Moderator
Status :
Tham gia: Jul 2008
Posts: 2,964
Thanks: 33
Thanked 110 Times in 40 Posts
Chân Mềm Trên Đá
Chân Mềm Trên Đá
Hồ Thủy
1. 15/03/1975
Gia Lai Kontum là một tỉnh lớn của Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, với diện tích là 23,536m2; nơi có một vị trí đặc biệt thuận lợi: Phía Đông giáp ranh Quảng Ngãi Bình Định, Tây giáp biên giới Lào, Phía Nam giáp Đắk Lắk (Ban Mê Thuột). Đó là một Cao Nguyên rộng lớn ở độ cao 1480km, thị xã Pleiku nằm giữa ngã tư giao lộ của Quốc Lộ 14 và 19. Từ thành phố Pleiku theo Quốc lộ 14 đi về phía Nam sẽ đến Đắk Lắk, ngược lên phía Bắc là đến Quảng Nam Đà Nẳng, nếu theo Quốc lộ 19 về hướng Đông sẽ gặp Qui Nhơn, còn theo hướng Tây sẽ đến biên giới Lào. Pleiku là một thành phố nhỏ bé “Đi dăm phút trở về chốn cũ “nhưng Pleiku lại có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Biển Hồ, thác Yaly, đèo Mang Giang. Phố chính với con đường nhỏ có hai hàng thông già cao vút “Lặng đứng hứng bụi xa”, về mùa nắng Pleiku bụi đỏ mù trời, mờ mắt, mùa mưa thì sình lầy bám nặng gót giày, bùn lấm chân. Vừa ra khỏi thành phố tầm nhìn của ta không còn bị giới hạn; không gian bao la với những đồi cỏ xanh mướt chạy dài và những nương rẫy ngút mắt. Ngoài những cảnh đẹp thiên nhiên, Pleiku còn là nơi đóng quân của SĐ 23 Bộ Binh, căn cứ chính đặt tại Kontum. Gồm các đơn vị Biệt Động quân, Lôi Hổ. Nổi tiếng là đơn vị Pháo Binh trấn ở núi Hàm Rồng; Pleiku còn có Sư Đoàn 6 Không Quân với phi trường Cù Hanh đìu hiu buồn bã.
Tôi đến Pleiku vào một chiều cuối tháng 9 - 1973 với tờ Sự Vụ Lệnh trong tay. Nhiệm sở là trường Nam Trung Học Pleiku. Máy bay đáp xuống Phi trường Cù Hanh lúc 4 giờ chiều, trời lất phất mưa nên đường bay loang loáng nước, dọc theo sân bay là hàng rào kẽm gai chạy dài tít tắp, ngoài hàng rào kẽm gai là những luống bắp xanh mượt mà, đất đỏ quánh bên dưới còn mây xám giăng lưng trời. Tôi lên xe Ca về thành phố. Tâm hồn vừa hoang mang lo lắng vừa bồn chồn nao nức vì khung cảnh xa lạ, đìu hiu và cuộc sống mới đang chờ đợi tôi: cô sinh viên vừa mới rời khỏi ghế giảng đường trường Đại Học Đà Lạt. Xe chạy qua những vùng đất trống đầy cỏ non, nương rẩy toàn là một màu xanh của cây và lá. Gần vào thành phố mới thấy được vài dảy nhà, có lẽ là trại gia binh, nằm hiu hắt chơi vơi buồn trong mưa.
Thành phố nhỏ bé đẹp một cách hoang sơ; nhà lẩn trong cây và phố ẩn trong mây, có rất nhiều lính đi lại trên đường. Đây là thành phố của Quân Đội, những anh chàng phi công bay bướm với calor đội lệch trên đầu; lãng mạn trong bộ combinaison, các chàng Biệt Động Quân, Lôi Hổ, Biệt Kích, ngang tàng oai phong trong bộ đồ rằn ri… Vừa xuống xe ca tôi giật thót mình khi nghe những tiếng đại bác “ầm ì” từ xa vọng lại, nhưng chung quanh tôi mọi người vẫn có vẽ bình thản dửng dưng như đã quá quen thuộc với thứ âm thanh này.
Những ngày sau đó tôi bận rộn với bao nhiêu là công việc, trước tiên trình diện với ông Hiệu Trưởng, mướn nhà ở, nhận lớp, nhận thời khóa biểu, mua sách và tài liệu để dạy học.. Tôi tạm quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vú, vả lại nơi thành phố này còn có người yêu của tôi đang ở, nên tôi không cảm thấy buồn. Nhờ vợ thầy hiệu trưởng giới thiệu nên tôi mướn được một căn phòng nhỏ trên gác xép của ngôi nhà số 7 Đường Tăng Bạt Hổ, đối diện hông nhà thờ Quân Đội. Anh chị chủ nhà tên Ninh, trước cổng nhà có cây hoa ngọc lan tỏa hương thơm ngào ngạt. Mặc dù phi trường Cù Hanh cách thành phố Pleiku khoãng chừng 05km nhưng nếu lắng tai vẫn nghe được tiếng các loại máy bay, khu trục bay lên đáp xuống, trực thăng và L19 suốt ngày lượn ngang lượn dọc trên bầu trời đầy mây; nó đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với người dân trong thị xã; mà phần đông họ là những người thân của lính. Xa xa tiếng súng đại bác từ căn cứ Hàm Rồng vọng về ì ầm hòa nhịp với tiếng phi cơ bay lượn vù vù trên không làm cho Pleiku; vốn rất hiền lành mộc mạc nên thơ và lãng mạn lại mang sắc thái của chiến tranh; vừa có vẻ đe dọa vừa trấn an vỗ về. Những ngày mới đến đây lòng tôi đầy sợ hãi nhưng rồi cũng quen dần, lâu ngày lại cảm thấy điều đó thật bình thường, có những đêm hỏa châu chiếu sáng một góc trời, phía phi trường Cù Hanh có nhiều tiếng nổ rung chuyển mặt đất, máy bay bay vụt lên hối hả trong đêm đen, đó là lúc phi trường bị pháo kích dử dội, tôi thường giật mình thức giấc… nhưng mãi rồi cũng quen.
Trong năm học 69-70, trường được bổ túc các giáo sư vừa tốt nghiệp Đại Học sư phạm Huế như: thầy Nguyễn Đăng Dự, thầy Trần đình Khuông, thầy Lê ngọc Bưu…
Vào đầu năm 1971, theo Chỉ thị của Bộ Giáo Dục, chương trình giáo dục chuyển sang hệ 12 năm. Bậc tiểu học từ các lớp 1 đến 5, trung học từ lớp 6 đến lớp12 và bỏ hẳn cách gọi tên lớp kiểu cũ.
Niên khoá 1971-1972, học sinh lớp Mười (Đệ Tam cũ) chỉ còn nam sinh do trường nữ Trung Học Pleime bắt đầu mở các lớp Đệ nhị Cấp.
Trường lúc này đặt dưói quyền quản trị của Sở Học Chánh Pleiku do giáo sư Thái văn Duy làm Chánh Sở. Sở Học Chánh Pleiku trực thuộc Khu Học Chánh Cao Nguyên Trung Phần tại Nha Trang và bộ Giáo Dục tại Saigon.
Trong khoảng thời gian này, nhiều giáo sư vừa tốt nghiệp Viện Đại Học Đà Lạt, Huế và Sài Gòn hay thuyên chuyễn từ các tỉnh lân cận được bổ nhiệm về trường như: cô Thái Thị Lựu, thầy Lê Mậu Phúc, Cô Hồng Ân, Cô Thủy, thầy Võ Thu Lương, cô Trương thị Ân, cô Phan Thị Lựu, cô Hà thị Mười Một (từ Trung Học Pleime)...
Đầu năm 1973, Bộ Văn Hóa và Giáo Dục VNCH ra quyết định bãi bỏ kỳ thi Tú Tài 1 vào cuối năm lớp 11 trên toàn quốc và học sinh tốt nghiệp trung học sẽ thi một kỳ thi Tú Tài duy nhất sau khi hoàn tất lớp 12.
Đầu năm học 72-73, thầy Lê văn Lập được bổ nhiệm Hiệu Trưởng Trung học Pleiku thay thế thầy Nguyễn Đức Trung chuyển công tác về Bộ Giáo Dục tại Saigon.
1973-1974: Đầu niên học 73-74, Bộ Giáo Dục ra chỉ thị cải tổ giáo dục: đổi kỳ thi viết Tú Tài bằng kỳ thi trắc nghiệm (thường được gọi là Tú Tài IBM). Năm này giáo sư Phan Mỹ Thọ về dạy Triết lớp 12 của trường…
Ngày tháng trôi qua thật êm đềm, tôi đã thân thiết với từng ánh mắt nụ cười đơn sơ của các em học trò, lòng đầy nhiệt thành với những bài giãng trong lớp học. Những con đường trong thành phố trở nên quen thuộc đáng yêu khi người ta chỉ cần “đi dăm phút trỡ về chốn cũ”. Tôi đã hòa chung hơi thở cuộc sống của mình vào với con người và vạn vật nơi đây, nghỉ rằng sẽ chẳng bao giờ rời xa. Thế nhưng cuộc đời không bình lặng như lòng ta mong muốn, đầu năm 1975 mọi việc thay đổi một cách khác thường; tiếng đại bác ầm ì liên tục, dồn dập hối hã cấp bách suốt ngày, giấc ngủ được ru bằng số đếm… ấm… 1 quả… Ầm… 2 quả… Ầm… 3 quả…, ban ngày trong phi trường máy bay gầm rú bay lên đáp xuống; trực thăng và L19 lượn quanh nền trời trong xanh như những con chuồn chuồn kim chuồn chuồn ớt, ban đêm hỏa châu sáng rực nhiều nơi, lúc nào cũng nghe “cắm trại, cấm quân “.Đến gần cuối tháng 2/1975 tin tức chiến sự nóng bỏng trên các trang báo, các đài phát thanh…, đâu đâu cũng chỉ nói về chiến tranh; pháo kích dồn dập như cơm bữa, súng nổ nghe như sát bên tai, giấc ngủ thường xuyên bị tiếng súng đại bác làm giật mình, tỉnh giấc giữa đêm lòng đầy ưu tư suy nghỉ. Đọc một bài báo nghe một bản tin để rồi bàn tán lo âu suốt ngày: Các Sư Đoàn Quãng Trị rút về Huế, Huế bôn tẩu vào Đà Nẵng, Đà Nẵng rút nhanh vào Qui Nhơn…. Các từ: “di tãn, tử thủ, bỏ ngỏ”, luôn được nhắc đi nhắc lại và trở thành đề tài chính trong các câu chuyện ở bất cứ mọi lúc mọi nơi. Những gia đình giàu có bắt đầu thu xếp hành lý ra đi, Air Việt Nam đông nghẹt người chen lấn, các sĩ quan cao cấp có quyền hành và phương tiện vội vã đưa vợ con lên xe hoặc lên máy bay chạy trốn thành phố nhỏ bé này để về Nha Trang hay Sài Gòn. Người đi trên phố nét mặt lo âu căng thẳng, chân bước vội vàng hấp tấp như tiếng súng dồn dập; tiếng nổ gần, tiếng nổ xa, tiếng nổ lớn, tiếng nổ nhỏ, mọi âm vang trộn lẫn vào nhau…. các quận lỵ như: Thanh An, Pleime, Dacto, Lệ Trung… nghe rằng đã xuất hiện rất nhiều bóng dáng VC; lính bỏ đồn đóng quân cũng khá nhiều. Không ai dám nói ra nhưng trong lòng ngầm hiểu với nhau rằng…
Tôi vẫn đến trường trong nổi hoang mang lo lắng, học sinh theo cha mẹ di tản nghĩ từ từ, lớp học vơi dần nên sân trường luôn vắng vẻ, cả thầy và trò đều không còn tinh thần để dạy hay để học. Phần lớn các Giáo sư dạy ở những trường trong thị xã Plei ku đều tốt nghiệp từ các trường Đại học Sư Phạm Huế hay Đà Lạt; được bổ nhiệm về đây nên hoàn cảnh giống nhau là sống xa gia đình, trong tình hình này chúng tôi có cùng tâm trạng lo lắng, sợ hải và cô đơn như nhau, riêng tôi càng đặc biệt hơn, tôi lạc lỏng mất phương hướng và vô cùng hoảng hốt. Dù biết có đến trường cũng chẳng dạy được gì nhưng vẫn cứ đến; đến để gặp nhau vài phút, hỏi nhau vài câu, chia sẽ với nhau nổi lo lắng sợ hãi, sau đó kéo nhau về nhà chị Bích nghe nhạc - chị Bích là giáo sư dạy môn Toán; cùng trường với tôi, chị có chồng và 4 đứa con; ở nhà thường gọi là các con chị bằng những tên: Ty Anh, Ty Em, My Cò và Bé Ly Ly, chồng chị là anh Hồ Thi đại úy Biệt Động Quân được biệt phái vào Sài Gòn học khóa sĩ quan đặc biệt, nhà chị nằm trong khu cư xá sĩ quan, gia đình chị khá đông, gồm có bố mẹ là ông bà An, Hằng cũng dạy học ở trường Minh Đức, Anh Đạt, Khải, cũng là sĩ quan Bộ binh, Biệt động Quân như anh Thi, Luật đang hoc Đại học ở SG, Minh, Kiều, Ty (là em trai út) đang đi học; còn Ngân và Hoa là em họ của chị nhà ở Đà Nẵng nhưng học các trường trong thành phố Pleiku.
Mỗi lần tôi đến nhà chị Bích chơi, Hằng thường mở cassette để nghe nhạc và pha cà phê uống, nhìn những giọt cà phê nhỏ xuống ly đầu óc tôi mông lung trống rổng…. Lúc này tôi rất muốn vào Phi trường Cù Hanh tìm Bang để nhờ vả 1 chổ ngồi trên 1 chiếc máy bay nào đó…, nhưng tự ái của tôi đã ngăn tôi lại, mấy lần xe lam dừng trước cổng phi trường, tôi chỉ đứng bên ngoài nhìn khung cảnh người ta nhốn nháo, chen lấn, la hét, cải cọ nhau; như một khán giã nhìn các diển viên trên sân khấu; thế thôi, rồi tôi buồn bã quay trở về phòng trọ lặng lẽ khóc: “anh ơi, anh rất gần mà lại cũng rất xa;” Phi trường Cù Hanh không còn đìu hiu vắng vẻ nữa, với chiến sự này ai cũng muốn dành lấy cho mình một phương tiện nhanh nhất, an toàn nhất để rời khỏi Pleiku. Thời gian này tâm hồn tôi luôn giao động, âu lo và tuyệt vọng. Mỗi lần thầy trò gặp nhau, đều nhìn nhau quyến luyến như thể sẽ không bao giờ còn được thấy nhau. Những ngày này tôi khóc nhiều lắm, may mà có gia đình chị Bích, có Hằng, Khải… bên cạnh.
Một buổi sáng tôi nhận được điện tín của cha tôi từ Nha Trang gởi lên; đề ngày: 3-3-1975 với giòng chữ “Mẹ bịnh nặng, con về gấp;” tôi hốt hoảng cầm tờ điện tín chạy đến nhà chị Bích, cả nhà chị trấn an tôi:
- Cha mẹ muốn Thủy về gấp đó mà, mấy giáo sư xa nhà đều nhận được điện tín như thế này.
Tôi cố trấn tỉnh cầm tờ điện tín chạy ra Air Việt Nam, cô nhân viên bán vé trả lời cộc lốc: “Hết chổ”, tôi hít vào một hơi thật sâu rồi thở ra thật dài, đi từng bước nặng nề về phòng trọ, nằm dài ra giường nhìn lên trần nhà, không chịu nổi sự vắng lặng của căn phòng tôi ngồi bật dậy chạy ra bến xe lam, tới cổng phi trường bước xuống xe chỉ đứng im mà lòng thì ngổn ngang trăm mối, tôi muốn gào thật to ‘ Anh Bang ơi, ra đưa Thủy về ,” nhưng tiếng gào của tôi dội ngược vào trong tim, nghẹn cứng, đắng nghét cả đầu lưỡi, tôi lại quay về trên chiếc xe lam ban nảy, bác xe Lam hỏi tôi:
- Cháu tìm ai mà sao không vào?
- Dạ, không tìm ai cả.
Tôi không dám về phòng mình nữa nên đến thẳng nhà chị Bích, ở đó có Hằng, có Khải, Minh…. Tôi bớt cô đơn và sợ hãi phần nào.
Tờ điện tín thứ 2, thứ 3, dồn dập gởi đến, vẫn nét mặt vô cảm “Hết chổ”, cho đến ngày 8 - 3 - 1975 Air Việt Nam đóng cửa với tấm bãng thông báo “Ngưng hoạt động”. Đến lúc này thì không thể kềm chế được nữa, tôi òa khóc ngay trên phố, không chỉ mình tôi khóc mà còn có rất nhiều người cũng khóc như tôi. Tôi chạy nhanh ra bến xe lam, leo lên xe với hai hàng nước mắt rơi đầy trên má, lại đến cổng phi trường lại đứng nhìn mọi người chen lấn, sau cùng tôi ngồi gục xuống nói thầm - “Anh ơi, sao anh không đưa Thủy về Nha Trang? ”. Tôi chẳng biết mình ngồi đó được bao lâu, nhưng khi đứng lên tôi nói lớn “vĩnh biệt anh”. Đó là lần cuối cùng tôi đến phi Trường Cù Hanh.
15/03/1975
Khi tôi vừa bước vào phòng Giáo Sư, thì thấy ở đó một nhóm các anh chị đứng lố nhố trước tấm bảng thông báo của nhà trường, anh Cẩn đọc lớn:
- Hiệu Trưởng Trường Trung Học Pleiku thông báo cho toàn thể Gíao Sư được rõ: theo thông tư mới nhất của Sở Gíao Dục; yêu cầu các giáo sư phải đến trường dạy học như thường lệ, ai vắng mặt xem như ĐÀO NHIỆM và sẽ bị đưa ra hội đồng kỷ luật.
Pleiku - Ngày 14/03/1975
Ký tên:
HT: LÊ VĂN LẬP
Chúng tôi ngạc nhiên, rồi ngơ ngác nhìn nhau, tờ thông báo có vẻ mĩa mai khôi hài quá, khi quanh trường chỉ độ 10 em học sinh đang đưng chơ vơ lạc lỏng. Chị Bích, anh Cầu, anh Cẩn, Thoa, Thắng… và tôi đi nhanh đến nhà ông Lập; đúng hơn là nơi gia đình ông ở, nằm phía sau phòng kế toán của nhà trường, anh Cầu kêu lớn: “Lập ơi, Lập, có trong đó không?”, cửa nhà không khóa, trong nhà không một bóng người, các tủ mở banh trống rổng; thế có nghĩa là sau khi viết thông báo xong thầy Lập là người đầu tiên đào nhiệm. Chúng tôi không ai bảo ai cùng tuôn chạy về nơi ở của mình, bỏ lại sau lưng ngôi trường trống vắng cùng lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió lạnh ban mai, cây cờ này sẽ đứng vững được bao lâu nữa thì ngã xuống? Và tôi; tôi sẽ ra sao? Tôi đi nhanh về nhà trọ, ngôi nhà trống trải vắng lặng không một bóng người, chiếc xe Jeep của anh chị Ninh không còn trong sân, con chó vẫn thường vẩy đuôi mừng mỗi khi tôi về nhà cũng biến đâu mất, tôi mở cửa phòng mình; một tờ giấy rơi ra từ khe cửa:
- Cô Thủy, gia đình anh chị phải đi gấp, mấy hôm nay cô ở đâu không về? cố gắng thu xếp đi nhanh, anh chị mong gặp cô tại Nha Trang, tạm biệt. Anh chị: Ninh;”
Tôi gục xuống nền nhà co người lại khóc nức nở; Thế là hết, thành trì cuối cùng trong tôi sụp đổ tan nát; cũng tại tôi mấy ngày qua lang thang quá nhiều, và bây giờ tôi đang phải đối diện với nổi kinh hoàng quá lớn cùng sự cô đơn khủng khiếp, dù sao cũng phải chổi dậy mà đi… Cuối cùng tôi cố gắng đứng lên lau nước mắt thu xếp áo quần và giấy tờ quan trọng, đem theo vài đĩa nhạc cổ điển của Mozart, Beethoven, mấy đĩa nhạc hòa tấu của Paul Mauriat, France Pourcell và hai đĩa nhạc của Connie Francis mà tôi yêu thích… rất nhanh tôi vội vả ra khỏi ngôi nhà nơi tôi ở trọ, nhìn lần cuối cây ngọc lan trước cổng, ôi cây ngọc lan yêu dấu từng làm thơm chuyện tình của chúng tôi. Bổng nhiên tôi cảm thấy cả thể xác lẩn tâm hồn rã rời mệt mỏi, tôi sẽ đi đâu bây giờ? tôi sẽ đi với ai đây? sao tôi bơ vơ quá thế này? Hay thôi cứ ở lại chấp nhận mọi điều xảy đến rồi ra sao thì ra, nổi sợ hãi lớn nhất của con người là cái chết, đừng sợ chết thì không có gì phải sợ cả, điều đó có đúng không? tại sao tôi lại dễ dàng buông xuôi thua cuộc; trong khi tôi chưa hẳn đối đầu trực diện với cuôc chiến, chưa hề biết nó như thế nào. Sao tôi yếu đuối hèn nhát thế kia? Còn nhiều điều chưa biết ở phía trươc, tôi còn rất trẻ và rất trẻ, tôi chỉ mới 23 tuổi… cuối cùng tôi cắn răng nuốt nước mắt cùng nổi sợ hãi vào lòng, thẳng lưng, hít một hơi dài đầy lồng ngực, ngẩn cao đầu, xách vali thầm nói: “Đi thôi, đến nhà chị Bích thôi, ở đó có đông người cho mình nương tựa”. Đi được nữa đường thì gặp Khải từ dưới dốc đi lên, Khải nhào đến xách vali cho tôi, cười cười nói:
- Anh đến trường đón Thủy mà không có Thủy; anh lo quá, Thủy đi với gia đình anh nhé? À; mà có ai đưa Thủy đi không?
- Không một ai, Thủy xách vali mà chạy, cả nhà chị Ninh đi hết rồi, Thủy sợ quá.
Tôi đi bên cạnh Khải, con đường quen thuộc mỗi ngày bổng dưng xa lạ, nhà nào cũng đóng cửa im ĩm, không phải chỉ có tôi và Khải đi trên con đường này, mà hầu như đường phố nào cũng có người tay xách nách mang, gồng gánh đồ đạt, bồng bế nhau bước đi vội vả như tôi và Khải, mọi người đổ dồn ra đường và người ta tìm mọi cách để ra khỏi thành phố này bằng tất cã mọi phương tiện mà họ có, họ muốn thoát khòi Pleiku bằng mọi giá dù nơi đó có tài sản, và cuộc sống của họ, tại sao thế?. Khải muốn nói điều gì đó với tôi nhưng tôi vờ như không biết, khoãng thời gian sau này cả nhà Khải ưa gán ghép tôi cho Khải, nhưng đối với tôi, Khải chỉ là một chàng lính nghệ sĩ hát hay và lãng mạn, Khải chỉ có thể làm cho tôi vui đôi chút nhưng không thể nào lấp được khoãng trống trong tâm hồn tôi, một khoãng trống quá lớn mà anh Bang đã để lại khi anh ấy và tôi chia tay nhau một năm trước đó, vào một tối trời mưa rất to… Gia đình chị Bích là một sự kết hợp đầy tính chất nghệ sĩ của tất cả mọi người, hôm nay thì chẳng ai dấu đươc vẽ lo lắng: ông bà An, Chị Bích, Hằng, Khải, Minh, Kiều, Ty; có cả anh Đạt, đang đóng quân ở Kontum bỏ chạy về, nhưng vợ anh đã đưa 3 con nhỏ đi chuyến xe trước, riêng có Thấm là em vợ anh bị kẹt lại ở nhà chị Bích.
Cả nhà thấy tôi và Khải từ ngoài bước vào mọi người mừng rỡ, tôi nhìn trên mặt của 16 người, là 16 nổi lo âu cộng lại, vì cậu bé Ti là em út trong gia đình chỉ mới 12 tuổi thôi với Ty Anh, Ty Em, My Cò và bé Ly Ly hình như cũng đang lo lắng theo mọi người; nên ngồi im lặng căng thẳng nhìn người lớn thu dọn áo quần, đóng gói đồ đạc. Cảm thấy ngột ngạt và buồn quá, tôi bỏ ra sau vườn nhà chị Bích, ngậm ngùi nhìn những luống rau ông An trồng; vẫn xanh mơn mởn, tràn đầy sức sống, những cành lan rừng Khải mang về sau mỗi lần hành quân vẫn bình yên khoe sắc, hương thơm thoang thoãng bay trong gió. Tôi sắp xa nơi này, mãi mãi không bao giờ còn được đứng nơi đây, hay đi trên những con đường bụi đỏ đầy ắp kỷ niệm, đầy tiếng guốc khua vang của tôi bên tiếng giày của anh ấy, sẽ không còn được uống ly chanh đường mỗi chiều ở cà phê Vị Thủy, hay ly cà phê sữa nóng mỗi sáng ở cà phê Văn, không còn những sáng những chiều đến lớp, đứng trên bục giãng nhìn xuống những khuôn mặt học trò thân yêu với những giờ học vui nhộn giữa thầy và trò; không còn những lần đợi chờ đưa đón đã trở thành như hơi thở, như thịt da… nghĩa là sẽ không bao giờ tôi ở đây hay trở lại nơi chốn này theo một nghĩa nào đó mà tôi sắp phải dự phần vào.
Hằng ra đứng bên tôi hai đứa nhìn nhau với nổi buồn như nhau, cùng chung một mất mát lớn lao, tôi biết Hằng đang nhớ anh Sơn – chàng nghệ sĩ hát hay với cây đàn guitar làm Hằng luôn xao xuyến, mấy ngày nay anh không đến chơi có lẽ anh đã đi rồi, còn tôi, tôi cũng đang nhớ anh Bang ghê lắm. Ở trong nhà chị Bích và bà An đang hối thúc mọi người: Ngân, Hoa, Kiều, Thấm…. thu dọn đồ đạc cho nhanh, còn Khải thì cứ càu nhàu điều gì đó, tôi và Hăng trở vào nhà, thấy tôi nét mặt cau có của Khải dãn ra cố tạo một nụ cười mềm mại, nhưng sao lại trở nên méo mó thế?. Chị Bích khóc thút thít “Không chờ đươc anh Thi, làm sao đây? ”. Tuần trước chị nhận được thư anh hẹn sẽ về đưa gia đình đi di tãn…, chị nấn ná mấy ngày nay cố để chờ đợi anh.
Cả gia đình chị Bích gồm 16 người, thêm tôi nữa là 17 hối hả xách đồ đạc ra khỏi nhà, nhìn đông hồ là 9 giờ 45. Từ cư xá sĩ quan đến ban Quân vận không xa là mấy, trên đường đi chúng tôi gặp rất nhiều người tay xách nách mang như mình, làm như cả thành phố Pleiku rũ nhau cùng đi du lịch, một cuộc du lịch vĩ đại và bắt buộc; Đến Ban quân vận, khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được chổ đứng, ôi chao; người đâu mà đông quá; ai ai cũng có vẻ bồn chồn lo lắng, chúng tôi gặp gia đình ông Lập và một số giáo sư của trường đang đứng chung một nhóm, chị Bích hỏi ông Lập:
- Sau khi viết thông báo cho chúng tôi, anh đến đây ngay chứ gì?
Ông Lập cười:
- Thật sự tôi chỉ kịp dán tờ thông báo cho mấy thầy cô rồi đưa gia đình ra đây.
Chị Bích ghi tên cả nhà vào một tờ giấy (trong đó có tôi) rồi nộp vào bàn thâu nhận danh sách của những người đi di tản. Những chiếc GMC nối đuôi nhau thành một hàng dài, nhích dần lên từng chút một, xe nào cũng chậc cứng người và đồ đạc. Đoàn người chờ đợi càng lúc càng đông, danh sách càng lúc càng dày cộm trên tay anh lính Quân Vận, chờ đợi mỏi mòn, đến trưa mà chúng tôi vẫn chưa được gọi tên, mọi người đều đói cồn cào cả ruột gan, nhất là bà An, bà có vẻ mệt ghê lắm, Khải chen lên hỏi thăm anh lính quân vận; thì với tình hình đông như thế này mai mới đến lượt gia đình. Tất cả mọi người lỉnh kỉnh “khăn gói quả mướp “quay về nhà, trời đã về chiều, tiếng súng rất gần, rất lớn và nổ dồn dập liên tục không ngớt, nhất là tiếng đạn pháo kích cứ đều đặn một cách vô tình, như đang muốn đùa cợt với nổi sợ hãi của những người trong thành phố nhỏ bé này. Riêng tôi; tôi tự hỏi: VC là ai? là gì mà làm cho người ta sợ đến thế? có giống như những nhân vật tàn ác trong các câu chuyện cổ tích dành cho con nít? Tôi nhìn lên tờ lịch hôm nay là ngày 15 tháng 3 năm 1975, tôi bắt đầu ghi nhớ các sự kiện sẽ xảy đến từng ngày liên quan đến cuộc đời và chuyến viễn hành này của tôi……
16/03/1975
Sáng nay Chúa Nhật, tôi thức dậy thật sớm bởi những tiếng nổ rất lớn của đạn đại pháo mà cả hai bên đang thay nhau bắn vào nhau; cùng hòa nhịp với tiếng súng của chiến tranh là tiếng chuông thanh bình của nhà thờ chánh tòa đang đổ liên hồi, mời gọi các con chiên đến dự lễ ngày Chúa Nhật, trời vẫn còn lờ mờ tối, hơi lạnh và sương đêm vẫn còn đọng lại quanh nhà và vạn vật, tôi rủ Hằng cùng tôi đi lễ, dù Hằng là người ngoại đạo, buổi lễ sớm nhất của ngày Chúa nhật, hai đứa co ro trong chiếc áo len đến nhà thờ, hôm nay thánh đường đông nghẹt người, không còn chổ chen vào, làm như đây là buổi thánh lễ cuối cùng trong cuộc đời mình nên ai cũng sốt sắng cầu xin ơn cứu rỏi, người ta đứng tràn cả ra sân; im lặng lắng nghe đoạn phúc âm Linh Mục đọc; từng lời, từng chữ, và vị linh mục giãng về đoạn Phúc âm đó “Ngày tận thế sắp đến, hãy dọn mình chờ đợi như các trinh nữ cầm đèn chờ hoàng tử đến dự tiệc cưới... “ Phía bên ngoài nhà thờ tôi chia lòng chia trí, nghe câu được câu mất vì tôi đang mãi nhìn khung cảnh sáng dần khi bóng tối tan nhanh; phía bên kia đường là phố xá, cửa hiệu,... người ta đang hối hã chất đồ lên xe, những chiếc xe nhà 4 bánh còn mới, mọi hoạt động diễn ra trong im lặng, hình như hôm nay là ngày cuối cùng, là hạn chót của những người trong thành phố, những ai cố gắng tin tưởng vào sự vững chắc của một quân đội hùng mạnh cứ chần chừ, nấn ná ở lại, hôm nay cũng nản lòng đành vội vã thu xếp ra đi. Thành phố đang hấp hối, đang giẩy chết. Tiếng súng nổ hôm nay nghe gần hơn hôm qua, liên tục, dồn dập, thúc hối, với ánh sáng mờ mò của một ngày mới, với không khí lành lạnh cùng những bóng người đi lại hối hã, cấp bách… chừng đó cọng lại vẻ nên một bức tranh sống động nhưng đầy sự hãi hùng.
Rồi thì buổi lễ cũng chấm dứt linh mục ban phép lành cho con chiên, chưa bao giờ chúng tôi nhận lảnh phép lành đầy ý nghĩa và thành kính như hôm nay. Trời hửng sáng tôi và Hằng ra về, Hằng ao ước “giá như mọi chuyện chỉ là giấc mơ, một ngày cũng như mọi ngày hai đứa sẽ vào quán Cao Nguyên ăn Pate chaud và uống một ly cà phê sữa nóng riêng tôi thì tôi rất mong được một chăm sóc ân cần, một mắt nhìn tha thiết, một bàn tay ấm áp của anh ấy nắm lấy tay tôi như ngày xưa khi hai đứa còn bên nhau, mà một thời như từ xa xôi lắm tôi đã từng được nhận bằng cả trời hạnh phúc… Khi tôi và Hằng về đến nhà thì Ngân và Hoa đã nấu xong một nồi cháo với một nồi cơm, bà An nói ăn cháo xong sẽ lên đường, còn cơm bà nắm từng nắm đem theo ăn dọc đường với muối mè.
Khi chúng tôi ra khỏi nhà, những tia nắng đầu tiên của một ngày mới đang nhảy nhót trên những ngọn thông già cao vút. Trời hôm nay đẹp quá, cái đẹp làm nhức nhối lòng tôi, phố dần vắng thưa người qua lại vì mọi người đều dồn đến Ban Quân Vận. Trong lúc chờ đợi chúng tôi được nghe kể đủ thứ chuyện ly kỳ rùng rợn, người ta bớt một thêm hai để câu chuyện của mình tăng thêm phần hấp dẫn, ai cũng muốn có một mẩu chuyện nào đó liên quan đến cuộc di tản này để kể, có người còn cho mình là người trong cuộc. Tôi cảm thấy vừa hiếu kỳ vừa mệt mỏi, mãi đến 3 giờ chiều chúng tôi mới được lên xe, chiếc GMC chở đầy người và đồ đạc, phía trước cabin ngoài anh lính tài xế ra còn có một sĩ quan đi theo ngồi bên cạnh để hộ tống, 3 giờ 15 chiều xe lăn bánh chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm sung sướng vẩy tay chào những ngươi còn lại. Tôi ngồi chổ sau cùng trên cái vali của mình lưng đưa về phía trước, ngồi như thế này tôi chỉ nhìn được phía sau, đây là một chổ ngồi tốt không bị che chắn bởi ai cả, tầm mắt của tôi bao quát cả một không gian rộng lớn và nhìn được phong cảnh chạy lùi về phía sau. Thành phố ở lại trong tiếng súng và sự vắng vẻ, còn chúng tôi ra đi trong ồn ào nhưng trật tự, chúng tôi đang đi về miền tự do; Sẽ chẳng bao giờ tôi trở lại nơi chốn này, nơi đầy ắp kỷ niệm của một cuộc tình đắm đuối mà với tôi mỗi hơi thở là một nhành cây ngọn cỏ, mỗi tiếng cười là một tầng sóng vang vọng mãi trong không gian, mỗi bước chân là một hằn sâu dấu vết trên từng con đường bụi đỏ và nước mắt là nổi khổ đau tận cùng của một hạnh phúc đã vuột mất.
Đoàn xe nối đuôi nhau dài dằng dặc; nhìn trước không thấy đầu nhìn sau chẳng thấy đuôi, một dòng xe uốn lượn ngoằn nghoèo nối theo nhau như một con rắn khổng lồ đang bò quanh co. Tốc độ xe khi ra khỏi thành phố nhanh hơnmột chút, từ đây có 2 ngã đường về Nha Trang đó là: một theo QL14 tách qua thị trấn Chư Srê xuống quận Cheo Reo (còn có tên gọi là Aynpa) đến Phú Bổn rồi về Tuy Hòa, và một: theo QL 19 đến Suối Đôi qua đèo Măng Yang tới thị trấn An Khê rồi Song An trở xuống hướng Qui Nhơn từ đó theo QL1 qua Phú Bổn đến Tuy Hòa, sau đó là về đến Nha Trang, đoàn xe này đang đi theo hướng QL 19 (vì nếu theo QL14 sẽ đến ranh Cao Nguyên Ban Mê Thuột, nhưng vùng đất này lại đang giao tranh ác liệt. Nếu VC chiếm được BMT họ sẽ tràn về đồng bằng mạnh như thác đổ). Ông Thiệu thì tuyên bố: “Phải tử thủ BMT” Sẽ có không biết bao nhiêu người lính phải chết vì cái lịnh Tử thủ quái ác này? Ở thị trấn Pleime đang đánh nhau dữ dội, những tin tức này chúng tôi biết được mỗi khi đoàn xe bị nghẻn lại vì một lý do nào đó. Tâm trạng của chúng tôi bây giờ ổn hơn được một chút khi càng lúc xe càng chạy xa vùng nguy hiểm, theo dự đoán của các anh sĩ quan bảo vệ người dân di tãn thì không chừng ngày mốt; tức ngày 18 - 3 - 1975 chúng tôi sẽ về đến Nha Trang, nhưng với điều kiện đoàn xe không bị nghẽn.
Khoảng 6 giờ chiều chúng tôi đến gần thị trấn MangYang, xe ngừng lại. Nơi đây chúng tôi thấy có thật nhiều lính dù, thủy quân lục chiến, bộ binh, biệt động quân… họ tràn cả ra đường, nét mặt đầy căng thẳng, có anh đốt điếu thuốc lá Quân tiếp vụ rít một hơi thẩy xuống đất đưa chân mang đôi bốt đờ sô dí mạnh xoáy xoáy cho điếu thuốc nát bấy xong lại đốt điếu khác rồi thẩy xuống… cứ thế mắt không nhìn một ai, không nhìn một chổ nào nhất định, một số sĩ quan và lính đang cố gắng tìm cách cho đoàn xe đi tiếp, khi có xe nào chết máy lập tức được đẩy qua một bên còn số người trên xe đó dồn vào những xe khác. Đoàn xe tiếp tục chạy, trời tối nhanh tất cả các xe phải bật đèn lên, ánh đèn pha của đoàn xe nối đuôi nhau sáng lóa lấp lánh dài vô tận trong đêm đen hun hút, tôi ví von gọi đó là con rắn đom đóm khổng lồ.
Nơi đây tiếng súng và tiếng pháo kích nghe như gần ghê lắm, mang đầy sự đe dọa. Trong giây phút ngắn ngủi lạ kỳ này tự nhiên tôi quên đi sự sợ hãi của mình mà để cho hồn tan biến vào không gian, lòng rung động sâu xa đầy bí ẩn, tôi muốn mình được tan chảy, hòa lẩn vào trong màn đêm sâu thăm thẳm này….
Bất ngờ xe đươc lịnh dừng lại tắt hết đèn tất cả chìm vào màn đêm âm u lạnh lẽo, có tiếng người nói bên xe:
- Đồng bào cố gắng ngủ một giấc mai đi tiếp, đi vào ban đêm nguy hiểm lắm, chúng ta đang ở gần thị trấn Mangyang vẫn chưa tới được chân đèo Măngyang… cũng còn khá xa.
Anh Đạt hỏi thăm:
- Mình đi theo lộ trình nào vậy anh?
- Có hai ngã về Nha Trang: nếu đi từ Ban Mê Thuộc thì sẽ đổ xuống Qui Nhơn rồi từ Qui Nhơn về đến Phú Bổn, qua Tuy Hòa là đến Nha Trang, còn đi từ Pleiku sẽ phải qua đèo Măngyang, cũng đến Phú Bổn vậy. Hiện giờ đoàn xe từ Qui Nhơn đổ về cũng nhiều lắm…bây giờ thì đoạn đường nào trống là cứ cho xe chen vào… nhưng không còn con đường nào trống cả.
Tôi nhắm mắt cố ngủ nhưng sao mà khó quá, vì phải ngồi co ro hai chân gập lại sát vào người nên mỏi nhừ, trong sự thinh lặng của đêm tối, đất trời là một màu đen giao hòa nhau mà lòng tôi thì ngổ ngang trăm mối, làm sao phân tích được tâm trạng của mình lúc này? Nổi nhớ nào xoáy buốt làm cho tôi đau đớn nhất đây?: Nhớ cha mẹ, anh em, hay nhớ anh Bang? giờ này anh ấy đang làm gì? ở đâu? anh có kịp lên máy bay để đi, hay đã tan xác bởi một trái pháo nào trong phi trường? Nếu còn sống anh có tưởng tượng nổi tôi đang ở đây lo sợ và chậm rì trong từng phút từng giây chạy trốn. Không hiểu sao tôi không giận anh ấy như những tháng ngày qua tôi đã giận; đã buồn, mà tôi chỉ cảm thấy rất lo cho anh ấy, lo còn hơn cả lo cho tôi. Tôi nhìn lên bầu trời trên cao, không thấy gì ngoài những vì sao đang lấp lánh, đêm càng về khuya trời càng lạnh, người ta chen chúc nhau trong những chiếc xe chật hẹp tù túng, thỉnh thoãng có tiêng khóc của trẻ nít rồi tiếng ho tiếng đằng hắng của ai đó, những âm thanh này cho chúng tôi biêt sự tồn tại của mình trong đêm nay, “Thủy ơi cố ngủ đi đừng nghĩ ngợi lung tung ngày mai trời lại sáng,” Đêm nay sao dài quá.
_________________________
2. 17/03/1975
Hình như tôi có “ngủ ngồi “được một chút, khi giật mình thức dậy tôi có cảm giác mình đang trôi đi, thì ra xe đang chạy, trời chưa sáng hẳn vạn vật còn bàng bạc hơi sương. Chị Bích nhìn đồng hồ đeo tay: 5 giờ sáng rồi. Xe đi qua thị trấn Măngyang, một thị trấn nghèo nàn hai bên đường là những căn nhà thấp nhỏ bán đủ thứ lặt vặt, người dân thị trấn nhìn đoàn người chúng tôi bằng những đôi mắt tò mò đầy ái ngại, cũng có vài gia đình đang đón xe để đi, họ được chia ra và xếp vào những xe có thể nhét được 1 hay 2 người. Quãng đường này xe chạy chậm lắm và thường bị ngừng lại, bên kia đường ở khoảng đất trống có một cái lều bạt mang dấu hiệu cứu thương; vài anh lính chạy ra chạy vào lăng xăng hối hả, một ông sĩ quan mặc áo blue trắng đó là bác sĩ quân y, ông ta xách túi cứu thương ra khỏi lều đưa tay áo lau mồ hôi trán, chúng tôi hỏi thăm họ cho biết có một chị trở dạ sanh con trên đường di tãn, bà An lắc đầu thở dài nói với chị Bích: “tội nghiệp quá”.
Tin tức ở phía trước chuyền ra sau không mấy tốt: “VC đang đánh đâu đó phía bên hông,” mọi người xanh mặt lo lắng khi tiếng súng nghe gần lắm rồi, đạn pháo lại càng dồn dập hơn, đoàn xe thì vẫn chạy rất chậm mà xe càng chạy chậm nổi lo sợ càng dâng cao. Sáng nay trời không có nắng và hơi se lạnh, xe “trôi qua ”những buôn thượng nghèo nàn hiu quạnh chỉ lèo tèo mấy nóc chòi tranh, một nhóm nhỏ người thượng đen đúa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn xà rông, con nít ở truồng; họ đi thành hàng dọc người nọ nối tiếp người kia trên mặt đầy nét khắc khổ, họ nhìn chúng tôi với cái nhìn ngơ ngác, lạ lẩm. Qua khỏi thị trấn Mangyang đoàn xe ngừng lại khá lâu, chúng tôi được phép xuống xe để “vệ sinh cá nhân…” vươn vai, duổi chân. Bà An biểu Ngân phát cho mỗi người một nắm cơm chấm với muối mè, ăn cũng ngon, mấy đứa con của chị Bích rất ngoan, không khóc nhè hay đòi hỏi gì cả, bé Ly Ly mới mười tháng tuổi bình yên rúc vào ngực mẹ không biết sợ hãi là gì, bà An không cho chúng tôi ăn nhiều bà lo xa: phải dè xẻn, vì sợ ngày đi còn dài…, được lệnh chúng tôi lên xe đi tiếp, dù ngồi chung một xe nhưng những người thuộc gia đình khác với gia đình chị Bích không ai nói chuyện với nhau, người nào cũng mang một tâm trạng nặng nề cùng với nổi lo riêng, theo sự phỏng đoán của anh Đạt - là thiếu úy bộ binh - thì đoàn xe này sẽ đến Suối Đôi, rồi từ Suối Đôi qua đèo MăngYang, sau đó đến Song An (giáp ranh Qui Nhơn) tiếp đến Phú Bổn tới Tuy Hòa rồi từ Tuy Hòa về Nha Trang, đó là lộ trình từ Pleiku về Nha Trang, còn từ Ban Mê Thuộc về Nha Trang thì theo lộ trình khác là đổ xuống hướng Qui Nhơn, qua Phú Bổn, đến Tuy Hòa rồi về Nha Trang nhưng hình như mọi ngã đường đều bị nghèn nên đoàn xe cứ trôi đi không còn phương hướng, không biết Ban mê Thuộc còn hay mất?, tôi hỏi anh Đạt:
Vậy mình đến cầu Suối Đôi chưa anh?
Anh Đạt nhún vai:
- Nếu cứ bị nghẽn như thế này thì... biết đến bao giờ vì Cầu Suối Đôi cũng còn xa...
Xe chạy
được một đoạn ngắn thì dừng lại, những chiếc GMC đậu san sát nối đuôi nhau chỉ cách nhau chừng nữa mét. Lúc này là 7 giờ sáng, chúng tôi xuống xe đi bộ một đoạn ngắn tìm một lùm cây ven đường để giải quyết việc riêng… lúc quay trở lại gần xe của mình, tôi gặp một số học trò có cả Dũng em họ tôi con của cô (em kế cha tôi) là Thiếu úy cảnh sát, Dũng yêu Hiền; cô con gái của ông Vơn kế toán trường tôi, Dũng thường đến trường tôi thăm người yêu, không ngờ hôm nay lại gặp nhau nơi đây, mừng quá nhưng chỉ hỏi thăm nhau được vài câu ngắn ngủi mà thôi, gặp nhau trong hoàn cảnh chung như thế này chúng tôi cảm thấy thật bùi ngùi, cậu bé Ân –học sinh lớp 9 của tôi nói đùa:
- Cô ơi, hôm nay nhóm em phải nộp cho cô bài thuyết trình “Tình yêu qua ca dao Việt Nam,”mà… tụi em quên làm bài rồi, cô cho mhóm em hẹn lại bữa khác nha cô.
Tôi cười:
- Đến Nha Trang phải nộp bài cho cô, không được quên.
Một em khác hỏi:
- Thưa cô, cô dạy Địa Lý vậy đây là đâu hả cô?
- A, đây là nơi chúng ta gặp nhau bất ngờ nhất, bi đát nhất và có cùng chung hoàn cảnh, số phận như nhau.
Chúng tôi cùng cười, các em chỉ cho tôi thấy xe các em đi ở trước xe tôi chừng 5 chiếc, cùng chạy trốn mà bây giờ mới gặp nhau, tôi hỏi thăm về Lý, cậu học trò giỏi văn nhất lớp 9A1 và bàng hoàng sững sốt khi nghe câu trả lời “Lý vào mật khu trước đó mấy ngày, cha của Lý là VC nằm vùng,” tin này cũng chỉ được chuyền miệng nhau giữa các em học sinh lúc các em còn ở Pleiku. 8 giờ sáng đoàn xe đi tiếp, hôm nay chúng tôi không còn được yên tâm như hôm qua, vì súng nổ rất gần và tiếng đạn pháo kích ầm ầm đều đặn dội rung cả mặt đất, những viên Sĩ Quan và lính bộ binh, Quân vận áp tải đoàn xe di tản đang cố trấn an mọi người, họ có vẻ lo lắng cho đoàn xe di tản này ghê lắm, gặp những ca bịnh bất ngờ, nguy kịch, lập tức xe phải tấp ngay vào lề trống, các anh lính quân y căng lều bạt cứu chữa cấp tốc, các bác sỉ quân y và y tá đều tận tụy chu đáo Không đơn giản là đi một mạch về đến nơi đã định, Trong xe có tiếng bà An khóc, ông An ôm bà dổ dành, chị Bích thở dài lo cho anh Thi, chị sợ hãi vì 4 đứa con của chị còn quá nhỏ, nhất là bé Ly Ly… còn tôi, tôi chẳng nghỉ ngợi gì được nữa, đầu óc tôi đặc cứng.
9 giờ sáng - đoàn xe đến Phú Bổn thì ngừng hẳn, chẳng thể nào nhích lên được nữa, tất cả bị dồn cứng lại, bây giờ thì tiếng nổ nghe sát ngay bên lổ tai và thấy rỏ những cụm khói đen bốc lên cùng ánh lữa của đạn pháo, như thế có nghĩa là chúng tôi đang chạm người vào cuộc chiến này rồi đây, không phải chỉ là nghe trên radio hay đọc trong các tờ báo, hình như bên ta không phản công thì phải, tôi hỏi một anh Đại úy trên ngực áo mang bản tên Cần: phía bên nào đang bắn dử vậy anh? Anh cho biết phía bên vc đang pháo kích vào đoàn xe của dân di tản, họ cố chặn dân lại không cho đi, bên Cộng Hòa không dám phản công vì sợ vc trả đũa bắn ngay vào đoàn xe chở dân. Rất gần phía trước xe chứng tôi chừng 3 chiếc, một tiếng nổ rất lớn… “Ù… ẦM…”; Sau tiếng nổ là những mảnh sắt tung lên trời cùng với khói, lữa. Rồi… chéo.. ầm.. ở phía sau xe chúng tôi… chéo… ầm… phía bên hông,... sau mổi tiếng nổ lớn là một chiếc xe bị hất tung lên cao vở vụn ra từng mảnh kèm theo khói và lửa, một khung cảnh hổn loạn kinh hồn diễn ra, anh Đạt hối cả nhà nhào ra khỏi xe và nằm sấp xuống ngay, hai tay ôm đầu kéo sát ngực lưng đưa ra, vừa im tiếng nổ chúng tôi nhỏm dậy chạy theo anh Đạt,... lại: chéo… ầm… Ôm đầu nằm xuống... trước mặt, sau lưng, bên trái bên phải, đâu đâu cũng có đạn pháo tung trời, tất cả hoãng loạn, nhốn nháo, mọi người cố tìm đường chạy cho nhanh, cho thoát khỏi nơi này, tiếng khóc la gào thét vang trời, lại một tiếng nổ lớn… “Chéo…ầm …,” chiêc xe chúng tôi vừa nhảy xuống bỏ chạy lúc nảy bị trúng ngay trái pháo của vc, nổ lớn hất tung lên trời, tôi trố mắt nhìn; nó tan ra từng mãnh, có tiếng đứa học trò nào đó hét lên “: xe cô Thủy kìa, cô Thủy chết rồi …” Lạy Chúa, Chúa đã cứu chúng con. . chúng tôi thoát chết trong gang tất, trong đường tơ kẻ tóc. Cả gia đình nháo nhào chạy theo anh Đạt và Khải, chen chúc nhau, níu lấy nhau vì sợ lạc nhau, tất cả đoàn người di tản đỏ dồn về giòng sông nằm bên trái, hàng ngàn người nhào xuống sông, cố vượt qua bên kia sông mà không ai thèm biết sông sâu hay cạn, cứ chạy bừa xuống.
Chúng tôi đang ở đầu cầu Suối Đôi - Phú Bổn - đoạn đường cây số 168, tỉnh lộ số 7, chung quanh tôi là cả một rừng người nhốn nháo hổn loạn, kẻ chạy lui người chạy tới; mẹ tìm con vợ gọi chồng loạn xạ cả lên, họ gào thét la khóc réo gọi tên nhau… đôi mắt họ mở lớn thất thần căng ra hết cở như muốn bị rách toát để tìm nhau. Không còn có âm thanh nào kinh hãi bằng thứ âm thanh này, tiếng súng vẫn thản nhiên nổ rền không ngớt hòa chung với tiếng la hét kêu khóc vì đau đớn, lẫn lộn trong máu là xác người nằm chồng chất lên nhau, có người vừa mới té xuống chưa kịp chổi dậy thì bị người khác dẩm đạp lên mình.
Một bức tranh của chết chóc, một âm thanh của đạn pháo hòa chung với tiếng người rên xiết, kêu gào. Khúc sông cạn nước nhuộm đỏ màu của máu trở thành giòng sông máu, chen chúc giữa xác người chết là nhũng bước chân lội bì bỏm cố vượt qua được bên kia sông KHÔNG AI CÒN ĐỦ TỈNH TÁO ĐỂ nghĩ rằng bên này sông hay bên kia sông đều như nhau, tất cả cố mà chạy để mong mình được thoát, chạy quáng quàng, chạy thục mạng, vắt giò lên cổ mà chạy. Ngay từ chổ chiếc xe mà chúng tôi đi bị nổ tung thì hầu như mọi ngã đường về Nha Trang đều đã bị chận lại hoàn toàn, tấc cả các xe bị dồn cứng không còn lối thoát, mạnh ai nấy nhảy xuống xe mà chạy.
Chúng tôi bám vào nhau lội xuôi theo dòng sông, đạn bay chéo chéo trên đầu, đạn rớt lỏm bỏm sau lưng, đạn rơi vô tình trước mặt; có vô số người trúng đạn ngã xuống, máu hòa vào nước nhuộm đỏ cả dòng sông, máu thấm vào đất, máu bám vào mổi bước chân của người còn sống đang thốn chạy, máu làm tôi hoa cả mắt, xác người chết nhiều quá làm đầu tôi choáng váng đảo điên. Nhưng bổng nhiên tôi không còn sợ hải nửa bởi vì tôi đang ở trong nó, hòa nhập vào với nó, điều đáng chú ý bây giờ là sự sống còn trước mặt, phải cố mà giử lấy nó. Chúng tôi dẫm lên xác người mà chạy, chúng tôi lội trong máu mà đi, mỗi người lớn chúng tôi nắm chặt tay một đứa con chị Bích, chị Bích ôm cứng bé Ly Ly, vạch vú cho bé ngậm, với núm vú và hơi ấm của mẹ, bé bình yên ngủ say. Ông An với Minh dìu bà An mỗi người một bên, vì lúc này toàn thân bà mềm nhũn, hai chân bà cứ ríu lại với nhau, sự sợ hải làm bà như bị tê cứng.
Hai lổ mủi của tôi như bị nghẹt lại không thở được vì mùi tanh của máu làm cho tôi loạng choạng suýt ngả xuống trong khi sau lưng tôi dòng người đang lấn tới sẳn sàng vô tình dẩm lên tôi. Khải vội vàng kéo tay tôi lôi đi xềnh xệch, chiếc va li của tôi bình thường nặng trỉu nhưng sao lúc này tôi lại thấy nhẹ tênh. Nhờ cái nắm tay của Khải giật mạnh kéo tôi đi mà tôi giật mình bừng tỉnh cơn mê. Tôi nhủ thầm: phải cố tỉnh táo để thoát ra khỏi nơi kinh khủng này, phải mạnh mẽ lên để lội vào trong máu mà ra khỏi máu, phải vững đôi chân khi dẩm lên xác của người chết để được sống còn.
Tôi đã tỉnh táo hơn và chạy nhanh theo Khải, cả nhà chị Bích không ngớt gọi tên nhau, níu chặt tay nhau để không bị lạc, mấy đứa bé vừa sợ vừa mệt nên đôi chân cứ va vấp vào nhau, anh Đạt, hét to bắt mổi người lớn cỏng ngay một đứa bé trên lưng, tội nghiệp Ty út tay cứ níu chặt vào lưng Minh trong khi Minh còn phải cùng với bố dìu bà An kéo bà chạy theo mọi người. Thấy con nít ngã chết nhiều quá nên chị Bích khóc lớn và ôm thật chặt bé Lyly trong lòng.
Tôi nghe tiếng anh Đạt hét lớn:
- Mọi người phải hết sức cố gắng để vượt qua được bên kia sông.
Không thể nào diển tả được cảnh tượng lúc này, nó quá kinh khủng, súng vẫn nổ không ngớt quanh chúng tôi, người ta nhốn nháo tìm nhau bất chấp bom đạn; trong lúc hổn loạn tôi thấy một chị còn trẻ, một tay bồng đứa bé nhỏ xíu, tay kia lôi xềnh xệch một đứa, vừa chạy vừa khóc gọi tên chồng, vừa gọi mẹ thì “ đoành” một tiếng nổ lớn và…cả ba mẹ con ngả xuống nằm chồng lên nhau. Một bà già chống gậy quờ quạng réo tên con trai, bà đang loay hoay thì… chíu…bà ngã úp xuống cùng với cây gậy, máu từ lưng chảy ra cho dòng sông thêm đỏ... người chết sao mà nhiều quá, cứ thế; người ta cuống cuồng dẫm lên tất cả mọi thứ để mà chạy, kể cả xác người.
Anh Đạt dẫn đầu, bắt mọi người khum lưng xuống len lỏi trong những lùm cây ven sông, được một đoạn khá xa anh lội qua bên kia sông, chúng tôi chỉ biết đi theo anh, cũng may đây là con sông cạn; vì chưa đến mùa mưa, nước sông chỉ cao ngang ngực, tôi đội cái vali trên đầu, Ngân, Hoa, Thắm…mỗi đứa một tay xách đồ một tay nắm tay đứa khác, Khải cõng Ty Anh trên vai Minh cõng Ty Em, anh Đạt bồng My Cò trên tay… khi chúng tôi đã qua được bên kia sông, anh Đạt đẩy mọi người vào một lùm cây rậm núp trong đó; tiếng súng lúc này đã dịu lại, không còn rát bên tai và cũng không dồn dập như trước, có lẽ chúng tôi đã vượt qua được vùng giao tranh ác liệt; vùng đất của sự sống và cái chết sát bên nhau, trộn lẩn vào nhau, không rạch ròi phân định. Chúng tôi ngồi nghĩ mệt và định thần lại, lúc này mọi người mới nhìn nhau; chị Bích đếm từng người: “Ơn trời đủ cả;” Hằng bóp tay tôi: “không biết anh Sơn thế nào?”. Bà An khóc thút thít, Khải cằn nhằn: “Mợ đừng làm chúng con rối trí thêm nữa”.
Chúng tôi nghe có tiếng chân bên ngoài bụi cây, thì ra rất nhiều người cũng qua đươc bên này sông, có 2 anh phi công xin nhập đoàn với gia đình chị Bích, họ vẫn còn cầm súng trên tay, và trên người vẫn còn mặc bộ đồ bay, anh Đạt kêu họ phải bỏ súng, cởi bộ đồ pilot để mặc đồ dân sự, Khải lôi trong sacmarin của gia đình lấy ra 2 cái quần của ông An đưa cho họ, một người tên Hưng một người tên Phi; ngồi nói chuyện với nhau, chúng tôi biết là mình đang ở phía trên của giòng sông Êpa, và vượt qua bên kia suối Đôi, trong lúc hổn loạn chúng tôi đã chạy ngược về Kontum thay vì men theo QL để đến đèo Măngyang, bây giờ thì QL này đã trở thành Đại lộ kinh hoàng rồi. Anh Đạt là sĩ quan Bộ Binh, anh am hiểu về địa hình, địa thế, anh và Khải từng quen với những cuộc hành quân, bèn mở một cuộc họp nhỏ để phân chia công việc cho từng người; Đạt và Khải dẫn đầu đoàn người, chỉ huy mọi việc, ông An chỉ có một việc để làm là dìu đỡ bà An; Ngân, Hoa lo về việc ăn uống, Minh, Ty, Kiều, Đạt, Khải mang đồ đạc của cả nhà, - có thêm Đạt Nhỏ là bạn của gia đình chị Bích ( vì cùng tên với anh Đạt –em trai của chị Bích – lại nhỏ tuổi nên gọi là Đạt Nhỏ) đi theo gia đình chị - giống như tôi - phụ mang đồ đạt; về phần chị Bích, Hằng, Thủy, Thấm, mỗi người giữ một đứa nhỏ con chị
Theo lời anh Đạt thì chúng tôi không thể nào đi theo đường cái quan được; vì đi như thế là rất nguy hiễm, dể gặp vc hoặc lọt vào ổ phục kích. Nơi đây gần đèo Măngyang, chẳng biết An Khê còn hay mất? chỉ là suy đoán vậy thôi; vì việc đòan xe bị pháo kích dữ dội và bị chận đứng ở Phú Bổn cùng với cảnh người dân bỏ chạy hoảng loạn vừa rồi, thêm vào đó là những tràn đạn pháo kích khủng khiếp của vc nhắm vào đoàn xe GMC chở người di tãn... biết bao nhiêu chiếc GMC bị hất tung lên trời tan tành thành những mảnh vụn cùng với xác người... thì An Khê bị mất rồi, anh Đạt quyết định không đi theo đèo Măngyang mà sẽ quay trở lại đoạn đường đã đi qua, mặc dù đi theo lộ trình như thế là rất nguy hiễm, cũng có nhiều người quay trở lại như chúng tôi sau khi tiếng đạn pháo kích và tiếng súng lơi đi một chút; nó không còn gắt gao, dồn dập như lúc nảy, những nhóm người họp lại với nhau thành một đoàn khá đông; chúng tôi tiếp tục men theo những lùm cây mà đi; làm như nó che chở được cho chúng tôi. Tiếng súng vẫn còn rải rác, tiếng pháo kích thưa dần; bây giờ đã trưa lắm rồi, mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, những vắt cơm bà An nắm lúc ở nhà giờ đã khô, nhưng đói quá thì vẫn cứ ngon như thường, mọi người kiếm chổ nghĩ, không ai muốn nói gì trong lúc này. Bổng nhiên bà An khóc, ông An nhỏ nhẹ vổ về bà, Khải nóng tính cau mặt gắt nhỏ:
- Mợ cứ làm cho chúng con rối ruột thêm lên, chúng con đã có đứa nào chết đâu mà mợ khóc.
Chị Bích thở dài, còn tôi; tôi vẫn có cảm giác mình đi theo gia đình chị như một nhánh cây tầm gởi nên lắm lúc cũng muốn khóc như bà An, mà không dám, sợ làm mọi người khó chịu. Bổng nhiên giữa khoảng đất trống có tiếng một bé gái kêu khải – vì Khải ngồi phía ngoài rất dễ thấy:
- Chú ơi; chú có thấy ba má cháu đâu không?
Câu hỏi ngây thơ của bé làm cho tôi xúc động muốn khóc, giữa một nơi như thế này và vào lúc này làm sao biết được ba má cháu là ai, cháu bé đứng bơ vơ, sợ hãi và run rẫy, Khải ngoắc bé lại, nó chỉ chờ có thế lật đật vạch lùm cây chui vào. Chị Bích hỏi:
- Cháu con ai?
- Con của ba má, ba con dẫn cu tí, má ẳm bé xíu, ba má chạy nhanh lắm cháu nắm tay ba chạy một hồi rồi không thấy ba má đâu cả, cô chú tìm ba má cho cháu với.
Cháu bé òa khóc nức nỡ...
Anh Đạt và Hằng dổ dành:
- Nín đi cháu, cháu phải biết là các cô chú không thể nào tìm ba má cho cháu được.
Hình như giữa sự sợ hãi và nguy hiểm mà bé đang phải chịu, bé khôn hẵn lên, nó năn nỉ:
- Cháu sợ đi một mình lắm, cô chú cho cháu đi theo với.
Tôi nhìn kỷ con bé, nó chỉ độ 6, 7 tuổi là cùng, tóc cắt ngắn kiểu búp bê, đôi mắt to tròn, đen láy, xinh xắn, đáng yêu nó mặc 1 bộ đồ bộ cổ bèo, bằng vải hoa xanh đỏ li ti, nhìn nó lấm lem nhếch nhác Hằng thở ra:
- Chăm cho 4 đứa cháu của mình khỏi lạc nhau đã mệt lắm rồi, giờ thêm con bé này, chịu nổi không đây?
Chị Bích đã làm mẹ nên lòng chị bao la hơn:
- Tội nghiệp cháu bé, nó nhỏ bằng Ty Em nhà mình, đem cháu theo với, mỗi người gắng thêm một chút.
Tôi thấy hoàn cảnh của bé cũng giống mình, khác một chút là tôi không bị lạc mất cha mẹ, nhưng cũng đang nương tựa vào gia đình chị... tôi không dám nói gì. Có lẽ ba má và 2 em của bé đã chết banh xác rồi, ai mà biết được. Tôi hỏi bé tên gì? nhà ở đâu, đi học chưa? bé trả lời một mạch: “Con tên Lan, nhà ở Kontum, học lớp một;” Chị Bích biểu Ngân ngắt cho bé một miếng cơm, ăn xong bé xin thêm vì: “ ít quá à, con ăn không no.” Hằng vuốt tóc nó, giải thích cho nó hiểu là: “ không đũ cơm để được ăn no.” Bây giờ gia đình chị Bích có thêm bé Lan, đoàn người trong nhóm lên đến con số 20. Anh Đạt nói chúng tôi nghĩ như vậy đủ rồi, phải đi tiếp vì đường còn rất xa.
Bé Ly Ly mở mắt nhìn mẹ, bé nhã núm vú mẹ ra toét miệng cười, rồi lại rúc đầu vào ngực chị Bích, ngậm vú mẹ ngủ tiếp, chị Bích ứa nước mắt:
- Các em à, ngực chị đau lắm, sữa chị cạn khô, bé Ly có no không đây?
Tôi thấy trong mắt anh Đạt, Khải, Hằng… có những giọt nước mắt không rơi ra được, nó ngập ngừng đọng lại ở khóe; xót xa và đau đớn. Riêng tôi, tôi đang có một tâm trạng khác, tôi cảm thấy gần gũi với bé Lan hơn, tôi không ứa nước mắt cho chị Bích vì chị đang có cả một gia đình bên chị, có bố mẹ, các em, các con chị, Tôi đang ứa nước mắt cho mình và cho cả bé Lan. Quanh chúng tôi đoàn người vẫn rất đông, chia thành từng nhóm nhỏ, như một cuộc cắm trại lớn, nghỉ ngợi lung tung, tự nhiên tôi bật cười, ai cũng ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi; tôi nói cảm nghỉ của mình: “Hôm qua cả thành phố rủ nhau đi du lịch, hôm nay cả thành phố cùng nhau đi cắm trại,” câu ví von của tôi làm mọi người cười xòa, chị Bích khen: “giáo sư văn chương có khác, Thủy nhận xét hay thật,” Hằng nói tôi có máu khôi hài,... ít nhất thì tiếng cười cũng làm cho mọi người bớt căng thẳng.
Chúng tôi đi loanh quanh lẩn quẩn mãi mà chẳng tiến xa được bao nhiêu, trời tối dần, chân đã mỏi, bụng lại đói, Anh Đạt loay hoay kiếm chổ cho gia đình nghĩ qua đêm - lúc thu dọn đồ đạc để di tãn - chị Bích đem theo mấy cái mền và mùng, dồn hết vào cái Sacmarin cùng với áo quần của cả gia đình chị, số đồ dùng này sẽ xử dụng tạm thời khi về đến Nha Trang, bây giờ lấy ra xài ở đây, thật tốt. Anh Đạt, Khải trải mấy cái mền ra giữa đất cho mọi người nằm. Đêm nay chúng tôi ngủ giữa rừng trời với cái bụng trống rỗng và toàn thân thì rã rời, hai chân nhức mỏi, trầy xước vì lúc bỏ chạy chúng tôi đã quẵng hết guốc dép, cứ chân trần mà chạy cho nhanh, không còn biết đau khi chân mình dẫm lên sỏi đá, gai góc, bây giờ thì… khi được nằm được duỗi thẳng đôi chân rướm máu cảm giác đau buốt rát xé ruột gan chổi dậy hành hạ chúng tôi, thêm vào đó là nổi hoang mang hồi hộp: Biết đâu lúc đang nằm đây; một quả đan pháo ham vui rong chơi ghé thăm chúng tôi và nổ cái... ẦM... BANH XÁC... hết đường về. Đạn pháo thì vô tình nhưng con người lại cố ý, còn chúng tôi là những người vô tội, một bên kéo tay ngừơi ra đi một bên níu chân người giử lại... ở giữa là THẦN CHẾT. Đêm yên lặng quá, thèm nghe một tiếng Dế rả rích trong không khí đầy mùi thuốc súng nhưng dế cũng chạy trốn núp dưới hang, không dám thở mạnh nữa là kêu cho con người nghe... Đang yên lặng như thế bổng nhiên có tiếng rên nho nhỏ đau đớn, rồi thành từng tiếng khóc, ai đó xuýt xoa: “ôi đau quá ”, tôi rùng mình; mới chỉ có một ngày sống giữa làn giao tranh, máu lữa, giữa tích tắc của sự sống và cái chết; một ngày thôi mà sao dài như vô tận, tôi đã hòa mình vào cuộc chiến, đã tan ra trong nổi sợ hải cùng với máu và cũng đã dẩm đạp lên xác người mà đi, thế nhung tôi vẫn được sống, được nằm đây mà nghĩ ngợi và chờ đợi giấc ngủ đến với mình; Cảm ơn Chúa đả cho chúng con qua được một ngày, còn bao nhiêu ngày khác nữa, xin Chúa hảy gìn giữ con.
Đêm nay nằm giữa núi rừng xa lạ này, bên dưới là giòng sông Ađun nhuộm máu, bên trên là người chết nằm ngổn ngang, dù nhắm mắt cố hết sức để dổ giấc ngủ, nhưng những cảnh tượng và những âm thanh của ngày hôm nay cứ luẩn quẩn trong đầu tôi, tai tôi vẫn còn nghe những tiếng thét hãi hùng, mắt tôi vẫn còn thấy người mẹ trẻ ôm chặt trong tay tấm khăn lông như ôm một đứa bé, phải chăng lúc bỏ chạy chị đã làm tuột mất con mình mà không hay? còn nữa; người đàn ông tay dắt đứa con trai nhỏ, tay ôm bọc đồ; vừa chạy vừa gào tên vợ và con gái; tôi cũng đã thấy một bà già chạy không nổi, cứ té lên té xuống; khóc gào: con ơi chờ má với. trời ơi có người kéo lết một chân, còn chân kia nát bấy cố tìm sự sống, sau đó gục xuống, ngất đi vì mất nhiều máu và vì đau đớn, chắc bây giờ ông ta đã chết, không ai cứu ai trong lúc đó, ai cũng phải tự cứu mình cái đả. Tôi rùng mình; giấc ngủ không đến được khi hình ảnh nọ nối tiếp hình ảnh kia, như một khúc phim quay lại, chậm rãi, từ từ; hiện ra rỏ rệt từng chi tiết; từng đoạn; kìa một cô gái rất trẻ với bàn tay nát bấy vừa chay vừa ôm cánh tay bê bét máu, lảo đảo, liêu xiêu, kia nữa; ông già đang bám vào vai tôi để vượt qua sông, ngang giữa dòng thì... chíu... ông ngã xuống, tuột khỏi vai tôi, máu tuôn ra xối xã vì một viên đạn bay trúng ngay đầu, âm vang của tiếng súng cứ xoáy trong tôi rền rĩ buốt tai, tôi không muốn nhớ, tôi không muốn thấy lại những gì đã xảy ra, nhưng sao nó cứ đùa cợt với tôi mãi như thế này? Những xác chết không nguyên ven, bầy nhầy trong vũng máu và thịt da trộn lẩn cùng đá, cát. Có những em bé nằm chết mà như đang ngủ trong vòng tay ôm của người mẹ cũng đã chết, máu nhuộm ướt cả hai mẹ con, đau đớn thay khi tôi phải dẩm lên xác họ mà chạy.
Tôi cắn chặt môi, nước mắt tôi tuôn trào như mưa; khi đã khóc được thỏa thuê, thì nổi buồn nhớ riêng tư lại ập đến: giờ này cha mẹ tôi ở Nha Trang chắc là đang lo lắng cho tôi ghê lắm, đang như người ngồi trên đống lữa mà chờ tôi về; cha mẹ có hối hận vì đã ra sức cấm cản chuyện tình của tôi và anh Bang, đến nổi vì không thể rời xa anh ấy được mà tôi đã nhất quyết lên “Phố núi cao ” dạy học, cho chúng tôi đươc gần nhau, hai chúng tôi đã bàn tính với nhau là để tránh khỏi sự khắc khe của cha mẹ tôi vì mỗi lần hai đứa hẹn hò gặp gở nhau mẹ tôi mà biết thì tôi lại bị ăn đòn,
Bang đã xin chuyển lên Pleiku trước, chờ tôi học xong năm thứ ba, đươc ra dạy bên ngoài - vì năm thứ tư tôi chỉ hoc hàm thụ và làm luận án ra trường – tôi xin lên Pleiku dạy để hai đứa không phải khổ sở lén lút gặp nhau nữa, cha mẹ tôi tưởng rằng anh vẫn còn ở Nha Trang nên khi biết tôi xin đươc nhiệm sở ở Pleiku thì mừng lắm, nghĩ rằng đã chia cắt được chúng tôi... nhưng rồi. . . nếu như cha mẹ đừng….; còn anh Bang nữa: anh có lo, có nhớ, có chờ đợi tôi không? Mặc dù hai đứa đã xa nhau vì tự ái, vì ích kỷ và vì đủ mọi lý do không đáng kể. Làm sao tôi quên được ngày đầu tiên đặt chân đến Pleiku; khi máy bay đáp xuống phi trường Cù Hanh đìu hiu bụi mù, đất đỏ, anh đã ngồi sẳn ở đó: ngoài thềm nhà chờ đợi của phi trường từ lúc nào, tôi bước xuống máy bay mà hai chân như nhảy, anh ôm tôi trong vòng tay; chúng tôi đã có biết bao ngày tháng hạnh phúc bên nhau, anh ở trong cư xá, tôi ở ngoài nhà trọ, anh đi bay, tôi dạy học; bình yên và hạnh phúc, hai đứa bàn về đám cưới, về cuộc sống chung sau này, ráng một vài năm để dành tiền tự lo cho đám cưới của mình vì cha mẹ cấm cản sẽ chẳng lo cho đâu… Cuối cùng là tan vỡ, là nước mắt như mưa, tôi khóc nhiều lắm và nghĩ sẽ chẳng còn nước mắt để mà khóc, nhưng bây giờ tôi lại khóc, khóc cho những điều tôi đã chứng kiến ngày hôm nay, cho ngày mai đầy bấp bênh, khốn khổ... cuối cùng thì tôi cũng ngủ được trong nước mắt, một nguồn suối không bao giờ cạn...
18/03/1975
Một tiếng nổ lớn và gần làm chúng tôi giật mình thức giấc, trời dần sáng, cuộc chiến lại bắt đầu sau một đêm tạm lắng, chúng tôi vội vã thu xếp đồ đạc để mà chạy, tất cả những đồ dùng nặng, cồng kềnh phải vất bỏ, tôi xé vội cái áo dài, lấy hai tà áo bó hai chân, cả nhà làm theo tôi, chân ai cũng rướm máu, phải lấy áo bó chân mới đi tiếp đươc, chị Bich biểu tôi phải vứt cái vali, chỉ lấy một ít áo quần và giấy tờ quan trọng bỏ chung vào trong Sacmarin của gia đình chị, tôi thã trôi theo sông những đĩa nhạc mà tôi vô cùng yêu quí, lòng xót xa đau đớn và đầy nuối tiếc như một phần thịt da của mình phải bỏ lại. Hôm nay tiếp tục men theo giòng sông đỏ máu mà đi, không thể chậm rải được, chúng tôi càng chạy, trời càng sáng, súng nổ càng nhiều, mọi việc lập lại như ngày hôm qua, những người lính vừa chạy vừa cởi bỏ bộ đồ lính đang mặc như chối bỏ thân phận mình, họ chỉ còn trên người cái quần xà lỏn và cái áo may dô; súng, giày, quần áo lính vứt ngổn ngang, có người dẫn theo vợ con cha mẹ, có người đi cùng với nhau. Nơi đây chúng tôi có cùng một nét mặt: sợ hãi, kinh hoàng, và hốt hoãng… đoạn đường này xác chết nằm la liệt, ngổn ngang đủ mọi tư thế; già có, trẻ có, và có cả những em bé, bao nhiêu là người chết nằm chồng lên nhau... Anh Đạt lục túi một anh Thiếu úy bộ binh vừa mới chết; máu vẫn đang còn chảy trên ngực; anh lấy được tấm bản đồ không còn nguyên vẹn, nó bị rách một góc, nhưng đối với anh Đạt thì lúc này tấm bãn đồ rất quí, rất cần thiết.
Súng lại nổ dữ dội, rền và rát bên tai, lại cuống cuồng đua nhau mà chạy, bên vệ đường một phụ nữ nằm nghẽo đầu, máu đầy người, chị chết rồi; trên bụng chị là một đứa con gái còn rất nhỏ khoãng 5, 6 tháng nó đang ngậm vú chị nhay nhay cố nút sữa, tội quá; tôi đẩy My Cò qua tay Kiều để bế đứa bé lên; bị giật ra khỏi vú mẹ bé khóc thét, có tiếng hét vang lên rất lớn trong đầu tôi bắt tôi phải trả bé lại trên người mẹ nó nhưng tôi không đành tâm thả bé xuống khi mẹ nó đã chết và nó thì còn bé xíu; thật tình tôi muốn ẳm bé theo mặc dù... biết lấy gì nuôi bé đây? ngay cả chính tôi còn chưa biết mình sẽ ra sao, vừa ngay lúc đó có một chị đang dáo dác nhìn quanh mắt mở to tìm kiếm, sữa từ vú chị chảy ướt cả hai vạt áo, miệng chị gào khóc thãm thiết: “anh ơi, con ơi;” tôi vội vàng ấn nhanh đứa bé vào tay chị và cuống cuồng chạy theo Khải chỉ sợ bị lạc mất, chỉ trong một tích tắc với phản xạ tự nhiên chị ôm ngay đứa bé vào lòng và chạy theo chúng tôi, chuyện xảy ra chỉ trong một tích tắc như một cái chớp mắt mà thôi cứ thế chúng tôi men theo giòng sông, lẩn trốn trong từng bụi cây hể ngưng tiếng súng là chạy súng nổ dồn là núp, cố chạy và chạy làm sao cho xa được tiếng súng càng xa càng tốt. Thật sự chúng tôi không biết mình đi được bao nhiêu mét đường dài và bao nhiêu thời gian, điều cần biết nhất là cố gắng làm sao để được sống còn.
Mãi tới lúc bên tai chúng tôi không còn tiếng nổ rát và mùi thuốc súng khét lẹt ngạt cả mũi nữa mọi người mới dừng chân, định thần nhìn lại quanh mình, hình như chúng tôi đã thoát ra khỏi vùng giao tranh ác liệt nhất và đang ở giữa một khu rừng thưa có con đường mòn phủ đầy lá vàng, cạnh khu rừng là giòng sông cạn thấy được những hòn đá dưới đáy sông, tôi khát nước quá còn anh Đạt điểm danh từng người trong gia đình, không thiếu một ai cả, bé Lan rụt rè nắm lấy tay tôi, tôi kéo bé ngồi xuống bên cạnh mình, người đàn bà bồng đứa bé mà Khải trao cho lúc nãy đang ngồi vạch vú cho đứa nhỏ bú; nó ngoặm lấy vú chị bú một cách say sưa ngon lành mà không thèm nhận ra mùi hơi hay bầu vú không phải của mẹ mình, và người đàn bà dịu dàng nhìn đứa bé ánh mắt chị đầy trìu mến yêu thương. Chị đã mất và chị đã có – ngay lập tức – chị cũng không cần nhận ra đó có phải là con của mình hay không? làm sao giải thích được điều kỳ diệu này? và có ai có đủ sự thông thái để phân tích? Chỉ có Thượng Đế mà thôi. Tôi nhìn chị: nụ cười của chị ấm áp và đôi mắt của đứa bé sáng rực; tôi đã cứu bé còn Khải thì cứu chị...
Không có nhiều thời gian để ngồi nghỉ, anh Đạt bắt đi tiếp, càng xa nơi đây càng tốt, vẩn phải chui trong bụi rậm, vạch lùm cây mà đi, hai tay, hai chân chúng tôi trầy xước rướm máu vì bị gai đâm vào, giữa lúc này không ai xác định được phương hướng hay có sự lựa chọn nào, cứ nhắm phía trước mặt mà chạy và cố tránh những nơi trống trải, khi cảm thấy chung quanh mình đã có phần yên ắng, chúng tôi chui vào một lùm cây ngồi nghỉ, bé Ly cựa mình muốn khóc chị Bích vội vã vạch vú dúi vào miệng bé, chỉ sợ bé khóc làm lộ nơi ẩn núp. Đâu đây có tiếng nói lao xao giọng năng chịch rất khó nghe, anh Đạt vạch lùm cây nhìn ra mắt anh mở lớn đầy kinh hãi miệng anh há hốc anh lắc lắc đầu thở dài: “Thua rồi, chết chắc luôn,” trái tim tôi như bị ai bóp nghẹt lại thở không nổi, tay chân bủn rủn thân thể cứng đờ; điều mà chúng tôi đang trốn chạy đem luôn cả sinh mạng và tài sãn của mình ra để đánh cược suốt mấy ngày nay; bây giờ đang ở đây mà nạt nộ quát tháo ra uy; và đây cuôc chiến mới thật sự bắt đầu sau khi đã trải qua bao nhiêu chết chóc kinh hoàng phi nhân, phi lý.
Một đoàn người đi ngược lại phía chúng tôi với những đôi mắt lơ láo thất thần, nét mặt đầy sự sợ hải mệt mỏi cùng cực, một người nói nhỏ vối chúng tôi: “ông vc sau lưng chúng tôi họ lùa chúng tôi bắt phải quay về.” Mấy người con trai trong đoàn chúng tôi run lẩy bẩy còn bà An thì như muốn xỉu vào tay ông An, bọn con gái chúng tôi không ai dám thở, kỳ quá đi làm như nếu thở thì vc nghe được. Vừa lúc đòan người đi qua khỏi chúng tôi thì có một ông lính vc áp tải đi sau cùng, thấy chúng tôi đang lum khum ngồi trong bụi rậm, ông ta kêu đoàn người đứng lại rồi vẩy tay ra lịnh cho chúng tôi chui ra khỏi lùm cây, nhập vào đoàn người mà ông ta đang áp tải, bắt tất cả ngồi xuống trên một khoãng trống của khu rừng bên con đường mòn đầy bóng cây cao mát rượi, ông ta hắng giọng sữa điệu bộ rồi nói với một bộ dáng rất hống hách, nạt nộ đầy đe dọa:
- Sao hả, nhân dân muốn chạy trốn hả? Nhân dân muốn theo chân thằng Thiệu chứ gì? Nhân dân không biết rằng bộ đội cụ Hồ phải băng rừng lội suối nằm gai nếm mật, hy sinh thân mình để vào Nam giải phóng cho nhân dân khỏi bị áp bức của thằng Mỹ, thằng Thiệu không hả?
Tôi gạt nổi sợ hải qua một bên để quan sát ông ta cho thật kỷ; cái người tự xưng: “bộ đội cụ Hồ ” này là một người đàn ông chừng 40 tuổi, nét mặt khắc khổ đen đúa hai hàm răng chìa ra nhấp nhô vàng ố có chổ đen kịch, nếu ngậm miệng lại thì hai cái môi vẫn không làm sao che kín được hai hàm răng, đôi con mắt sâu hoắm tròng trắng nhiều hơn tròng đen, bộ lông maỳ rậm châu sát vào nhau, lổ mũi tẹt và hai cánh mủi hếch cứ phập phà phập phồng, tôi kết luận: đây là một người đàn ông XẤU, ông ta mặc bộ quần áo kaki màu ôliu nhàu nát rộng thùng thình, chân mang đôi săng đan đen bằng cao su hai quai chéo nhau phía trước để lộ mấy ngón chân có những móng đầy đất, một quai quàng sau cái gót chân đen sì nứt nẽ (sau này tôi mới biết đó là đôi dép râu cụ Hồ), trên vai ông ta đeo một cái radio nhỏ hơn quyển tập học trò hình chữ nhật tay cầm khẩu Ak, ông ta kéo cái radio ra trước ngực cố ý cho chúng tôi thấy, từ chiếc radio phát ra 1 giọng ca nữ: eo éo lanh lãnh xoáy buốt cả óc, ông ta tỏ vẻ rất hãnh diện về cái radio đang đeo bên mình và cho rằng chúng tôi là những kẻ lạc hậu, chưa bao giờ thấy được nền “văn minh radio,” nên ông ta cứ đưa tay ve vuốt nhúc nhích xê dịch cái máy phát thanh để chúng tôi phải nhìn, đã thế lại còn mở volume cho lớn, giọng nói nặng chịch của ông ta hòa cùng với tiếng ca đinh tai nhức óc của cô ca sĩ làm đầu tôi muốn vở tung, mọi người đều rất khó chịu khổ sở vì “đôi tai bị hiếp dâm”. Ông vc thao thao tuyên truyền về XHCN, về bác Hồ, về Đảng CS, tuy lối nói và điệu bộ của ông ta đầy sự hách dịch của kẽ chiến thắng nhưng sao tôi vẫn thấy nơi ông ta có một vẻ đần độn lố bịch dốt nát quê mùa đến tội nghiệp, dù ông ta cố tình huênh hoang lên mặt và hơi có vẻ đe dọa với những người đang bị bắt buộc phải nghe ông ta nói nhưng chúng tôi nghe mà như “vịt nghe sấm” một tràng giang đại hải về Mác lê nin, về cuộc sống thiên đường chúng tôi sẽ được hưỡng nếu đi theo bác và đãng, rồi hợp tác xã và những gì gì nhiều lắm không nhớ nổi.
Sau khi nạt nộ, tuyên truyền, giảng dạy, khoe khoang lẫn đe dọa đã đời, ông ta sờ vào cái radio và an ủi chúng tôi:
- Nhân dân theo tôi về nhà mình, sau này nhân dân mỗi nhà cũng sẻ có một cái đài như tôi đây để nghe tin tức, nghe nhạc thích lắm nhé; đây là nền văn minh của nước XHCN, vì nhân dân bị thằng Mỹ, thằng Thiệu cai trị nên không thấy được sự tiến bộ này, nhân dân xem nhé; bộ đội giải phóng mỗi người đều có một cái đài như thế này đấy.
Và như muốn khoe thêm về sự kỳ diệu của cái đài, hai ngón tay ông ta se lui se tới vặn volume cho âm thanh lớn thật lớn rồi bất ngờ nhỏ lại… rồi thật lớn... rồi nhỏ lại… lúc này thì tôi sắp nổi khùng, tôi bấm tay Hằng, hai đứa muốn cười thật to nhưng không dám, và tôi cũng muốn hét lớn lên rằng: “–chúng tôi đâu cần các anh giải phóng, chúng tôi đang sống rất vui vẽ ấm no hạnh phúc”… nhưng lở ông ta nổi giận chỉa súng vào hai đứa tôi mà bắn cái... đùng...thì.. chết oan mạng. Ông lính vc kết thúc bài tuyên truyền của mình bằng một cái khua tay và lớn tiếng ra lịnh:
- Nhân dân đứng dậy đi tiếp không được bỏ trốn đấy nhé.
Lời nói và hành động cũng như nhũng sự việc đã xảy ra là một mâu thuẫn không thể nào tưởng tượng nổi, nó thật khôi hài và đầy bi thảm, mọi người uể oải chậm chạp đứng dậy, thân thể rả rời. AnhĐạt nháy mắt ra dấu cho chúng tôi đi thụt lùi rất chậm sợ ông vc để ý. Cả một đoàn người lôi thôi lếch thếch lê bước trước họng súng của ông ta, người phụ nữ ôm đứa bé trên tay quay nhìn chúng tôi lần cuối, cái nhìn chất chứa nổi tuyệt vọng lẫn đau đớn buồn rầu, hai giọt nước lặng lẽ rơi ra từ khóe mắt của chị, bước chân chị ngập ngừng xiêu vẹo... Chúng tôi đi theo kiểu thụt lùi và bỏ xa họ, anh Đạt truyền lệnh: cùng nhau quay đầu lại rồi tìm chổ núp. cũng chui vào một bụi cây to ngồi nghỉ, anh Đạt suy luận:
- Hắn đưa mình về lại Pleiku, vậy là hắn đã chiếm đươc Pleiku rồi, mình đi ngược lại hắn như thế phía trước mặt của mình vẫn còn là vùng của quốc gia.
Lời nói của anh Đạt gieo vào lòng chúng tôi một niềm hy vọng rất lớn, đủ để cho chúng tôi hăng hái tiếp tục bước trên con đương đầy chông gai nguy hiểm mà về đến miền đất Tự Do, chưa bao giờ như bây giờ hai chữ TỰ DO quí đến thế, nó đánh đổi biết bao nhiêu sinh mạng con người... phải đứng lên mà đi tiếp, nhưng... chưa đi được bao nhiêu thì... chúng tôi chới với khi gặp thêm một đoàn người đi ngược lại, cũng giống hệt như đoàn người lúc nãy: lôi thôi lếch thếch, mệt mỏi kéo lê từng bước rả rời với đôi mắt đầy tuyệt vọng và đau khổ, áp tải họ cũng là một ông vc; ông ta chỉa súng vào lùm cây ra lịnh cho chúng tôi bước ra nhập vào đoàn người mà ông ta đang áp tải và bắt tất cả ngồi sát vào với nhau,, mọi thứ trên người ông này: từ điệu bộ huênh hoang; hống hách, áo quần luộm thuộm, đôi dép râu…, cho đến lối tuyên truyền, khoe khoang về cái đài; luôn cả điệu bộ ve vuốt, se se nút chỉnh âm thanh... đều giống hệt nhau, làm như họ đươc đúc ra từ một khuôn mẩu có sẵn, trông thật buồn cười, tội nghiệp đến đáng thương theo một nghỉa nào đó, nhưng họ vẫn là người thắng cuộc vì vậy họ cho mình được quyền nạt nộ, lớn giọng với chúng tôi; là những người đang trốn chạy những kẽ mà chúng tôi chê bai... Đó là một điều nghịch lý, khôi hài cười ra nước mắt.
- Bây giờ nhân dân theo tôi về nhà, đừng tìm cách trốn đấy nhé, nói cho mà biết không ai trốn được chúng tôi đâu đấy.
Một câu nói đầy đe dọa, ông ta hất hàm ra lịnh cho mọi người đứng lên đi tiếp “về nhà, ”…Cũng theo cách của anh Đạt như lần trước; cả gia đình đi thụt lùi, trông ngộ nghỉnh tức cười hết sức nhưng không ai dám cười vì sợ. . . Chúng tôi không cam tâm làm người thua cuộc nên bằng mọi cách phải thoát về bên kia: chị Bích còn có anh Thi, anh Đạt còn có vợ và hai con mà anh nghỉ rằng chị đã về tới Nha Trang rồi, ông bà An có luật ở Sài Gòn, Hằng cũng hy vọng anh Sơn ở đâu đó trong thành phố Nha Trang hay Sài gòn, RIÊNG TÔI, TÔI CŨNG CÒN CÓ RẤT NHIỀU VÀ RẤT NHIỀU, không thể nào về lại Pleiku.
Chúng tôi tụt lại phía sau khá xa, khi không còn nhìn thấy một ai anh Đạt hô nhỏ: “nào chạy nhớ thật êm,” Khải nói nhỏ vào tai tôi: “- giống hệt những lần anh đi hành quân ghê,” lúc này chúng tôi không sợ chết vì bom rơi đạn lạc nữa, mà chúng tôi sợ bị vc bắt lại, nổi sợ này cũng lớn như nổi sợ kia; nó cũng đe dọa chúng tôi từng giờ từng phút, mọi lúc mọi nơi; nhưng có thể tránh được, còn súng đạn thì... thua luôn. Chúng tôi mỏi mệt, thân xác rã rời, tinh thần căng thẳng đến tột cùng, anh Đạt kiếm chổ cho mọi người nghỉ chân, tôi nhìn chung quanh; nơi đây sao mà đẹp quá, chúng tôi đang ngồi ở trên cao của ven rừng thưa, bên dưới là dòng sông nươc trong veo, có bờ cát vàng trải dài theo con sông, anh Đạt mở bản đồ ra xem, nơi đây là khúc quanh của sông Adun, nếu đi men theo con sông này sẽ về Pleiku rất gần Hàm Rồng; điều này là không thể được, vc đang tảo thanh khắp nơi “lượm” từng người dân để đưa “về chốn cũ ”, họ không muốn chiến thắng một thành phố bỏ ngỏ, không dân vì như thế chiến thắng của họ không giá trị, nói cho vui vậy thôi; chứ họ vẫn là người thắng, và bên đây vẫn là người thua cuộc dù rằng (chưa đánh đã thua)... Anh Đạt và mấy người con trai bàn bạc với nhau một lúc rồi quyết định đi xuyên rừng men theo đèo MăngYang tới sông ÊPA, từ đó sẽ đi cặp theo con sông này về đến Tuy Hòa, sở dĩ phải đi theo ven sông là để tránh cái khát, khát nước cũng là một sự đe dọa rất lớn cho sự sống, người ta rất dễ chết vì khát, không chết vì bom đạn mà chết vì khát thì coi như xui hết biết... không còn gì ngớ ngẩn hơn.
Mặc dù đang đói và mệt nhưng chúng tôi: Thủy, Hằng, Thấm, Ngân, Hoa, Kiều... vẩn không thể nào dửng dưng được trước vẽ đẹp của thiên nhiên rừng núi nơi đây, tâm hồn chúng tôi rung động sâu xa, riêng tôi; tôi muốn toàn thân mình được tan ra và hòa vào trong nước, trộn lẫn trong cát rồi trôi đi mãi; trôi mãi…Nhìn làn nước trong xanh, hiền hòa bên dưới tôi thèm đươc nhảy xuống ngâm mình trong đó. Tôi rủ Hằng và mấy đứa con gái xuống tắm, ông bà An và chị Bích ngăn đám con gái chúng tôi lại, không cho xuống nhưng chúng tôi cứ nhào xuống, áo quần vẫn mặc trên người, nước mát lạnh ôm lấy và vuốt ve thân thể chúng tôi, nước mơn trớn từng đường lông tơ kẽ tóc trên người chúng tôi, nước vổ về xoa dịu nổi đau trong tâm hồn và cả thể xác của chúng tôi nữa, thật tuyệt vời không gì sánh được. chúng tôi cùng nhau vui đùa trong nước, tạm quên đi bao nhiêu chuyện đau lòng;. Ông bà An, chị Bích và những người con trai không cưỡng lại nổi sự hấp dẫn của làn nước trong xanh, cũng lội xuống tắm rửa, kỳ cọ cho đất đai và bụi đường theo nước trôi đi. “đã quá; ”…ai đó kêu lên. Hằng kéo tôi lên bờ trước, hai đứa che cho nhau thay áo quần rồi đem đồ ướt trải trên lùm cây để gió và nắng chiều hong khô rồi hai đứa ngồi bên nhau; Hằng cất tiếng hát: “Này người yêu; người yêu tôi ơi, bên kia sông là ánh mặt trời, này người yêu; người yêu tôi hỡi; bên kia đồi cỏ non xanh mướt...” Hằng gợi nhớ một điều mà mấy hôm nay chúng tôi đã quên; đó là âm nhạc, là những bài hát mà chúng tôi yêu thích…Mấy chị em của chị Bích người nào hát cũng hay, mỗi người một giọng, mỗi giọng một vẻ; chị Bích thích nhạc tiền chiến; mỗi khi chị ca bài Tà áo xanh, hay bài Em đến thăm anh một chiều mưa, giọng của chị mượt mà êm ái, nũng nịu, làm cho tôi khi nghe; lòng vô cùng bồi hồi xao xuyến. Hằng thích nhạc Trịnh công Sơn giọng ca của Hằng cũng hay nhưng không ấm áp và say đắm như giọng của chị Bích, Khải và Luật thì giống nhau: Thích nhạc ngoại quốc, mỗi lần tôi đến nhà chị Bích chơi vào buổi tối hay những ngày không có giờ dạy [ thời gian sau này tôi mới quen biết Khải khi Khải bị thương; được cho về nhà dưỡng thương ] Khải thường hay hát Let it be của The Beatle, hai anh em đều mê LOBO nên rất chịu khó luyện giọng và hát cũng nhẹ “lưng trời;” từa tựa như LOBO, còn tôi; tôi thích nhạc của Dương Thiệu Tước, nhưng tôi hát rất dở nên không hát cho ai nghe bao giờ…, mới chỉ 4 ngày thôi mà chừng như từ lâu lắm, tự nhiên lòng tôi quặn thắt, đau như có ai đang bóp mạnh vào tim mình. Khi tất cả đã lên bờ đầy đủ chúng tôi bắt đầu bị cái đói hành hạ, mỗi người chỉ được một nắm cơm nhỏ như nắm tay của Ty Anh, chẳng thấm tháp gì cả, nhưng đó là những miếng cơm cuối cùng, ngày mai sẽ ra sao? khi không còn gì ăn để mà sống, mà đi tìm tự do, một nổi sợ to lớn dè nặng lên tâm hồn mỗi người chúng tôi. Bé Ly Ly khóc vì chị Bích đã khô sửa, chị Bích cũng khóc; tôi xót xa nhìn chị; Ty Anh, Ty Em, My Cò thấy mẹ khóc nên cũng khóc theo, chỉ mới mấy phút trước đây thôi mọi người vui đùa trong dòng nước mát; mà bây giờ lại cùng nhau khóc...
Có tiếng động sột soạt ở lùm cây bên cạnh, chúng tôi giật mình hoãng sợ quay nhìn, từ trong lùm cây một thanh niên bước ra, anh ta dong dõng cao, da ngăm đen, miệng rộng, mủi thô; anh ta ôm trong tay một túi xách lớn, nhìn chúng tôi nở nụ cười làm quen, chúng tôi cũng cười lại thay cho lời chào; giữa một nơi như thế này, trong hoàn cảnh như vậy mà gặp một người thuộc “phe ta “là điều đáng mừng. Khải hỏi:
- Anh đi một mình à?
Anh ta trả lời, giọng Nam pha Bắc Kỳ:
- Dạ đi một mình, tôi tên Hớn, ba má tôi ở Sài Gòn, có xưỡng gổ, tôi đang học Luật thì bị kêu đi lính, ba tôi xin cho tôi qua ban Quân Cụ, được gần nhà nhưng tôi không chịu, tánh tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, sẳn chú tôi có trại cưa ở Ban Mê Thuột; tôi lấy cớ muốn gần với chú, nên xin thuyên chuyển lên Cao Nguyên, đơn vị đóng quân ở Dacsong, nơi đó có con sông DacPko đẹp mê hồn, chiều chiều các nàng sơn nữ ra suối tắm sexy 100/100 tuyệt vời không tã nổi. Trước mặt đốn trú quân của đơn vị tôi là ngọn núi cao 1231m; gần biên giới Lào, đi xa nhớ nhà nhưng cũng thú vị lắm, tụi tôi từ Kontum về tới sông Êpa bị vc pháo kích chận đoàn xe lại; trời ơi; tụi nó nhắm vào đoàn xe GMC chở dân di tãn mà bắn, xe với người tan xác nhiều vô kể, cả giòng sông Êpa đầy máu và xác người... mấy bạn tôi không biết ai còn ai mất. (làm như lâu lắm rồi Hớn không được nói nên anh chàng nói một thôi một hồi) Tôi chạy thục mạng, mấy ngày nay trốn chui trốn nhủi ở trong rừng cứ nhắm bụi cây mà lủi vào, mấy lần sém bị vc bắt đưa về lại Pleiku.
Hớn lôi ra trong xách mấy hộp bơ và vài thứ linh tinh đưa cho Khải, Đạt nhỏ kêu lên: “ái chà, quên mất, Đạt có đem theo cái Radio Philip đây, tối tôi nghe đài VOA, BBC, nghe nhạc đở buồn, với lại có cả cây kèn Acmonica nữa “chúng tôi mừng rở, Hằng hỏi: còn pin không? – pin mới thay trước khi đi, còn 4 cục sơ cua nữa lận”. Khải nói:
- 3 ngày nay không nghe được gì ngoài tiếng súng đạn, tưởng đâu mình đã thành người tiền sử rồi chứ.
Bây giờ là 2 giờ chiều, anh Đạt kêu chúng tôi chuẩn bị lên đường, nhưng trước khi đi phải để anh và mấy người con trai chia nhau đi thám thính một vòng, anh nhìn về 2 ngã; Khải và Đạt nhỏ đi về phía tay phải con đường mòn, anh Đạt và Minh đi về phía tay trái, Hưng, Phi ở lại trông chừng mọi người, ông An nói: 4 người chỉ được đi trong vòng 15 phút thôi, tôi tò mò muốn đi theo nhưng anh Đạt mắng: “chỉ vướng chân;” chúng tôi chờ đợi trong âu lo và hồi hộp cảm thấy sao mà thời gian dài như vô tận, cho đến khi 4 người cùng trở về. chúng tôi mừng quá. Anh Đạt cầm trên tay một cái nón sắt còn mới, tay kia cầm 1 bịch gạo chừng 3 kg anh kể cho cha mẹ anh và mọi người cùng nghe:
- Chỉ đi chừng 500m là ra đến đường QL, trên đường là cả một rừng đồ đạt vứt ngổn ngang, nhiều vô số kể, xác người nằm la liệt, nát bấy, hơi có mùi thum thủm, xe cộ thì tanh bành, cái nón sắt này con lượm ở gần đây; cạnh đôi giày lính, còn gạo đổ tung tóe bên đường hốt lại được có chừng này, đây là Phú Bổn, nó nằm giữa Qui Nhơn và Tuy Hòa đó.
Ngân hỏi anh Đạt sao không lấy đôi giày về mang cho êm chân” - Ngân nói vớ vẫn, người ta còn phải bỏ mà mình lại đi lượm, lở gặp vc nó bắt ngay ” Khải vừa tháo bỏ lớp độn bên trong cái nón sắt vừa nói: - Với cái nón sắt này mình có được 1 cái nồi, còn nắp nồi thì bẻ lá chuối mọc bên đường đậy lại
Khải lại kể:
- Trời ơi, xe hơi, tủ lạnh, tivi, máy may đầy 2 bên đường có ông đại úy ngồi chết trên tay lái của chiếc xe Jeep; tay ông ta đeo cái đồng hồ đẹp lắm Khải tính lấy, nhưng thấy 2 con mắt ông mở trừng trừng, máu trên người đông cứng, sợ quá, không dám…
Có thêm Hớn hình như mọi người an tâm hơn, bé Ly Ly đói bụng đòi bú, bé ngậm vú mẹ nhay nhay nhưng sữa của chị Bích không còn, nó giận dổi khóc làm chị Bích cũng khóc, Đạt nhỏ và Hớn có ít nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về cuộc sống của người thượng, tôi cũng thế; Người thượng họ dựng làng gần sông, suối, họ chọn một nơi nào đó trong rừng không xa buôn làng là mấy rồi chặt cây đốt cháy thành tro, qua mùa mưa tro trở thành phân bón tự nhiên, họ dọn sạch sẽ và trồng các giống bắp, lúa nếp, lúa gạo, khoai lang, khoai mì... lúc đầu nương rẫy của họ gần làng nhưng sau mỗi mùa thu gặt; họ bỏ nơi đó, đi tìm nơi khác, lại chặt cây đốt rừng làm rẫy. rừng càng ngày càng bị chặt phá một cách vô tội vạ, rẫy của họ càng lúc càng xa… nhưng họ vẫn bám gần sông suối. chung quanh làng họ trồng thêm đu đủ, bí ngô, mía, chuối và các loại rau, đậu, họ sống rất gần gủi với thiên nhiên; tâm hồn họ đơn sơ mộc mạc ít suy nghĩ. Nhờ có số gạo lượm được, Anh Đạt biểu Ngân nấu cháo, lấy nước cháo đổ vô bình sữa cho Ly Ly bú; còn người lớn thì “hưởng xái;” Hớn đưa cho Ngân một hộp diêm quẹt Quân Tiếp Vụ - chúng tôi đươc ngồi nghĩ thêm một chút nữa trong thời gian chờ cháo chín; - lúc thu dọn đồ để đi di tãn, chị Bích mang theo 2 bình sữa và mấy hộp sữa nhưng lúc nhảy xướng xe mà chạy chị không kịp lấy theo được hộp nào, cũng may mà có 2 bình sữa - Chúng tôi ngồi chia thành từng nhóm nhỏ với nhau; mấy đứa con gái như: Ngân, Thấm, Hoa, Kiều, ngồi bên bếp lửa canh nồi cháo, Ty: em trai út và các con chị Bích, cả bé Lan nữa đang nghịch lá khô, số còn lại thì cùng nhau bàn bạc chương trình và lộ trình cho những ngày tiếp theo; theo ý kiến và sự hiểu biết của từng người đóng góp lại, chúng tôi quyết định: phải men theo sông mà đi, cố gắng vô sâu mấy buôn làng của Thượng kiếm bắp, bí ngô, đu đủ, mía… là có đồ ăn; không sợ đói, chỉ cần chặt vài cây mía róc sạch vỏ, còn mình thì súc miệng cho sạch rồi dùng hai hàm răng làm “máy ép nước mía; “lấy bình sửa hứng cho bé Ly bú, đu đủ chín nhừ thì tán nhuyển ra cho Ly Ly ăn, hườm hườm để người lớn, bắp thì chỉ cần tách lấy hột, cắn bể ra, buổi tối ngâm trong nước cho mềm đến sáng nấu chín mang theo ăn dọc đường... cần nhất là kiếm cho được nhiều bắp; Hằng cười nói “: tụi mình giống dân du mục quá à, sống kiếp lang thang không nhà;” “- ừ há; giống dân du mục đi du lịch, ở khách sạn thiên nhiên, toilett thiên nhiên...” bà An la hai đứa tôi “chết trước mắt còn đùa“ chị Bích thì bênh:- “không đùa dể chết sớm hơn đó mợ ạ”.
Nồi cháo đã nhừ, mùi thơm của cháo lang tỏa phất phơ trước mũi tôi, gợi cho tôi nhớ đến một buổi tối hôm nào đã xa xôi lắm; khi chúng tôi còn yêu nhau, anh ấy đưa tôi đi ăn cháo tôm – thật tình với tôi lúc đó; chỉ cần ngồi gần anh là tôi đã cảm thấy no rồi vì vui sướng và hạnh phúc – khi người ta bưng tô cháo ra, với làn hơi nóng, thơm của gạo dẻo được nấu cùng lá dứa, với mùi tiêu cay nồng và mùi hành ngò dìu dịu, trải trên mặt là một lớp mở hành phi màu vàng óng thơm ngào ngạt, trong tô là mấy con tôm to bằng ngón tay cái đã được lột vỏ, có màu đỏ hồng nằm cong tròn, tất cả đều hòa chung, quyện lại cùng với mùi gia vị bày ra trước mặt tôi; có người yêu tôi ngồi bên cạnh, chúng tôi vừa thổi; vừa húp; vừa nhai; vừa nuốt một cách ngon lành; lòng thì no nê và hạnh phúc thật ngất ngây, tôi gọi đó là tô cháo của tình yêu... Chị Bích múc nước cháo đổ vào bình sữa cho bé Ly bú, Anh Đạt chưa cho chúng tôi ăn cháo bây giờ mà phải đi tiếp, chừng nào gần tối kiếm được chổ nghỉ; ngủ qua đêm lúc đó mới được ăn. Cần phải tận dụng thời gian và cố gắng rút ngắn quãng đường dài. Sở dĩ phải nấu cháo sớm vì ban đêm không được đốt lửa, sợ vc thấy, rất là nguy hiểm.
Cả đòan người đi thêm chừng 2 km nữa thì chịu hết nổi, không thể nào đi tiếp đươc, anh Đạt cho ngừng lại để nghỉ, nơi đây là một khu rừng tre, lá tre vàng rụng trải lên trên mặt đất một lớp dày êm ái, tre mọc từng cụm rải rác . Cảnh trời chiều nơi đây đang dần nhuộm tối, đẹp một cách lạ lùng, nó huyền ảo, mênh mông đầy quyến rũ, màu trắng của mây chiều chuyển sang màu xám bạc, sắc trời pha tím, sương chiều trộn lẩn màu hương khói, bên kia sông là bãi cát vàng tươi đang ngã sang màu nâu sẩm chạy dài ngược lên khu rừng thưa, vẽ tỉnh lặng êm êm của hoàng hôn gợi lên trong tôi nhiều nổi nhờ, lòng cảm thấy man mác, bâng khuâng và chơi vơi buồn. Bà An lấy cái ca múc cho mỗi người một ca cháo, không biết Khải kiếm đâu ra và từ lúc nào một gói muối nhỏ, đưa cho Ngân bỏ vô nồi cháo trắng, nhờ thế nó có vị mặn dể nuốt, cái ấm nước; mà trong lúc cuống cuồng nhảy ra khỏi xe bà An quơ vội theo cùng cái ca nhà binh là những đồ dùng vô cùng quí giá cho cả đoàn người vào lúc này, trong ấm chỉ còn một ít nước mỗi người được một ngụm, cũng không sao vì bên dưới là dòng sông, tha hồ uống.. . Chúng tôi ngồi bên này sông, đăm đăm nhìn sang bên kia sông, tưởng tượng bên kia là miền tự do với lá cờ vàng 3 sọc đỏ, Hằng vẫn ưa hát mỗi lần ngồi nghĩ chân, câu hát trở thành niềm mơ tưỡng: “này người yêu, người yêu tôi ơi... ”, Ông An, anh Đạt, Đạt nhỏ, Hớn, Khải... đang bàn nhau về chương trình ngày mai, anh không cho tôi và Hằng ngồi mơ mộng vớ vẫn nữa phải trở về với thực tế; mà... trời ơi, thực tế này đáng sợ biết bao nhiêu, Khải đưa ra ý kiến:
- Mình vẫn đang ở trong vùng cao nguyên; nơi đây có nhiều rừng thưa; sông, suối, rải rác có những buôn làng của người thượng, mình phải đi theo đường rừng men theo dòng sông vì có 3 điều thuận lợi:
1- khó chạm trán với VC, vì họ đã chiếm được Cao Nguyên, họ sẽ tràn về đồng bằng thành phố.
2- không sợ bị thiếu nước, vì thiếu nước sẽ chết khát.
3- Dể kiếm được thức ăn trong các buôn làng.
Tôi than: “Trời ơi đi tìm về miền tự do mà sao nghe cực quá hà, đi kiểu này biết đến bao giờ mới tới nơi?” không ai trả lời, anh Đạt nói ý kiến của mình:
Theo tôi biết mình đang ở phía Tây của sông Adun, đoàn xe mình bị pháo kích ngay tại Phú Bổn, phải vượt qua bên kia sông, cứ đi trong rừng cặp theo đèo Măngyang về lại sông Êpa, từ đó mình đi dọc theo sông Êpa về đến Krong-Pa, từ Krong-Pa về tới Tuy Hòa, từ Tuy Hòa mình về được Nha Trang… bằng cách này mình phải thoát ra khỏi Phú Bổn để tới Tuy Hòa trước đã.
- Nhưng mà ở đoạn sông Êpa VC đã pháo kích chận đầu đoàn xe làm người ta chết quá trời, bây giờ quay trở lại đoạn sông đó, nghĩ lại buổi tối ở đó dể gặp ma… sợ lắm.
Anh Đạt chỉ cho chúng tôi xem từng chi tiết trong bản đồ, vừa chỉ vừa giải thích, Khải dọa:
- Nhìn trong bản đồ thấy gần và đơn giản, nhưng đi rồi mới biết; Khải đã từng đi hành quân, gian nan khổ cực lắm đó. Qúi tiểu thư đừng than thở nhé.
Chị Bích bực bội la Khải:
- Khải im đi; dọa các em làm gì cho chúng nó nản lòng.
Mọi người đồng ý với ý kiến của anh Đạt và Khải, ai nấy đều đã mệt nên tìm một chổ để nằm ngủ qua đêm. Trời tối hẳn, bây giờ thì không còn nhìn thấy được dòng sông bên dưới, chỉ nghe tiếng nước róc rách của con sông chảy qua gềnh đá, tiếng gió vi vu nhè nhẹ và tiếng xào xạc của những cành lá ở trên cây, đêm nay chúng tôi lại được nghe tiếng dế nỉ non hòa chung với tiếng côn trùng rã rích, tấc cả hợp lại thành một giàn nhạc hòa tấu của thiên nhiên giữa núi rừng xa lạ. Đang mơ màng đi vào giấc ngủ, bổng nhiên chúng tôi nghe những tiếng gầm rú, đó là tiếng động cơ của một loại xe hạng nặng, ánh sáng của những chiếc đèn pha sáng lóa xuyên qua bóng tối của đêm đen sâu hun hút, nhiều xe và nhiều xe ghê lắm, nó cứ rầm rập và rầm rập làm rung rinh chổ chúng tôi nằm. xe gì đây? là GMC, hay xe của vc? , đoàn xe chạy qua, tiếng xe nghe vừa quyến rủ mà cũng vừa đe dọa. Anh Đạt lo lắng và nôn nóng, anh nằm sát đất bò ra gần đường xe chạy, lâu lắm anh mới trở lại, tôi nghe được tiếng anh thở dài, anh nói nhỏ: “xe vc, bên hông có cờ đỏ sao vàng, đó là xe motova; lính vc ngồi đầy trên xe ;” sự sợ hải dù có đè nặng lên tim tôi đi nửa, nhưng mấy hôm nay sợ nhiều quá rồi, nó đã ở tận cùng của nổi sợ, bây giờ không còn chổ nào trống để mà chất chứa thêm. Đêm nay sao dài quá dài, buồn quá, những đứa bé và mấy cô em gái vô tư đang say ngủ, còn tôi, Hằng, Khải, Đạt… cả Minh nữa, nằm thao thức, Đạt nhỏ mở radio tìm đài VOA để nghe tin tức và vài lời bình luận (ai là người đã viết ra những lời bình luận; có ở vào hoàn cảnh và tâm tư của chúng tôi để mà viết cho đúng không đây? hay chỉ là những người ngồi trong phòng có máy lạnh, bên ly cà phê sữa nóng, vô tư viết ra những lời vô thưỡng vô phạt, và ai là người hô hào với những câu nói đao to búa lớn rồi ung dung ngã người lắt lư trên ghế bành ngậm điếu xì gà, mắt lim dim nhìn khói thuốc bay bay, tai lắng nghe Thanh Tuyền, Giao Linh nũng nịu hát; lòng sãng khoái lâng lâng thấy đời rất đáng yêu, đáng hưỡng thụ, không thèm biết đến những ai đang chết, những cái chết tức khắc và những cái chết từ từ)… nghĩ đến đây lòng tôi chua xót quá.
Ông Thiệu đang hùng hồn tuyên bố trong đài Phát Thanh: “Nhất định chúng ta sẽ thắng, đây là chiến lược và chiến thuật của Quân Đội VNCH, tôi sẽ sát cánh cùng với đồng bào đến hơi thở cuối cùng”… giữa khoảng rừng thanh vắng đêm nay, lời hứa hẹn của ông mang lại cho chúng tôi nhiều hy vọng và đầy cảm động, không hiểu tại sao chúng tôi lại quá ngây thơ và dể dàng để tin vào những lời tuyên bố như thế. Hết phần tin tức và bình luận, đến phần văn nghệ, Sĩ Phú đang hát bài “Em Tôi” giọng ông trầm ấm làm cho lòng tôi nao nao, rồi giọng ca Thái Thanh lảnh lót với: “Ngày xưa Hoàng thị” chao ơi; sao mà tôi muốn khóc quá đi thôi, Hằng nắm tay tôi bóp nhẹ, nổi buồn của tôi được chia đôi và Hằng cũng thế, chúng tôi đang nhớ những ngày tháng đã xa, nhớ một vùng trời đầy ắp những kỷ niệm ngọt ngào, Hằng nhớ anh Sơn còn tôi cũng đang nhớ một người
_____________
3. 19/03 /1975
Trời chưa sáng mấy, cảnh vật mờ mờ trong hơi sương, vẫn đang còn là tiết Xuân mà. Anh Đạt đánh thức mọi người dậy, bắt chúng tôi xuống sông rửa mặt súc miệng làm vệ sinh; Ngân đang nhóm lửa nấu cháo; nước sông ban mai mát lạnh, tôi ngồi trên phiến đá nhúng hai bàn chân đầy vết trầy xước của mình xuống nước, cảm giác thật dễ chịu, đám con gái chạy xuống sông tung tăng vui đùa; cười vang cả một khúc sông, tối hôm qua vc đi hết rồi; còn sống được ngày nào thì cứ cười đùa cho thỏa chí -tôi hét lên thật to cho mọi người nghe như vậy, đang vui bổng nhiên có tiếng rú của Ngân, Ngân ú ớ đưa tay chỉ về phía đầu nguồn của con sông, tiếp đến là tiếng la hét đồng loạt cuả bầy con gái, trời ơi; kinh khủng quá, xác chết của một người đàn ông phình to, thâm tím đang lờ đờ trôi xuôi theo giòng nước về phía chúng tôi; bà An như muốn ngất xỉu trong tay ông An, mấy đứa con gái chạy nhanh lên bờ, đưa tay cố họng móc cho ói ra hết những gì có trong bụng (chỉ toàn là nước mà thôi), mấy người con trai bình tỉnh hơn nhưng cũng khạc nhổ lung tung, Anh Đạt kiếm được mấy khúc cây kêu hết đám con trai cùng nhau hì hục khều, đẩy cái xác, khó khăn lắm mới đưa đươc vào bờ vì nó đã bị sình to; vừa nặng vừa thúi kinh khủng.
- Phải chôn thôi con ạ, để vậy tội quá; không đành lòng… Bà An thở dài nói.
Mấy người con trai lên phía trên bãi cỏ, với cái dao găm của Khải, đã chặt được vài khúc cây nhỏ cắm cúi đào một cái lổ hình chử nhật không sâu lắm;nhắm cũng vừa một người nằm, sau đó mỗi người cầm một khúc cây dài kê dưới cái xác nẩy từ từ cho lọt xuống lổ, rồi sửa sang cho xác người chết nằm gọn gàng trong lổ, chúng tôi cùng tới, một tay bịt mũi;một tay bốc nắm đất thảy xuống, chào vĩnh biệt. mấy người con trai lật đật lấp đất lại, còn đắp đất lên cao thành một nấm mồ. Khải tước vỏ cây làm sợi dây cột 2 khúc cây làm thành 1 cây thánh giá, đóng xuống ngôi mộ, tôi nói:- sao mà giống trong phim quá chừng, và mỗi người chúng mình là một diển viên đang đóng phim... -Khải nói tôi chỉ giỏi tiếu lâm… Công việc xong xuôi thì cũng gần hết một buổi sáng, vì gặp chuyện cái xác trôi sông, Anh Đạt sợ dòng nước đã bị dơ chúng tôi mà uống thì sẻ bịnh, anh nảy ra sáng kiến moi thử một cái lổ sâu trên cát cạnh bờ; nước từ trong lổ ứa ra ngang với mặt nước sông, anh giải thích là cát đã lọc sạch nước; từ nay mỗi lần lấy nước nấu uống, phải moi lổ ven sông, chúng tôi cùng nhau mỗi đứa moi 1 lổ, chờ nước ứa ra, Ngân có nhiệm vụ múc nước đó đổ vô ấm nấu chín để uống, công việc chúng tôi làm giống như một trò chơi, vui quá, tôi nói với Khải "Ước gì đây là một cuộc cắm trại thực sự;" Khải cười nhéo má tôi "em lại mơ mộng nữa rồi".
Mặt trời lên cao, chúng tôi đói cồn cào, mỗi đứa được ăn một ca cháo; dù không no nhưng cũng tạm ấm bụng trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Bây giờ phải lội qua con sông này để đi theo lộ trình đã định: lẩn trốn trong những lùm cây và bám dọc theo QL, cặp con sông Êpa để về Tuy Hòa, Minh than: "đi như thế này xa quá, cứ xuôi theo đường chim bay cho gần; ". Anh Đạt mắng: "dốt quá; không thể nào mạo hiểm được, đi loạng quạng, lở mà gặp vc là hết đường về." Chúng tôi lại bó chân bằng 2 vạt áo dài mà mấy hôm nay đi đã sờn, tôi lấy một mớ lá lót thêm dưới bàn chân cho dày và êm; tước vỏ cây làm dây cột, hai cánh tay áo tôi bó chân cho bé Lan, phải lót thêm 1 lớp lá.
Chúng tôi đi loanh quanh chẳng biết được bao xa thì thấy bên dưới dốc đường mòn có một khúc sông hẹp, anh Đạt quyết định vượt qua bên kia sông, anh cho mọi người ngồi nghỉ còn anh lội thử xem sông cạn hay sâu, mừng quá: sông cạn ngang đầu gối, qua được bên kia sông anh đưa tay ngoắc chúng tôi "- lại đươc đùa dưới nước;" Minh và Khải đội cái sacmarin trên đầu cho khỏi ướt, chúng tôi băng qua sông, nước trong veo thấy được những hòn sỏi dưới đáy sông; tôi thấy nó giống một dòng suối thì đúng hơn. Chúng tôi ngồi nghỉ chờ Đạt; Khải đi thám thính; qua đến bên này rồi tôi thấy nó cũng giống bên kia, một sự yên lặng gần như tuyệt đối, lúc ở bên kia sông chúng tôi có biết bao nhiêu là hy vọng, nhưng rồi... chẳng thấy gì. Anh Đạt về, anh kêu đi tiếp "-. Một đám tàn quân lếch thếch lên đường; ". Tôi nói với ông bà An: " - hai bác phải cho con nói đùa, có vui hai chân mới bước nhanh, còn buồn rầu nó làm nặng chân đi không nổi;" Ông An cười: - con nói đúng...
Tháng 3, cuối mùa Xuân nắng không còn dịu mà hơi gắt, nắng nóng dội lên đầu chúng tôi, bộ áo quần bị ướt lúc lội qua sông đang khô dần trên người, tôi mệt quá, đầu nặng chỉu, hơi thở nóng ran phát ra 2 lổ mũi như có lữa đốt, tôi bước đi lảo đảo như người say rồi ngã chúi đầu xuống đất, Khải hoãng hốt nhào đến đở tôi đứng dậy, cả đoàn người phải dừng lại, mắt tôi mờ đi và tôi òa khóc nức nở, bao nhiêu nổi niềm đau đớn, khổ sở và sợ hải, căng thẳng mấy ngày qua vở òa như thác đổ, bà An khóc theo, tiếng khóc lây lan từ người nọ qua người kia; chỉ có Đạt nhỏ là ngồi ngó mông lung, chừng như thấy mọi người khóc thế đã đủ, Anh Đạt đứng lên nói; giọng ra lệnh:
- Thôi; khóc bi nhiêu đủ rồi, đứng lên đi tiếp chứ.
Kể ra khóc được nhiều như vậy cũng làm vơi đi những gì đang trỉu nặng trong lòng, Khải đở tôi đứng dậy, ân cần dổ dành - cố gắng lên, về tới Sài gòn tha hồ sướng, anh sẽ dẫn Thủy đi uống cà phê Thanh Bạch, đi ăn pate chaud ở Thanh Thế, xem cinema rạp Eden... tôi vịn vào vai Khải đi như người mộng du. Đã trưa lắm rồi; chúng tôi dừng lại ở một khu rừng thưa, rừng đẹp quá, lá vàng rụng lâu ngày nằm chất chồng lên nhau thành một tấm thãm dày và êm, những cây cổ thụ to cao vươn tán đan vào nhau cho chúng tôi bóng mát, tôi nằm xuống tấm thãm lá êm ái tưởng như mình đang nằm trên nệm, mùi lá khô và hơi ẩm của đất quyện vào nhau nồng nồng, ngái ngái, hăng hăng, tôi vòng hai tay ra sau làm gối kê đầu nhìn lên bầu trời xanh qua kẻ lá, nhìn những sợi nắng nhảy múa lung linh theo gió ở trên cây, cả thân thể và đôi chân được thã lõng, nhưng đầu óc thì nghỉ ngợi lung tung. Chúng tôi đói lắm rồi, số gạo anh Đạt lượm được còn ít, Bà An đòi nấu hết, ăn một bữa no rồi ra sao thì ra, bà nói biết có sống được nữa không hay để chết làm ma đói. Với con số của đoàn người là 21, mà gạo còn vài lon, nấu hết 1 lần ăn cũng chã bõ bèn gì. tôi nhìn bà, mới có mấy ngày thôi mà bà gầy tọp hẳn đi, đôi mắt trũng sâu, má cóp lại, lòng tôi cảm thấy xót xa. Bà An hiền lắm, rất đôn hậu, bà nhẹ nhàng, mong manh dể vỡ, mỗi lần đến nhà chị Bích chơi, tôi thích nhìn vẻ đài các của bà, bà ưa làm nũng với ông An, và ông lại rất thích điều đó, ông cưng chìu bà, tâm hồn ông đầy ắp thơ, tôi thích vì ông bà là một đôi vợ chồng lý tưởng; những người con của ông bà là: Anh Aí lớn nhất Chị Bích, Anh Đạt, Hằng, Khải, Luật, Minh, Kiều, Ty rất hiếu thảo và rất thương yêu đùm bọc nhau, Khải là người nóng tính hay cáu gắt nhưng lại là một chàng trai lãng mạn dể thương. Cả gia đình bây giờ chỉ biết nương tựa vào Đạt và Khải, hình như anh Đạt cảm thấy áp lực đè lên vai anh thật nhiều và thật nặng, anh không thể để cho ai nãn lòng gục ngã, anh cũng không chịu "ăn một bữa cho no rồi ra sao thì ra;" chúng tôi bám víu vào ý chí và tinh thần của anh để có sức lực tiếp tục cuộc hành trình. - Húp mỗi người một lưng cháo, phải dè xẻn chút gạo còn lại, đường đi còn xa lắm - Tôi kéo tay Hằng nằm xuống bên tôi, nói cho Hằng nghe tôi thèm một chén cơm nóng, một tô canh rau dền, một khứa cá kho mặn...
Khải đem tới cho tôi ca nước:
- Thủy uống cho khỏe.
Gió hiu hiu làm cho tôi buồn ngủ nhưng anh Đạt hối mọi người chuẩn bị hành trang lên đường, bao giờ gần tối mới được ngừng lại, nấu cháo ăn rồi ngủ để mai đi tiếp.
Bà An khóc:
- Mợ đói và mệt lắm rồi con ơi.
Tôi thấy anh Đạt quay lưng chùi nước mắt, mấy đứa nhỏ ngơ ngác nhìn bà ngoại khóc cả bé Lan nửa, trong đôi mắt các cháu cũng muốn nói lên điều bà An vừa nói: đói và mệt; Hớn lên tiếng:
- Thôi, anh Đạt để Ngân lấy hết gạo đó nấu cơm, mình có nhiều cách kiếm thức ăn mà, nhưng cũng nên đi thêm một đoạn nữa rồi hảy nghĩ.
"Câu nói này làm cho mọi người lên tinh thần được một chút nhưng anh Đạt nói cứ từ từ sau hẳn nấu. Bà An nín khóc, đoàn người đi thêm được một lúc; cho tới khi trời đã ngã về chiều anh Đạt mới chịu ngừng, nơi đây có một con suối nhỏ nước trong veo. Chúng tôi mỗi đứa tìm một gốc cây ngồi dựa lưng, mấy đứa con gái nhỏ làm như không hề lo buồn sâu sắc như người lớn, chỉ cần được nghĩ chân là ngồi chụm vào nhau nói cười vui vẻ, Thấm giải thích rất đơn giản: "có mấy anh lo rồi, tụi em chỉ biết nghe theo, làm theo mà thôi, lo thêm cũng đâu giải quyết được gì, lúc này đang được ở cùng nhau thì cứ vui vẽ vối nhau, ai biết ngày mai sẽ ra sao;" đó là một câu triết lý rất hay. Hằng hỏi tôi đang nghĩ gì, có nhớ nhiều đến pleiku không? riêng Hằng đang nhớ anh Sơn ghê lắm, tôi cũng như Hằng mà thôi; cũng đang nhớ đến một người không nên nhớ; mà vì yêu người đó nên bây giờ tôi mới phải ngồi đây, yêu làm chi cho nặng lòng, vì nặng lòng nên thấy nặng đôi chân; mà chân đã nặng thì đi không được nhanh, bước không được xa... yêu nhiều thì lo lắng nhiều, mà lo lắng nhiều thì... mệt lắm, hai đứa bật cười với những câu ví von của mình, cười xong hai đứa nhìn quanh; sao không thấy bóng dáng của mấy người con trai đâu cả? đi đâu hết rồi? chị Bích nói: - hai cô lo nhớ nhung lung tung, mấy chàng đi kiếm lương thực, tôi tiếc rẽ "uổng quá, phải chi mình đi…;" mải một lúc anh Đạt và đám con trai mới nối đuôi nhau đi về, trên tay mỗi người ôm một thứ, Khải huýt sáo vui vẽ, tất cả để "chiến lợi phẩm;" xuống trước mặt ông bà An và chị Bích; đó là 1 trái bí ngô, 15 trái bắp, 2 trái đu đủ chín và 3 cây mía dài, "cả nhà " mừng vui hí hững; Minh cười cười khai ra: "đây là những tứ chôm được trong làng;" Khải nói "- làng vắng hoe chắc là họ bỏ làng mà đi như tụi mình "- Anh Đạt phân công: mấy đứa con gái có nhiệm vụ tách hết hôt bắp ra khỏi cùi bắp, mấy đứa con trai hàm răng khỏe thì cắn bể hột, mỗi tối trước khi đi ngủ Ngân bỏ một ít vô cái nón sắt mà ngâm nước qua 1 đêm là nó mềm, sáng dậy sớm nấu sẽ mau chín, Khải chặt mấy cây mía ra từng khúc để dành lấy nước cho bé Ly bú. Chúng tôi vui vẽ thi hành mệnh lệnh của anh Đạt, cứ xem như đây là một trò chơi, vừa làm vừa nói đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, Khải chặt mấy cây mía, anh tước vỏ mía, rồi xuống sông lấy nước súc miệng, xong chạy lên ngồi gần tôi, chị Bích đưa Khải bình sữa, Khải nhe 2 hàm răng nhá nhá cho nước mía chảy vô bình, cũng không nhiều nhưng cũng làm cho bé Ly tạm no, anh Đát lấy 2 lóng mía chẻ làm 4 rồi bẻ làm 2 chia cho ông bà An và mấy đứa nhỏ, còn mấy đứa tôi thì chờ cho mấy đứa bé ăn xong nhả xác mía ra là lượm lại nhai và rít đến chừng nào cái bã mía khô rang mới bỏ. Đạt nhỏ không ngồi cắn hột bắp nữa, anh chàng rủ Hưng; Phi; Minh làm 1 cái bếp nướng trái bí, tôi chán trò tách hột bắp vì đau tay quá chừng nên rủ Hằng đi theo, Khải cũng đi theo tôi, Đạt nhỏ đào 1 cái lổ hình tam giác, sai mấy đứa tôi đi lượm củi khô mang về rồi bẻ những cành nhỏ bỏ xuống lổ trước, Khải lấy 2 cục đá chà mạnh vào nhau làm nóng rồi đánh cho tóe lửa; hì hà hì hục mải mới nhóm được bếp, Minh đem về mấy nhánh cây khô lớn đút vào "lò;" lữa bốc nhanh Đạt nhỏ đặt trái bí lên trên lò, vừa chờ trái bí chín vừa nói chuyện, Hằng cười chê Khải: "có diêm quẹt của Hớn đưa không chịu nhóm lửa cho nhanh, làm kiểu này mất thời gian, đói bụng gần chết đây;" Đạt nhỏ nói: "còn phải chờ tới lúc tàn lữa, rồi vùi trái bí ủ trong tro nóng nó mới chín được bên trong ruột"- "sao Đạt giỏi vậy;" - "thì đi nhiều, học hỏi nhiều nên biết được nhiều thứ,"
Buổi tối sau khi mỗi người được ăn một miếng bí ngô nướng chín khét, mùi thơm của vỏ bí bị cháy cùng vị ngọt của nó làm đê mê đầu lưởi; chúng tôi ăn miếng bí ngô nướng bằng cả mắt; mũi và miệng. Hình như trời bắt đầu vào mùa mưa, cũng gần cuối tháng 3 rồi, dù nằm giữa đất trời mênh mông; nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy nóng bức ngột ngạt. Từ rất xa có tiếng nổ ầm...ì… lẻ tẽ vọng lại; những tiếng nổ gieo vào lòng chúng tôi vài tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng tôi suy đoán lung tung. Không ngủ được chúng tôi ngồi quây lại thành vòng tròn, tâm sự cho nhau nghe chuyện của mình. Hưng, Phi kể về những tháng ngày vùng vẩy trên nền trời xanh, biết bao thành phố họ đã ghé qua; những phi vụ hiểm nghèo thoát chết trong gang tất; Hưng lái L19; Phi lái C130, đóng quân ỏ Nha Trang, Phi đoàn 114; biệt phái lên Ban mê thuột và bị kẹt lại, tôi muốn hỏi về 1 người nhưng lại thôi... Khải hỏi tôi có nhớ những cành phong lan ở sau vườn nhà không? tôi nói:-" nhớ lắm, nhớ cả thành phố Pleiku đến nhức nhối tâm cang," Khải kể cho mọi người nghe những lần hành quân của Khải; Khải chỉ đi tìm phong lan trên cây thay vì tìm vc dưới đất, kể từ ngày phải đi lính chưa bao giờ Khải bắn vào một ông vc nào cả dù đôi khi có thấy họ; Hưng nói: - còn tôi; những lần bay thám thính trên vùng đất nghi là có vc, nhiều khi nhìn xuống thấy bên dưới lố nhố, tôi gọi về tổng đài báo sai tọa độ, pháo binh bên mình cứ theo tọa độ tôi báo mà bắn... - Anh Đạt thở dài: - Thế nên bây giờ tụi mình mới ngồi đây, anh cũng chưa hề bắn vc dù anh là lính.
20/03/1975
Một ngày như mọi ngày, vẫn thức dậy thật sớm, ăn một ít bắp, bó chân cho kỷ rồi lên đường, ai cũng bước đi với những bước chậm chạp, dừng lại để nghỉ nhiều hơn vì có lắm lí do; cứ đi chừng vài mươi bước "đôi giày vải " bị lệch; tuột ra khỏi bàn chân là phải nghỉ để sửa lại, hơi mỏi chân là nghĩ... Hôm nay những bước chân của chúng tôi nặng như đeo đá... Khát nước chút xíu cũng... nghỉ; anh Đạt không cho uống nhiều nước, mỗi lần khát chỉ được hớp 1 ngụm thôi. Chúng tôi mong trời mau tối để được nghỉ lâu và được ngủ 1 giấc dài. Ngày nôm nay không có gì đáng ghi nhớ ngoài việc khi dừng chân nghỉ trưa, Mạnh tách ra khỏi đoàn; đi đâu đó một lúc, khi về Đạt nhỏ cầm theo 1 cái thùng đựng nước và giải thích:
- Không phải lúc nào mình cũng đi được gần sông, có khi phải đi sâu trong rừng, cần có cái thùng đựng nước để dành, lúc nảy tôi thử ra ngoài đường; ghê lắm; mùi thối nồng nặc đồ đạt củng nhiều như khoãng đường hôm trước anh em mình đi lượm đồ, thấy cái thùng đựng nước; mừng quá trời.
Sắp hoàng hôn, nắng chiều đang rong chơi trên những ngọn cây cao, mây chiều bàng bạc trôi lờ lững; cảnh vật mờ trong sương, anh Đạt cho mọi người nghỉ sớm hơn hôm qua. Chị Bích biểu Ngân nấu hết gạo nhưng cái nón sắt đâu nấu được nhiều, chỉ phân nữa số gạo còn lại là đã đầy nón rồi. Mùi thơm của cơm chín bốc cao chui vào lổ mủi tôi quyến rũ quá, những hạt cơm trắng nỏn nà đựơc Ngân xới bung lên bằng hai que tre rừng nằm phơi bày trước mắt chúng tôi làm ai cũng chảy nước miếng. - "Ưu tiên cậu mợ với chị Bích được ăn nhiều, sau đó đến mấy đứa nhỏ, cuối cùng là chúng mình;" - Anh Đạt chia phần như vậy, một cái nón sắt cơm với 22 người ăn thì đâu có được bao nhiêu…Trước khi cho nắm cơm vào miệng; tôi nhắm mắt đưa lên mủi hít một hơi thật sâu cái mùi thơm của nó, thât tuyệt vời... nhưng... - "Cô Thủy ơi con ăn chưa no, cô cho con thêm miếng nữa đi…" tôi mở mắt, bé Lan đứng bên tôi, nhìn tôi một cách van lơn; theo phản ứng tự nhiên của con người, tôi ngậm miệng lại tính nuốt hết, nhưng... tôi đành phải nhả ra cho bé 1 miếng nhỏ bằng ngón tay cái, lòng không mấy vui;- "Có ai được no đâu con;" … Tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình; tôi... phàm phu tục tử quá đi thôi... tôi khinh tôi đến ứa nước mắt; ăn có một miếng cơm lạt nhách mà cũng làm như thưỡng thức... một mâm cơm thịnh soạn không bằng; lại còn keo kiệt với một đứa bé… đang lúc chết lúc nào không biết.
Đạt nhỏ mở radio rà tìm đài VOA; - Bây giờ là 21 giờ ngày 20 tháng 3 năm 1975 Hôm nay tin tức xấu hơn hôm qua làm chúng tôi buồn quá, đứa nào cũng nao núng trong lòng, dạy sữ địa và cũng thích chính trị nên tôi biết Cao nguyên Darlac, Kontum, Ban Mê Thuột là vùng Chiến thuật và Chiến lược vô cùng quan trọng; năm 1956 ông Ngô Đình Diệm có chính sách di dân lên các vùng Cao Nguyên nói trên để lập nghiệp; Ông đã đặt trên đó các cứ điểm Quân Sự quan trọng: Bộ chỉ huy của Sư Đoàn 6 Không Quân đóng tại Pleiku mà phi trường Cù Hanh là căn cứ chính; Sư Đoàn 23 Bộ Binh, rồi Biệt Động Quân; Lôi Hổ... và đơn vị Pháo Binh đóng ở núi Hàm Rồng; nhiều lắm... và nhiều lắm; toàn là những sư đoàn thiện chiến nhằm để giữ vững miền đồng bằng, vì những cao nguyên nói trên có độ cao và núi non chập chùng hiểm trở.
Để mất Cao Nguyên cũng có nghĩa là để mất Đồng Bằng, chỉ cần quân Bắc Việt chiếm được trên đó, họ sẽ tràn về đồng bằng như thác lũ và sẽ cuốn trôi đi tất cả những gì có trên đường. Lúc còn ở Pleiku, nghe tin tức chiến sự; thì ngày 10 /3 /75 VC khởi công đánh mạnh vào BMT để dứt điểm, sau đó Pleiku được lệnh di tãn; ngày 15/3/75 là ngày Pleiku được lệnh phải di tãn hoàn toàn chỉ để lại một thành phố trống rỗng, và ngày 16/3/75 là ngày chúng tôi rời khỏi thành phố Pleiku. Đêm nay là đêm thứ 3 chúng tôi ngủ trong rừng, và là ngày thứ 5 của cuộc di tản. BMT, Ktum và PKu đã mất; có thể nay mai vc sẽ tràn về Nha Trang khi mà họ đang ở thế mạnh. Cuộc chiến này sao mà phi nhân quá; làm cho nhiều người chết oan uổng, đau thương, tức tưởi, làm cho chúng tôi phải trốn chui trốn nhủi trong rừng; chịu biết bao nhiêu đói khát khổ sở. Cả một Quân Đội hùng mạnh oai phong, đẹp đẽ, được trang bị đầy đủ từ dưới chân lên đến đỉnh đầu, mà phải bỏ chạy vì những người rất tầm thường như 2 người mà chúng tôi đã gặp; đáng buồn chưa?... Một chàng lính lãng mạn như Khải: đi hành quân chỉ thích hái lan rừng đem về ngắm; không nở bắn vào kẻ thù không hề biết mặt; một chàng phi công lái máy bay thám thính lúc nào cũng báo sai tọa độ... và bây giờ cùng ngồi với nhau nơi đây, giữa rừng già nghe tin chiến sự mà lòng cay đắng thấy hình như mình cũng có lổi phần nào...
Khó ngủ quá, đêm nay không ai muốn nghe nhạc, mỗi lần nhắm mắt tôi lại thấy máu nhuộm đỏ sông Êpa và cả sông Adun, rồi cảnh người ta cuống cuồng dẩm lên nhau mà chạy, rồi tiếng khóc la, gào thét, rồi tiếng súng pháo kích ầm... ầm... cứ vang vọng mãi như vẫn còn ở đâu đây; rồi những bàn tay quờ quạng, những đôi chân giẩy giụa... tất cả cứ luẩn quẫn trong đầu tôi, bàng hoàng nhức nhối,... Hằng bóp tay tôi thở dài:
- Cố ngủ đi Thủy, nghĩ ngợi làm gì thêm nhức đầu, cũng đừng nhớ những chuyện đã qua, chẳng giải quyết được gì, tụi mình chỉ là những con sâu cái kiến mà thôi.
Đêm nồng nực, có lẻ ngày mai trời sẻ mưa, cơn mưa đầu mùa... Anh ơi;Có biết bao nhiêu chiều mưa hai đứa mình bên nhau, tay trong tay hạnh phúc tuyệt vời; hả anh? tôi cố ngủ…nhưng những nỗi nhớ như mang đôi giày sắt gót nhọn cứ nhãy múa trong trái tim tôi bằng nhiều vũ điệu làm cho tôi đau nhói…
21/03/1975
Qua một đêm oi nồng, sáng nay thức dậy nhìn lên trời thấy mây nhiều và nặng nhưng vẫn chưa mưa. Nồi bắp đã chín; tôi xuống sông, bên bờ sông có chừng 10 hố nhỏ lưng lững nước, Kiều đang múc từng ca nhỏ đổ vào ấm, anh Đạt kêu mọi người ăn bắp rồi còn lên đường, bắp được nấu mềm, bỏ vào miệng nhai thật chậm; thật kỉ để cho vị ngọt; bùi của bắp ngấm thật lâu; thật sâu trên đầu lưỡi và trong vòm miệng sau đó mới nuốt từ từ vô bụng…
Lại đi tiếp, đôi giày tự chế lót bằng lá rừng và bó lại bằng vải áo; cột bằng vỏ cây tước nhỏ cũng làm êm bàn chân hơn là phải đi chân trần; mỗi người lớn tự làm cho mình một đôi, riêng phần My Cò và bé Lan thì tôi làm. Tôi nói với Hằng quẵng hết những ưu tư phiền muộn trong lòng để nhẹ người để mà đi cho được nhanh, Hằng cười hát: "đường về còn xa xa lắm, xin người..."
Chị Bích la -"xin người đứng lên đi dùm tui"...
Anh Đạt và Khải dẫn đầu, chúng tôi theo sau; vừa đi vừa kiếm mấy buôn thượng để xem có thể lượm mót được chút ít thực phẩm của họ trồng quanh làng, đi một đoạn anh Đạt lại mở bãn đồ ra xem rồi cùng bàn bạc với Khải, Mạnh... Đoàn tàn quân chúng tôi bây giờ có vẻ lôi thôi lắm; lúc thì được vào trong rừng đầy bóng mát, lúc thì phải đi ở mé sông không một bóng cây, nóng quá thì cứ để nguyên đồ trên người lội xuống sông cho mát xong lại lên bờ: ướt nhẹp mà đi tiếp, nhờ nắng, gió làm khô quần áo, đi và đi; không nghĩ ngợi suy tư gì, cũng không thèm buồn hay nhớ, cả một đoàn người lầm lủi, cặm cụi, lặng im nối đuôi nhau thành hàng đi như nhũng kẻ mộng du, cho đến khi cái đói làm thúc tỉnh mọi người. Chân tay bủn rủn, hai đầu gối run run, mắt mờ, tai ù, miệng khô:- đói lắm anh Đạt ơi; cậu Đạt ơi cháu đói… ngừng ngay lại… may quá bên kia kìa, đó thấy chưa; một cái chòi canh rẫy của người thượng, chúng tôi chạy ù đến lùng sục khắp chòi mà chẳng thấy gì, chỉ có Khải kiếm được một gói muối nhỏ dấu thật kỷ trên mái chòi;chia nhau mỗi người một hột, vị mặn của muối tan ra trong miệng; dù sao nó cũng làm cho tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong người hơn một chút. Mạnh đoán:- rẫy này đả gặt hái lâu rồi;có lẽ từ mùa trước nên không còn gì; nay họ bỏ. Cả đoàn nghỉ lại nơi đây;nấu cơm ăn rồi đi tiếp, số gạo còn lại đươc nấu hết, chị Bích dặn Ngân nấu nhiều nước để có nước hồ cho bé Ly bú. Tôi ngồi cạnh chị nắm bàn tay nhỏ xíu của Ly Ly; bé toét miệng cười rồi phun nước miếng phì phì. Cơm chín, đây là những hạt cơm cuối cùng, tối nay và ngày mai sẽ như thế nào? rồi những ngày sau và sau; sau nữa, làm sao đây? Lúc này thì tôi không còn cảm hứng hay tâm trí gì nữa để mà thưỡng thức miếng cơm đang ngậm trong miệng; dù đó là miếng cơm cuối cùng... Tôi nói với Khải:
- Anh ơi, Thủy buồn ngủ với lại mệt lắm; nói anh Đạt khoan hẳn đi.
Bà An cũng đòi nghỉ thêm lâu lâu một chút; mắt bà van lơn như muốn khóc; ông An ôm bà vào lòng dổ dành, tôi nhìn kỷ bà mà thương bà quá; đôi mắt bà trõm lơ; sâu hoắm;gò má tóp lại với da mặt sạm hẳn; nét mặt bà bơ phờ mệt nhọc với hơi thở nặng nề; đâu rồi một người đàn bà tươi đẹp đài các mà tôi rất ngưỡng mộ; anh Đạt có vẻ buồn, anh nói chỉ sợ cứ nghĩ ngơi mãi rồi đâm ra nghỉ ngợi nhiều chỉ làm mọi người dể nãn lòng, anh cũng mệt lắm;trách nhiệm là cả một áp lực đè nặng lên vai anh; đó là cha mẹ; chị em và các cháu của anh, anh phải đưa tất cả đến nơi mong muốn được bình an, nguyên vẹn. Mặc dù tất cả mọi người trong gia đình chị Bích rất thương quí tôi; nhưng không hiểu sao tôi vẩn mang mặc cãm mình cũng đóng góp phần nào gánh nặng cho anh Đạt nói riêng và cả gia đình anh nói chung, ý nghĩ này cứ đeo đẳng tôi mãi kể từ ngày theo gia đình chị cùng đi di tãn, ngữa tay nhận một nắm cơm hay được chia một chút phần ăn là tôi lại áy náy…nhưng cái đói làm cho con người ta không còn gìn giử được sĩ diện hay lòng tự trọng, và tôi đang chính là con người đó, tôi buồn lắm nhưng không thể bày tỏ cùng với ai…
Dù là ban trưa nhưng mặt trời đang bị mây che phủ; gió mát hiu hiu, giữa một nơi thanh vắng như thế này giá như mà được ngũ một giấc thì thật là sung sướng; nhưng giấc ngũ không dễ gì đến với tôi khi mà tôi cứ ưa suy nghĩ lung tung, hết suy nghĩ lại nhớ nhung, hết nhớ nhung lại buồn rầu. Những đám mây trắng chen lẩn cùng mây xám lặng lờ trôi…ước gì tôi được như là những đám mây kia nhỉ? Chỉ biết trôi đi và trôi đi mãi theo chiều gió thổi, không ưu tư phiền muộn, chẵng nhớ nhung buồn sầu…như tôi.
Phải cố gắng lắm tôi mới rủ bỏ được những nổi buồn, lo và mặc cảm trong lòng mình để đi vào giấc ngủ, tuy chỉ là một giấc ngủ ngắn thôi nhưng cũng đủ mang đến cho tôi đôi chút thư thái trong tâm hồn và một ít sức lực để đi tiếp chặng đường dài không biên giới, không biết ngày được ngày tới đích. Khải đang ngồi bên cạnh tôi, anh cười khi tôi vừa mở mắt thoát ra khỏi giấc ngủ xế chiều, cảm ơn Khải vì anh đã ở bên cạnh tôi lúc này, tôi vươn vai ngồi dậy đưa mắt nhìn mông lung ra phía xa xa của chân trời…Tương lai sao mà mờ mịt quá, đường đi thì có lắm chông gai, mọi hiểm nguy lại luôn luôn chờ chực chúng tôi.
Vì trời không có nắng, cũng chẳng có mưa, mà chỉ êm êm; dìu dịu, như những ngày đầu mùa Thu của xứ Huế , nhìn màu mây xám nhẹ trôi lờ lững ở lưng trời, tôi nhớ da diết thành phố Pleiku và ngôi trường Trung Học Pleiku, nhớ đập nước Phú Thọ, ngôi giáo đường nhỏ của cha Nam, đó là nơi có nhiều kỷ niệm của tôi và anh ấy, tôi bồi hồi với sắc trời, với không gian nơi đây, vào lúc này và chợt làm nhớ đến bốn câu thơ của Hồ Dzếnh mà tôi rất thích lúc vừa mới quen anh:
"Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa"
Khải nhìn lên trời; hình như đang khóc. Anh Đạt an ủi cả nhà: "- cố đi thêm một đoạn đường nữa thôi, anh sẽ kiếm một nơi thật nên thơ để chúng ta nghỉ lại đêm nay; bây giờ vẫn còn sớm; nghỉ lúc này uổng thời gian lắm." Cả đoàn người uể oải đứng dậy đi tiếp, không biết được bao nhiêu đoạn đường, chỉ biết trời đã về chiều, anh Đạt lại muốn tìm khúc sông hẹp để vượt qua bên kia, chúng tôi tới gần một nhánh phụ lưu của con sông cái Êpa, còn xa lắm mới gặp được con sông chính, đành phải dừng chân nghỉ ngơi thôi, nhưng mà…mọi người ai cũng đói cả, phải có cái gì đó có thể ăn được;bỏ vào bao tử mà ngủ cho qua một đêm, cứ vừa đi vừa bứt bất cứ thứ lá cây gì không có mủ là bỏ vô miêng mà nhai, mà nuốt, không biết chúng tôi ăn được bao nhiêu thứ lá cây trong rừng, mổi thứ lá có một mùi vị khác nhau…nhưng cái đói thì quá ư dể sợ, chẵng những vậy còn phải nhìn lên cao; biết đâu gặp một cây gì đó có trái ăn được…thế là chúng tôi trở thành những chàng và những nàng Thi sĩ bất đắc dỉ; không tìm thi hứng mà chỉ lo tìm…cái ăn, Đạt nhỏ chạy lên trước anh Đạt, anh chàng nhảy qua qua 1 cái hố nhỏ và reo lên:
- Có rồi... một cây sung nhiều trái lắm.
Mọi người chạy tới chổ Mạnh và cùng nhìn lên cây, những trái sung tròn; dẹp giống như trái vã xứ Huế quê tôi nhưng nhỏ hơn, bám chi chít trên thân cây, Đạt nhỏ leo lên nhanh như một con sóc, anh ta hái những chùm trái chín thả xuống, chúng tôi đưa tay chụp; tôi nắm vạt áo trước chìa ra để hứng, anh ta lại la oai oái "kiến, kiến quá trời, nó cắn... ái dà..."
Anh Đạt lựa những trái lớn nhất đưa cho bố mẹ, chúng tôi ngồi lựa những trái lớn chia nhau; cũng không nhiều gì mấy, mỗi người chỉ vài trái. Bé Lan, Ty anh, Ty em, My cò ngồi mân mê đếm những trái sung trên tay; lựa chọn - "trái này ăn liền nè; trái này để dành nè;" rồi mấy đứa nhỏ đưa lên miệng cắn, đứa nào cũng nhăn mặt, nhắm mắt lắc đầu: "chát quá mẹ ơi; con không nuốt được;" chị Bích dổ dành:- "cố nuốt đi các con, nhìn ông bà, mẹ và các cậu; các dì đây này..." chị Bích nhai trái sung mà nước mắt chị lăn dài trên má, cũng may còn mấy lóng mía để dành cho Ly Ly. Tôi cắn làm đôi trái sung, trong ruột của nó màu hồng, với những sợi tơ mịn màng như nhung giống ruột trái vả; mùi thơm của nó thật dể chịu nhưng khi ăn… không dể đâu, Khải nói cắn từng miếng nhỏ xíu nhai từ từ mới nuốt được, phải kiếm một trò chơi gì đó liên quan tới ăn để có thể nuốt trái sung vô bụng, Hằng cắn một miếng hát: 1, 2, 3 là con gà bước ra…(nuốt; chát quá) 4, 5, 6 là con gà chảy máu…(nuốt; ái dà) 7, 8, 9, là con gà sắp chín… (nuốt)... mấy đứa nhỏ với trò chơi của dì Hằng đã ăn được vài trái sung, Trong đoàn người đi này có 2 bà mẹ đang nhìn các con mình mà chảy nước mắt; đó là Bà An và chị Bích.
Khải đến ngồi gần tôi buồn bã:
- Thủy có hối hận khi đi chung với gia đình anh không?
- Thủy không nghĩ gì hết, nhưng nếu không đi chung với gia đình anh; Thủy cũng chẳng biết mình như thế nào nữa, thành phố vắng hoe; Thủy thì không có người quen, lúc đó Thủy sợ lắm… à, anh Khải, anh đừng gắt với mợ anh; Thủy thấy thương bà quá.
Khải im lặng thở dài; mắt nhìn đâu đâu, anh lấy tay vẻ nghệch ngoặc xuống đất, rồi nói với tôi:
-Nhiều khi nhìn mợ anh đau lòng lắm chỉ muốn khóc; nhung hể mỗi lần thấy mợ khóc là anh rối cả ruột; mợ chịu khổ không quen. Thủy biết không; cứ chui rúc mải như thế này anh muốn điên lên mất; may mà có em; đời còn dễ thương... để mà đi tiếp, Thủy có nhớ lúc còn ở pleiku; mỗi chiều được đến trường đón Thủy đi dạy về anh vui lắm, nhưng anh cũng rất buồn vì em lúc nào cũng chỉ nghỉ đến anh chàng pilot kia.
Tôi sợ nghe những lời tâm sự này của Khải, vì làm sao mà tôi quên được; có biết bao nhiêu kỷ niệm, biết bao nhiêu buổi chiều anh Bang đến trường đón tôi, lúc đó chúng tôi không muốn rời nhau dù chỉ trong chốc lát, nhắc chi cho thêm buồn, rồi sau đó… tôi cũng nhớ có những buổi chiều khi dạy xong tôi về; nhưng vừa ra đến cổng trường thì thấy Khải đang đứng chờ tôi, với bộ đồ lính mặc trên người; tay mân mê cái nón nỉ, trông Khải vừa phong sương lại vừa có vẻ nghệ sỉ, anh chàng nhìn tôi cười ngượng ngùng, e ngại... đã xa thật là xa... làm sao mà quên được... cũng may anh Đạt đứng dậy vươn vai; ẹo lưng - cho giãn gân cốt - anh nói thế, tôi biết lại phải chuẩn bị lên đường nữa rồi. Đoàn người tiếp tục đi cho tới khi gặp một nơi thật đẹp anh Đạt mới cho ngừng.
Tôi nhìn quanh; nơi đây thật tuyệt vời, chúng tôi nghỉ ở ven rừng, phía dưới là giòng sông uốn khúc quanh co, chiều lắm rồi và chiều nên thơ quá; như một câu thơ tôi thuộc từ thủa bé: " "trời chiều bãng lãng bóng hoàng hôn, mấy cánh chim bay tận cuối trời…" Ở đây có tới 22 cánh chim lận. Màu trời chiều lúc nào cũng làm cho tâm hồn tôi nhức nhối; lòng cảm thấy buồn mênh mang, chơi vơi.
Đêm xuống nhanh; sương đêm mõng trắng bàng bạc bao phủ chung quanh. Ông bà An; chị Bích, mấy đứa con gái và những cháu bé đã ngủ say, chỉ còn lại những người "lở cở;" như tụi tôi xuống bờ sông ngồi tâm sự, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chuyện Nam Tào Bắc Đẩu rồi đến chuyện của từng đứa, anh Đạt, Khải… so sánh với anh Hưng, Phi chuyện người bay trên trời, người hành quân trong rừng, bay trên trời thấy toàn là trời xanh mây trắng, còn đi trong rừng chỉ có cây cối và gai góc... nhưng trong rừng đẹp lắm, nên thơ lắm, đầy hoa bướm lạ... Tại sao đêm nay không ai buồn ngủ? hay cũng như tôi "ngổn ngang trăm mối tơ vò."
Nữa đêm có tiếng sấm sét gầm rú rung chuyển trời đất, những tia chớp màu xanh lạnh tóe sáng rực trời trông thật khủng khiếp, gió thổi mạnh và cơn mưa trút xuống như thác đổ mà không báo trước, mưa đầu mùa lớn quá; chúng tôi giật mình thức giấc cuống cuồng tìm những lùm cây rậm chui vào, không cảm thấy đau đớn vì bị trầy xướt; thật buồn cười, núp mưa kiểu này chẳng khác nào: lấy vải thưa che mắt thánh Nước từ trên cao đổ xuống, len lỏi qua mọi ngỏ ngách không chừa một chổ nào, chúng tôi cố gắng co mình lại; nghỉ rằng càng cuộn nhỏ người bao nhiêu càng đở bị ướt bấy nhiêu, mấy đứa bé được người lớn ôm chặt trong lòng. Chúng tôi vừa ướt; vừa lạnh cọng thêm cái đói ập đến bất ngờ nên run cầm cập, run như cầy sấy, lúc này thì nước mắt cũng tuôn trào lai láng hòa cùng với nước mưa, vị mặn của nước mắt; vị ngọt lạnh của nước mưa chảy vào miệng; thấm vào lưỡi chúng tôi ngon khó tã. Ngồi khum lưng mỏi rã rời mà vẫn cứ ướt "như chuột lột;" tôi liều chui ra khỏi lùm cây; nằm dài trên nền đất, lắng nghe cảm giác những sợi nước nhỏ đang chảy dưới lưng mình; vừa nhột nhạt lại vừa như được ai đó đang xoa vào lưng: nhẹ nhàng; êm ái; mơn man, nước từ những chiếc lá trên cao rơi xuống mặt, xuống người tôi lành lạnh như có những mủi kim châm vào...
Cuối cùng thì cơn mưa cũng tạnh, nhưng sấm chớp vẫn xẹt ngang xẹt dọc trên bầu trời đêm; ánh sáng xanh lè như lưởi thép vừa ma quái vừa hung hãn đe dọa chúng tôi. Sau một hồi ra oai thì sấm lặng; chớp tan, chúng tôi ngồi chụm lại với nhau, chị Bích mừng rở vì lúc trời vừa đổ mưa, Khải, Minh, Đạt kịp lấy cái poncho nhà binh chùm cho bố mẹ và cái sacmarin đựng áo quần và những giấy tờ quan trọng của gia đình (và tôi cũng là người trong gia đình), nhưng ngày mai cũng vẫn phải xem lại mọi thứ. Mọi người đều lạnh nhưng không làm sao đốt được lữa để sưởi ấm, đành ôm nhau; lấy hơi người mà sưởi ấm cho nhau.
Khải hỏi tôi:
- Thủy sợ không? Tôi khóc: -Ai mà không sợ; hỏi lạ chưa.
(còn tiếp)