Thông báo

Collapse
No announcement yet.

40 Năm Tìm Bạn.

Collapse
X

40 Năm Tìm Bạn.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • 40 Năm Tìm Bạn.

    40 Năm Tìm Bạn.

    Ðoàn Kế Tường
    11 Tháng Tám 2014.

    “Gần 40 năm trời trôi qua, tôi đã lần mò khắp nơi, và kể từ khi có internet thì ngày nào cũng lang thang trên khắp các trang mạng, cố tìm cho bằng được tông tích người bạn chí cốt là Ngô Văn Khiêm, nguyên Đại Úy, Pháo đội trưởng, pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù. Gặp gỡ bất cứ ai, nghe nói trước đây ở binh chủng Dù, tôi cũng dọ hỏi. Nhiều lần nhờ Du Tử Lê, liên hệ với anh em Nhảy Dù đang định cư ở Mỹ hỏi giùm, nhưng số anh em mà Du Tử Lê quen biết cũng chỉ lắc đầu. Mọi chuyện tưởng như đã không còn hy vọng, khi tuổi đời ngày càng chồng chất và thời gian còn lại trên trần gian cũng chẳng bao nhiêu. Bỗng dưng, cách nay nửa tháng, tôi tình cờ đọc được một bài viết ngắn của vài anh em NhảyDù đi tìm xác đồng đội, mới hay một năm trước đây, những anh em này, nhờ sự hướng dẫn của dân làng, đã tìm được một nấm mồ tập thể,chôn gần 2 xe GMC những chiến sĩ mũ đỏ đã vị quốc vong thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang. Bao gồm Trung tá Trần Văn Sơn,Lữ đoàn Phó, Lữ đoàn 2 Dù, Thiếu Tá Đặng Đình Tựu, trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 1/Pháo Binh Dù, Đại Úy Ngô Văn Khiêm, Pháo dội trưởng Pháo đội A,Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, và nhiều anh em vô danh khác. Cà Tèm, một chiến sĩ mũ đỏ trong nhóm đi tìm xác cho biết, tất cả chỉ còn là những nắm xương tàn nằm chung với nhau một huyệt, nên đã giữ nguyên trạng nấm mồ tập thể và chỉ xây một cái miếu nhỏ để thờ. Ngay sau đó, tôi được đọc thêm một bài viết của Thiếu Tá Nhảy dù Trương Dưỡng, mới hiểu rõ bạn mình và đồng đội đã chiến đấu hào hùng và hy sinh bi tráng như thế nào. Dĩ nhiên, tôi đã khóc, khóc một cách tự nhiên cho dù “tuổi già hạt lệ như sương!” Sau bao nhiêu năm tìm nhau, giờ thì mới hay bạn mình đã vĩnh viễn nằm xuống và ở lại với mảnh đất Phan Rang trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.

    Năm 1965, giã từ mái trường Thiếu Sinh Quân thân yêu, tôi thực sự bước vào cuộc chiến. Đơn vị đầu tiên trong đời chiến binh của tôi là trại LLĐB Lộc Ninh, nằm cuối phi đạo dã chiến, đủ cho các loại máy bay C.123, C119 và Caribu lên, xuống. Tất cả đều nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng bạt ngàn, xanh um trên nền đất bazan đỏ hơn màu máu. Cũng giống như hầu hết các trại LLĐB khác vào thời đó, toàn nằm dọc theo biên giới, hiếm có trại nào tọa lạc gần khu dân cư nên buồn lắm. Ấy vậy mà chỉ chưa đầy 3 tháng, tôi lại được lệnh lên trực thăng về tăng cường cho trại Chí Linh (Sông Bé) giữa lòng chiến khu Đ, cách Đồng Xoài chỉ hơn 10 cây số đường chim bay. Chưa hết, ở Sông Bé được mấy tháng, tôi lại vác ba lô lên thẳng Phước Long (BCH B.14 LLĐB), trình diện Đại Úy Lưu Yểm (Về sau ông làm tỉnh trưởng Phước Long, rồi Biên Hòa) và được điều phối về trại Bù Đốp. Đến khi, thành lập trại Tống Lê Chân (B.16 LLĐB), tôi lại theo chân mấy đại đội Biệt Kích Quân tăng cường qua đó một thời gian để làm hàng rào phòng thủ, bảo vệ cho công binh Mỹ san ủi mặt bằng, xây cất công sự…Cứ thế, quanh quẩn mãi với mấy cái trại biên phòng, thuộc B.14, B15, B16 cũng mất hết mấy năm. Sau Mậu Thân, tôi lại được quay trở về lại Lộc Ninh

    Lúc bấy giờ, trại LLĐB Lộc Ninh đã dời lên ở giữa sân bay, cách chi khu Lộc Ninh 1 km, khu trại cũ dưới thung lũng được làm khu gia binh do một trung đội BKQ canh gác, bảo vệ. Quân số trong trại bao gồm một toán A LLĐB Hoa Kỳ (12 người), một toán A LLĐB VN (12 người) 2 Trung đội Trinh Sát, 4 Đại Đội BKQ (1 Đại đội toàn người Miên và 3 Đại đội có dàn chỉ huy là người Kinh, còn từ cấp Trung đội trưởng trở xuống, hầu hết là người dân tộc Stieng). Tổng cộng tất cả hơn 400 tay súng, nhưng một nửa quân số luôn hoạt động bên ngoài, có khi cách xa trại vài chục cây số là thường. Mọi sinh hoạt trong trại đều diễn ra dưới những căn hầm bán lộ thiên với 2/3 nằm dưới mặt đất và những giao thông hào kiên cố. Giữa năm 1968 trại bị Công trường 7 và 2 trung đoàn Q.762 Q.763 VC tấn công. Trận đánh khốc liệt này được đài phát thanh Quân Đội và các báo tại Sài Gòn hồi đó gọi là trận Dạ Chiến Lộc Ninh.


    Vài tuần lễ sau khi trận chiến đi qua, có mấy xe Công Binh vào trại ủi đất để làm vị trí cho Pháo Binh. Chúng tôi được thông báo là trại sẽ được tăng cường 2 khẩu 105 ly. Chỉ một ngày sau khi vị trí hoàn chỉnh, thì một trung đội Pháo Binh thuộc Tiểu Đoàn 52/PB, Sư Đoàn 5, kéo súng vào trại. Chỉ huy Trung đội này là Trung Úy Nguyễn Trí Thức với 2 sĩ quan Tiền Sát Viên còn rất trẻ: Chuẩn Úy Ngô Văn Khiêm và Chuẩn Úy Huỳnh Công Ni. Khỏi phải nói, có thêm một trung đội người Kinh trong trại, chúng tôi vui biết chừng nào… Ngay buổi chiều hôm đó, tôi đã sang vị trí của họ để làm quen. Ngô Văn Khiêm quê ở Chợ Gạo, Mỹ Tho. Tánh tình hồn hậu, hay nói chuyện tiếu lâm và rất chân tình nên dễ gần gũi. Còn Huỳnh Công Ni gốc gác Đà Lạt, hiền lành nhưng có cung cách một công tử, con nhà giàu. Kể từ đó, tôi với Khiêm trở thành đôi bạn thân. Tối nào tôi cũng qua vị trí của Khiêm ngồi tán gẫu đủ thứ chuyện trên đời. Có hôm nhậu lai rai, có hôm pha cà-phê ngồi uống cho tới khuya. Không ít lần, đang ngồi với nhau thì bị pháo kích. Tôi lao xuống giao thông hào chạy vội về vị trí. Chưa đến nơi đã nghe tiếng 105 ly phản pháo, át cả tiếng đạn súng cối nổ trên phòng tuyến. Những lần như thế, mới mờ sáng Khiêm đã chạy qua đánh thức tôi dậy, vừa nói, vừa cười: “Tao sang coi mày còn sống hay đã chết.”

    Ở Lộc Ninh, trời đã buồn lại càng buồn hơn nữa vào những ngày mưa. Mưa làm cho mặt đất đỏ lầy lội, dính chặt như keo, nên chỉ còn ngồi trong hầm nhìn ra khoảng không gian chật chội, nặng chĩu màu mây xám xịt. Lúc bấy giờ, Huỳnh Công Ni đã có vợ, nên thường đem hình ra khoe với chúng tôi. Con gái Đà Lạt lúc nào cũng chưng diện thật đẹp. Còn tôi và Khiêm thì chưa đứa nào có được mối tình đầu. Khiêm kể:
    -Hồi còn đi học ở Mỹ Tho, tao cũng phải lòng vài con bạn cùng lớp. Nhưng nhát quá, mới đứng gần đã run nên không dám tỏ tình, đành để mấy em ôm cặp theo mấy thằng bạo miệng, bạo mồm. Xong tú tài, thì xếp bút nghiên vào Thủ Đức, ra trường, đi làm pháo thủ toàn ở những nơi khỉ ho, cò gáy, thế là dang dở đời trai..

    Thứ bảy, chúa nhật, hôm nào không hành quân, tôi và Khiêm cũng rủ nhau ra phố chợ Lộc Ninh vào quán A-Lìn, bên bờ suối, ngồi uống cà-phê. Đó là một phố chợ không đèn, hiu hắt với vài hàng quán lèo tèo và một bến xe bụi bặm, loe hoe vài chiếc xe đò cũ kỹ chạy đường Lộc Ninh-Bình Long. Dãy phố bên hông bến xe là tiệm thuốc tây Mặc Khải (thân phụ của nhà văn nữ Thụy Vũ) Nhưng ở đây vào ngày cuối tuần cũng rộn ràng bước chân của những cô thiếu nữ ở các làng cao su thuộc đồn điền Cexo của Tây, đổ ra mua sắm. Thấy chúng tôi ngắm nghía các em một cách say sưa, mấy anh
    em Hạ Sĩ Quan An Ninh bên chi khu góp ý:
    -Các xếp đừng đụng tới mấy em ở làng 2, làng 7, làng 9, làng 10, toàn là VC không đó. Mấy làng này nằm ngoài vòng kiểm soát của mình nên đậu nhiều hơn xôi!

    Thật ra có cho kẹo thì chúng tôi cũng không dám đụng đến các em. Ít khi nào chúng tôi còn nấn ná ngoài chợ khi trời sắp ngã về chiều. Cứ kéo nhau vào trại là chắc ăn. Điều mà tôi với Khiêm thường nói với nhau là nghĩ đến một ngày phải chia tay, mỗi đứa một phương trời. Đời lính biết đâu mà hẹn trước! Rồi một hôm, Chi Thông Tin Lộc Ninh tổ chức một đêm văn nghệ cây nhà lá vườn. Đây là một sinh hoạt văn hóa hiếm khi diễn ra ở cái vùng đất heo hút này. Trong số quan khách được mời có cả tôi và Khiêm.. Đó là một đêm vui mà tiết mục hấp dẫn nhất là các em nữ sinh trường Trung học Lộc Ninh (Đệ nhất cấp) được các thầy cô dẫn đi làm khán giả cổ động… Trong số đó có con bé Mai thật dịu dàng, xinh xắn và dễ thương. Dường như Khiêm chẳng để ý đến những gì đang diễn ra trên sân khấu, mà chỉ quay sang chiêm ngưỡng cô bé như bị hút hồn. Nó chỉ Mai cho tôi, và nhở tôi tìm cách nói với cô bé, lát nữa có người muốn đưa về, có được không? Tôi cứ tưởng mình làm chuyện cầu âu cho vừa lòng bạn, nhưng không ngờ Khiêm và Mai quen nhau từ đó và tôi nghiễm nhiên trở thành ông mai. Một ông mai mặc áo rằn ri, chân đi giày bốt-đờ-sô. Giữa mùa mưa năm đó, Trung đội của Khiêm kéo súng về đồi Đồng Long (An Lộc), thay thế vào đó là một trung đội khác. Sáng sớm, tôi chạy qua chỗ Khiêm thì thấy 2 khẩu 105 ly đã được móc vào 2 xe GMC. Hai chúng tôi chỉ kịp ôm nhau nói lời từ biệt trước khi tôi dẫn một Đại đội Biệt Kích đi nằm đường, rải từ ngã ba Xóm Bưng đến cầu Cần Lê trên quốc lộ 13, để an ninh lộ trình cho trung đội của Khiêm di chuyển. Gần trưa, tôi đứng ở đầu cầu Cần Lê, thì Khiêm đi qua, nó ngồi trên ca-bin chiếc GMC đầu tiên, cố thò đầu ra hét với tôi:
    -Mày ở lại mạnh giỏi, thế nào cũng gặp lại nhau. Tao luôn nhớ mày.

    Tôi quay mặt sang hướng khác, không nhìn đoàn xe đi qua. Xong nhiệm vụ, tôi rút quân về. Buổi chiều ngồi một mình uống cạn mấy lon bia mà nhớ bạn đến nao lòng. Ngày đó, làm gì có điện thoại di động như bây giờ. Ngay cả điện thoại hữu tuyến cũng chỉ nối đường dây nội bộ trong phạm vi trại mà thôi. Liên lạc xa chỉ trông cậy vào máy siêu tần số với hệ thống quay đầu bò (dinamo) và một hiệu thính viên… Còn liên lạc ngắn thì có máy ANPR C25. Chính vì thế mà có nhớ nhau đến mấy, tôi và Khiêm cũng không thể liên lạc với nhau. Mấy tuần sau, tôi nhận được thư Khiêm, nó nói, về nằm với Pháo Đội trên đồi Đồng Long, sát nách tỉnh lỵ Bình Long nên cũng đỡ khổ. Gần cuối thư nó viết: “Tao báo cho mày hai tin vui. Thứ nhất, tao và Huỳnh Công Ni vừa làm đơn xin thuyên chuyển qua Pháo Binh Nhảy Dù, đơn đã được chuyển đi. Thứ hai, Mai cũng vừa về Bình Long trọ học (đệ nhị cấp). Tao định sẽ cưới Mai làm vợ, nhưng không biết nhà người ta có chịu gả con cho đám lính tráng như tụi mình hay không?” Tôi đã đọc thư Khiêm nhiều lần đến thuộc lòng.Tháng sau, theo chân một cuộc hành quân mở đường để đoàn công-voa của đồn điền cao su CEXO chở gạo lên cho hơn 10 ngàn công nhân cạo mủ. Tôi về Bình Long gặp Khiêm. Buổi trưa, Khiêm, Mai và tôi rủ nhau vào một quán cơm ở chợ cũ, đầu con dốc Đại Lộ Hoàng Hôn. Nhìn hai đứa nó khắng khít bên nhau trông rất rất hạnh phúc và đẹp đôi khiến tôi cũng vui lây niềm vui của bạn. Ăn cơm xong, chẳng biết đi đâu vì tỉnh lỵ quá nhỏ, quá nghèo. Thế là vào một quán cà-phê ngồi tâm sự. Mấy tháng sau, thì Khiêm thư cho tôi báo đã cùng với Ni qua Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.

    Năm 1970, tôi về Chiến Đoàn 3 Xung Kích Lưu Động (B.23 –Mike-Force ở Long Hải. Chiến đoàn có 3 Tiểu đoàn Biệt Kích Quân Tiếp Ứng, quanh năm đi hành quân xa. Tôi may mắn gặp Thiếu Tá Ngô Đình Lưu, nhận ra người miền Trung với nhau nên xếp cho về ban 5, suốt ngày chỉ quanh quẩn ở hậu cứ. Thời gian này, Ngô Văn Khiêm được Tiểu Đoàn 1/PB Dù cho đi học một khóa Chiến Tranh Chính Trị kéo dài hơn tháng tại trại Lê Lợi, trong Biệt Khu Thủ Đô, đường Lê Văn Duyệt. Còn Mai thì theo gia đình về Sài Gòn ở Thanh Đa và mới bước vào Đại học Văn Khoa. Thế là cuối tuần nào tôi cũng từ Long Hải vù về Sài Gòn, cặp kè với Khiêm ra Thanh Đa đón Mai. Có khi vào rạp Rex coi xi-nê, có khi ra Mai Hương ngồi ăn kem, chứ chẳng biết làm gì hơn ở cái đất Sài Gòn hoa lệ mà chúng tôi thì tiền lính-tính liền!

    Giữa năm 1970, tôi từ giã cuộc đời Biệt Kích, quay về quê nhà ở Quảng Trị. Cứ tưởng còn lâu mới gặp lại Khiêm. Cuối năm đó tôi nhận được tin Khiêm lên Bình Long làm đám cưới với Mai, nhưng tôi không về được. Nào ngờ, đầu năm 1971, Khiêm tham dự hành quân Lam Sơn 719, đánh sang Hạ Lào. Khi đơn vị của Khiêm triệt thoái về Đông Hà, tôi đã đi tìm và gặp được cả Khiêm lẫn Ni và thêm một người bạn mới có cái biệt danh là “Dưỡng Cà Lăm”. Lúc bấy giờ cả ba đã đeo lon Trung Úy. Sau chiến dịch này, Huỳnh Công Ni xin về Pháo Binh Diện Địa, thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng. Tôi đưa Khiêm về nhà. Mẹ tôi hỏi nó muốn ăn gì? Nó nói thèm canh chua miền Nam lắm. Mẹ tôi, một bà Mẹ quê miền Trung chơn chất, ít khi bước ra khỏi lũy tre làng. Nay vì chiến tranh phải tản cư lên tỉnh, nên không biết canh chua nam bộ là thứ gì. Thế là hai đứa ra chợ mua cá lóc, me chua và đủ món gia vị, đem về tự nấu. Chẳng hiểu có ngon lành gì không mà Khiêm cứ khen lấy, khen để. Chiều hôm đó, tôi và Khiêm về Huế. Hai thằng chui xuống một chiếc đò dưới chân cầu Gia Hội, kêu chủ đò chèo ra neo giữa lòng sông Hương nằm tâm sự cứ như là nhân tình. Đó là lần đầu tiên tôi nghe Khiêm triết lý về cuộc sống. Nó nói: “Chiến tranh ngày càng khốc liệt. Cứ đánh hết trận này đến trận khác. Tao nghĩ thế nào cũng có ngày ngã gục, không thì cũng tàn phế, bởi đi đêm hoài phải có lúc gặp ma. Tao học được ở đời lính hai điều. Thứ nhất là ý nghĩa 4 chữ “ Cư-An- Tư Nguy” quá tuyệt vời trên phù hiệu của trường Thủ Đức. Nhưng từ khi học được câu này thì chưa bao giờ “ Cư An” mà chỉ toàn là “Tư Nguy”. Thứ hai là khẩu hiệu “Nhảy Dù – Cố Gắng hết sức khiêm nhường. Quả thật, không ngày nào là không cố gắng, cố gắng không ngưng nghỉ mà chẳng biết cái gì đang chờ mình ở phía trước! Thôi thì cứ tiếp tục cố gắng, cố gắng đến cùng vậy”. Rồi Khiêm nhắc đến Mai, đến cái tương lai thật đơn sơ mà hai đứa mơ ước. Tôi nghe mà thương nó lắm, bởi cảm giác như bạn mình chẳng khác nào một con ngựa hồng sắp mỏi vó! Sáng sớm hôm sau, hai đứa lại chia tay, lại hẹn ngày gặp lại. Khiêm ra Đông Hà với đơn vị đang tái phối trí, còn tôi về Quảng Trị.

    Mùa hè đỏ lửa 1972, tôi làm phóng viên chiến trường, hết theo chân các đơn vị TQLC, đến Nhảy Dù tiến về Cổ Thành. Một lần biết được Pháo đội của Khiêm đang chốt vị trí tại một bãi cát bên phải quốc lộ 1, gần ngã 3 Hải Lăng, Lúc bấy giờ Khiêm đã lên Đại Úy, giữ chức vụ Pháo đội trưởng Pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù. Chúng tôi ngồi ăn trưa trong tiếng nổ ì ầm liên tục, rung chuyển cả mặt đất. Tiếng đạn 130 ly từ trên núi rót xuống, tiếng 105 ly của Khiêm bắn đi yểm trợ cho các cánh quân đang tiến về Cổ Thành. Ai mà yếu bóng vía và không giỏi chịu đựng, chỉ cần ở đây vài phút là đã run như cầy sấy. Vậy mà Khiêm và các chiến binh can trường vẫn sống một cách hào hùng hết ngày này, sang tháng khác trong hoàn cảnh như thế.

    Khiêm hỏi tôi bà già và các em đang ở đâu? Tôi cho Khiêm biết tất cả đều bình an và đang sống ở khu tản cư Non Nước, Đà Nẵng. Quả thật, trong chiến tranh, người dân Quảng Trị cũng gian truân chẳng kém gì đời lính. Họ liên tục có những cuộc bỏ phiếu bằng chân để lựa chọn. Bất chấp bom đạn trên đầu, cứ tìm nơi nào có bóng dáng người lính VNCH mà đến…

    Sau bữa cơm, tôi thấy nét mặt Khiêm đượm buồn, cho dù sạm nắng và dày dạn phong sương rất nhiều. Khiêm nói:
    – Báo cho mày biết, tao sắp làm cha. Ngày trước, chẳng ngán gì đường tên, mũi đạn, bất quá “áo bào thay chiếu anh về đất” là cùng. Còn bây giờ, khi biết mình sắp có con thì hơi lạnh cẳng! Thôi thì cứ phó thác cho số phận.

    Ngưng một lát, Khiêm đứng dậy móc trong túi quần trận ra đưa cho tôi một xấp tiền. Nó nói tiếp:
    – Đường từ đây về Huế rất an toàn, tất cả đều nằm trong sự kiểm soát của mình, ngoại trừ pháo kích thì không biết đâu mà lần. Lát nữa tao cho tài xế lái xe jeep đưa mày về Huế. Đó là lệnh, mày không được cãi.. Mày không nên ở đây đêm nay. Tao gởi mày 5. ngàn. Cho mày 2 ngàn, coi như tao rửa lon Đại Úy trễ với mày. Gởi bà già 3 ngàn cho tao yên lòng.. Tao ở giữa chiến trận thì để tiền trong túi mà làm gì. Mày cứ tiêu giùm tao…”

    Tôi xiết chặt tay Khiêm và nắm lấy thật lâu. Tự nhiên tôi trào nước mắt, chỉ thốt được một câu:
    -Tao thương mày quá Khiêm ơi!
    Khiêm nhìn tôi cố cười gượng:
    – Đ.m tinh thần Biệt Kích của mày đâu rồi? Ngày xưa tao ngưỡng mộ cái ngang tàng của mày lắm mà.. Sao bây giờ lại yếu đuối thế! Đó là lần cuối cùng tôi gặp Khiêm! Cho dù thỉnh thoảng tôi vẫn ghé lại hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, nằm sát Tiệu Đoàn 9 trong trại Hoàng Hoa Thám để hỏi tin tức và biết chắc nó vẫn chân cứng, đá mềm trên khắp nẻo chiến trường.

    Sau ngày 30/4/1975, tôi hy vọng Khiêm sẽ trở về, nhưng chờ hoài chẳng thấy. Một thời gian sau, tôi khăn gói đi vào trại tù, nơi được gọi là trại cải tạo! Ròng rã 10 năm lao lý, mỗi lần có số anh em từ trại khác chuyển đến, tôi đều dọ hỏi, nhưng cũng chẳng có ai biết Khiêm ở đâu. Năm 1985, tôi ra trại. Lại tiếp tục tìm kiếm. Bấy giờ tôi lại hy vọng bạn mình đã nhanh chân di tản được sang Mỹ, vì nghe nói Nhảy Dù và TQLC đi nhiều lắm. Cho đến khi có internet, tối nào trước khi tắt máy đi ngủ, tôi cũng gõ vào Google “Đại Úy Ngô Văn Khiêm pháo đội trưởng pháo đội A tiểu đoàn 1 pháo binh sư đoàn nhảy dù” và lần nào mạng cũng cho kết quả “Không hiển thị”.

    Thế rồi, một buổi tối đầu tháng 7/2014, tôi đã hồi hộp đến nghẹn thở khi thấy tên Khiêm xuất hiện trên mạng, trong bài viết mang tựa đề “Cải táng những chiến sĩ mũ đỏ đã vị quốc vong thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang-tỉnh Ninh Thuận”. Người viết muốn thông báo cho bà con, bạn bè, thân hữu của Trung Tá Sơn, Thiếu tá Tựu và Đại Úy Khiêm là đã tìm được nấm mồ tập thể, chôn hài cốt của 3 anh em có cấp bậc cao nhất và một số chiến hữu khác dưới chân Núi Ngỗng, xã Ninh Sơn. Tháng 3/2013, một ngôi miếu nhỏ được xây dựng tại đó, sau 38 năm những cánh hoa dù về an nghĩ giữa lòng đất mẹ mà không ai nhang khói! Ý chừng để tránh phiền toái, tác giả bài viết ký tên là Cà Tèm với số điện thoại khuyến mãi: 01886423011. Mừng quá, tôi bấm ngay số điện thoại của Cà Tèm nhưng chỉ nghe tổng đài trả lời “số thuê bao đã tạm khóa, xin quý khách gọi lại sau”.

    Thất vọng, nhưng tôi vẫn kiên trì gọi mỗi ngày 3 lần: sáng, trưa,chiều… Rồi gần 10 ngày sau, một buổi sáng tôi nghe chuông đổ. Đầu máy bên kia một giọng đàn ông lớn tuổi vang lên. Tôi giới thiệu ngay mình là bạn chí cốt của Ngô Văn Khiêm, rất xúc động khi đọc được tin này và rất cảm kích trước việc đi tìm xác đồng đội của anh em. Người đàn ông nói, anh ta cũng là chiến sĩ mũ đỏ và quê quán tại Phan Rang. Vì quá thương chiến hữu mà mấy chục năm qua cứ lùng sục, tìm kiếm để lo cho đồng đội một nấm mồ mới thấy yên lòng. Sau đó, Cà Tèm cho tôi số điện thoại thường dùng và tên thật của anh. Tôi hỏi Cà Tèm, hiện nay Khiêm có còn thân nhân nào không? Cà Tèm nói có, chị Mai vợ của anh đang ở Úc. Dù đã có gia đình mới nhưng hôm xây miếu cho anh Khiêm, chị cũng gởi tiền về. Tôi lại hỏi Cà Tèm có cách nào liên lạc được với Mai không? Cà Tèm nói sẽ gọi đt cho người em chồng hiện nay của Mai đang định cư ở Sài Gòn. Nhờ anh ta chuyển ngay cho Mai tên và số đt của tôi. Nếu cần thì Mai sẽ gọi. Cà Tèm cúp máy. Tôi tưởng nếu có thì cũng phải chờ một vài ngày Mai mới gọi cho tôi, bởi đã mất liên lạc với nhau hơn 40 năm rồi còn gì. Ấy thế mà chỉ một tiếng đồng hồ sau, chuông điện thoại của tôi reo, đầu máy bên kia giọng một người phụ nữ đứng tuổi nói trong xúc động:
    – Có phải anh Tường không? Em là Mai vợ anh Khiêm ở Úc gọi về cho anh đây.

    Quá xúc động, tôi hét lên trong máy:
    – Mai ơi, Mai khỏe không?
    – Em khỏe. Mấy chục năm qua, em cũng nhiều lần dò hỏi tin tức về anh nhưng không có ai trả lời chính xác.Anh Tường ơi, tội nghiệp Khiêm lắm. Những ngày tháng cuối cùng không hiểu linh tính thế nào mà Khiêm thường nói với em:
    “Nữa, anh chết đi, anh sẽ kiếm cho em một người chồng tử tế. Còn thằng nào không đường hoàng anh sẽ không gả em đâu.” Rồi Khiêm lại mang hết đồ đạc về nhà và dặn dò em, chiến tranh chừng cũng sắp kết thúc, anh sẽ về sống mãi mãi bên em.”
    Ngưng một lát, dường như để nén cảm xúc, Mai nói tiếp:
    – Suốt đêm 16/4/1975, em không thể chợp mắt một phút nào cả. Lòng cứ nóng như lửa đốt. Mấy ngày sau, có một người y tá thuộc đơn vị của Khiêm, tên là Phan Bá Em đến nhà cho em biết. Sáng hôm đó, bên mình hầu như đạn dược, lương thực đã cạn kiệt và VC đã tràn vào phi trường. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn phó, Lữ đoàn 2 Dù bị trúng một băng đạn vào người, ngã gục tại chỗ. Kế đó, Thiếu tá Đặng Đình Tựu cũng bị trúng đạn pháo kích và tử trận. Còn Khiêm thì bị thương nặng ở bụng và ở chân. Vừa lúc đó, có một chiếc máy bay chở đồ tiếp tế ra và bốc thương binh về. Khiêm được đưa
    lên máy bay và y tá Em băng bó tạm thời.

    Lúc bấy giờ, y tá Em cũng bị thương nhẹ ở tay. Nhưng rồi, phi trường bị pháo kích nặng, máy bay không cất cánh lên được. Ông Em nói với Khiêm : “Đại úy bị thương nặng, không đi được, phải nằm lại thôi. Còn em, trong tình hình này phải rời đây ngay.” Khiêm nắm tay người y tá và dặn, “cậu cố gặp vợ con tôi, kể cho họ biết. Nói là tôi yêu thương vợ con lắm. Thôi cậu đi. Chúc may mắn” Thế là Khiêm không bao giờ về nữa! Những ngày cuối tháng 4/75, chiến trường Long Khánh bùng nổ dữ dội, em rất muốn ra Phan Rang tìm anh Khiêm, nhưng đường xá chưa lưu thông.. Đến ngày 4/5, em ra Phan Rang, đến phi trường thì gặp đám bộ đội còn trẻ canh gác ở đó cho biết. Đơn vị dọn dẹp phi trường và thu gom xác chết vài tuần trước đã di chuyển di nơi khác. Còn họ mới đến vài ngày nay nên không biết gì cả. Hai tháng sau, em trở ra Phan Rang 10 ngày cứ tìm kiếm, hỏi han khắp nơi, nhưng đành chịu thua. Sau đó, vì cuộc sống, em khai chồng chết và nhờ có học mấy năm văn khoa, em được họ cho học một lớp sư phạm ngắn hạn, rồi phân phối về dạy trường Trung học Giồng Ông Tố. Đến năm 1982, em gặp anh Hứa Duối, nguyên Đại Úy, Đại đội trưởng 204, Quân cảnh Dù. Anh Duối trong thời gian đi tù cải tạo thì gia đình tan nát. Tụi em đã dắt dìu nhau vượt biên sang Úc và đã sống với nhau 32 năm, có được 2 đứa con, đứa nào cũng ngoan và học hành đến nơi, đến chốn. Riêng cháu Sơn, con anh Khiêm, năm nay đã 42 tuổi rồi và rất thành đạt ở Úc. Quả thật, anh Khiêm đã phù hộ cho em gặp được người chồng tốt, vừa là đồng đội cũ của anh. Anh Duối là một người đàn ông hết mực tử tế với gia đình…

    Nghe Mai kể, lòng tôi buồn vui lẫn lộn. Cuối cùng, tôi cũng biết rõ tin tức của Khiêm. Thì ra, gần 40 năm qua, bạn tôi đã nằm lại ở một nơi đèo heo hút gió vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Một cuộc chiến với hồi kết thúc thật bẽ bàng…! Bây giờ là tháng bảy âm lịch. Một buổi tối ngồi trong quán cà-phê với mấy người bạn trẻ. Tôi đem câu chuyện tình bạn của tôi và Khiêm trong thời chinh chiến với đoạn cuối còn nguyên vẹn cảm xúc kể cho họ nghe và quyết định vài hôm nữa sẽ ra Núi Ngỗng, Phan Rang để đốt cho Khiêm và anh em nằm lại ở đó một nén nhang. Nào ngờ những người bạn trí thức trẻ đó không những hết sức ủng hộ mà còn muốn theo chân tôi trong chuyến đi này một cách nhiệt tình. Thế là cùng nhau bàn bạc, chọn ngày 9/8 (13/7âm lịch) khởi hành sằng xe lửa. Theo đúng kế hoạch, 4 chú cháu chúng tôi, bao gồm 2 kỹ sư điện là Hồ Cao Anh Tuấn và Nguyễn Bá Tuệ, cùng với bác sĩ Đoàn Nguyễn Hoài Lê rời Ga Sài Gòn lúc 9 giờ tối. 6 giờ sáng hôm sau ra tới Phan Rang, nhờ Cà Tèm dẫn đường lên Núi Ngỗng. Cúng xong, chúng tôi xuống bãi biển Ninh Chữ nằm ghế bố nghỉ ngơi, chờ đến tối ra ga Tháp Chàm quay về lại Sài Gòn.
    Trở lại chuyện đi tìm hai cốt bạn, từ Phan Rang, chúng tôi theo quốc lộ 27 hướng lên Đà Lạt 20 cây số. Rẽ phải, vào một con đường đất ngoằn nghèo, chạy qua những sườn đồi trơ trụi, tha hồ gió cát mịt mù. Mới 9 giờ sáng mà nắng đã như thiêu, như đốt, giữa vùng đất cằn không một bóng cây xanh. Đi thêm 3 cây số nữa là tới một ngôi miếu nhỏ, sơn màu xanh da trời, nằm chơ vơ trên một miếng đất trống, bên phải một con đường mòn. Đó là nơi an nghỉ của Khiêm và một số đồng đội của nó. Tội nghiệp bạn tôi, khi còn sống thì lặn lội ở những nơi rừng sâu, núi thẳm gần như suốt thời trai trẻ. Khi nằm xuống, cũng ở một nơi đèo heo hút gió mà ngủ giấc ngàn thu! Nơi đây, ngày không một bóng người qua lại, đêm thiếu vắng cả ánh đèn dầu leo lét. Bạn tôi nằm dưới chân một hòn núi cô đơn, mang dáng dấp một con ngỗng trời, đầu hướng ra biển đông thì thầm sóng vỗ. Chúng tôi dọn lễ vật đã chuẩn bị sẵn. Thắp nhang, rót rượu, đốt thuốc mời nhau, chẳng khác gì những bữa tiệc, tương phùng , lính tráng ngày xưa! Cho dù giờ đây, Khiêm chỉ còn là một nắm xương tàn, dưới nền ngôi miếu nhỏ. Nhưng tôi tin linh hồn của Khiêm và những anh em nằm lại nơi đây, đã được những con ngỗng thiêng ở chân núi này chở theo những cánh hoa dù bay thẳng về trời từ lâu.

    Đoàn Kế Tường.

  • #2
    Đoàn Thạch Hãn / Đoàn Kế Tường: Hai tên gọi, một cuộc đời bi thảm.
    Trong số những bạn trẻ của tôi, ở lãnh vực văn chương hay báo chí, không ít người có tuổi thơ cháy nám! Nhưng khi bước vào tuổi trưởng thành, giai đoạn trung niên, hoặc gần cuối đời, cũng có lúc họ nhận được nụ cười ân hận của định mệnh. Nhưng, Đoàn Thạch Hãn, hay Đoàn Kế Tường (tên thật Đoàn Văn Tùng), thì không! Tuyệt nhiên không! Tới những năm tháng năm tháng cuối đời, Đoàn vẫn bị định mệnh truy sát, với những bản án nghiệt oan, không nguyên cớ!!!

    Trước tháng 4-1975, tôi không hề có thời gian làm việc chung với Đoàn Kế Tường. Nhưng tôi thân thiết với Tường, ngay sau lần tôi rủ Tường đi Huế, thăm T. Đó là một buổi trưa tình cờ gặp nhau, tôi nói ngày mai, tôi đi Huế. Tường có muốn đi? Tường trả lời ngắn gọn “đi” – Và không hề hỏi lại: Đi bằng phương tiện nào? Ăn ngủ đâu? Bao lâu thì về lại? Thời gian đó, hình như Tường đang là phóng viên cho nhật báo Sóng Thần; đồng thời phụ trách báo chí cho TĐ 8 / TQLC(?) Trưa đó, tôi điện thoại cho Phan Lạc Giang Đông, ở Bộ TLKQ/ Saigon, nhờ xin 2 chỗ trên một chuyến C-130 đi Huế. Sau đấy, chúng tôi cũng có dịp đi với nhau, đôi lần rong chơi bè bạn ở Đà Nẵng, Pleiku… Tính cách “giang hồ, gió bụi” bất kể ngày mai của Tường là điều khiến tôi thích nhất, nơi người bạn trẻ này.

    Dù có nhiều ngày lang thang với nhau, từ thành phố này tới thành phố khác, nhưng tôi tuyệt đối tôn trọng đời sống riêng của Tường và, Tường cũng hiếm khi nói về chuyện cá nhân, tình cảm của mình.

    Biến cố tháng 4-1975 xẩy ra, toàn thể hai mươi mấy triệu người dân miền Nam, như nắm cát vụn bị bàn tay định mệnh hắt tung trăm hướng, điêu linh.

    Ở quê người, đầu thập niên 1980, tôi được tin Đoàn Kế Tường bị 10 năm tù vì dính vào một vụ án chính trị… Rồi, tin Tường được thả, trở thành cộng tác viên đắc lực của tuần báo CA/TPHCM, với bút hiệu mới: Đoàn Thạch Hãn. Vài năm sau, tôi lại được tin Đoàn Thạch Hãn viết một cuốn sách gì đó, giễu cợt những người ôm mộng…“phục quốc”…

    Chính những tin tức dồn dập này, khiến đầu năm 2000, trong lần về Saigon lo việc gia đình, khi từ quán cơm Đồng Nhân, bước ra, bất ngờ gặp Đoàn Kế Tường, tức Đoàn Thạch Hãn, tôi đã không che dấu thái độ không thiện cảm của mình, dù trên 20 năm mới gặp lại nhau. Thời gian đó, Đoàn còn đi một chiếc mô-tô phân khối lớn, hỏi tôi, có muốn đi nghe nhạc, nhảy đầm thì Hãn mời. Tôi lắc đầu, cám ơn và kéo tay T. đi ngay, như thể có chuyện gấp…

    Là nhà báo, đồng thời cũng là người làm thơ, nên Hãn rất nhậy cảm. Hãn tâm sự với một vài người bạn cũ của tôi rằng, Hãn biết tôi không muốn nhìn Hãn. Hãn nói: “Tôi cũng xứng đáng để ông ta khinh bỉ tôi, vì những việc tôi làm sau khi ra tù…Nếu không bị xô vào đường cùng, nếu không quá đói, tôi biết, tôi không đến nỗi như thế…Dù sao thì tay tôi cũng đã lỡ nhúng chàm…” Người bạn này kể thêm tôi nghe, hoàn cảnh sống của Hãn, sau ngày ra tù.

    Xu hướng chung của con người là hấp tấp lên án kẻ bị vùi dập đáy địa ngục để thấy mình… thanh sạch, cao cả hơn người. Sau khi trải qua qúa nhiều phen bị kết án, ngộ nhận, tôi luôn tự nhắc nhở, đừng vội kết luận về kẻ bất hạnh, khi mình không ở hoàn cảnh của họ… Tôi tự hỏi, nếu ở hoàn cảnh của Hãn, liệu tôi có giữ được nhân cách mình? Hay tôi sẽ nhơ nhuốc hơn? Từ đó, tôi tự thấy mình không phải với bạn!!!

    Vì thế, nhiều năm sau, khi kiểm chứng được những gì người bạn kia cho, tôi chủ động liên lạc với Hãn. Có dễ vì sự kiện này và vì, không thể biết bao giờ mới gặp lại nhau, nên thản hoặc, trong những gặp gỡ ít ỏi, Hãn kể tôi nghe chuyện đời Hãn: Từ những ngày niên thiếu, sống trong mái trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu; chuyện ngày tháng lội sình, đóng trại trong Lực lượng Biệt Kích. Rồi đào ngũ. Rồi trở thành phóng viên báo chí cho một tiểu đoàn TQLC/VNCH… Tới chuyện tình cảm, gia đình đổ vỡ…Nhất là những năm tháng bị tù ở khám Chí Hòa. Và, những ngày không cơm ăn, không chỗ ngủ, bị người chị duy nhất ở Saigon, xua đuổi… sau khi được trả tự do…

    Tất cả những lần tâm sự hiếm hoi đó, Hãn kể với giọng đều đều, xa lạ, như một người vô can với câu chuyện (dù Hãn là người rất dễ khóc). Nhưng cũng vì thế mà có người đã phải quay đi, che dấu nước mắt của họ, khi nghe.

    Thời gian đó, Bùi Cung và Nguyễn Khắc Nhượng biết tôi thích một nhà hàng nổi khu giải trí Bình Quới, nên thường mời tôi đi. Lần nào Bùi Cung cũng cho phép tôi được gọi thêm bất cứ ai. Một đêm, xúc động đọng lại, sau khi nghe chuyện Hãn, trở về Mỹ, tôi viết tùy bút, “Tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây”, phân đoạn 4:

    “Nhà hàng trên mặt hồ, như kết quả của những kiễng chân, nhón gót quá trớn của chính nó. Nơi chiếc bàn hình chữ nhật, có tất cả sáu nhân vật. Tôi dùng hai chữ ‘nhân vật’ cho có vẻ trịnh trọng. Sự thực, đó là bốn người của buổi tối trước ở biển. Hai người mới, một là em gái của người phụ nữ được sinh ra, dường để sống cho kẻ khác. Cô có vẻ mau mắn, như nụ cười sởi lởi luôn có trên môi. Người thứ hai là một người đàn ông đã bước qua tuổi trung niên. Ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng nghi ngại, với khuôn mặt hồng hào của một thứ “hồng hài nhi”.

    “Gió từng cơn luông tuồng khua khoắng nhà hàng bốn phía không vách ngăn, mang theo trong nó nhiều nhắn nhủ không thành tiếng. Đêm trải từng lớp sương mỏng, như giấy quyến lên mặt hồ. Khá xa, nơi bờ bên kia, những tòa nhà cao tầng sáng đèn, không in bóng xuống mặt nước.

    “Người ta cũng không nghe được tiếng rì rầm của xe cộ chạy trên con lộ bên tay trái nhà hàng. Nhờ thế, khi người đàn ông có khuôn mặt hồng hai nhi kể chuyện bằng giọng Quảng Trị, đôi lúc như bị nghẹt, ríu vì xúc động, mọi người vẫn nghe được.

    “Ông kể, sau mười năm, ba tháng tù trở về, ông tá túc nơi nhà bà chị. Qua giai đoạn đạp xích lô, ông biết mình thất bại vì không đủ sức. Đối đế, ông viết một bức thư, cho người vợ vượt biên đã lâu, mang theo mấy đứa con chung.

    “Lá thư được viết một cách rất ý tứ, phòng xa lọt vào tay người đàn ông mà, vợ ông đang chung sống. Ông cẩn trọng gọi vợ ông bằng ‘chị’. Ông kể cho chịbiết, ông mới ra tù. Ông nhắc chút ít tình nghĩa những ngày chung sống, cũ. Mọi sự kiện được đề cập trong lá thư, chỉ nhằm mục đích dẫn đến việc ông xin chị giúp ông năm trăm bạc, để ông có phương tiện làm lại cuộc đời. Trong thư, có đoạn:

    “Năm trăm đồng tôi biết với chị chẳng là bao. Nhưng với tôi, trong hoàn cảnh của một người mới ra tù và trong hiện trạng của đất nước mình hiện nay, thì đó lại là một số tiền rất lớn. Mong chị hiểu cho rằng, vạn bất đắc dĩ, tôi mới phải viết thư này. Xin chị an tâm, tự hậu, chị sẽ không bao giờ nhận được từ nơi tôi, một lá thư nào khác…”

    “Người đàn ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng ngại, đọc đoạn thư viết cho người vợ cũ, bằng giọng lên bổng, xuống trầm; lưu loát như thể ông đã đọc nó cả nghìn lần trong hơn hai chục năm qua. (Tôi muốn nói, nếu ông không đọc cho ai đó nghe thì, chí ít ông cũng đọc lại cho chính ông, những lúc một mình?)

    “Đoạn thư của người đàn ông có khuôn mặt hồng hài nhi làm đốm thuốc nơi tay người thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân, bất động. Những người còn lại cúi xuống bàn tay vô duyên, lạc lõng trên mặt bàn của họ. Chỉ riêng người con gái mau mắn, với nụ cười xởi lởi luôn nở trên môi là nhấp nhổm, bứt rứt.

    “Không thể nín, đợi lâu hơn, cô hỏi:

    “Rồi sao anh? Chị ấy gửi ngay tiền cho anh chứ?”

    “Người đàn ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng ngại, lắc đầu. Ông châm cho mình điếu thuốc khác. Không nhìn ai, ông chậm rãi:

    “Ngày ấy, nếu có được năm trăm của bà ấy, cuộc đời tôi đã khác. Chắc chắn tôi đã không nhận làm công việc mà, đến hôm nay, tôi biết, anh em, bạn bè cũ vẫn còn khinh tôi. Họ nhìn tôi như một kẻ ‘sớm đầu tối đánh!’ Mà cũng đúng thôi! Họ có cái lý của họ. Chỉ tôi biết, tôi cùng đường. Tôi quá đói! Nghề mạt hạng là đạp xích lô thì tôi không có sức. Sau chừng đó năm tù, được thả ra tôi đã mang theo trong người hàng chục thứ bệnh…Tôi cũng có nghĩ tới chuyện ăn chực một số bạn bè chứ! Nhưng nhà nào, dù có tốt mấy, họ cũng chỉ có thể cưu mang tôi dăm ba bữa! Thời đó, mọi người còn đói lắm. Họ cũng bữa đói, bữa no. Chưa kể còn vợ, con họ…

    “ ‘Nói thế, không có nghĩa tôi quên ơn người giúp tôi. Anh từng bị anh em tôi ngày xưa, coi là kẻ thù. Giữa lúc tôi sắp chết đói, thì anh ta cho tôi chén cơm…Nhờ thế, tôi còn sống đến ngày hôm nay. Dù sao, tôi cũng không bao giờ quên cái ơn ấy…’

    “Người đàn ông ngừng lại để thở. Kéo thêm một hơi thuốc, ông tiếp:

    “ ‘Khi anh ta không còn, tôi cũng nghỉ việc’. Ông thở ra, rồi thêm, ‘Nhưng cách gì thì tay tôi cũng đã nhúng chàm!’ Ông kết thúc câu chuyện.

    “Tới đây, người con gái mau mắn, với nụ cười xởi lởi luôn nở trên môikhông biết nói gì. Tới phiên cô cúi xuống. Cô chẻ những ngón tay mình ra để sau đó, lại đan vào nhau, một cách ngượng nghịu.

    “Gió vẫn từng cơn luông tuồng khua khoắng nhà hàng bốn phía không vách ngăn. Về khuya, dường nó mang theo nhiều hơn những nhắn nhủ không thành tiếng. Đêm cũng trải dầy thêm, những lớp sương mỏng, như giấy quyến lên mặt hồ.

    “Trước khi chia tay, người phụ nữ được sinh ra, để sống cho kẻ khác hí hoáy viết ít giòng trên tấm khăn giấy. Cô chuyển nó cho ông già ngu ngơ:

    “Bất hạnh là thuộc từ của đời sống. Cuộc sống sẽ khác đi biết bao, nếu ta có thể đem lòng biết ơn cả những bất hạnh mà nó đã đem đến cho ta. Dù cho ‘đời tẻ nhạt, liếm môi mình cũng nhạt / tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.’

    “Đọc xong, người đàn ông phục phịch…gật đầu. Mỉm cười.

    “Nhưng, liệu ông có hiểu?” - - Là câu hỏi của tôi?!?” (1)



    Tôi hiểu, người đàn ông trong đoạn kể “Nói thế, không có nghĩa tôi quên ơn người giúp tôi. Anh từng bị anh em tôi ngày xưa, coi là kẻ thù. Giữa lúc tôi sắp chết đói, thì anh ta cho tôi chén cơm…Nhờ thế, tôi còn sống đến ngày hôm nay. Dù sao, tôi cũng không bao giờ quên cái ơn ấy…” của Đoàn Thạch Hãn…dành cho cố nhà báo Huỳnh Bá Thành.

    Gần đây, trong một bài viết về Đoàn Kế Tường của nhà thơ Phạm Chu Sa, một trong vài bạn tri kỷ cuối đời của Đoàn Thạch Hãn, nói rõ hơn về nhân vật Huỳnh Bá Thành, cùng những “lẽ ra” Hãn đã phải chết lâu rồi, như sau:

    “…Sau ngày 30-4-1975, tôi đi bán sách cũ, rồi bán thuốc tây chợ trời, loay hoay lo chuyện áo cơm nuôi vợ con nên chỉ nghe loáng thoáng tin Đoàn Kế Tường và vài người quen biết khác dính vào một vụ án chính trị, bị bắt đi tù cải tạo. Sau này qua lời kể của Duyên Anh sau khi ông ra tù năm 1981, tôi được biết trong tù, có thời gian Tường nằm chung phòng với Duyên Anh và mấy nhà văn, nhà báo đàn anh… Sau này trong bài viết về Duyên Anh với bút danh Đoàn Thạch Hãn đăng trên báo An ninh Thế giới, Tường cũng kể lại nhiều kỷ niệm với Duyên Anh trong tù, kể cả chép nguyên một bài thơ dài mà Duyên Anh nhờ Tường học thuộc để nhỡ ông ấy chết trong tù, thì khi ra tù Tường về đọc cho vợ con ông ấy nghe.Thế nhưng Duyên Anh ra tù trước Tường gần 5 năm, rồi vượt biên. Khi Duyên Anh định cư ở Pháp thì Tường mới ra tù… Năm 1985 hay 1986 gì đó, tôi nghe tin Đoàn Kế Tường vừa ra tù, ít lâu sau lại nghe Tường vô làm ở báo Công An TP. HCM, viết mảng văn hóa nghệ thuật. Tôi và vài bạn quen biết cũ khá ngạc nhiên, vì một người mới ở tù Chí Hòa 10 năm về tội ‘phản động’ lại được làm báo. Mà lại làm báo Công An nên càng bất ngờ. Nhiều người đặt dấu hỏi về chuyện bất thường này! Tiếp sau đó, tập hồi kýẢo vọng phục quốc của Tường được ấn hành với bút danh Đoàn Thạch Hãn đã gây nhiều phản ứng trong dư luận. Tập hồi ký có nhắc tới nhiều nhân vật tên tuổi, đặc biệt trong đó có nhiều nhà báo, nhà văn đàn anh của Tường trước 1975. Cuốn sách đã làm nhiều người quen cũ e dè khi tiếp xúc với tác giả. Kể cả tôi. Sau này qua lời kể của Dương Đức Dũng, cựu phóng viên báo Trắng Đen, một bạn tù chung vụ án với Tường, tôi được biết, ban đầu đồng tác giả là Tường và Dũng, nhưng sau đó Dũng đề nghị rút tên khỏi sách vì nhiều đoạn trong sách được người biên tập tự ý viết thêm vào; còn Đoàn Kế Tường - bấy giờ là Đoàn Thạch Hãn - thì không thể, bởi mang nặng ơn người biên tập và đỡ đầu cho cả người lẫn sách là nhà văn, nhà báo Huỳnh Bá Thành, đương kim Tổng Biên tập báo Công An TP. HCM. Huỳnh Bá Thành trước 1975 là cán bộ cộng sản nằm vùng và cũng đã từng làm báo dưới chế độ cũ, vẽ biếm họa cho vài tờ báo đối lập với bút danh Ớt. Huỳnh Bá Thành quen biết khá nhiều người cầm bút dưới chế độ cũ, trong đó có Đoàn Kế Tường.

    “Mấy năm trước, lúc đã thân với tôi, Tường xác nhận lời của Dương Đức Dũng. Tường kể, anh ở tù Chí Hòa mười năm thuộc loại “tù mồ côi” vì không một ai thăm nuôi. Khi ra tù, Tường về tá túc ở nhà bà chị ruột, chờ kiếm việc gì làm. Được ít lâu bà chị đuổi khéo: ‘Các cháu chuẩn bị vào Đoàn mà có cậu ở tù về ở trong nhà khó cho cháu quá. Cậu nên ra khỏi nhà thật sớm, khuya hãy về. Nhớ đừng cho ai thấy’. Tường quá tủi thân bèn xách túi quần áo đi lang thang, tối ra ngủ ở ga xe lửa Hòa Hưng. Một đêm công an đi thu gom những kẻ bụi đời, vô gia cư đưa đi lao động hoặc kinh tế mới. Tường bị bắt cùng đám người tận đáy xã hội đó đưa về nhốt ở công an quận 3. Sáng hôm sau, công an lập danh sách thanh lọc hết mọi người đưa đi lao động cải tạo, chỉ còn trường hợp Đoàn Kế Tường quá đặc biệt vì tù Chí Hòa mới ra, công an quận chưa biết xử lý thế nào. Họ để anh ngồi giữa sân tới gần trưa. Bất ngờ ông Huỳnh Bá Thành chạy xe vespa vào công an quận có việc gì đó, lúc quay trở ra, ông thấy Tường đang cố cúi mặt xuống lẩn tránh ánh mắt của ông. Nhưng ông Thành chợt thấy và dừng lại, kêu lên: ‘Đoàn Kế Tường hả?’ Rồi ông vào công an quận xin bảo lãnh cho Tường, chở anh về nhà, tắm rửa, ăn uống, nghỉ ngơi. Ít lâu sau, theo gợi ý của Huỳnh Bá Thành, Đoàn Kế Tường rủ Dương Đức Dũng, đã ra tù trước Tường vài năm, cùng viết cuốn hồi ký Ảo vọng phục quốc.Tên sách là do Tường bắt chước tên một cuốn truyện cũng gần dạng hồi ký của Duyên Anh: cuốn Ảo vọng tuổi trẻ viết về những tháng ngày chàng thanh niên hai mươi tuổi Vũ Mộng Long, tên thật của Duyên Anh, năm 1955 đi theo những đàn anh đảng Duy Dân lên cao nguyên Đắc Lắc với ảo vọng lập chiến khu chống Ngô Đình Diệm, nhưng sau đó đã vỡ mộng… Duyên Anh ở tù chung với Đoàn Kế Tường, đã truyền đạt cảm hứng và có ít nhiều ảnh hưởng tới Tường.

    “Cũng theo lời Đoàn Kế Tường, sau đó Huỳnh Bá Thành đưa Tường đến gặp ông Năm Xuân, tức Mai Chí Thọ, Giám đốc Công an Thành phố, trình bày hoàn cảnh của Tường và xin bảo lãnh cho anh về báo Công An. Huỳnh Bá Thành xin lấy sự nghiệp chính trị bảo lãnh cho Tường. Đó là món nợ mà Tường đã phải trả cho đến cuối đời và đã nhận biết bao điều tiếng thị phi, chê trách và cả công kích. Ông Thành phân công Tường về Ban Văn hóa Văn nghệ, tham gia tổ chức các chương trình ca nhạc, công tác từ thiện, cộng tác với hãng phim Người Bảo Vệ. Đó là lý do tại sao Tường quen biết với nhiều người trong giới showbiz.

    “Đầu năm 1993 Huỳnh Bá Thành đột ngột qua đời. Đoàn Kế Tường - Đoàn Thạch Hãn trụ lại báo Công An thêm mấy năm, rồi cũng phải ra đi. Tường viết bài cộng tác với các báo để kiếm sống. Còn tôi, sau khi nghỉ ở báo Thanh Niên, chuyển về sống ở quận 2, tình cờ gặp lại Tường cũng về ở quận 2 trước tôi ít lâu.Tường ở phường Bình Trưng Đông, còn tôi ở phường Bình Trưng Tây, sáng sáng hai thằng đi tập thể dục hay uống cà phê lại gặp nhau, dần dà thân thiết. Chứ trước kia khi Tường còn làm báo Công An, đôi khi gặp tôi cũng chỉ chào hỏi xã giao thôi. Đoàn Kế Tường thuê nhà trong một con ngõ vắng, sống lặng lẽ một mình, gặm nhấm nỗi cô đơn. Hàng đêm Tường mặc áo cà sa tụng kinh Phật. Tường tụng kinh hay không thua gì các sư cụ tu trì lâu năm! Một tuần vài ba lần tôi ghé thăm, Tường pha trà mời tôi và nhẩn nha kể chuyện đời mình, bộc lộ hết tâm sự u uất mà lâu nay giữ kín trong lòng. Tôi bảo Tường sao không viết lại những chuyện ấy cho mọi người thông cảm hoặc ít ra cũng nhẹ bớt trong lòng. Nhưng Tường bảo, nói ra cũng chưa chắc ai tin và hiểu cho mình, có khi còn tác dụng ngược. Thôi thì ai nghĩ sao cũng được, được bạn bè thông cảm và chia sẻ là quý rồi. Tôi bảo, thôi để khi nào tiện tao viết. Tường nói, thôi để khi nào tao chết hãy viết. Hôm nay Đoàn Kế Tường đã ra người thiên cổ, giữ lời hứa, tôi viết những giòng này…”

    Ở đoạn kế tiếp, Phạm Chu Sa nhắc tới một ân nhân khác, ra tay cứu Đoàn Thạch Hãn, sau cố nhà báo Huỳnh Bá Thành là nhà báo Nguyễn Công Khế:

    “…Một người bạn tâm giao, ở tù chung với Tường khá lâu là Dương Đức Dũng là người thường xuyên cưu mang Tường trong những lúc ốm đau, khó khăn. Đặc biệt suốt thời gian dài bệnh tật của Tường, người lo toan và giúp đỡ cho Tường nhiều nhất có lẽ là Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập báo Thanh Niên. Tôi cũng không rõ quan hệ bè bạn thân thiết thế nào, nhưng lâu lâu Tường lại khoe, Khế vừa cho tao mấy triệu. Nguyễn Công Khế gửi Tường đến một bác sĩ quen thân để đặc biệt điều trị cho Tường, mọi chi phí Khế lo hết. Thế nhưng bệnh quá lâu, đã đến giai đoạn cuối, biến chứng xâm nhập nhiều bộ phận…Kể cả chuyện Tường về làm ở hãng phim Thanh Niên chung với Hai Nhất một thời gian cũng là ý của Nguyễn Công Khế. Hôm ở đám tang Tường, Nguyễn Công Khế bảo, nếu ông ấy nghe tôi, về ở với tôi bên quận 9, có người lo phục vụ đầy đủ thì có lẽ ổng chưa chết. Nguyễn Công Khế nhiều lần bảo Tường đừng thuê nhà mà về ở nhà của anh ấy, một cơ ngơi rộng cả mấy ngàn mét vuông, gồm nhiều căn nhà riêng biệt ở quận 9, nhưng Tường cám ơn và từ chối. Tường bảo, mình sống một mình quen rồi, không muốn làm phiền anh em. Tường là người rất hào sảng, hiếu khách và rất ‘sĩ’. Chính Nguyễn Công Khế cũng là người tận tâm lo chuyện hậu sự cho Tường. Anh có mặt gần như suốt từ nhà xác bệnh viện đến nhà tang lễ chùa Xá Lợi, đóng góp tiền bạc để đưa Tường về quê an táng khá chu đáo. Tôi biết một số nghệ sĩ nổi tiếng như ca sĩ Bạch Yến, ‘cải lương chi bảo’ Bạch Tuyết, đạo diễn Lê Cung Bắc, vợ chồng ca sĩ Cẩm Vân - Khắc Triệu… rất quí Tường. Hôm Tường mất, Cẩm Vân đến tận nhà xác khóc sưng cả mắt; còn Lê Cung Bắc đang bận quay phim ở Gò Công cũng bỏ ngang, tất tả về chùa Xá Lợi thắp hương cho Tường. Tôi còn thấy có họa sĩ Đằng Giao, nhà văn Cung Tích Biền, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng…và đại diện gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đến phúng điếu. Tôi nghĩ chắc Tường cũng ngậm cười nơi chín suối…” (2)

    Tôi cố tình trích dẫn đoạn văn trên của nhà thơ Phạm Chu Sa, chỉ để thêm minh chứng bản chất sống chết với bằng hữu của Đoàn Thạch Hãn. Cũng vì bản chất này, vào những năm tháng cuối đời mình, Hãn lại tạo thêm một scandal lớn khác, sau tập hồi ký “Ảo vọng phục quốc” - - Vụ Hãn viết một bài đả kích nặng nề một nữ ca sĩ nổi tiếng ở hải ngoại, như một bày tỏ ân tình sâu nặng của Hãn, dành cho một nhà báo mà, Hãn chịu nhiều ơn nghĩa!.!

    Một buổi sáng, T. download từ đâu đó, bài viết ấy của Hãn, chuyển cho tôi đọc. T thẳng thắn bày tỏ sự thất vọng ghê gớm của T. về bài viết ấy. Tối đó, tôi điện thoại về cho Hãn. Hãn kể vì tình bạn vì nhớ ơn ân nhân, nên Hãn viết và hứa, sẽ không viết nữa!!!

    Tiếc thay, chỉ vài tháng sau, T. lại chuyển tôi đọc – Hai bài: Một của ai đó, lên tiếng bênh ca sĩ kia và, mạt sát Đoàn Thạch Hãn không tiếc lời, với những chi tiết sai lạc. Bài viết (thứ hai) của Hãn, trả lời người tấn công anh. Trong bài viết mới này, Hãn lại tấn công ca sĩ kia, thêm một lần nữa!!!

    Trước sự kiện mới này, T. coi như Hãn đã vượt qua “vạch phấn đỏ”. T. bảo tôi, T. không muốn gặp gỡ, giao thiệp gì với Hãn nữa, nếu còn có dịp trở lại Saigon, với lập luận:

    “Muốn trả ơn, thì thiếu gì cách! Đâu phải đó là cách duy nhất?!?”

    Tôi biết, T. không thể hiểu, cũng không thể thông cảm cho một con người ngay tự niên thiếu, đã sống nhờ tình bằng hữu, trưởng thành, thiếu thốn tình gia đình, trải qua bao nhiêu thăng trầm, oan trái, tù đầy, bệnh hoạn,… nếu không nương nhờ tình bạn, chắc chắn con người đó không thể tồn tại tới bây giờ. Những tình bạn đó, với Hãn, nó thật thiêng liêng, bù đắp cho những tình cảm thiêng liêng, căn bản mà không có được, trong đời riêng của mình!

    Nhắc tới sự thiếu thốn tình cảm gia đình của Đoàn Thạch Hãn, tôi nghĩ, cũng nên trích đoạn một bài viết khá đầy đủ, cảm động của nhà báo Hà Đình Nguyên, trên báo Thanh Niên Online mô tả chi tiết một oan nghiệt khác của con người sống thuần cảm này:

    “…Nhà thơ Nguyễn Miên Thảo kể với người viết về khoảng thời gian ông cùng Đoàn Kế Tường (một bút danh nhưng nhiều người nhầm là tên thật của Đoàn Thạch Hãn), Vũ Hoàng (không phải nhạc sĩ), họa sĩ Đằng Giao cùng làm ở nhật báo Sóng Thần (những năm đầu thập niên 1970), về cuộc hôn nhân đổ vỡ của Đoàn Thạch Hãn với người vợ đầu tiên (hiện sống ở Mỹ)… Chị chủ phòng trà ca nhạc Dã Quỳ cho biết có lần anh Dũng Việt Phố đưa anh đến phòng trà của chị. Khi được giới thiệu, chị ồ lên thích thú vì bà chị của mình từng là phụ dâu trong đám cưới của Đoàn Thạch Hãn. Chị Dã Quỳ có sở thích sưu tầm các thiệp cưới, và chị đã giữ cái thiệp cưới của Đoàn Thạch Hãn…suốt mấy mươi năm. Khi cầm lại cái thiệp cưới của mình ngày nào, Đoàn Thạch Hãn đã khóc nức nở, bất kể có nhiều người chung quanh… Xem ra, hạnh phúc gia đình đã rời xa Đoàn Thạch Hãn từ lâu lắm rồi và anh cô đơn trong chính ngôi nhà của mình ở Bình Trưng Đông (quận 2, TP.HCM)…

    ????????????????????????????..
    Khách
    Cũng như Huy Đức, Du Tử Lê bị Đòan Kế Tường cho vào xiếc, ở một cấp độ ít hơn. Ví dụ, ĐKT là phóng viên báo chí cho một tiểu đoàn 8TQLC/VNCH. Chừng nào ông Du Tử Lê có dịp qua Houston, cho tôi biết trước, để tôi thu xếp Du Tử Lê gặp cựu trung tá Nguyễn văn Phán, Tiểu đoàn trưởng TĐ8TQLC, nhằm tạo cơ hội để ông DTL đặt thẳng câu hỏi. Tháng 7/1972, tôi đưa Tường từ Huế vào Saigon để ra mắt ban trị sự nhật báo Sóng Thần. Sau đó, Tường trở thành chồng của Triều Giang (con nuôi của ông Chu Tử) nên không bao giờ quay về đơn vị gốc là TĐ33 Pháo binh trực thuộc Sư Đòan 3 nữa. Khi TQLC tái chiếm cỗ thành vào tháng 8/1972, Tường đã ấm thân ở Saigon, còn TĐ8TQLC đóng ở chợ Sãi bên sông Thạch Hãn, nên tôi không biết liệu Tường có gặp ông Phán lần nào không.

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X