Remember ?

Trang 8/9 đầuđầu ... 6789 cuốicuối
kết quả từ 43 tới 48 trên 49

Tựa Đề: Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG

  1. #43
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default TUỲ BÚT về sự Phù Hoa cuả Chúng Mình

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 32


    TUỲ BÚT về sự Phù Hoa cuả Chúng Mình
    (Viết từ chuyện buồn của TM Ayana & PH Tony)
    Tình Hoài Hương
    ***



    Trên cành sao có chiếc lá cong queo cứ lao xao rên rĩ, dường như cố vươn cuống lá khô đét để vờn ôm phiến tích thời gian, lay đọng nỗi nhớ nhung muộn phiền ngày tháng cũ nó được ung dung đong đưa trên cây. Chiếc lá lắc lư rồi hững hờ buông mình chao lượn trong không gian héo úa nắng tàn. Gió chiều hiu hắt phe phẩy trêu đùa ngọn cỏ dại không tên ở viả hè. Nhìn chiếc lá và một con chim lẻ bạn rủ cánh buồn bã thỉnh thoảng cất tiếng gọi đàn, lòng em bỗng chùng xuống bao sầu đắng.

    Hạnh phúc lớn nhất trong đời người là thực hiện được những ước mơ lúc mình đạt nguyện vọng. Em muốn tìm một hướng đi đứng đắn trong công việc, trong tình yêu và cuộc sống bằng khả năng hữu dụng cuả chính mình. Cuộc sống ở những ngày còn ấu thơ bao giờ cũng đẹp với bao ước mơ và hy vọng, hoài bão, lập trường, lý tưởng… Có điều khi đã lớn lên, thì những ước mơ tươi đẹp, và thực tế quả thật khá xa vời. Vì so với góc nhìn mới mẻ, cùng quan điểm, hoài bão, lập trường cuả mình, lại hoàn toàn trái ngược. Rồi ta sẽ thấy vị trí bây giờ mình đứng vững nơi đây, và bao quan niệm, lập trường, hoài bão, ước mơ to lớn (của mình từ nhiều năm xưa trong cuộc đời) - thật ra khi ngoảnh nhìn lại, chỉ cách nhau những bước chân mờ nhoà, chập chùng phai nắng trên thềm nhà cũ, ấy vậy mà bây giờ vô cùng đối lập, lung linh, xa xôi và khác lạ.

    Tình yêu khi nhìn từ xa dưới ánh mặt trời, tưởng là óng ả long lanh như hạt kim cương chói sáng, nhưng lúc em nhìn gần: va chạm cuộc sống, tình yêu, hôn nhân, lại khác xa nhau lắm! Trước ánh mặt trời rạng rỡ thì viên kim cương long lanh lóng lánh đẹp và sang, coi quý giá quyến rũ thượng khách lắm bạc nhiều tiền; Nhưng trong bóng tối, viên kim cương bình dị như hòn đá vô tri vô giác. Quá vui hoặc quá buồn; cũng có những giọt lệ long lanh trên giếng mắt bờ mi. Người ta thường nói “cười ra nước mắt”, hoặc “cười là tiếng khóc khô không lệ”; quả thật không sai! Khi chúng ta yêu nhau say đắm, giống loài hoa nở rộ, sẽ thấy hết vẻ đẹp và ngưởi được mùi thơm riêng biệt cuả nó. Những lần anh ôm em vô lòng hứa hẹn chúng mình sẽ có hạnh phúc đầy ắp trong tương lai… Lúc đó em đã nói:
    - Nếu trời có sập xuống, anh nhớ bảo vệ tình yêu chúng mình bền vững trong vòng tay anh rắn chắc như hôm nay nhen, anh không thay đổi à.
    - Hi hi… Trời sập, thì chúng mình sẽ tiêu tùng, tình yêu tất nhiên biến mất rồi, còn đâu!
    - Anh đừng lo, vì anh chính là bầu trời đầy sao và trăng cuả riêng em mà. Bầu trời dành cho trái đất nếu có sập, cũng đành! Nhưng tình yêu chúng mình giống khuôn mặt cuả em và anh thì không thay đổi. Nhất là, anh là trăng là sao, thì không thể rụng trong tim em! Anh có biết một câu nói đáng giá ngàn tỷ đồng dollars, nhưng khi anh phát âm ra với em, hoàn toàn miễn phí, không anh?
    - Ồ! Câu gì nặng ký vậy em?
    - Câu: “anh yêu em nhiều lắm, em là mối tình đầu, là tình cuối cuả anh. Em chính là tình yêu. Ngoài em ra, anh không hề yêu ai nưã. Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai. Em hãy cùng anh chọn hướng đi lên chiếc cầu dài nối từ bờ nầy sang bờ kia, chúng mình sẽ nắm chặt tay nhau vượt qua mọi trở ngại, để tiến về ngôi nhà bên sườn đồi. Mỗi khi nhìn thấy nó, chúng ta đều mến thích và ước nguyện trọn đời chung sống bên nhau. Nhen em.

    Ôi! Nghe anh nói có vẻ như “nghe ca cải lương”, nhưng em cảm động sung sướng hạnh phúc ngất ngây dạt dào niềm rung cảm yêu thương anh biết ngần nào. Lúc đó không phải do hạnh phúc chúng ta sung sướng rạng ngời oà vỡ tiếng cười; mà cười vì chúng ta mới có hạnh phúc, em có cảm tưởng em nâng mặt đất lên sát bầu trời đầy sao lấp lánh. Có câu ca dao chí lý nầy quả không sai:
    Dế kêu cho giải cơn sầu
    Mấy lời anh nói, bạc đầu không quên
    .
    Dụi mái đầu em có những lọn tóc đen nhánh rất dài (thơm mùi bồ kết lá bưởi lá chanh) buông xoã trên bờ ngực anh, em tươi cười ứa hai giọt nước rung rinh ở khoé mắt. Ngồi trên chiếc cầu gỗ nhìn xuống hồ Than Thở im vắng, em thấy gương mặt chúng mình in trên mặt hồ yên sóng không phải là hai con quạ xấu xí, mà gương mặt của đôi loan phượng rực rỡ vờn nhau! Anh cúi xuống âu yếm nâng cằm em lên, đặt những nụ hôn nồng nàn nơi giếng mắt bờ môi ấy. Hẳn anh còn nhớ lúc đó anh đã nói:
    - Những giọt nước mắt ân tình nầy mặn hơn biển cả, nồng hơn vôi, khi trọn đời chúng mình đã chọn, thì không bao giờ quên. Em ạ.

    Lại “ca cải lương” nữa rồi, khi yêu nhau có lẽ trai gái đều có những câu nói lẩm cẩm thế mà hay, nên em càng mê anh mới chết. Ấy vậy em cảm thấy hạnh phúc tràn ngập uà về vào tháng năm dài đằng đẵng trôi qua… Nếu anh đã chọn một hướng đi, em mong anh tôn trọng lời hứa ban đầu, tình yêu đôi ta không như bọt sóng ào đến rồi tan biến. Ngày đó anh bảo em “chọn”. Chọn! chọn cái gì nữa? Tình yêu nam nữ giống như mây và lửa, một khi chúng ta không còn yêu nhau, thì ngọn lửa dù toả sáng bao nhiêu, vì giông bão mưa dầm mà lửa tắt ngúm, khói sẽ theo mây tản mác bay đi hoà lẫn nơi nào không biết. Anh có nhớ lúc ấy trên tay anh cầm hai cây cà rem to, cây cà rem nào cũng hấp dẫn ngon lành, anh phân vân đắn đo không biết nên ăn cây nào, vì anh chỉ có thể ăn mỗi lần một cây. Anh tủm tỉm cười đưa cho em một cây cà rem. Em chưa kịp giơ tay ra cầm, anh “chọc quê” em, thụt tay lại dấu cây ca rem sau lưng, rồi anh tươi cười dường như trêu ghẹo đưa cây kia ra cho em. Cứ thế, cho đến khi… cuối cùng trên tay anh chỉ còn hai cây que tre, kem vì gió thổi đã chảy hết xuống đất.

    Sự nghiệp nếu thất bại, ta có thể gầy dựng lại lần nầy, lần khác… Muốn có tình yêu chân chính vững bền chung thủy, trước hết mình cho đi không hề tính toán, sau đó sẽ nhận được mọi thứ hoàn hảo, tuyệt vời tin yêu hơn. Nhưng hôn nhân nếu đã thất bại, dường như em cảm thấy có một lỗ hổng trong trái tim mỗi khi có gió lùa rít qua lỗ đó, khi có mưa thì nước rỉ ra. Dù lỗ hổng không to, nhưng dần dà nước có thể thấm đẫm và mục nát cả cây cầu. Mối tình cũng giống chuyến tàu suốt, nếu mình chọn lầm người đó, là sẽ thay đổi cả cuộc đời ta. Thế nên mọi phiền não đau khổ cứ tràn đầy không có gì lấp được, dù cố gắng khao khát mong chờ, cũng khó lòng hàn gắn, thì chuyện tan vỡ không biết sẽ đến lúc nào (như cây cà rem đó thôi).

    Cũng vậy! thuở xưa anh thèm em (ngược lại xin thừa nhận em thèm anh biết mấy! thèm đến nhiễu nước miếng muốn nhỏ xuống đất, như cây cà rem chảy). Không phải sao? tự thuở ban đầu có những bước chân tình cờ rụt rè đi về chung lối trên đại lộ Yersin ra phố chợ, đôi ta e ấp thẹn thùng; bỡ ngỡ, rón rén, vui vẻ rộn rịp, anh hân hoan chọc ghẹo làm quen em. Tia mắt bẽn lẽn đong đưa liếc nhìn nhau đằm thắm, sâu lắng, trữ tình mời gọi trao gởi. Rồi từ phương xa nhiều lần thư anh & em tới tấp bay đi bay về... trong nôn nao đợi mong, băn khoăn thấp thỏm, xao xuyến hẹn hò. Ngày tháng trôi qua… chúng mình gặp lại trên thành phố thơ mộng, mấy ngón tay ấm áp rụt rè nhẹ nhàng len lén ngại ngần lướt nhẹ vào nhau, xoắn xuýt nắm chặt mãi chẳng nỡ rời. Nụ cười khả ái chúm chím dịu dàng đượm hương nồng, hồn nhiên, ân tình rạng rỡ trao duyên. Bao yêu thương ngất ngây âu yếm chờ đón nụ hôn ngọt lịm, thắm thiết đắm say, nồng nàn, đầy ắp quý mến tin yêu… suốt nhiều tháng năm ngự mãi không rời trên bờ môi vụng dại cuả chúng ta.
    Một lần nọ em ngồi đan áo sau vườn thông trong biệt thự Mimosa, (số 2 Pasteur) thấy anh vô nhà, con chó chạy ra sân sủa rân trời, em nói:
    - Chó sủa vang rứa, nhưng không có răn mô.
    Nghe lời em, anh dựng xe vespa đi vô sân, liền bị nó đớp một phát, may mắn chỉ rách chút xíu ống quần. Em la con chó, đuổi nó đi. Anh cười khà khà:
    - Ôi dào. Con chó có đủ hai hàm răng nhe ra, nó cắn anh rách ống quần nè. Vậy mà em nói “chó không răng”! Không biết, anh bắt đền em à.
    Vậy là anh hôn em thật lâu. Rồi một lần kia em nhờ anh:
    - Tiện thể, anh cho em xin ly nước lọc nhen.
    - Loại nước lạt lẽo nầy, mà em thích uống sao?
    - Do em đã thấm đẫm sự ngọt ngào nơi anh rồi.
    - Từ lúc nào vậy em?
    - Còn hỏi nữa sao anh? Nhưng… em cần nhắc lại: kể từ khi có "người khác giống” chen vô đời hai ta. Vô tình anh cột nhiều nút thắt trong lòng em, khiến em đau đến tê liệt.
    Anh cười cười, hóm hỉnh:
    - Anh là người dũng cảm, oai hùng, đa tình và tốt bụng, anh giúp người khác khi họ “thiếu thốn” hoặc lâm nguy nép vào ngực anh thôi. Trong mười điều luật Chuá dạy có thể tóm lại hai điều: “Kính Chúa, yêu người”. Nhưng quan trọng là “thương người như thể thương thân” mà em. Anh giống lớp vỏ cứng của trái cây, ví như trái mít, sầu riêng, măng cụt, “mãn cầu” thì nó mới bảo vệ được múi thịt thơm tho, mềm mại ngon lành ở bên trong.
    - Ồ…
    - Anh yêu em không những tặng em thứ anh đang có, mà anh cho em những cảm giác em không thể có… ví dụ anh mớm vào môi em mật ngọt tình yêu, hoặc “giọt rượu nồng tình ái”. Vị ngọt ở rượu giống như câu chuyện của anh và em. Mình phải biết cách ung dung nhâm nhi nhấm nháp khi uống rượu chứ em.
    - Tại sao?
    - Ban đầu vị ấy có chút ngọt ở đầu lưỡi, kèm sau nhiều vị nồng chát, nóng bỏng, kéo theo chút đắng, cay cuối cuống họng. Cũng như tình yêu mang đầy hương vị ngọt ngào chua cay đắng chát trong lòng ấy mà cưng.
    Anh nhớ không, lúc đó em nhìn anh mỉm cười đằm thắm:
    - Có hai mẹ con sư tử nói chuyện với nhau, con hỏi mẹ:
    - Hạnh phúc của mình ở nơi nào vậy mẹ?
    - Hạnh phúc của con ở nơi cái đuôi của con đó.

    Sư tử con ngây thơ hân hoan vui thích liền đứng lên quay vòng tròn nhiều phen, nó cố gắng tìm bắt cho được cái đuôi của mình. Nhưng nó quay hoài mãi, mà không chụp được cái đuôi, đến khi nó mệt lử, xâm xoàng chóng mặt nằm vật xuống đất, nó vẫn không thấy hạnh phúc nơi nào!
    Mẹ sư tử dịu dàng vỗ về con:
    - Khổ thân con! Hạnh phúc không do ở nơi con quay cuồng xoay vòng quanh tìm kiếm đâu. Chỉ cần con an tâm ngồi xuống, thứ nhất cái đuôi sẽ ôm vòng bên bắp vế cuả con, lúc đó con tha hồ tìm ra chân lý. Thứ nhì con đứng thẳng lên, ngẩn cao đầu trung thực tiến về phía trước: giữ vững niềm tin yêu, chung thủy, là hạnh phúc sẽ ở trong con.
    - Theo em, khi yêu nhau chỉ cần uống một ly nước lạnh, mình cũng cảm thấy mát lòng, là hạnh phúc rồi anh nhỉ!
    Anh ngẩn ngơ nhìn em giây lát, đong đưa:
    - Em đẹp như hoa pensée, có tư tưởng đáng mến phục.
    - Cám ơn anh. Nhưng xin từ chối, em muốn làm loài cỏ.
    - Tại sao?
    - Hoa nở rực rỡ ít ngày rồi tàn. Nhưng cỏ thì có sức sống dai và mạnh, mặc dù Thu tới Đông tàn, nó ủ rũ nhất thời, rồi mau chóng trở lại xanh tươi.

    Anh giống bụi gai mắc cỡ năm xưa ở trên đồi Cù, khi đó, anh hái một nhánh hoa "Mắc Cỡ" màu tím, có gai nhọn nằm ẩn dưới cành nhiều lá kép, anh cài hoa lên đầu người anh yêu. Ui cha! Cành lá e thẹn ẻo lả khép lại, em xuýt xoa khi mấy gai nhọn đâm vô đầu rỉ ra chút máu. Nhưng muốn làm anh vui, em cố chịu đựng. Anh nhớ không? dường như hoa lá và gai nhọn ấy quấn chặt trong tim em mãi. Bây giờ em vẫn cảm thấy đau ghê lắm, không làm sao nhổ ra được. Anh ơi!

    Nhớ một lần kia, anh em che chung chiếc dù, chúng mình vui vẻ nắm tay nhau hân hoan hát bản nhạc “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ: “… Anh đến thăm em trời đông giá, anh đến thăm em trời mưa gió, đường xa lạnh lùng! Mặt gặp mặt cầm tay không nói một câu. Lời nghẹn ngào hồn anh như say như ngấy, vì đâu…”. Chúng ta cười reo sung sướng, vô tư lự chạy bên hàng cây xá lị lúp xúp có từng chùm hoa trắng nở dưới bầu trời Đà Lạt trong cơn mưa tầm tã, cơn mưa giông đầy sấm sét ầm ầm nổ liên tục. Thế mà đôi ta chẳng sợ sấm sét, vậy mới ngộ! Nước mưa rơi lộp độp trên chiếc dù như những dòng nhạc thánh thót êm êm rơi trên hai mái đầu chụm lại, chúng ta vừa chạy vừa hổn hển trao những nụ hôn mê đắm nóng bỏng. Một lúc sau em dừng lại ngơ ngác hỏi anh:
    - Uả! Xe vespa cuả anh mô rồi?
    - Anh làm con gà trống đi bộ mà cưng.
    - Tại sao?
    - Thì con gà làm gì có bằng lái xe, mà chẳng đi bộ!
    - Hi hi… Bi chừ chúng mình đi mô “rưá”?
    - Ổ khoá phòng em hư, anh mua khoá, không mua “rựa”
    - Trời à! Anh nói giọng miền Nam, là em hiểu hết. Còn em “noái”, anh khôn hiểu mô tê răn rứa chi cả, là răn hì?

    Anh cười ha ha ha. Thuở ấy vui vẻ hồn nhiên hạnh phúc biết ngần nào! Giờ đây, anh cầm chiếc dù khác che nắng che mưa cho em. Anh tưởng rằng anh có thể che nỗi muộn phiền buồn bã trong lòng em ư? Tình yêu không thể hiện vụng về thờ ơ lạt lẽo khi trao chiếc dù không bằng mắt, bằng tay; mà cần thể hiện cả tấm lòng, ước nguyện, thông cảm, nhiệt thành tin yêu nhau nưã anh à.
    Một ngày xa xôi kia anh vui vẻ hỏi em:
    - Mặt trời và quê hương, nơi nào gần em hơn?
    - Tất nhiên là mặt trời.
    - Ồ! Tại sao?
    - Em ngẩn đầu lên, là thấy rõ mặt trời đứng trên đầu em rồi. Còn quê hương mặc dù gần hơn mặt trời. Nhưng em không nhìn thấy, nên em nói quê hương xa hơn mặt trời.
    - Em duyên dáng thùy mị dễ thương lại dí dỏm, thông minh kỳ lạ. Chính vì em rất thông minh, nên anh yêu em nhiều.
    - Cảm ơn anh. Nhưng anh hóm hỉnh hơn em, lại có duyên ngầm. Anh quyến rũ người khác phái dễ dàng trong sự đa tình lãng mạn đó nhe.

    Lúc đó anh nhìn em, nụ cười dạt dào trìu mến ẩn dưới tia mắt trĩu nặng ân tình. Anh hiện tại trong mắt em thì… anh giống con búp bê Nhật treo lơ lửng nhún nhảy đong đưa trên cành cây khô mục, búp bê có đẹp, nhưng không có sức quyến rũ và hấp dẫn, tệ hại hơn chẳng còn sức sống! Ly thủy tinh đầy nước trong đã giáng mạnh xuống nền gạch bông, nước tung tóe, chút nước đọng trong lòng bàn tay khẽ khàng bụm lại, nhưng nước không cầm giữ mãi trên tay mình, ly bể tan làm anh đứt tay. Bàn chân anh đầy máu lúc anh vô tình dẫm đạp lên mãnh vỡ lổn nhổn. Trái tim con người giống dòng nước không ngừng chuyển động. Trên sông, nước sâu đến đâu cũng đo được xuống đáy, vậy mà lòng anh thì em không thể nào lường.
    Cuộc đời là thế! lúc anh em mình leo lên núi Lâm Viên, hoặc đi lãng du các thác Pongour, Preen, Gougah, Datanlania, đi thăm thác Hang Cọp… các nơi ấy cao ngất và sâu hoắm; chuẩn bị mọi thứ bao giờ chúng ta cũng hân hoan, vui vẻ, khoẻ khoắng khi khởi hành. Nhưng… khi chúng ta xuống núi, hay bò lên khỏi vực thác sâu hun hút, để trở về, thì thân thể ta rã rời mệt mỏi, uể oải đừ đẫn suốt mấy ngày. Cũng vậy, “cả hai cô cậu” cảm thấy đời tưng bừng lên hương, nếu hai người có cỡi trên trường giang sóng sau xô sóng trước, chúng mình vẫn hài hoà vui vẻ, thảnh thơi nồng thắm tin yêu. Ngày xưa hai người âu yếm ngồi chung trên thuyền, chúng ta từng thề:
    - Nếu thuyền chìm, mình nắm chặt tay nhau, bằng mọi giá phải dắt dìu nhau ngoi lên bờ, không được buông ra. Nhen.
    Khi một trong hai người tự ý bỏ xa thuyền, mình ên dong đi trên dòng sông bão tố; có ngày thuyền lật úp hay tụt xuống vực sâu, thì chẳng thể trách ai. Một chân bên nầy một chân bên kia, anh không thể bước chàng hảng cùng lúc ở hai con thuyền bồng bềnh trên sóng nước. Muốn giữ người mình yêu, phải giữ mình trước với hai bàn tay và đôi chân đứng vững của chính mình. Thế thì em đã hiểu vì sao!

    Có một lần duy nhất trong dịp Noel cách đây 46 năm, từ Sài Gòn lên Đà Lạt thăm em, anh trao tặng em sợi dây chuyền 18K mặt chữ H rất nhuyễn độ một phân, chiếc áo lạnh màu vàng óng ả, loại nỉ nhung mềm nhẹ của Pháp đắt tiền, rất đẹp. Đôi guốc sơn mài cao gót màu tím đầy hoa lá cẩn xà cừ. Khi ấy anh ân cần cúi xuống mang đôi guốc hài hoà xinh xắn vô chân em. Anh chưa hề đo chân em, mà em mang sít sao vừa vặn. Em phục anh thật tinh mắt và khéo chọn! Rồi anh đứng dậy âu yếm ôm hôn em, em nghẹn ngào vui thích hân hoan và cảm động biết bao. Điều đó luôn ngự bên phiá trái lồng ngực nầy! Hẳn anh còn nhớ chứ!? Ký ức qua tháng năm có thể mờ nhạt dần, nhưng không hiểu tại sao em trân quý nâng niu giữ gìn những món quà đầu tiên do anh trao tặng đó biết ngần nào.

    Thời gian theo tháng năm quá dài trôi qua mau… cho đến một ngày một kia, do sợi dây chuyền mỏng manh đã đứt và rơi tự bao giờ. Em tiếc ngẩn ngơ đi tìm khắp nơi, chẳng biết nó rớt ở chỗ nào, em kiếm hoài trong vô vọng! Cái áo đẹp em luôn trang trọng cẩn thận nâng niu, giữ gìn, nay không còn mới, nó ngắn và chật. Lại thêm chiếc guốc bên chân trái mòn hẳn gót, đứt quai, chiếc cao chiếc thấp lệch lạc, cũ mèm và có phần xấu xí, em không thể mang. Đôi guốc phải có cặp vừa vặn số đo, không chật không hẹp không ngắn không dư, không rộng không hẹp. Hai bàn chân cần đi cùng một hướng mới yểu điệu, ung dung, thảnh thơi. Chứ không thể một chân bên nầy một chân bên kia, như dấu chấm phết, là guốc có thể mang thành đôi, thành cặp.

    Chẳng hiểu sao em không nỡ vất đôi guốc, vẫn tiếc rẻ, sợ quăng đi là “sỉ nhục tình cảm”; nên “gắn bó duyên nợ” lưu giữ nó tận đến bây giờ. Em có thể mang chiếc guốc què khập khểnh đi cùng anh, nhưng do tình em đối với anh chân thật, thuỷ chung, vì lương tâm em không thể chạy trốn anh suốt đời. Nào ngờ… những kỷ niệm đó biến thành giọt nước mắt mọng tròn lăn hoài trên má, ý nghĩ em từa tựa giống thi sĩ Nguyễn Trung Kiên*: … Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
    Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
    Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
    Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
    Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
    Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
    Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
    Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh
    (*)

    Ngày nay ở trong lòng em vẫn nhớ hoài đôi guốc ấy, em sợ một ngày nào đó chính em sẽ mang “đôi guốc què” ra đi khỏi đời anh, sợ rằng khi em mang đôi guốc nầy là bị té, không phải té từ ngọn núi cao, mà em bị ngã do những hòn đá cuội dưới chân mình. Vì, suốt thời gian qua em bị đôi chân mình mang guốc lệch đã treo ngược lên trời, khiến đầu óc em vật vờ choáng váng, quay cuồng dật dờ, mệt mỏi kinh khủng! Đôi guốc mất đi có thể mua đôi khác, nhưng tình yêu khi mất thật rồi, thì chẳng thể nào tìm lại được.

    Thay vào bao hụt hẫng muộn phiền đó, em đền bù bao mất mác cho mình và anh, mà không hề so đo tính toán hơn thiệt. Bằng cách, em dư khả năng trao tặng anh những món quà dềnh dàng to lớn đắt tiền khá đẹp, kèm nhiều bộ áo quần, veston hợp thời trang, cặp kính Ray Bon P, đồng hồ Longines Admiral Automatic dây vàng 18K Thụy Sĩ Swiss Made, chiếc nhẫn 5 chỉ vàng 18K khắc con rồng nhận ngọc bích, sợi dây chuyền hai lượng vàng 24K & những đôi giày đủ loại đủ kiểu, v.v...

    Thế nhưng mỗi lần em tin yêu ân cần trao tặng anh, anh “lại vô tình lơ đễnh” đánh mất một thứ, mỗi lần một thứ có trọng lượng nặng nhẹ, và hiện kim nhiều ít khác nhau… Những vật “tuỳ thân hộ thổ” tiền tài vàng bạc kia, em đề phòng ngộ lỡ khi anh ốm đau bệnh nạn bất ngờ chẳng đặng đừng, anh có thể bán nó, để “trang trải” trước, sau đó vợ con bù đắp đầy đủ hậu hỉnh cho anh sau! Vậy mà... dần dà anh bán sạch từng món, không phải do anh túng thiếu, bệnh nạn gì! Vì cuộc sống vật chất của anh đã có người vợ tào khang (là em) và con gái trưởng chu toàn lo cho anh rất đầy đủ. (Mà do anh “dại gái” bán đi để “bao” họ!!!).

    Thật ra của ngoài thân có trọng lượng khá nặng kia, em không hề tiếc, mà chỉ tiếc… chỉ xót những đôi giày, (mấy bà tình hờ cuả anh cố ý đánh cắp cả đôi, hoặc một chiếc, do sự ngụy tạo thấp hèn kém tế nhị, vô ý thức bởi những “hành động cố gắng thanh cao”). Thì chiếc giày còn lại anh không thể ung dung thanh thỏa mang đi cùng em, nên nó trở thành vô dụng, dị hợm, trơ trọi và rất khả ố. Tuy nhiên, em phải có trách nhiệm về những món quà mà anh đã trao cho em, cũng như ngược lại anh cũng nên như thế. Nếu anh không trả được, thì cho đến cuối đời anh vẫn không thể yêu ai thật lòng. Máu của mình là máu lạnh, thế mà từ khi gặp anh lần sau cùng vào năm 06, em vẫn sôi sục niềm luyến thương say đắm, tỏ lòng mềm nhũn, nhân ái, bao dung và tha thứ cho anh về những lỗi lầm đáng nguyền rủa...

    Sự thay tình yêu hay đổi lòng giống như một con khỉ, nó leo lên cao thì càng lộ rõ mông đít đỏ của nó. Từ đó, tình yêu mãnh liệt đầy tin tưởng trong em, như bọt sóng ào đến rồi oà vỡ tan biến trên lớp cát mịn dưới chân. Cơ khổ thay! anh đã vất những đôi giày, lật đật đi chân trần trên con đường lạo xạo sỏi đá, anh tự động ra khỏi chiếc thuyền hoa chắc chắn êm ái bền lâu cuả chúng mình. Làm trai nên nhìn thẳng về phía trước, hãy nói đi: “anh chọn gì ngoài sự trao đổi thô thiển về dục tính”!?

    Lần cuối cùng người còn lại sẽ dừng bên mé vực cảm thấy xót xa, ê chề, cay đắng, chua xót và buồn bã lặng lẽ nhìn theo người kia. Tuy nhiên em có chút hiếu kỳ, bởi dã tâm anh muốn đạt tới “sự nghiệp, tài chính, hoặc vụ lợi”; mà chà đạp tình yêu cùng quá khứ đầy ắp ân tình, bất chấp mọi thủ đoạn à? Nhưng, em hiểu ra rồi, anh tính nào tật ấy không hề thay đổi, có khi anh càng tệ hơn ngày xưa vì mục đích riêng, anh xem thường tình yêu, danh dự, nhân cách, để đạt đến đòi hỏi xác thịt cá nhân với mấy bà kia sao? Cánh lá xương khô trôi một chặng trên dòng sông đời ngắn ngủi có bóng dáng anh trầm luân lưu lạc… với khuôn mặt hằn nếp nhăn chất chồng vội vã từng đêm truy hoan. Luống thời gian hối hả ùa về cuồn cuộn chảy từ trên mắt xuống môi, khiến lòng em bỗng nghẽn đắng từng cơn uất giận bùng sôi thắt lòng.

    Tình yêu cuả em xét ra coi “chàng” còn có sự bất trung, lừa dối và vụ-lợi, gây tổn thương trầm trọng đối với tình cảm thiết tha mà “nàng” đã tận tụy thành tâm trao tặng “chàng”. Nhất là anh biết em chân thật trong mọi hoàn cảnh, em hết lòng “chung thủy chỉ yêu một mình anh”, em năn nỉ anh hãy cho em một thời gian, khi có đủ khoảng tiền kha khá, em sẽ quay về bên anh. Dạ vâng! Em thành tâm yêu thương và tôn trọng anh, quyết định bỏ tất cả, thi hành đúng lời hứa: hai ngôi nhà đồ sộ và một cửa tiệm, em chỉ bán một cái nhà, (nhà trả hết tiền mua từ lâu), nên em đã có $789.999. Khi check tiền cho anh coi, em tính rút tiền “trong tổ kiến cuả chúng mình” ra chi dùng bao dự tính ở tương lai. Nhưng “nhà nước” báo số tiền quá lớn, & ở Việt Nam không có ngân hàng mà em đang xử dụng.

    Em loay hoay, phân vân không biết làm cách nào, thì… thì do các con cảm thấy bất nhẫn, vô lương tâm và tự hổ thẹn… nếu các con tiếp tục hùa theo anh lừa dối em (vì các con hết lòng yêu thương em), bé Hai và Bé Tư đã méc lại em mọi chuyện: anh vẫn xài thủ thuật “vơ vét tiền bạc của mẹ con em, lại “xơ cua bao trọn gói” thêm bà nọ bà kia, khiến em đau đớn, thì quả nhiên anh quá tồi, khả ố và tệ kinh khủng. Bây giờ em chẳng thể giơ tay ra cứu vớt anh thêm lần nữa, người ta nói “nhất bất quá tam” í mà! Khổ thay! Em đã “lờ đi” ôm trong lòng sự phiền não chua xót đau đớn biết bao năm rồi, (khi anh lừa dối em về tình và tiền không chỉ ba lần, mà ba lần ba... là chín lần ấy nữa).

    Không đúng sao anh? Nầy nhé: Từ năm 1963 vụ cô Quyên Hà – từ bà Tư Râu Rậm, bà Dung, bà Nga, bà Nguyệt, bà Kim, bà "Lý Lắc" lu xu bu… nhặng cả lên, không làm sao kể hết. Mấy mụ kia chả đáng gì, chính anh luôn tự hào thừa nhận: "em xuân sắc mặn mà, thùy mị, hiền thục dịu dàng, thông minh vượt trội hơn mấy mụ kia, là cái chắc, anh cảm phục sự thông minh của em, nên anh càng yêu em"). Lời anh nói đó dĩ nhiên em hãnh diện chứ. Tuy nhiên, em chỉ buồn về vụ mấy cú phone gọi ở Mỹ về, khi vợ nằm bên chồng: qua vài câu xã giao, anh lẽn ra phòng khách nói chuyện phone với bà tình nhân cũ: từ hai giờ khuya đến năm giờ rưỡi sáng. Sau đó anh lên lầu lóc cóc gõ e-mail.
    Hôm sau bé Hai, bé Tư khều em lên lầu mở e-mail ra, chỉ cho em, cả ba mẹ con cùng đọc:
    Date: 01-20-2006 > 14:05:20
    From: khanhson21@saigon.com
    To: cungio77…thu.com
    cc: tmtfe@.com
    Subject: Gửi Thư
    Lê Trân Thư ơi!
    Anh đọc thư em, mà lòng anh ngổn ngang trăm mối và ngậm ngùi. Nhưng anh rất mừng, là hai đứa mình cùng một quan điểm: Mối tình đó bất diệt. Vậy thì, xin cứ để đó. Mình cứ tôn thờ nó, và xem đó là cuộc tình tuy đậm đà. Nhưng kết thúc rất có hậu. “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” mà em! Vâng! Em cứ tự nhiên, vì anh cũng hiểu là công việc của em rất đa đoan và bề bộn. Tuy nhiên, em vẫn drop cho anh vài hàng khi rãnh rỗi. Vì như em nói đó: Bây giờ chỉ có sự cảm thông sâu sắc; Những gì tiềm ẩn được phơi bày. Anh hiểu em, và ngược lại em cũng hiểu anh phần nào. Xin cứ xem mối tình cuả mình là giai đoạn đẹp nhất cuả cuộc đời nầy. Nếu có kiếp sau. Nếu có... thì anh hứa với em là: anh không để lỡ bước nữa đâu. Anh đã có em trong vòng tay. Và bỗng nhiên em thoát ra bay mất. Nhưng ngược lại, em vẫn còn mãi mãi trong tim anh. Điều nầy chỉ có anh biết, khi nào anh nằm xuống, thì nó vẫn còn tiềm ẩn với thời gian và không gian. Em vẫn là mãi mãi, là ngàn năm Trân Thư ơi!
    Thôi thì như anh nói: Mình còn có thể nói cho nhau những gì mình từng ấp ủ tận đáy tâm hồn. May thay, kiếp sau còn đoạn cuối cuộc đời - em đã hiện diện cho kiếp sau.
    Anh gửi lời cảm ơn em. Anh đã nhận được 200usd. Vâng! Anh sẽ nhớ mà, mỗi ngày anh đều viết cho em hai lần thư, càng dài càng tốt - một copy về điạ chỉ e-mail ở sở em làm - một copy về điạ chỉ e-mail: tmt cung707.com.

    Mấy năm nay anh chuẩn bị đón Tết, lu bu nhiều việc. Mặc dù năm nào cũng như năm nào: Anh vẫn đi trên đường một mình cô độc. Nhưng mùa xuân năm nầy, anh có em, có thêm nhiều bạn đồng hành trong quá trình đớn đau nầy. Anh tin rằng: Nếu em “hét” được, thì anh cũng sẽ hét. Cho có thời gian và sự kiên nhẫn, cũng như ý chí quyết chống chọi lại mà thôi?! Điều nầy anh có thừa. Anh hiểu là anh vẫn có, và vẫn còn em trong đời mà. Hãy đến với anh – Như cô thiếu nữ ngày nào em nhé. Mọi chuyện khác, thì thời gian sẽ cuốn trôi đi. Anh cũng không quên cảm ơn sự quan tâm đặc biệt của em: Em hứa quyên góp tiền từ các bạn, và gửi về thêm cho anh 2.000usd nữa há. Thanks.

    Để hôm nào buồn buồn, anh nói chuyện phone tâm tình với em, ôi! chuyện gì mà mình nói phone vào lúc đêm khuya, từ bốn năm giờ liền vậy nhỉ!? Thì ra, vẫn còn rất nhiều điều, mà chúng mình chưa bao giờ thổ lộ với nhau. Gần tàn đời rồi em. Hãy nói cho nhau biết tất cả nhe. Em còn nhớ anh thường viết cho em câu: Em không chỉ là người yêu. Mà, em chính là tình yêu? Tạm biệt... Hẹn sẽ gặp lại em.
    Tony

    Đọc xong thư, em quá thất vọng, đau đớn kinh khủng gục mặt trên bàn phím khóc nức nở. Hai con gái ôm lưng em, cả ba người cùng khóc. Từ lúc đó, em mới biết cách học theo “cái sách bất hủ cuả anh”, em điềm đạm khôn ngoan lặng lẽ suy tính, biết tàn nhẫn lạnh lùng hơn, (những thứ nầy em lãnh đạm dấu kín trong tim, tuy ngoài mặt em vẫn lo đi chợ nấu ăn, ân cần săn sóc anh, tận tụy chu toàn hết bổn phận). Kẻ nầy đã vinh dự chiến thắng tình cảm nông nỗi quá tệ ấy! Thân phận con người, sự kính trọng, tin yêu, danh dự, lòng tự trọng: khiến em mệt mỏi tột cùng. Định mệnh thật trắng trợn, cay đắng, vô tình đến tàn nhẫn phản bội hai người. Một cuộc tình có lẽ thật lâu dài, (49 năm tròn “dang díu” cố giằng co níu kéo chắp nối trên mail, trên phone, trên thực tế) tri âm tri kỷ, say mê đắm đuối yêu nhau nhất. Em xót thương dày vò, ân hận… hối lỗi, ray rứt lẫn mến yêu anh, và thương yêu các con lắm.

    Bỗng dưng hôm nay toàn diện bể vỡ sụp đỗ tan tành, vĩnh biệt trong đắng chát bão bùng! Cứ tưởng cuộc tình sẽ thắm thiết trường cửu. Nào có phải như vậy! Vì rằng tình yêu “chàng” trao cho “nàng” là con dao hai lưỡi đâm lút cán vào trái tim người chân tín, đã bùng vỡ máu tươi. Em ví mình như con bò, anh là con rắn cùng uống chung một dòng nước yêu thương. Ấy thế mà con bò khi uống nước, thì ưu ái cho nhân loại sự sống bằng máu thịt chính mình và sữa tươi. Còn con rắn khi uống nước, lại phun ra nọc độc, con rắn ấy chính là anh: Tân Tỵ sanh vào tháng 6 oi ả, nóng kinh hồn!

    Bây giờ anh trở thành cái bóng đen lem luốc lu mờ, không sôi bỏng trong quá khứ, cũng như ở hiện tại và tương lai. Lần cuối cùng, nếu quyết định sai nữa; là em hư mục, ân hận suốt đời! Khi nhận ra quá khứ, hiện tại, tương lai của người yêu dấu chả tốt đẹp gì, anh vĩnh viễn không bao giờ xoá sạch lỗi lừa gạt -mọi người và riêng em- cần được tha thứ. Quá khứ không hay ho, do từ anh tự bôi tro trát trấu thành vết chàm nám khắc lên mặt anh mất rồi, không bao giờ anh kỳ cọ rửa sạch trong tâm thức người thân. Anh chỉ là con chim sẻ muốn bay bổng lên cao để hóa thành con phượng hoàng, thì trước tiên nó hồn nhiên đập cánh xuống. Khốn thay, nó vụng về phành phạch vỗ cánh đập xuống vũng bùn nhơ, nay con phượng hoàng hoá thân thành con quạ lửa hung ác gớm ghiết, mà ai khi trông thấy nó, cũng lấy ná bắn, hoặc lấy đá ném cho chết; bởi vì con quạ chỉ đem đến điều bất hạnh tai ách, điềm xui xẻo đến mọi người!
    ***
    Đứt tay một chút còn đau.
    Huống chi nhân nghiã lìa nhau, sao đành
    ”.
    Vậy mà… “tình ly thân” của chúng mình… (nói ngắn gọn thật sự chia tay vĩnh viễn từ ngày July 4/06- Independence Day). Một ngày đại lễ lịch sử tôn qúy cuả Hoa Kỳ, toàn dân long trọng kỷ niệm tuyên ngôn độc lập. Ngày cả nước Mỹ hân hoan sung sướng vui vẻ hạnh phúc chào mừng (federal holiday), họ tay trong tay nườm nượp đi lãng du rong chơi các nơi trên du thuyền, đi xe lửa tốc hành vội vã gặp nhau, mọi nẽo đường bộ kẹt nghẽn vài chục triệu xe hơi trên freeway. Phi trường đầy ứ đông nghịt người ta xếp hàng hai, hàng tư... chờ đợi. Thế mà chính ngày nầy, hai ta ngượng ngùng run run ấp úng cúi mặt ngậm ngùi không còn giọt nước mắt, thấp thỏm khi “ký hiệp định phân ly”!
    Thế nhưng… dù đi lô ca chân có chậm đến mức nào, rồi có lúc cũng đến đích, em dứt khoát thả những chiếc thuyền giấy chở đầy hoa tình yêu và hoa tim trôi ra ngoài khơi, mà có một thời dài ngoẵng em đã chân thành, ưu ái, nồng nhiệt tha thiết trân trọng trao dâng cho người… tưởng là “hồng nhan tri kỷ”. Tình ấy nay như đống tro tàn, tuy trong lòng em không mất đi ngọn lửa vùi trong tro nỗi luyến lưu một thời xôn xao nỗi nhớ. Mọi việc giờ đây hoàn toàn sụp đỗ, nhưng điều duy nhất em muốn nhắn với anh:
    - Không nên coi thường sự chân thành khi em tin yêu anh, em thuỷ chung với mối tình “phân lià hợp rồi tan, tan lại hợp suốt 49 năm qua”. (Em nhấn mạnh -anh nên nghiền ngẫm suy nghĩ kỹ ở điểm: “em chỉ mang hình ảnh cuả chính anh đi khắp bốn phương trời, chung tình với anh suốt bao năm nơi lồng ngực nầy đây”). Tuy vậy, may mắn hết sức bây giờ em đã tỉnh ngộ dứt khoát thoát ra, tình cảm không cho phép mình tiếp tục dệt mộng trên bãi cát vàng với “phu quân cố nhân”. Để rồi, khi bừng tỉnh giấc mơ, nghe bạn bè nhắc tới tên “anh yêu” với nhiều điều kinh dị… hơn là sự tốt đẹp; khiến em ngao ngán. Bỗng giật mình, lạnh toát cả người.
    Ôi! Cuộc tình tàn và thế thái nhân tình nào chỉ có thế thôi: em sợ ai kia dã man tàn bạo nhất thế giới, vì lòng người ấy hiểm ác nhẫn tâm khó lường. Em lạnh lùng ngoảnh mặt quay lưng không thích lún sâu vào con đường tình nữa, theo ý Trời mất rồi.

    Lúc mới yêu nhau, “em tôi” đến với “anh ta” bằng hai bàn tay đầy ắp ân tình dạt dào yêu thương, khá nhiều rung cảm, chân thật và tín trung. Lúc lặng lẽ ra đi, em không hề có một lời oán trách anh. Chân thật mà nói em chỉ muốn chúng ta chia tay nhau lặng lẽ, êm đềm, không để lại trong lòng nhau nỗi muộn phiền, dày vò, oán hận, buồn đau. Em đã làm thế thật, em trần trụi -có còn gì nữa- để tiếc nuối, mà không buồn bã lặng lẽ ra đi trước mặt anh không hề mang theo một thứ gì. Nỗi đau thấm đẫm muộn phiền, rõ ràng khuấy động tim em, tim anh, oái oăm dằn vặt từng chặng, từng chặp, từng bước chân tức tưởi đong đầy chua xót, (do định mệnh trớ trêu quái ác trao vô tay mình), làm sao mình không đau xót chứ! em cố dằn lòng kéo carry on nhỏ xíu ra đi trước mặt anh và con gái, không ngoảnh lại. Nếu quay lại nhìn, em sẽ thương xót anh hơn, rồi thêm lần nữa… em không cương quyết chia xa anh, thì đâu vẫn hoàn đấy.

    Anh thập thò rón rén đứng nơi cưả chính, bồn chồn lo âu, hồi hộp nhìn theo em mãi. Có lẽ anh sợ em trở lui giở trò đòi lại những gì đã biếu! Anh à, em không tồi và tệ như anh nghĩ đâu. Tình cảm là thứ bảo vật trân quý nhứt, hơn bất cứ vật gì trên cõi đời ô trọc, mà em không đòi lại, thì sá gì mấy chục ngàn dollars, vài lượng vàng và những thùng quà to tướng, những bộ quần áo & những đôi giày thời trang lẻ tẻ! Đó là chuyện nhỏ. Rời xa anh, em chỉ vỏn vẹn còn hai bàn tay trắng trơn, chiếc vòng ngọc thạch thuở xưa em đưa anh, nhờ anh đeo vô tay mình, lúc đó em thỏ thẻ:
    - Anh đeo nó vô tay em, cố ý ngầm bảo tình chúng mình sẽ trường cửu, chuyển tiếp liên lũy như một vòng tròn, không hề phân ly, hén anh & chiếc nhẫn hôn ước mình đã sung sướng hân hoan lồng vào ngón tay đeo nhẫn cưới cho nhau -không còn. Mái tóc của em bóng mướt rất dài mà từng ngày anh hằng trân quý vuốt ve, cũng cụt lũn -do tự tay anh đã cắt trước mặt ba đứa con gái- anh trang trọng cất trong hộp:
    - Lâu lâu nhớ em, anh đem ra nhìn, vì đó là thứ có thật từ chính thân em.

    Từ thuở xưa, xa lăn lắc… tay em đã gài lộn hàng nút áo từ cái khuy trên tụt xuống hột nút dưới, lúc ấy em “mờ mắt vì sự chói lói huy hoàng sáng láng long lanh trong tình cảm”, em không hề thấy, và đâu có ngờ... nên hí hửng hân hoan vui vẻ vội vã chụp những tấm hình “kỷ niệm tình yêu anh và em”, mà em hằng trân quý, em trìu mến nâng niu niềm khát vọng yêu thương vô vàn dâng lên cao vút! Bây giờ những tấm ảnh ngày xưa xuyên qua thời gian còn in dấu sờ sờ “chiếc áo tình lệch lạc và xéo xẹo giưã hai hàng nút thắt”. Mối tơ duyên nầy sai: khi em và anh vô tình đi vào đời nhau, khiến toàn cái áo bị nhăn nhúm méo xẹo, không còn sự long lanh phù phiếm huyền trầm đầy xao xuyến và dạt dào rung cảm trong ký ức. Em gỡ hoài mà cái nút thắt quá bền và rất chặt không thể bung ra.

    Nay nhận biết, em thật quá thất vọng về anh, anh nói một đằng làm một nẽo. Đời người như chuyến xe đò chạy qua những bến tạm trên con đường dài ngoẵng, có lúc xe êm ái bon bon lướt nhanh; cũng lắm khi nhấp nhô gập ghềnh bởi nhiều ụ đất lồi lõm. Hai ta gặp nhiều phiền muộn, chông gai thử thách, và sóng gió khi cởi trên con sóng, để vượt qua mọi trở ngại, vì hạnh phúc không tự đến từ những điều dễ dàng suông sẻ mình muốn. Em nghĩ mãi không hiểu, so với thời gian 49 năm qua, biết bao phen anh gieo cho em nhiều đau khổ tột cùng dai dẵng, em thiết nghĩ: anh có tài năng quá tuyệt và rất lạ: anh có thể thu hút & biến cuộc sống, tình yêu, con đường chúng ta đang đi dẫn tới đào nguyên, hay tụt xuống địa ngục. Bức tranh tình yêu ấy quyến rũ mê hoặc mình, đã mặc nhiên biến em trở thành kẻ nô lệ luôn gắn bó, cô vợ ngu dại nầy lầm lủi lẽo đẽo theo chồng từ những tháng năm quá dài. Bỗng mất.

    Lần chia tay coi như vĩnh biệt, em chẳng còn gì phải bịn rịn, lưu luyến ngậm ngùi tiếc nuối. Mất 49 năm vượt thắng mọi vấn đề tình yêu, sự sống, hạnh phúc bằng chính đôi chân dần dà khoan hoà và khoan đãi bước tới tương lai, thì em phải quên dĩ vãng đáng buồn. Anh có đập đỗ mối tình mà anh từng tự hào khoe với bạn hữu: “Tôi yêu cô ấy rất nhiều, cô ấy là tình đầu cũng là tình cuối, ngoài cô ấy ra, tôi chẳng hề yêu ai, tôi nâng niu trân quý và mến trọng mối tình đó”.

    Thì em chỉ ủ rũ muộn phiền ngả xuống trên mặt đất; như loài cỏ may, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ gà, cỏ gấu, cỏ tranh, cỏ mần trầu, cỏ lồng vực, cỏ mật, “cỏ bạc đầu” bị đàn ngựa dẫm đạp, nó vẫn có sự sống dẽo dai tự vươn lên mà bùng dậy. Thật tình em không thể hiểu sao chúng mình đã yêu nhau suốt từng bao năm qua, mà ta không thấu hiểu về nhau hơn tí nữa? Quá thất vọng để nhìn anh qua lăng kính ngã bụi vàng đường xa: Nay em mới “ngộ ra” một điều se sắt xót xa đau lòng: Hết lòng tạ ơn Trên! con chưa phải là người “xấu số”. Em không thèm tham dự cuộc đua, chả cần nghe lời đường mật của anh, em tủi hổ đi ra khỏi đời anh mà trở về “nguyên quán” khi tóc em và anh đã bạc, lưng còng, gối mỏi, đôi mắt không còn tinh anh. Tiền bạc, ước muốn tình yêu chân thật trường cửu, chưa phải là quyết định cuối cùng. Em nhận ra giá trị tình yêu ấy chỉ là bánh xe cũ rích lăn tròn như con số O rỗng tuếch. Dĩ vãng, hiện tại rồi tương lai là bánh xe thời gian chậm chạp có vòng quay khổng lồ. Anh không đáng được em yêu đằm thắm, em không thể nhân nhượng, bao dung tha thứ một người không biết hối cải.

    Anh trắng trợn tàn nhẫn hẹn hò thề hứa với con đàn bà khác trước mắt người mà anh bảo là “anh chỉ có em, ngoài em ra anh không hề yêu ai”. Thì anh sẽ phải ôm lấy suốt đời sự lỗi lầm, ân hận, ray rứt và dày vò suốt kiếp. Dù mai đây lá trên rừng có tơi tả rụng, trăng có úa tàn, những ánh sao lu mờ, sóng biển có bốc hơi thành mây, thành mưa, thì em vẫn khẩn thiết cúi rạp mái đầu phủ phục xuống đất: "Xin Trời cao đất dày có hai quan thần linh đứng trên hai giá vai mình biên chép soi xét: Hãy tha cho con cái tiền duyên đớn đau, đốn mạt dày vò, đắng cay, đọa đày nầy. Thưa ông Trời"!

    Vậy, anh cũng chả nên hậm hực tức tối, nói xấu và trách móc oán giận người vợ bạc phận làm gì! Lúc xưa chúng ta yêu nhau thắm thiết, nồng nàn, say đắm, để rồi bây giờ anh nhẫn tâm đào hố chôn sống em (-không phải chỉ một vài lần trong sự phẫn uất cuả cuộc sống rã rời ly thân-). Rồi sau đó anh lại móc em lên, tiếp tục gieo cho em sự phiền muộn tột đỉnh, khiến em vô cùng đau đớn, xót xa, chua cay, thương cảm, ray rứt. Anh nỡ xem em như con cá sống nằm trên thớt, anh nhẫn tâm cắt từng khúc rồi rắt thêm muối tiêu tỏi ớt vô. Anh không nhớ rằng: con cá cũng có xương. Vậy nên, anh hãy cẩn thận vì có khi xương cá sẽ đâm sâu vô cuống họng, khiến anh đau đớn vì xương cá mắc hoài trong cổ nghen anh. Hẳn nhiên anh thừa nhận là em rất hiền, có nhân ái, em chỉ biết lặng lẽ khóc thầm và an phận; do vậy mà khi anh quen mụ Li Lac kia, anh trở mặt e-mail mắng nhiếc xỉ vả em đủ điều, anh còn nhớ nhỉ? Anh à, anh không nên coi thường tình yêu chân thật cuả em, mà bôi nhọ lỵ mạ em đến vậy.
    Lần ấy, vì còn yêu anh nên em tha cho anh đó. Chẳng qua… từ trước tới nay, em luôn luôn học theo cái sách bất hủ của anh Tony Hoàng Năm đã từng dạy cho em Thụy Mi Ayana những chiêu độc đáo. Em bắt chước anh từng món, từng món… từ cái giá đau đớn tột cùng căm phẫn đó thôi. Ngày ấy em có phần nhẹ nhàng, có chút nương nhẹ trả hết cho anh. Nhưng anh à, đừng trách em -sẽ không có lần sau khả ái nhẹ nhàng nữa đâu nhé-, (nếu anh nhẫn tâm chà đạp lên sự đau khổ và tự ái cuả người anh từng yêu), thì em không nương nhẹ đâu. Lúc bùng sôi từng cơn uất hận cháy lòng lên cao độ, thì không biết sự phẫn nộ trong tư tưởng và hành động của em sẽ ập đến lúc nào. Nếu hôm nay phải trả cho vụ việc anh gây tổn thương cho em từng chút, từng chút… -trong quảng đời ngắn ngủi còn lại (cuả anh) ở buổi xế tà; từ bây giờ cho đến lúc anh chết- so ra, thật không quá lắm đâu.
    ***
    Rồi một buổi kia, (cách bốn năm sau khi chúng ta ly biệt), vô tình em lại nhận được tin anh “than thở kêu gào” trong e-mail lần nữa:
    My name’s Tony
    Have you received my Circular letter? You are stunned… aren't you? But it is true. I'm stricken by disease and mostly by painful (prostrate) problem and chronic (asthma). I don't have Medicar... and we are... out of mean to be hospitalized. I need urgent financial HELP. I'm waiting patiently for YOU to HELP me... I'am calling out for ALL HELP. Please do answer me.
    Your friends and brothers.
    Tony
    Chuyển ngữ:
    Tôi tên là Tony,
    Các anh chị có nhận được thư của tôi chưa? Chắc anh chị rất ngạc nhiên lắm phải không? Nhưng đó là sự thật. Tôi bị một chứng bệnh rất nặng “ung thư”, chủ yếu là do tuyến tiền liệt (Prostate) và hen suyễn (Asthma) kinh niên, tôi cần phải nhập viện đễ được điều trị, rất tiếc tôi không có bảo hiểm về sức khoẻ (Medicare), và cũng không có tiền bạc. Tôi rất khẩn cấp cần sự giúp đỡ về tài chánh. Lời kêu gọi của tôi đến tất cả quý anh chị, và rất mong được sự giúp đỡ. Xin vui lòng trả lời tôi.
    Bạn của các anh chị và anh (cuả các em)
    Tony

    … Nay, em đã có cuộc sống mới. Nếu còn -chút tình chăng- với anh, hy vọng em còn sót lại tí dư vị qua tình "bè bạn" mới lạ, & xíu xiu tò mò? Tuy nhiên, bỗng dưng em nhận được tin anh, qua những hàng nhắn RE: kia, đôi ba lần em phân vân xót xa tự hỏi:
    - “Tưởng anh có tí hạnh phúc" với mụ đàn bà Lí Lac thứ bao nhiêu kia tại Việt Nam, cớ sao hôm nay anh nhiều lần E-mail & PM (Private Messages) cho em vậy!? Cây kim có một đầu nhọn, một đầu có lỗ, cuối đuôi kim kéo theo sợi dây dài đằng đẵng giống thời gian. Nếu cây kim lỡ chích sâu vô tay anh, đụng xương, đụng gân, nỗi đau lê thê khôn nguôi, thì đau lắm, có khi tật nguyền lặt lià lặt lọi suốt đời anh ạ. Thì ra… “mụ Lí Lắc” gốc Quảng Trị ấy đến với anh không cho anh “cái mỏ lết mu ruà” gì, ngược lại càng khiến đời sống anh (vốn dĩ trước kia phẳng lặng an vui sung túc khi có “mẹ con chúng em”); bỗng dưng bây giờ anh mang vác đủ thứ âu lo, đeo thêm gánh nặng, chìm lĩm theo “hủ mắm nêm khổng lồ bu bám trên lưng”. Anh bận rộn, chao đảo tinh thần, bần hàn lo lắng đủ mọi phương diện đến thế sao!? Em nghĩ rằng: tự trong cùng đáy tâm tư, anh đã tiếc nuối và dật dờ trong sự dày vò hối hận, ray rứt vô vàn bức bối, (khi anh rời xa gia đình mình đã có một thời đầm ấm yên vui: nơi đó từng có em có các con, ấy thế mà anh bỏ lỡ cuộc sống tươi đẹp sung túc từ bao năm qua cùng mẹ con em). Phải không nào!?

    Anh à, bây giờ... muộn mất rồi! anh không nên làm thế nữa, anh không còn là "thần tượng thời vàng son" cuả mẹ con chúng em. ANH đã chọn con đàn bà ấy, thì anh không nên làm họ buồn, càng không nên liên lạc với người xưa. Ngược lại vị hôn thê đầu đời nầy khinh anh, bởi vì anh đã nhiều phen lừa dối em và con gái về hai phương diện: Tình và Tiền. Anh cũng hiểu từ xưa nay em chưa bao giờ gọi anh là “ông” và xưng là “tui” nhỉ! Nhưng đây là lần đầu tiên và là lần cuối TÔI không bao giờ trân trọng & kính phục Ông.
    Tuy nhiên, em nói đây với tất cả sự chân thật của người đối với tình người. Mai kia, em không muốn ngồi đây buồn bã, để nghe anh báo tin lần thứ mấy mươi là cuộc tình của anh hôm nay lại tan vỡ… Mà, thật sự em cầu mong anh giữ chặt bà nầy, bà kia, bà ấy…, (dù bà tình hờ "lòi tói" hay không nào cũng vậy nha). Anh đừng để thêm những lần tan vỡ, tội nghiệp anh! Em thương xót anh lắm, biết không! Dù sao, nay anh đã khá già cần có người "hầu hạ"! như anh đã nói chuyện phone ở lần em làm giấy tờ bảo lãnh anh du lịch qua Mỹ đó:
    - [“Anh đã già, cần người phục vụ (như sợi dây lòi tói)” lo cho anh, chứ ai lo cho anh]!!!

    Dẫu sao thì em tôn trọng sự lựa chọn không đơn giản và ích kỷ vụ lợi cuả anh, chỉ xin anh không nên coi bà ta là “công cụ lòi tói cũ kỹ & hư mục” đời mình. À, ra thế! Sẽ không còn ai thực sự chân tình đến với anh chia sẻ mọi điều, (như em: một hôn thê xa xưa nữa sao ta)? Thiệt tình em ứa nước mắt ngậm ngùi thú nhận em thương xót anh lắm! Sau những năm quá dài… nay em đã hiểu: cho dù con sói có rụng hết răng và lông, nó vẫn là một con sói già lầm lì ương bướng, ngoan cố đáng sợ, khiến người ta dè dặt xa lánh. Nếu anh muốn thành công trên mọi lãnh vực [kể cả “hôn nhân lờ tạm bợ cuả sợi giây lòi tói” ăn vờ ngủ vẩn với tình hờ và hủ mắm nêm của mụ Li Lac. (Ồ! Ở Cali có con đường mang tên Lilac thiệt mà anh), -như anh từng nói-, anh phải học cách “dấu nhẹm bản lãnh con sói già” trong tim. Anh không nên lập lại thêm lần thứ mấy mươi về sự tàn nhẫn “flirt” đùa cợt tình cảm với người khác phái, dẫm đạp họ ngả gục xuống trên mặt đất. Nhe.

    Anh tưởng rằng mấy bà ấy thật tâm yêu thương anh (như em) sao? Anh đã “bị họ trấn lột” sạch sành sanh mọi thứ trần truồng, như con sói già rụng hết lông và răng chăng nữa. Vậy, anh có biết “mụ thợ săn Lilac ấy” bẫy con sói bằng cách cắm những cọc cán dáo lún sâu xuống đất, ngọn dáo bôi đầy máu chiả lên trời. Khi con sói đi qua rừng cây, nó ngưởi được mùi máu tanh, nó say mê vui thích đứng lại nhắm mắt liếm hoài máu trên ngọn dáo, liếm mãi. Khi nó bị ngọn dáo cắt đứt lià cái lưỡi nó không hề biết đó là máu cuả chính mình, lúc tỉnh ngộ, con sói đau đớn ngửa mặt lên dưới ánh trăng tru hú vang động khắp khu rừng (như trong hình ảnh miêu tả về loài sói). Nhân đây, em kể hầu anh nghe câu chuyện: "Có một nông thôn kia được một nhà triệu phú gọi đến, nhà triệu phú nói:
    - Anh đi dọc theo khu đất nầy, nếu anh đi tới đâu, thì đất đó là của anh. Tôi cho anh.
    Ông nông thôn rất mừng, ban đầu ông khoan thai bước đi từng bước, sau đó ông đi mau hơn, ngoảnh lại nhìn sau lưng mình thấy chủ còn đứng đó, ông không rảo bước mà chạy rất mau, nếu ông chạy xa chủ bao nhiêu, thì phần đất sẽ thuộc về riêng mình càng nhiều bấy nhiêu. Lúc cắm cây sào lên chỗ phần đất cuối cùng không thấy chủ nữa, ông dừng chân ngồi nghỉ. Tối đến, ấy là lúc ông phải quay trở về nhà như lời chủ dặn. Vì chạy quá xa, quá lâu, nên trời tối đen không thấy đường, khi mò đến gần nhà thì ông rất mệt, ngất xỉu, đứt hơi và chết. Ông ta chỉ nằm vỏn vẹn dưới ba tất đất.

    Trong chuyện "mụ lòi tói Li Lac và Anh", có sự lợi dụng nhau đê tiện, thô bỉ, cùng “thủ thuật” tham lam cuả con sói, tên thợ săn, sẽ giống hệt người nông dân kia đấy. Hạnh phúc hay tàn nhẫn đây? Gieo “giống” nào thì gặt “nhân” ấy đã lạnh lùng dấn bước vô đời sống anh rồi, em không cười nhạo khinh rẻ lúc anh sa đoạ, vấp ngã rồi sụp đổ đâu. Có những người chỉ cần trìu mến nhìn vào mắt nhau vài lần, là có cảm giác ngất ngây, vững chí tin tưởng chung thủy yêu nhau say đắm kéo dài đến vô tận, là có thể tìm được một nửa kia của chính mình, như một cạnh sườn (hụt mất) của ông Adong mà có bà Eva. Khi em đã chính thức có được một chiếc xương sườn thứ 6 nơi hông trái, ở gần buồng tim của anh rồi. Thì hà cớ sao anh bị kẻ kia lừa, ăn cắp mất “chiếc xương sườn” vậy hở! Em chẳng hiểu trong lòng anh có nghĩ như em không? Bây giờ thân anh xiêu vẹo, suy sụp, cuộc sống ấy sao thảm thương chua xót thế nầy? Tội nghiệp anh biết chừng nào! Vũ khí của người chân tình tín trung thương yêu là sự say đắm đầy tin tưởng & lòng tự trọng. Vẫn khốn thay lòng tự trọng của anh bất hạnh hơn sự bất hạnh của em: Đó là anh đã bì bõm dày xéo dẫm đạp lên những vết chân cũ trong vũng bùn sình mà anh từng đi qua.

    Em không thể khóc một cuộc tình đan trong mây, có lẽ qua thời gian bụi phấn bay theo gió tàn phai vỡ vụn, sóng và gió cuốn tình bay đi biền biệt trong không gian bao la, theo hàng nước lăn tăn trong khoé mắt trôi mãi trôi hoài ra ngoài. Nay em không thể khóc nữa khi nhìn anh bi thương, bởi vì nước mắt mình ráo hoảnh từ lúc nào, chẳng rõ, nước mắt bây giờ là thứ xa xí phẩm như rượu cạn kiệt xuống đáy chai. Để rồi hằng năm anh viện cớ nầy, cớ nọ… luôn ngửa tay xin tiền làm phiền em và nhiều người bạn phương xa. Em thật tình ao ước, mong muốn anh có sự sống tốt đẹp hơn; dù sao em vẫn có lòng nhân đạo vì chút tình riêng nghiã cũ, dẫu sao “tình cũ không rủ cũng đến” cơ mà. Một lần yêu thôi là suốt đời nhớ tưởng, huống chi mình đã có nhau gần như suốt cả đời người!

    Biết anh ưa thanh nhàn sung túc, thật tâm ngay lúc nầy em muốn gởi nhiều tiền về giúp anh như thuở nào, vì em có thừa khả năng (khi chúng ta xa nhau, em đã về Việt Nam năm lần không muốn để anh biết, hoặc gặp anh. Em lui tới những nơi ông bà bô lão, trẻ thơ nghèo khổ ở vùng hẽo lánh xa xôi đang cần… “hảo tâm”). Hôm nay em cũng muốn tặng riêng anh nhiều hơn họ! (tất nhiên). Nói nào ngay thiệt tình bi giờ “em vẫn còn… muốn cho anh hơn thế nữa, nếu anh nhận lỗi mình cư xử không đẹp không đúng với em,
    là em có thể…”. Nhưng các em, nhất là bạn hữu quyết liệt can ngăn, cấm tiệt, họ thừa biết “cái tẩy” anh ưa lừa dối gạt gẫm người khác nhiều phen. Họ bảo:
    - Mầy quá ngu si đần độn, mê muội mất cả lý trí, (khi giúp người khốn nạn, chỉ biết ăn chơi đàng điếm, hắn chuyên lừa phỉnh bạn, hoang đàng). Tại sao mãi đến bây giờ mầy vẫn chưa chịu mở mắt ra, tỉnh ngộ hả? Đồ ngu! Bọn tao quyết liệt phản đối việc mầy giúp đỡ cho hắn. Ngu vừa vừa thôi.
    - Thì tôi “thương người như thể thương thân” í mà.
    - Nên để tiền đó giúp cho người thật sự cùng quẫn, nghèo khó, bệnh tật hoạn nạn, hơn là giúp kẻ mạnh khoẻ phây phây kia… chỉ biết chuyên “làm tiền người khác”.

    Buồn thay mọi thứ huyền trầm phù phiếm nhanh chóng biến tan trong phù hoa phân ly rồi. Mất hết thật vẻ nhìn trìu mến, tư lự, bâng khuâng, băn khoăn ray rứt, xót xa dày vò liên lũy. Không còn gì cả! “anh của tôi” ơi! Từ hạt sương mọng giọt lung linh dưới ánh nắng rực rỡ, từ tình yêu lý tưởng nồng nàn, đắm say tin yêu mà em trân quý tôn thờ thần tượng trong giấc mộng hoài hương xưa. Giờ đây đối với em bập bùng chao đảo và rỗng tuếch. Chả là gì! Chẳng có giá trị ti tí mảy may hạnh phúc nào. Ngược lại nó dày vò bất tận là đằng khác. Nếu bây giờ em trở về với anh, có nghĩa là đồng tình dấu nhẹm những chuyện anh lừa dối các bạn, em và con gái, mà anh luôn sai phạm sao!? Tình yêu giống như chiếc răng sâu bị đau nhức, biết nó hư mà cứ tiếc, để đó, lần lữa không chịu nhổ quăng đi, thì mình sẽ đau nhức hoài. Nhưng mà, bây giờ… chẳng thà mình chịu đau một lần, nhổ quách đi, rồi sẽ hết đau mãi. Phải không nào, thưa anh?

    Trong cuộc lột xác đổi đời, vĩnh viễn em buông xuôi hai tay, không thèm đem theo chút hành trang, cho dù những kỷ niệm ru tình vẩn vơ bé tí xíu, nhỏ nhất. Mặc dù anh từng nói: “Không có ai rộng lượng tha thứ, bao dung, kiên nhẫn chịu đựng, cần cù, chu đáo và hiểu anh trọn vẹn- như em”. Thiên đường hay điạ ngục chẳng ở nơi nào xa lắc, mà chính tại nơi trần gian đây, là do cách suy nghĩ, hành xử và hoàn cảnh của mỗi người trong gia đình. Em cảm thấy quá buồn, hổ thẹn cùng thất vọng não nề, chiếc “đồng hồ nô lệ thời gian & tình yêu giữa em và anh” không còn ung dung reo vui triền miên kêu tích tắc mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi tháng, mỗi năm… khi lên dây thiều nó dần dà kêu cót két, rột rạc, khô khan, rồi nhão nhoẹt nghe kỳ lạ và đứt phựt, chết hẳn, chết tiệt trước thời gian khi ta muốn vượt đến đích rồi.

    Đúng ra, em đã cơ cùng gian nan lặn lội vượt qua được những ngọn đồi an toàn. Lúc xưa em ứa hàng nước mắt, cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Ngày nay em đơn độc vượt qua lưng chừng ngọn núi cao ngút to lớn sừng sửng chấn trước mặt, e rằng sức cùng hơi cạn, em không đủ khả năng kiên cường nhẫn nại bước thêm bước nào, khi đôi chân em vụng về rã rời run rẩy. Anh giống như ngọn núi lớn sừng sững chận đứng trước mặt, khiến em cảm thấy rùng mình sợ hãi và ngộp thở, em không thể ngoảnh nhìn lui phía sau, vì sau lưng em là một dĩ vãng dài ngoẵng có vực thẳm sâu hun hút. Mình đã bao phen bẽ bàng quay lưng với nhau, đối diện với vách núi đá cao ngất, và vực thẳm chênh vênh cheo leo sâu hoắm. Bây giờ làm sao quay mặt lại nhìn nhau, khi mình không thành tâm tôn trọng yêu thương người đối diện!

    Anh giống như một quyển sách dày, em cần mở ra nghiêng cứu đọc từng trang, rồi nhắm mắt từ từ nghiền ngẫm suy nghĩ… từ ký ức xa xăm tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua, em ôm dĩ vãng để sống mãi với thời gian, lúc đó em mới thấy rõ, hiểu và biết hết ý nghĩa của những uẩn khúc buồn vui trong cuộc sống từ anh. Thời gian dài trôi qua, có cố gắng cỡ nào cũng chẳng thể ruồng bỏ quá khứ khi ngày qua ngày… quá khứ còn đeo bám theo mình, cho dù đi xa tới đâu nó vẫn hiện hữu, tồn tại. Em cứ tưởng bản thân có ý thức là mình chưa thể quên, ấy thế mà cuối cùng em đã vượt qua. Hôm nay chỉ mới đọc tới ¾ trang sách thì em nhận ra "chân tướng" cuả anh. Vậy thì, đối lập với tình cảm hiện tại là sự lạnh nhạt thờ ơ, để rồi em thừa bản lãnh giải quyết tình trạng nan giải hiện tại. “Quyển sách đời ấy” chẳng còn hấp dẫn, mối tơ duyên nầy sai từ thuở ban đầu trẻ dại (lúc chị Tư có “nhận định” khá chính xác, đứng đắn về anh). Lúc đó em không nghe lời chị khuyên can. Nay em chân thành hối lỗi, ray rứt dày vò. Phải! Bây giờ mới ra nông nỗi, ta đấm ngực tự trách thân: lỗi tại tôi mọi đàng, chớ trách ai.

    Ngày xưa đôi ta ngồi ở cuối bờ hồ Xuân Hương, em thấy trên viền mi anh long lanh giọt nước, khi đó anh nói: “anh đã phóng lao, thì phải theo lao”. Nghe vậy, em ngẩn ngơ nhìn anh mà chẳng thể khóc. Quảng thời gian dài đằng đẵng trôi qua, anh che hai mắt, bịt hai tai hối hả chạy về phiá trước. Đến lúc anh mở mắt ra, thì dĩ vãng đầy ắp xô kéo anh tụt về ngỏ hẹp chằn chéo không lối thoát. Nào ngờ… khi anh “theo lao” để rồi sau bao năm, mũi lao ấy quay lại cắm phụp vô tim vô óc anh (kể cả em) có những vố đau điếng đến dại người. Thời khắc nầy nầy em mới ngộ ra mũi lao mà anh phóng đi đã và đang “sống” cùng anh. Em đọc mẫu đối thoại ngắn sưu tầm lượm lặt ở đâu đó: Một người cha nói với con của mình:
    “Hãy nắm chặt bàn tay của con lại, nói cho cha biết con có cảm giác gì?”.
    Người con nắm chặt tay: “Hơi mệt ạ”.
    Người cha: “Con thử nắm chặt hơn nữa xem!”.
    Người con: “Càng mệt hơn ạ!”.
    Người cha: “Vậy con hãy buông tay ra!”.
    Người con thở phào một hơi: “Thoải mái hơn nhiều rồi ạ!”.
    Người cha: “Khi con cảm thấy mệt, nắm càng chặt sẽ càng mệt, buông nó ra, sẽ thoải mái hơn nhiều!”.

    Bây chừ… em cố gắng... đã buông hết, nên an thư tự tại. Nhiều đau thương tinh thần trầm trọng ngút ngàn, thể chất sụp đổ đã qua, em có thể can đảm đứng dậy bằng đôi chân chính mình, nhìn thẳng vô mặt mọi người thân, anh ơi! Em nhếch mép nở nụ cười mãn nguyện! Thôi cũng đành. Vì dù “làm em” mình đã kiên trì nhẫn nhục bao dung chịu đựng và cao thượng nhất, em đã làm hết tất cả những gì có thể cho anh về tình cảm, sự chân thật tín trung, vật chất, tài chánh: kể cả sự rộng lượng, bao dung, tha thứ “vì anh yêu” quá nhiều! Cám ơn anh (chị, em v.v) ... dù sao cũng nhớ về tôi... Bây giờ tôi quá suy yếu, không thể nhớ lại xem, tôi đã từng biết anh (chị, em) chưa. Nhưng mà về tôi (với tôi) giống như chiếc xe lửa vội vã qua khỏi nhà ga, đi đến... (ai biết nơi đâu...). Tôi chỉ có thể chợt thoáng nhìn anh (chị, em) thôi...! Lòng khoan dung (sự tha thứ) và quá khứ (dĩ vãng) đã xoá mờ tôi khỏi cõi đời nầy (thế giới nầy). Amen.
    Tạm dịch:
    THANK YOU all the same for remembering of me...? I am now too senile to recall if I have ever known you... but to me it is like a train rushing past the station heading for (who know where). I only got a glimpse of you...!!! Forgiveness and past have erased me from this world... Amen.
    Ngày nay em ngậm ngùi “rũ áo phong sương” :
    Như cây lá… làm sao đếm
    Cuộc tình rũ áo bên thềm. Thế thôi
    Núi cao chân chồn gối mõi
    Còn gì nữa đâu: những chiều trưa tối
    Sông xưa nước cuốn lá trôi theo thuyền
    Năm tháng qua không ưu phiền giữa thiên nhiên
    Giờ trút bỏ, là nhẹ phần bão tố
    Nhớ chuyện cũ làm chi mùa phượng đỏ
    Theo dòng đời thả áo trôi đi
    Bao phong sương chẳng mộng mị, có lạ gì
    Nếu gặp gỡ mình trang nhã… đi khuất dạng
    Âu cũng là duyên nợ trong định mạng
    Trách chi năm tháng hững hờ
    Em ra đi, ai điếng lặng trông chờ
    Biết rằng nẽo ấy bơ vơ
    (*)

    *
    Tình Hoài Hương
    (*) Thơ Tình Hoài Hương

    July/4/2009
    (Viết từ chuyện buồn cuả TM Ayana & PH Tony

    *
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  2. #44
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Du Hành Từ Vực Thẳm lên Đỉnh Núi Tuyết Palm Springs

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 33

    Du Hành Từ Vực Thẳm lên Đỉnh Núi Tuyết Palm Springs
    Tình Hoài Hương
    ***



    Do hơn nửa tháng trước, bầu trời Cali rất ảm đạm vần vũ mây đen nặng trĩu, trông thê lương và so với những mùa Đông năm cũ, thì năm nay tại Cali lạnh lắm. Sau đó đã mưa to tầm tã suốt bốn năm ngày đêm, nên nhiều vùng núi ở California đã có tuyết phủ dày hơn 5i. Đây là một “hiện tượng khác lạ” rất hiếm khi xảy ra ở vùng có mỹ từ “Cali nắng ấm”. Thế là đại gia đình Nị hân hoan hớn hở rù rì rủ nhau đi leo núi tuyết ở Palm Springs trên cao độ 8,500f, để chơi tuyết, trượt tuyết. Vì, ở Cali mặc dù trời rất lạnh, nhưng có mấy khi dự báo thời tiết chỉ cho biết mức độ tuyết dày cui như lần nầy đâu. Nếu không đi, thì uổng.

    Sau khi năm gia đình đi mua nhiều thức ăn, nước uống, cùng đầy đủ những thứ khi chơi tuyết cần mang theo như: Ván trượt tuyết. Mắt kính Goggles. Giày loại trượt tuyết. Gậy. Mũ bảo hiểm. Găng tay. Bít tất. Khăn quàng cổ. Quần áo lót bó sát ôm thân thể, quần áo dày mặc ngoài. Áo lông thú mặc phủ bên ngoài. Khoanh dây dừa (đề phòng để kéo mấy người yếu từ dưới vực lên trên mặt bằng). Chúng tôi các con cháu tất cả 18 tên đã tụ họp đông đủ ở nhà Nị, họ hân hoan hớn hở vui vẻ sung sướng thoải mái du hành. Đoàn xe gồm 5 chiếc bon bon chạy từ các hướng khác, trong xe các cháu luôn hân hoan ca hát, từ xe nầy gọi phone qua xe khác cho nhau, hẹn ở tụ điểm đúng giờ quy định dưới cổng trạm gác đầu tiên, cách xa chân núi chừng ¾ ml.

    Tất cả đã vui vẻ đến nơi an toàn, xuống xe mọi người đều thay đổi quần áo dạ len dày cui cần xử dụng lúc đi trượt tuyết. Họ nai nịt gọn gàng, mang giày, đội mũ lông, bao tay, mang sky trượt tuyết, vân vân... Tại dưới chân núi xa xa là Top # 1, nơi đây có một xe chữa lửa, hai xe cảnh sát, một xe hồng thập tự Ambulance có còi hụ báo động trên nóc, và lắp đèn tín hiệu. Trong ca bin có hai ghế dành cho tài xế, sau lưng tài xế là vách ngăn chia cách tài xế và khu dành riêng cho bệnh nhân. Khu nầy ở trên vách xe có treo hộp Band-Aid, tủ đựng đồ sơ cứu, bình oxy, máy hút đàm, giá treo dịch truyền, hai băng ca, có hai ghế dựa cho bác sĩ và y tá. Tất cả mấy xe kia luôn đậu trên parking lot, ngỏ hầu lo về việc an toàn cho du khách, hoặc nếu có chuyện gì bất trắc bất ngờ xảy ra, họ sẽ kịp thời có xe chở người đi cấp cứu.

    Khi nhân viên kiểm soát giấy tờ tuỳ thân xong, họ hướng dẫn du khách qua phòng chờ khoảng mười lăm phút, thì thiên hạ xếp hàng theo từng đợt, từng tốp (tuỳ theo số thứ tự đã ghi trên tấm vé, để vào parking lot, rồi tại đó họ ngồi trên những hàng ghế chờ xe Bus. Cũng khoảng mười phút sau xe Bus đến chở cả đoàn lên tầng đồi # 2. Tại # 2, có bốn phòng mua vé: cả đoàn người thứ tự xếp hàng bước tới những bậc cấp của Tram-car chính, nơi đó có một cái sân lát gạch hồng khá rộng, đoàn lữ hành xếp hàng ba hàng bốn dài như “rồng rắn” lần lượt đi vô cổng Tram-car. Giá vé ở Tram-car đưa lên núi tuyết là $39/1 người lớn, người già bớt còn $22, trẻ em $17. Nếu chiếc tính ra, thì sơ sơ một ngày ở đây có thể thu vô tám chín chục ngàn, là thường, (ấy là hôm nay không phải holiday, hoặc weekend; mà thiên hạ lũ lượt kéo nhau đi chơi, dù phải xếp hàng chờ đợi đông hơn kiến).
    Nơi cổng # 3: có nhân viên điều hành mở cửa cho từng người vô bên trong tram-car, mà các con cháu gọi là “khu phòng lồng kính treo lơ lửng khổng lồ".

    Cái Tram hình bát giác toàn bộ làm bằng kính dày cui, ngó ra tám hướng dễ dàng thấy cảnh vật bên ngoài, cột bằng inoc chắc chắn. Tram-car lơ lửng lắc lư trong gió được nối liền với một sợi dây cáp to và rất dài, (to bằng cổ tay của người nam). Chúng ăn khớp sít sao với nhau bởi một cái móc câu ròng rọc to tướng, chạy từ trên đỉnh núi cao nối dài dài xuống mặt đất. Chiếc lồng kính khổng lồ này được trang bị những cây inoc to bằng cổ tay, nối dọc theo chu vi lồng kính là một lan can ionc tự động xoay tròn theo chiều kim đồng hồ (mỗi cửa kính từ dưới chân lên chóp lồng cao khoảng 8f, rộng khoảng 6f). Trong khoan lồng kính có thể chứa từ 20 đến 30 người lớn và trẻ em, cùng các dụng cụ cồng kềnh lủng củng lỉnh kỉnh do cá nhân mang theo.

    Khi đoàn người "thám hiểm" đã vô trong lồng kính an toàn, thì hướng dẫn viên gài khoá cửa, chu đáo kiểm soát rất kỹ những ngỏ ngách. Nị run rẩy lù đù chọn một chỗ ngồi trên bệ, sát cây cần trục đặt chính giữa lồng kính hình bát giác nầy. Người điều hành đã đóng cửa phòng lái, ông bắt đầu mở máy cho Tram-car chạy, thì cây cần trục sau lưng Nị (đã ngồi đây), đang từ từ xoay vòng quanh theo hướng kim đồng hồ. Nhưng cái lồng kính khổng lồ tram-car chứa mấy chục người kia, thì nó xoay ngược lại với vòng xoay tròn của cái kim đồng hồ. Ngộ thiệt! Mặc dù thế, cả hai thứ nầy đều nhịp nhàng ăn khớp xít sao với nhau, không hề rung rinh, hoặc cọ xát vào nhau, không có tiếng kêu rột rẹt cót két nào, mọi thứ đều hài hoà êm ái, chẳng hề có tiếng động, cứ giống như mình ngồi ở trên sofa ung dung uống cà phê và xem phong cảnh tuyệt vời ở ngoài lồng kính vậy.

    Duy có một điều: Khi đến một điểm đúng vị trí nhứt định của tầng núi nào đó, ví dụ như cái lồng kính đã lên cao độ 2000f, là nó sẽ "giao tiếp dây nối kha1c" ở với cao độ 3.000f ; thì tự nhiên nguyên cái lồng kính tram-car chứa từng ấy người, bỗng dưng lắc lư rung rinh chao lượn nghiêng nghiêng, giống như người đang nằm trên võng đung đưa. Cái lồng kính liền hụp xuống, dường như rơi xuống, nghe "cái rột", rồi lắc lư nhẹ nhàng vút vút bay bổng lên cao, như chùm bong bóng thả trên trời lúc có gió thì nhô lên hụp xuống. Mọi người Mỹ, Mễ và thanh niên thiếu nữ trai trẻ khác đứng trong lồng kính đều vui thích sảng khoái níu lấy nhau reo vui sung sướng "ồ" to.

    Chỉ có riêng Nị mỗi lần như thế, là run lập cập, nhắm tít mắt, sợ mất hồn mất viá đến són đái, tim óc muốn bay lên chín tầng mây, hai tay Nị bấu chặt lấy thành ghế, thân thể lạnh toát, mồ hôi hột đổ ra như tắm. Úi trời đất quỷ thần ơi! lúc đó gan phổi ruột phèo mình dường như muốn bóc ra ngoài. “Đường tơ duyên” nối liền đất ở dưới chân đồi mịt mùng với đỉnh núi cao chót vót muốn chọc thủng màn trời, chỉ vỏn vẹn có một sợi dây cáp khổng lồ treo lơ lửng cái tram-car lắc lư chứa 30 mạng.

    Nị sợ hãi, do trí tưởng tượng phong phú mà ra, ví dụ như: ngộ lỡ ra chuyến tram-car nầy lên, chuyến kia xuống, cứ liên tục như thế chẳng ngừng, sợi dây cáp sẽ nóng, sẽ sờn nhão, dãn, sẽ già rệu rạo, sẽ dứt... khi không có điện hoặc trục trặc… làm sao sửa chữa khi bị hư, vân vân… thì nó chơi vơi lơ lửng giưã chín tầng mây trắng ùn ùn bay, gió lồng lộng rít không ngừng bên man tai. Thật chẳng có gì bảo đảm an toàn! thì khi ấy làm sao nào? Nói nào ngay từ trong thâm tâm Nị lấy làm hối hận, lo lắng, bồn chồn, phập phồng run rẩy, sợ hãi không thể tả, vì mình cũng “quá date” rồi, mà còn xiêu lòng ham vui, nghe lời mấy con trai xúm lại dụ khị:
    - Ba mẹ nên đi lên “đỉnh núi thần” vài lần cho biết, đó là cảnh ở trên “Đào Nguyên của hạ giới Mỹ”, rất ngoạn mục, không có nơi nào đẹp tuyệt vời bằng. Lần nầy có đông đủ con cháu sẽ nữa, khi “đời người có mấy gan tay. Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm”. Ba mẹ không đi với con cháu, sẽ tiếc lắm, uổng phí cả đời người, lại mang tiếng là ở Mỹ mà chẳng biết nơi mô tê chi rứa...

    Bây giờ Nị ngồi đây tự dày vò, ân hận sao mình quá ngu dại trót “nghe lời đường mật” cuả con cháu, lù đù leo lên đỉnh núi tuyết làm chi, cho đến nỗi dở khóc dở cười. Thiệt là thân già khú đế, rệu rạo, cà tong cà teo, răng long tóc rụng sói cả đầu, chỉ thấy da bọc trốt, mà còn dại dột ưa thích ham vui! Thiệt tình “đường quang không đi, đâm quàng vào đường rậm mà dỡ khóc dỡ cười”.

    Những khung cửa kính tram-car trong veo rất dày có trục inoc từ từ xoay cái lồng kính chuyển vòng quanh đi tứ phía: khi thì lồng kính nơi Nị ngồi xoay vô núi, lúc thì quay ra đất liền, hoặc thấy đồi tuyết bao la ẩn núp dưới vầng mây vàng. Nị hi hí hai mắt ra nhìn, cũng xuýt xoa công nhận sự phi thường do Thượng Đế tác tạo ra vũ trụ đẹp ơi là đẹp tuyệt trần. Y như Từ Thức lên Đào Nguyên lạc cõi thần tiên, ở trên mây nhìn xuống hạ giới lung linh diễm ảo dưới những lọn mây trắng ùn ùn bay, từng đám hoa tuyết xôm xốp lênh đênh lả lơi trong bầu trời giác nắng vàng chói lói rơi rơi. Nị có thể nhìn lên chóp núi, nhìn xuống thành phố xa xa, cảnh vật hùng vĩ, thi vị, bao la, mênh mông thấp thoáng dưới chân mình rất đẹp...

    Nhưng Nị vẫn hãi hùng vì nó sâu mút tầm mắt. Thật là chóng mặt, xâm xoàng, rùng mình kinh hãi hết biết. Một cái nhà đồ sộ có vài chục tầng dưới đất, mà từ trên cao độ nầy, Nị nhìn thấy nó nhỏ như con rận, con chí. Đi lên thì ngợp thở như thế đã đành, lát chiều gần tối tram-car sẽ đi xuống dưới mặt đất, chẳng biết phải làm thế nào mà “bò” đây? Cầu xin sao cho mình không rệu xuống. Than ôi! Có lẽ do thế mà Nị chỉ là một người tầm thường, không thể trở thành một pilot khí phách đẹp trai hào hoa phong nhã kiên cường (như anh). Hoặc là một anh lính Nhảy Dù đỉnh đạt oai hùng bất khuất từng trải (như cháu Bảo), để có thể ôm mây lãng du vào không gian lả lướt, tự do bay lượn trên bầu trời thênh thang (cũng giống như anh), và (cũng như em) đã từng ôm ấp mộng quan san giong ruỗi sơn hà, giang hồ chu du qua bốn biển, đi khắp đó đây cho phỉ chí tang bồng...

    Họ là những người hùng rất đáng trân trọng mà mình bội phần ngưỡng phục! Nhạc sĩ Lam Phương đã có câu "Em ơi! Nếu mộng không thành, thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm. Đường đời mịt mù vạn nẽo về đâu. Mong chờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu…" - Đúng là non cao đất rộng chẳng thể thấy đâu mà tìm… ra một lối thoát, cho nên bi chừ em mới “chết chìm” trong mây. Ha ha hả...

    Đùa tí cho vui vẻ cả làng. Bây giờ Nị xin kể tiếp: Lúc mọi người: Mỹ, Việt, Tàu, Nga, Thái, Lào, Ấn Độ, Campuchia… đều hân hoan tấp nập vui vẻ bước ra khỏi Tram, họ đi từng hàng dọc theo hành lang lót thảm đỏ mịn và dày dệt hoa văn đủ màu. Tứ bề thì một bên là núi đá cao dựng đứng, ngửa đầu lên mỏi cổ vẫn không thể nhìn thấy chóp đỉnh núi đá ở đâu. Những hòn đá khổng lồ nằm kề bên những hòn đá tự nhiên vừa vòng ôm. Hay những viên đá to to nho nhỏ tròn tròn, dẹp dẹp, hoặc những viên đá tảng hình thể lạ mắt, nhưng tất cả đều rất đẹp (hình thù tự nhiên không do bàn tay nghệ nhân trau chuốt). Nhìn những loại đá
    độc đáo pha màu sắc không trắng không đen, mà ngà ngà nâu nâu dễ ngắm ưa nhìn, khiến Nị nghĩ đến những câu ca dao khá hay của Việt Nam mình thâm thúy tuyệt vời:
    Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
    Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn
    Giận thì em nói vậy, chứ dạ còn thương anh.


    Nị cúi xuống nhìn vực thẳm sâu hun hút, chỉ thấy điệp trùng ngọn cây xanh tươi um tùm và núi tuyết bao bọc tứ bề. Trong nhà khách khá rộng có máy điều hoà, bên tay phải lồ lộ ra một nhà hàng chênh vênh mọc bên mép đá phủ đầy tuyết đóng chặt thành lớp băng dày cui. Mấy con đường uốn lên uốn xuống quanh co từ ngoài nhà hàng ra balcon đều bám đầy những ụ tuyết dày và cao. Một bên là vách núi lồi lỏm dựng đứng, ba bên khác là vực thẳm, có nhiều tầng lớp đá cheo leo nhô ra góc núi, núi trên cao chồng lên núi dưới thấp, núi chênh vênh lưng chừng lơ lửng. Cứ thế núi len lỏi trong đám cây tùng bách, đan quyện những cây sồi chập chùng xếp lớp lớp tầng tầng, ngút ngàn, tạo thành những con đường ngoằn ngoèo len lỏi trong rừng cây khi đi xuống đi lên, nói chung chỉ có hai màu xanh của cây lá và màu trắng cuả hoa tuyết.

    Trong phòng khách rộng nhiều ngọn đèn mờ màu xanh lục. các cửa sổ treo màn voan trắng khá dài, buông thả từ trên trần nhà xuống nền thảm. Tốp người trong đại gia đình Nị lên lầu ba để nghỉ ngơi, nơi đó là khu nhà hàng nổi cao chót vót chọt lên khoảng mây trần ùn ùn bay. Bàn ghế sạch sẽ, tứ bề tường làm bằng gạch, khung cửa kính dày. Chung quanh nhà hàng là vực thẳm, những đỉnh núi đá chen lẫn với giàn hoa tygon, bồn hoa hồng, cây bách, cây tùng, rừng dương nhọn hoắt đang rì rào vi vu reo, gió rủ nhau đùa giỡn xô nghiêng ngã những cành cây uốn cong. Khi có người nào đó mở cánh cửa lớn ở đại sãnh, để bước ra sân sau, mà xuống mấy con đường quanh co uốn lượn theo ven vực sâu lót những viên đá tảng đã đẽo gọt, thì những làn gió lồng lộng xoáy rít lên từng cơn hú, nghe ghê rợn khắp tứ bề.
    Lạnh kinh khủng! Lạnh thấu xương! Nị và một số người Mỹ khác đang đứng xớ rớ gần cửa lớn (do gió thổi tạt vô nên bị đóng ập lại), suýt tí nữa thì lăn cù cù, may mà đầu Nị không va vào góc cái bàn sắt sát đó, nếu gió đẩy họ ra xa xa xí nữa, họ sẽ rơi tỏm xuống mé vực, thì toi mạng như chơi! mé vực nầy nằm cheo leo ở bên con đường đá độc đạo.

    Lồm cồm ngồi dậy, chính lúc đó từ ngoài sân Nị nhìn vô bên trong nhà hàng dưới tầng hai, (là nơi dành để tiếp tân, triển lãm hình ảnh... bán quà lưu niệm, vân vân...) thì Nị thấy ông xã đang lồm cồm lết lết từ hành lang tới chân cầu thang, anh mò vô ở băng ghế dựa, rồi anh nằm vật lên đó, cánh tay thòng xuống, một chân gác trên thành ghế, một chân sà xuống sàn nhà. Nị hoảng hốt đứng lên loay hoay chưa biết làm sao. Lát sau có đứa con trai chạy xuống tầng trệt, con lại nhảy lên những bậc cấp ở tầng hai ngoài sân, (nơi Nị đang dòm vô ô cửa kính). Thấy mẹ, con nói:
    - Hồi nãy ba đã mệt, muốn xỉu. Bây giờ không sao. Con đã khám cho ba, thì biết ba không việc gì. Do ba "dị ứng với cao độ í mà". Mẹ đừng lo.
    Trước khi đi chơi núi tuyết, ông xã bị cảm nhẹ, nhưng các con nài nỉ:
    - Ba đi chơi cho vui, chứ ở nhà một mình buồn!!!
    Nhìn chồng mặt xanh như tàu lá mà run, Nị nói với con:
    - Con cứ đi trượt tuyết với họ. Để mẹ trông chừng ba cho.
    - Dạ. Có gì mẹ gọi phone cho con nhe.

    Người ta đông như kiến, cánh cửa kính to dày ở tầng hai, dù có muốn mở thế nào, cũng phải có sức mạnh mới kéo ra được. Nhưng hôm nay cánh cửa ở tầng hai đã khoá, vì gió lùa dữ dội. Nên Nị chạy ngược xuống phía cửa tự động dưới tầng hầm, nơi nầy kín gió hơn, chung quanh có ba vách núi cao bao bọc. Mọi nơi (của ngôi nhà) đều có hai lớp cửa kính dày cui, một lớp cửa tự động ở ngoài, và một lớp cửa bình thường ở bên trong kính rất dày, cũng là nơi để cho tất cả mọi người dễ dàng đi ra đi vô, mà không sợ có gió lùa hút mình ra ngoài mé vực.
    Nị vô tầng hầm, rồi chạy lên lầu hai, và tới bên ông xã. Mặt mày anh tái méc, môi khô rốc, tróc lở, anh nhắm mắt, một tay gác lên trán, hơi thở yếu ớt nhưng phập phồng dồn dập. Nị nghiêng đầu cúi sát xuống trên mũ len, kêu to tên anh. Ông xã lừ đừ mở mắt lim dim, phều phào:
    - Anh không sao, em để yên anh nằm nghỉ chút xíu, là khỏe ngay í mà.

    Mặc người ta đi qua đi lại, ông xã vẫn chiếm cứ một khoảng rộng, nằm chình ình ngay cù đơ trên ghế dựa. Tuy cảm thấy thật chướng mắt, nhưng Nị ngồi kế bên lo lắng bồn chồn vuốt lưng anh, Nị định gọi nhân viên cấp cứu, thì ông xã mở mắt, dường như thều thào:
    - Mỗi lần anh nhìn xuống chân núi, là cảm thấy quay cuồng, chóng mặt muốn ói thôi, chứ chả phải việc gì.

    À thì ra ông xã rất sợ độ cao. Ngộ ghê! đã hơn 40 năm rồi, bây giờ mình mới chưng hửng “khám phá” ra điều bí mật nầy. Vậy mà làm cho người ta hết hồn hết vía! Ai có ngờ anh thường vỗ ngực khoe với các cháu là “ông già gân” lại nhác như cáy, “đi lâu mới biết đường dài” nhỉ! Thảo nào anh ưa nói câu: “Chú bạo chú khôn. Tôi nhác tôi khốn (nhưng) tôi hãy còn đây”! Hi hi hi… đôi khi ông xã cũng phéc lác tỏ ra ta đây oai dũng, chả sợ hãi điều gì, thế mà anh lại quá sợ con chuột. Ấy mà mình cứ tưởng do “vì cô bán rượu” nên anh mới “say” chếnh vếnh như thế chứ:
    Còn trời còn nước còn non
    Còn cô bán rượu anh còn say sưa.

    Nị tủm tỉm cười đưa cơm hộp cho ông xã, nhưng anh không ăn, nên Nị đi mua nước và mua bánh mì Bate Chaud. Ông xã ngồi dậy, cả hai cùng ngấu nghiến nhai bánh mì, uống nước lọc. Khoảng một giờ sau, thì ông xã ổn định trở lại bình thường. Hai người dắt díu nhau đi xuống tầng hầm mờ mờ ánh đèn tím nhạt (lầu 1, chìm trong nửa hốc đá làm thành một bờ tường). Đi ra cửa nhìn xuống vực thẳm phủ đầy tuyết đông cứng thành những con đường trơn láng, y như lướt trên mặt băng, Nị thấy có những người té lăn cù cù, chổng tay chân lên trời. Vậy mà đám trẻ khoái chí vỗ tay reo cười ha hả. Nị nghĩ cũng vui vui mà sợ khá nhiều, sợ e nguy hiểm. Nị bấm camera quay phim chỉ được mươi lăm phút, không dám tới gần lan can nhìn mọi người nhỏ tí dưới vực sâu.

    Ông xã không dám xích ra gần tới hàng rào ngăn cái sân gạch và thung lũng, anh mới chụp khoảng mười tấm hình, thì có đợt gió lồng lộng đột nhiên ùa về, rung ngả nghiêng những cây thùy dương trồng bên mé đồi, đọt cây thùy dương nằm rạp xuống hàng rào (ở cuối sân sau nhà hàng). Gió rít lên từng cơn. Thật lạnh! Lạnh xoáy vô hai mang tai đau buốt dị thường. Hai người vội vàng kéo nhau chạy vô tầng hầm rất ấm, Nị và chồng mệt mỏi rã rời leo lên từng bậc cấp, trở về chỗ cũ, là nơi ban nãy ông xã đã nằm thẳng cẳng trên sofa!
    Ngồi chưa ấm chỗ, trong phòng khách kế lò lửa toả hơi nóng ra khắp tứ phiá, thì đứa con Út (là đứa to cao khoẻ mạnh nhứt) đang lừ đừ đem những thứ lỉnh kỉnh lên phòng khách, con mệt mỏi ngồi bệt xuống tấm thảm, mặc thiên hạ đi qua đi lại. Con thở hổn hển:

    - Ba mẹ không thể xuống dưới vực thẳm đâu. Mấy anh chị không chơi gì hết, vì ở dưới đó ẩm ướt, quá lạnh. Độ dốc thì cao dựng đứng, con đường nhỏ hẹp mà ngoằn ngoèo, lại trơn trợt, khi đi xuống con nhích nhích từng bước, thì có đỡ mệt, nhưng lúc đi lên con phải lấy hai tay mà từ từ vịn xuống mặt tuyết láng bóng, bò lên. Nên con đi lên càng lúc càng mỏi mệt hơn. Đường rất trơn và lạnh lắm. Mấy anh chị và các cháu đi còn không nỗi, làm sao khiêng vác thứ gì. Con sẽ xuống dưới phụ mấy anh chuyển dần dần đồ đạc lên, vì trời đang đổ tuyết xuống dày và nhiều hơn. Nếu chậm, trời tối, là không kịp và càng nguy hiểm vì không thấy gì.
    - Hãy cẩn thận đi từ từ nghen con.
    - Dạ.
    Ui Trời ơi! Cả một bầy tám đứa con, cộng với bầy cháu tám đứa nhóc nữa. Nghĩ mà run sợ hãi hùng, bồn chồn, lo lắng, băn khoăn, đứng ngồi không yên! Ngoài mặt thì lạnh nhưng trong lòng Nị quắt quay, y như ngồi ở trên lò lửa nung! Nị thì-thầm đọc kinh cầu nguyện, van xin cho mọi sự sẽ bình yên, con cháu và tất cả mọi người đang hiện diện bất kể là ai, sẽ vượt qua nỗi hiểm nghèo.

    Mãi đến xế chiều khi hoa tuyết đã bay trắng xóa ngập tất cả núi rừng, thung lũng, gió ào ào lồng lộng tạt vô các khung cửa kính rít lên từng cơn hú vù vù. Các con cháu tất tả kéo theo những túi đồ đạc lết lết sau lưng mà thở dốc, hai hàm răng tự động va vào nhau kêu lụp cụp hoài. Họ rên hừ hừ, hai gò má lại đỏ au, mà đôi môi khô tái nhợt và run bần bật, tóc họ ướt nhẹp nước vì hoa tuyết rơi dán vô mặt, vô mũi, giống như họ đã tắm trong hồ, quần áo tả tơi xộc xệch. Thật là quá thảm! Vừa lên khỏi bậc cấp cuối cùng ở trong phòng chờ, không cứ gì đại gia đình nầy, mà ai nấy (kể cả Mỹ, Mễ, Thái…) đều nằm la liệt co quắp xuống nền nhà, thở dốc! Y như họ đang nằm vạ giữa bá quan văn võ!
    Bé Matthew nói bằng tiếng Anh:
    - Cháu không bao giờ đi đến đây lần thứ hai.
    Bé Aidyn cũng ngọng nghịu:
    - Em không thích đi coi tuyết.
    - Phải. Chẳng thú vị chút nào!

    Nị lần bước run run lẫn bồn chồn hồi hộp lo sợ, (như lúc ban đầu) vô tram-car để trở xuống chân núi. Khi an toàn dựa lưng vô góc "tường" (làm bằng kính), một tay Nị vịn vô lan can của tram, còn một tay Nị cầm camera quay liên tục. Quả thật phong cảnh buổi hoàng hôn từ trên đỉnh núi ngút ngàn, chập chùng uốn lượn hoa tuyết lẫn trong mây, trong núi đá phủ rêu quá diễm lệ. Lúc xuống giữa lưng núi đá, nhìn xuống thành phố bao la dưới bình nguyên, những ánh đèn lấp lánh nhiều cao ốc sáng từ mọi nhà, đèn xe hơi có dòng đỏ chạy ngược chiều, dòng vàng chạy xuôi chiều, tấp nập nối đuôi nhau xuôi ngược trên freeway, thật là một đất nước diễm ảo thiên đường, tươi đẹp, phong phú, tột đỉnh giàu sang và phù vinh.

    Nị liếc nhìn quanh, thì hầu như Tây, Tàu, Nga, Mỹ, Việt Nam, Lào, Campuchia hay Ma-rốc cốc keng chi, cũng ủ rũ, bần thần, mỏi mệt khủng khiếp! Nhưng ánh mắt họ vẫn biểu lộ sự hân hoan, sảng khoái tự hào mãn nguyện, khi họ đã tận hưởng những phút giây lênh đênh trên không trung tuyệt vời hoa mỹ, trong giang sơn cẩm tú mà thiên nhiên ưu ái đặc biệt ban tặng cho nước Hoa Kỳ diễm lệ. Xin cám ơn Trời.

    Về phần ông xã, sau khi đi chơi núi tuyết đến nay đã nửa tháng qua, ông xã còn ốm đau do thời tiết, do khí hậu, hay môi trường sống bị ảnh hưởng cái cảm cúm cuả miền Đông Bắc lây lan đã tràn về Cali, hay do gió hú thổi vù vù từ trên núi tuyết ở đỉnh Palm Springs thổi vô tim, vô óc, khiến anh choáng váng, quay cuồng, mà phát ốm yếu o ho hen, và nằm vạ từ đó đến ngày hôm qua mới lôm côm bò dậy? Hở ông xã? nằm lì chi lâu vậy mà run cầm cập, ngủ li bì hoài, khiến cho em bị bệnh thật sự, bị lây anh từ bệnh cảm cúm bốn ngày nay, em rất đau, ho khan, đau đầu đau óc, đau ngực. Tết nhất sắp đến, gần kề… nhưng mắt mờ giọt nước, thương thân già khú còn dại ơi là dại… chân tay lỏng lẻo, vì ham leo núi tuyết.
    *
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  3. #45
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default CÔN SƠN * (Côn Đảo POULO CONDOR


    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 35
    CÔN SƠN
    (Côn Đảo POULO CONDOR

    còn gọi: Long Range, hay Côn Lôn LORAN)
    Tình Hoài Hương
    ***



    Côn Sơn Loran (Côn Đảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời vẫn giao hòa nhịp nhàng thắm thiết cùng biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh, xam xám, nhàng nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc lóng lánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh, hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.
    Côn Sơn an tọa tại vùng Đông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Điều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: “Côn Lôn ngộ xá bất nguyên” (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Đơn điệu! Lẽ loi! Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40” 57” Bắc & 106/o 36”26” Đông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36’ Đông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36’ Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Đông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.
    Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bao la, bát ngát triều cường sóng vỗ lao xao. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây. Thế nên, thuở xưa cụ Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) đã làm một bài thơ có tựa đề: "Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn" được chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch nghĩa:
    Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
    Mưa Thu gió Thu âm thầm làm cho mộng hồn ảm đạm
    Tự ta suy đồi mà lòng chưa già cỗi
    Có ai hăng hái mà chí vẫn đang còn
    Gió mây biến đổi thật lấy làm lạ
    Trời đất xoay vần chẳng cần phải nói
    Mỗi khi gặp đàn thơ, treo cao ngọn cờ
    Thẹn mình đánh trống qua cửa sấm

    Và dịch bài thơ ấy như sau
    Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
    Mưa gió trời Thu để đoạn hồn
    Như tớ suy đồi lòng chửa chết
    Ấy ai khẳng khái khi đang còn
    Gió mây tráo chác trăm hình đổi
    Trời đất vẫn xoay một quặng tròn
    Cao ngất đàn thi cờ phất đấy
    Thẹn nghe cửa sấm trống khua dồn
    (HTK)
    Năm. Tháng. Ngày, giờ… ngày cũng như đêm lồng lộng sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây, trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng “làm ngơ” nũng nịu chẳng thèm nhìn về đất liền. Một phần “con gấu” đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt “con gấu” ngâm mình trong nước loáng bạc, "nó" hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập. Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhất ở Đầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường và đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi công dễ nhìn một xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhất nhanh chóng và an toàn tuyệt hảo lúc bấy giờ (1973).
    Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. “Con gấu Côn Sơn” cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn. Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. "Hòn" thì như thế, mà "Bãi" cũng có chút độc đáo qua tên gọi: Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Đất Dốc. Bãi Ông Đụng. Bãi Đầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa ra biển.
    Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm… Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây… vân vân... Ai trong những nhóm tù phạm đó giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vào đài làm việc, họ sẽ được tự do đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ cũng có ít tiền xài, được mua sắm thoải mái trong canteen của Mỹ. Thật ra, tuy ở tù mà họ còn “sung sướng” vô canteen ăn nhậu như ở “Đường Sơn Quán” thoả thuê ha!
    Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Đến "thành phố buồn” mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Đi mãi tận cuối “lãnh địa sầu muộn” ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vào khu rừng bạt ngàn để đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để cho Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế xử dụng. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam. Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan) và dàn khoang Ocean Prospector về phía Đông-nam, cách xa đảo Côn Sơn khoảng 188 hải lý. Những nơi của đài phát sóng đây có nhiều cột antenna cao ngất trời xanh cả trăm mét.
    Hôm trước cái bóng đèn điện ở Côn Sơn bị yếu xìu, nó cứ xìu xìu ễng ễng chớp chớp tắt tắt và “đứt bóng”. Sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn, và tốp quân nhân đi kèm trên phi cơ để “hộ tống một bóng đèn” từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền thì ta không nói, nhưng mà… nhất là nó là "một vật chính" thật quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng “le lói, danh dự” quý trọng kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
    - Suốt ngày nay tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Hôm nay tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh Tony trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.
    Nói xong ông Trưởng-đài mời Hoàng Năm, Tom (thư ký tiếp liệu), và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến để ký nhận). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy tốt bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện tận mắt chứng kiến, rồi cùng ký tên vào. Ông trưởng đài từ tốn đóng dấu lên tờ giấy xong, ông bỏ trong tủ lớn khoá lại. Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo túi haversack to nặng. Đó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vào cột antenna, anh ta từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30’ Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất. Nghĩa cử ấy về sự tận tâm chu đáo trong tinh thần tận tụy làm việc có trách nhiệm thật cao quý của người Mỹ, khiến Năm khâm phục, Năm sực nhớ đến bài thơ "Đập Đá Côn Lôn" của cụ Phan Châu Trinh (1872- 1926) khi cụ bị tù đày ở Côn Đảo, có khác chi Mike bây giờ:
    Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
    Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
    Xách búa đánh tan năm bảy đống
    Ra tay đập bể mấy trăm hòn
    Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
    Mưa nắng càng bền dạ sắt son
    Những kẻ vá trời khi lỡ bước
    Gian nan chi kể việc con con…
    (PCT)
    * * *
    Trước khi ra Côn Đảo, tháng tháng, ngày ngày... mỗi buổi sáng Tony (Hoàng Năm) chỉ có việc lái xe hơi đến điểm hẹn, chú tài xế chở anh vào bệnh xá sắp hàng giữa sân, chờ khám bệnh. Đứng xớ rớ chút cho “có lệ làng”, rồi anh chuồn! Sau nầy, anh vào trình diện tại đại đội hành dinh Không-quân, anh được giao nhiệm vụ “cai quản” độ hai mươi người, thuộc đủ thành phần. Có tên đào ngũ. Có tên thặng số linh tinh. Có tên lính kiễng. Trung đội “ruồi ô hợp” ấy chỉ có hai người sĩ quan, là Năm và Thiếu-úy Tâm. Chả hiểu sao Tâm bị truy nã về tội đào ngũ? Trong khi Tâm còn ở trong bệnh xá rành rành thế nầy nè!?
    Nhiệm vụ của Tony Năm: Sáng sáng cho họ ra sân, sắp hàng, điểm danh, anh báo cáo lại cho Thiếu-tá Chỉ-huy-Trưởng. Cho họ đi vòng quanh doanh trại lêu bêu cúi nhặt vài cọng rác, nhổ vài cây cỏ mọc ven lề đường, nhặt tàn thuốc lá vứt vào sọt rác. Thế là xong. Tony Năm lại cho họ đủng đỉnh vào sân xếp hàng, điểm báo, ung dung đọc vài tin ngắn. Rồi anh ra lệnh cho họ tan hàng. Hàng tháng, họ vẫn an nhàn phây phây lãnh lương. Hàng qúy, vẫn có người đến làm lại sổ sách đàng hoàng (lũng đoạn tài chánh của chính phủ một phần lớn là: do kẽ hở to tát nầy). Năm nằm ở đây từ giữa tháng 4-1968, đến tháng 6–1968, thì nhận được lệnh:
    - Phải chuyển “quý anh” qua bên Tổng Y Viện Cộng Hoà để nằm. Bằng mọi giá, phải cho những người “an nhàn phơi phới” như thế nầy giải ngũ. Vì trong một cuộc thanh tra bên bộ Tổng Tham-mưu thì anh và viên Trung-uý kia, đều "không" có tên trong danh sách Không-quân, họ cho là “tụi nó” đã đào ngũ bên Không Quân rồi?! Trời ơi là trắng trợn và dị hợm! Thế mới chết. “Hai anh tướng con” vội vàng co giò chạy qua bên Tổng-y-viện Cộng Hoà nằm chơi xơi nước. Và, phải làm cách nào đó để được phép chính thức giải ngũ, mà có ăn lương hợp lý. Xét về cánh tay, và chân của Năm bị gãy, thì nay cánh tay đã tạm ổn. Chân phải đi đứng chưa được vững, hầu như bị tật luôn rồi. Nghĩa là khập khễnh chút chút. Nhưng, cứ coi như bình thường, kể như lành lặn chưa đến nỗi phải đi theo kiểu chấm và chấm phết, hoặc tản bộ điệu cha cha cha... thì làm sao giải ngũ đây? Ông Thượng-sĩ ở bệnh viện, cảm thương anh đã rỉ tai bảo nhỏ:
    - Chỉ có cách: tạo ra bệnh suyễn, thì anh mới có thể giải ngũ.
    Thế là từ thời điểm đó, Năm bắt đầu hút thuốc phiện. Anh theo bọn “lính kiễng” thương binh sung sướng nhàn hạ, “nhàn cư vi bất thiện” đi ăn chơi xã láng, hút xách khá nhiều. Mỗi ngày, sau khi làm những công việc nhàn hạ vô duyên của một quân nhân ung dung đi lượm lặt ba bốn cọng cỏ ăn lương, Tony Năm cùng bọn “lu la” kia lủi nhanh vô nhà tên Xì Thẩu ở Chợ Lớn, ông ta chuyên cung cấp bàn đèn, thuốc phiện, và sa đoạ. Giá cắt cổ kinh hồn. Trong mắt anh đã nhìn thấy nỗi quằn quại của một người bị tước đoạt mọi quyền hạng sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi, khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng lì lợm. Như màn voan xám đục giăng mây đen luôn vây kín, từ mọi phía trên đỉnh sương mù.
    Sau thời gian buông thả đời mình trong đau buốt chán nãn tột cùng, Năm muốn “quay đầu là bờ” ổn định cuộc sống nên anh đã lập gia đình. Tưởng rằng “đã yên” nào ngờ… gia đình Năm “lủng củng lình xình” chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp gì, càng rất đau buồn! Thời gian nầy anh đã được giải ngũ. Ở nhà Năm quá chán bà vợ, bà là dân thiếu học mà ưa quậy và phổi bò, bà ưa gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Phần chính do Năm chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: “Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào "ông xã với bà xệ" cũng có... “gấu ó” tưng bừng sóng gió, đay nghiến, dằn vặt xỉ vả nhau, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng "hùng hồn" cùng nhau ẩu đả to tiếng không ngượng mồm, khiến chúng rất “hết hồn hết vía”.
    Ngày ngày anh thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãi… cuối cùng có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Tony có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho anh có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ phải trả lời như:
    - * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhất từ trước tới nay xảy ra vào năm 1557 ở Trung Quốc. Nơi khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Nơi có nhiều động đất và phun trào núi lửa nhất trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là Vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động và nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.
    - * Đại dương lớn nhất trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Đại Tây Dương, có độ sâu trung bình là 3,9 km.
    - * Nơi duy nhất có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.
    - * Điểm tận cùng của nước Mỹ về phía Đông là đảo Amatignak, Alaska. Điểm xa nhất về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Điểm xa nhất về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Điểm xa nhất về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.
    Tony Năm ghi nhớ, nên anh đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn nhất, Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã cố ý trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Được làm việc, nhưng với điều kiện là Năm phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, anh cảm thấy thật hào hứng thoải mái, tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật.
    Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng anh được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thật thú vị. Nói ra chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo nhưng đầy đủ tiện nghi “sảng khoái” như ở đất liền. Có điều là “tụi mình” không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết.
    Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trại để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy người, đến những “em” binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài, để lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu, vân vân...
    Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kỵ là Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku, anh ta bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” trong cơn say túy lúy, chỉ “muốn xàm-xỡ” với mụ vợ “ông thầy” (của Kỵ mà thôi!)!! Dù họ chưa rờ mó chắm mút xí xi nào với “ngài phu-nhân” trét phấn tô son, mụ chưng diện lòe loẹt, đỏm đáng, hở hang khêu gợi quá lố, mụ ưa phô bộ ngực xề xệ độn nòng coi phì nhiêu ra, chả trách ai mà không thích lom lom dòm. (Chớ chẳng phải họ muốn xàm xỡ với vợ của mình, dù vậy Kỵ bỗng muốn dợt le, nổi máu “yên hùng” tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác)! Kỵ bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta ân hận thì đã… ra Côn Đảo mà… ngồi.
    Hằng ngày, Tony Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của anh mỗi ngày ở Côn Sơn là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike khi có việc cần. Hết giờ, Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá, tôm hùm, cua, sò, ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.
    Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Tony Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng CÔNG TY). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 Dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền điều trị. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, và làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ đợi. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, nên nằm đó điều trị hai tháng.
    Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vào thăm anh đã đành. Còn có con bồ cũ ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ đang tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghe… thì bà xã anh lù lù xuất hiện, bà ta nổi máu ghen la lối mắng nhiếc um sùm xong, bà ta xông tới một tay túm mái tóc dài của con bồ, một tay bà ta thoi đấm túi bụi lên mặt mũi cô ta đến xịt máu, khiến con nhỏ xanh mặt lủi mất. Năm đang nằm trên giường không kịp phản ứng, anh mắc cỡ cứ thộn mặt ra chịu trận lôi đình từ vợ trút xuống.
    Khi Tony Năm khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Tony Năm đã siêng năng làm việc; đồng thời được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, Năm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên anh được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, lần nầy họ cho Năm vào làm tạm “gác cổng” ở văn phòng chính tại đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi vào Năm làm “trợ lý” cho một người nữa, anh lo cỡi xe cúp đi lên đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt.
    Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm đi làm một bản đồ, trong đó Năm ghi rõ ràng tất cả địa chỉ, nơi nào nhân viên Mỹ đã, đang ở tại Sài Gòn, các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con từ Mỹ đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “sếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”. Tony Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam! Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “sếp” gọi Năm:
    - Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
    Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
    - Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm.
    Năm giống như:
    “Thằng Bờm có cái quạt mo.
    Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
    Phú ông xin đổi một xâu cá mè
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
    Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
    Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
    Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười”
    Ha ha ha !
    *
    Ừ thì… trước năm 1975, “Bờm” cứ thoải mái vui vẻ cười ha ha ha đi, để rồi… nếu sau ngày 30 tháng 4 mất nước, mà Bờm không biết lo giữ gìn đất nước quê hương Việt Nam cẩm tú trường cửu và vĩnh thịnh trong độc lập tự do, đó là hòn ngọc viễn đông vô cùng trân quý, và Côn Sơn (Côn Đảo Poulo Condor) thơ mộng tuyệt vời đầy rung cảm; “nếu” bị lọt vô bàn tay khát máu của Tàu Cộng… Thì, “Bờm” không còn cười ha hả nữa, mà Bờm sẽ hối hận ôm mặt khóc hu hu hu, là đã muộn mất rồi! Khi đất nước Việt Nam thân yêu nhuộm máu Trung Quốc, chúng trắng trợn ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế, dùng mọi thủ đoạn, vũ lực thô bạo cưỡng đoạt & thủ thuật cướp đoạt chủ quyền cuả Việt Nam, chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa - đấy là hải đảo huyết mạch nằm trên tuyến đường chiến lược quan trọng; rồi Đèo Ngang, Hà Tĩnh… cũng đi đon!
    Thế nên Trung Quốc chủ trương bá quyền độc chiếm (từ eo biển Malacca, sẽ lấn đến các nước Đông Bắc Á, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…). Lại thêm những vụ: dân Trung-quốc “núp bóng” người Việt bằng cách đưa tiền tỷ cho người Việt có điều kiện đứng tên mua nhà ở ven biển, sông ngòi, hải đảo… Họ mua hơn 246 lô đất ở Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cụm đất rộng lớn nầy có thể chứa hơn 100.000 người, làm đặc khu cho người Trung-quốc ở. Đây cũng là kế sách di dân tuyệt hảo cuả Trung Quốc chuyển sang Việt Nam; (chính phủ Trung Quốc sẽ đỡ mang vác gánh nặng hơn một tỷ ba con dân nước họ). Thế mà số ít người Việt “chỉ đứng trên danh nghiã “hợp tác, hợp te, quản lý hờ” với “con đường tơ lụa”, còn mọi vấn đề khác đều do Trung-quốc sở hữu làm chủ; xây khách sạn, lập công ty thương mại nầy, công ty sản xuất, hoặc nhà hàng ăn uống, du lịch nọ! Đó là vấn đề chính yếu đáng sợ nhất!
    Bây giờ nhà nước Việt Nam còn “làm” vụ động trời khác -đề xuất lập ba đặt khu “thuê đất” 99 năm- Hiện nay Trung-quốc đã “lọt thỏm” vô những yếu điểm quan trọng như Đà Nẵng, Nha Trang, Vân Đồn, Quảng Ninh, Bắc Vân Phong, đảo Phú Quốc… vẫn là điều phi pháp! Đê hèn. Ôi! máu sẽ chảy từ chân núi Bayan Har qua các dòng sông: Yanguoxia, Bapanxia, Daxia, Qinglongxia, v.v… (Tây Tạng, Trung Hoa), máu ngoại bang thắt bím đuôi sam tuôn trào khắp mọi nơi, trôi về trên non sông gấm vóc quê ta, là máu thấm đẫm đến từng chân tơ kẽ tóc dân Việt! là chúng nuốt chửng, nuốt trọn Việt Nam rồi – thì từ đây sẽ “sụp đổ & tàn lụi suốt bao thế hệ, từ đời chúng ta và hậu duệ sẽ đau khổ, ngậm ngùi cay đắng, xót xa cùng quẫn dài dài. Vậy thì người Việt (chúng ta) sẽ ngao ngán cúi gầm mặt, đớn đau lủi thủi quay trở lại trang sử buồn… trên những con đường đất nhuộm đỏ máu tươi rất gập ghềnh, hoang phế… (mà tổ tiên đã từng trải qua đầy gian truân khổ ải, lẫn chông gai. Ngỏ hầu cho Việt Nam “sống” vững mạnh tới bây giờ… mới có chúng ta).
    Quyền lực vinh sang hiện đang “sống” ở trong tay đảng và nhà nước đó thôi, nó như một toà lâu đài rộng thênh thang và quá cao, nếu biết cách xây dựng nền móng và duy trì cho vững bền; thì trường cửu và vĩnh thịnh không cứ gì cho chính thân, mà đất nước và con dân cũng được hưởng nhờ “ơn mưa móc”. Bằng không... một khi chân móng và bức tường rạn nứt lung lay, ắt có ngày sụp đỗ và "chết". Vấn nạn nầy cũng tương tự như “dạy học” và “học tập” là chúng ta đi tìm con đường chính chắn, đúng đắn, đầy nhiệt huyết cho chính bản thân. Nếu sai lạc những nguyên tắc căn bản về: ngôn ngữ, xuề xòa cách phối trí điều hành, không tôn trọng về tự do ngôn luận, tự do cá nhân, tướt đoạt quyền công dân, cùng sự giáo dục không đoan chính, “cả vú lấp miệng em” bóp méo sự thật và chà đạp lịch sử cuả dân tộc Việt Nam từng quật cường đứng lên xua đuổi giặc ngoại xâm (như tổ tiên ông cha chúng ta đã từng thể hiện); sẽ khiến trí tuệ và hàng lớp thanh niên của đất nước đó bị băng hoại đào thải, hỏng cả một dân tộc, mất gốc và tàn lụi theo thời gian, làm hại cả dân tộc & thế hệ con em tương lai. Cớ sao đảng và nhà nước hiện tại, hay thằng Bờm có cái quạt mo ngày xưa lại dẫm chân lên vết xe cũ, trùng lặp một 1.000 năm đô hộ giặc Tàu lần nữa, mà không sáng con mắt ra? – hay vẫn do chủ nghiã: “100 năm trồng người”?
    Lúc đó “dân nước ta” sẽ bị ngoại lai đô hộ, thống trị trong xiềng xích nô lệ khổ ải trầm luân suốt kiếp! Đã mất Hoàng Sa và Trường Sa rồi, không chóng thì chày đảo Phú Quốc, Côn Đảo, vịnh cảng quân sự Cam Ranh… & những nơi thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam; là “yếu điểm quan trọng nhất, là pháo đài khó công nhưng dễ thủ”, cũng tương tự na ná -sẽ rơi vô tay bè lũ khát máu Tàu cộng cho mà coi- Thế thôi! Người Việt Nam từ bé chí lớn không thể hết nguôi từng cơn rúng động choáng váng, rụng rời, bàng hoàng rơi lệ, vì kẻ tội đồ bán đất nước.
    Tàu chệt đã tràn ngập trên những vùng đất quan trọng ở khu phố Tây sầm uất, (thuộc thành phố Nha Trang). Tôi đến Nha Trang vào tháng 10 năm 2017 mà tưởng chừng như đang đi lạc trên đất nước Tàu đông đúc náo nhiệt ồn ào kinh khủng! Trong nhà ngoài phố đều xuất hiện người Tàu, chữ viết trên tiệm ghi toàn tiếng Tàu & khu Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trung – Thiệt tình! Cho đến bây giờ mà Đảng và Nhà Nước không có những “nhân sĩ trí thức” có thể chế, có ý thức trách nhiệm và tinh thần tự tôn dân tộc? vẫn “tập trung phá thối” không chịu mở mắt ra!? Trời ơi! Giờ phút lâm nguy nầy, mà đảng còn ru ngủ dân Việt trong chiêu bài mị dân bán nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc” sao ta? Hãy tỉnh táo lại đi. Chuyện đó “xưa rồi Diễm, xưa rồi Bờm” !!!
    *
    Tình Hoài Hương

    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. #46
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Cố Thiếu Tá Không Quân: TRƯƠNG PHÙNG

    Đôi lời phi lộ

    Kính thưa quý độc giả tôn kính,
    Truyện dài "Huấn Luyện Phi Hành" chỉ còn vài chương nữa là chấm hết.
    Dạ thưa, tôi ghi chuyện "phi hành"... mà vô tình để "lọt mất" những vị anh tài Không-Quân rất phi thường, kiệt xuất khác còn hiện hữu, (hoặc đã tạ thế như quý anh: Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập.- Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà. Đại Uý Không Quân Trần Thế Vinh... Trung Uý Nguyễn văn Lộc, Hoa tiêu Phi đoàn 548 Ó Đen. Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan.- Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. & vân vân, v.v...), quả thật là một điều rất thiếu sót, và đáng trách (khi tôi viết riêng về ngành nầy). Vậy, xin quý vị rộng lòng thứ lỗi. Nay tôi mạn phép ghi tiếp một trong những vị anh hùng quả cảm, đầy nhiệt huyết cuả ngành Không-quân QLVNCH, mà tôi rất kính trọng và ngưỡng phục:

    Cố Thiếu Tá Không Quân: TRƯƠNG PHÙNG
    (tưởng niệm 44 năm Thiếu Tá KQ TRƯƠNG PHÙNG: 29/4/1975 -> 29/4/2019)
    Tình Hoài Hương
    ***

    ***

    Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, phi cơ đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
    - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!
    Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo bốn chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, vì thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt có tới bốn chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
    - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
    Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc ấy vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình, rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
    - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
    Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:
    - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì, chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật!
    Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom” - (một chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom”.
    Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5, họ cho biết là:
    - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
    …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra (-không biết vì lý do gì-) !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần, vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện, nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại, bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây.
    Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một. Tôi vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay! lúc ban chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37. (Sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà”, nó bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).
    Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!
    Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
    - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?
    Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi của mình”, (vì thiếu cảnh giác, đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát). Đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lỗi lầm” ; tôi đã bật lên tiếng nói:
    - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
    Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
    - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?
    Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh Phùng lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu, nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ! Anh Phùng nói:
    -… Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
    Rồi anh nói tiếp:
    - Bất cứ giá nào, mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
    Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
    - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!
    Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quầng lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay, anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
    - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…
    Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh ở PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
    - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.
    Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu (gần giống như răng các bô lão rụng, hu hu!... nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" í mà). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off", và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
    - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
    Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
    - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
    - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!
    Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
    - PL51 in hot và thả từng trái một!
    Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
    - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
    Tôi hỏi lại:
    - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
    - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
    - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
    Khoảng 15, hai mươi phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
    - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, tôi nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
    Anh Bảo liền cãi chánh:
    - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
    Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
    - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
    Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
    - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
    Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
    - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear” (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
    - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
    Tôi được nghe Saigon Tower trả lời:
    - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!
    Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã cho phi cơ đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút, nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".
    Ngay lúc đó, trong lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng!
    Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom, cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!
    Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
    - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.
    Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
    - Số 1 thả bom “như để” . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
    Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
    - Phượng Hoàng 11 Hold High and Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
    Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
    - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11. Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
    Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
    - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
    Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
    - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
    Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
    - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
    Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
    - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
    Tôi vội bấm máy trả lời:
    - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!
    Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp cho dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
    - PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
    Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
    - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
    Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
    - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
    Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
    - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
    Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
    - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
    Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
    - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
    Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3 touch down"!
    Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
    - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
    Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống (*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoẽo đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
    - Nhảy dù đi…
    - Nhảy dù…
    - Nhảy dù nhanh lên…
    Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng không hề muốn mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.
    Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi… chờ hoài… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
    - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!
    Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn.
    Sau khi Quân-cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), tôi không nói được một lời gì với vợ con, (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
    - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
    Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!
    Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, anh thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận. Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Anh oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).
    *
    Trần Hoài Hương

    ***
    Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 ... 2010 và sau nầy:

    *.- Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali.
    *.- Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
    *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.
    1.- Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi... (Trần Văn Phúc) vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỹ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới.
    Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?
    *2.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).
    *3.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?
    *4.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống (*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi)… màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em ở trong phi trường TSN đều thấy.
    *5.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:
    - Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. & Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. & Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.
    *6.- Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (do uống xăng!?). Vì vậy thời gian tôi quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:
    *7.- Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng-quân trong hai tuần lễ vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng sĩ quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu.
    Tôi được hân hạnh cùng bay chung với NT Th/tá Trương Phùng vào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, dùng bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét).
    Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh Văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV đặt rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống”, để bọn cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ VNCH, là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng. Vì vậy sau khi thảo luận, đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-tá Nhã:
    - Đại-tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "truy kích".
    Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
    - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm chờ đến sáng mai, mới có phi vụ rescue. Các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.
    Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi. Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ. Vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần: “mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau”.
    Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ, bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều, cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
    - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết: Tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.
    Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ, với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống tôi thấy từng cụm năm ba tên cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải, và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
    - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).
    Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot khi ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng, để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình, đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng, an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ, dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-tá Nhã đã lưu ý hai lần:
    - Nếu có gì bất trắc, các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
    Anh Phùng cười, rằng:
    - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh.
    *8.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới năm thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.
    *9.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).
    *10.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ, đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy, đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn...
    11.- Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:
    - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
    Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ, là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75 là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”)? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
    - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh, hở?!
    Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
    - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng.
    - Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
    Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
    * * *
    Tình Hoài Hương
    Tác giả chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) và quý vị Không-quân đã có tên trong bài viết} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối, hắc ám của lịch sử Việt Nam.
    * Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
    *
    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  5. #47
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt...

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương Cuối
    Photo by Hoài Hương
    Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt...
    Tình Hoài Hương
    ***



    Một ngày đẹp trời ở miền California đầy nắng ấm, gia đình tôi có vinh dự đi coi Marine Corps Air Station Miramar – tưng bừng tổ chức đại hội ba ngày AIR Show tại San Diego, vào Thứ Bảy 01 tháng 10 năm 2011 – khai mạc từ 8:00am đến 8:45pm. “Hội chợ” hân hoan diễn ra đông đúc, náo nhiệt, vui vẻ, nhưng rất uy nghiêm, trật tự, có bài bản lớp lang thứ tự và vô cùng long trọng, để trình diễn các tiết mục phi diễn (bay bổng) như: Các phi công biểu diễn bay một, bay hai, bay hợp đoàn ba bốn chiếc, bay sáu chiếc, vân vân… với những đội hình máy bay đặc sắc có phi công tinh nhuệ tài hoa, bay bướm, lả lướt, để bay vi vút lả lướt vào thinh không quá ngoạn mục, vô cùng hấp dẫn, tuyệt vời... mà tôi có nằm mơ cũng không thể nào tưởng tượng nỗi.
    Nhưng ở trang nầy, tôi chỉ ghi tóm tắt mấy phần chính tôi ưa thích nhất: Warbird Racetrack/ Individual Fly bys B-25 Mitchell. Navy Trainers Parade. T-33 Shooting star Demo. Dog Fight (F-6F Hellcat/A6M Zero). The Horsemen (Two F8F Bearcarts Formation Demo). Opening Ceremonies. Invocation/ National Anthem/Flag Drop... F–16 Viper Demo. Heritage Flight: P–51. Legacy Flight: F/A- 18 Super Hornet & F-16 Hellcat. AV-8B Harrier Vertical Take-OffF & Landing Demo. US Air Force: Thunderbirds. U.S Navy Bleu Angles. U.S Army Golden Kninghts... F/A 18 Afterburner Passes. Spectacular Fireworks Display.
    Về các đội bay phi diễn cuả quân lực Hoa Kỳ, thì có hai đội bay chính thức vô cùng ngoạn mục, sống động và tuyệt vời như sau:
    * 1- Phi đội Thunderbirds (“Chim Sấm Sét”) của Không quân US Air Force Air Demonstration Squadron, F-16C và F-16D thân phi cơ sơn màu trắng, xanh và đỏ, ở trước mũi nhọn cuả con tàu sơn màu đỏ, kế đến là vòng khoang màu trắng, cuối cùng là vòng khoang màu xanh dương, trên đuôi tàu màu đỏ, có ba vòng sơn trăng to, vừa, nhỏ, trên đuôi tàu sơn màu trắng, điểm rải rác những ngôi sao to nhỏ màu xanh dương. Số thứ tự cuả mỗi phi cơ được gắn giữa hông ở gần bụng con tàu (# 1, or # 2, ...), có hàng chữ United States Air Force ở mỗi bên hông, gần đuôi phi cơ. Gần cửa phi có hàng chữ SSgt Joe Reif ; TSgt Randy Hasenplug. Phi đội bay gồm 6 chiếc F-16, (và một chiếc dự phòng) hoạt động vào năm 1953.
    Phi đội Thunderbirds trú đóng tại căn cứ Không Quân Nellis ở Nevada, gồm có tám phi công, thường biểu diễn đội hình bằng những pha tuyệt vời: trước giờ khai mạc, ban đầu có một phi cơ ung dung bao vùng bay tà tà từng đoạn, bay uốn lượn nhẹ nhàng trên bầu trời rộng thênh thang. Tôi cứ mãi nhìn ngắm chiếc phi cơ nầy, nên không biết từ đâu xuất hiện thêm một chiếc phi cơ nữa, hai chiếc bay chung nhịp nhàng khi lên khi xuống, lúc bay cùng chiều, lúc bay ngược chiều. Tôi đang mãi miết nhìn hai chiếc phi cơ F-16, trang bị máy tạo khói ở vị trí lắp súng 20mm, và coi hai phi cơ biểu diễn động tác úp ngược vào nhau, thật quá kỳ diệu. Thì từ xa xa có thêm hai chiếc phi cơ nữa nhập lại thành bốn chiếc, theo các kỹ thuật thao diễn cùng bay hàng ngang, hàng dọc…
    Rồi bốn phi cơ toả ra, bay đi bốn hướng với những vệt khói trắng, khói xanh, khói đỏ... lả lướt kéo dài ngoẵng sau đuôi. Cuối cùng có sáu chiếc Lockheed Martin F-16 Fighting Falcon đồng loạt biểu diễn những pha rất ngoạn mục: khi thì bay vun vút như mũi tên bắn đi, lúc bay hợp đoàn theo hình diamond. Tiếp theo hai chiếc nầy bay ngược đầu, bốn chiếc khác bay vút lên cao, bỗng nhào lộn, hoặc đâm đầu xuống đất. Đôi khi hai chiếc kia bay ngược chiều mà sà xẹt xuống sát mặt đất. Thế rồi họ cho phi cơ đứng sừng sững tại chỗ (trên không trung không nhúc nhích) một thời gian lâu khoảng năm ba phút, phi cơ lại lắc cánh dựng đầu thẳng đứng mà vút bay lên cao tít chân mây.
    Nhìn những chiếc phi cơ mỹ miều nầy xẹt qua xẹt lại chỉ cách xa nhau trong gan tất, mà không đụng nhau, tôi cảm thấy hồi hộp lo sợ rợn tóc gáy. Thật là tuyệt diệu, quá bái phục, hai tay tôi vỗ vào nhau đã thấm đỏ rần, mỏi mệt vẫn không thấy đau. Tưởng chỉ có mỗi mình tôi lo sợ điều kinh khủng không may xảy ra trên không trung, nhưng quay nhìn qua khán giả tôi thấy rất nhiều người cũng lo sợ như mình, họ bưng mặt quay nhìn xuống đất, hoặc la hét, họ hồi hộp, hãi hùng kinh khủng, lo âu biết dường bao, giống hệt như tôi.
    * 2- Đội Phi diễn Blue Angels cuả Hải Quân: ("Những Thiên Thần Xanh") Blue Angels có căn cứ đặt tại NAS Pensacola (Florida) chuyên sử dụng các phi cơ Boeing F/A-18 Hornet. Blue Angels thành lập vào 21-7-1946, họ được tuyển chọn từ hai quân chủng Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến cuả USA. Tên chính thức cuả Blue Angels là US Navy Flight Demonstration Squadron. Thân phi cơ màu xanh dương, điểm chữ màu vàng nghệ, phi cơ mang số thứ tự ở trên đuôi cuả mình (# 1, # 3, # 6...), chữ US Navy ở giưã thân tàu dưới hai bên cánh, hai bên hông tàu là Blue Angles; có 2 bánh xe ở dưới đầu phi cơ, và bốn bánh xe ở dưới bụng gần đuôi phi cơ.
    Tôi rất thích nhìn những chàng Thủy-quân Lục-chiến & Hải/Không-Quân Mỹ khí phách mà trẻ trung, khi họ ôm mũ bay đi vô trước hàng quan khách, tôi nhìn tận mặt, họ là những vị sĩ quan mang cấp bậc từ Đại-úy trở lên Đại-tá, họ không mặc các bộ áo G-suit, (là bộ áo chuyên dùng để chống lực G khi bay). Họ là những sĩ quan bên Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến điều khiển bảy chiếc máy bay, từ số 1 do Đội-trưởng, và bay dẫn đầu là Trung-tá Hải-quân Ryan Bernacchi) - đến phi cơ số 6 bay đơn phụ là Đại-tá Thủy Quân Lục Chiến Jeff Kuss & Phi cơ số 7 là phi công dự bị & dẫn chương trình do Đại-úy Hải-quân Tyler Davies. Họ vui vẻ tươi tắn, quả cảm và đầy nhiệt huyết, họ mặc áo quần bay màu xanh da trời đậm (Thiên Thần Xanh mà lỵ). “Blue Angels” khi biểu diễn Fat Albert… bay solo qua nhiều phi tác bay vun vút quá nhanh, tôi nhìn chưa kịp vì đường bay xẹt qua bầu trời tuy rất ngắn nhưng vun vút hơn sao xẹt, quá tinh tường, khá lão luyện.
    Kế đến phi cơ đã bay theo đội hình diamond, (quả trám) khi họ bay ngang, lúc bay dọc, khi cho phi cơ vút lên cao, khi phi cơ nhào xuống đất toả ra nhiều hướng thành hình cánh hoa nở rộ trên bầu trời. Rồi mỗi phi cơ vừa bay vừa tự quay vòng vòng trên trời, như chiếc vụ xoay tít ở dưới đất… hoặc phi cơ bay ngược chiều, để “rủ” thêm bạn Blue Angels khác cùng thao diễn những nét nghệ thuật duyên dáng mỹ miều và độc đáo. Không biết từ lúc nào… bất ngờ những chiếc phi cơ nầy đã nhập cuộc thành đội bay Indian File (hàng dọc), hàng ngang. Khi thì bay giống như hình mũi tên phóng xuống gần sát đất, lại bay vút lên trời cao. Bay ngược đầu, bay vòng xoắn, liên tục lắc cánh, hụp lên hụp xuống, v.v… Họ bay gần sát cánh nhau chỉ trong gan tất, mà phi đội bay rất nhanh cùng những pha trình diễn xuất sắc, rất đẹp, tuyệt vời ngoạn mục qua sự lắp đặt thiết bị phun khói biểu diễn. Những chàng phi công trẻ có dũng khí can trường, đầy bản lãnh pha chút bay bướm uyển chuyển kinh khủng, tôi không thể nào diễn tả nên lời.
    Đa số mọi người đều hồi hộp, hoảng hốt, lẫn lo âu, run rẩy, sợ hãi bưng mặt đồng loạt “ồ” lên, reo hò, cùng muôn ngàn tiếng vỗ tay hoan hô nồng nhiệt, để tán thưởng những chàng chiến binh dọc đường gió bụi biểu diễn phi tác lả lướt nhẹ nhàng uốn lượn như để, giống như họ làm trò ảo thuật "bay nhảy" trên không trung! Phần tôi rất kính trọng và mến phục những chàng trai trẻ đầy hiên ngang cường tráng, chuyên nghiệp, khá điêu luyện, hào hùng, gan lì, phóng khoáng, đầy tự tin, dồi dào kinh nghiệm, rất dũng cảm cuả toán bay phi diễn Blue Angels lâu đời nhất trên thế giới, họ có những đường bay ngoạn mục tuyệt vời, tinh tường đẹp mắt, quyến rũ và thu hút khán giả luôn luôn không ngớt vỗ tay trầm trồ ngợi khen, say mê hồi hộp theo dõi nhìn hoài không biết chán mắt.
    ***
    Đoạn Cuối
    Từ hôm tôi có vinh dự hân hoan đi xem Mcas Miramas biễu diễn những phi vụ khá thú vị, hào hùng, duyên dáng, bay bướm & lả lướt, quyến rũ tuyệt vời, cũng như khi tôi đã tận mắt nhìn, tay rờ Catapult, Canopy đang chưng bày triển lãm & những chiếc phi cơ trên bon tàu xong. Trở về nhà, ngày ngày đêm đêm tôi thẩn thờ suy nghĩ mãi... chỉ vì tôi ước muốn ghi lại ít trích đoạn về “Chương Trình Lãng Du Vào Không Gian” mà ngày xưa xa xôi... tôi quen “bạn đường” (có quan điểm, hoặc đồng cảm về vài phương diện nào đó & đi chung trên một đoạn ngắn), người đã tham dự khoá SVSQ Không-quân, rồi bạn ấy kể sơ sài, vắn tắt cho tôi nghe.
    Sau nầy, tôi nhờ ơn từ quý anh Không-quân lão luyện đã am tường, dày dạn kinh nghiệm, chuyên nghiệp, có bản lãnh, họ từng phục vụ lâu năm trong ngành Không Quân cuả QLVNCH, họ ân cần, tận tâm hướng dẫn tôi nên tìm hiểu học hỏi, nghiên cứu thêm ở đâu... về một ngành chuyên môn phong phú, đa dạng, rất tuyệt vời mà tôi đặc biệt rất ưa thích. Thế nên câu chuyện về “Huấn Luyện” được tóm lược những điểm căn bản chính yếu. Trước tiên do những RE: từ quý anh Không-Quân kể như sau:
    * Về việc tuyển mộ thanh niên vào Không Quân, chia ra nhiều giai đoạn: Trước năm 1969 (Việt Nam hoá chiến tranh) ứng viên phi hành phải hội đủ điều kiện:
    - Học lực ít nhất Tú Tài.
    - Từ mười tám tuổi (18) trở lên (không cần sự ưng thuận của người giám hộ).
    - Đầy đủ sức khoẻ: cao trên 1m60, nặng 50kí lô, "pignet" tương đối, tai, mũi, họng, răng đều phải tốt. Nhất là mắt phải 20/20. Ứng viên được khám vô cùng kỹ lưỡng. Có thể nói là gắt gao. Như khoá của tôi số ứng viên khá đông, nhưng chỉ tuyển được bảy mươi người. Sau đó một anh ghi trong khai sanh tên Tây là: Robert Trương Công Thành, nên anh bị loại vào giờ phút chót. (Hỡi Robert… Tây ố là là Pháp ơi!).
    - Khi được tuyển vào Không-Quân, tôi phải ký giấy cam kết phục vụ trong quân đội, hưởng quy chế hiện dịch, tôi không thể giải ngũ trước hai mươi lăm năm (25). (Ngoại trừ vi phạm quân kỹ, hay bị bệnh tật). Điều quan trọng nữa là trước khi học bay, hồ sơ an ninh phải tốt. Tuỳ theo tài khoá, các sinh viên sĩ quan theo học những lớp phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, được gởi đi Mỹ học về các loại máy bay cánh quạt, trực thăng, v.v… (Trần Lương).
    * Khoá sinh được thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Tại đây, tên của khoá được đặt tùy theo năm (thí dụ: nhập ngũ tháng 1/1963, thì tên của khoá học sẽ gọi là: khoá 63 A. Những khoá sau đó lấy tên kế tiếp: 63 B - 63 C ...). Ngoại trừ những khoá đặc biệt như khoá của tôi đông quá, thiếu huấn luyện viên dạy về môn Căn Bản Quân Sự. Nên họ đã gởi chúng tôi qua học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức vào ngày 10/9/1967, để học giai đoạn I. Ấy là khoá đầu tiên của Không Quân đã gởi tới trường Bộ Binh Thủ Đức. Học xong giai đoạn 1, bên trường Bộ Binh Thủ Đức không cho chúng tôi quay trở lại trường Không Quân. Buộc lòng chúng tôi phải "trốn" về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân). Hi hi hi...
    Tôi đi Nha Trang 21/1/1968, gọi là khoá 68 A. Sau đó họ gỡ Alpha của chúng tôi ra, huấn nhục chúng tôi trở lại theo truyền thống của binh chủng Không Quân rất cá biệt. Hoàn toàn khác với quân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hay quân trường Thủ Đức. Trung Tâm của Bộ Chỉ Huy Sinh Viên Sĩ Quan Không-Quân Nha Trang gồm có cấp Đại Đội, Trung Đội... để dìu dắt Sinh Viên Sĩ Quan đàn em. Đối với Sinh Viên Sĩ Quan đàn anh, tất cả sẵn sàng "đón rước" khoá đàn em, (ngoại trừ khoá đàn anh, trên một khoá, thì không được can dự).
    Vừa xuống máy bay, mới bước vào ngưỡng cửa TTHL Không Quân Nha Trang, ai ai cũng náo nức xôn xao, vui vẻ háo hức chờ đợi. Theo truyền thống của Trung-Tâm Huấn Luyện, ngày vào quân trường, là ngày quan trọng nhất đối với Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân, gọi là "buổi chào mừng Quân Trường". Bỏ xuống bên lề những quân trang lủng củng, khoá sinh tập hợp lại trên sân, điểm danh xong, là khoá sinh bắt đầu chạy bộ về sân cờ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân (vì không có Vũ Đình Trường, như ở các quân trường khác), tôi bắt đầu chạy vòng quanh doanh trại. Dĩ nhiên các Sinh Viên Sĩ Quan cán bộ chạy theo, họ hết lời doạ nạt, "hò hét rền vang” muốn bể cả Trung Tâm Huấn Luyện. Họ là những "hung thần hét ra lửa" bất đắc dĩ. Cho đến lúc đa số khoá sinh nằm gục, rơi rớt dọc đường, anh em nào còn chút sức khoẻ, thì dìu những anh em ngã gục kia về chỗ nghỉ ngơi giây lát. Chúng tôi tiếp tục bị hành hạ như thế, không kể ngày hay đêm. Ngay từ ngày đầu tiên, ai cũng nãn chí, thất vọng, rất nhiều người muốn bỏ cuộc. Vì vậy, ta có nên nói:
    - Anh đã chọn lầm binh chủng không hả? (PH)
    Bắt đầu ngày hôm sau: Sáng. Trưa. Chiều. Tối, tôi phải “Tập” hít đất, nhảy xổm... Cho đến khi mọi người đều mệt lã, thì cán bộ cho tạm nghỉ mươi phút. Mục đích Trung Tâm Huấn Luyện muốn tạo cho Tân Sinh Viên Sĩ Quan, có “cái đức vâng lời” là điều tiên quyết. Trung tâm huấn luyện có mục đích rèn luyện con người khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần, có một tinh thần vững chắc, có một cơ thể tráng kiện, để sẵn sàng nhận lãnh mọi trách nhiệm do thượng cấp giao phó (cho dù quá vô lý). Trong lúc huấn luyện, tất nhiên có nhiều hình phạt, lời nói của cán bộ nghe rất vô lý, chói tai, bất công... buộc tân khoá sinh phải thi hành vô điều kiện.
    Sau khi qua giai đoạn căn bản quân sự, Sinh Viên Sĩ Quan được học Anh Ngữ, chờ đợi du học, hoặc học bay Cessna tại Nha Trang. Hoặc giả suốt đời làm Sinh Viên Sĩ Quan "Đại Cồ Niên Trưởng" tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Trong hai tháng huấn nhục, khoá sinh không được vào câu lạc bộ, rong chơi trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Ngoại trừ những ngày cuối tuần, hay ngày lễ, khóa sinh mới được tiếp kiến thân nhân ở trạm tiếp liên gần cổng quân trường.
    - Ngày gắn Alpha là ngày rất quan trọng, tân Sinh Viên Sĩ Quan mặc đại lễ, quỳ gối dưới nền xi măng (không được phép kê bất cứ vật gì dưới gối à nha), để Sinh Viên Sĩ Quan cán bộ đàn anh đến gắn Alpha, trước sự hiện diện của Chỉ Huy Trưởng, & toàn thể Bộ Chỉ Huy, các Sĩ Quan cán bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Từ đó tân sinh viên sĩ quan mới được phép xuất trại cuối tuần, họ vui vẻ đi ra phố, giống như các sinh viên sĩ quan đàn anh vậy. Dĩ nhiên, trước đó bạn được huấn thị những điều không được làm: như không đi xe đạp, xe gắn máy, xích lô. Quân phục chỉnh tề. Đi đứng dõng dạc. Không được vào những quán ăn bên lề đường, những khu phố "cấm". Nhất là không nắm tay người đẹp... dung dăng ở nơi công cộng. (NH)
    Cuối năm 1968 và giữa năm 1969, vì nhu cầu “bành trướng” Không Quân mong muốn ngành Không Quân phát huy hơn, nên việc tuyển chọn sĩ quan, hay sinh viên Sĩ Quan Không Quân bừa bãi, quá dễ dàng. Từ các Quân Trường Thủ Đức, Đồng Đế hay Quang Trung (nên mới có vụ tên Nguyễn Thành Trung dội bom dinh Độc Lập ngày 8/4/75). Nhiều Hạ Sĩ Quan Không Quân, sau khi nhập ngũ, họ cố gắng học thêm, nên khi có bằng Tú Tài I, họ được tuyển vào sinh viên sĩ quan phi hành, hoặc không phi hành, thì điều kiện sức khoẻ dễ dàng hơn. Ngoại trừ những Hạ Sĩ Quan lão thành, đi Không Quân từ thời xa xưa (trước năm 1956) thì có thể được theo học khoá Sĩ Quan đặc biệt, không phi hành (theo cấp số, nghề nghiệp như Navigator, không lưu...)
    Quân số mỗi khoá tuỳ thuộc vào con số ứng viên, có đầy đủ sức khoẻ.
    Trung Tâm Giám Định Y khoa Không Quân lúc nào cũng bận rộn kinh khủng. Vì họ còn phải lo thêm cho các Sĩ Quan Không Quân phi hành cần khám định kỳ mỗi năm nữa. Sáu tháng đầu tiên, khoá của tôi bị ăn hiếp mọi mặt... Về sau, may sao có Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tuyền (chức vụ thời bấy giờ) làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khoá Sinh, ông đã mạnh dạn thay đổi cục diện. Thiếu Tá Tuyền làm "cách mạng", là để Sinh Viên Sĩ Quan có quyền tự trị, tự điều hành và tránh những vụ (có rất ít người) tham nhũng, ăn chận, quá hành hạ Sinh Viên Sĩ Quan (như từ lúc trước). Vì vậy, các khoá Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân vào học sau nầy có một cuộc sống trong quân trường tạm gọi "thoải mái” hơn. (Trần Văn Phúc)
    * Nhờ đọc mấy cái RE của anh luong55, nên tôi đoán: chắc là anh thuộc dân Rochefort. Mãi đến sau nầy anh học điều chỉnh nhằm khóa 65. Dạo đó dù sao anh cũng lớn tuổi hơn anh em trong cùng khóa với anh, nên anh không bị "dần" nhiều đâu nhỉ! Cái “Lễ Độ” là "dạy" cho đàn em, chứ không phải là lễ độ với người lớn tuổi, hay thâm niên quân vụ hơn mình đâu, nghe anh! Cũng tựa như trong phái võ, kẻ vào sau, gọi người trẻ đã nhập môn sớm nhất, trước mình thì phải gọi là: “đại sư huynh” vậy mà! Nếu anh bị "quần" nhiều, là anh hổng... hên đó! Vì tui nhớ anh Phước (“Nùng” là cận vệ của Xếp), cũng ra đấy học điều chỉnh, mà ảnh đâu có bị ai phạt vạ gì ha! Anh ấy còn lái xe jeep chạy ven vòng đai để... bắn chó nữa đó. Dù sao thì thời đó cũng vui quá, anh nhỉ. Kính. (Nghịch Nhĩ).
    * Bravo, Nghịch Nhĩ chịu khó đọc, cũng chịu khó đoán lắm. Gần đúng, nhưng chưa đúng lắm. Tụi tui hồi đó ham vui, thèm của lạ... nên bị dzụ đi Tây học nghề. Đầu năm 1955, tui là dân Ốc-xe, bạn một đám dân Rốt-sơ-pho, đến “Cơ” với chức Binh Nhì. Lần lượt, họ xin đi học bay, học làm bác sĩ, kỹ sư, thuyền trưởng, họ làm quan gần hết. Riêng tui bị cầm chưn, vì nhu cầu công vụ, mãi đến đầu năm 1965, tui mới muộn màng được các ngài ưu ái “thưởng” cho theo học khoá 65B. Ra TTHLKQ/NhaTrang, tui cũng nếm sơ qua đủ mấy món ăn chơi của tiến trình đội mũ có giây bạc.
    Sẵn đây, tui tóm lược sơ qua cuộc đời binh nghiệp hai mươi năm- ba tháng- hai mươi ba ngày của tui. Tui không có bằng cấp, chứng chỉ quân sự, chuyên nghiệp nào từ thấp nhứt, đến cao nhứt trong Không Quân, đối với cấp bậc cuối cùng của tui, mà tui không có: vì ngày 30-4-1975, bà xã tui bã gởi trước những thứ đó qua thế giới bên kia hết rồi. Hic hic… chắc mai nầy qua bển, tui có đầy đủ hồ sơ quân vụ ngon lành hì.
    Nói về bay bổng, tui không hân hạnh được Không Quân cho đi học bay, vì tui bị cận thị. Nhưng trước khi đi Không Quân, thuở thanh bình tui cũng đã từng có mặt lai rai trên mấy chiếc Piper Cub sơn đỏ vàng của Câu Lạc Bộ Hàng Không Tân Sơn Nhứt, để đi Lộc Ninh, Hớn Quản, với thằng bạn thân là hội viên và IP ở đó, nhưng tui đi gần gần thôi. Đã thiệt. Sau nầy, đi máy bay tui bị cho ngồi ghế sau, bị dồn xuống bụng, bị rinh đi cả buổi trên trời, oải lắm. Có một lần đi Clarkfield bằng C-47, trồi lên sụp xuống, nguyên một buổi nhìn xuống, tui chỉ thấy một màu xanh thẳm lăng tăng. Chẳng những tui oải, sợ teo và hãi lắm, tui phải chui tọt ra nằm ngay đơ đằng sau đuôi mấy lần. Đến rồi đi; ngày rời Trường Mẹ đi Mỹ, tui cũng làm tới chức khoá sinh cán bộ cấp Đại-đội chớ bộ! Nhưng không lưu lại tai tiếng gì. Có lẽ tại tui không bị "dần" nhiều, nên tui cũng không muốn hành hạ ai làm chi, cho mệt họ và mình cũng mệt mỏi không ít. Nhưng tui mà hét lên, thì anh phải biết: Anh cứ hỏi cái khoá từ Thủ Đức qua Không-quân thì rõ. (Trần Lương 55).
    * Một hình phạt trong thời kỳ Huấn Nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, mà tôi “thích nhứt” là: "Xoải cánh trên bãi cát. Đếm sao trên trời". Có bị phạt gì đâu! một niên trưởng thấy mình bị mấy cán bộ quần hoài như con gà chết. Thế là ông kéo mình ra chỗ khác xa xa... cho tôi nằm xoãi hai tay, hai chân trên cát, nhìn trời đếm sao. Sao trên trời đếm bao giờ cho hết. Nên tôi thích (nhắm mắt) ngắm “sao” trong mơ quá chừng! Niên trưởng này thuộc khoá 68B, chế ra cái màn phạt êm ru nầy, thiệt đã quá chừng. Hiện nay ông ở bên Houston. (Loithien).
    * Mấy ông niên trưởng khoá 65 quá may mắn, những năm sau này, họ phạt chúng tôi ít nhất cũng có 100 cái (nhẩy xổm, hít đất...), còn nhiều trò mới lạ có những tên rất kêu như: “Quan Công ngồi ghế đẩu”. - “Phượng Hoàng rũ cánh” - “Móc giò lên tủ”. - “Móc giò lên đà ngang trần nhà, miệng ngậm một lúc mười điếu thuốc đang cháy (vì trong thời gian huấn nhục, không ai dám lén lút hút thuốc lá). Mấy ổng Cán bộ khoá đàn anh nói:
    - Không Quân không xài bạc lẻ (mặc dù trong túi họ không có một đồng xu), thành thử tối thiểu phải là xài 100, ai làm được thì làm, nếu không làm nỗi, thì mình cứ nằm ình ra đó, mấy ổng phải chuyển qua hình phạt khác. Nghĩ mà ớn, nhưng là kỷ niệm vui vui ở quân trường. Nhắc lại chỉ để nhớ những “kỷ niệm khó quên” thôi. Đâu cũng vậy, trong một tập thể cũng có "vài con sâu làm rầu nồi canh", họ hơi đi quá trớn, muốn nổi danh "hung thần" rồi tự biên, tự diễn chút xiú. Thế thôi. Ngày nay chúng tôi gặp lại nhau, không hận thù, không hờn oán, đôi khi còn nhắc lại chuyện cũ, và cười ha ha với nhau, coi đó như là kỷ niệm xa xưa. (Liêm919).
    * Nghĩ đi, nghĩ lại chuyện đã xảy ra hơn bao nhiêu năm qua, nhiều lúc thấy có một cái gì ngồ ngộ... tự ta tủm tỉm cười. LD chắc cũng có những giây phút ấy? Nếu ai không vào quân ngũ, thì không bao giờ có những cảm giác như vậy đâu há:
    Tưởng như mọi chuyện ở ngoài đời.
    Bước chân vào lính, mới hỡi ơi!
    Ớt cay, mật ngọt, ông cứ nuốt.
    Nhai vào, mới biết nóng bờ môi.
    Tôi bảo ông nuốt, sao ông nhai.
    Cãi lời cán bộ, phạt gấp hai.
    Thế chờ, xuống đất, chân móc tủ.
    Ngu quá, bảo nuốt, sao lại nhai? (Tự trách – tkdf)
    * Anh LT nằm xoãi cánh đếm sao trên trời, sao trời đếm không hết. Còn tui thì bị cán bộ bắt đứng đếm: - "Một ông lặt cỏ, hai ông lặt cỏ. ba ông lặt cỏ"... Đếm cho đúng 100 ông, nếu không trật, thì cán bộ cho vô hàng. Tui cứ phải đứng đếm đi đếm lại hoài, mà cứ trật tới trật lui... Tới bây giờ mỗi lần nhớ tới, tôi mỉm cười đếm lại, mà chưa bao giờ đếm được tới 100 ông… (LD).
    * Các anh LT và LD đứng một chỗ đếm 100 “ông lặt cỏ”, còn đỡ khổ, đàn em bị đứng theo kiểu con nhà võ: “Phượng Hoàng sa bãi c…”; nghiã là đứng hai tay giăng ra như cánh chim, một chân co lên, mà đếm: “Một ông lặt cỏ, hai ông cỏ lặt, ba ông...”. Đếm tới khoảng hai mươi ông, thì chân run, mắt “em” nổi hoa sao chớp chớp... Nếu đếm sai, hoặc lỡ nói lái chữ “cỏ lặt” ra nẽo kia, thì em bị thưởng thêm 50 nhảy công lực. Riêng anh LT phè cánh nhạn đếm sao trời, thì quá đã: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông...”. Chưa kể buổi trưa nắng, “em” bị “chống thế chờ” trên đường nhựa, bị phỏng cả hai tay (sau này rút kinh nghiệm, “em” thủ hai cục đá, để tránh bị phỏng tay). Nguy hiểm nhất là em nhìn mặt trời. Đúng là quái chiêu, như niên trưởng Nghịch Nhĩ đã viết, mình sẽ hư mắt như chơi! Còn ai bị cạo đầu, họ chơi ngay một đường bay chính giữa bộ sọ cuả ta, như "xa lộ không đèn coi trụi lủi"... Ôi! "Tóc chẻ hai sầu chia đôi ngã". Cứ mỗi lần nhắc tới “huấn nhục”, là “em” vừa tức vừa buồn cười! Nhưng có lẽ nhờ vậy mà “em” học hỏi được nhiều điều hay, và nhẫn nhục đấy. Phải thế không; Thưa quý anh ạ! (Luckyluke).
    * Bạn Tình Hoài Hương,
    Hello thì quá thường. Bravo thì chưa đủ. Tui phục bạn đã bỏ công sưu tầm, lượm lặt… và đăng lên loạt bài nầy với người thật, việc thật, hầu khơi lại cho người đọc những kỷ niệm êm ái một thời của chúng tôi có buồn, có vui, hân hoan và hãnh diện đã xếp lớp lăn tăn trong cuộc sống. Cho tui méo mó nghề nghiệp một tí cho vui: Bạn giống cái radar lắm, phát đi tia sóng dò tìm, rồi chờ thu tín hiệu phản hồi về giải đoán. Mời quý vị coi dưới đây, xem tui nói điều trên, có phải đúng như vậy không nè … (Luong55).
    ***
    Trong Không-Lực Việt Nam (VNAF) có người được đưa đi huấn luyện chung với US Naval Aviator. Tất cả các phi công nói chung đều có một chương trình huấn luyện đầy gian khổ cam go, vất vả nhọc nhằn như nhau, đòi hỏi các khóa sinh phải bền bỉ, cố gắng thực tập thuần thục các phương pháp phi hành rắc rối phức tạp. Hầu như 99% khóa sinh Không-quân đều có hạnh kiểm, đạo đức, học lực cao, được các IP (Instructor Pilot) nhận xét tỷ mỹ, phê chuẩn họ vào hạng khá, giỏi, thì sau khi nhập học ở trường Không quân Nha Trang xong. Sinh-viên Sĩ-quan Không-quân được đi Mỹ học tập.
    Tại cổng trường có tên gọi Sauffley Field NAAS (Naval Air Auxilliary Station). Tấm bảng rất to ghi: “IT IS BETTER TO FLY THAN TO DRIVE”. Đây là nơi huấn luyện căn bản, một căn cứ Không-quân đồ sộ. Cũng là nơi đào tạo sĩ-quan phi hành cho cả ba binh chủng: Hải, Lục, Không Quân. Tất nhiên kỷ luật rất gắt gao, vì nơi này đảm nhận huấn luyện chung cho cả Sĩ-quan Hải Quân và Lục Quân (Marine Corps). Hình phạt thông dụng là “chạy bộ hộc xì bơ”, mà các khóa sinh vẫn gọi: “Military drill” hay huấn nhục.
    TRƯỜNG ở các địa điểm:
    - Trường dạy Khu-trục tại Hurlburt Field ở Florida.
    - Trường bay Hải quân Hoa Kỳ Corpus Christi, Texas.
    - Trường quân sự Hải quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida.
    - Trường Hải quân Hoa Kỳ, học về cao đẳng phi hành (Advanced taining) trên phi cơ T – 28 B/C ; có chong chóng ba cánh, và phi cơ A D-6 Skyraider VT-30, Corpus Christi, Texas.
    - Có các căn cứ phụ Naval Air Auxiliary Station Ellyson Field là trường Phi hành Trực thăng Helicopter Training Squadron EIGHT HT-8, cách căn cứ Pensacola 16mi về hướng Đông-Bắc.
    - Căn cứ phụ NAAS Saufley Field là trường bay Vỡ lòng VT-1 (Primary Flight Training) cách xa 10 mi về hướng Bắc của Mainside (nickname của căn cứ chánh NAS Pensacola).
    - Học lớp UPT (I-28 Air Force) trên phi cơ T – 28 A Trojan – Keesler AFB, MS tại Randolph (Texas).
    - Điều hành viên. Cơ khí Phi hành (air crewmen) học tại trường Naval Aviation Officers School, căn cứ Pensacola.
    - Hàng Không Mẫu Hạm có Trung tâm điều khiển toàn diện bay (Primary Flight Control).
    - Kiểm soát Không-lưu (Air Traffic Control).
    - Đường Băng (Flight Desk).
    - Gian chứa máy bay (Hangar Bay).
    - Giàn phóng máy bay đặt dưới đường băng.
    ***
    - Diễn tiến trình tự học tập:
    Mỗi buổi sáng SVSQKQ đi tập thể dục, sau đó họ học Anh-văn, đến lớp học lý thuyết, luyện giọng. Buổi chiều học trong phòng Lab – nghe và viết bài. Nói chung HỌC: - Học văn hoá & chuyên môn. Khoá Anh ngữ (General & Specialized) tại căn cứ Không-quân Lackland, San Antonio, Texas. & Chương trình văn hóa (Academics); áp dụng cho ngành hàng không, dùng thước slide rule để tính.
    - Study Skills dạy cách học bài, trong đó có Speed Reading Skills (Speedy Skills). Kỹ năng đọc nhanh và Communication Skills (kỹ năng thông đạt).
    - Naval Orientation (dạy về lịch sử, cách tổ chức Hải-quân Hoa kỳ).
    - Chính-trị FNP (Foundation of the National Power, dạy lịch sử thế giới).
    - Tổ chức quốc tế, như: UNO, NATO, WAPA, ngoại giao, hiệp ước, công ước cận đại.
    - Luật lệ lưu thông hàng không.
    - Nghệ thụât chỉ huy. (Leadership).
    - Học cách đi đứng (học cơ bản thao diễn). Học cách sử dụng vũ khí cá nhân. Chào kiếm chuẩn bị lúc làm lễ ra trường. & Vân vân...
    - Thể lực (Physical). Tập các môn võ đô vật truyền thống (collegiate wrestling), quyền Anh. V.v...
    - Huấn luyện Quân sự (Military Training) học hành chánh, quân phong quân kỷ, khả năng tác chiến.
    - Mưu sinh Thoát hiểm (Physical Fitness-Survival). Ba ngày đêm Survival Days.
    - Học “đoạn đường chiến binh” (Obstacle Course – O Course).
    - Học bơi đủ các loại: Jungle/ Swamp/ Sea Survival. - Bơi tự do. Bơi ngửa. Bơi sấp. Bơi ếch. Bơi Bướm. Bơi đứng (bơi bằng hai chân). Bơi 2,000m (bốn mươi vòng bơi tới bơi lui). Vân vân... Bơi qua eo biển ở gần Pensacola và Mễ Tây Cơ.
    - Học tổng quát các hệ thống của máy bay, học điều khiển, khí động học, khí tượng học, học cách bảo vệ phi cơ, cũng như phi công an toàn dưới đất, và ở trên không trung. Kể cả học Quân sự (Military).
    - Học liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát không lưu, khóa sinh mang headset, gọi báo với đài không lưu, nghe đài, trả lời. Học cách liên lạc vô tuyến. Code Morse và Recognition; nhận dạng các phi cơ đồng minh và phi cơ địch.
    - Học Communication (liên lạc), báo cáo lấy cao độ, xuống cao độ vào vòng đáp (climbing and letdown).
    - Học “bay bổng toàn diện” đại khái: - Principes of flight (nguyên lý bay).
    - Học điều khiển phi cơ cất cánh và hạ cánh trên Hàng Không Mẫu Hạm. Học bay trên bon Hàng-không Mẫu-hạm, (còn gọi là Yellow Zone hay Landing Zone). Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
    - Học Landing Signal Officer (LSO).
    - Học phi cơ attack aircraft yểm trợ không địa.
    - Học lớp đáp bụng (crash) khi phi cơ bị trục trặc, hoặc đáp khẩn cấp. Lúc máy bay cất cánh từ Hàng Không Mẫu Hạm, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, để đáp Hàng Không Mẫu Hạm. Học đáp khẩn cấp (giả máy tắt) từ cao độ cao (simulated high altitude emergency), vòng đáp ở các sân bay phụ (outlying fields) & đáp hạ cánh phụ (full flap landing) sao cho an toàn.
    - Học cách rời tàu. Học cách thoát ra khỏi lòng máy bay khi lâm nguy. Học Abandon Ship Drill (bỏ tàu khi bị chìm), biết hành xử khi phi cơ bị lật.
    - Học an ninh phi hành áp dụng trên tàu (carrier safety), trắc nghiệm lý thuyết về vòng đáp trên tàu.
    - Học các bộ phận trợ phi (flight support) trên Hàng Không Mẫu Hạm: hệ thống kính chiếu trên tàu (operation of the mirror landing system).
    - Học các cơ chế, tốc độ, sử dụng chân đáp, cánh phụ, móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft).
    - Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
    - Học Landing Signal Officer (LSO).
    - Học sử dụng cờ màu (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands)
    - Flight Deck Officer (FDO).
    - Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
    - Cách bảo trì phi cơ. Học Engineering & Flight Characteristics bao nhiêu G’s, hỏng bánh ở tốc độ nào, vòng đáp touch-and-go (chạm bánh-bay lại).
    - Học pre-solo (tiền đơn phi) khóa sinh sử dụng bộ phận điều chỉnh phi cơ khi bay bình phi, làm vòng đáp và kỹ thuật đáp. Học khi gặp sự khó khăn khẩn cấp, thì phải giữ bình tĩnh, giữ an toàn (good airmanship and safety).
    - Học lướt qua về cơ khí viễn hành loại Chinook lo về: kỷ thuật kiểm soát máy móc, bơm xăng, dầu, nhớt, sữa chữa nhẹ.
    - Tập đáp phi cơ theo kính chiếu trên đất liền MFCLP (Mirror Field Carrier Landing Practice), trên tàu chiến hạm (như căn cứ Không-quân ở biển).
    - Aviation Science: điều khiển các bộ phận của phi cơ.
    - Engineering: có môn Động-cơ-nổ và Động-cơ phản-lực.
    - Cockpit Procedures - Cockpit (phòng lái). Có link trainer (phòng lái giả). Các bộ phận ở phi cơ. Các đồng hồ phi kế lúc mở máy, đang bay, khi khẩn cấp. V.v...
    - Aerodynamics (khí động học), áp dụng cho phi cơ và bom đạn khi sử dụng.
    - Navigation (không hành) trong đó có Celestial Navigation nhắm hướng bằng vị trí các sao trên trời, cách sử dụng các phi cụ.
    - Không hành. (Navigation) & Celestial Navigation nhắm hướng từ các sao trên trời, & xử dụng các phi cụ.
    - Khóa sinh Kỹ thuật không phi hành (aviation ground officers).
    - Có người chờ khóa học bên Hải-quân Mỹ (US NAVY) khai giảng. Hoặc có người đi học các nơi chuyên môn mình ưa thích, tuỳ thích chọn lựa khác... như lớp Weather and Meteorology. Thời tiết và Khí tượng. Các khóa Không Phi Hành thường là:
    - Kiểm Soát Không Lưu (Air Traffic Control-ATC): họ sẽ làm việc tại các đài kiểm soát (tower) của phi trường. Điều khiển phi cơ cất cánh, hạ cánh. Thông báo dự đoán thời tiết.
    - Weapons Controller-WC: Hỗ-Trợ Không Hành (Air support).
    - Điều-Hành Không-Chiến (Air Defense): hướng dẫn bằng Radar, tại Tyndall AFB Florida, (điều nầy hoàn toàn không liên quan gì đến kiểm soát vũ khí).
    - Họ là Sĩ Quan Điều Không, sẽ phục vụ tại các Đài Kiểm Báo như: Panama (Sơn Trà-Đà Nẵng). Paris (Tân sơn Nhứt). Pyramid (Ban Mê Thuột). Peacock (Pleiku). Paddy (Cần Thơ).
    - Sĩ quan WC là hỗ trợ không hành (air support), điều hành không chiến (air defense), được gọi là đều hành không-lưu. Họ làm việc tại các trung tâm và đài radar.
    - Riêng khóa sinh không-lưu là Air Traffice Control, thì họ làm việc tại các Tower, được gọi là sĩ quan kiểm soát không lưu.
    *
    Các kỹ sư Hải Quân sáng tạo ra hệ thống Rainbow tinh vi, tuyệt vời để cho mình phân biệt rõ về các loại xăng. Ví dụ như:
    - Xăng màu tím: để dùng dành tiêng cho phi cơ phản lực.
    - Xăng màu xanh lá cây: để dùng cho phi cơ cánh quạt một động cơ.
    - Xăng màu vàng: để dùng cho phi cơ cánh quạt nhiều động cơ.
    - Người mặc áo giáp nỉ màu vàng: chịu trách nhiệm khi phi cơ cất cánh, hạ cánh. Hướng dẫn phi cơ di chuyển (Yellow Shirts: Aircraff Handlers).
    - Người mặc áo giáp nỉ màu trắng: điều khiển phi cơ hạ cánh. (Việc hạ cánh trên tàu nhanh hơn trên phi đạo gấp 2 hoặc 3 lần).
    - Người mặc áo giáp xanh: Nhân viên bảo trì thiết bị, có bổn phận móc phi cơ vô giàn phóng & chịu trách nhiệm ngăn ngừa tai nạn. (Green Shirts Equipment Opeators).
    - Người mặc áo giáp nâu: nhân viên cơ khí, có nhiệm vụ coi sóc phi cơ trên đường băng. (Brown Shirts: Plane Captains).
    - Người mặc áo giáp tím: nhân viên tiếp nhiên liệu cho phi cơ (Purple Shirts: Fuel Technicians).
    - Người mặc áo giáp đỏ: nhân viên lo vũ khí, đạn dược... (Red Shirts: Weapons Handlers).
    - Học sử dụng màu cờ (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands).
    - Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
    - Ánh đèn màu di chuyển chớp tắt, được gọi là Meatball, gồm 12 màu xanh, 9 màu vàng, 12 màu đỏ:
    - Tín hiệu đèn đỏ: tránh phi công va chạm khi đáp, phi cơ phải giữ góc tiếp xúc với đường băng khoảng 15 đến 18 giây.
    - Tín hiệu đèn xanh: Phi cơ tiếp xúc với đường băng 3,5/o.
    - Tín hiệu đèn vàng: chớp chớp theo dõi phi cơ lên xuống, hoặc phi cơ bị chệch ra khỏi các góc, không đúng với đường băng.
    - LSO tín hiệu màu đỏ: Give Up: là báo phi cơ bay quá cao, hoặc quá thấp.
    Xem những điều căn bản cần thiết đó, học hỏi rồi thực tập, ví dụ ở khu trục cơ A1-E Skyraider có speed brakes ở hai bên hông, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, dùng để đáp Hàng Không Mẫu Hạm.
    Sau thời gian dài chuyên cần học và tập, sinh viên sĩ quan Không-quân bay solo nhiều lần:
    - Bay đủ kiễu. Đủ cách.
    - Bay bình thường.
    - Bay đêm.
    - Bay không hành (bay từ thành phố nầy, đến ba bốn thành phố khác, trong một vòng tròn).
    - Bay hợp đoàn hai chiếc.
    - Bốn chiếc. V.v...
    ***
    Kính thưa qúy vị khả kính,
    Viết dài dòng về ít trích đoạn từ chương trình huấn luyện chuyên môn bay bổng “Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt”… riêng tôi quả thật rất khó khăn & không khỏi lẩm cẩm, thiếu sót, lú lẫn và quên. Vẫn biết rằng ngòi viết là thứ vũ khí sắt bén, có thể đâm lủng tờ giấy, có bản lãnh chân chính & sung mãn về sự trầm lặng nghiền ngẫm suy tư nơi trí tuệ, để ghi lại những điều cần thiết và hữu ích, cũng như nói lên những nguyện vọng ước mơ thầm kín, (ví dụ tôi muốn ghi lại những chiến tích hào hùng rực rỡ vinh quang, chân tín của qúy vị nói riêng (& QLVNCH nói chung), để lưu dấu trong quân sử VNCH, chứng thực cho thế giới có nhận định trung thực & đứng đắn về nhân cách cùng phẩm giá cao quý của đại đa số quân nhân VNCH, nhất là để thế hệ hậu duệ chúng ta mai sau được biết chính xác tỏ tường, về một thời oanh liệt vàng son từ ông cha thân yêu cuả các con cháu ấy, chẳng hạn).
    Tôi trộm nghĩ điều đó khiến cho mình cảm thấy hạnh phúc, có khi hơn là tôi dùng cây kiếm, cung tên hoặc gươm dao, để mưu cầu những điều gì khác. Thuở xưa tôi trau dồi văn học, ngôn ngữ... trên quyển tập, trên máy đánh chữ lọc cọc gõ mỗ cò từng trang. Ngày nay may mắn sống trong đất nước giàu sang, đầy đủ tiện nghi ở thời đại văn minh tân tiến, tôi có thể tự do học hỏi nơi qúy vị (qua điều sai sót về mình). Nhờ qúy vị, tôi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm, ngỏ hầu chu toàn ý nguyện, thành công điều khác ở tương lai rất nhanh khi dùng computer, internet xem tin tức, chuyện trò (chat) phương tiện giao dịch, cho tôi có dịp học hỏi, nghiêng cứu những điều cần biết rất thiết thực & bổ ích, nhờ đó tôi được trau dồi tư tưởng, mở rộng kiến thức, nâng cao tâm hồn trên mọi lãnh vực.
    Tôi không buồn hay hờn tủi, thắc mắc gì về ít sai sót, lẫn quên, khi cách đây hơn bốn mươi năm, bạn tôi (anh Lữ Phi Hành) đã kể sơ sài về việc "lãng du vào không trung" cho nghe, tôi ghi nhớ. Ngỏ hầu ngày nay tôi viết lại, dù chưa thể chính xác. Vì, ngay cả ai ai khi được thực sự thụ huấn bên Không-quân (USAF), cho dù là phi công điêu luyện, sành sỏi, từng trải, nhiều kinh nghiệm, đầy bản lãnh từ ngày xa xưa… Thì ngày nay, bây giờ… chưa chắc họ đã nhớ rõ ràng tường tận từng chi tiết nhỏ nhặt. Đó là chuyện bình thường. Phải không, thưa qúy vị?
    Tôi cũng thế, đôi khi tôi không thể nhớ nỗi, và quên lẫn. Vậy, mong qúy vị rộng lượng bao dung, nhất là cần chỉ giáo cho mấy điều (mà bạn tôi, hoặc tôi) đã thiếu sót. Dạ thưa vâng! Tôi chỉ xin lui cui lụi hụi đi lượm lặt, dò dẫm “nhặt nhạnh xí”, (như lời anh Lương nêu trên). Tiện thể tôi cám ơn anh Lương, mong anh & quý vị thân kính tha lỗi cho, (vì cái tội ưa lượm ấy ạ)… Tác giả Tình Hoài Hương cảm ơn, rất vui, & biết ơn qúy anh (có tên ghi sau): Trước tiên, tôi chân thành cám ơn các nhiếp ảnh gia đã đăng những tấm hình quá đẹp trên internet, cho tôi chiêm ngưỡng & mạn phép copy right vô bài viết của mình; ngỏ hầu phong phú hóa hình ảnh sống động, độc đáo, đầy nghệ thuật, tài đức của quý vị.
    * Cũng tiện thể, một lần nữa tôi cám ơn người chỉ đi chung một đoạn ngắn [“bạn đường" Lữ Phi Hành; (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ”, nên bạn ấy xin đề nghị dấu tên)]. * Nhất là tôi mạn phép qúy anh Không-quân: TQD – DVH – DHB – TVP – TCB – PH – NPVĐ -SVSQ… - Trần Lương - Hoàng Hùng – Lưu Vong - Hùng Nguyễn - Lê Vinh – Hùng Phan, Tùng Á Trương, v.v... ưu ái an ủi, nhắc nhở, chia sẻ, động viên, giúp tôi có ít chi-tiết cập-nhật cần bổ túc, đồng thời ân cần khích lệ tôi hoàn thành bài viết.
    Tình Hoài Hương biết ơn quý vị đã cho tôi có chút cảm tác, ngỏ hầu tôi có thể viết lại câu chuyện đời Hải-quân/Không Quân oai dũng, thi vị, thân thiện & đầy huấn nhục; được tóm tắt & đúc kết ít phần chính trong chương trình huấn luyện “Phi Hành” (cả nghiã bóng lẫn nghiã đen -cuả “tựa đề” câu chuyện và... “tên người”- …). Truyện dài về phương pháp “Huấn luyện Phi Hành” khép lại, chấm hết từ đây ./.
    Kính chúc quý vị luôn an vui hạnh phúc, như ý... và bình lặng trong tâm hồn.
    Tình thân & quý mến,
    Kính
    Tình Hoài Hương
    June 23 - 2019
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  6. #48
    muahong's Avatar
    Status : muahong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Mar 2009
    Nguyên quán: VN
    Posts: 89
    Thanks: 12
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Thưa quý niên trưởng .
    Một trong những nữ lưu của Hội Quán Phi Dũng mà tôi đặc biệt thích thú , khâm phục là tác giả Tình Hoài Hương .
    Tình Hoài Hương có một sức viết rất khỏe , không những văn xuôi mà còn có những vần thơ bất hủ và luôn có bài mới cho mọi người thưởng lãm . Đặc biệt , trong hầu hết các tác phẩm đều có bóng dáng người lính QLVNCH oai hùng , gần gũi , thân thương . Xin cám ơn và rất mong được đón nhận thêm những tác phẩm có giá trị của chị như thời gian vừa qua .

Trang 8/9 đầuđầu ... 6789 cuốicuối

Similar Threads

  1. Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 273
    Bài mới nhất : 09-01-2020, 10:31 PM
  2. Trả lời: 27
    Bài mới nhất : 04-03-2020, 04:58 AM
  3. Góc Thơ VUI Tình HOÀI HƯƠNG
    By Tinh Hoai Huong in forum Vui cười
    Trả lời: 136
    Bài mới nhất : 08-22-2019, 06:04 PM
  4. Huấn Luyện Khỉ Hái Dừa
    By hieunguyen11 in forum Video, clip ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-24-2014, 06:40 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •