Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Người về sông Tương

Collapse
X

Người về sông Tương

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Người về sông Tương

    Nhạc sĩ Văn Giảng, tác giả hai nhạc phẩm “Lục Quân Việt Nam” và “Ai về Sông Tương,” vừa qua đời ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, Úc, hôm Thứ Năm, 9 Tháng Năm 2013, hưởng thọ 89 tuổi. FOOTSCRAY, Úc (NV)





    “Ðường trường xa, muôn vó câu bay dập dồn...”


    Anh em cựu quân nhân VNCH, nhất là những sĩ quan xuất thân từ trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức không thể nào không biết đến bài hát Lục Quân Việt Nam mà mỗi buổi sáng, buổi chiều vẫn thường cất tiếng hát khi đi trong hàng quân: “Ðường trường xa, muôn vó câu bay dập dồn...” hay bài “Thúc Quân”, nhưng ít ai biết hay còn nhớ tên của người nhạc sĩ: Văn Giảng, cũng là Thông Ðạt, tác giả bài tình ca nổi tiếng một thời: “Ai về Sông Tương”.

    Văn Giảng tên thật là Ngô Văn Giảng, sinh năm 1924, tại làng Bác Vọng Ðông, Thừa Thiên. Ông sinh ra trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, song thân làm nghề thương mãi, và ông thú nhận học lực của ông không qua hết bậc trung học. Sau khi học ở trường tiểu học Paul Bert, rồi Phú Xuân, ông phải nghỉ học sớm để ở nhà giúp cha mẹ. Trong suốt thời ấu thơ, Ngô Văn Giảng chịu ảnh hưởng của nhạc cổ điển qua những ban nhạc tài tử dân giả của đất Thần Kinh. Không qua một trường lớp âm nhạc nào, nhưng ông đã trở thành một người chơi đàn hạ uy cầm, tây ban cầm và đại hồ cầm nổi tiếng ở Huế, là trưởng ban nhạc của đài phát thanh Huế, từ lúc đài này mới thành lập (1949), và sau đó là giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế (1963).

    Ðài phát thanh Huế, dưới thời của Giám Ðốc Ngô Ganh, ban nhạc của Văn Giảng tuy là một ban nhạc nhỏ, nhưng quy tụ nhiều ca, nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Lê Quang Nhạc, Trần Văn Tín (về sau là đại tá ngành quân nhạc), ca sĩ Minh Trang, Tôn Thất Niệm (nay là bác sĩ tại Nam California)... Năm 1963, Văn Giảng được bổ nhiệm làm giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế và sau đó hai năm, ông được cấp học bổng du học Hoa Kỳ, theo học âm nhạc tại đại học ở Honolulu, Hawaii.

    Sau biến cố Mậu Thân, theo ý nguyện muốn được rời Huế, Văn Giảng được Bộ Văn Hóa mời vào giảng dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Trong thời gian này, ông gặp nhạc sĩ Châu Kỳ, người bạn đã chỉ dẫn ông đi vào con đường làm giàu nhờ viết nhạc. Ông bắt đầu sáng tác những tình khúc “hái ra tiền”. Ký bản quyền cho hãng dĩa xuất bản Asia, Sóng Nhạc, Văn Giảng đủ tiền mua một căn nhà khang trang mặt tiền trên đường Thoại Ngọc Hầu. Thị hiếu của quần chúng bình dân cả nước lúc bấy giờ là mua những bản nhạc “bolero” thịnh hành của các nhạc sĩ. Những bản nhạc của Văn Giảng như “Hoa Cài Mái Tóc,” “Tình Em Biển Rộng Sông Dài,” “Ðôi Mắt Huyền,” được ấn hành hàng chục nghìn bản, phổ biến rộng rãi trên thị trường, điều mà trước đây, khi còn là một “nhạc sĩ công chức” ở Huế, Văn Giảng không hề nghĩ đến.

    Nhưng nói đến nhạc tình của Văn Giảng chúng ta không thể quên “Ai Về Sông Tương,” được viết năm 1949, đã dẫn đầu như một bản nhạc “top,” bản nhạc được thính giả yêu cầu nhiều nhất của đài phát thanh Pháp Á trong hai năm 1949-1950 dưới một cái tên “lạ hoắc” là Thông Ðạt, mới nghe lần đầu trong giới nhạc sĩ. Bản nhạc đó đã được phổ biến trong vòng 25 năm dài tại miền Nam và ra đến hải ngoại sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975.

    Hỏi vì sao nhạc sĩ không dùng tên Văn Giảng để ký dưới ca khúc này, ông cho biết, là một thanh niên lớn lên trong thời loạn, ông muốn dùng âm nhạc để kích động lòng yêu nước của thanh niên, mặc dù ông chỉ phục vụ trong ban 5 (tâm lý chiến) một thời gian rất ngắn tại Quân Khu I.

    “Ai Về Sông Tương” là một bản nhạc thử nghiệm của ông trong loại nhạc tình viết theo sự thách đố của bạn bè đã trở thành một bản nhạc nổi tiếng. Lúc bấy giờ, thính giả của đài phát thanh chỉ biết Văn Giảng qua các bản hùng ca reo vui, phấn khởi mà không hề biết ông cũng là Thông Ðạt khi bản nhạc này được ra đời, do nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành và được phổ biến trên đài Pháp Á lần đầu tiên qua giọng hát của Mạnh Phát và Minh Diệu.

    Tên Thông Ðạt cũng là sự kết hợp của hai pháp danh Nguyên Thông của Văn Giảng và Tâm Ðạt của người vợ ông. Cuộc hôn nhân này đã kéo dài 62 năm trong hạnh phúc từ trong nước ra đến hải ngoại của một người nhạc sĩ đa tài, mà tiếng đàn hạ uy cầm trên đài phát thanh Huế trong thập niên 1950 đã làm thổn thức bao nhiêu con tim của những cô gái Huế. Các cô gái khuê các xứ Huế đã có một phong trào đi học đàn hạ uy cầm và lớp nhạc Văn Giảng luôn luôn đông học viên, cũng có nhiều cô đem lòng yêu thầy, nhưng cuối cùng, họ không hề đi ra ngoài vòng lễ giáo.

    Và giới Phật tử cũng ít ai biết Văn Giảng là tác giả bản nhạc “Từ Ðàm Quê Hương Tôi,” được viết sau mùa Pháp nạn ở Huế năm 1966, và được ký bằng pháp danh Nguyên Thông.

    Năm 1978, Văn Giảng từ Cần Thơ vượt biển với người con trai đầu lòng đến Indonesia. Ðã từng du học tại Hawaii, ông đủ điều kiện định cư tại Mỹ, nhưng vì muốn sớm bảo lãnh cho vợ và 6 đứa con còn lại, ông bằng lòng chọn Úc làm quê hương thứ hai. Ðến Melbourne, Văn Giảng sinh sống bằng nghề dạy nhạc tại tư gia về các môn sáng tác hòa âm cũng như sử dụng các nhạc khí như tây ban cầm, hạ uy cầm và đại hồ cầm cho người Việt mới đến định cư cũng như cho các sinh viên Úc. Gần 30 năm nay, Văn Giảng đã soạn nhiều sách dạy nhạc, sử dụng nhạc cụ bằng cả hai thứ tiếng Việt, Anh, nhưng chưa được xuất bản...

    Huy Phương
    (www.nguoi-viet.com)







    Người về sông Tương


    Thầy Ngô Văn Giảng vừa tạ thế tại Úc, hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan ra, tôi bâng khuâng nhớ về 54 năm trước, năm 1959, thầy là giáo sư âm nhạc của chúng tôi tại trường Hàm Nghi, Huế. Thuở ấy, thầy mới ngoài 30, dáng điệu phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân trường.

    Tôi còn nhớ ngày đầu tiên khi Thầy bước vào lớp đệ Thất B1 của chúng tôi, trò Trương Phước Ni bắt tay làm loa đứng dậy chào thầy bằng câu: “Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn…” Thầy cười rất tươi cho cả lớp, nhưng cũng lập nghiêm nhìn chú học trò rắn mắt ở dãy bàn cuối lớp. Đây là câu mở đầu của hùng ca Lục Quân Việt Nam, một trong những bài ca mang tiết điệu hành khúc, hùng tráng nổi tiếng nhất của Thầy – nhạc sĩ Văn Giảng – như Thúc Quân, Đêm Mê Linh, Qua Đèo, Nhảy Lửa…

    Thầy đã là một nhạc sĩ thành danh, nổi tiếng trong cả nước, trước khi trở thành giáo sư âm nhạc của trường Hàm Nghi. Nhưng nhiều người chỉ biết Văn Giảng qua những bản hùng ca. Bởi thế, vào mấy năm đầu thập niên 1950, khi bản nhạc để đời của Thầy, Ai Về Sông Tương, trở thành một bản tình ca thời danh với tên tác giả là Thông Đạt có lẽ ít ai để ý rằng, trong góc khuất của những tâm hồn nghệ sĩ thì bên cạnh nhịp đời hào hùng vươn tới vẫn có tiếng thở dài chan chứa điệu buồn.

    Hai niên khóa học với nhạc sĩ Văn Giảng, tôi thích học nhạc thì ít mà mê Thầy kể chuyện thì nhiều. Cứ mỗi cuối giờ, Thầy có một câu chuyện kể về các giai thoại âm nhạc. Thích nhất là những chuyện thâm cung bí sử của những nghệ sĩ âm nhạc tài hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác, Thầy xướng âm lên và phân tích cho chúng tôi nghe rằng, tiết điệu của bài ca đó có những trường canh trãi dài xa vắng và âm hưởng thương nhớ quặn lòng “rất Tây Phương” vì đây là bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân viễn chinh của Pháp viết lên giai điệu. Nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ soạn ca từ… Hoặc như bản nhạc Trầm Hương Đốt của Bửu Bác, xuất xứ là bài Hải Triều Âm. Đây là một trong những bản nhạc nghi lễ đầu tiên dùng trong sinh hoạt chùa viện đã bứt phá từ giai điệu ngũ âm “Đăng Đàn Cung” để tiến lên bát cung của phương Tây. Bởi vậy mà ảnh hưởng âm điệu “thánh ca nhà thờ” như âm vang rền rền không cao không thấp của organ thể hiện rất rõ trong giai điệu của bản nhạc.

    Nhưng thú vị hơn cả là lịch sử bản nhạc Ai Về Sông Tương. Thầy kể rằng, thời trai trẻ, Thầy ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim Long – Kim Long có gái mỹ miều; trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi… mà – nhưng duyên không thành vì gia đình nho phong của cô bé không có cái nhìn thiện cảm với đời nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca… Thế là chia tay và cô bé đi lấy chồng!

    Rồi một hôm, Thầy vào rạp Xi-nê Tân Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc sông Hương để coi phim “Bé Nhà Trời” (Les enfants du paradis). Ngay trước mắt Thầy, ờ hàng ghế trước có một cô Bé tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt nhưng từ dáng dấp đến hương tóc thoang thoảng mùi hoa Ngâu của người thiếu nữ đã làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long “ngày xưa Hoàng Thị” ấy. Thầy bị xúc động đến nỗi không thể còn ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem phim, nên vội vàng ra khỏi rạp. Thầy cỡi chiếc xe đạp Dura Mercier của Thầy và đạp xe dọc theo bờ sông Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội. Thoáng chốc dòng sông Hương hiện ra như là dòng sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư Trung Quốc. Thầy vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức nghệ thuật với sự chấn động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai Về Sông Tương được viết ra trong vòng mười lăm phút!

    Sau đó, Thầy bí mật ký tên là Thông Đạt và chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Mấy hôm sau, Mạnh Phát vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ đã hát bản Ai Về Sông Tương lần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội. Bản nhạc sáng tác năm 1949 đã nhanh chóng nổi tiếng trong toàn cả nước. Đã trải qua hơn 60 năm, những mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở răng trắng tóc xanh đã thành “răng long đầu bạc”. Nhưng Ai Về Sông Tương vẫn mới như thời gian là nước chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự của những đôi tình nhân ước hẹn không thành. Bản nhạc với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời lẽ đậm nét hoài niệm trữ tình làm dậy lên nguồn tình cảm sướt mướt, mượt mà mà rất “sang” ấy như một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn cảnh tạm hồi sinh sau cuộc chiến:

    Ai có về bên bến sông Tương
    Nhắn người duyên dáng tôi thương
    Bao ngày ôm mối tơ vương
    Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
    Tâm hồn mơ bóng em luôn
    Mong vài lời em ngập hương…

    Cũng theo lời Thầy vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát, là bạn thân của Văn Giảng, đã nhờ Văn Giảng đến nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy giờ là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng Duyệt làm giám Đốc để hỏi cho ra Thông Đạt là ai ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á. Thầy tảng lờ như không hay biết. Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của Thông Đạt mới được tiết lộ. “Mạnh Phát vô Huế chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui thùi thụi như rứa thì thôi!” Thầy Văn Giảng cười vui kể lại.

    Một lần trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế là tay đọc tiểu thuyết đệ nhất trong lớp hỏi Thầy: “Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình cũng có Hương giang đầu, Hương giang vĩ mà Thầy lại phải vay mượn sông Tương của Tàu như rứa ạ?”. Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương chưa có chuyện tình nào nổi tiếng trong tình sử như sông Tương. Tương Giang là một con sông ở Trung Hoa, bắt nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài hơn hai ngàn dặm. Còn ý “ai về sông Tương” của Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của bốn câu thơ tình sử trích từ khúc Trường Tương Tư của nàng Lương Ý, đời Hậu Chu. Nàng và Lý Sinh yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm thơ mong gửi gấm nguồn tâm sự đau khổ khi phải xa cách người yêu:

    Quân tại Tương Giang đầu
    Thiếp tại Tương Giang vĩ
    Tương tư bất tương kiến
    Đồng ẩm Tương Giang thủy

    (Chàng ở đầu sông Tương
    Thiếp ở cuối sông Tương
    Nhớ nhau không thấy mặt
    Cùng uống nước sông Tương)

    Trong những ngày phong trào đấu tranh Phật giáo xẩy ra tại Huế năm 1963, có lần tôi gặp Thầy trên con đò Thừa Phủ, Thầy nói là lên chùa Từ Đàm nhưng đường sá trở ngại phải đi đò sang sông rồi đi bộ lên chùa. Khi đò ra giữa sông tôi nghịch ngợm hỏi Thầy: “Thưa Thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?” Thầy cũng cười đáp lại: “Đối với tôi thì sông Tương là sông Hương. Tôi chỉ mong cuối đời về lại con sông này…” Ngày đó và bây giờ, tôi tự hiểu khái niệm “cuối đời về lại” của Thầy là linh khí của con người luân lưu sống giữa hồn thiêng sông núi. Nếu vậy, thì hôm nay Thầy đã về sông Tương.

    Đó là lần cuối tôi gặp Thầy Văn Giảng. Nhưng sau đó không lâu, tôi lại được “gặp” Thầy qua một tác phẩm mang tính chất đạo ca của khách hành hương mà tôi đã gặp trên chuyến đò Thừa Phủ: Nhạc phẩm Từ Đàm Quê Hương Tôi. Lần nầy Thầy để tên tác giả là Nguyên Thông. Bản nhạc tuy được liệt vào thể loại nhạc tôn giáo nhưng cả giai điệu lẫn ca từ đã vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của văn hóa chùa viện. Cảm quan nghệ thuật sáng tạo của người nhạc sĩ tài hoa đã dung hóa được tính chất tráng liệt của hùng ca như Thúc Quân, Lục Quân Việt Nam, làn điệu mượt mà lãng mạn của tình ca như Ai Về Sông Tương, Ai Đưa Con Sáo Sang Sông và biểu tượng thiêng liêng, siêu thoát của đạo ca như Mừng Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Từ Đàm Quê Hương Tôi:

    Quê hương tôi miền Trung
    Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung
    Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng
    Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm
    Nơi yêu thương phát nguồn đạo vàng
    Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…

    Những nhạc sĩ tài hoa của nền tân cổ nhạc Việt Nam thuộc thế hệ Chiến Tranh Việt Nam lần lượt ra đi. Nghệ thuật và người nghệ sĩ đến với đời và ra đi không bằng tấm vé một chiều. Tác phẩm để lại cho thế hệ kế thừa sẽ làm cho con đường sáng tạo nghệ thuật rộn ràng và phong quang hơn. Với hơn 50 tác phẩm âm nhạc phong phú giá trị nghệ thuật để lại cho đời, nhạc sĩ Văn Giảng đã cống hiến phần tinh hoa lớn nhất của đời mình vì lợi lạc của tha nhân mà các nhà tu Phật giáo thường gọi là “công hạnh viên thành”. Thế hệ đàn em, học trò như chúng tôi có điểm tựa tinh thần đáng tự hào cùng tấm lòng trân trọng trong giờ phút tưởng niệm và bái biệt Thầy.

    Trần Kiêm Đoàn
    (sangtao.org)



    Last edited by Hoanghac; 06-17-2013, 05:07 PM.

  • #2
    Những nhạc phẩm của nhạc sĩ Văn Giảng (Thông Đạt)

    Xin mời bấm vào tên ca sĩ để nghe một số bài hát
    của nhạc sĩ Văn Giảng tức Thông Đạt, Nguyên Thông.
    (list còn tiếp tục)














    Đêm Mê Linh - Hoàng Oanh
    Đôi Mắt Huyền - Sĩ Phú
    Hoa Cài Mái Tóc - Elvis Phương
    Nam Quan hận khúc - Hoàng Oanh
    Sầu Ô Thước - Thái Thanh
    Thúc Quân - Hoàng Oanh
    Thương Tà Áo Bay - Mỹ Thể - Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết
    Từ Đàm Quê Hương Tôi - Hà Thanh

    Comment


    • #3
      Hái Mùa Xuân





      Ai hái mùa xuân thả thênh thang
      Bên đồi rực rỡ những hoa vàng
      Trời bát ngát hương thời xa lắc
      Trong mắt em xanh cả nỗi mừng.

      Ta chép tặng người dăm trang kinh
      Trí tuệ nghìn năm sánh lung linh
      Ai như một bóng chim cô độc
      Từ mùa xuân trước – chứng vô thinh.

      Ai vẽ mà xanh cả sơn hà
      Ngàn hoa bỗng nở ở quanh ta
      Trong cõi xuân sang trùng điệp đó
      Thổn thức làm sao tiếng Di Đà.

      Ta hái mùa xuân thả trên sông
      Mai kia ra biển với muôn trùng
      Tịnh yên hóa hiện trời xanh biếc
      Nghìn kiếp nào trôi suốt bổn tâm.


      Comment


      • #4
        Lá vàng





        Lá vàng hay hoa vàng
        Mà bay tràn không gian
        Chia tay người cuối phố
        Chào một mùa thu sang.

        Như có chút hương nồng
        Trên đường chiều thong dong
        Có một điều huyền diệu
        Vừa rơi xuống trong lòng.

        Tiếng thơ hay tiếng đàn
        Giữa tâm người mênh mang
        Vô sinh hề! vô tử
        Nốt nhạc trầm, khinh an.

        Lá vàng hay mưa vàng
        Đất bỗng vàng thênh thang
        Người hồn nhiên tâm đắc
        Vạt nắng chiều chưa tan.




        Comment



        Hội Quán Phi Dũng ©
        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




        website hit counter

        Working...
        X