Moderator
Status :
Tham gia: Jul 2008
Posts: 2,964
Thanks: 33
Thanked 110 Times in 40 Posts
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Huế trong Mậu Thân 1968
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Huế trong Mậu Thân 1968
Liên Thành
Lời tòa soạn: Tác giả Liên Thành nguyên là cháu nội của Ngài Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, thuộc dòng con trưởng của Vua Gia Long( tức Ðông Cung Anh Duệ Ðại Nguyên Soái Hoàng Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh). Ông sinh ngày 1 tháng 12, 1942, tại Huế, học Quốc Học và Ðại Học Huế (Phân khoa Sử), tình nguyện gia nhập quân đội (khóa 16 Võ Khoa Thủ Ðức). Ra trường năm 1963, cấp bậc Chuẩn úy, ông làm Phụ tá Quận Trưởng cho Chi khu Nam Hòa, sau là Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Nghĩa Quân Nam Hòa, Ðại Ðội Trưởng đại đội ÐPQuân, Chi Khu Phó Nam Hòa. 1966, Phó Trưởng Ty Cảnh sát Ðặc Biệt Ty CSQG/Thừa Thiên (Huế). 1969, Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên (Huế) cho đến đầu tháng Giêng 1975. Tác phẩm: “Biến Ðộng Miền Trung, Những bí mật chưa tiết lộ, giai đoạn 1966-1971”, xuất bản năm 2008.
Có quá nhiều kỷ niệm về Huế trong tôi. Tạ từ Huế đã lâu, lâu lắm rồi... từ dạo quê hương bắt đầu chìm trong thảm họa. Hơn ba mươi ba năm, chưa một lần nào về thăm cảnh cũ người xưa, tìm lại những dấu vết thời gian của một Huế ngày tháng cũ.
Nam Cali, nơi xứ lạ quê người, mùa này cuối năm, buổi sáng trời trở lạnh, sương mù mênh mông, mờ ảo, gợi nhớ những kỷ niệm Huế vào những ngày cuối năm, cũng sương mù dày đặc chắn lối đi, hình ảnh những người đàn bà Huế với chiếc áo dài, khi ẩn, khi hiện trong sương sớm, quẩy đôi thúng cá, nặng trĩu đong đưa trên vai từ Chợ Dinh qua cầu Gia Hội, Chợ Nọ qua cầu Tràng Tiền đến chợ Ðông Ba, hay những gánh cơm hến từ vùng Cồn Hến băng qua Ðập Ðá lên đường Hàng Me, rồi thì nồi bún trâu từ lò trâu Vân Dương lên vùng An Cựu thơm lạ lùng và quyến rũ trong sương sớm. Ai đã là dân Huế mà chưa một lần ăn bún trâu Vân Dương thì quả là một thiếu sót lớn.
Giờ này, thời gian cuối năm cũng đã gần kề. Từ chốn xa xôi biền biệt, chợt thấy nhớ quê hương, nhớ Huế một cách lạ lùng, nhớ da diết... nhớ lại những ngày cận Tết của năm 1968 tại Huế. Từ ngữ Mậu Thân 1968, tất cả đều làm cho người ta nhớ đến Huế. Huế, Mậu Thân, 68, đã vĩnh viễn đi vào lịch sử với nỗi hãi hùng kinh sợ...
Ðã hơn bốn mươi năm trôi qua vậy mà vết thương Mậu Thân như vẫn còn đau đớn trong lòng, cứ mỗi độ Ðông sang, vết thương lại tái phát, lại đau nhức trở lại, nhất là thế hệ chúng tôi, những kẻ suốt nửa cuộc đời tuổi trẻ sống trọn và dâng hiến cho “cầu Tràng tiền sáu vài mười hai nhịp”, cho “sông An cựu nắng đục mưa trong”, cho “tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”, và cho những ngày mưa bụi giăng đầy từ Văn Thánh, Thiên Mụ, xuống Kim Long về Bạch Hổ, qua Hoàng Cung của một thời: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”, mưa bụi mờ nhạt trên dòng sông Hương trôi về Ðập Ðá, Vỹ Dạ, dòng sông âm thầm lặng lẽ, như đời người dân Huế chịu đựng bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu nghịch cảnh của một thời chính chiến, tao loạn.
Và khi đã ở lính, được phép về Huế, bất chợt đi ngang qua trường Ðồng Khánh, ngang bến đò Thừa Phủ vào buổi chiều tan học khi mà “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhìn theo mà lòng ngẩn ngơ buồn.
“Hồn lính vương qua vài sợi tóc
Tôi thương em mà em đâu có hay”
(Thơ Quang Dũng)
Ðó là Huế yêu dấu ngàn đời. Một nửa quãng đời sống và lớn lên tại Huế, tôi bây giờ tháng năm xa cách, thật nhớ khôn nguôi.
Nhớ lại Mậu Thân 1968, sau 22 ngày bị VC chiếm giữ, đến ngày thứ 26 Huế hoàn toàn được cứu thoát khỏi cơn tai biến do chính QLVNCH, xin tạ ơn các anh, người lính VNCH.
Thế nhưng sau tai ương thảm khốc đó, Huế còn lại gì?
Thân thuộc gia đình, bạn xa, bạn gần, hàng xóm láng giềng gần, xa, bao nhiêu mất mát chia lìa, bao nhiêu tống biệt, bao nhiêu ngậm ngùi xót xa, Huế đều nhận lãnh sau ngày đó.
Sau Mậu Thân Huế chẳng còn gì, có còn chăng là những đổ vỡ điêu tàn trong lòng người và trong lòng cố đô Huế.
Việt Cộng tràn vào Huế khuya ngày mồng một rạng ngày mồng hai Tết Mậu Thân, sau 22 ngày tàn sát dân Huế và gây tang tóc, điêu linh, đổ nát cho Huế, bọn chúng bắt đầu chạy trốn khỏi Huế vào khuya ngày 22/2/1968, khi bị QLVNCH tấn công và đẩy bọn chúng ra khỏi Huế, để lại cho Huế những đau thương cùng cực với 5,327 nạn nhân mà chúng đã hạ sát và 1,200 người mất tích không còn dấu vết tìm kiếm.
Huế còn lại điêu tàn đổ nát, thành phố đầy rẫy xác người. Từ đường Lê Lợi, đến đường Nguyễn Huệ, trường Thiên Hựu, vùng Dòng Chúa Cứu Thế kéo về đường Duy Tân, qua đường Lý Thường Kiệt, Trần Cao Vân, khu tòa Ðại Biểu, khu tòa Hành Chánh Tỉnh, bệnh viện Trung ương Huế, khu Bưu Ðiện, Ngân Khố, bị tàn phá nặng nề, đâu đâu cũng thấy xác người, ngay vệ đường, trong lùm cây bụi cỏ, xác người đã sình thối và bắt đầu rữa nát.
Dòng sông An Cựu “nắng đục mưa trong” có 6 cây cầu bắc ngang. Cầu An Cựu nối liền quốc lộ I ra tỉnh Quảng Trị đã bị phá sập hoàn toàn.
Cầu Kho Rèn, cầu Phủ cam, Cầu Bến Ngự, 3 cây cầu này loang lổ vết đạn pháo binh, đã hư hại đến hơn 70%, không thể sử dụng được nữa; duy chỉ còn cầu Nam Giao nối thành phố lên vùng Từ Ðàm Nam Giao, và cầu Ga, nối thành phố lên ga tàu lửa Huế- Ðà Nẵng, Huế-Quảng Trị tương đối còn có thể sử dụng được.
Và cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp ngay giữa lòng thành phố Huế chỉ còn lại năm vài, một đầu vài kia đã chìm xuống dưới dòng sông lạnh...
Cầu Tràng Tiền là một kỷ niệm vui buồn, khó quên. Nó như một phần đời của người Huế. Chiếc cầu đó là một chứng nhân thầm lặng của lịch sử, đã biết bao đổi thay của nhiều triều đại, nhiều thế hệ, của những thăng trầm, những biến động đau thương, mà tổ quốc và dân tộc đã gánh vác còng lưng, và quê hương đã gánh chịu đọa đày, nó không thể gãy vì đó là một hình ảnh một biểu tượng quá sâu trong lòng người Huế, trong lòng những kẻ Huế tha hương, mỗi khi nhắc đến nó, nhớ đến nó lại thổn thức nghẹn ngào, lại nhớ da diết, nhớ cuống quít, muốn tìm về chốn cũ quê xưa, nơi có “Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp”, nơi đó là Huế dấu yêu muôn đời. Có thể nói, Cầu Tràng Tiền, dòng sông Hương, núi Ngự Bình và người Huế cả bốn là một.
Cầu được khởi công xây cất từ Tháng Năm năm 1889, năm Thành Thái thứ 9, và hoàn tất vào Tháng Mười năm 1890, do công ty Eiffel lãnh thầu xây cất với tổn phí 800,000 Fr. Như vậy tính đến nay, năm 2008 cây cầu đã được 119 năm tuổi đời. Vào lúc khánh thành, cây cầu được đặt tên là cầu Thành Thái. Sau bao nhiêu biến đổi thăng trầm của lịch sử và của Huế, cây cầu được đổi tên: Cầu Tràng Tiền. Tràng Tiền, tên thật đơn giản, vì cây cầu được xây tại vùng Phú Xuân, Thuận Hóa, nơi thuở xưa các đời Chúa Nguyễn có xưởng đúc tiền tại đó. Chỉ vậy thôi.
Năm 1946, khi quân đội Pháp tấn công và tái chiếm Huế, Việt Minh rút khỏi thành phố, trong kế hoạch “Tiêu thổ kháng chiến” bọn chúng đã giựt sập một vài cầu Tràng Tiền. Năm Mậu Thân 1968, lần thứ hai, cây cầu lại bị bọn chúng giựt sập.
Vì thế mà Huế trong những ngày tháng tạm yên bình không tiếng súng, đã có những câu hò đối, đáp, vang vọng trên dòng sông Hương vào những đêm khuya trăng sáng trải dài từ Linh Mụ xuống cầu Bạch Hổ đến Hoàng Cung, qua cầu Tràng Tiền xuôi về Ðập Ðá, ngang qua Vỹ Dạ đến tận thôn Thọ Lộc, tiếng hò nghe như một lời oán trách, não nuột, buồn lạ lùng.
Câu hò đối đi:
“Cầu Tràng Tiền bấy nhiêu năm qua lại
Kể từ đời Thành Thái đến nay
Chạnh lòng biết mấy ai ơi
Việc chi nên nỗi dang tay giựt cầu.”
Câu hò đáp lại:
“Lắm chuyện ly kỳ hỏi làm chi cho tối dạ
Nhịp cầu nghiêng ngả chưa lạ anh ơi
Ðiện Cần Chánh họ đút họ chơi
Khói bay nghi ngút tạn Trời anh thấy không.”
(Cụ Ưng Bình Thúc Dạ)
Khu Quận 2, trung tâm thương mại Huế lại càng điêu tàn và tang thương hơn. Dãy phố nối dài từ bến xe Nguyễn Hoàng xuống đến đường Trần Hưng Ðạo, qua đường Phan Bội Châu, đường Hàng Bè, đến khu Gia Hội đường Chi Lăng, khu Trung Bộ, đường Bạch Ðằng, đến tận trường trung học Gia Hội, qua khu Bãi Dâu, nhiều cửa tiệm đã sập đổ, nhiều cửa hàng có đến hằng ngàn vết đạn, và đầy những xác người và những mồ chôn tập thể.
Trở vào quận I thành nội Huế, nơi đây trong 22 ngày trận chiến nặng nề nhất, cộng quân đã bị Quân lực VNCH vây chặt, bọn chúng không còn đường rút lui nên cố phá vòng vây của TQLC Việt Nam Cộng Hòa, Nhảy Dù, Sư Ðoàn I BB. Trận chiến cam go và ác liệt, kéo dài nhiều ngày.
Thành nội Huế với những cửa thành: Thượng Tứ, Chánh Tây, Ðông Ba, Cửa Trài, khu Kỳ Ðài tất cả đều bị tàn phá, sụp đổ nặng nề, có nơi không còn viên gạch nào chồng lên viên nào.
Khu vực Tây Linh, Tây Lộc, đường Hòa Bình, Ðinh Bộ Lĩnh cửa Thượng Tứ, cửa Ðông Ba tất cả điêu tàn sụp đổ, xác người đã sinh thối.
Tang thương và đau đớn nhất là khu vực Ðại Nội, Tử Cấm Thành, một di tích lịch sử của triều đại nhà Nguyễn đã bị phá hủy nặng nề.
Ðã hơn 150 năm trước, trong triều đại Vua Minh Mạng Bà Huyện Thanh Quang hoài vọng nhà Lê đã viết trong bài 'Thăng Long hoài cổ':
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.”
Thì năm 1968 cố đô Huế, Ðại Nội, Tử Cấm Thành còn điêu tàn khủng khiếp, rùng rợn hơn Thăng Long ngày xưa ngàn lần.
Và trong những ngày kinh hoàng cơ cực của năm Mậu Thân 1968, dân chúng Huế đã tỵ nạn trên chính ngay thành phố Huế, nơi chôn nhau cắt rốn của họ.
Tất cả các trường Quốc Học, Ðồng Khánh, Kiểu Mẫu, Lê Lợi, Thiên Hựu, Thượng Tứ, Hàm Nghi, Dòng Chúa Cứu Thế, nhà thờ Phủ Cam đã là những trại tỵ nạn. Hằng ngàn người cho mỗi nơi.
Ðàn bà, trẻ thơ, ông già, bà lão, họ kinh hoàng, thất thần, đói khát, ôm nhau để cùng chết, cùng sống trong những giờ phút bi thương đó, khổ nạn đã vút tận trời xanh, cùng cực đã xuống tận đáy sâu, kể sao cho hết, viết sao cho cùng. Ôi! Huế đau thương, Huế đọa đày. Huế địa ngục trần gian có thật của năm Mậu Thân 1968.
Rồi những ngày tháng kế tiếp, Huế trong cảnh điêu tàn còn phải gánh chịu thêm tang tóc chia lìa. Có thể nói hầu như không có gia đình nào không có thân nhân bị VC sát hại hoặc bắt đi, vợ mất chồng, con mất cha, anh em mất nhau, bạn gần, bạn xa, hàng xóm láng giềng vắng bóng. Huế đã sống trong nỗi hy vọng mong manh, và niềm đớn đau tuyệt vọng tận cùng. Mọi người đã sống trong khắc khoải chờ đợi người thân trở về, và trong nghẹn ngào, đớn đau, xót xa khi đã tìm ra thân xác của thân nhân nằm chết co quắp bên vệ đường Lê Lợi, Duy Tân, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Ðạo Chi Lăng Nhà Bè, Ðinh Bộ Lĩnh, Hòa Bình, Ngã tư Anh Danh, Miếu Âm Hồn, chết tức tưởi trong lùm cây bụi bỏ, dưới hố sâu hầm cạn, tại trường Trung học Gia Hội, Bãi Dâu, tại cửa Ðông Ba, Thượng Tứ Nhà Ðồ, bên bờ khe vực thẳm, dọc theo Khe Ðá Mài, Khe Trái, Khe Lụ, tại vùng Lăng Xá Bàu, Lăng xá Cồn v.v...
Và như ông Tú Trần Tế Xương đã nói: “Bừng con mắt dậy, ngỡ mình chiêm bao”.
Quả đúng, buổi sáng thức giấc, chợt thấy thành phố Huế phủ một màu tang trắng: Hằng đoàn người khăn tang áo chế, theo sau hằng trăm cỗ quan tài, u buồn, chậm bước dọc cầu Tràng Tiền theo đường Lê Lợi lên nghĩa trang Ba Ðồn cạnh đàn Nam Giao, nơi mồ chôn tập thể của hàng ngàn nạn nhân vô tội bị bọn quỷ dữ Việt Cộng tàn sát.
Còn gì đau thương hơn hỡi trời, hỡi đất, hỡi sông Hương núi Ngự, hỡi Cung miếu triều xưa, hỡi hồn thiêng sống núi, hỡi anh linh tiền nhân sao nỡ đọa dày dân tộc đến tận cùng khổ đau.
Có thể là một nghiệp báo chăng? Có thể ngày xưa trên đường Nam tiến mở mang bờ cõi, các vị Tiên Ðế đã quá mạnh tay với dân tộc khác để ngày nay con cháu phải trả món nợ oan khiên này?
Huế trong tình trạng gạo thiếu, nhu yếu phẩm thiếu, điện thiếu, nước thiếu, dân Huế đang quằn quại, cơ cực trong các trại tỵ nạn. Xác người sình thối trong thành phố, và hầu như trong các trại tỵ nạn không nơi nào có nhà vệ sinh cho đồng bào, họ phải tùy cơ ứng biến vì thế không một trại ty nạn nào không tỏa mùi hôi thứ đó.
Nguy cơ những cơn bệnh truyền nhiễm có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Những ngày này thời tiết lại quá xấu, bầu trời thật thấp, phủ một màu xám, từng cơn mưa phùn trải dài qua thành phố, ngày này sang ngày khác, lạnh cắt da. Ông già, bà lão, trẻ thơ, run rẩy trong chiếc áo mong manh, họ đang bị đói và lạnh trong các trại tỵ nạn.
Huế trong đổ nát điêu tàn, trong đau thương quằn quại. Huế nằm bất động như người bệnh bán thân bất toại, tưởng chừng như không bao giờ gượng dậy nổi.
Một số ít người Huế đã nói: “Huế chỉ để mà nhớ, chứ không để mà ở”, và họ đã bỏ Huế ra đi...
***
Thế nhưng, có một người, mặc dầu thân sinh là người Bắc, nhưng ông ta lại được sinh ra tại Huế, lớn lên tại Huế, rời khỏi Huế từ độ quê hương chìm đắm trong binh lửa. Nhưng mỗi khi Huế gặp nạn, dân Huế gặp nạn, ông lại trở về Huế với tấm chân tình và lòng thiết tha cứu Huế và giúp đồng bào Huế.
Sáng hôm nay, ngồi viết những dòng chữ về ông mà lòng tôi không nén nổi xúc động. Tưởng nhớ đến ông, một người anh cả trong lực lựợng CSQG, không những tôi mà còn một số lớn anh em đồng đội trong lực lượng CSQG muôn đời thương tiếc và kính trọng ông.
Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Bây giờ ông đã đi khuất, không còn trong cuộc đời phiền muộn này nữa, nhưng Ông đã để lại tiếng tốt muôn đời, để lại sự kính trọng, và lòng biết ơn của rất nhiều người dân Huế.
Ông chính là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Lực Lượng CSQG (1966- Tháng Năm 1968).
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 1 Tháng Hai 1930 tại Huế, tốt nghiệp khóa 1 trường Võ bị Thủ Ðức.
- 1953 Thiếu Tướng Loan thụ huấn khóa phi công tại trường Không quân Salon de Provencce tại Pháp, tốt nghiệp với bằng Kỹ Sư Hàng Không. Ông là một trong những phi công lái khu trục cơ đầu tiên của VNCH.
- 1960 ông giữ chức vụ CHT Phi đoàn 2 Quan sát tại Nha Trang.
- 1964, vinh thăng Ðại Tá, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH.
Ngày 11 Tháng Hai 1965, Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã dẫn đầu những phi đoàn A1 Skyraider vượt vỹ tuyến 17 oanh tạc miền Bắc Việt Nam trong chiến dịch Mũi Tên Lửa (Flamming Dart).
Chưa bao giờ trong cuộc chiến đầy bi thảm của quê hương mà lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu chống Cộng Sản của dân quân Trị Thiên lại lên cao như vậy. Dân chúng, học sinh, sinh viên Huế đã tổ chức biểu tình lớn để hoan hô, vinh danh những người hùng Không Lực VNCH, những Kinh Kha của thời đại, đã vượt sông Gianh xông vào đất địch. Những tên tuổi như Nguyễn Ngọc Loan, Phạm Phú Quốc... một thời đã được đồng bào trân trọng vinh danh.
Tôi bấy giờ chỉ là viên sĩ quan trẻ, cấp Thiếu úy, được biết tên ông từ dạo đó.
Sau cuộc hành quân Mũi Tên Lửa 11 Tháng Hai 1965, Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm về làm Tổng Giám Ðốc CSQG, Giám Ðốc Nha An Ninh Quân Ðội, Giám Ðốc Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo.
Tháng Ba 1966 miền Trung Huế dậy sóng, biến động lớn xẩy ra vì tham vọng điên cuồng, bất chấp vận mệnh quốc gia- dân tộc say mê quyền lực của những kẻ đội lốt tu hành, cam tâm làm tay sai cho CSVN đã ngỡ mình là “anh hùng cái thế”, liên tiếp khống chế, gây bất ổn chính trị cho đất nước.
Với sự nhượng bộ của Mỹ, liên tục thay đổi điều hành các “triều đại”, để dần thiết lập quyền lực đen qua các cuộc biểu tình, xuống đường của các Phật tử tranh đấu. Từ triều đại Dương Văn Minh, đến Nguyễn Khánh, qua triều đại Khánh-Minh-Khiêm, đến triều đại Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, cho đến thời gian đầu của chính quyền Tướng Thiệu-Kỳ, tất cả đều bị thao túng, sắp đặt nhân sự.
Ðến khi tình hình vượt quá sự chịu đựng của chính quyền Johnson, và đất nước Việt Nam Cộng Hòa trên bờ vực thẳm để cho CSVN thôn tính, các Tướng lãnh phẫn nộ thì Henry Cabot Logde không thể nào nghe lời và chiều chuộng bọn name vùng ngông cuồng được nữa. Bị phía Mỹ từ chối không ủng hộ, từ Saigòn, chúng bay ra Huế cùng đám cán bộ Cộng Sản nằm vùng quá lâu trong Phật giáo như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Ðắc Xuân, Phan Duy Nhân, Hoàng Phủ Ngọc Phan v.v... và được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam qua tên Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan, bọn chúng mưu đồ muốn biến miền Trung thành một vùng trái độn, và âm mưu biến Kinh đô Huế ngày xưa sẽ là thủ đô của đám MTGP Miền Nam.
Cuộc biến động xẩy ra từ Tháng Ba 1966, và kéo dài trong 100 ngày. Tình hình rối loạn từng giờ, từng ngày, công sở của chính quyền bị đám phản loạn chiếm giữ, cơ sở Ngoại giao đoàn bị đốt phá, Quân đội, Công chức, Cảnh sát, ngã theo đám tranh đấu. Thành phố không còn Chính quyền, không còn luật pháp quốc gia, đám tranh đấu muốn vu khống, muốn đánh đập, muốn bắt bớ ai tùy thích. Dân chúng Huế kinh hoàng hỗn loạn, đời sống mỗi ngày mỗi cơ cực, họ sống trong niềm tuyệt vọng, buồn thảm nhìn tương lai vô định...
Chính phủ Trung Ương đã liên tục cử ra miền Trung bốn vị tướng lãnh với chức Tư Lệnh Quân Ðoàn để ổn định tình hình miền Trung, nhưng tình hình vẫn mỗi ngày mỗi rối loạn thêm, họ bất lực bó tay. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi phải ngã theo đám phản loạn, chống lại chính phủ Trung ương; đến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, rồi đến Trung Tướng Tôn Thất Ðính, ông này hoảng sợ phong trào tranh đấu phải chạy trốn vào BTL/Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng xin tỵ nạn, rồi đến Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao. Thiếu Tướng Cao đã bị viên Trung úy Sư Ðoàn I BB ly khai Nguyễn Ðại Thức bắn, cũng may ông không bị trúng đạn và cuối cùng Thiếu Tướng Cao cũng vào xin tỵ nạn tại BTL/TQLC Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng.
Với một tình hình rối loạn và hầu như tuyệt vọng tại miền Trung như vậy, bốn Tướng đã bỏ chạy, Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Ðốc CSQG được Chính phủ giao trọng trách ổn định và tái lập an ninh trật tự tại miền Trung, đặc biệt là Ðà Nẵng và Thừa Thiên Huế.
Theo Ðại Tá Trần Minh Công, Viện Trưởng Học Viện CSQG/ VNCH, (vào thời điểm đó Ðại Tá Công là một sĩ quan trẻ của LL/CSQG cùng đi với Ðại Tá Loan ra Ðà Nẵng) thì lực lượng của BCH/hành quân dẹp loạn của Ðại Tá Loan gồm có Chiến Ðoàn TQLC/VNCH, được tăng phái thêm một tiểu đoàn Nhảy Dù/VNCH, lực lượng hành quân được không vận ra Ðà Nẵng đã phải ở trong phi trường mất hai ngày mà không thể tung quân ra được vì Ðại Tá Loan muốn tránh một cuộc đổ máu xẩy ra, bởi lẽ Trung đoàn 51 BB/VNCH ly khai đang bố trí và sẵn sàng tấn công lực lượng của Ðại Tá Loan. Ðấy là chưa nói đến bên cạnh Trung Ðoàn 51 BB ly khai còn có tiểu đoàn 11/BÐQ của Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu cũng đã hợp tác với lực lượng tranh đấu tại Ðà Nẵng.
Thiếu Tướng KQ Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, đã bay ra Ðà Nẵng họp cùng Ðại Tá Loan. Thiếu Tướng Kỳ có ý định cho chiến đấu cơ của Không Quân VNCH cất cánh nhắm vào BCH của Trung đoàn 51 BB ly khai, chỉ mục đích cảnh cáo, nhưng gặp ngay phản ứng về phía Chính Phủ Hoa Kỳ, qua Tư lệnh lực lượng TQLC/Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng, Trung Tướng Waltz, đã gởi một thông điệp cho Thiếu Tướng Kỳ:
- Nếu chiến đấu cơ của Không quân VNCH cất cánh, ông ta sẽ cho chiến đấu cơ Hoa Kỳ cất cánh ngăn chận, bắn hạ ngay.
Ðược hỏi lý do tại sao? Theo ông Trần Minh Công thì Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan cho rằng có lẽ Hoa Kỳ đã buộc Chính phủ VNCH phải chấp nhận một số điều kiện nào đó của họ thì họ mới chịu để yên cho Chính phủ VNCH ra tay dẹp đám phản loạn; và câu kết luận chua xót của ông Trần Minh Công: “Thật tình không hiểu nổi, đây là loại Ðồng Minh kiểu gì”.
Cũng theo ông Trần Minh Công, lúc bấy giờ tình hình tại Ðà Nẵng rất căng thẳng, nguy hiểm, và đầy bất trắc. Có thể đánh nhau lớn trong thành phố Ðà Nẵng giữa lực lượng hành quân dẹp loạn của Ðại Tá Loan gồm TQLC, Nhảy Dù VNCH, và quân đội ly khai gồm có Trung Ðoàn 51 BB, Tiểu Ðoàn 11/BÐQ của Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu, cùng với đám tranh đấu ô hợp nhưng sắt máu, cuồng tín, mà đại đa số là cơ sở Việt Cộng thuộc 2 Ðại Ðội SV Phật Tử Quyết Tử do chính SV Nguyễn Ðắc Xuân chỉ huy, từ Huế vào Ðà Nẵng tăng cường cho lực lượng tranh đấu tại chùa Tỉnh hội Ðà Nẵng, bọn chúng đã được trang bị vũ khí.
Ðể tránh đổ máu giữa phe mình đánh phe ta, Ðại Tá Loan đã dùng những người bạn thân của Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu bí mật tiếp xúc và chiêu dụ đại úy Dzu trở về với chính phủ. BÐQ là một trong những binh chủng thiện chiến nhất của QLVNCH, Tiểu đoàn BÐQ của Ðại úy Dzu lại đang chiếm giữ thành phố Ðà Nẵng, không chiêu dụ được tiểu đoàn này thì đại họa sẽ xẩy ra. Người phụ trách công tác chiêu dụ Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu là Ðại Úy Nguyễn Tự Cường.
Ðại úy Nguyễn Tự Cường xuất thân Khóa 7 Võ bị Ðà Lạt, ông là chuyên viên tình báo phụ trách tình báo hải ngoại vùng Bắc Lào. Sau đảo chánh 1963, ông bị bắt giữ và giam tại Cục An Ninh Quân Ðội. Theo lời ông kể lại với tôi:
- Sau đảo chánh 1963, anh bị bắt vì là người của Cậu Cẩn. Tù một năm được thả ra, đói quá, mấy thằng Mỹ trả tiền và xúi dại anh tham gia đảo chánh, chỉnh lý lung tung, lại bị An Ninh Quân đội bắt lại, lần này bị giam gần 2 năm. Ðang ở tù thì bỗng cửa tù mở ra, được dẫn đi trình diện ông “Sáu Lèo”, anh đâu biết Sáu Lèo là ai, hỏi viên Sĩ quan đi theo thì mới biết là Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan Cục Trưởng Cục ANQÐ. Và cuộc gặp mặt với anh Sáu Lèo xẩy ra như sau:
- Ð... Cụ anh, làm cái gì mà tham gia đảo chánh lung tung để phải ngồi tù.
- Thưa Ðại Tá, em làm gì đâu: Sau đảo chánh 1963, em bị bắt vì tội người của Ông Cậu. Một năm sau được thả ra, đói quá tham gia chỉnh lý kiếm tí tiền còm.
- Mày quen Nguyễn Thừa Dzu không?
- Bạn thân.
- Nó theo đám tranh đấu, Tiểu đoàn 11/BÐQ của nó đang chiếm thị xã Ðà Nẵng. Mày ra Ðà Nẵng dụ nó trở về, được không?
- Em làm được.
- Làm được, cho làm lớn, còn không thì về lại Cục ở tù tiếp.
- Trình Ðại Tá, làm được nhưng phải có điều kiện.
- Ðiều kiện gì?
- Trước khi đi Ðà Nẵng, Ðại Tá phải cho em truy lãnh 3 năm lương. “Có thực mới vực được đạo”. Bạch hóa hồ sơ, không ghi vào quân bạ. Ðại tá làm được hai chuyện đó thì em đi Ðà Nẵng dụ thằng Dzu. Còn không em vào tù tiếp, không đi.
- Ðược.
Ðại úy Cường đã gặp Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu, và kết quả là Ðại úy Dzu rút Tiểu Ðoàn 11/BÐQ ra khỏi thành phố Ðà Nẵng, tránh được cuộc đổ máu không cần thiết.
Ðại úy Nguyễn Tự Cường ngay sau đó đã được Ðại tá Loan bổ nhiệm làm Trưởng ty An Ninh Quân đội thị xã Ðà Nẵng (1966-1975). Ông và Ðại tá Loan tính tình có nhiều điểm hợp nhau.
Trung Tá Nguyễn Tự Cường cũng đã theo Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, đi vào miền vĩnh cửu vào Tháng Mười Hai 2007 tại Nam Cali.
Phần Ðại úy Nguyễn Thừa Dzu, ông theo Ðại Tá Loan dẹp xong vụ biến động miền Trung, về Sàigòn và được Ðại tá Loan bổ nhiệm đi làm Trưởng Ty CSQG một trong những quận tại Chợ Lớn.
Tuy vậy, súng đã nổ và đã có người chết. Khi ông Trần Minh Công tiến quân vào Chùa Tỉnh Hội Ðà Nẵng, ông đã phát giác có mười mấy xác chết đã sình thối trong nhà kho của chùa, và chính ông cùng nhân viên thuộc quyền đã vác những thi hài sình thối này ra xe đem chôn.
Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã ổn định được tình hình tại Thị xã Ðà Nẵng, ông rời Ðà nẵng ra Huế tiếp tục nhiệm vụ nặng nề đầy hiểm nguy là dẹp loạn tại Huế mà chính phủ đã giao trọng trách này cho ông. Người tiếp tục ổn định tình hình an ninh trật tự tại Ðà Nẵng là Quận Trưởng Cảnh sát Trần Minh Công, tân Trưởng Ty CSQG thị xã Ðà Nẵng, người mà Ðại Tá Loan tin cậy vào tài năng và lòng dũng cảm.
Quận Trưởng Cảnh Sát Trần Minh Công không phụ lòng của Ðại Tá Loan, ông ta đã hoàn tất nhiệm vụ Ðại Tá Loan giao phó cho ông. Ðó là một nhiệm vụ nặng nề, tiếp tục ổn định tình hình rối loạn. Chỉ một năm sau, tình hình Ðà Nẵng đã hoàn toàn ổn định. Ðại Tá Loan lại thuyên chuyển ông vào SàiGòn giữ chức vụ Trưởng Ty CSQG Quận II Thủ đô Sàigòn, để rồi Mậu Thân 1968, trong 2 đợt tổng công kích của VC vào Sàigòn, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và Quận Trưởng Trần Minh Công lại sát cánh cùng nhau tung lực lượng CSQG phản công ngăn chận 2 đợt tấn công của VC vào Sàigòn ngay những giờ phút đầu tiên.
***
Tôi trở lại vụ Tướng Loan dẹp loạn miền Trung:
Ngày 8 tháng Sáu 1966 Biệt Ðoàn 222 Cảnh sát Dã chiến thuộc BTL/CSQG do Trung tá Phạm Huy Sảnh chỉ huy đổ quân chiếm ty CSQG Thị xã Huế.
Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan và bộ tham mưu hành quân dẹp loạn đến Huế , ngày 9 Tháng Sáu 1966. Lực lượng hành quân chiếm lại Tòa Hành Chánh của Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, Ðại Tá Loan đặt BCH hành quân tại đó. Tôi trình diện Ðại Tá Loan, nhận công tác. Ðó là lần đầu tiên tôi gặp ông.
Huế lúc bấy giờ hoàn toàn nằm trong bọn tay sai của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, qua tên Trung Tá điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành ủy Huế, bọn này định biến Huế thành vùng trái độn. Chiến trường Huế đã mở, mặt trận Trị-Thiên-Huế vừa chính trị vừa quân sự sẽ cam go, nguy hiểm và đầy bất trắc đang chờ đợi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan nhảy vào thử lửa.
Dọc dãy Trường Sơn, cạnh sườn Thừa Thiên-Huế, lực lượng quân sự của Hà Nội, Sư Ðoàn 324B thuộc Quân Khu Trị Thiên đang ém quân chờ đợi biến cố lớn xẩy ra tại thành phố Huế là xua đại quân bôn tập tấn công và chiếm Huế. Nếu Ðại tá Nguyễn Ngọc Loan không kịp thời cứu Huế, có lẽ Huế đã mất vào tay Cộng sản mà không cần phải đợi đến Mậu Thân 1968.
Tại thành phố Huế, Sư Ðoàn I/BB là một trong những đơn vị tinh nhuệ nhất của QLVNCH hiện đang dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Có thể nói một số lớn các đơn vị của Sư Ðoàn này cùng với Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, đã ly khai với chính phủ trung ương, phục vụ cho mưu đồ đen tối và mộng tranh bá đồ vương của bọn tay sai CSVN đang chờ đợi Ðại Tá Loan.
Cái gọi là lực lượng tranh đấu lúc ấy có 4 đại đội Sinh viên Quyết Tử do tên Nguyễn Ðắc Xuân SV Sư phạm Hán Việt chỉ huy. Bốn đại đội này đã được Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đưa vào TTHL/Văn Thánh của Sư Ðoàn I/BB huấn luyện quân sự, và trang bị vũ khí. Bọn chúng phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội ly khai, cũng đang chờ đợi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan.
Và các liên đoàn Công chức Phật Tử, giáo chức Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử của các chợ Ðông Ba, Bến Ngự, An Cựu cũng đang chờ đợi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan, lực lượng này khoảng vài chục ngàn người. Hai phong trào quần chúng đấu tranh do tên Trung tá Ðiệp viên Hoàng Kim Loan thành lập cũng đang chờ đợi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan đó là:
- Phong trào Sinh Viên Tranh Thủ Hòa Bình do sinh viên Y Khoa Ðại học Huế Tôn Thất Kỳ chỉ huy.
- Phong trào SV Tranh thủ Dân Chủ do sinh Luật Khoa Nguyễn Hữu Giao chỉ huy.
Ðau lòng và nghiệt ngã nhất là những thằng con bất hiếu của Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan cũng đã nghe lời quyến rũ của tay sai Hoàng Kim Loan quay lại chống ông. Ðó là Lực Lượng CSQG Phật Tử thuộc Ty Cảnh Sát quốc Gia Thừa Thiên và Thị xã Huế, lực lượng này gồm khoảng trên 5 ngàn Sĩ quan và Cảnh Sát viên.
Con phản lại cha, theo giặc, làm loạn, thật bất hạnh cho Ðại Tá Loan và lực lượng CSQG/ VNCH.
Và cuối cùng viên Tư Lệnh của Phong trào tranh đấu đang chờ đợi Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan trong trận thư hùng một còn một mất này là Ðiệp viên của Hà Nội Trung Tá Hoàng Kim Loan.
Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan, một anh hùng hào kiệt của binh chủng Không quân VNCH, một hiệp sĩ Kinh Kha của thời đại, đã vượt sông Gianh Bắc phạt, trong chiến dịch “Mũi Tên Lửa”, giờ đây Tháng Sáu 1966, Kinh Kha đang trực diện với chiến trường cay nghiệt. Ông sẽ nhảy vào chiến trường này, chỉ huy trận đánh này, trận đánh sẽ còn cam go hơn khi dẫn đầu Phi Ðoàn Không Quân VNCH lao mình vào đất giặc.
Hoàng Kim Loan đã sử dụng niềm tin tôn giáo của 80% dân chúng Huế để gài Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan vào chiếc bẫy sập này, và nỗi khó khăn của ông là một số lớn dân chúng Huế lúc bấy giờ đã vì cuồng tín nghe theo lời mấy ông sư VC nằm vùng, không phân biệt được lý lẽ đúng sai.
Ðau lòng thay, Ðấng từ bi cũng đã bị hai tên này lợi dụng, làm bẫy sập ngăn chận Ðại Tá Loan:
Bàn thờ Phật đã xuống đường.
Thắng trận đánh này chưa hẳn là một vinh quang, nhưng bại trận đánh này là một báo hiệu đầu hàng sớm hơn ngày 30 Tháng Tư 1975 của dân chúng miền Nam Việt Nam, của Chính phủ VNCH trước sự xâm lăng của Cộng Sản Hà Nội, và chính ngay bản thân ông, Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan, đời binh nghiệp của ông sẽ giống như số phận của 5 tướng Thi, Nhuận, Chuân, Ðính, Cao.
Thế nhưng, thật không hổ danh anh “Sáu Lèo”, Ðại tá Loan đến Huế trực diện với một lực lượng phản loạn to lớn và hùng hậu như vậy. Ông thật can đảm, bình tĩnh nhảy vào chiến trường khắc nghiệt và cam go này, tung những đòn phản công lúc hư, lúc thực, y như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung nghiêng ngả thân người tung Tửu quyền chế ngự địch thủ.
Và ông đã chế ngự được, dẹp tan đám phản loạn:
- Không có đổ máu xảy ra.
- Thu hồi Sư Ðoàn I/BB lại cho quân lực. Giao Sư Ðoàn I/BB cho Ðại Tá Ngô Quang Trưởng Tham Mưu trưởng Sư Ðoàn Nhảy Dù VNCH chỉ huy và chỉnh đốn lại.
- Thâu hồi lại Huế cho chính Phủ Trung Ương từ tay sai của CSVN, mà trực tiếp là Trung tá Ðiệp viên Hà Nội Hoàng Kim Loan.
- Bắt giữ Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận.
- Bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi.
- Và khoảng trên một ngàn các thành phần tranh đấu chủ chốt, vừa dân sự và quân sự bị bắt đem vào Cục ANQÐ và BTL/CSQG xét sử.
- Thanh lý môn hộ và tái tổ chức gia đình CSQG tại BCH/CSQG Thừa Thiên Huế. Ðiều quan trọng nhất là đem lại bình yên và ổn định cho đời sống đồng bào Thừa Thiên-Huế.
Bốn vị tướng lãnh đã chào thua với tình hình rối loạn, bỏ mặc dân chúng Huế sống trong cảnh kinh hoàng, lo sợ trong sự áp bức, khủng bố của đám Vệ binh đỏ Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, những phần tử tay sai thân cận của Hoàng Kim Loan, những cơ sở nội thành nòng cốt của Thành ủy viên Việt Cộng Hoàng Kim Loan. Huế vô chính phủ, không còn luật pháp quốc gia, mà chỉ có luật rừng của đám giặc cỏ này. Ðại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh CSQG, đã giải thoát đồng bào Huế khỏi cơn tai ương của đám giặc cỏ, tái lập lại luật pháp quốc gia, trật tự an ninh công cộng.
Ngày tôi đưa ông và BTM/Hành quân của ông xuống phi trường Phú Bài về lại Sàigòn, tôi còn nhớ ông dặn tôi:
- Mày cẩn thận lo giữ mình, bọn nó không tha mày đâu.
Tôi trả lời ông:
- Dạ.
Ông nói tiếp :
- Bọn họ nói Ðại Tá và em là hai tên “Phản đạo” lật đổ bàn thờ Phật. Mày có buồn vì câu nói đó không?
- Không. Ðại Tá.
- Mình làm đúng, vì đó là bổn phận và trách nhiệm của mình. Ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì.
Sau này, trong chín năm chịu trách nhiệm an ninh, tình báo, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, mỗi khi có biến động lớn xẩy ra tại Huế, buộc phải có những quyết định và hành động cứng rắn với những thành phần, những phong trào phá rối tạo nguy cơ cho Huế và cho đồng bào Huế, tôi vẫn thường nhớ đến câu nói của Ðại Tá Loan, như một lời nhắn nhủ của ông đối với tôi: “Mình phải hành động vì đó là bổn phận và trách nhiệm của mình. Ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì ”.
Trở lại hai đợt “Tổng công kích, Tổng nổi dậy”, đợt I vào Tết Mậu Thân 1968, và đợt II vào Tháng Năm 1968 của lực lượng Việt Cộng vào Thủ đô Sàigòn và Huế cùng với hầu hết các đô thị lớn của Chính phủ VNCH gồm 36 tỉnh, trong số 44 tỉnh lỵ và 6 thành phố lớn của miền Nam Việt Nam.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư lệnh CSQG/ VNCH, ông đã làm gì để bảo vệ Thủ đô Sàigòn và đã làm gì để giúp đỡ đồng bào Huế đang trong cảnh khốn cùng, trong nỗi tuyệt vọng lớn lao, trong đau thương tang tóc, và Huế trong điêu tàn đổ nát, để rồi đến đợt II tổng công kích, tổng khởi nghĩa của bọn chúng vào thành phố Sàigòn, Thiếu Tướng Loan Ông đã làm gì để bảo vệ Thủ Ðô VNCH, để bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào tại Sàigòn, Chợ Lớn và để rồi ông phải nhận lãnh một định mệnh đau thương và khắc nghiệt cho đời ông và cho gia đình ông.
Tôi không thể nói gì và viết gì về Thiếu Tướng Loan trong thời gian VC tấn công Sàigòn, vì thời gian đó tôi đang ở Huế, đang cùng với các chiến sĩ anh hùng của QLVNCH và CSQG Thừa Thiên-Huế phản công các đợt tấn công của VC. Nhưng tôi vẫn có thể viết rõ đại thể về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đối với vụ VC tấn công tại Sàigòn như thế nào vào kỳ Tết Mậu Thân:
Phần đầu, tôi xin mượn lời của Tiến sĩ Luật Khoa Thẩm Phán, Trần An Bài, sau này là Giảng sư của Học Viện CSQG/Việt Nam Cộng Hòa, và của Ðại Tá Trần Minh Công Viện Trưởng Học Viện CSQG/VNCH mà trước đó, Mậu Thân 1968, ông là Chỉ huy trưởng CSQG/Quận II, Thủ Ðô Sàigon, và trong những giờ phút đầu VC tấn công Sàigòn, ông đã sát cánh với Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan tung lực lượng CSQG và đích thân chỉ huy ngăn chận các đợt tấn công của VC. Ðêm 30 rạng ngày 31 Tháng Giêng năm 1968 Dương lịch, tức đêm mồng một rạng ngày 2 Tết, Thủ đô Sàigòn bị VC tấn công tại một số địa điểm như:
Phi trường Tân Sơn Nhất, BTTM/QLVNCH, đài phát thanh Sàigòn, Tòa Ðại sứ Mỹ, Dinh Ðộc Lập phía đường Nguyễn Du, BTL/Hải Quân. Thật sự thì Ðài phát thanh Sàigòn đã bị VC chiếm giữ một thời gian rất ngắn, nhưng ngay tức thời Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân điều động lực lượng CSQG và cùng với đơn vị quân đội, ông đã chiếm lại đài phát thanh Sàigòn, không để một cho bọn chúng có một cơ hội nào phát đi bất kỳ một lời tuyên truyền nào của bọn chúng.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan hành xử Luật Pháp Quốc Gia:
- Sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đang chỉ huy trận đánh khốc liệt tại khu vực Chợ Lớn, đường Sư Vạn Hạnh, thì một Sĩ Quan thuộc Chiến Ðoàn TQLC/VNCH giải giao đến Thiếu Tướng Loan tên Ðại Úy Vc Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp mà Chiến đoàn TQLC vừa bắt được.
Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp chỉ huy đơn vị đặc công, trước đó vài giờ đã giết hết gia đình của một Sĩ Quan CSQG gồm vợ, con và thân nhân của vị Sĩ Quan này. Sau đó y chỉ huy tấn công và kiểm soát trại Phù Ðổng của binh chủng Thiết Giáp, Bảy Lốp bắt giữ gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn, dùng vợ con của Trung tá Tuấn áp lực và bắt Trung Tá Tuấn chỉ dẫn cách sử dụng xe tăng còn lại trong trại, Trung Tá Nguyễn Tuấn từ chối, Bảy Lốp đã giết chết toàn gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn, gồm cả bà mẹ già của Trung Tá Tuấn đã 80 tuổi, chỉ có một bé trai bị thương nặng và sau đó đã được cứu sống.
Trước đó, y là thủ phạm đã giết chết 34 thường dân vô tội và là tác giả của mồ chôn tập thể 34 đồng bào này. Y còn khai y rất hãnh diện về thành tích này....
Nhân chứng Nguyễn Trường Toại một thường dân đã kể lại rằng: “Tôi biết hắn đã làm những gì trong cuộc chạm súng với QLVNCH, hắn sử dụng trẻ em làm lá chắn, đẩy trẻ thơ vô tội làm bia đỡ đạn, QLVNCH không thể nổ súng, để cho đồng đội hắn tẩu thoát”.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã được báo cáo đầy đủ về tội trạng và hành động man rợ của tên VC này, và khi nhìn những xác chết của trẻ thơ vô tội, ông đã hỏi: “Tại sao, chuyện gì vậy”, khi được biết tại sao và ai là hung thủ, phải chịu trách nhiệm, Thiếu Tướng Loan đã nổ súng, hạ sát tên thủ phạm Ðại úy Ðặc công Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp.
Bám sát theo theo BCH hành quân của Thiếu Tướng Loan lúc đó là đám ký giả chiến trường ngoại quốc, trong đó có nhiếp ảnh gia Eddie Adams của hãng thông tấn AP, và phóng viên quay phim cho hãng tin NBC người Việt Nam là ông Võ Sửu.
Tất cả diễn biến về việc Thiếu Tướng Loan xử bắn tên đặc công Bảy Lốp đã được Võ Sửu và Eddie Adams thâu hết vào ống kính, Tướng Loan thấy rõ việc này, nếu muốn, ông có thể ra lệnh tịch thu hết các các cuốn phim, nhưng không, ông không làm như vậy, và ông đã nói với Eddie Adams cùng các ký giả ngoại quốc cũng như ông Võ Sửu lúc đó:
- Tên VC này đã giết vô số đồng bào của tôi và một số người Hoa Kỳ.
Và Eddie Adams kể lại:
- Lúc đầu tôi tưởng Lém được dẫn đến để Tướng Loan thẩm vấn. Khi ông rút súng chĩa vào Lém, tôi vẫn còn tưởng ông chỉ dọa thôi, hóa ra, ông bắn thật.
Ngay tối hôm đó, mồng 2 Tết Mậu Thân, Eddie Adams đã chuyển bức hình Thiếu Tướng Loan xử bắn tên đặc công Bảy Lốp từ Sàigòn đi khắp thế giới.
Cả thế giới rúng động, và đám ký giả ngoại quốc, các phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, Việt Nam, Âu Châu, và nhiều quốc gia khác, tận tình khai thác bức hình này.
Nó chính là bức hình oan nghiệt, đã đưa cuộc đời của Thiếu Tướng Loan vào khúc quanh nghiệt ngã.
Tranh luận về bức hình, và hành động của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan: Ðúng hay Sai. Theo Thẩm Phán Trần An Bài, giảng sư Học Viện CSQG/VNCH:
- Nhóm phản chiến Hoa Kỳ lý luận rằng: Ðại úy đặc công VC đã bị bắt, hai tay bị trói về sau lưng, tức Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp đã thật sự trở thành tù binh chiến tranh. Tướng Loan không có quyền hành quyết một kẻ thù đã trở thành tù binh chiến tranh, không còn phương tiện tấn công. Hành động này trái với Ðiều 3 quy ước Genève ngày 12-8-1949 về tù binh.
Phóng viên chiến trường của Úc Ðại lợi, ký giả Neil Davids trong cuống “In the Frontline” đã bênh vực Thiếu Tướng Loan, cho rằng:
Tên đặc công mặc áo dân sự, tức không phải quân nhân địch như đã qui định trong qui ước Genève về tù binh. Bảy Lém đã phạm tội quá rõ ràng là giết nhiều đàn bà con nít, và ngoan cố không chịu đầu hàng, Tướng Loan xử bắn một tên phản loạn trong thời gian Thiết Quân Luật thì cũng không có gì gọi là quá đáng.
Tướng William Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, đã nhận định về hành động của Thiếu Tướng Loan:
- Không khôn ngoan, nhưng Tướng Loan đã làm dưới áp lực. Vấn đề này liên quan đến pháp lý, ông không thể phán đoán được. Ông chỉ muốn nhấn mạnh áp lực vào thời điểm đó, tức là sự giận dữ về những hành động khủng bố của Cộng Sản.
Và Eddie Adams tác giả của tấm hình đã đem lại oan nghiệt, cay đắng cho Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Eddie Adams đã nói là tấm hình của ông chỉ nói lên được một nửa sự thật. Ông đã ân hận, phân bua, gào thét trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, để cảnh giác thế giới rằng họ đã hiểu lầm về ý nghĩa tấm hình của ông. Tấm hình là cái bánh, một nửa cái bánh là sự thật, một nửa cái bánh kia là sự sai, sự gian xảo, sự lừa lọc và lầm lẫn. Thế mà cả thế giới nhắm mắt, bịt tai và im lặng, để cho Tướng Loan chết trong nỗi oan khiên, và VNCH chết tức tưởi trong nhục nhằn.
Vậy nửa thực sự cái bánh kia là gì?
1- Adams đã không ghi lại được những hình ảnh mà Bảy Lốp đã bắn giết và chôn sống dã man những người dân vô tội mà Tướng Loan có trách nhiệm phải bảo vệ. Họ là đàn bà, con nít không có phương tiện tự vệ trong tay. Sự việc này cũng đã được Ðiều 4 qui ước Genève ngăn cấm các quân nhân tham dự chiến tranh không được làm như vậy.
2- Adams cũng không diễn tả được cảnh Bắc Việt đã lợi dụng hưu chiến ngày Tết, tấn công VNCH, gieo bao nhiêu đau thương chết chóc cho dân chúng Nam Việt Nam.
3- Adams đã không ghi lại được cảnh hàng ngàn dân lành bị chôn sống tại Huế trong tết Mậu Thân, do tay các đồng chí của Bảy Lốp gây ra.
Tóm lại nửa chiếc bánh mà thật sự Adams đã không trình bày được là nguyên nhân dẫn đến nửa thật sự chiếc bánh kia mà Adams đã diễn tả trong bức hình, trong chiếc bánh kia.
Nói cách khác, Tướng Loan nổ súng kết liễu đời Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp chỉ là hậu quả tất nhiên của chính việc làm của Bảy Lốp đã giết hại những người dân vô tội mà thôi.
Tranh luận về pháp lý:
1- Bốn phe tham chiến tại Việt Nam chỉ có VNCH đã không hề ký kết vào bất cứ phần nào của Quy ước Genève về tù binh và còn công khai bác bỏ vào ngày 18-2-1974. Trong khi đó thì Hoa Kỳ ký vào ngày 2-8-1955. Bắc Việt ký vào các năm 1953, 1957 và 1976. Mặt trận Giải Phóng Miền Nam ký vào 1973,1974. Như vậy thì làm sao có thể quy kết cho Chính phủ VNCH và Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã vi phạm Quy ước này được.
2- Dù có phê chuẩn Quy ước nhưng mỗi quốc gia lại tự giải thích Quy ước theo quan niệm và quyền lợi riêng tư của mình.
Hãy lấy ngay Bắc Việt và Hoa Kỳ làm bằng chứng:
Bắc Việt không tuân thủ quy ước dành cho tù binh Hoa Kỳ với lý do Hoa Kỳ đã mở cuộc chiến tranh đế quốc xâm lược Việt Nam, tức là cuộc chiến không có chính nghĩa, cho nên tù binh Mỹ không đáng được hưởng những đặc ân của quy chế tù binh.
Hoa Kỳ lại cũng không cho binh lính Bắc Việt và MTGPMN được hưởng quy ước, viện lý do là Bắc Việt và Mặt Trận đã áp dụng những chiến thuật du kích quá dã man, không thích hợp cho một cuộc chiến quân sự, binh lính Bắc Việt và Mặt Trận bị bắt thật sự chỉ là những can phạm hình sự, chứ không phải đúng nghĩa là tù binh.
Giả như VNCH có ký vào quy ước Genève, thì có thể giải thích rằng Nguyễn Văn Lém không phải là tù binh chiến tranh và khi bị bắt, y không giao tranh với QLVNCH, mà lại đang lùng kiếm giết hại dân lành vô tội. Rõ ràng y là tội nhân hình sự chứ không phải là tù binh.
MTGPMN được khai sinh vào ngày 20-12-1960, với mục đích lật đổ chế độ chính trị miền Nam bằng bạo lực, và Bắc Việt luôn luôn chối bỏ là không hề tham dự vào các trận đánh ở miền Nam, và đó chỉ là chuyện riêng tư giữa nhân dân Miền Nam nổi dậy chống nhà cầm quyền của họ.
Nếu lập luận này là đúng, thì hai hậu quả được đặt ra cho vụ Tướng Loan:
- Thứ nhất, Nguyễn Văn Lém là một phần tử trong tổ chức nổi loạn chống chính phủ miền Nam nên không phải áp dụng quy chế Genève, mà là luật lệ của VNCH.
- Thứ hai, luật Pháp của VNCH thời đó đã đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật, nghĩa là các cán binh Cộng Sản chống lại VNCH bằng vũ lực, không còn được luật pháp bảo vệ như một công dân thường.
Nguyễn Văn Lém là một phần tử trong tổ chức bị luật pháp đặt ra ngoài pháp luật, y lại còn bị bắt quả tang trong lúc phạm tội hình nguy hiểm. Vậy thì Tướng Loan vị chỉ huy cao cấp nhất của ngành CSQG/VNCH, đang có mặt trên phạm trường có quyền thụ lý nội vụ và quyết định những biện pháp thích nghi.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã hành xử đúng quyền hạn của ông, khi quyết định xử tử Nguyễn Văn Lém ngay tại phạm trường, để chấm dứt tội ác của y. Quyết định của Tướng Loan phải được gọi là hợp luật.
Và sau cùng, luận về việc Thiếu Tướng Loan xử tử Bảy Lốp có đúng thủ tục pháp lý và nhân đạo hay không? Theo Giảng Sư Trần An Bài thì:
- Lý lẽ quan trọng nhất người ta thường nêu lên để trách cứ Tướng Loan là đã xử tử Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lốp mà không có án lệnh của tòa án.
Không, người ta đã lầm. Lầm hoàn toàn. Người ta đòi hỏi Nguyễn Văn Lém phải được bắt giữ đúng thủ tục tư pháp? Và ai có quyền bắt giữ kẻ phạm pháp? Ðó là Cảnh Sát. Nhưng chính cảnh sát lại là những người đang bị Bảy Lốp tìm giết, chẳng những giết Cảnh Sát mà Bảy Lốp còn giết cả vợ con gia đình Cảnh Sát. Người ta còn đòi hỏi phải đem Bảy Lốp ra tòa án xét xử, còn tòa đâu mà xử, tòa án và các cơ sở công quyền là mục tiêu của Bảy Lốp và đồng chí của y đang chủ trương, đốt phá cho kỳ hết, và thẩm phán là những người mà Bảy Lốp đang tìm bắt để chôn sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc lửa đạn như vậy, mà còn đòi hỏi nào Quy ước, nào là Cảnh Sát Tư Pháp, nào là tòa án, nào là Thẩm phán. Tất cả những thứ đó Nguyễn Văn Lém tự Bảy Lốp không cần, điều mà y thật sự cần là chấm dứt tội ác và đền tội.
Nguyễn Văn Lém đã không mặc quân phục đội nón cối đi dép râu, để giao tranh với quân đội VNCH như các bộ đội Bắc Việt khác. Nguyễn Văn Lém mặc thường phục, đi giết hại khủng bố đàn bà con nít để bắt họ làm bia đỡ đạn. Lém chẳng những đã không phủ nhận mà còn hãnh diện về các vụ giết và chôn sống đàn bà con nít của y.
Hành vi này kết thành tội sát nhân với trường hợp gia trọng, bắt buộc phải bị tử hình.
Phương cách thi hành bản án tử hình vẫn được áp dụng vào thời đó tại Việt Nam là tử tôi bị trói vào cột và một tiểu đội hành quyết nổ súng, sau đó viên tiểu đội trưởng đến gần bắn một phát súng ân huệ vào đầu tử tội để chắc chắn y đã chết.
Nguyễn Văn Lém đã bị hành quyết đúng theo thủ tục: Tử tội bị trói đem ra pháp trường, và hưởng phát súng hành quyết cũng chính là phát súng ân huệ của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Ðốc CSQG.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đến Huế.
QLVNCH và CSQG đã tiêu diệt hầu như toàn bộ các lực lượng VC tấn công Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam tạm yên. Nhưng Huế, mặt trận Huế vẫn còn khốc liệt, Cộng quân chiếm Huế 22 ngày, kể từ 2 giờ 32 phút đêm mồng một Tết rạng ngày mồng 2 Tết, đến khuya ngày 22 Tết Mậu Thân, bọn chúng mới bắt đầu tháo chạy, và Huế thật sự ngưng tiếng súng vào sáng ngày 26 Tháng Giêng Âm Lịch.
Huế trong cảnh đổ nát điêu tàn, Huế đầy xác người đã sình thối, Huế nhiều mồ chôn tập thể trong thành phố, Huế đói, Huế lạnh, Huế cơ cực, Huế có quá nhiều đồng bào Huế tỵ nạn ngay thành phố Huế, Huế có quá nhiều trại tỵ nạn và, trẻ thơ, góa phụ, ông bà già đang đói, đang run rẩy trong các trại tỵ nạn, vì trời Huế quá lạnh. Huế với những tiếng khóc tức tưởi, Huế với những tiếng nấc và dòng nước mặt nghẹn ngào của thiếu phụ, của cha, của mẹ, của anh, của em, của bạn bè gần xa, Huế với những tiếng thét kinh hoàng, thất thanh, vút tận trời xanh khi tìm ra thân xác thân nhân mình đã sình thối.
Huế sau 26 ngày bị VC chiếm đóng và tàn sát dân lành là thế đó, với 5327 thường dân vô tội bị tên sát nhân tàn bạo nhất thế kỷ là Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam của y sát hại, cùng với 1200 thường dân bị chúng bắt dẫn đi mất tích.
Huế trong tuyệt vọng thì Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh CSQG đến Huế, cùng với những phi cơ C-130 của Không Quân VNCH, với những phẩm vật tiếp cứu khẩn cấp cho đồng bào Huế.
Tôi đón ông tại Phi trường Phú Bài, vừa bước xuống cầu thang máy bay, ông đã nói:
- Tưởng mày bị bọn nó chôn sống rồi.
- Ðâu dễ vậy Thiếu Tướng, em là lính mà.
Trong khi chờ đợi bốc hàng khỏi máy bay, tại phòng khách danh dự của phi trường Phú bài, tôi trình với ông tất cả những diễn biến xẩy ra trong suốt 26 ngày qua. Ông nắm tình hình Huế rất vững, chính xác, có thể ngoài việc hằng ngày tôi báo trình vào BTL, ông còn hai hệ thống an ninh báo cáo cho ông, đó là Cục An Ninh Quân Ðội và Phủ Ðặc Ủy Trung Ương tình báo.
Ông hỏi tôi:
- Hai thằng Cán, và Ðoàn Công Lập mày bắt đã bắt chúng nó chưa?
- Quận Cán thì đã bắt rồi, nhưng Ðoàn Công Lập thì chưa, vì ông ta đang còn là Chief của em và cũng chưa có lệnh của Thiếu Tướng làm sao bắt được. Hơn nữa, chuyện ông ta làm nội tuyến em đang bám sát, có bắt bây giờ cũng chưa đủ dữ kiện để truy tố ra tòa.
- Bao nhiêu anh em tử trận, bị thương.
- Trình Thiếu Tướng, 150 người tử trận, bị thương nặng nhẹ gần 60 người.
- Số bị thương nằm ở đâu?
- Trình Thiếu Tướng ở tại Bệnh viện Trung ương Huế
- Ngày mai đi thăm họ.
Tại BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, Thiếu Tướng Loan đã có quyết định giao Quận trưởng Nguyễn văn Cán, nguyên Trưởng Ty CSQG Thị xã Huế, cho Trung tá Nguyễn Tự Cường, Trưởng ty ANQÐ Thị xã Ðà Nẵng thụ lý, hoàn tất hồ sơ nội vụ trong thời hạn sớm nhất, truy tố ra Tòa Án Quân sự Mặt Trận Vùng I, với tội danh hoạt động cho địch, tiếp tay với kẻ thù sát hại đồng bào và đồng đội trong thời gian Tết Mậu Thân, với bản án đề nghị: Tử hình - Và sẽ đem ra Huế hành quyết.
Về phía ông Ðoàn Công Lập, Trưởng Ty CSQG Thừa Thiên-Huế, Tướng Loan, giải nhiệm chức vụ Trưởng Ty tại chỗ, bắt giữ đương sự với tội danh: Hèn nhát trước địch quân, bỏ trốn đơn vị khi tác chiến và tẩu tán tài sản quốc gia [hơn 400 vũ khí trong kho đã bị thất thoát]. Ông Lập bị giải vào BTL/CSQG ngày 27/2/1968.
Cũng trong ngày 27/2/1968, trong khi thăm viếng và tặng một số phẩm vật cho đồng bào tỵ nạn như: chăn, màn, thực phẩm, cho đồng bào tại các trại tỵ nạn ở các trường Trung và Tiểu học trong thành Phố Huế, tôi thấy nét mặt của ông ta đăm chiêu và buồn bã, bất chợt ông nói với tôi:
- Thật quá tội, tình hình đã tạm ổn sao họ chưa về nhà?
- Trình Thiếu Tướng, những người còn nhà họ đã về từ hôm qua, những người này nhà cửa bọn VC đã đốt cháy rụi rồi, còn nhà đâu nữa mà về. Nghe tôi nói xong, ông im lặng, chẳng nói gì.
Sau khi thăm một số anh em Cảnh sát bị thương đang nằm tại Bệnh viện Trung ương Huế, trên đường trở về lại BCH/CSQG, bỗng ông chợt nói với tôi:
- Tao đã có cách giúp họ, đi gặp Tỉnh Trưởng, xin thằng này một khu đất, mình làm nhà cho họ ở.
Tôi thật ngạc nhiên, chẳng nói gì, nhưng thầm nghĩ: Vật dụng đâu mà làm?
Nhân đi gặp ông Tỉnh Trưởng, tôi nghĩ đây là cơ hội tốt để Thiếu Tướng Loan có thể can thiệp cho tôi với ông ta về việc một mình kiêm hai chức vụ: Phó Ty CSÐB và Quận Trưởng Quận III, Thị xã Huế:
- Thiếu tướng, em kiêm hai chức vụ, trọng trách quá nặng, sợ không chu toàn nổi, bây giờ tình hình quân sự đã tạm ổn, Thiếu Tướng nói với ông ta cho em giao lại chức vụ Quận Trưởng Quận 3 để về làm công việc tình báo bên CSÐB.
- Ðúng rồi, đó là điều tao muốn nói với ông Tỉnh Trưởng, mày trả lại cho ông ta, còn nhiều việc phải làm.
Ba hôm sau, tôi bàn giao Quận III Thị xã Huế cho một Thiếu Tá và trở lại thuần túy lo công việc của ngành CSÐB.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Trại tỵ nạn Tình Thương cho đồng bào Huế.
Theo yêu cầu của Thiếu Tướng Loan, ông Tỉnh Trưởng đã cấp một khu đất rộng và dài tại đường Hòa Bình, thuộc Quận I thành nội Huế. Khu đất rộng mênh mông này nằm sát Tử Cấm Thành của Hoàng Cung.
Cầu không vận của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã được thiết lập giữa Sàigòn-Huế, nhiều tấn hàng vật liệu xây cất như tôn, xi măng đã được chở ra Huế.
Với hơn 100 nhân viên cảnh sát do tôi tuyển chọn, và khoảng 200 đồng bào tình nguyện, như vậy là 300 nhân công, loại có tay nghề và loại tay mơ, do ông cai thầu là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan tức “Anh Sáu Lèo” chỉ huy, và phụ tá cai thầu là Trung úy Liên Thành.
Chỉ trong 16 ngày chúng tôi hoàn tất khoảng 500 nhà mái lợp tôn, vách bằng đủ thứ có được, nhưng hầu hết là ván ép, như vậy có chỗ cho 500 gia đình trú ngụ tạm thời, không phân biệt họ là ai, gia đình quân đội, Cảnh Sát, Công chức, thường dân, những ai mất nhà mất cửa đều được mời vào trú ngụ.
Trong suốt 16 ngày xây cất, ngoại trừ những lúc phải giải quyết công việc khẩn cấp, hầu hết thì giờ Thiếu Tướng Loan đều có mặt, ông cũng xắn tay áo, tay cầm búa cầm đinh, miệng la hét đốc thúc, y như một ông cai thầu thứ thiệt.
Có lần tôi cũng như ông, tay búa tay đinh cùng đám đệ tử đứng gần ông, nhìn dáng dấp của ông, tôi nín cười không được quay qua nói với đám đệ tử:
- Bọn bây nhìn Ông Tướng mình giống anh cai thầu quá phải không?
Cả bọn cùng cười bị ông bắt gặp, ông hỏi chúng tôi:
- Ð... cụ chúng mày cười gì đó.
Tôi trả lời ông tỉnh bơ:
- Thì cười Thiếu Tướng đó, trông ông giống y chang ông Cai thầu. Ông cũng cười, nụ cười thật hiền lành.
- Thôi làm việc đi, làm nhanh lên cho đồng bào có chỗ ở. Mười sáu ngày sau, ngày khánh thành khu Trại Tình Thương cho đồng bào tỵ nạn Huế, Thiếu Tướng Loan đứng vòng tay ngay cửa chính nhìn đồng bào nhập trại với nụ cười thỏa nguyện, mọi người đi ngang trước mặt ông đều cất tiếng:
- Cám ơn Thiếu Tướng,
- Cám ơn Ông Tướng,
- Cám ơn Ôn.
Và ông vẫn đứng vòng tay im lặng, nhìn họ bằng ánh mắt trìu mến.
Thiếu Tướng, trong trăm ngàn nỗi khổ đau và khốn cùng mà dân Huế, đã nghiến răng, gồng mình chịu đựng suốt 26 ngày VC tàn sát thân nhân họ, và chính bản thân họ đã kinh hoàng, đã đói, đã lạnh, đã run rẩy trong những trại tỵ nạn, ông đã tìm về với họ, về với Huế, thành phố đầy ắp những kỷ niệm thời niên thiếu của ông bằng một tấm lòng, một vòng tay mở rộng cứu giúp họ.
Họ đã ghi lòng tạc dạ những ân tình đó, để rồi mãi 5 tháng sau, khi VC tấn công vào Sài Gòn trong đợt II, tôi đã sang trại Tỵ Nạn Tình Thương của Ông báo cho họ biết:
- Thiếu Tướng Loan đã bị trọng thương, ông đã bị địch bắn gãy hai chân trong một trận giao tranh với địch tại cầu Phan Thanh Giản Sài Gòn .
Thiếu Tướng, ông biết không, những người đó, những kẻ khốn cùng mà ông đã cứu giúp, cả mấy trăm người trong trại tỵ nạn đã bật khóc thành tiếng, những dòng nước mắt của góa phụ, của ông già, của bà lão, đã tuôn trào, giọt lệ xót thương ông khi gặp nạn, và trong những tiếng khóc nghẹn ngào đó đã có tiếng la lớn, đầy uất hận của một cụ già, đã già lắm:
- Ông trời! răng người nhân đức như ông mà lại gặp nạn.
Thiếu Tướng, những giọt nước mắt và tiếng than lớn của cụ già là những lời cám ơn chân thành nhất của họ, của người dân Huế đối với ông, mà họ đã ấp ủ trong lòng từ lâu đối với ân nhân của họ.
***
Sau Trại Tình Thương, những ngày kế tiếp, Thiếu Tướng Loan hỏi lại tôi:
- Bao nhiêu anh em tử trận?
- 150 người, Thiếu Tướng.
- Quá nặng!
- Mày nói thằng Trưởng Phòng Hành Chánh của mày lập thủ tục khẩn cấp tuyển dụng vợ của 150 anh em tử trận vào nữ Cảnh sát, ngành Ðặc biệt của mày, để họ có lương tiền nuôi nấng con cái, tao không có tiền giúp họ, chỉ còn cách này thôi. Phải làm gấp, tao ký lệnh tuyển dụng, và muốn gặp mặt họ trước khi về lại Saigon.
- Tôi hiểu rõ và thi hành ngay.
Tôi may mắn có được Ðại úy Hoàng Thanh Tùng một sĩ quan Cảnh sát trẻ, năng động và nhiệt tình, chỉ bốn năm ngày sau vừa là hồ sơ tuyển mộ và hồ sơ xin trợ cấp tử tuất đã làm xong.
Thật tình đây là một cuộc tuyển mộ phi hành chánh, không hợp với điều lệ tuyển mộ, vì một số các bà quả phụ không biết đọc mà cũng chẳng biết viết một chữ nào cả, nhưng nó lại hợp với lòng nhân đạo, thương người, và nhất là lòng thương mến và lo lắng cho thuộc cấp của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh CSQG.
Ðộc nhất, chỉ có Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan là người tuyển mộ nữ nhân viên Cảnh Sát như thế này.
Ngày những “Nữ Cảnh sát viên” nhận việc, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã gặp họ trong một hội trường lớn của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế.
Hội trường đông kín với khăn tang áo chế của 150 quả phụ, với trẻ thơ theo mẹ nhỏ nhất là hai tháng tuổi, lớn nhất là năm, mười tuổi. Quang cảnh đượm nét tang thương, u buồn. Tất cả im lặng và chờ đợi Thiếu Tướng Loan lên tiếng. Với giọng nói Bắc pha Huế, ông chia buồn cùng họ, giọng nói nhỏ nhẹ và buồn buồn, trong hội trường đã có tiếng khóc nhỏ. Tôi quan sát ông, bất chợt thấy ông quay mặt đi nơi khác, đã có chút dòng lệ trong mắt ông, thật quả xúc động.
Cuối cùng ông cất tiếng nói to hơn:
- Ngày hôm nay tôi tuyển quí bà vào lực lượng Cảnh sát, để các bà, các cô, có đồng lương nuôi nấng các cháu, kể từ ngày hôm nay các cô, các bà là “Nữ Cảnh Sát viên” của Ty Thừa Thiên-Huế”.
Nhiều tiếng “cám ơn Ôn” trong đám đông, cùng với tiếng khóc, có lẽ họ đã quá xúc động trước tấm lòng nhân hậu của ông.
Ông chợt đến gần một quả phụ đang bồng một hài nhi khoảng hơn 1 tháng tuổi, và hỏi cô ta:
- Bây giờ bà là “Nữ Cảnh Sát” rồi đó, bà muốn làm gì?
- Thưa ôn, cho em làm chi cũng được, em đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa.
Ông cười và nói lớn để mọi người cùng nghe:
- Cảnh sát không có việc đi chợ nấu ăn. Thôi, các bà về, hằng tháng đến gặp cái ông Trung úy trẻ Liên Thành này mà lãnh lương. Chẳng có việc gì cho các bà, các cô cả.
Tôi quá hoảng, nói nhỏ với ông:
- Thiếu Tướng, chết em, 150 bà đó Thiếu Tướng, không phải ít đâu. Em chết chắc.
- Thì Ð... cụ mày, cho mày chết luôn !
Mọi người ra về, ông nói riêng với tôi:
- Mày cố gắng lo cho họ đàng hoàng, sức tao chỉ có thể giúp họ đến đó.
Thiếu Tướng, hơn 40 năm trôi qua kể từ ngày đó, đã bao nhiêu đổi thay cho thân phận và nỗi oan khiên nghiệt ngã của ông, 150 quả phụ và hơn 300 trẻ thơ lúc đó, nay đã hơn 40 tuổi, một số đã may mắn định cư tại HK, họ đã nên người, là Kỹ sư, là Bác sĩ , là Luật sư... Tôi đã có gặp họ, cả mẹ lẫn con, họ nhắc tên Ông, Thiếu Tướng Loan, với sự kính trọng và lòng biết ơn ông: “Không có Thiếu Tướng Loan cứu mẹ con tôi, chúng tôi đã không có cơm ăn, áo mặc” - Ðó là lời nói của những cô nhi quả phụ năm xưa, những người mà ông không cần luật lệ, thủ tục, tuyển họ vào “Nữ Cảnh Sát tại gia”.
Ngoài ra, cũng phải nói thêm về việc Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan thành lập Trung Tâm Phượng Hoàng tại BCH/CSQG Thừa Thiên Huế.
Vừa khánh thành xong trại tỵ nạn Tình Thương khoảng 12 tiếng, chưa kịp thở, ông lại bày trò chơi khác, lần này là Trung Tâm Phượng Hoàng, một danh từ nghe quá xa lạ với chúng tôi.
Ðầu tiên, ông bắt dời Trung Tâm Văn Khố đã có từ đời Mật thám Pháp cho đến Mậu Thân 1968, ông muốn dùng phòng này làm Trung Tâm Phượng Hoàng. Thế là phải mất một ngày dời đi chỗ khác. Hồ sơ văn khố vừa dời đi, thì ván ép, gỗ, đinh búa, máy lạnh ập vào, và ông Tướng lại làm Cai thợ. Hai mươi tay Cảnh sát viên có tay nghề là thợ mộc, còn tôi là thứ 21, dưới quyền chỉ đạo của anh “Sáu Lèo” bắt đầu cưa, đục, đóng đinh nghe điếc cả tai, cộng thêm anh “Sáu Lèo”, vừa đóng đinh vừa thét, chỉ trỏ lung tung, cuối cùng một đêm một ngày không ngủ, căn phòng rộng mênh mông đã bọc phủ ván ép, máy lạnh chuyên viên điện cũng đã bắt xong. Tôi nói với anh em:
- Sắp chết , sắp chết, mệt quá...
- Ð... Cụ thằng Trung úy con nói gì đó?
- Thì nói gì nữa, bóc lột sức lao động quá xá, gần một ngày, một đêm làm hộc hơi mà ông cai không cho ăn.
- Chúng mầy chưa ăn sao? Ði ăn đi.
Ông thọc tay vào túi quần rồi rút tay ra, y như trò chơi năm lớp tư, lớp ba, túi rỗng, ông chẳng có đồng nào. Một sĩ quan cấp tá trong ban tham mưu của ông dúi cho chúng tôi khoảng bảy tám ngàn gì đó. Thật ra chúng tôi đã thay nhau đi ăn rồi, nhưng muốn tống tiền anh “Sáu Lèo”, tích trữ để tối kéo nhau đi nhậu.
Thế là Trung Tâm Phượng Hoàng cấp tỉnh, có lẽ là đầu tiên được thành lập từ Mậu Thân 1968, do tôi làm Tổng thư ký, điều hành Trung tâm Phượng Hoàng Thừa Thiên-Huế từ cuối tháng 2/1968 cho đến 1975. Có một điều mà những ai gần gũi và làm việc trực tiếp với Thiếu Tướng Loan mới thấy rõ được bản chất thật sự của Ông ta: Ông là một người rất tình cảm, dễ xúc động, bản chất nhân hậu, thương người, điểm đặc biệt làm việc rất tận tụy, chi tiết, và thông minh lạ thường.
Trung Tâm Phượng Hoàng vừa thành lập xong, ngày hôm sau tôi đã phải ngồi nguyên ngày với ông, để nghe ông giảng bài, để nghe ông nói về mục đích, về điều hành, về phối hợp với các cơ quan tình báo bạn của VNCH và phối hợp với cơ quan Tình báo Ðồng Minh như thế nào trong chương trình Phượng Hoàng, rồi thì cách thức thiết lập hồ sơ hạ tầng cơ sở địch v,v... và v.v... Ông giảng giải cho tôi như là một ông thầy trong trường Tình báo. (Sẽ nói chi tiết về Chương trình Phượng Hoàng này sau)
Sau gần một tháng ở Huế, Thiếu tướng Loan và toàn BTM của ông về lại Sàigòn, còn nhớ ngày tôi đưa ông xuống phi trường Phú Bài, ông dặn tôi hai việc:
1- Trại Tình Thương là cố gắng của lực lượng CSQG chúng ta, nhằm giúp đỡ đồng bào tỵ nạn Huế. Giao lại cho mày, nhớ lo an ninh, giúp đỡ đồng bào cho chu đáo.
2- Ðám 150 quả phụ đó và đám trẻ, mày gắng lo cho họ. Tôi trả lời ông:
- Dạ thưa Thiếu Tướng, em sẽ lo chu toàn, Thiếu Tướng an tâm.
Tại sân bay Phú Bài, tôi và ông đứng cạnh máy bay đợi anh em Cảnh sát chất hàng lên, gồm những vật dụng ông đem ra từ Sài Gòn, trong đó có 4 xe Jeep của các Sĩ quan trong BTM và một chiếc của ông. Chiếc xe của ông là chiếc chót đưa lên máy bay thì bỗng ông cho lệnh đem xe đó xuống lại, tài xế lái xe lại đậu gần ông. Ông lấy chìa khóa xe trong tay viên tài xế và giao cho tôi:
- Cho mày, chiếc xe này đầy đủ mọi thứ trên xe, mày cần để làm việc. Chỉ có chiếc máy truyền tin Motorola trên xe mày trả lại cho tao vì khác tần số ở đây.
Tôi chưa kịp nói câu gì, cho dù là hai tiếng cám ơn thì ông vỗ vai tôi và đi thẳng lên máy bay chẳng thèm nhìn lại.
Ngày 5 tháng 5 năm 1968, VC mở đợt II Tổng Công Kích vào Thủ Ðô Saigòn, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã cùng với các đơn vị can trường Cảnh Sát của ông, lại xông pha trận mạc, chiến đấu ngày đêm trên đường phố Saigòn-Chợ Lớn.
Lần này “Hùm Thiêng” đã bị sa cơ, Thiếu Tướng Loan đã cầm súng chiến đấu bên cạnh những người lính Cảnh sát can trường của ông y như một khinh binh, thì ông bị địch bắn trọng thương vào cả hai chân tại ngay trên cầu Phan Thanh Giản Sàigon, ông đã ngã quỵ
Ông đã ngã quỵ, cả thân xác và cả cuộc đời của một Anh Hùng Hào Kiệt, của một Chiến sĩ Không Quân VNCH và CSQG.
Những cay đắng, nghiệt ngã nhất của cuộc đời bắt đầu đến với ông ngay ngày đó, cũng chỉ vì tấm hình, tấm hình oan nghiệt mà gã thợ ảnh Eddie Adams, phóng viên của hãng AP đã chụp vào trước đó trong đợt I Tổng Công Kích của VC tại Saigòn.
Eddie Adams và tấm hình của ông ta đã đốn ngã đời của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan một cách tàn bạo, oan khiên. Sau này ông ta đã gào thét, phân trần, hối hận, vì hành động ông ta đã tung ra bức hình oan nghiệt đó.
Ngày Thiếu Tướng Loan bị trọng thương, ông được chở sang Úc để chữa trị, nhưng công luận Úc phản đối, người ta lại hành hạ ông, hành hạ trên nỗi đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn ông, người ta lại chở ông sang bệnh viện Walter Reed Army Medical Center tại Washington DC, Hoa Kỳ. Ông cũng lại gặp sự quay lưng ngoảnh mặt của những kẻ mà mà trước đó ông đã từng xả thân cứu họ, những công dân Hoa Kỳ của một quốc gia dân chủ và công bằng nhất thế giới, mà lại đối xử với ông như hành vi của những kẻ man rợ, như những người đã cạn lòng nhân đạo, thấy chết vẫn không cứu, trắng trợn và bẩn thỉu nhất chính là những dân biểu trong quốc hội Hoa Kỳ, họ cũng phản đối một kẻ đang bị thương trầm trọng cần được chữa trị cấp thời, lại còn bẽ bàng và phũ phàng hơn nữa kẻ đó lại là bạn bè, đồng minh và là ân nhân của công dân của họ trong trận đánh Mậu Thân.
Thiếu Tướng Loan bị từ chối chữa trị, trở về với đôi chân tật nguyền khập khiễng.
Ông giải ngũ, rời khỏi đời sống mà ông đã suốt đời tận tụy với tấm lòng ái quốc không thể chối cãi, không thể phủ nhận.
Ngày tháng còn lại, ông để hết thì giờ giúp trẻ mồ côi.
Tôi đã viết những gì về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, những gì tôi biết về ông thật quá ít và quá hạn hẹp, vì thời gian gần ông và làm việc cạnh ông rất ngắn, có một người rất thân cận với ông và cùng sát cánh với ông trong những giờ phút điêu linh và nguy nan nhất của của tổ quốc, của dân tộc, như biến động Miền Trung 1966, Mậu Thân năm 1968, người đó là Ðại tá Trần Minh Công, nguyên Trưởng ty CSQG thị xã Ðà Nẵng 1966, Trưởng Ty CSQG quận II thủ đô Saigòn 1968, và sau đó là Viện Trưởng Học Viện CSQG/VNCH. Tôi nhường lời để Ðại Tá Trần Minh Công nói về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan:
- Nhìn phong cách và diện mạo của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, nhiều người cứ tưởng lầm ông là một bạo Tướng, nhưng nhiều lần tôi đã từng chứng kiến Ông ngồi khóc một mình. Tìm hiểu ra mới biết, ông là một người rất giầu tình cảm. Ông thương yêu thuộc cấp và sống chết với ho: Kể cả khi ông bắt gặp đàn em làm bậy, ông cũng không nở phạt họ mà chỉ răn đe để họ cải sửa. Mỗi khi thuộc cấp hy sinh tử trận, ông khóc thương, nước mắt đầm đề. Có khi thượng cấp hiểu lầm ông, ông cũng khóc. Ông kể lể: “Tao phục vụ Quốc gia, Dân tộc, chứ tao đâu phục vụ cho cá nhân nào”.
Và:
- Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một vị tướng trí thức trong hàng ngũ tướng lãnh VNCH. Tướng Loan là một người rất can đảm, một cấp chỉ huy tài ba và là một vị anh hùng dân tộc. Ít có một vị tướng nào lại cùng cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận như một người lính thường.
Nếu không có Tướng Loan xông pha bảo vệ Thủ Ðô Sàigòn trong dịp Tết Mậu Thân, tôi nghĩ Sàigòn sẽ hoàn toàn không khác gì Huế.
***
Dưới đây là những nhận xét và hối hận của Eddie Adams, nhiếp ảnh viên của hãng thông tấn AP, kẻ đã đưa cuộc đời của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan vào khúc quanh nghiệt ngã:
- Tôi mặc đồ dạ hội sang trọng để lãnh giải thưởng và tiền thưởng về bức hình đó tại đại hội nhiếp ảnh Hòa Lan. Khi ban nhạc trỗi bài quốc ca Hoa Kỳ, tôi bật khóc. Không phải tôi khóc vì sung sướng mà khóc cho Tướng Loan. Cho tới giờ phút đó, tôi vẫn chưa ý thức được việc tôi đã làm. Khi chụp tấm hình đó, tôi đã hủy hoại đời ông Tướng, vì ông bị dân chúng ở cả nước ông lẫn Hoa Kỳ lên án về tội giết tù binh chiến tranh. Trong bất cứ cuộc chiến nào, người ta cũng vẫn còn làm như vậy, nhưng hiếm có ảnh viên nào chụp được mà thôi. Và:
- Tướng Loan là một vị anh hùng của chính nghĩa. Bức hình tôi chụp đã lừa dối công luận... Vậy mà mọi điều nhục nhã lại đổ trên đầu con người này.
Sau này, khi Adams đến thăm Tướng Loan tại thành phố Springfield, VA, khi nhắc đến tấm hình oan nghiệt năm xưa, Thiếu Tướng Loan không hề nói một lời oán trách Edie Adams, mà ông còn an ủi Adams: “Ông làm nhiệm vụ của ông, tôi làm nhiệm vụ của tôi. Chỉ có thế thôi”.
Khổng Phu Tử sống lại cũng chỉ có thể nói được câu đó đối với người đã hủy hoại đời mình, không thể nói hơn được nữa. Ông đúng là một người luôn sống với một tấm lòng, một tâm hồn cao thượng. Adams xúc động trước lời nói cao thượng đó của tướng Loan, và kể từ đó họ trở thành hai người bạn thân.
***
Những Dòng Lệ Khóc Thương Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan
Ngày 14-07-1998 lúc 20 giờ, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan vĩnh biệt mọi người, vĩnh viễn ra đi, để lại phu nhân, 5 người con và 9 cháu nội ngoại. Ông hưởng thọ 68 tuổi.
Kính Thiếu Tướng,
Thiếu Tướng ra đi vào ngày 14-07-1998, ngày hôm sau chúng tôi mới nhận được tin Thiếu Tướng đã đi khuất.
Ông đã để lại sự kính trọng và lòng biết ơn của rất nhiều anh em chúng tôi, những kẻ đã một thời phục vụ dưới quyền ông. Ông đã để lại những ân tình, ân nghĩa trong lòng người dân Huế, trong lòng xứ Huế, nơi mà ông đã sinh, và đã lớn lên tại đó, ông đã để lại nỗi xúc động và những ân nghĩa khắc sâu trong lòng 150 quả phụ và trên 300 cô nhi, khi chồng, cha của những người này, những chiến hữu thuộc cấp của ông, đã hy sinh vì bổn phận và trách nhiệm của một nhân viên công lực tại Huế vào Mậu Thân 1968. Ông đã để lại những tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào, của nhiều ngàn người Huế trong Trại Tỵ Nạn Tình Thương, ngôi trại mà chính ông đứng ra xây cất cho đồng bào tỵ nạn vào Mậu Thân tại Huế, khi mà tháng 5 Mậu Thân 1968 tôi báo cho họ biết thiếu tướng đã bị trọng thương trong một trận đánh với VC tại Sàigòn.
Tôi nhớ và nhớ rõ đã bắt gặp những giọt nước mắt của ông khi ông nhìn thấy nỗi cơ hàn của đồng bào ông trong các trại tỵ tại thành phố Huế, và đôi mắt ông đã đỏ, nét mặt thật buồn, khi ông gặp 150 quả phụ và hơn 300 trẻ thơ tại hội trường BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế trong ngày đầu ông tuyển họ làm “Nữ Cảnh Sát Tại Gia” để những người đó có cơm ăn áo mặc, để trên 300 cô nhi kia cũng nhờ tấm lòng nhân đức của ông mà chúng đã lớn khôn thành người lương thiện hữu dụng.
Thiếu tướng, ở cõi đời này có mấy ai nhận được những dòng lệ tiếc thương khi nằm xuống của những người không là thân nhân mình, Chỉ có ông, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh CSQG /VNCH, 1966-1968.
Ông đã đem sinh mạng và danh dự của đời ông, đã hy sinh bảo vệ Tổ Quốc trong lúc nguy nan, bảo vệ sinh mạng cho đồng bào được sống, để rồi ông đã phải gánh chịu những đau đớn về thể xác và những oan khiên, nghiệt ngã mà mà người ta gán ép cho ông. Thật quá bất công, vô ơn và phũ phàng đối với ông, mặc dầu tôi còn nhớ ông đã nói và đã dặn tôi: “Họ nói gì thì kệ họ, trách nhiệm và bổn phận của mình, mình phải làm” .
Kính Thiếu Tướng,
Xin ông an nghỉ, cõi đời phiền muộn này ông đã dứt bỏ ra đi. Cái mà ông không thể đem theo được là lòng thương tiếc sự kính trọng của rất nhiều chiến hữu và đồng bào đối với ông, cái đó sẽ còn tồn tại mãi mãi trong lòng mọi người.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan!
Vĩnh biệt Thiếu Tướng...
Liên Thành