Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thầy Cùi Có Linh Thiêng ...

Collapse
X

Thầy Cùi Có Linh Thiêng ...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thầy Cùi Có Linh Thiêng ...

    Thầy Cùi Có Linh Thiêng ...

    Võ Ý, K17


    Lễ Mãn Khóa 17 SVSQ TVBQGVN.


    Khóa 17 nhập trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tháng 11 năm 1960, trước K18 một năm. Hai năm sau, năm 1962, Khóa 19 nhập trường. Vào lúc nầy
    (1960-1963), Quân trường gồm 5 khóa là:

    - Khóa 15 (64 SVSQ (Sinh Viên Sĩ Quan) - Tốt nghiệp 55 Th/U, 2 Ch/U).
    - Khóa 16 (326 SVSQ - Tốt nghiệp 226 Th/U, 52 về Đồng Đế Nha Trang).
    - Khóa 17 (210 SVSQ - Tốt nghiệp 179 Th/U, 10 Ch/U).
    - Khóa 18 (201 SVSQ - Tốt nghiệp 191 Th/U).
    - Khóa 19 (412 SVSQ - Tốt nghiệp 391 Th/U).

    Vị chỉ huy trưởng bấy giờ là Trung Tá Trần Ngọc Huyến (xuất thân Khóa 2, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức**, binh chủng Pháo Binh).

    K17 nhập trường sau cuộc binh biến đầu tháng 11/1960 do một số sĩ quan nhảy dù khởi xướng. Thiếu Tướng Lê Văn Kim bị nghi ngờ có can dự đến sự kiện nên buộc phải bàn giao chức vụ Chỉ Huy Trưởng cho Trung Tá Trần Ngọc Huyến, Chỉ Huy Phó kiêm Văn Hóa Vụ Trưởng. (Trung Tá Huyến tốt nghiệp cử nhân văn chương Pháp, Đại Học Văn Khoa Saigon.)

    Tân Chỉ Huy Trưởng chấn chỉnh ngay chương trình huấn luyện bằng cách đệ trình thượng cấp (qua Bộ Giáo Dục và Bộ Quốc Phòng) công nhận văn bằng tốt nghiệp thiếu úy hiện dịch của Trường Võ Bị Quốc Gia, (chương trình 4 năm) tương đương trình độ văn hóa năm thứ hai Cử nhân Toán Lý Hóa.

    Ông mở thêm môn “Khoa Học Lãnh Đạo” (1), do chính ông phụ trách để truyền đạt cho các sinh viên sĩ quan nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy. Nội dung của môn học nầy có vẻ đơn giản nhưng vô cùng thiết thực cho cấp chỉ huy khi đối diện với đời sống cụ thể tại đơn vị cũng như trên chiến trường.

    Ông áp dụng phương pháp của Socrate (1) (dạy cho người nô lệ xưa) là không thuyết giảng dài dòng, chỉ nêu những câu hỏi, gợi ra câu trả lời do sự suy luận đơn giản. Vì vậy, SVSQ không phải buồn ngủ hoặc nhàm chán khi nghe thuyết giảng trừu tượng và dài dòng. Thay vào đó, mỗi người được phát một tờ giấy quay ronéo tóm tắt vài trường hợp thường xảy ra trong đơn vị, liên hệ với đủ hạng người, từ thượng cấp “đại úy cà dựt”, đồng cấp “trung úy láu cá”, “thiếu úy nịnh bợ” đến thuộc cấp “thượng sĩ bướng” vì có 17 năm công vụ; “trung sĩ lỳ” vừa chậm, lại vừa khó bảo…

    Lớp học chia thành toán, từ 8 đến 10 người, cùng thảo luận và tìm biện pháp giải quyết một cách hữu lý những vấn đề do “nhân vật” trong giấy gây ra, mà SVSQ là đơn vị trưởng tương lai, phải giải quyết!

    Thông thường, giữa sinh viên và chỉ huy trưởng quân trường, có khoảng cách rất xa. Trong giờ lãnh đạo chỉ huy, mọi người ngang hàng, chỉ hơn nhau trong lý luận hợp lý, sâu sắc và chín chắn. Từ thái độ e dè của thuộc cấp, sinh viên dần dần nhận thấy chỉ huy trưởng của họ thành thật và suy luận sắc bén, nên chấp nhận là “Thầy” (hơn là Chỉ Huy Trưởng).

    Qua cách truyền đạt nầy, cũng là lúc Thầy đặt họ trước tình thế của đất nước, đưa thí dụ người hiền hòa đang làm vườn, bị láng giềng kéo côn đồ phá rào, sang nhà mình đe dọa, đốt phá cả nơi thờ phượng tổ tiên ông bà, thì thử hỏi chui xuống hầm, chạy trốn, quỳ lạy tha chết hay gọi vợ con, anh em hợp lực đánh đuổi kẻ kia về. Suy luận rồi thảo luận, sinh viên tự tìm lấy câu trả lời duy nhất là “quyết chống lại” tên hàng xóm tham lam.

    Cũng từ đó, Thầy Huyến truyền bá “Triết Lý Nhân Sinh” (1) của mình cho đám học trò thân yêu và nhận họ cùng một giống với mình, “giống cùi”!

    Danh từ “Cùi” dùng để gọi các SVSQ, được truyền tụng trong quân trường (và sau nầy ngoài đơn vị) từ ngày Trung Tá Trần Ngọc Huyến đảm nhận trách nhiệm Chỉ Huy Trưởng, vào khoảng cuối năm 1960.

    Ngày nay, tại hải ngoại, danh từ “Cùi” vẫn được nhắc lại đâu đó, từ trong nội bộ cựu SVSQ Võ Bị Quốc gia Việt Nam (VBQG/VN) cho đến tập thể người Việt tị nạn Cộng Sản và các hội đoàn, tổ chức khác!

    Trong thời chiến, danh từ cùi biến thành “mật khẩu” cho các đồng môn Võ Bị Đà Lạt nhận nhau chỗ đông người, nơi xa lạ, tại đơn vị hay trên chiến trường, nhờ vào mẫu số chung “Cùi” của họ, dù bất cứ thời khắc nào. Danh từ xấu xa được biến thành “quý danh” (1), riêng cho một tập thể có những đặc tính khác người.

    Xin nêu 5 đặc tính khác người đó là: (2)

    1- Không làm điều trái lẽ phải, vô lý, bất công (mặc dầu có nhiều người làm). Và vì chỉ một mình, mình không làm mà bị thù ghét, hãm hại, ruồng rẫy, nên tự xem mình là “cùi hủi”.

    2- Không thượng đội, hạ đạp! Làm việc vì bổn phận, trách nhiệm, lẽ phải và lòng tự trọng; chứ không phải sợ bị phạt, hoặc làm cho giỏi để được thưởng.

    3- Khi lầm lỗi, thẳng thắn nhận lỗi. Nếu cần, chịu phạt thay cấp dưới!

    4- Quan tâm thuộc cấp. Không lợi dụng khai thác thuộc cấp để làm lợi cho mình.

    5- Thà chịu người ghét, không làm điều càn quấy để người khinh!


    Các đặc tính trên đây phản ánh “cá tính” đặc biệt của vị thầy “cao ngạo”, cũng là vị Chỉ Huy Trưởng tài hoa và lẫm liệt của Trường VBQG/VN (1960-1964), cố Đại Tá Trần Ngọc Huyến!

    Năm điều cốt lõi phản ánh “triết lý nhân sinh” cũng là 5 điều tâm niệm của “môn phái cùi” và họ thật sự hãnh diện khi gọi “chưởng môn nhân” của mình là… “Thầy Cùi”! Tự hạ mình thành cùi mà thâm tâm vẫn “cao ngạo”. Không phải cao ngạo lếu láo, khinh chê bừa bãi mà tự mình mình biết, có những kẻ được cho là quyền cao chức trọng, nhưng lại thuộc loại ích kỷ ty tiện, nên môn phái cùi lộ vẻ lịch thiệp bên ngoài mà bên trong lại ngầm… khinh bỉ! Cái cao ngạo hầu như “bệnh hoạn” của cùi là chỗ đó và sẵn sàng nhận hậu quả về thái độ ấy, vì họ đã chuẩn bị tâm tư, dám làm dám chịu!

    Cũng cần biết một giai thoại vô cùng kỳ cục mà “thầy cùi” là tác giả trong giờ khám phòng SVSQ thuộc Lữ đoàn Pháo binh (K2, Thủ Đức – 10/1952). (Cũng có thể qua giai thoại nầy mà “thầy cùi” áp dụng danh từ “cùi” cho đám học trò sau nầy của mình chăng?)

    Số là, trung úy Ladonne (xuất thân trường Võ Bị Saint Cyr, Pháp), Sĩ Quan Cán Bộ Lữ Đoàn SVSQ Pháo Binh, nhìn lên cánh tủ của SVSQ Trần Ngọc Huyến, mở mắt to ngạc nhiên, hất hàm hỏi:

    - Cái gì kỳ cục vậy?

    Trong thế nghiêm, ông trả lời:

    - Hình lõa thể toàn diện nhìn để quên đời.

    - Tôi thấy hình rồi, nhưng tại sao có câu “Lespreux! n’y touchez pas?” (Giống cùi, chớ sờ vào!)

    Trả lời:

    - Vì giống lespreux (giống cùi) không hiểu nổi cái đẹp!

    Trung úy lờ, bỏ đi. Vì nếu ông lấy tấm hình xuống sẽ tự thú mình là “lespreux” sao? Vì thế tấm hình lỏa thể vẫn nằm trơ trên cánh tủ. (3)

    Cho đến một hôm, thượng cấp (Thống chế Juin, Quân đội Pháp) viếng thăm quân trường (vào lúc nầy, 1952, người Pháp vẫn còn nắm giữ quân đội), Trung úy Ladonne, đang đêm, xuống phòng năn nỉ SVSQ Cùi Huyến:

    - Cho em bé (tấm hình lỏa thể) vào trong tủ ngủ một đêm rồi sáng mai đem ra phơi! (3)

    Từ một giáo sư Pháp văn, bị động viên vào Thủ Đức, học quân sự với huấn luyện viên Tây mà chưa chắc các vị nầy nói và hiểu tiếng Tây rành rẽ bằng SVSQ Cùi, nên SVSQ nầy “ngông” mà Tây vẫn nễ nang là một điều… hiếm có!

    <img src="https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521614138-17vbqgdlvn.png"style="float:left">Một giai thoại khác liên quan đến các điều tâm niệm 2, 3, 4 của môn phái cùi, là khi 52 SVSQ Khóa 16 (trên tổng số 326) bị loại vì không đủ điểm trung bình, do quyết định của Tổng Tham Mưu (TTM) ký và quân trường thi hành. Trước giờ lên tàu về quê, một SVSQ thiếu may mắn xin gặp thầy cùi. Sau khi nghe được sự bất công mà anh X là nạn nhân của 8 tuần sơ khởi, thầy hứa sễ điều tra và thầy cũng nói rõ là, vì TTM đã quyết định nên khó làm gì khác hơn ngoài việc sẽ dành một chỗ cho khóa tới. Anh X chảy nước mắt cho biết, anh là một trẻ mồ côi, được một ông sư ở Huế nuôi đi học, tưởng khi thành sĩ quan sẽ giúp lại mấy đứa mồ côi đang nuôi như anh. Anh không muốn sự bất công nầy hại thêm nhiều người nữa. Thầy cũng khóc theo và khuyên anh nên… hy vọng! (1).

    Ngay sau đó, thầy cùi triệu tập hội đồng giáo sư, huấn luyện viên và cán bộ, yêu cầu điều tra lại hồ sơ nầy. Mọi người ngẩn ra. Hầu hết các vị đều xác nhận anh nầy giỏi, xếp hạng 1 phần 3 trên cao. Chỉ có cán bộ trong hệ thống chỉ huy và kỷ luật mới phê điểm thấp tận cùng. Hỏi lý do, ngang ngược, khó bảo, vi phạm kỷ luật thường xuyên. Ý kiến của Hội đồng, trừ cán bộ kỷ luật, cho anh nầy trở lại.

    Tối đấy, thầy thảo văn thư gởi Tổng Tham Mưu Trưởng, với bản sao kính trình Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh), tự mình nhận lỗi vì thiếu kiểm soát, hại một sĩ quan tương lai, làm giảm uy danh Quân Đội vì đã có một quyết định bất công. Vì thế, xin thượng cấp giải nhiệm, trao quyền chỉ huy cho người khác, thuyên chuyển đi đơn vị tác chiến 3 năm trước khi cho giải ngũ. (Vì thầy cùi xin giải ngũ nhiều lần từ trước!) Riêng đối với SVSQ X, xin thâu lại quyết định sa thải, ban lệnh cho QĐI liên lạc với chùa Y tại Huế, cấp phương tiện cho anh ta trở lại trường kịp theo học giai đoạn 2 (K16) sắp khai giảng!

    Bốn đêm sau, Đại tướng Tổng TMT gọi điện thoại báo tin là, đã lệnh cho QĐI thi hành những đề nghị về X. Rồi trong tiếng cười sảng khoái, ông thêm:

    - “Mày xin giáng chức, xin phạt, mà tao lại được khen. Để khi nào về đây, tao kể cho mày nghe!” (1)

    Trong tuần ấy, SVSQ X trở lại trường!

    Nếu còn sống sót trên đời nầy, thiết nghĩ “cùi X” thuộc K16, sẽ không thể nào quên được cuộc hồi sinh nhờ vào tinh thần trách nhiệm của cấp chỉ huy của mình là, có lỗi thì nhận lỗi! Thiết nghĩ, tính can trường nầy hiển hiện trong câu châm ngôn của đoàn Sinh Viên Võ Bị Quốc Gia là, Tự Thắng Để Chỉ Huy!

    Những cùi K16, K17, K18, K19 được “Thầy Cùi” truyền đạt bí kíp nhân sinh trong suốt những năm tháng được trui rèn tại quân trường. (Các cùi Khóa 15 sắp mãn khóa và cùi Khóa
    20 mới nhập trường khoảng 4 tuần, vẫn được “nếm” môn lãnh đạo chỉ huy đủ mùi vị cay đắng, ngọt bùi nầy!)

    Qua môn học đó:

    - Cùi tìm thấy lý do để chống Cộng,

    - Cùi tìm thấy lý tưởng Quốc Gia dân tộc để phụng sự,

    - Cùi nhắm thẳng quân thù và bóp cò với ý thức “Bảo Quốc An Dân” chứ không vì công hầu khanh tướng hay hiếu sát kiểu “thề phanh thây uống máu quân thù”!

    Một thời gian ngắn sau khi các khóa nầy ra trường, ngôi Trường Mẹ vang dội chiến công lẫy lừng cũng như gương hy sinh anh dũng của các cùi như Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc, K16, Thủy Quân Lục Chiến, tại mặt trận Quảng Trị; Đặng Ngọc Khiết, K17, Biệt Kích nhảy Bắc bị tử hình; Võ Toàn, K17, trung đoàn trưởng mưu lược thuộc SĐ1 BB; Lê Huấn, K18, SĐ1 BB, tử chiến Hạ Lào; Võ Thành Kháng, Thủ khoa K19, TQLC, hy sinh trận Bình Giã chỉ sau 2 tuần sau lễ tốt nghiệp; Châu Minh Kiến, K19, SĐ5 BB, can trường đởm lược tại mật khu Hố Bò năm 65, mật khu Dương Minh Châu năm 68…

    Rất nhiều cùi đã chọn cái chết oanh liệt trước hay trong ngày 30 tháng 4/1975, trên chiến trường, trong ngục tù, hay trên đường vượt thoát tìm tự do. Những niên trưởng như Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, K8, Tư lệnh Quân Đoàn II; Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, K7, Tư lệnh Sư Đoàn 7BB, đều tuẫn tiết theo vận nước.

    Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, K16, Trung Đoàn Trưởng 42/SĐ22 BB… chọn cách ở lại với đồng đội để đồng sanh đồng tử…

    Thiếu Tá Phan Ngọc Lương, K17, nổi dậy chống nhà cầm quyền CS ở Huế, bị tử hình;

    Thiếu tá Trần Văn Bé, K19 và Thiếu tá Phạm Văn Tư, K19, vượt ngục CS (sau 30/04/75) không thành công, chấp nhận tràng đạn thù với ánh mắt cao ngạo!

    ….

    Từ sau ngày đau thương đó, đàn con của Trường Mẹ chịu chung số phận với vận nước, tủi nhục và uất hận ngay trên quê hương mình. Một số vượt thoát ra hải ngoại và lòng vẫn nung nấu một ngày về. Nỗi niềm đó đơm bông, kết trái thành những Hội Ái Hữu, Tổng Hội Cựu SVSQ/ VBQG/ VN, Đoàn Phụ Nữ Lâm Viên, mà hãnh diện nhất là Tổng Đoàn Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu…

    Dẫu biết, sơn hà cũng huyễn, nhưng chữ không ngờ vẫn nhói trong lòng của đa số “cùi”, bởi vì, tập thể nầy đang có dấu hiệu… rạn nứt, không phải do khác biệt lập trường quan điểm mà do bất đồng trong tổ chức sinh hoạt. Cụ thể là, sau Đại hội Tổng hội cựu SVSQ/VBQG/VN lần thứ 20 (2016), một số cựu SVSQ đề nghị hoãn in quyển “TVBQG, Theo Dòng Lịch Sử” vì cho rằng, còn nhiều điểm (ý tưởng và lời văn) không xứng tầm một quyển sử của một quân trường nổi tiếng. Một số khác phê phán thiếu cân nhắc các huynh đệ của mình, vì không đồng suy nghĩ hoặc phương cách làm việc!

    Nếu tình trạng nầy không sớm tìm cách hóa giải thì quý huynh đệ ăn làm sao, nói làm sao với các hậu duệ của mình?

    Đành bó tay sao?

    Do tình cờ, hay do một lẽ huyền vi mà bỗng dưng có một chiến hữu Không Quân hỏi chúng tôi về ý nghĩa của chữ “cùi” thường dùng trong tập thể CSVSQ Đà Lạt, tôi giải thích qua sự hiểu biết của mình. Nhưng cũng từ giây phút đó, tôi nhớ về Thầy Cùi của mình.

    Ở nước Trời, nơi Cõi Vĩnh Hằng hoặc dưới Suối Vàng, Thầy nghĩ gì về sự rạn nứt nầy, Tổng Hội rồi sẽ ra sao và môn phái cùi sẽ bị phân hóa cho đến bao giờ?

    Lúc còn sinh tiền, (khoảng 1980) tại Houston, một số niên trưởng Khóa 16 vẫn thường thăm viếng và tâm tình với Thầy. Qua đó, Thầy biết, trong nội bộ K16, khóa đầu đời được huấn luyện theo phương pháp do Thầy phác họa, cũng có… bất đồng! Thầy bèn viết “Lời Thách Đố Của Người Anh Cũ” (4) với ước mong hàn gắn những rạn nứt đó:

    - “Tôi muốn kể với các anh mẫu chuyện nhỏ trích trong một vở kịch của Corneille (Pháp, thế kỷ 17): Vua Auguste giết cha của Cinna. Cinna căm thù, kết tập bè đảng phản vua. Vua biết chuyện và bắt trọn cả đám. Lính giải Cinna bị trói, bắt quỳ trước mặt vua để nhận tội. Vua từ trên ngai bước xuống, cởi trói cho Cinna, đưa hai tay ra trước, nói: “Soyons amis, Cinna!” (Chúng ta hãy là đôi bạn, Cinna!)

    Nay, đem Lời Thách Đố (dành riêng cho K16) áp dụng vào hiện tình của cả Tổng Hội, sẽ là một điều… cầu âu. Bởi vì, trong tập thể chúng ta, không có ai là vua August, không có ai là Cinna cả, mà chỉ có môn phái cùi, được đào tạo tại lò Lâm Viên, cùng chung một lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc, một màu cờ thiêng liêng, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, và một ước vọng hiện nay.

    Qua ước vọng, người cựu SVSQ nào đó được tập thể tín nhiệm, bầu vào trách vụ nầy trách vụ kia, không phải là vua. Người hội viên (của Hội, của Tổng Hội), cùng kề vai chia sẻ trách nhiệm để mong đạt được mục tiêu chung do tổng hội đề ra, cũng không phải là Cinna kết bè kết đảng để chống phá…

    Kính thưa Thầy Cùi,

    Thầy ra đi, để lại cho miền Nam nói chung và môn phái cùi nói riêng, một di sản có giá trị dài lâu.

    - Nhờ vào tài trí, nhân danh chính phủ Việt Nam non trẻ, Thầy đã “deal” với chính phủ Pháp để “mua” lại Dinh Độc Lập với giá một đồng danh dự! (*). Cũng chính nhờ vào sự khôn khéo mà Thầy loại dần ảnh hưởng của sĩ quan Pháp ra khỏi Quân Đội VNCH lúc ban đầu (1953) (*). Sáng tạo chương trình “Tiếng Nói Dạ Lan” (5), quả là một liều thuốc bổ đã nâng cao tinh thần chiến đấu của người lính chiến Cộng Hòa sau cuộc biến động tháng 11/1963:

    “Tiếng nói của em gái hậu phương gởi các anh trai tiền
    tuyến, các chiến sĩ can trường trên mọi nẻo đường đất nước…”


    - Di sản của Thầy để lại cho môn phái cùi cũng thật vô giá. Chẳng hạn như, Triết Lý Nhân Sinh, trong đó có nguồn gốc chữ Cùi cao ngạo; đề nghị thượng cấp phương pháp đào tạo SVSQ thành cấp chỉ huy tin cậy cho Quân Đội Quốc Gia dựa trên 3 phương diện quân sự, văn hóa, và lãnh đạo chỉ huy.

    Bản văn lễ truy điệu các chiến sĩ trận vong thật u hiển: “…đêm nay, gió lạnh trên đồi thông đang trổi dậy, ánh lửa hồng đang mờ tỏ từng hồi… Hãy nung nấu tâm can chúng tôi với ngọn lửa thiêng truyền thống…” (6) mà mỗi một cựu SVSQ khi nghe lần đầu bài truy điệu nầy tại vũ đình trường Lê Lợi trong lễ mãn khóa, dưới ánh đuốc chập chờn, không ai là không nỗi… gai ốc!

    Kính thưa Thầy Cùi,

    Trước những chỉ dấu đau lòng, chúng em nghĩ đến Thầy, như một chỗ dựa, như một cầu xin. Có linh thiêng, xin chỉ lối đưa đường… (6)

    Dựa vào 5 điều tâm niệm của môn phái, chúng tôi thiển nghĩ, tất cả cựu SVSQ đều chịu trách nhiệm về sự rạn nứt, nếu có, trong tổng hội, dù ít dù nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, lên tiếng, hay im lặng. Từ đó, mỗi thành viên thử dùng bửu bối “tự thắng” để tự điều chỉnh thái độ của mình, hầu sớm vui hòa vào sinh hoạt chung của tập thể.

    Nếu sinh hoạt chung vẫn không phù hợp với suy nghĩ của mình thì môn phái cùi bằng mọi giá đành chấp nhận “không sợ lở”! Lở ở đây hàm ý mọi bất như ý. Mọi bất như ý chỉ là ghẻ lở! Đã cùi thì sá gì ghẻ lở? Cho nên, môn phái cùi rất cần đến sự “chấp nhận không sợ lở” để nhìn thẳng vào mặt nhau, tay nắm tay trong quyết tâm tái xây dựng một tổng hội yêu thương và nhẫn nhịn, để phục vụ ước vọng chung của toàn dân là, dựng lại ngọn cờ vàng ba sọc đỏ trên núi cũ sông xưa…

    Được như vậy, từ trên trời xanh, giữa đám mây trắng, Thầy Cùi Trần Ngọc Huyến an nhiên nhìn xuống dương gian với một nụ cười mãn nguyện và cao ngạo muôn thuở. Mãn nguyện, vì dù trong bất cứ nghịch cảnh nào, đám học trò của Thầy đã thực sự hiểu thấu triết lý cùi và đã tin yêu mang triết lý đó dấn thân, tô thắm cuộc đời, dẫu biết cuộc đời lắm… truân chuyên!?

    Võ Ý, K17
    CA, Thanksgiving 2017

    Ghi chú:

    (1) Triết Lý Nhân Sinh Truyền Lại Cho Quân Trường (Trần Ngọc Huyến)
    (2) Nguồn Gốc Chữ Cùi (TNH)
    (3) Danh từ Cùi được dùng lần đầu… (TNH)
    (4) Lời Thách Đố Của Người Anh Cũ (TNH)
    (5) (4) Chương trình Dạ Lan: https://vi.wikipedia.org/wiki/ Gi%E1%BB%9D_c%E1%BB%A7a_D%E1%BA%A1_Lan
    (6) Lời trích trong bài “Lễ Truy Điệu Truyền Thống”
    (*) Tất cả các ghi chú 1, 2, 3, 4 và (*) đều nằm trong link: http://nguyentin.tripod.com/dt_tranngochuyen.htm
    ** Cuối tháng 2/1957, trường Thủ Đức đổi tên thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Ngày 1/8/1963, trường lấy lại tên cũ là Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ngày 1/7/1964, trường được cải danh một lần nữa thành Trường Bộ Binh Thủ Đức.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X