, ai mà chịu được? Chưa hết, mỗi đầu năm bà lại hỏi chính phủ đã “tăng lương” cho mẹ chưa? tiền trợ cấp tăng theo thời gía đắt đỏ ấy mà, mẹ lẩm bẩm nói: “Đừng có tưởng tôi không đọc được tiếng Anh mà lờ đi nhé”. Thế có điên người không? Cứ làm như bà không hỏi, không nhắc nhở là chị sẽ ăn chặn, ăn bớt món tiền ấy không bằng. Chị bực mình gắt lên, thế là bà giận hờn, mắng mỏ chị và đùng đùng đòi về sống với vợ chồng em.

                    – Hay mẹ giận thì nói thế thôi, chứ mẹ vẫn theo đúng “tôn ti trật tự” là phải sống với con trai trưởng và cháu nội đích tôn mà?

                    – Không, lần này mẹ sai nguyên tắc rồi. Bằng cớ là mẹ còn… khen em nữa đó, khen nàng dâu miền Nam xởi lởi, dễ chịu và thoải mái hơn dâu Bắc.

                    Thật thế, mẹ chồng tôi “hy sinh”, thà về sống với gia đình tôi, tiền gìa lãnh ít hơn ở California nhưng bà bảo tinh thần bà thoải mái hơn nhiều, bà lôi chuyện nàng dâu cả ra kể nào là tính toán với bà từng món chi tiêu, nàng khá gỉa thế mà còn muốn bà bớt chút tiền gìa đóng góp hàng tháng v..v… Tôi chẳng biết giữa mẹ chồng và nàng dâu này ai đúng ai sai, vì ai cũng cho là mình có lý cả.

                    Mẹ chồng sống với tôi, tình thế đảo ngược so với ngày tôi làm dâu bà. Nhà này là nhà của tôi, của cải tiền bạc mẹ chồng tôi mất hết sau khi bỏ nước ra đi. Hiện nay bà sống nhờ tiền xã hội, không biết tiếng Anh, không thể lái xe, muốn gì cũng phải nhờ con nhờ cháu.

                    Bản tính tôi hồi nào tới giờ vẫn thế, chi tiêu rộng rãi trong cuộc sống. Tôi đi shopping quần áo cho tôi, nhưng thấy quần áo nào đẹp và tốt thì… sắm luôn cho chồng con và bà mẹ chồng, bà vẫn xót xa như ngày xưa khi tôi chân ướt chân ráo làm dâu nhà bà:
                    – Con ơi, mua làm gì lắm quần áo thế? Một đời ta ba đời nó, quần áo trong tủ cả đống kia đã mặc hết đâu.

                    Bây giờ bà đã thân mật âu yếm gọi tôi là “con” không gọi bằng “chị” kiểu cách lịch sự như thuở tôi mới làm dâu nữa.
                    – Theo mùa, theo “mốt” mà mẹ, nhưng con cũng mua lúc đại hạ giá rồi.

                    Bà đành chịu thua:
                    – Ừ, con thích thì sắm cho mình con thôi, quần áo mẹ mặc tới chết chưa hết con đừng mua nữa.

                    Thế mà tôi vẫn cứ mua về vì tôi thấy thích hợp với bà không mua cũng… uổng, dù tôi biết mang về nhà bà lại vừa nhận vừa càm ràm mắng tôi hoang phí và lanh chanh, không ai khiến mà cũng mua.

                    Đi chợ tôi toàn mua những món đắt tiền, tôi quan niệm tiền nào của ấy, thường xuyên mua cá tuyết, cá salmon, cá bass hơn là cá catfish, cá đù, cá nục. Thịt bò loại T-bone Steak, Ribeye Steak hay Sirloin Steak đương nhiên phải ngon hơn loại thịt vai dai nhách. Trái cây đầu mùa đắt bao nhiêu nhưng tôi cũng mang cả thùng về cho cả nhà cùng hưởng món ngon đầu mùa, chẳng phải nhịn thèm đợi tới giữa mùa.

                    Mỗi lần mẹ chồng tôi mở tủ lạnh, lui cui dọn dẹp bà lại rên rỉ như khi mình mẩy lên cơn đau nhức:
                    – Giời ơi là giời! Đồ ăn thức uống mua ê hề thế này, ăn không hết bỏ đi, phí cả tiền và phí của giời.

                    Tôi đã quen nghe bà cằn nhằn, nên không buồn, mà còn vui đùa:
                    – Mẹ ơi là mẹ, con phải mua sắm cho chợ búa đắt hàng, kích thích nền kinh tế phát triển. Ăn ngon thì bổ vào thân và cũng là cách hưởng đời.

                    – Thế con không dành dụm tiền của cho thằng con của con à? Mẹ vì hoàn cảnh, vì biến cố nên trắng tay đã không lo được gì cho con cháu rồi…

                    – Mẹ nói thế là trả lời rồi đấy, nên con quan niệm có tiền cứ hưởng ngay trong hiện tại, chẳng cần nhịn thèm, nhịn mặc hay từ bỏ những niềm vui tốn tiền nào đó để dốc hết vốn để dành, chồng con của con đã được nếm đủ mùi sung sướng hơn người. Tương lai, con của con sẽ làm ra tiền và tự lo cho nó cũng như vợ chồng con đã tự lo và gây dựng nên nhà cửa, vốn liếng ngày nay.

                    Tiền trợ cấp hàng tháng mẹ chồng tôi vẫn gởi về miền Bắc, cho người em út của bà là cậu Nụ, người đã kẹt lại không theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Cả một đời cậu nghèo khổ, những năm đất nước chiến tranh, lương công nhân không nuôi nổi vợ và hai con, nên người vợ vốn đã ốm yếu lại càng ốm yếu quanh năm. Thậm chí cậu không đủ tiền mua cái vỏ xe đạp hiếm hoi lắm cơ quan mới có mà phân phối ưu tiên cho công nhân tiên tiến như cậu…

                    Ngày nay cậu Nụ đã già, vợ chết sớm vì bệnh tật, cậu sống bám vào đám con cháu cũng nghèo khổ, nên mẹ chồng tôi thương xót đã gởi tiền về hàng tháng cho em, mong em sung sướng được ngày nào hay ngày ấy. Ngoài ra bà còn các họ hàng quyến thuộc khác ở quê hương miền Bắc của bà, nay giúp người này mai giúp người nọ, nên tiền bạc lúc nào cũng vơi, cũng không đủ.

                    Tôi hiểu mẹ chồng tôi và đồng tình với bà, giúp đỡ thân nhân nghèo khó bên Việt Nam vừa là tình thương vừa như làm điều phước thiện. Thỉnh thoảng có những cảnh khổ làm tôi động lòng, đưa thêm tiền cho mẹ chồng gởi biếu họ, coi như tôi theo mẹ làm phước dù những thân nhân như cậu Nụ hay ông chú này, bà bác kia tôi đều chưa biết mặt bao giờ.


                    Mẹ chồng tôi đã trở về từ Calif., bà có vẻ hài lòng với chuyến viếng thăm này. Thật ra khi người ta không hợp nhau khi chung sống, thì hãy sống xa nhau và là khách của nhau sẽ hay hơn. Vợ chồng tôi mừng vì mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu cả đã hàn gắn được phần nào.

                    Buổi tối đầu tiên ăn bữa cơm sum họp gia đình, mẹ chồng tôi vẫn nhớ và hỏi Andrew ngay:
                    – Sao, cháu của bà, hôm nào thì mang cháu dâu tương lai ra mắt cả nhà như cháu đã hứa?

                    Andrew thăm dò:
                    – Để cuối tuần sau được không bà?

                    Tôi nói:
                    – Dĩ nhiên là được, với lại mẹ cần chuẩn bị tinh thần cũng như một bữa cơm để chào đón cô khách qúy chứ.

                    Mẹ chồng tôi cẩn thận:
                    – Con chưa biết cô gái ấy ra sao mà đã vồ vập thế sao được.

                    – Ít ra cô gái là bạn của con mình cũng là quý rồi.

                    Bà lẩm bẩm:
                    – Thời buổi này mẹ chồng nàng dâu cứ như là bạn bè ấy, không có khoàng cách gì cả. Cháu ơi, thế cô gái ấy là người miền Nam hay Bắc hở cháu?

                    Andrew hơi bối rối:
                    – Sao bà lại hỏi phân biệt thế? Giống như ngày xưa bà đã hỏi bố cháu khi mang mẹ cháu về trình diện bà.

                    Chồng tôi mỉm cười trấn an con trai:
                    – Không sao đâu, bà chỉ hỏi cho biết mà thôi. Bây giờ khác xưa rồi.

                    Andrew ấp úng:
                    – Cô ấy… không là người miền Nam như mẹ, mà cũng… không là miền Bắc như bố.

                    Mẹ chồng tôi cởi mở:
                    – Ừ, bà không phân biệt Bắc Nam như bố mẹ cháu ngày xưa đâu. Bà biết rồi, cô ấy là người miền Trung chứ gì. Con gái Trung cũng chịu khó tần tảo làm ăn và thương chồng con hết lòng lắm.

                    Chồng tôi phản đối:
                    – Cứ gì gái Trung hay gái Bắc, gái Nam kỳ như vợ con cũng thương chồng chiều con không ai bằng, lại còn chiều cả mẹ chồng nữa, sẵn sàng bỏ nghề dạy học nhàn hạ, thôi làm cô giáo, ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán, bận rộn mịt mù với gạch cát xi măng và tính toán tiền nong cả ngày như một mụ lái buôn chuyên nghiệp.

                    Mẹ chồng tôi cười hài lòng:
                    – Điều này thì mẹ công nhận, gái miền nào cũng tốt xấu tùy người. Cô gái cháu yêu và sẽ cưới làm vợ là người miền Trung bà cũng vui vẻ chấp nhận ngay vì cứ là con gái Việt Nam là nề nếp rồi.

                    Andrew lo lắng đáp:
                    – Nhưng cô ấy là… người Mỹ bà ơi. Tên là Jessica.

                    Mẹ chồng tôi buông đũa, ngạc nhiên và bất bình kêu lên:
                    – Con gái Mỹ? Giời ôi, nó người Mỹ làm sao thích hợp với nhà này?

                    Vợ chồng tôi nhìn nhau, chia sẻ cái nhìn cùng quan điểm. Tôi lên tiếng trước:
                    – Thưa mẹ, chuyện lấy vợ Mỹ hay chồng Mỹ là chuyện thường tình. Chúng ta sống ở Mỹ, đây là quê hương thứ hai của chúng ta, những người trẻ lớn lên ở Mỹ, hấp thụ nền văn hóa Mỹ, thì lấy Mỹ đâu có gì là xung đột.

                    – Nhưng cô gái Mỹ ấy sẽ tiêu xài kiểu Mỹ khổ thân cháu tôi. Sẽ tan nhà nát cửa…

                    – Sống ở Mỹ tiêu xài kiểu Mỹ là đúng rồi mẹ à… Chừng nào sống ở Việt Nam mà tiêu xài kiểu Mỹ thì mẹ hãy lo.

                    Chồng tôi tiếp lời tôi:
                    – Mẹ cứ yên tâm, phần đời ai nấy lo, ngày xưa mẹ cứ chê nhà con là gái Nam ăn tiêu hoang phí, mà bây giờ vẫn nên nhà nên cửa và chính mẹ lại hợp với nàng dâu Nam kỳ đấy, còn Andrew, chúng ta hãy tôn trọng quyết định của nó.

                    Andrew có vẻ buồn buồn vì bà nội không vui, anh chàng không ăn cơm nữa, đứng lên đi nhanh về phòng, làm mẹ chồng tôi hoảng lên:
                    – Nó đi đâu đấy? Hay là lại tìm quả lựu đạn như bố nó năm xưa ra hù dọa tôi?

                    Tôi trấn an bà:
                    – Nó có đi lính như bố nó đâu mà có sẵn lựu đạn.


                    Nguyễn Thị Thanh Dương
                    nguồn:
                    http://www.nvbonphuong.com/forums/sh...-dâu-Nam-kỳ

                    Comment


                    • Rải Tro Theo Gió

                      Rải Tro Theo Gió
                      Nguyễn Tường Thiết
                      Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.


                      Trên Đỉnh Đèo Hải Vân

                      Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.

                      Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.

                      Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.

                      Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.

                      Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.

                      Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.

                      Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.


                      Trung Tướng - Ngô Quang Trưởng

                      Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.

                      Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”

                      Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.

                      Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

                      Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:

                      – Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?

                      – Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!

                      – Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng...

                      Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.

                      Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...

                      Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.

                      Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:

                      – Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?

                      Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

                      Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

                      Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

                      Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
                      Bao chiến công... cũng thế mà thôi
                      Hải Vân... tro rắc bốn trời
                      Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?
                      Nhất Tuấn

                      Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

                      Nguyễn Tường Thiết
                      nguồn:
                      http://www.quocgiahanhchanh.com/raitrotheogio.htm
                      Last edited by BachMa; 12-21-2017, 10:32 PM.

                      Comment


                      • Merry Christmas & Happy New Year 2017

                        Merry Christmas & Happy New Year 2017





































                        Comment


                        • Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba - Phạm Tín An Ninh

                          Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba
                          Phạm Tín An Ninh


                          Hình minh họa

                          Tôi gặp lại anh trong 1 dịp rất tình cờ . Mùa Hè năm 2008 , vợ chồng tôi cùng mấy người bạn trên đường từ thác Niagra trở lại New York bằng chiếc mini-van , ghé lại thành phố Buffalo để tìm mua 1 hộp thuốc nhỏ mắt .

                          Đến quày Pharmacy trong 1 cửa hàng Target , tôi may mắn gặp 1 dược tá người Việt . Nếu không nhìn kỹ cái bản tên trên nắp túi áo và với cái tên khá đặc biệt , chắc chắn tôi không thể nào nhận ra anh , người tù binh , đã bị Đại Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt trong 1 cuộc hành quân thám sát bên bờ Sông Ba , nằm trong địa phận quận An Túc ( An Khê ) vào giữa tháng 02/1972 .

                          Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tý ( 1972 ) khi chuẩn bị cho buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao , Trung Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái , thành lập 1 chiến đoàn , thay thế vị trí của 1 Lữ Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước , làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn . Giai đoạn đầu , Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , hành quân tảo thanh tiêu diệt các lực lượng địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách giữ an ninh lộ trình 24/24 con đường huyết mạch này từ Bình Khê đến Pleiku , để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân , tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum .

                          Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân số quân dụng , chuẩn bị di chuyển lên Tân Cảnh để đối phó với tình hình đột biến . Một lực lượng lớn Cộng quân từ miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới , tăng cường cho Mặt Trận B-3 của Tướng CS Hoàng Minh Thảo , trong ý đồ đánh chiếm Tây Nguyên .

                          Buổi tiệc khao quân tất niên bị huỷ bỏ , thực phẩm phân phát cho binh sĩ và trại gia binh . Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12 giờ trưa . Chi Đoàn 2/8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ binh đến Đèo Cả , ranh giới tỉnh Phú Yên . Sau đó được lực lượng Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông , Bình Định . Nghỉ đêm và đón giao thừa tại Vạn Giã , sáng hôm sau tiếp tục di chuyển . Chúng tôi đến căn cứ An Khê lúc 4 giờ chiều ngày Mồng Một Tết .

                          Một Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 44 được nhanh chóng thành hình . Trung Tá Trần Quang Tiến , Trung Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn Trưởng , Trung Tá Trần Lý Hưng , Thiết Đoàn Trưởng TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó . Cá nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn . Một toán liên lạc của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , do 1 vị Đại Tá chỉ huy , được đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn . Ngoài Thiết Đoàn 3 KB , Chi Khu An Túc và 1 tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK Bình Định cũng được đặt dưới quyền chỉ huy , điều động của Chiến Đoàn .

                          Hai hôm sau , Chiến Đoàn được lệnh tổ chức 1 cuộc hành quân khẩn cấp , giải toả hai căn cứ cấp đại đội thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm trên Đèo An Khê , vừa bị 1 lực lượng Công quân bất ngờ tấn công và đang vây hãm . Sư Đoàn Mãnh Hổ đã phái 1 lực lượng tiếp ứng , nhưng bị phục kích , thiệt hại khá nặng . Lực lượng địch được uớc tính gồm 1 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng .

                          Nhờ hoả lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn 3KB , cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi Đoàn Mãnh Sư 243 , sau những kế hoạch nghi binh , tạo các bãi đáp giả , lừa địch rất hiệu quả , từng đại đội bộ binh được tuyển lựa các binh sĩ trẻ , trang bị nhẹ , đổ xuống , vừa khép vòng vây vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của địch .

                          Đại Đội 44 Trinh Sát nổi danh thiện chiến , với hai toán Viễn Thám được trang bị mặt nạ chống hơi ngạt , chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau lưng địch , từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay , lựu đạn , và cả M-72 , dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng võ trang , nhanh chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo , làm đầu cầu cho lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết , đồng loạt tấn công , nhanh chóng làm chủ chiến trường . Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ , cả hai căn cứ đã được giải toả , địch quân tháo chạy , bị các đơn vị bao vây tiêu diệt , có mấy tên bị ta bắt sống . Chiến Đoàn đã ghi 1 chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới .

                          Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài gòn bất ngờ bay ra An Khê quan sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến .

                          Ngay chiều hôm ấy , qua hệ thống siêu tần số , Tướng Lam Sơn , Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II cho biết , theo tin tức không ảnh của Mỹ ghi nhận , có dấu hiệu địch xuất hiện trong khu vực bên kia bờ Sông Ba , khu này nằm tiếp giáp Vùng Oanh Kích Tự Do , lệnh Chiến Đoàn cho 1 đơn vị cấp đại đội thâm nhập , thám sát tình hình . Ông Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại uý Trần Công Lâm , Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát , dùng CNC bay dọc theo bờ sông , thám sát địa thế , tìm 1 khúc sông thuận lợi và an toàn nhất để vượt sông . Sáng sớm hôm sau , sau khi thông báo cho TTHQ/ Quân Đoàn & Sư Đoàn Mãnh Hổ , yêu cầu tạm ngưng mọi cuộc tác xạ hay oanh kích trong vùng , đúng 5 giờ sáng , hai toán Viễn Thám vượt sông trước làm đầu cầu để toàn bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông . Nhiệm vụ hành quân lục soát trong khu vực được ấn định 16 cây số vuông , theo đề nghị của Quân Đoàn .

                          Sau 2 tiếng đồng hồ , không có cuộc đụng độ nào , Chiến Đoàn nhận được báo cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt được 2 tù binh , 1 nam 1 nữ , và cả hai xin được hồi chánh . Theo trình bày của anh Đại Đội Trưởng Trinh Sát . Người đàn ông bị phát giác trước , khi đang trên đường xuống sông lấy nước . Anh ta khai là y sĩ thuộc 1 tiểu đoàn chính quy CS , đã đào ngũ hơn 1 tuần . Anh xin được hồi chánh cùng với người vợ mới gặp , cô là người Thượng , dân ở vùng này , không phải đồng chí của anh . Sau đó , anh hướng dẫn đến 1 hốc đá , chỉ người con gái , và cây súng K-54 được chôn trong 1 bụi rậm gần đó . Vì cuộc hành quân đang tiếp diễn , nên tôi yêu cầu Đại Đội Trinh Sát an ninh bãi đáp để tôi dùng CNC bốc về khai thác .

                          Khi trực thăng đáp xuống , đích thân Đại uý Lâm dẫn giải đến giao cho tôi cùng giấy chứng nhận y sĩ và mấy tấm ảnh . Hai người được giữ lại BCH Chiến Đoàn để tiếp tục khai thác trước khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi Bình Định . Khi cô con gái bước lên trực thăng , chúng tôi đã khá bất ngờ , ngạc nhiên về sắc đẹp kỳ lạ của cô . Thấy áo quần rách rưới , chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba . Khi mặc vào , trông cô thích thú lắm . Vì cả hai đang bị bệnh , người đàn ông thỉnh thoảng lên cơn sốt , nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong trạm xá ( đang trống ) của Đại Đội Quân Y để điều trị .

                          Tất nhiên có sự canh gác đề phòng . Anh Bác sĩ Quân Y lại là bạn thân đồng hương , nên tôi thường ghé lại đây thăm và nhân tiện có nhiều dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh hồi chánh . Mặc dù đã được Ban 2 ( Tình Báo ) cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết sau khi khai thác , nhưng qua những cuộc tâm tình riêng , tôi biết thêm nhiều điều lý thú khác . Anh tên Trúc Bạch , họ Hồ . Làm tôi nhớ tới cái hồ có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ nổi danh John McCain đã nhảy dù xuống và bị bắt , khi phi cơ của ông bị bắn rơi , lúc ấy ông còn ở trong nhà tù Hilton Hà Nội .

                          Tôi hỏi anh có biết sự việc này không, hay là anh đã có công trạng gì, nên được mang tên cái hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ? Anh cười ngượng ngùng , bảo là , bố mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ hồ này , rồi sau đó nên duyên và đặt tên cho anh , thằng cu đầu lòng để làm kỷ niệm . Ông bà đều là giáo viên . Trước dạy ở Hà Nội , nhưng vì lý lịch nên sau này phải đổi lên vùng sâu vùng xa mới giữ được nghề cũ . Bố anh gốc người Phát Diệm . Gia đình theo đạo Công Giáo từ mấy đời trước đó . Bố anh chỉ có 1 bà chị , nhưng đã theo chồng di cư vào Nam từ 1954 . Ngày ấy cả xứ họ đạo đều đi , nhưng vì mẹ mang thai anh gần đến ngày sinh , nên bố đành ở lại . Bà cô anh vào Nam , 1 thời gian ở Ngã Ba Ông Tạ , nhưng sau đó mất liên lạc , không biết đã chuyển đi đâu .

                          Bố anh bảo người bà con trong làng vào Nam rất đông , nên nếu tìm bà cô cũng không khó lắm . Tôi cho anh biết là tôi có quen nhiều bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai , đa số là người Bùi Chu Phát Diệm , tôi có thể hỏi thăm tin tức cho anh . Đang học trường Trung Học Y tế thì anh bị động viên chuyển sang Quân Y, và được đưa vào B (chiến trường miền Nam) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng .

                          Dù học chưa xong , anh vẫn được cho làm y sĩ . Anh bảo chỉ biết cứu thương và học được 1 số thuốc Nam , trị bệnh bằng các loại lá cây . Hơn nữa đơn vị cũng chẳng có thuốc men gì , ngoài 1 ít thuốc ký ninh của Trung Cộng viện trợ .Anh cũng kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân chúng miền Bắc , chính sách hộ khẩu như 1 hình thức nắm cái bao tử để tạo áp lực với dân , đặc biệt là ép buộc thanh thiếu niên phải vào Nam chiến đấu . Anh cũng kể về mối tình đầu của anh với 1 cô bạn học , khá xinh . Khi biết cô là con của 1 đảng viên trong ban bí thư thành phố , anh ngại . Chưa kịp lùi bước , thì cô cũng kịp khám phá anh ta gốc Công giáo , gia đình lại có đông người di cư vào Nam , nên cô bảo thẳng thừng rồi chia tay . Anh biết trước nên chẳng bất ngờ , cũng chỉ buồn buồn 1 chút rồi thôi .

                          Cô con gái đang ngồi với anh , anh gọi là vợ , người sắc tộc , có cái tên rất khó nhớ . Điều đặc biệt là cô khá đẹp . Cái đẹp man dại của 1 cô gái núi rừng có 1 ma lực hấp dẫn đến kỳ lạ . Chính vì điều này đã làm anh có thêm dũng khí để trốn khỏi đơn vị , thực hiện ý định hồi chánh , mà anh đã ấp ủ từ lúc bị chuyển vào miền Nam .

                          Tiểu đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo , nhiều bộ đội bị sốt rét , nên anh cùng 1 người lính trong tổ Quân y tranh thủ đi vào rừng để tìm lá cây làm thuốc . Khi đến bờ 1 con suối nhỏ bên triền núi , anh bắt gặp 1 cô gái đang trồng khoai bên cái chòi tranh sơ sài trong hốc đá . Anh ngạc nhiên , sao lại có 1 người con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng quạnh vắng . Đến gần anh giật mình ngạc nhiên hơn , không tin vào đôi mắt của chính mình . Không thể giữa núi non hẻo lánh này lại có 1 cô con gái đẹp đến lạ lùng , 1 nét đẹp hoang dã , cuốn hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên . Da ngâm đen với đôi mắt thật to , chiếc mũi cao , đôi môi mọng đỏ .

                          Cô khác hẳn với những cô gái Thượng mà anh đã gặp trong các vùng hành quân . Anh mơ hồ nhớ đến chuyện ngày xưa , khi còn bé , anh thường nghe mẹ kể về những cô tiên mắc phải lỗi lầm bị đoạ xuống trần gian . Người bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước điều bất ngờ kỳ lạ này . Cô gái chỉ nói 1 ít tiếng Việt , nhưng cũng đủ để hai người hiểu được . Cô bảo cô bị người trong buôn cho là ma , nhiều lần đòi giết cô , nên ông trưởng làng đày ra sống ở đây . Cha mẹ thỉnh thoảng được đến thăm , nhưng cô không được phép về buôn .

                          Anh bực dọc cảm thấy có điều gì bất nhẫn . Sau khi được cô gái chỉ đường đến buôn , anh và người bạn lính tìm đến gặp ông trưởng làng để cố thuyết phục xin được thả cô ra , nhưng không những bị từ chối , mà ông trưởng làng còn cho biết là chờ đến mùa lũ , họ sẽ trói cô lại và bỏ trôi sông để cúng thánh thần , tránh tai hoạ cho buôn .

                          Sau khi về đơn vị , anh suy nghĩ bằng cách nào để cứu được cô con gái . Ý muốn đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe lên trong đầu , bây giờ càng thôi thúc anh thực hiện . Hai ngày sau , anh báo cáo riêng với tay Thủ Trưởng , xin đi lấy lá thuốc Anh đi 1 mình , thật sớm . Để tránh nghi ngờ , nhất là người bạn đồng chí Quân Y hôm trước , anh để lại balô , chỉ mang theo ít lương khô và khẩu súng K-54 phòng thân . Anh tìm đến giải cứu cô gái Thượng , kể lại cho cô nghe lời của ông trưởng làng , sẽ thả cô trôi sông . Cô gật đầu , mang theo cái gùi chứa ít bắp , khoai và hai cái bình chứa nước làm bằng vỏ trái bầu .

                          Anh dắt cô gái đi thật nhanh . Buổi chiều khi gặp con Sông Ba , hai người tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến tối . Nghĩ đã hơn 1 ngày đường , đơn vị không thể nào đuổi theo , anh dừng lại và ẩn trốn trong 1 hốc đá an toàn . Ăn bắp khoai sống tạm , chờ tìm đường ra hồi chánh . Không ngờ 1 tuần sau thì bị đơn vị tôi bắt . Tin tức đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung cấp được kịp thời báo cáo lên Quân Đoàn . Một lực lượng Biệt Động Quân đang hoạt đông trong khu vực Hàm Rồng được tung vào khu vực , nhưng địch quân đã di chuyển đi nơi khác mấy ngày trước ( Sau này được biết đơn vị này bị thiệt hại nặng nề bởi hoả lực Không Quân của ta oanh kích , khi bọn chúng bao vây tấn công 1 căn cứ tại Thuần Mẫn , do 1 đơn vị đia phương quân trú đóng ) .

                          Mấy hôm sau , khi sức khoẻ tạm hồi phục , vợ chồng anh được chuyển giao cho Ty Chiêu Hồi Tỉnh Bình Định . Qua nhiều lần nói chuyện , nhìn thấy ở anh có sự chân thành , nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của anh bị thiệt hại nặng nề , bộ đội chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số , chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân miền Bắc , nhất là những thanh thiếu niên bị cưỡng bách , tuyên truyền xẻ dọc Trường Sơn cứu nước , để rồi có biết bao người phải sinh Bắc tử Nam !

                          Ngày 24/04/1972 , Tân Cảnh thất thủ , khi BTL/SĐ22BB bị địch quân tràn ngập , vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đã cùng đồng đội chiến đấu tới giây phút cuối cùng , và vùi thây nơi chiến địa , Trung Đoàn 44 chúng tôi có lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù Hanh , Pleiku để được không vận lên Kontum . Chỉ sau 1 ngày đến Kontum , thay thế cho 1 Liên Đoàn Biệt Động Quân ở tuyến Tây Bắc , đơn vị tôi đã đánh 1 trận lẫy lừng , tiêu diệt cả 1 trung đoàn của Sư Đoàn 320 CS và 1 đại đội chiến xa T-54 , khi bọn chúng từ Tân Cảnh tràn xuống tấn công , trong ý đồ chiếm lấy Kontum .

                          Chiến thắng này đã mở màn cho nhiều chiến thắng sau đó để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa . Và thành phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào tay CS , khi Quân Đoàn 2 có lệnh triệt thoái vào giữa tháng 03/1975 , tạo nên cuộc di tản đẫm máu kinh hoàng trên con đưởng tử lộ 7-B .

                          Đã hơn 36 năm , bất ngờ gặp lại anh giữa 1 nơi xa lạ . Chỉ mới nhắc lại 1 vài chi tiết bên bờ Sông Ba ở An Khê năm nào là anh nhớ ra tôi ngay . Tôi không dám vồn vã vì đang đo lường phản ứng của anh . Nhưng bất ngờ anh ôm chầm lấy tôi , gọi tên tôi trong nỗi vui mừng pha chút cảm động . Anh lễ phép xưng em với tôi , bảo là vợ chồng luôn nhớ đến tôi , nhớ anh bác sĩ quân y bạn tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn cứ An Khê . Anh ca ngợi khả năng và lòng nhân đạo của những người lính VNCH . Anh bảo làm sao anh có thể quên được 1 kỷ niệm lớn lao đã làm thay đổi cả cuộc đời anh vả cả vợ anh .

                          Anh khẩn khoản mời chúng tôi ở lại 1 vài ngày với gia đình anh . Tôi ra xe kể qua câu chuyện cho mấy người bạn . Ai cũng thích thú , nhất là muốn xem dung nhan của cô tiên nữ người Thượng bây giờ ra sao . Tôi vào báo cho anh biết là chúng tôi chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh đến sáng ngày mai , nhưng xin anh tìm giúp 1 hotel ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm , vì đông người quá , ngại làm phiền . Anh cười , bảo 1 đêm thì quá ít để anh có thể kể bao nhiêu chuyện về cuộc đời của vợ chồng anh . Anh gọi điện thoại về nhà báo tin cho vợ biết và vào xin boss nghỉ sớm để đưa chúng tôi về nhà . Anh cho biết đã đặt giùm khách sạn , nhưng muốn mời chúng tôi về nhà anh chơi , đến khi nào ngủ anh sẽ đưa ra khách sạn .

                          Anh lái xe chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy theo anh . Đường lạ nhưng không nhiều xe lắm , bọn tôi ai cũng nôn nao , mong sớm đến nhà để nhìn dung nhan cô gái Thượng ngày xưa . Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn rộng , trồng đủ các loại hoa . Điều đặc biệt là trước nhà có cả 1 khóm dã quỳ .Loại hoa màu vàng tôi thường thấy ở Vùng Pleiku , An Khê ngày trước . Khi chúng tôi vừa xuống xe , 1 người đàn bà mở cửa bước ra chấp hai tay trước ngực và cúi đầu chào . Anh chồng chưa kịp giới thiệu thì chúng tôi đã ồ lên .

                          Chị cười thật tươi và đưa tay bắt từng người . Có lẽ đã nghe chồng kể qua về chuyện bất ngờ gặp lại tôi , nên chị nhìn từng người để cố nhận ra tôi . Và chị đã nhận ra khi tôi là người cuối cùng bắt tay chị . Điều làm tôi bất ngờ là chị chào hỏi bằng tiếng Việt rất sõi . Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng trầm trồ trước nhan sắc của chị .

                          Riêng tôi lại có 1 chút thất vọng . Đúng là với tuổi bây giờ , chị là 1 người đàn bà đẹp , nhưng là cái đẹp của 1 hoa hậu phu nhân , mang nét quí phái với chút phấn son . Không còn cái đẹp man dại núi rừng của cô ngày trước . Cái đẹp đặc biệt và hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc người ta hơn . Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau , ngồi quanh cái bàn tròn dưới gốc 1 cây bơ phủ bóng . Chúng tôi phụ anh chị làm 1 bữa BBQ . Tôi bảo là hồi đó tên chị khó đọc quá , nên tôi không còn nhớ . Chị cười bảo là H’ Niê . Sợ không hiểu chị lấy 1 que cây viết xuống đất . Vừa viết chị vừa nói : Sau này ông xã em đặt tên cho em là H’ An Khê . Sang Mỹ lấy họ chồng , bây giờ em là An Khê Hồ . Nói xong , chị nhìn sang tôi cười : Cái chỗ An Khê mà các anh đã cứu vợ chồng em đấy !

                          Tôi đùa :
                          – Bọn tôi phải cám ơn chị. Sắc đẹp của chị đã giúp bọn tôi bớt đi 1 kẻ thù, và anh Bạch cũng phải mang ơn chị, vì nhờ chị mà anh mới quyết tâm thực hiện giấc mơ hồi chánh của mình, nếu không thì chắc đã trở thành liệt sĩ vô danh từ lâu rồi !

                          Suốt buổi chiều hôm ấy , anh ngồi kể say sưa cho chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và đời sống của vợ chồng sau ngày hồi chánh :
                          – Em chỉ có 1 cô em gái . Mãi đến năm 1985 em mới liên lạc được và sau này đã bão lãnh sang Mỹ cùng với chồng và 1 đứa con trai . Bố mẹ em đã chết từ lâu , và vẫn cứ tưởng em là liệt sĩ .

                          Sau ngày được chuyển về Bộ Chiệu Hồi , vợ chồng em đều được đối xử rất tốt và giúp đỡ tận tình . Đáng mừng và cảm động nhất là họ đã cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm được bà cô ruột của em . Bà có hai người con trai đều là sĩ quan VNCH , một anh ở Biệt Động Quân , nghe nói đánh giặc có tiếng , tiếc là anh đã tử trận trong Tết Mậu Thân , hình như lúc mang hàm Trung Uý , và 1 anh là Thiếu Tá Hải Quân . Cũng nhờ anh này mà cả nhà và vợ chồng em mới được rời khỏi Sài gòn vào sáng sớm ngày 30/04/1975 .

                          Năm 1974 vợ em sinh con trai đầu lòng , sang đây thì có thêm cô con gái . Hai cháu đều đã lập gia đình . Lúc trước gia đình em ở Philadelphia , nhưng từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc làm ở đây , bọn em chuyển lên đây sống gần các cháu .

                          Buổi chiều , cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái chạy xe đến , mang theo mấy chai rượu đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi tối . Các cháu rất lễ phép , dễ thương , nói được tiếng Việt nhưng không giỏi lắm . Đặc biệt cô con gái , chắc nhờ thừa hưởng sắc đẹp của mẹ , nên rất xinh xắn . Nhìn đôi mắt của cháu tôi nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ cháu ngày xưa , khi còn là cô gái Thượng hoang dã . Đôi măt to , đen láy , mang cả hình bóng núi rừng và mây trời cao nguyên thưở ấy . Điều làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn .

                          Cháu gái đang là 1 dược sĩ và cậu con trai là Thiếu Tá Bác Sĩ của 1 đơn vị trú đóng ở đây . Cô vợ người Mỹ cũng là 1 Bác Sĩ Quân Y cùng đơn vị . Bọn tôi nâng cốc ca ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt của các cháu . Sáng hôm sau , hai vợ chồng đến khách sạn rất sớm , mời chúng tôi ăn điểm tâm trước khi chia tay . Khi tôi đến quày check out , người thu ngân của khách sạn cho biết có người đã thanh toán tiền phòng rồi . Tôi phàn nàn trách , anh cười , ôm vai tôi nói nhỏ : Biết trả bao nhiêu cho đủ so với tấm lòng và sự giúp đỡ của các anh .

                          Cả vợ chồng ôm từng người chúng tôi và mong có ngày tái ngộ . Khi bắt tay từ giã anh , 1 người bạn của tôi hỏi đùa : Thế Hổ Trúc Bạch có gặp « giặc lái » John McCain chưa ? Anh cười , nói lớn : Em đã gặp ông trong 1 cuộc vận động bầu cử . Em bảo với ông là , tôi và gia đình sẽ bỏ phiếu cho ông , vì ông đã nói 1 câu rất đúng : Điều đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam , kẻ man rợ đã thắng !

                          Anh chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi 1 đoạn đường . Đến ngã rẽ qua xa lộ , anh dừng lại , đưa tay ra cửa vẫy chào tiễn biệt . Chia tay vợ chồng anh , suốt cả đoạn đường dài , tôi miên man hồi tưởng về những ngày tháng cũ và hình dung lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè , 1 số đã chết tại các chiến trường khốc liệt An Khê Cheo Reo , Pleiku , Kontum , số còn lại sau những năm tháng tù đày nghiệt ngã , giờ đang lưu lạc bốn phương trời , mang theo những vết thương chưa thể lành được trong lòng .

                          Đặc biệt , tôi nhớ tới Trần Công Lâm , người Đại Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh , đã chỉ huy cuộc hành quân bên bờ Sông Ba ngày ấy . Lâm là bạn chí thân , cùng khoá Thủ Đức , cùng Trung Đội SVSQ , và nằm giường trên tôi , lúc còn ở quân trường . Hai thằng đã rủ nhau về cùng đơn vị . Lâm đã hy sinh vào cuối tháng 03/1973 trên đỉnh núi Ngok Wang , Kontum khi đang là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44 .

                          Và cuối cùng , tôi cũng nhớ đến đôi mắt đẹp man dại của cô gái Thượng , cùng hình ảnh người tù hồi chánh ở An Khê lúc trước , khi Lâm dẫn giải đến trực thăng giao lại cho tôi.

                          Phạm Tín An Ninh
                          nguồn:
                          http://www.nvbonphuong.com/forums/sh...-Bờ-Sông-Ba
                          Last edited by BachMa; 12-30-2017, 03:19 AM.

                          Comment


                          • Mèo & Rắn

                            Mèo & Rắn



                            Trước đây, tôi xem bức ảnh này nhưng không hiểu hết ý nghĩa, chỉ biết là chú mèo thấy cái đuôi rắn thò ra từ 1 cái lỗ bé và chú mèo cứ nghĩ đó là đuôi chuột, lấy chân vờn định kéo ra.

                            Sau này, tôi mới biết bức ảnh này là một tác phẩm nổi tiếng của họa sỹ người Ý Marco Melgrati, dưới bức ảnh có chú thích rằng:

                            "Bạn sẽ không bao giờ biết được bạn đang chơi với ai, vì vậy xin hãy luôn tôn trọng mỗi người trong suốt cuộc đời bạn".

                            Trong cuộc sống, những gì mà bạn nhìn thấy chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật, những gì bạn chưa nhìn thấy như phần chìm của tảng băng trôi! Đôi khi, bạn nghĩ không ai biết bạn đang làm gì, nhưng kỳ thực họ đã nhìn thấu bạn là ai từ lâu rồi, nên bạn hãy cẩn trọng trong phát ngôn và hành động, bởi bạn không biết điều gì xảy ra khi bạn làm tổn thương họ.

                            Hãy luôn làm đầy ngân hàng cảm xúc, hãy dùng sự chân thành, hoà hiếu, yêu thương của bạn để đối đãi với người.

                            HÃY SỐNG ĐÚNG VỚI CON NGƯỜI BẠN

                            Nguyễn Ngọc Ngạn

                            Comment


                            • Đằng Sau Một Bài Hát

                              Đằng Sau Một Bài Hát


                              Vào truyện
                              Một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas:
                              –  “Trước 1975 ở Việt Nam anh làm gì?”
                              –  “Tôi trong Không Quân…”
                              –  “Chắc anh cùng lứa với ông Nguyễn Cao Kỳ?”
                              –  “Không! ông Kỳ là cấp chỉ huy của tôi, ở Sài Gòn; Tôi đóng ở Pleiku. Tôi ngang cỡ với Lưu Kim Cương, một đàn em thân cận của ông Kỳ.”
                              –  “A, anh biết ông Lưu Kim Cương hả? Anh có biết ông ấy chết như thế nào không?”
                              –  “Nghe nói rất thương tâm; Trúng đạn bắn xe tăng, phổi lòi ra ngoài!

                              ***

                              Rất nhiều người đã nghe bài hát “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” từ sau biến cố Tết Mậu Thân, năm 1968, nhưng chắc ít ai biết rõ những tình tiết đưa đến sự ra đời của nhạc phẩm này, để đến cả 40 năm sau vẫn còn có người muốn tìm hiểu.

                              Bài hát có lời như sau:
                              “Anh nằm xuống, sau một lần đã đến đây
                              Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
                              Đã bay cao trong vòm trời đầy
                              Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
                              Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
                              Ru anh ngủ, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi
                              Anh nằm xuống, cho hận thù vào lãng quên
                              Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
                              Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
                              Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
                              Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
                              Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không
                              Bạn bè còn đó, anh biết không anh?
                              Người tình còn đó anh nhớ không anh?
                              Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên
                              Khi bóng anh như cánh chim, chìm xuống
                              Vùng trời nào đó, anh đã bay qua?
                              Chỉ còn lại đây những sáng bao la
                              Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa
                              Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ
                              Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du
                              Đứa con xưa đã tìm về nhà
                              Đất hoang vu khép lại hẹn hò
                              Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
                              Những sớm mai, lửa đạn
                              Những máu xương chập chùng
                              Xin cho một người vừa nằm xuống
                              Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”


                              Với những ai không quen biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) – là tác giả bản nhạc – dù có nghe, hay đọc kỹ lời ca cũng khó có thể biết nhân vật được nói đến là ai; Chỉ biết người ấy mới qua đời, và lúc còn sống đã có dịp bay cao trên trời.
                               
                              Để hiểu rõ câu chuyện, có lẽ phải nhìn lại từ năm 1962. Đó là năm nữ ca sĩ Khánh Ly (KL) thật sự bước vào cuộc đời ca hát của mình, trình diễn ở phòng trà Anh Vũ, một trong vài phòng trà ca nhạc (sống) lúc nào cũng chật ních giới thưởng ngoạn, trên đường Bùi Viện ở Sài Gòn.
                               
                              Ca sĩ KL ghi lại trong “Chuyện kể sau 40 năm” – chú thích trong ngoặc đơn là của Nguyên Giao:  “… Tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ, và chính ở đó, tôi gặp Trung úy Không quân Lưu Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn (người anh ruột của KL – không phải là TCS) và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn… hát tiếp những bài tôi vừa hát; Đặc biệt là bài ‘Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa’ … Anh bảo … Mai (tên thật của KL) chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa … Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vì anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này … ”
                               
                              Nhưng cuối năm 1962, KL lại rời Sài Gòn lên hát cho một phòng trà khác ở Đà Lạt, và lưu lại đó 5 năm. Năm 1964, tại Đà Lạt, KL gặp một người nhạc sĩ nghèo. Anh đến với cô bình thản như cơn mưa dầm của Đà Lạt vào đêm hôm đó. Qua vài câu chuyện, cô và nhạc sĩ trở thành hai người bạn. Người bạn ấy không ai khác, đó là nhạc sĩ TCS. Rất nhiều lần TCS đề nghị KL về Sài Gòn đi hát với ông nhưng cô đều từ chối bởi cô yêu Đà Lạt, sự yên tĩnh thanh bình của Đà Lạt đã quyến luyến bước chân cô, không như Sài Gòn vốn đông người và luôn nhộn nhịp.
                               
                              Đến năm 1967, ca sĩ KL tình cờ gặp lại nhạc sĩ TCS giữa giòng người đi lại trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn, vào một buổi chiều êm ả. Từ một đêm mưa của Đà Lạt đến một buổi chiều trên đường phố Sài Gòn, tất cả đã bắt đầu như đưa đẩy định mệnh.
                               
                              Vài hôm sau, trên nền gạch đổ nát bãi đất rộng sau trường đại học Văn Khoa Sài Gòn, một quán lá sơ sài được dựng lên với cái tên là Quán Văn. Tại đây, giọng hát khàn đục, và lôi cuốn của KL đã làm ngẩn ngơ, bàng hoàng & ngất ngây cả một thế hệ với những bản tình ca, và Ca Khúc Da Vàng mới lạ của TCS.

                              Hãy nghe bà Đặng Tuyết Mai – trước là phu nhân của Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ (NCK) lúc giữ chức Thủ tướng VNCH -  mô tả liên hệ giữa Lưu Kim Cương (LCK) và Trịnh Công Sơn (TCS) trong một cuộc phỏng vấn năm 2009 ở Hoa Kỳ:
                               
                              “ … Anh LKC và chị rất là say mê nhạc của anh TCS và con người của anh TCS nữa. Chị hay nấu nướng. Trong Câu lạc bộ Không quân, anh LKC có một câu lạc bộ nhỏ là Mây Bốn Phương, luôn luôn kéo anh TCS vào đó. Chị đem đồ nhậu đến. Anh TCS làm được bài nhạc mới là hát, và hay tả cho nghe. Chị hay đến câu lạc bộ Mây Bốn Phương để nghe anh TCS đàn hát những bài hát mới. Giao tình của anh TCS với anh LKC rất mật thiết. Cũng lạ, một người rất là nhà binh, to lớn, cường tráng. Còn anh TCS rất là mỏng manh, ốm yếu. Nhưng hai người gần nhau vô cùng trong tình nghệ sĩ. Anh LKC có rất nhiều nghệ sĩ tính, hát rất hay. Thành ra, họ rất thân mến với nhau. Hàng tuần, họ gặp nhau hai, ba lần … “
                               
                              Từ năm 1967, NCK giữ chức Phó Tổng thống VNCH, có Trung tá LKC trong số những sĩ quan thân tín Không quân chung quanh.

                              Đúng mùng một Tết Mậu Thân (31 tháng Giêng năm 1968), một cánh quân Việt Cộng tấn công căn cứ Không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Có mặt tại căn cứ, LKC đã “không quân đánh bộ” thành công chỉ huy dẹp tan quân địch hôm 23 tháng Hai, và được vinh thăng Đại tá.

                              Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1 Tết Mậu Thân, tới trung tuần tháng 4, 1968 Việt Cộng lại mở cuộc tổng công kích đợt 2. Nhật báo Chính Luận ở Sài Gòn trong số ra ngày mùng 7, tháng 5, năm 1968 đăng tin: “Sáng ngày mùng 2 tháng 5 vào hồi 10 giờ, Ðại tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Ðoàn 33 đã bị tử thương trong lúc ông đương đích thân chỉ huy một đơn vị bảo vệ vòng đai phi trường để đẩy lui một cánh quân Việt Cộng tại khu nghĩa trang Pháp gần ngã tư Bảy Hiền. Ông đã bị một tên Việt Cộng thủ súng B40 (phóng lựu đạn, để bắn xe tăng) vẫn còn sống, bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên.
                               
                              Ðại tá Lưu Kim Cương năm nay 34 tuổi có 2 con. Ông là người rất vui tính, có nhiều máu văn nghệ, chiếm được nhiều cảm tình trong giới quân đội cũng như báo chí. Tưởng cũng nên ghi nhận đây là lần đầu tiên một sĩ quan mang cấp Tá của quân đội ta nói chung và của Không quân VN nói riêng đã hy sinh trong lúc trực chiến với địch.”
                               
                              Nhà báo/Nhà văn Văn Quang có ghi lại: “Một buổi chiều năm Mậu Thân 1968, ngồi ở nhà hàng Pagode tôi gặp Khánh Ly và Ngọc Anh đi cùng Trịnh Công Sơn. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Ăn ở một quán bụi xong đã đến giờ giới nghiêm – thời gian đó Sài Gòn giới nghiêm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. Khánh Ly nhờ tôi đưa Trịnh Công Sơn về … Đêm đó là đêm đầu tiên tôi đưa Trịnh Công Sơn về building Cao Thắng. Ở cái building đó chỉ có một phòng gắn máy lạnh, là của một thương gia bán huy chương ở ngay chợ Bến Thành thuê làm phòng riêng, cho tôi ở chung nhưng không lấy tiền. Sơn mang đến cây đàn guitar, ở lại phòng tôi vài ngày, tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày. Nhưng chính ở đó anh sáng tác hoặc hoàn tất bản ‘Tình Xa’. Tôi có cái máy ghi âm hiệu Akai, trong khi tôi đi làm, Sơn vẫn thường dùng để nghe lại bản nhạc mình đang hoàn thành. Rồi chợt một hôm nghe tin Lưu Kim Cương chết ở phi trường Tân Sơn Nhất, Khánh Ly lên phòng tôi, cô ngồi lặng, Sơn chỉ nhìn và cũng lặng yên. Ít ngày sau, bài ‘Cho Một Người Vừa Nằm Xuống’ ra đời … “
                               
                              LKC chỉ là một trong nhiều chiến sĩ đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam. Người ta ước tính đã có khoảng 3 triệu quân & dân hai miền chết vì cuộc chiến đó. Trong số này, đã có rất nhiều chiến sĩ trong các binh chủng khác như Thủy quân Lục chiến, Biệt kích Dù, Biệt động quân, v.v. của VNCH đã chết trận. Khác với hai sĩ quan cấp Tá Không quân Phạm Phú Quốc, và Lưu Kim Cương, hầu hết những hy sinh anh hùng khác – kể cả trong binh chủng Không quân – đã không được người ngoài thân nhân, hay bạn thân biết đến, vì mấy ai được/có nhạc sĩ sáng tác, ghi lại (bằng bài hát), và được cho phổ biến (trên truyền thông), để người ngoài – không phải là thân nhân – biết đến?
                               
                              Mặt khác, so với các chiến sĩ đã nằm xuống, trường hợp các Tù Cải Tạo trong các nhà tù của Việt Cộng lại càng phải được ghi nhận cho đúng. Đừng quên ngay sau năm 1975, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, và viên chức VNCH đã bị tù đày, hành hạ, có người cả 20 năm. Bao nhiêu gia đình đã tan tác? Một số tù nhân đã chết trong tù vì bệnh hoạn, hay kiệt sức. Những chịu đựng, và hy sinh của những người tù lay lứt sống còn hình như đã không được ghi nhận tương xứng so với những bạn đồng ngũ nổi danh đã nằm xuống.
                               
                              Hơn 35 năm sau biến cố 1975, một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas, tình cờ tôi đã được trao đổi vài ba câu chuyện với một cựu sĩ quan Không quân cùng lứa với cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương. Có khác chăng chỉ là người còn sống đã trải qua 13 năm tù cải tạo, và chỉ muốn quên đi quãng đời thanh xuân mà ông coi là đã bị phí phạm.
                               
                              Còn bao nhiêu cựu tù chưa có dịp giải tỏa chuyện đời của họ? Cũng đều là vì nước, giữa đột ngột chết trận, và sống còn với thể xác suy yếu & tâm thần gẫy đổ sau nhiều năm bị kẻ thù đầy đoạ & hạ nhục, thử hỏi: Ai trần ai hơn ai? Và như vậy, sao đã vinh danh người này mà hình như không nghĩ đến người kia?

                              ***

                              Có những bài hát có ý nghĩa, và công dụng hơn chỉ là phương tiện/sản phẩm giải trí, hay nghệ thuật. Đó là những bài ca ghi lại những sự kiện xảy ra cho các nhân vật trong hoàn cảnh của thời gian & không gian như nhân chứng cho dân tộc của một quốc gia đã trải qua. “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” là một trong những nhạc phẩm thuộc loại hiếm hoi này.
                               
                              Nếu đã biết như thế, những người yêu nhạc không nên chỉ để đầu óc đắm chìm trong giới hạn của lời ca & tiếng nhạc, để có khi còn thấy những sự kiện tuy không được trực tiếp kể lại, nhưng cũng thuộc những biến cố đổi đời.

                              (BachMa sưu tầm)
                              Last edited by BachMa; 01-08-2018, 07:58 PM.

                              Comment


                              • Ponchos Buồn

                                Ponchos Buồn
                                Bảo Định


                                Hình minh họa

                                Không biết từ bao giờ, chiếc áo poncho đã trở thành chiếc áo đi mưa của người lính VNCH. Thời chiến tranh Việt-Pháp, người lính Pháp dùng áo đi mưa bình thường như ta vẫn dùng, nhưng màu sắc là màu kaki. Bộ đội Việt Minh thì dùng “tơi” làm bằng lá cọ, rất bất tiện. Về sau họ được trang bị bằng tấm vải nylon được lén lút mua từ vùng “Tề”. Trong những món quân trang được cấp phát cho người lính, có tấm poncho màu ô liu, dùng để làm áo đi mưa. Ý nghĩ đầu tiên của người lính giản dị chỉ có thế.

                                Nhưng khi vượt sông, người lính được chỉ cách dùng tấm poncho, gói tất cả ba lô, quân trang quân dụng, cột túm lại để trở thành cái phao mà vượt qua dòng nước. Khi đi hành quân, với hai tấm ponchos nối lại với nhau, một sợi dây căng dùng làm đòn dong, người lính đã có một “túp lều lý tưởng của anh và của em”, của ba người lính, hay ba chàng “ngự lâm pháo thủ”. Vì cần thêm một người lính nữa chung vào, tấm poncho thứ ba làm tấm drap trải nền. Người lính đi hành quân dài ngày, ngoài ba lô quân dụng, phải mang một cấp số rưỡi đạn dược, nhiều trái lựu đạn, hành trang thường nặng trên 20 ki lô, nên ít ai mang theo chăn mền. Do đó tấm poncho thứ ba, khi đêm khuya lạnh lẽo giữa nơi núi non, hay vùng đồng không mông quạnh, đã trở thành chiếc mền cho ba người lính đắp chung. Ba người lính cùng dựng “túp lều lý tưởng”, cũng là tổ “Tam Tam” trong cơ chế quân đội, là đơn vị nhỏ nhất: Tổ Tam Tam, Tiểu đội, Phân đội, Trung đội, Ðại đội…

                                Khi đi vào những vùng khan hiếm nước, hay không có nước như mật khu Hắc Dịch thuộc tỉnh Phước Tuy chẳng hạn, người lính đào một cái hố cạn, phủ poncho lên trên, tạo thành một cái giếng cạn để hứng những giọt sương đêm, hay gặp may, có một cơn mưa nào bất ngờ chợt đến để hứng nước. Sau cùng, khi người lính hy sinh nơi chiến địa, tấm poncho đã trở thành chiếc áo quan “phủ kín thân xác của người chiến sĩ”.


                                Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, Tiểu đoàn 2/43 cùng Ðại đơn vị Sư đoàn 18 BB nhảy vào An lộc thay thế Sư đoàn 5BB, trấn giữ Thị xã này của “Bình Long Anh Dũng”.

                                Ngày 12 tháng 6 năm 1972, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới tung bay trên đỉnh đồi Ðồng Long, người hùng An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố với phái viên VTVN: “Thành phố An Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa”.

                                Sau hơn hai tháng giao tranh, lực lượng tấn công cộng sản xâm lăng Bắc Việt với quân số đông gấp 4 lần lực lượng của QLVNCH, nhưng quân trú phòng đã gây cho chúng thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn quân CSBV. Tổn thất về phía QLVNCH cũng khá nặng nề. Nhưng điều quan trọng là họ đã giữ vững được thị xã. Mặc dù An lộc đã trở thành một địa ngục của trần gian! Mưu đồ của CSBV mong chiếm được An Lộc để đặt làm Thủ đô của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, con đẻ của Hànội, và làm bàn đạp tiến đánh thủ đô Sàigòn hoàn toàn bị bẻ gãy. Cuối cùng bọn đầu lĩnh Bắc Bộ Phủ đành phải chọn Lộc Ninh, một quận nhỏ của tỉnh Bình Long, nằm cách biên giới Việt-Miên vài cây số để làm thủ đô! Thật là khôi hài!


                                Hình minh họa

                                An Lộc đứng vững là nhờ sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, và lòng hy sinh vô bờ bến của người lính VNCH. Họ là những chiến sĩ Nghĩa Quân, Ðịa Phương Quân tỉnh Bình Long của Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Sư Ðoàn 5 BB của Tướng Lê Văn Hưng, vài đơn vị của Sư Ðoàn 9, Sư Ðoàn 18, Sư Ðoàn 21, Biệt Ðộng Quân, và lực lượng Nhảy Dù. Hai câu thơ của một cô giáo An Lộc, được viết lên trên một tấm gỗ của thùng đạn pháo binh, cắm trước Nghĩa trang Biệt Cách Dù, ngay giữa khu phố chợ Bình Long:

                                “An Lộc Ðịa, sử ghi chiến tích,
                                Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”


                                Ðã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người dân địa phương đối với sự hy sinh cao cả của người lính VNCH.

                                An Lộc đã đứng vững, các ngọn đồi chung quanh như Ðồi Ðồng Long, Ðồi Gió, Ðồi 169… đã được tái chiếm. Quân CSBV bị thua nặng, bị kiệt quệ, nên thôi mở những cuộc tấn công thiêu thân. Nhưng vòng vây bao quanh thị xã vẫn siết chặt. Không đủ khả năng hay không còn dám mở những cuộc tấn công bằng bộ chiến, chúng tấn công bằng trận địa pháo. Những trận mưa pháo liên tục trút lên thị xã nhỏ bé, ngày cũng như đêm. Những người lính VNCH tử trận không có phương tiện để mang về hậu cứ trong hoàn cảnh súng phòng không dày đặc, đường bộ thì bị cắt tại Tàu Ô trên QL13, đành phải “vùi nông một nấm” tại chỗ. Nhưng mỗi tấc đất của An Lộc là một tấc lãnh đạn pháo của địch. Do đó chuyện “người chết hai lần, thịt xương nát tan” chuyện thường tình. Tại An Lộc, Tiểu Ðoàn 2/43 đã có những người lính chết ba lần, bốn lần, thậm chí năm lần! Thử hỏi thịt xương còn gì? Không chỉ là nát tan!

                                Sư Ðoàn 18BB của Ðại Tá Lê Minh Ðảo, sau khi nhảy vào An Lộc, để cùng với Trung Ðoàn 52 và một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 48 tăng phái cho Sư Ðoàn 5, đã có mặt tại đây ngay từ những ngày đầu của trận chiến, liền cấp tốc mở những cuộc hành quân tái chiếm những vùng đất bị mất, nới rộng vòng đai phòng thủ, hầu giảm thiểu những trận mưa pháo của địch. Phi trường Quản Lợi nằm cách xa thị xã An Lộc lối 10 cây số về hướng Ðông Bắc. Trong thời kỳ quân đội đồng minh còn tham chiến ở Việt Nam, nơi đây là căn cứ của một Lữ Ðoàn Quân Ðội Hoa Kỳ. Người bạn đồng minh đã xây dựng tại đây những pháo đài, những bunkers rất là kiên cố để bảo vệ sân bay. Khi trận chiến An Lộc xảy ra, đây là địa điểm tốt để đặt sở chỉ huy của chúng, nhất là những dàn đại pháo để bắn vào An Lộc. Do đó, Tư lệnh Mặt trận Lê Minh Ðảo quyết định bằng mọi giá, phải tái chiếm Phi trường Quản Lợi.

                                Vào một ngày đầu Thu năm 1972, Sư đoàn 18 BB đã mở cuộc hành quân cấp Trung Ðoàn để tái chiếm phi trường Quản Lợi. Ðây là vùng đồn điền cao su Ðất Ðỏ (Terre Rouge) của người Pháp. Từ An Lộc đi về hướng Ðông theo con đường 303. Trước khi đến phi trường, phải vượt qua một thung lũng hẹp. Ðây là thung lũng mà những người lính của tiểu đoàn 2/43 gọi là “Thung lũng Tử thần”. Chính cái thung lũng nhỏ hẹp này đã cướp mất biết bao nhiêu là sinh mạng của các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 2/43.

                                Từ sáng sớm, những phi cơ chiến đấu thay nhau trút bom đạn lên đầu giặc; tiếp theo là những tràng đạn pháo 105ly, 155ly. Những khẩu pháo này đã hoạt động liên tục trong suốt trận chiến, nòng súng bị nở rộng, đường khương tuyến bị mòn, nên bây giờ tác xạ không còn chính xác. Ðộ sai số có thể lên đến 500 mét! Sau những đợt mưa bom và đạn pháo, Tiểu Ðoàn 2/43 của Ðại Úy Nguyễn Hữu Chế, khóa 13 Võ khoa Thủ Ðức, và Tiểu Ðoàn 3/43 của Thiếu Tá Lê Thanh Quang, khóa 16 Võ bị Ðàlạt, bắt đầu mở cuộc tấn công.


                                Hình minh họa

                                Trước khi mặt trời lặn, hai tiểu đoàn đã tiến chiếm được một đầu phi đạo. Trận chiến diễn ra rất ác liệt, sự thiệt hại của cả hai bên đều khá cao! Nhưng quân bạn đã lập được đầu cầu, xua quân địch về bên kia và về cuối phi đạo! Cuộc hành quân chỉ tiến đến được ngang đó. Bên kia phi đạo là một dãy pháo đài và bunkers kiên cố của quân đội Mỹ để lại. Sức chống trả của địch thật mãnh liệt, quân bạn không thể tiến xa hơn. Sau nhiều ngày tạm nghỉ ngơi, một trận đánh quyết liệt đã diễn ra mà nỗ lực chính là Tiểu Ðoàn 2/43 để giải quyết trận địa.

                                Tiểu đoàn được tăng phái Ðại Ðội Trinh Sát 43 của Ðại Úy Nguyễn Tấn Chi, khóa 12 Võ khoa Thủ Ðức. Từ sáng sớm, bom và đạn pháo thay nhau trút xuống mục tiêu. Thời gian của cơn mưa bom đạn kéo dài gần suốt ngày. Trước khi tấn công, một màn khói nhân tạo, do những trái đạn khói pháo binh tạo thành, dày đặc, làm màng che cho bộ binh tiến lên. Trận đánh kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ để vượt qua một phi đạo không rộng lắm. Nhưng quân bạn không thể nào chiếm được những pháo đài và bunkers. Cộng quân với các khẩu súng cộng đồng 12ly7, đại liên, trung liên, SKZ, B40, B41 đã chống trả quyết liệt. Một vài toán quân tiến được qua bên kia phi đạo, nhưng không thể nào xâm nhập vào bên trong, đành phải bỏ cuộc, rút lui. Con số thương vong khá cao. Trời vừa tối, trước mặt vị Tiểu Ðoàn Trưởng là 19 chiến sĩ QLVNCH nằm ngay hàng với tấm poncho phủ kín.

                                Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn này. Chỉ trong một cuộc tấn công ngắn ngủi, con số thiệt hại đã lên quá cao! Nhiệm vụ chưa hoàn thành. Mục tiêu vẫn chưa bị thanh toán. Bóng đêm đến nhanh. Ta và địch đều phải bận rộn lo việc tản thương và tiếp tế. Ðịch bên kia phi đạo. Ta ở bên này, mặt đối mặt, tất cả đều mệt mỏi rã rời! Không ai buồn bắn pháo vào nhau.

                                Một đêm yên tĩnh trôi qua. Trời thu ảm đạm, mây đen vần vũ. Cơn mưa chợt đến. Gió núi từng cơn thổi qua. Người lính VNCH áo quần ướt nhẹp, co ro trong cái lạnh đầu mùa. Nhưng súng không rời tay, mắt đăm đăm nhìn về hướng địch đang cố bám bên kia phi đạo, để theo dõi động tĩnh của đối phương.

                                Ngày hôm sau, trận đánh lại tiếp tục. Nhưng lần này tiểu đoàn được tăng cường Trung Ðội Hỏa tiễn TOW của Chuẩn Úy Phương, vị sĩ quan tốt nghiệp trường Fort Benning bên Mỹ. Khi đưa Trung Ðội Hỏa tiễn TOW vào, Tư Lệnh cho biết mỗi trái đạn trị giá 7 triệu đồng (vàng lúc đó là 20 ngàn/lượng). Hỏa tiễn TOW là loại vũ khí chống xe tăng ra đời vào khoảng năm 1945. Nhưng hình như chưa được tung ra mặt trận thì cuộc Ðại chiến Thế giới lần thứ hai chấm dứt. Không biết trong trận chiến tranh Cao Ly, quân đội đồng minh đã có dịp sử dụng loại hỏa tiễn này chưa?

                                Trong chiến tranh Việt Nam, loại hỏa tiễn này chỉ mới trang bị cho QLVNCH từ hồi Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, và chỉ mới xuống đến cấp Trung Ðoàn Bộ Binh. Mỗi trung đoàn có một trung đội gồm hai khẩu, gắn trên xe jeep. Tầm bắn của viên đạn là 3,000 mét. Khi viên đạn rời nòng súng, nó kéo theo một sợi dây kim tuyến. Chính nhờ sợi dây kim tuyến này mà ta có thể điều khiển viên đạn đến mục tiêu theo ý muốn. Trên ống nhắm có một chữ thập. Ta chỉ cần đưa chữ thập vào mục tiêu thì nhất định viên đạn phải trúng mục tiêu. Khi nổ, sức nóng tỏa ra trên 3000 độ. Ðặc biệt viên đạn có thể luồn lách qua những hàng cây như cây cao su. Ðây là loại vũ khí chống xe tăng rất hữu hiệu. Chỉ tiếc rằng người bạn đồng minh đã viện trợ cho ta quá trễ!

                                “Mất bò rồi mới làm chuồng!” Cũng giống như hồi Tết Mậu Thân năm 1968, khi quân CSBV xâm lăng sử dụng AK47 để tấn công trên toàn cõi VNCH thì người bạn đồng minh mới cung cấp cho ta súng M16. Sau này khi bộ đội CSBV sử dụng xe tăng T-54, ta mới được ông bạn quý nhượng lại cho M48, do họ rời chiến trường VN, nặng quá không tiện mang theo! Có lẽ ông bạn Mỹ không muốn ta thắng VC, chỉ muốn ta thủ huề! Họ sợ ta thừa thắng rồi mở cuộc Bắc tiến! làm mất thế cân bằng toàn cầu của họ. Ôi! Thương thay cho thân phận người lính của một nước nhược tiểu.

                                Vị Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/43 hân hạnh được bắn phát đạn đầu tiên. Viên đạn chạm trúng mục tiêu, vị trí của khẩu thượng liên 12ly7. Viên đạn nổ, khẩu súng câm họng ngay. Hàng mấy chục tên bộ đội bỏ chạy tán loạn. Chúng tìm cách nhào xuống triền đồi, lủi nhanh vào rừng sâu. Thêm hai viên đạn nữa rời nòng súng. Những ổ kháng cự mạnh nhất của cộng quân bị vỡ. Tiểu đoàn trưởng cho lệnh tấn công. Chỉ trong một khoảnh khắc, toàn bộ trận địa của địch đã bị quân bạn chiếm lĩnh.


                                Hình minh họa

                                Xác địch nằm la liệt. Nhiều tên bị xiềng vào chân súng, vào bunkers. Nhiều tiếng rên, nhiều tiếng khóc la. Nào là “Bác ơi! Ðảng ơi! Con chết mất”. Tuyệt nhiên không có tiếng “Bố ơi! Mẹ ơi!” hay “Trời ơi! Phật ơi!” như ta vẫn thường thốt lên mỗi khi đau đớn hay gặp cơn nguy biến. Khói súng, và mùi da thịt cháy khét lẹt của giặc tỏa ra cả một vùng. Súng cá nhân, súng cộng đồng vất bỏ ngổn ngang. Kết quả ta thu được 1 súng thượng liên 12ly7, 1 súng cối 82ly, 2 khẩu 61 ly, nhiều AK, B40 và B41. Bên ta hoàn toàn vô sự! Phi trường Quản Lợi đã được tái chiếm.

                                Nhưng chiến thắng này tiểu đoàn đã phải trả cái giá quá đắc! Ðó là mười chín sinh mạng của các Chiến sĩ Tiểu Ðoàn 2/43. Những người lính dũng cảm, ra đi không hẹn ngày về. Họ đã nằm lại trên mảnh đất quê hương, đã hy sinh thân xác để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Ðộc Lập, Tự Do, và mang lại Hạnh Phúc, Ấm No cho toàn dân.

                                Họ đã hy sinh thân xác để chống lại làn sóng đỏ tràn vào từ phương Bắc. Nhưng cuối cùng, vì sự ngu dốt của bọn người “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, bọn người ngây thơ và nhẹ dạ, và vì sự phản bội của đồng minh; sự hy sinh của những người lính VNCH xem ra có vẻ oan uổng! Họ đã bỏ phí đời trai trẻ. Khi nằm xuống, những tấm ponchos đã phủ kín đời họ. Là những chiếc áo quan buồn, ra đi giữa vùng lửa đạn. Nhưng cũng là cái may! Họ đã chết vinh quang! Họ không phải sống nhục sau ngày 30 tháng 4, 1975, để phải chứng kiến cảnh “nước mất nhà tan”. Chỉ có những người còn lại là phải sống nhục, sống trong nỗi đau triền miên!

                                Michigan, ngày cận Xuân
                                Bảo Định
                                nguồn:
                                https://ngoclinhvugia.wordpress.com/...-d%E1%BB%8Bnh/
                                Last edited by BachMa; 01-10-2018, 04:19 AM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X