Ngành Phản Lực trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) được hình thành vào năm 1965, khởi đầu của thời kỳ hiện đại hóa QLVNCH nói chung, KLVNCH nói riêng.
Trở lại với những năm đầu thập niên 1960, mặc dù Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lúc đó còn núp dưới danh xưng “Đảng Lao Động Việt Nam”, đã cho thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để làm bình phong cho cuộc xâm lược miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt, Hoa Kỳ vẫn chỉ đóng vai trò cố vấn, viện trợ quân sự cho QLVNCH ở mức độ hạn chế, và trang bị những loại vũ khí tương đối lạc hậu so với những gì Quân Đội Nhân Dân của CSBV nhận được từ khối Cộng Sản quốc tế.
Phải đợi tới năm 1964, thời gian được ghi nhận là bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam. Việc Việt Cộng trong Nam mở những trận đánh quy mô, đẫm máu, đồng loạt tấn công các cơ sở của Hoa Kỳ, cùng với việc CSBV mở rộng chiến tranh sang các quốc gia láng giềng, đưa các sư đoàn quân chính quy xâm nhập lãnh thổ miền Nam, đã khiến Hoa Kỳ phải thay đổi chính sách: từ vai trò cố vấn nhảy vào vòng chiến, đổ quân lên miền Nam, tấn công miền Bắc. Từ đây, cuộc chiến trở nên toàn diện, dai dẳng, và không lối thoát.
Các nhà bình luận thời cuộc sau này đã quy trách cho chính sách thiếu dứt khoát của chính phủ Johnson, thường được mệnh danh là chính sách “củ cà-rốt và cây gậy”, đã dẫn đưa tới trình trạng bế tắc nói trên.
VNAF A-1
Trong bối cảnh ấy, việc Hoa Kỳ mãi tới năm 1965 mới bắt đầu hiện đại hóa QLVNCH đã được xem là khá muộn. Không chỉ muộn mà còn thiếu tính cách tận tâm tận lực.
Theo các nhà bình luận nói trên, và cũng là nhận định của quân dân miền Nam sau này khi nhìn lại cuộc chiến, công việc hiện đại hóa muộn màng ấy có mục đích trấn an quân dân miền Nam hơn là thực tâm giúp QLVNCH có đủ khả năng đóng vai trò quyết định trên chiến trường, trong một cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã giành quyền lãnh đạo, với một lực lượng khổng lồ, tưởng như vô địch.
Chính vì thế, tới khi ông Richard Nixon lên thay ông Lyndon Johnson trong chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ, và đề ra chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh, trao lại trách nhiệm cho người Việt để rút quân về nước càng sớm càng tốt, người Mỹ đã không còn thì giờ để chuyển giao chiến cụ một cách chu đáo, nói gì tới việc huấn luyện!
Nhưng dù sao chăng nữa, qua chương trình hiện đại hóa, QLVNCH cũng đã chứng tỏ được quyết tâm chống cộng, khả năng tiếp thu, tài biến ứng, tận dụng mọi điều kiện khách quan để trưởng thành về mọi mặt, ngõ hầu đủ sức bảo vệ miền Nam VN, dù có hay không có sự hiện diện của đồng minh Hoa Kỳ. Ý chí sắt đá đó đã được thể hiện, sự trưởng thành đó đã được chứng minh qua việc đập tan cuộc tổng tấn công của quân cộng sản trong Tết Mậu Thân 1968.
Riêng KLVNCH, trong khoảng thời gian bốn năm ngắn ngủi ấy (1965-1969), đã bước những bước thật dài và vững chắc để trở thành một không lực hiện đại, đa năng và chuyên nghiệp bậc nhất ở vùng Đông Nam Á.
VNAF A-37
Đáng kể nhất là việc hiện đại hóa với các loại phi cơ phản lực B-57, F-5 và A-37 để thay thế (phần lớn) các phi cơ cánh quạt A-1, một loại khu trục tuy rất hữu hiệu trong chiến tranh chống du kích nhưng chậm chạp, không còn thích ứng với điều kiện chiến trường.
* * *
Trở lại với năm 1964, sau khi xảy ra vụ khu trục hạm Maddox của Hải Quân Hoa Kỳ bị các ngư lôi đĩnh của CSBV tấn công ngoài khơi vịnh Bắc Biệt ngày 2/8/1964, đưa tới việc Hoa Kỳ oanh tạc trả đũa (5/8/1964) và Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Nghị Quyết Đông Nam Á (Southeast Asia Resolution) ngày 7/8/1964 trao quyền hạn tuyệt đối cho Tổng thống trong việc tấn công Bắc Việt mà không cần tuyên chiến, CSBV chẳng những đã không tỏ ra nao núng mà còn đưa 50 chiến đấu cơ phản lực MiG từ Trung Cộng về đồn trú tại phi trường Phúc Yên, và ra lệnh cho Sư Đoàn 325 chính quy chuyển quân vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh...
Trong bối cảnh chính trị và tình hình quân sự nói trên, các phản lực cơ của Không Lực Hoa Kỳ đã được đưa tới Việt Nam; và tiếp theo, KQVN cũng bắt đầu được hiện đại hóa.
2- OANH TẠC CƠ B-57 CANBERRA
VNAF B-57 Canberra
Nếu không kể các chuyến thăm viếng thân hữu (phi diễn trong các Đại Hội Không Quân) của các loại F-100, F-102 thì B-57 được ghi nhận là loại phản lực cơ đầu tiên của Không Lực Hoa Kỳ tới hoạt động tại miền Nam VN.
Thực ra trước đó đã có một số phản lực cơ trinh sát RF-101 “Voodoo” và nghênh cản F-102 “Delta Dagger” tới Việt Nam nhưng vì chỉ hoạt động trong một thời gian rất ngắn nên không được chính thức ghi nhận.
Trước hết nói về RF-101. Do nhu cầu theo dõi hoạt động của CSBV, ngày 18/10/1961, một phi đội đặc nhiệm có bí danh “Pipe Stem” gồm bốn phản lực cơ trinh sát RF-101C thuộc Phi Đoàn 15 Trinh Sát Chiến Thuật (15th Tactical Reconnaissance Squadron) của Không Lực Hoa Kỳ đồn trú tại Okinawa đã được đưa tới Tân Sơn Nhất. Trong 31 ngày tiếp theo đó, các phi cơ này đã thực hiện tổng cộng 67 phi vụ không thám trên Cánh Đồng Chum (Plain of Jars) thuộc lãnh thổ Lào và một phần đường mòn Hồ Chí Minh, trước khi phải rút đi vì có sự khiếu nại của CSBV với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Nhiệm vụ của phi đội “Pipe Stem” sau đó đã được tiếp nối bởi phi đội “Able Mabel”, gồm bốn chiếc RF-101C của Phi Đoàn 45 Trinh Sát Chiến Thuật từ Nhật Bản tới đồn trú tại phi trường Don Muang, Thái Lan.
USAF F-102A Delta Dagger
Về phần các phản lực cơ nghênh cản F-102 “Delta Dagger” thì chỉ đồn trú tại Việt Nam một tuần lễ duy nhất. Nguyên vào hai ngày 19 và 20/3/1962, đài kiểm báo Peacock ở Pleiku đã phát hiện những sóng ra-đa lạ tại miền Nam, đưa tới giả thuyết các phản lực cơ MiG hoặc phi cơ vận tải của khối Cộng có thể đã xâm nhập không phận miền Nam. Theo yêu cầu của Tổng thống Ngô Đình Diệm thông qua Đại sứ Nolting, Đô đốc Harry Felt, Tổng tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINPAC) đã lập tức ra lệnh đưa bốn chiếc F-102 từ căn cứ không quân Clark, Phi-luật-tân tới Tân Sơn Nhất.
Tuy nhiên sau một tuần lễ không thấy động tịnh gì, bốn chiếc F-102 nói trên đã bay trở về Phi-luật-tân (sau này khi cuộc chiến leo thang, Không Lực Hoa Kỳ đã đưa nguyên một phi đoàn F-102 tới đồn trú tại căn cứ không quân Đà Nẵng để đề phòng trường hợp các phản lực cơ MiG của CSBV liều lĩnh xâm phạm không phận miền Nam).
Tới đây viết về B-57 “Canberra”. Canberra nguyên là loại oanh tạc cơ phản lực đầu tiên của Anh quốc được đem vào sử dụng, do hãng English Electric chế tạo, và được hãng Martin ráp nhượng quyền tại Hoa Kỳ để sử dụng trong Không Quân Chiến Thuật từ năm 1954 tới 1972, gồm hai kiểu oanh tạc (B-57) và trinh sát (RB-57).
Đầu tháng 5/1963, hai chiếc RB-57E - loại cải tiến được trang bị máy chụp không ảnh ở mũi - của Phi Đội Trinh Sát 609 tới đồn trú tại Tân Sơn Nhất để thực hiện các phi vụ không thám.
Còn việc đưa các oanh tạc cơ B-57 sang Việt Nam tới đầu năm 1964 mới được các giới chức Không Quân Hoa Kỳ nghĩ tới, khi lực lượng phi cơ của Phi Đoàn 1 Cảm Tử (ACS.1 trong chương trình Farm Gate) xuống tới mức thảm hại nhất. Tháng 2 năm đó, có thêm hai chiếc khu trục T-28 bị hỏa lực địch bắn hạ, và toàn bộ oanh tạc cơ B-26 của phi đoàn này bị cho nằm ụ vì khung phòng đã quá cũ, mất an toàn. Trước tình trạng đó, Đại tướng Jacob Smart, Tư lệnh Không Lực Thái Bình Dương (PACAF) đề nghị đưa một phi đoàn oanh tạc cơ B-57 sang Việt Nam, nhưng đã bị Bộ trưởng Quốc Phòng Robert McNamara bác bỏ, và thay vào đó chỉ tái trang bị Phi Đoàn 1 Cảm Tử bằng các phi cơ A-1H và A-1E Skyraider.
Phải đợi tới sau khi xảy ra vụ các ngư lôi đĩnh của Bắc Việt tấn công khu trục hạm Maddox của Hải Quân Hoa Kỳ ngày 2/8/1964, các oanh tạc cơ B-57 mới được phối trí tại Việt Nam: ngày 4/8/1964, 20 chiếc B-57 thuộc hai Phi Đoàn 8 và 13 Oanh Tạc (8th Bombs Squadron, 13th Bombs Squadron), mới từ Nhật Bản tới đồn trú tại CCKQ Clark, Phi-luật-tân, đã được lệnh di chuyển tới Biên Hòa trong thời hạn ngắn nhất.
USAF 8th Bombs Squadron's B-57
Những gì xảy ra sau đó cho thấy ngay từ lúc ban đầu, đã có những “điềm xấu” về sự hiện diện của loại phản lực cơ này tại Việt Nam.
Hai mươi chiếc B-57 nói trên được chia ra làm năm phi đội, mỗi phi đội bốn chiếc, lần lượt cất cánh. Đáp xuống một phi trường xa lạ dưới trời mưa tầm tã, một chiếc không rời khỏi phi đạo (runway) kịp thời nên đã bị chiếc đáp kế tiếp (bị hư thắng!) đụng phải, kết quả một chiếc bị phế thải; một chiếc khác khi chạm đất đã bị bể cả hai bánh và nằm kẹt cứng giữa phi đạo, khiến tất cả những chiếc còn lại phải đổi hướng để đáp xuống Tân Sơn Nhất, và trong số này đã có một chiếc không bao giờ tới đích: nó bị rớt trong một khu vực do Việt Cộng kiểm soát, vì thế nguyên nhân gây ra tai nạn cũng không bao giờ được xác định!
Nhưng dù sao, giữa chiếc B-57 và chiếc B-26 (đã bị cho nằm ụ) cũng khác xa nhau một trời một vực. Cho nên việc Hoa Kỳ đưa B-57 tới chiến trường Việt Nam mang một ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Được trang bị hai động cơ phản lực với sức đẩy 7.200 lbs mỗi bên, B-57 có thể đạt vận tốc tối đa 777 km/giờ, và có tầm hoạt động 3.200 km. Trang bị rất hùng hậu, gồm tám nòng đại liên 50 hoặc bốn nòng đại bác 20 ly, có thể mang 8.000 cân Anh (3.600kg) bom trong khoang bụng và dưới hai cánh; có khả năng mang tám hỏa tiễn 5-inch hay 28 hỏa tiễn 2.75-inch, và nếu sử dụng cả “rack” ở hai bên cánh, tổng số hỏa tiễn sẽ lên gấp đôi.
Rất tiếc, cho tới lúc đó, mặc dù Hải Quân Hoa Kỳ và CSBV đã đụng độ nhau ngoài khơi vịnh Bắc Việt, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn còn e ngại sẽ vi phạm điều khoản của Hiệp Định Genève 1954 cấm hai phe không được đưa vũ khí “mới” vào VN, cho nên những oanh tạc cơ B-57 cũ kỹ nói trên đã phải chờ thêm 6 tháng nữa, khi Hoa Kỳ quyết định tham chiến trực tiếp tại miền Nam VN, mới được xuất trận lần đầu.
Nguyên vào đêm 1/11/1964, trong lúc các giới chức chỉ huy đang dự tiệc mừng kỷ niệm 1 năm “Cách mạng thành công” (đảo chánh lật đổ TT Ngô Đình Diệm), Việt Cộng đã pháo kích phi trường Biên Hòa, gây thiệt hại và thương vong đáng kể.
Trong số 20 chiếc B-57 đậu sát cánh có năm chiếc bị thiêu hủy hoàn toàn, 15 chiếc còn lại đều bị hư hại, một trực thăng Hoa Kỳ và bốn khu trục A-1H của KQVN cũng bị thiêu hủy. Bốn quân nhân Mỹ chết và 72 người khác bị thương.
Sau đó, Tư lệnh MACV, Tổng tư lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương (CINCPAC), Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn và cả Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Hoa Kỳ đều yêu cầu Tổng thống Johnson cho phép tấn công CSBV để trả đũa, nhưng ông Johnson đã từ chối vì cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, ông không muốn gia tăng cường độ chiến tranh, khiến cử tri phải lo ngại.
Trước đó, Bộ tổng tham mưu Quân Đội Hoa Kỳ đã chuẩn bị sẵn một kế hoạch trả đũa đại quy mô như sau: mở đầu là cuộc không tập kéo dài từ 24 tới 36 tiếng đồng hồ vào lãnh thổ Lào (những nơi bộ đội CSBV trú đóng hoặc mượn đường xâm nhập miền Nam), và mở các cuộc tuần thám ở cao độ thấp trên lãnh thổ Bắc Việt từ vĩ tuyến 19 trở vào Nam nhằm bảo đảm an toàn cho quân Mỹ đổ bộ lên miền Nam để bảo vệ các căn cứ và cơ sở của Hoa Kỳ tại đây; tiếp theo là ba ngày oanh tạc liên tục của các siêu pháo đài bay B-52 nhắm vào phi trường Phúc Yên (nơi cất dấu khoảng 50 phản lực MiG-15 và MiG-17) và các kho nhiêu liệu chung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Sau đó, mục tiêu sẽ là các cơ sở quân sự và kỹ nghệ của Bắc Việt, và các đường xâm nhập của bộ đội chính quy Bắc Việt từ Lào vào miền Nam.
Thời gian này, lực lượng không phòng (air defense) của Bắc Việt chưa đáng kể, chỉ có 50 phản lực MiG-15, MiG-17, và trong số các phi trường, ngoài phi trường Phúc Yên đang được hoàn tất, chỉ có phi trường Gia Lâm (Hà Nội) và Cát Bì (Hải Phòng) có thể sử dụng cho phản lực. Về phòng không (anti-aircraft), Bắc Việt chỉ có khoảng 700 súng đủ loại, và chưa hề có hỏa tiễn địa-không. Hệ thống ra-đa chỉ gồm khoảng 20 máy báo động (warning set), không có khả năng khám phá phi cơ thâm nhập từ xa.
Tóm lại, một cuộc không tập của Không Lực Hoa Kỳ vào thời điểm này sẽ không gặp một sức kháng cự đáng kể nào, nếu không muốn nói như đánh vào chỗ không người. Theo quan điểm của Đô đốc Ulysses Sharp, Tổng tư lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương (CINPAC), những cuộc không tập miền Bắc vào thời gian này sẽ tạo áp lực khiến Bắc Việt phải ngưng, hay ít ra cũng giảm bớt hoạt động xâm lược miền Nam. Rất tiếc việc đó đã không xảy ra. Hay viết cách khác, mãi tám năm sau kế hoạch trả đũa này mới được đem ra thực hiện dưới thời TT Nixon (Operation Linebacker II), khi mà CSBV đã có đủ thời gian tạo dựng một hệ thống phòng không hùng hậu và hữu hiệu bậc nhất thế giới!
* * *
Tới đây viết về việc hiện đại hóa KLVNCH. Thực ra, yêu cầu trang bị phi cơ phản lực cho KQVN đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra từ năm 1960, khi có nhu cầu thay thế các phi cơ F8F Bearcat quá cũ kỹ, nhưng đã bị phía Hoa Kỳ liên tiếp bác bỏ vì không muốn vi phạm các điều khoản của Hiệp định Genève 1954 (!)
Tuy nhiên tới năm 1964-1965, trước việc bộ đội chính quy của CSBV ồ ạt xâm nhập miền Nam, lý do từ chối nói trên không còn đứng vững; và mặc dù một số giới chức Mỹ vẫn lo ngại VNCH có thể sẽ sử dụng phản lực tầm xa B-57 để tấn công miền Bắc, chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận trang bị loại oanh tạc cơ phản lực này cho KQVN.
Ngày 1/8/1965, báo Anh ngữ Saigon Sunday Post chạy tít trên trang nhất: “B-57 Bombers for VNAF”.
Bản tin cho biết “KQVN sẽ tiếp nhận những chiếc phi cơ phản lực đầu tiên”, và “bốn chiếc oanh tạc cơ B-57 sẽ được chuyển giao cho KQVN trong nay mai”.
Nhưng trên thực tế, chương trình chuyển giao B-57 cho KQVN đã được các giới chức Không Quân Hoa Kỳ bí mật khởi sự từ hơn một năm trước đó.
Tháng 5/1964, tức là khoảng một tháng sau khi các phi cơ B-57 của hai phi đoàn 8 và 13 Oanh Tạc của Không Lực Hoa Kỳ từ Nhật Bản được đưa tới trú đóng tại Phi-luật-tân, qua sự “dàn xếp” giữa các giới chức này với chính quyền Phi-luật-tân, ba sĩ quan KQVN đã được đưa tới CCKQ Clark để được huấn luyện bay phi cơ B-57B, gồm Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường và Đại úy Nguyễn Văn Long.
Vốn là những phi công khu trục dày dạn kinh nghiệm, khó khăn duy nhất đối với ba người chỉ là đang lái phi cơ cánh quạt (A-1 Skyraider) với bánh lái ở đuôi (tail-dragging) nay chuyển sang phi cơ phản lực B-57 với bánh lái ở mũi (tricycle landing gear). Theo lời kể lại của Đại úy Don Nation, người trách nhiệm chương trình xuyên huấn, sau khi nắm vững nguyên tắc mới, ba sĩ quan nói trên đã chứng tỏ họ là những phi công thượng thặng.
Đợt huấn luyện thứ hai thay vì tổ chức ở Phi-luật-tân, đã diễn ra ngay tại CCKQ Tân Sơn Nhất vì một nguyên nhân đặc biệt: ba sĩ quan được xuyên huấn chính là Chuẩn tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQVN, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó, và Thiếu tá Vũ Thượng Văn, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân KQ.
Lễ chuyển giao ba oanh tạc cơ B- 57 đầu tiên cho KQVN tại Tân Sơn Nhất
Hơn một năm sau, ngày 9/8/1965, lễ chuyển giao ba oanh tạc cơ B- 57 đầu tiên cho KQVN đã diễn ra tại Tân Sơn Nhất. Ít lâu sau đó, vào ngày 20/9/1965, các khóa thực tập tác chiến trên B-57 đã được bắt đầu tại CCKQ Clark, dành cho những phi công đã xuyên huấn trên B-57 trước kia như Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện (mới được thăng cấp), Đại úy Nguyễn Văn Long, cũng như các phi công mới sang xuyên huấn đợt sau. Đợt mới này gồm sáu phi công, sau tối thiểu 40 phi xuất với 70 giờ bay, họ sẽ được xác định khả năng bay trên B-57. Sau đó mới bước sang giai đoạn thực tập tác chiến.
Sau này, Đại úy Don Nation kể lại:
“Vì họ đều là những phi công với nhiều năm kinh nghiệm chiến trường, khi bước sang giai đoạn thực tập tác chiến, tôi cho rằng họ đã dạy chúng tôi chứ không phải chúng tôi dạy họ!... Tôi còn nhớ ngày đó Đại úy Long đã khiến (huấn luyện viên) Harry Zahn phải choáng váng với kỹ thuật nhào xuống đánh bom của ông. Trái bom thứ nhất của ông thả cách mục tiêu khoảng 150 mét, trái thứ hai trúng phóc. Khi được hỏi về việc thả trái thứ nhất trật mục tiêu - một cách cố tình mà ai cũng thấy rõ - ông giải thích một cách tự tin: “Trái thứ nhất để địch hoảng sợ chạy dồn về phía mục tiêu, sau đó mình mới gom hết!”
Đợt tiếp theo gồm 12 phi công, 12 điều hành viên và một số nhân viên kỹ thuật. Sau khi việc huấn luyện hoàn tất, các nhân viên này trở về VN phục vụ tại Biệt Đội 615 mới được thành lập tại CCKQ Đà Nẵng do Thiếu tá Biện chỉ huy. Trên phương diện quản trị quân số, biệt đội này trực thuộc Không Đoàn 41 Chiến Thuật của KQVN, nhưng trên phương diện hành quân, biệt đội hoạt động chung với Phi Đoàn 8 hoặc Phi Đoàn 13 Oanh Tạc của Hoa Kỳ (gốc ở CCKQ Clark thay phiên nhau tới đồn trú tại Đà Nẵng).
Để có thêm kinh nghiệm, các nhân viên phi hành Việt Nam mới thuyên chuyển tới Biệt Đội thường bay chung với phi công hoặc điều hành viên Hoa Kỳ. Cũng có khi cả phi hành đoàn là người Việt và bay trên những chiếc B-57 sơn cờ hiệu KQVN, nhưng tất cả mọi phi vụ hành quân vẫn được đặt dưới quyền điều động của phía Hoa Kỳ.
Theo ký ức của một vị sĩ quan từng phục vụ tại Biệt Đội 615, thời gian đầu đơn vị có 10 nhân viên phi hành gồm sáu hoa tiêu (Nguyễn Ngọc Biện, Đàm Thượng Vũ, Lê Xuân Lan, Phạm Văn Tỷ, Nguyễn Quốc Hưng, Nguyễn Hữu Hoài) và bốn điều hành viên (Tô Tiến Phát, Phạm Kim Lân, Nguyễn Tấn Ngàn, Trần Văn Lộc). Ngoài ra còn một số nhân viên kỹ thuật VN làm việc chung với nhân viên Mỹ.
Nhiệm vụ chính của các phi cơ B-57 là oanh tạc các đoàn xe tiếp tế của CSBV trên đường mòn Hồ Chí Minh – từ đèo Mụ Già (Thanh Hóa) chạy qua Lào, vòng xuống Attopeu, Kontum...; nhiệm vụ phụ là yểm trợ các cuộc hành quân nội địa theo yêu cầu của Quân Đoàn I.
Mỗi phi vụ oanh tạc đường mòn HCM gồm sáu chiếc B-57, bốn do Mỹ, hai do VN lái, cất cánh vào lúc 5 giờ 30 chiều; khi thấy đoàn xe, hai B-57 của VN có nhiệm vụ đánh chặn đầu và đuôi của đoàn xe để bốn chiếc của Mỹ tấn công tiêu diệt. Xong nhiệm vụ, về nghỉ ngơi, tới 8 giờ 30 tối lên Phòng Hành Quân xem lại khúc phim quay lúc tấn công để biết kết quả.
Tại Đà Nẵng, trung bình chỉ có khoảng bốn chiếc B-57 của Hoa Kỳ được sơn cờ hiệu KQVN dành riêng cho những phi hành đoàn (tất cả là người Việt) nói trên; vì nhu cầu thu hồi để bảo trì, số phi cơ này không cố định, người ta có thể lấy bất cứ chiếc nào khả dụng và cho sơn cờ hiệu KQVN lên.
Vì những hạn chế vừa kể, chương trình B-57 đã không tạo được sự phấn khởi tinh thần như chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã mong mỏi lúc ban đầu. Để thay đổi tình trạng này, ngày 29/10/1965, năm chiếc B-57 được sơn cờ hiệu KQVN, trang bị bom đạn tối đa, xuất phát từ Đà Nẵng để thi hành một phi vụ đặc biệt: trên đường bay về thủ đô Sài Gòn, ồ ạt oanh tạc một vị trí nghi ngờ tập trung quân của địch và sau khi đáp xuống Tân Sơn Nhất, đã tham gia một cuộc phi diễn của KQVN. Bay trong đội hình chữ V thật khít khao và với cao độ chỉ khoảng 100 mét trên Dinh Độc Lập và các đường phố chính của Sài Gòn, năm chiếc B-57 nói trên đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ nơi người dân thủ đô, nhất là khi họ được biết các oanh tạc cơ phản lực này vừa trở về từ chiến trường! Nhưng phía KQVN thì bất mãn ra mặt. Bởi vì họ biết rõ năm phi hành đoàn B-57 nói trên đều là... người Mỹ!
Bước sang đầu năm 1966, chính các nhân viên phi hành Việt Nam trong chương trình B-57 cũng không còn hăng hái nữa. Thêm vào đó lại xảy ra một tai nạn trong lúc huấn luyện tại Phi-luật-tân: một phi công Việt Nam cùng với huấn luyện viên Hoa Kỳ đã mất điều khiển khi đáp thực tập xuống căn cứ hải quân Cubi Point, phi cơ bị phế thải. Tai nạn này đã hỗ trợ cho lập luận của những phi công Việt Nam cho rằng loại oanh tạc cơ điều khiển hoàn toàn bằng sức người (fully manually controlled) này không thích hợp với kích thước và thể lực của họ.
Trong lúc chờ đợi các biện pháp để giải quyết khó khăn trên, bước sang tháng 2/1966, một tai nạn thảm khốc xảy ra đã khai tử chương trình B-57. Hôm đó, một B-57 với phi hành đoàn Việt Nam do Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện ngồi ghế phi công, trong một phi vụ oanh tạc tại Vùng 1 Chiến Thuật đã gặp phải thời tiết quá xấu. Không thể đáp xuống Đà Nẵng vì lý do thời tiết, và vì còn bom đạn trên phi cơ, Thiếu tá Biện đã quyết định đổi hướng để đáp xuống phi trường Cù Hanh, CCKQ Pleiku.
Nhưng sau khi phi cơ đáp xuống an toàn và tháo gỡ hết bom đạn, các nhân viên phi đạo đã không thể tái khởi động động cơ của loại phản lực mà họ chưa từng học qua; cuối cùng họ quyết định dùng sức người để đẩy phi cơ (đang choán chỗ trên phi đạo), Thiếu tá Biện ngồi trên phòng lái để điều khiển bánh lái và thắng. Nhưng trong lúc lực thủy điều đã bị mất và độ dốc của phi đạo Pleiku khiến phi cơ lăn bánh càng lúc càng nhanh, Thiếu tá Biện không thể điều khiển phi cơ theo ý muốn. Thế rồi trong lúc bối rối khi thấy chiếc B-57 đâm đầu ra khỏi phi đạo, Thiếu tá Biện đã nhảy xuống và tử nạn khi bị bánh đáp bên trái của chiếc phi cơ nặng 25 tấn cán lên người.
Cái chết của Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện, Chỉ huy trưởng Biệt Đội 615, đã gây xúc động mạnh vì ông là một cấp chỉ huy được cả phía Việt Nam lẫn Hoa Kỳ kính phục. Ông cũng là người hết lòng ủng hộ và là xương sống của Chương trình B-57, cho nên sau khi ông tử nạn, chẳng còn mấy người thiết tha tới việc bay loại phản lực “sát chủ” này.
Hai tháng sau, cùng với việc giải thể Thập Tam Không Lực Hoa Kỳ (13th Air Force) ở Phi-luật-tân, chương trình B-57 dành cho KQVN cũng được lặng lẽ chấm dứt vào ngày 20/4/1966. Có thể nói cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đều cảm thấy nhẹ nhõm trước sự chết yểu của chương trình B-57: Việt Nam không còn phải sử dụng loại phi cơ mà họ cho là không thích hợp, Hoa Kỳ không còn lo ngại KQVN sẽ sử dụng B-57 để tấn công miền Bắc!
Sau đó, ba phi công của Biệt Đội B-57 đã được chọn để xuyên huấn phản lực cơ siêu thanh F-5, gồm Đại úy Lê Xuân Lan, Đại úy Nguyễn Hữu Hoài, và Trung úy Đàm Thượng Vũ.
3- PHẢN LỰC CƠ F-5 FREEDOM FIGHTER
VNAF F-5 Freedom Fighter
Northrop F-5 “Freedom Fighter” là loại phản lực cơ mà tên tuổi đã gắn liền với chiến tranh Việt Nam, đồng thời đem lại uy tín (và bạc tỷ) cho hãng chế tạo (Northrop) vì hai nguyên nhân sau:
(1) F-5 là loại phi cơ mới tinh được Không Quân Hoa Kỳ thử nghiệm tại chiến trường Việt Nam.
(2) Các hoa tiêu của KLVNCH qua những thành tích tạo được trên F-5, đã “quảng cáo” một cách vô cùng hữu hiệu cho loại phi cơ phản lực đa năng “dành cho nhà nghèo” này, khiến sau đó F-5 đã trở thành một trong những loại chiến đấu cơ phản lực phổ biến nhất trong khối tự do, hãnh diện mang cờ hiệu của gần 40 không lực trên khắp thế giới!
Thế nhưng lịch sử chế tạo chiếc F-5 lại là một chuỗi ngày dài lận đận. Kể cả sau khi đã ra chào đời, F-5 vẫn còn bị nhiều người “hiểu lầm” và đánh giá thấp. Nguyên do là vì xưa nay Hoa Kỳ thường có khuynh hướng tiết kiệm tiền bạc bằng cách cải biến một số kiểu phi cơ huấn luyện thành phi cơ võ trang để viện trợ cho các quốc gia đồng minh, hoặc bán rẻ cho các không lực “nhà nghèo”. Thí dụ điển hình là chiếc T-28 Trojan.
Nhưng nếu chỉ vì do cùng một hãng chế tạo và có hình dáng giống hệt nhau mà cho rằng chiến đấu cơ F-5 Freedom Fighter nguyên là chiếc phi cơ huấn luyện T-38 Talon, như một số tác giả đã viết, thì hoàn toàn không đúng, và không nhiều thì ít đã làm giảm giá trị của chiến đấu cơ bán chạy nổi tiếng này. Một cách chính xác, chỉ có thể viết: tiền thân của cả F-5 lẫn T-38 chính là chiếc N-156 của hãng Northrop.
Khởi đầu vào năm 1954, một toán kỹ sư của hãng Northrop do vị Phó tổng giám đốc dẫn đầu, sau một vòng thăm viếng các quốc gia đồng minh ở Âu Châu và Á Châu, đã nhận ra một điều: tới khi bắt buộc phải thay thế các phản lực F-84, F-86 cũ kỹ lỗi thời, đại đa số các quốc gia này sẽ không đủ khả năng tài chánh để mua các loại phi cơ đắt tiền trong “Century Series” hoặc các loại tối tân hơn sẽ ra đời sau này, vì thế Hoa Kỳ cần phải chế tạo một loại chiến đấu cơ siêu thanh đa năng với giá thành rẻ và bảo trì ít tốn kém để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia nói trên.
[“Century Series” gồm bảy loại “F siêu thanh”: F-100 Super Sabre, F-101 Voodoo, F-102 Delta Dagger, F-104 Starfighter, F-105 Thunderchief, F-106 Delta Dart, và F-110 sau này cải danh thành F-4 Phantom II]
USAF F-105D Thunderchief
Cùng thời gian, hãng General Electric đã thành công trong việc chế tạo J-85, một loại động cơ phản lực nhỏ nhưng có sức đẩy rất mạnh để sử dụng cho các loại hỏa tiễn, mà hãng Northrop cho là động cơ lý tưởng để trang bị cho loại phi cơ mà họ dự định nghiên cứu chế tạo. Với vốn tự túc của công ty, Northrop bắt đầu dự án N-156, gồm hai kiểu N-156F (chiến đấu cơ) và N-156T (phi cơ huấn luyện).
Cũng trong năm 1955, Bộ Không Quân Hoa Kỳ công bố bản Yêu cầu Khả năng Hoạt động Tổng quát (GOR: General Operational Requirement) của thế hệ phản lực cơ huấn luyện siêu thanh, qua đó hãng Northrop nhận thấy chiếc N-156T của mình hội đủ các yêu cầu căn bản, liền tiến hành công việc bổ túc, hoàn chỉnh cho phù hợp với GOR. Cuối năm 1955, kiểu N-156T được Bộ Không Quân chính thức chấp thuận và đặt phiên hiệu T-38 “Talon”.
Năm 1959, chiếc YT-38 thứ nhất (“Y” nghĩa là phi cơ thử nghiệm - prototype) được bay thử và tới đầu năm 1961, chiếc T-38 đầu tiên đã được chuyển giao cho Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện Không Quân (ATC: Air Training Command). Từ đó, bắt đầu lịch sử của một kiểu phi cơ huấn luyện an toàn, đa năng, tiết kiệm và bền bỉ nhất trong lịch sử Không Quân Hoa Kỳ; 20 năm sau, trong số 1.187 chiếc T-38 được chế tạo, vẫn còn hơn 1.000 chiếc tiếp tục hoạt động; và 40 năm sau, những đặc tính căn bản của T-38 vẫn không thay đổi.
Northrop T-38 Talon
Trước những đặc tính và khả năng của T-38 Talon, sau này phi đội biểu diễn “Thunderbirds” lừng danh của Không Quân Hoa Kỳ đã thay thế các phi cơ F-4E Phantom II của phi đội bằng T-38.
* * *
Sau khi kiểu N-156T được chọn để trở thành phi cơ huấn luyện siêu thanh T-38, công việc nghiên cứu chế tạo kiểu chiến đấu cơ N-156F tuy có bị đình trệ nhưng chưa bao giờ bị dẹp bỏ, vì hãng Northrop vẫn tin tưởng sẽ có ngày Hoa Kỳ cần tới một loại chiến đấu cơ tương tự để viện trợ hoặc bán rẻ cho các đồng minh “nhà nghèo”.
Vì thế, vững tâm nhờ hợp đồng cung cấp T-38 cho Không Quân, hãng Northrop quyết định “đánh bạc” bằng cách tự bỏ vốn tiếp tục nghiên cứu chế tạo chiếc N-156F. Những khác biệt chính giữa hai kiểu phi cơ là hai ống hút không khí (engine intakes) của N-156F lớn hơn để tăng công suất của động cơ, cánh mỏng hơn để giảm sức cản, thêm cánh tăng nâng ở phía trước cánh (leading-edge wing flaps) để gia tăng sức nâng khi cất cánh và gia tăng trọng tải của phi cơ, đồng thời một dù thắng cũng được trang bị ở phía sau đuôi.
Năm 1958, những cố gắng của hãng Northrop tưởng đã được đền bù xứng đáng khi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ nhận ra rằng một loại phản lực siêu thanh gọn nhẹ như N-156F sẽ là phi cơ lý tưởng để cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong Chương trình Viện trợ Quân sự (MAP: Military Assistance Program). Trong một văn thư gửi cho hãng Northrop, Bộ Quốc Phòng đã chấp thuận trợ cấp ngân khoản 50 triệu Mỹ kim cho hãng này chế tạo 3 chiếc N-156F để bay thử tại căn cứ không quân Edwards, California.
Tháng 5/1959, chiếc N-156F đầu tiên - được đặt một cái tên mang ý nghĩa rất “quốc tế” là “Freedom Fighter” - đã được trình diện quan khách, và bay thử một tháng sau đó. Ít lâu sau, chiếc thứ hai cũng được hoàn tất và bay thử. Tuy nhiên, bước sang năm 1960, khi chiếc thứ ba còn đang nằm trong xưởng ráp thì chính phủ Hoa Kỳ đã dẹp bỏ chương trình viện trợ MAP, chương trình đặt mua “Freedom Fighter” vì thế cũng bị dẹp bỏ theo.
Hai năm sau (1962), tình hình quốc tế thay đổi, cuộc chiến tranh lạnh trở nên cực kỳ gay gắt với sự đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên Xô; quyết tâm “bảo vệ hòa bình thế giới bằng mọi giá” của chính phủ Kennedy đã giúp hồi sinh chương trình chế tạo “Chiến Sĩ Tự Do” (Freedom Fighter).
MiG-21
Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chính thức loan báo việc chọn chiếc N-156F để cung cấp cho các đồng minh trong chương trình MAP (đã được tái tục), và hãng Northrop được yêu cầu chế tạo hai kiểu: 1 chỗ ngồi để tác chiến và 2 chỗ ngồi để vừa tác chiến vừa huấn luyện. Kết quả, chiếc F-5A và chiếc F-5B ra đời.
Thoạt đầu, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ đặt mua 71 chiếc F-5A và 15 chiếc F-5B, tuy nhiên hãng Northrop một lần nữa đã tiên liệu được tương lai rực rỡ của loại phi cơ này nên đã chuẩn bị sản xuất với số lượng lớn, đồng thời nhắm vào cả những khách hàng không phải đối tượng viện trợ (MAP) của Hoa Kỳ, chẳng hạn Gia-nã-đại, Hòa-lan và Tây-ban-nha.
Về phía Không Quân Hoa Kỳ, những chiếc F-5 đầu tiên đã được trao cho Phi Đoàn Huấn Luyện Phi Hành Đoàn Tác Chiến 4441 (4441st Combat Crew Training Squadron) tại căn cứ không quân Williams, Arizona, vào năm 1964. Đơn vị này có nhiệm vụ huấn luyện phi công cho những quốc gia sẽ nhận lãnh F-5 trong chương trình MAP, đồng thời còn huấn luyện cả một số phi công Hoa Kỳ thuộc các Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự (MAAG) với mục đích hướng dẫn, giúp đỡ các quốc gia đồng minh trong việc thích ứng loại phi cơ mới với các điều kiện và môi trường tại mỗi địa phương.
Đợt F-5 thứ hai được trao cho Phi Đoàn 4503 Khu Trục Chiến Thuật (4503rd TFS: Tactical Fighter Squadron) gồm toàn những phi công dày dạn kinh nghiệm, tình nguyện tới căn cứ không quân Williams để bay thử và lượng giá chiếc F-5. Sau đó, để thử nghiệm F-5 trên chiến trường thực tế, Không Quân Hoa Kỳ đã tiến hành
“Chiến Dịch Cọp Con”, tức Operation Skoshi Tiger (“Skoshi”, tiếng Nhật có nghĩa là “nhỏ”) đưa một số F-5 sang tham chiến tại Việt Nam để lượng giá. Đơn vị F-5 đặc biệt này mang danh xưng Phi Đoàn 10 Khu Trục Cảm Tử (10th Fighter Commando Squadron).
Skoshi Tiger F-5C
Ngày 20/10/1965, 12 chiếc F-5 đầu tiên rời căn cứ không quân Williams, sau hai chặng nghỉ đã đáp xuống Biên Hòa vào trưa ngày 23/10, và 5 tiếng đồng hồ sau đó đã xuất trận lần đầu tiên.
Nhiệm vụ của Phi Đoàn 10 Cảm Tử là thử nghiệm khả năng của F-5 trong tất cả mọi nhiệm vụ dự trù cho loại phi cơ này: oanh kích, yểm trợ tiếp cận, hộ tống các phi cơ trinh sát trên không phận Lào và Bắc Việt. Vì bán kính hoạt động hạn chế của F-5, những phi vụ bay sang Lào và ra miền Bắc đều xuất phát từ Đà Nẵng và được tiếp tế nhiên liệu trên không. Ngoài ra, những chiếc F-5 này còn tham gia các cuộc không tập Bắc Việt với nhiệm vụ bảo vệ các phi cơ làm nhiệm vụ oanh kích (loại phi vụ tuần tiễu, khám phá và ngăn chặn phi cơ địch được gọi là MiG CAP; CAP: Combat Air Patrol). Rất tiếc, vào thời gian đó những chiếc MiG của Bắc Việt chưa dám lên nghênh chiến cho nên F-5 đã không có cơ hội để “đọ sức”.
F-5A Freedom Fighter Bien Hoa Air Base
Sau bốn tháng tham chiến, Phi Đoàn 10 đã chứng minh F-5 đúng là loại phi cơ lý tưởng cho các không lực nhỏ và nghèo. So với tất cả các loại chiến đấu cơ phản lực của Hoa Kỳ đang được sử dụng tại chiến trường Việt Nam vào lúc đó, F-5 tuy mang ít bom đạn hơn nhưng lại đạt được những thành tích ở chiến trường không thua gì F-100, F-4.
(Chú thích 1)
Nhưng quan trọng hơn cả phải là ưu điểm ít bị trục trặc nhất, có tỷ lệ giờ bảo trì/giờ bay thấp nhất, và công việc bảo trì cũng đơn giản nhất (các chuyên viên kỹ thuật của phi đoàn đã tạo kỷ lục thay động cơ trong thời gian chỉ mất 1 giờ 55 phút trong điều kiện “dã chiến”).
Bên cạnh đó, các phi công còn đánh giá F-5 là loại phản lực rất “dễ trị”, với các bộ phận điều khiển có độ chính xác rất cao.
Trong thời gian bốn tháng nói trên, Phi Đoàn 10 đã thực hiện 3.500 phi xuất với hơn 4.000 giờ bay tác chiến, và chỉ bị rớt hai chiếc vì hỏa lực phòng không của địch (có tài liệu ghi chỉ bị rớt một chiếc). Tất cả những chiếc còn lại về sau được chuyển giao cho KQVN.
Sau kết quả thử nghiệm, F-5 Freedom Fighter đã được Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Thuật Hoa Kỳ (TAC: Tactical Air Command) đặt mua thêm để trang bị cho các phi đoàn tại nội địa cũng như ở hải ngoại. Sau này, F-5 còn trở thành chiến đấu cơ căn bản của gần 40 không lực trên thế giới, trong đó có những quốc gia đã ký hợp đồng với hãng Northrop để ráp nhượng quyền tại địa phương với một số cải biến, chẳng hạn các kiểu CF-5 của Gia-nã-đại, NF-5 của Hòa-lan, SF-5 của Tây-ban-nha...
Về sau, bước sang thập niên 1970, sự thành công vượt bực của F-5A đã được nối tiếp qua thế thệ thứ hai là chiếc F-5E Tiger II (gọi là “Tiger II” vì trước kia đã có chiếc F-11 “Tiger” của Hải Quân Hoa Kỳ).
Trở lại với năm 1966, trong lúc Chiến Dịch Skoshi Tiger đang tiến hành, vào tháng 6 năm đó, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chấp thuận việc thay thế trang bị cho sáu phi đoàn khu trục A-1 Skyraider hiện hữu của KQVN bằng phi cơ phản lực, gồm hai phi đoàn F-5 và bốn phi đoàn A-37. Việc trang bị F-5 được tiến hành trước vì lúc đó loại phản lực này đã có sẵn tại Việt Nam.
- Các Phi Đoàn F-5:
* Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”
Vào giữa năm 1966, 33 hoa tiêu khu trục trong KLVNCH đã được tuyển chọn để gửi sang Hoa Kỳ xuyên huấn trên phản lực cơ siêu thanh F-5.
Ưu tiên một được dành cho các hoa tiêu của Biệt Đội 615 oanh tạc (B-57) mới bị giải thể, và ba người đã được tuyển chọn:
- Đại úy Lê Xuân Lan
- Đại úy Nguyễn Hữu Hoài
- Trung úy Đàm Thượng Vũ
Kế đến là những hoa tiêu được đề nghị và tuyển chọn từ các phi đoàn khu trục cánh quạt A-1, mỗi phi đoàn một phi tuần trưởng và ba phi tuần viên.
Phi đoàn 514 (Phượng Hoàng):
- Thiếu úy Lê Như Hoàn
- Thiếu úy Thăng Quốc Phan
- Thiếu úy Nguyễn Trí Kiên
- Thiếu úy Trịnh Hữu Trí
Phi đoàn 516 (Phi Hổ):
- Trung úy Phạm Quang Điềm
- Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi
- Thiếu úy Vũ Viết Quý
- Thiếu úy Mạc Đức Ninh
Phi đoàn 518 (Phi Long):
- Thiếu úy Phạm Đình Anh
- Thiếu úy Nguyễn Quang Vinh
- Thiếu úy Nguyễn Xuân Dũng
- Thiếu úy Võ Anh Tài
Phi đoàn 520 (Thần báo):
- Thiếu úy Trịnh Bửu Quang
- Thiếu úy Nguyễn Đạm Thuyên
- Thiếu úy Trương Công Chánh
- Thiếu úy Nguyễn Thành Tri
Phi đoàn 522:
- Thiếu úy Lê My
- Thiếu úy Nguyễn Quốc Trị
- Thiếu úy Lê Hải
- Thiếu úy Vũ Ngô Dũng
Phi đoàn 524 (Thiên Lôi ):
- Thiếu úy Nguyễn Văn Tường
- Thiếu úy Nguyễn Anh Tăng
- Thiếu úy Nguyễn Văn Cổn
- Thiếu úy Đào Văn Lập
Ngoài ra còn có một số phi công được Bộ Tư lệnh KQ chọn trực tiếp theo đề nghị của Thiếu tá Võ Văn Sĩ, trưởng toán đi xuyên huấn, gồm:
- Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
- Trung úy Lưu Tùng Cương
- Trung úy Nguyễn Thành Dũng
- Trung úy Nguyễn Văn Vui
Cùng với Đại úy Nguyễn Quốc Hưng, vừa mãn nhiệm Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Căn cứ Lackland, người sau này sẽ giữ chức vụ Phi đoàn trưởng đầu tiên của Phi Đoàn.
Vì tất cả đều là những phi công khu trục dày dạn kinh nghiệm chiến trường, việc xuyên huấn không gặp trở ngại nào đáng kể. Mỗi khóa học kéo dài từ ba tháng rưỡi tới bốn tháng, sau 88 giờ học bay phản lực siêu thanh trên phi cơ huấn luyện T-38 Talon, các sĩ quan khóa sinh được thực tập trên chiến đấu cơ F-5A. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, các hoa tiêu tốt nghiệp khóa xuyên huấn đầu tiên trở về Việt Nam.
Trong số 33 phi công của khóa, chỉ có hai người không tốt nghiệp (vì lý do sức khỏe), và trong số tốt nghiệp, có bốn hoa tiêu đoạt các giải xuất sắc, gồm Trung úy Nguyễn Đạm Thuyên với giải tác xạ chính xác (Top Gun trophy), Trung úy Nguyễn Thành Dũng, Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi và Trung úy Trương Công Chánh với các giải tốt nghiệp ưu hạng (Academic trophies).
Trung úy Nguyễn Đạm Thuyên, Trung úy Nguyễn Thành Dũng, Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi và Trung úy Trương Công Chánh
Trước đó, vào tháng 9/1966, một số chuyên viên kỹ thuật đã được gửi sang CCKQ Clark ở Phi-luật-tân để học bảo trì F-5. Trở về nước, các hoa tiêu và nhân viên kỹ thuật VN đã tới làm việc tại Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ để chuẩn bị cho công việc chuyển giao. Trong thời gian này, mặc dù chưa chính thức tiếp nhận phi cơ, các phi công VN cũng đã thực hiện một số phi vụ tác chiến trên F-5.
Về tổ chức nhân sự của phi đoàn phản lực F-5 đầu tiên của KLVNCH, trong số 31 phi công đầu tiên tốt nghiệp F-5, Thiếu tá Võ Văn Sĩ trở lại chức vụ cũ tại Không Đoàn 23 Chiến Thuật, Đại úy Nguyễn Hữu Hoài và Trung Úy Lưu Tùng Cương trở về Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Đại Úy Lê Xuân Lan về Bộ Tư Lệnh KQ, còn lại 27 phi công về Phi Đoàn 522.
Lễ chuyển giao 20 chiến đấu cơ F-5 Freedom Fighter của Hoa Kỳ cho VNCH tại căn cứ KQ Biên Hòa
Ngày 1/6/1967, trong một buổi lễ trọng thể tại CCKQ Biên Hòa với sự hiện diện của Đại sứ Hoa Kỳ, 20 chiếc F-5 (có tài liệu ghi 19 chiếc, gồm 17 F-5A và hai F-5B) được Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ chính thức chuyển giao cho phía VN, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”, trực thuộc Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Không Đoàn 23 Chiến Thuật (Biên Hòa).
Thế là đúng 11 năm sau ngày những “quan tài bay” F8F Bearcat từ Vũng Tàu bay về đáp xuống Biên Hòa, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục (1/6/1956), KQVN đã bước sang kỷ nguyên phản lực siêu thanh.
Ban chỉ huy đầu tiên của Phi đoàn 522 Thần Ưng gồm:
- Phi đoàn trưởng: Đại úy Nguyễn Quốc Hưng (được thăng cấp Thiếu tá vào ngày thành lập phi đoàn)
- Phi đoàn phó: Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
- Trưởng phòng Hành Quân: Đại úy Đàm Thượng Vũ
- Sĩ quan Phụ tá Hành Quân: Trung úy Phạm Quang Điềm
- Phi đội trưởng Phi Đội 1: Trung úy Nguyễn Thành Dũng
- Phi đội trưởng Phi Đội 2 kiêm SQ An Phi: Trung úy Phạm Đình Anh
- Phi đội trưởng Phi Đội 3 kiêm SQ Huấn Luyện: Trung úy Nguyễn Văn Tường
- Phi đội trưởng Phi Đội 4: Trung úy Trịnh Bửu Quang
Và các phi công:
- Trương Công Chánh
- Trịnh Thành Châu
- Nguyễn Văn Cổn
- Nguyễn Xuân Dũng
- Vũ Ngô Dũng
- Nguyễn Văn Ghi
- Lê Hải
- Nguyễn Trí Kiên
- Đào Văn Lập
- Lê My
- Mạc Đức Ninh
- Thăng Quốc Phan
- Vũ Viết Quý
- Võ Anh Tài
- Nguyễn Anh Tăng
- Nguyễn Đạm Thuyên
- Nguyễn Thành Tri
- Nguyễn Quốc Trị
- Trịnh Hữu Trí
- Nguyễn Quang Vinh
[Các đời phi đoàn trưởng kế tiếp của PĐ-522 lần lượt là: Thiếu tá Đàm Thượng Vũ (1970), Thiếu tá Nguyễn Thành Dũng (1972), và Thiếu tá Nguyễn Đình Lộc, 1973]
Ngay sau đó, các phi cơ F-5 đã được phân bố tới một số căn cứ có khả năng tiếp nhận phản lực cơ với hai mục đích: yểm trợ chiến trường và... biểu dương lực lượng!
F-5 rất được phi công VN ưa thích vì khả năng thao tác và dễ điều khiển. Có thể nói, sau khi được trao cho các phi công của PĐ-522, chiếc F-5 mới chứng tỏ được sự hữu hiệu và thi thố mọi khả năng của nó tới mức tối đa.
VNAF F-5 Freedom Fighter
Dù rất ít kinh nghiệm bay phản lực, các phi công VN có thể tấn công mục tiêu với một độ chính xác gần như tuyệt đối nhờ hệ thống điều khiển tối tân nhưng đơn giản. Đối với các chuyên viên kỹ thuật VN, F-5 cũng được xem là loại phi cơ tương đối dễ bảo trì nhất.
Nói chung, về cả mặt tuyên truyền lẫn chiến đấu, việc được trang bị chiến đấu cơ phản lực siêu thanh F-5 đã đưa KLVNCH bước vào một kỷ nguyên mới. PĐ-522 Thần Ưng trở thành biểu tượng sáng giá nhất của quân chủng.
Trong tháng đầu tiên chính thức hoạt động (tháng 6/1967), phi đoàn đã thực hiện 388 phi xuất với 443 giờ bay; sang tháng 7, lên 436 phi xuất với 477 giờ bay. Tới tháng 12, số phi xuất đã lên tới 527 với 556 giờ bay. So với tiêu chuẩn của Không Lực Hoa Kỳ thì con số nói trên được mô tả là vượt mức quá xa! Sau này, các hoa tiêu F-5 của KQVN cũng là những phi công đầu tiên trên thế giới được hãng Northrop trao bằng tưởng lệ “1000 giờ bay trên F-5”.
Rất tiếc, việc chuyển giao phi cơ cho phi đoàn F-5 thứ hai đã không được tiến hành ngay sau đó mà phải đợi tới 5 năm sau (1972), khi Hoa Kỳ đã rút khỏi VN và trao toàn bộ trách nhiệm yểm trợ chiến trường cũng như bảo vệ không phận lại cho KQVN.
Nguyên nhân của sự chậm trễ này, theo phía Hoa Kỳ, là cần phải cải tiến hệ thống vũ khí tấn công các mục tiêu diện địa.
Sau này người ta được biết những chiếc F-5 đầu tiên được đưa sang thử nghiệm tại chiến trường VN (Operation Skoshi Tiger), đã không thực sự “hoàn hảo” như trong bản lượng giá của các phi công Phi Đoàn 10 Cảm Tử, mà các “Cọp Con” cũng có ít nhất hai khuyết điểm sau đây:
(1) Trong một số trường hợp, bom dưới cánh khi thả đã bị kẹt lại, giống như trường hợp chiếc F-4 Phantom II.
(2) Khi tác xạ bằng đại bác 20 ly ở hai bên mũi phi cơ, khói của thuốc súng tỏa ra đã che khuất tầm nhìn của phi công, một khuyết điểm tuy không đáng ngại đối với các oanh tạc cơ B-26 chậm chạp của thời Đệ Nhị Thế Chiến nhưng với một chiến đấu cơ siêu thanh như F-5 thì rất nguy hiểm, nhất là khi đang chúi xuống đất.
(Chú thích 2)
* * *
KLVNCH không chỉ là không lực đầu tiên trên thế giới (sau Hoa Kỳ) sử dụng phản lực cơ F-5 trên chiến trường mà còn là không lực có số lượng F-5 nhiều nhất trong số gần 40 không lực ngoại quốc sử dụng loại phản lực này.
Những không lực kể trên ngoài các quốc gia thành viên Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) còn có Gia-nã-đại ở Bắc Mỹ; Hy-lạp, Hòa-lan, Thụy-sĩ... ở Âu Châu; Iran, Ả-rập Saudi, Jordan... ở Trung Đông; Ba-tây, Chí-lợi... ở Nam Mỹ; Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Tân-gia-ba, Nam Dương, Phi-luật-tân... ở Á châu; Ethiopia, Kenya... ở Phi châu.
Riêng tại Hoa Kỳ, F-5 được trang bị cho các phi đoàn của Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Thuật (TAC). Về sau, khi F-5 đã được thay thế bởi F-16 Fighting Falcon, Không Quân Chiến Thuật vẫn giữ lại trên 100 chiếc F-5E Tiger II trong bốn phi đoàn huấn luyện vũ khí (Fighter Weapons Squadron) để đóng vai “phi cơ địch” trong các chương trình huấn luyện về không chiến. Trường Huấn Luyện Vũ Khí của Hải Quân Hoa Kỳ (Top Gun) cũng sử dụng F-5E và F-5F (2 ghế ngồi) với mục đích tương tự.
* * *
Trở lại với chương trình hiện đại hóa KLVNCH, phải đợi hơn 5 năm sau ngày phi đoàn đầu tiên trang bị phản lực cơ siêu thanh F-5 được chính thức thành lập (PĐ-522), mãi tới cuối năm 1972, phía VN mới có thêm, không phải một mà tới năm phi đoàn F-5; việc tăng cường ồ ạt này nằm trong dự án Tăng Cường (Enhance) của chương trình “Việt Nam hóa”.
Trước đó, phía VN đã căn cứ vào những thỏa thuận giữa đôi bên tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Việt ở Midway (giữa TT Nixon và TT Nguyễn Văn Thiệu) để yêu cầu Hoa Kỳ chuyển giao ba phi đoàn phản lực F-4 Phantom II đóng tại Đà Nẵng, tuy nhiên Hoa Kỳ đã từ chối và cho biết trước khi Không Lực Hoa Kỳ rút đi hết để trao lại toàn bộ trách nhiệm bảo vệ không phận cho phía VN, KQVN sẽ được trang bị F-5E Tiger II, là loại có khả năng không chiến tương đương với MiG-21 - chiến đấu cơ tối tân nhất của Không Quân Bắc Việt lúc bấy giờ.
(Chú thích 3)
Về hình dáng, F-5E giống F-5A tới 95% (chỉ dài hơn 1.5m, sải cánh rộng hơn 7cm, đuôi cao hơn 10cm), kể cả khi đậu dưới đất cũng chỉ có các phi công và nhân viên bảo trì mới có thể phân biệt.
Về trang bị căn bản và khả năng, F-5E cũng không mấy khác F-5A; lượng bom đạn trang bị chỉ hơn 800 lbs.
Nhưng đó chỉ là “bề ngoài”, còn “bên trong” đã có rất nhiều cải tiến với mục đích biến F-5 thành một chiến đấu cơ có khả năng không chiến khả dĩ đương cự được với MiG-21.
Trước hết, F-5E được trang bị hai động cơ mạnh hơn 25% để đạt được thăng tốc 8.750m/phút, và tốc độ tối đa Mach 1.6 (so với Mach 1.4 của F-5A).
Kế đến là hệ thống ra-đa tối tân Emerson Electric APQ-153 (loại trang bị trên F-4C Phantom II), khả năng thả bom theo hệ thống hướng dẫn BOBS, trang bị hỏa tiễn không-đối-không AIM-9 Sidewinder đời mới nhất và các trang bị điện tử để hoạt trong mọi điều kiện thời tiết, bất kể ngày đêm.
Ngoài ra, các cánh tăng nâng (flaps) cũng được cải tiến để gia tăng khả năng thao tác (manoeuvre) trong không chiến. Theo các chuyên gia về không chiến của Hoa Kỳ, F-5E chắc chắn ăn đứt MiG-17 và ngang ngửa với MiG-21. Từ khi KQVN nhận được F-5E, tại Biên Hòa và Đà Nẵng luôn luôn có hai chiếc ứng trực ở đầu phi đạo, sẵn sàng cất cánh để nghênh cản phi cơ địch.
Tuy nhiên, vì vào năm 1972 kiểu F-5E còn đang được thử nghiệm, Hoa Kỳ đã tạm thời chuyển giao F-5A cho VN, khi nào có F-5E thì sẽ “một đổi một”. Vì không có đủ số F-5A (và B), Hoa Kỳ đã phải mượn tạm một số của các không lực Nam Hàn, Đài Loan và Iran (lúc đó còn là đồng minh của Hoa Kỳ) để kịp chuyển giao cho KQVN trước thời hạn ngưng viện trợ vũ khí, chiến cụ (ngày 10/11/1972) theo Hiệp Định Paris.
Trong hai dự án Tăng Cường (Enhance) và Tăng Cường Thêm (Enhance Plus), tổng cộng 118 chiếc F-5 sau khi tháo gỡ cánh đã được các vận tải cơ khổng lồ C-5A Galaxy chở tới Biên Hòa, trang bị cho năm phi đoàn tân lập, gồm có:
Bốn phi đoàn đặt căn cứ tại Biên Hòa (nơi đã có sẵn Phi Đoàn 522 Thần Ưng), gồm:
- PĐ-536 Thiên Ưng (phi đoàn trưởng đầu tiên: Thiếu tá Đàm Thượng Vũ)
- PĐ-540 Hắc Ưng (Thiếu tá Nguyễn Tiến Thành)
- PĐ-542 Kim Ưng (Thiếu tá Trịnh Bửu Quang)
- PĐ-544 Hải Ưng (Thiếu tá Nguyễn Văn Tường)
Một phi đoàn đặt căn cứ tại Đà Nẵng để nghênh cản trong trường hợp các MiG của CSBV xâm nhập từ hướng bắc: Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn, phi đoàn trưởng: Thiếu tá Phạm Đình Anh.
Trừ Phi Đoàn 538 trực thuộc Không Đoàn 61 Chiến Thuật, SĐ1KQ, tất cả các phi đoàn F-5 còn lại đều trực thuộc Không Đoàn 63 Chiến Thuật, SĐ3KQ, cho nên Không Đoàn này thường được gọi là “Không Đoàn F-5”. Không đoàn trưởng: Đại tá Võ Văn Sĩ – nguyên trưởng toán đi xuyên huấn F-5 trước kia.
Vào những tháng cuối năm 1973, đầu 1974, các phi cơ F-5E Tiger II được chuyển giao (một đổi một) cho KQVN, các F-5A “mượn tạm” của Nam Hàn, Đài Loan và Iran được hoàn trả cho chủ cũ.
Tính tới tháng 3/1974, sau khi nhận tám chiếc F-5E cuối cùng, KLVNCH có tổng cộng 153 phản lực cơ F-5, đưa tới tình trạng dở khóc dở cười là không đủ hoa tiêu để bay, cho nên có 36 chiếc đã không bao giờ được đem ra sử dụng!
Về số lượng F-5E chuyển giao cho KQVN, không có bất cứ tài liệu chính thức nào ghi lại. Chỉ biết theo dự án Tăng Cường Thêm, KQVN sẽ có ba phi đoàn trang bị F-5E; và theo báo cáo chính thức của Hoa Kỳ, trong số phi cơ bay sang Thái-lan vào những ngày cuối tháng 4/1975, có 22 F-5E.
(Chú thích 4)
(Còn tiếp: A-37 Dragonfly)
CHÚ THÍCH:
(1) Một tác giả viết về F-5 cho biết như sau “...trên thực tế theo Đại úy Bob Terbet trong ‘Air Enthusiast’ số 105 May/June 2003 thì lượng bom đạn F-5 trang bị trong các phi vụ hành quân tương đương với F-100”.
Theo chúng tôi, nếu có sự “tương đương” ấy là do F-100 mang ít hơn số lượng cho phép. Tất cả mọi tài liệu chúng tôi tham khảo từ trước tới nay, trong đó có Freedom Fighter (USA) – F-5A- USNI Military Database, đều cho biết khả năng trang bị bom đạn của F-5A là 6,200 lbs (2,812 kg), trong khi của F-100 là 7,040 lbs (3,190 kg).
(2) Sau này người ta được biết chắc chắn công việc cải tiến hệ thống vũ khí trên F-5 đã không kéo dài tới... 5 năm! Bằng chứng là khi chương trình Tăng Cường Thêm (Enhance Plus) được tiến hành gấp rút vào cuối năm 1972, để có đủ số lượng phản lực cơ trang bị cho KLVNCH, Hoa Kỳ đã “mượn tạm” F-5A, F-5B của các Không Lực Nam Hàn, Đài Loan, Iran, và tất cả những chiếc F-5A, F-5B này đều ĐÃ ĐƯỢC cải tiến hệ thống vũ khí. Suy ra, việc Hoa Kỳ tạm ngưng cung cấp F-5 cho KLVNCH vào năm 1967, 1968 phải có một nguyên nhân khó hiểu nào đó.
USAF F-4 Phantom II
(3) Theo ký ức của một vị sĩ quan từng phục vụ tại Khối Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ, ngày ấy đã có kế hoạch thành lập hai phi đoàn sử dụng F-4 Phantom II và sáu phi đoàn sử dụng A-10 Thunderbolt cho KQVN.
Chương trình F-4 sẽ khởi sự thực hiện vào tháng 7 năm 1975: một số hoa tiêu F-5 nhiều kinh nghiệm cùng với những hoa tiêu trẻ được gửi sang Hoa Kỳ để xuyên huấn trên F-4. Kế tiếp vào khoảng tháng 9/1975 sẽ lần lượt gửi các hoa tiêu A-37 sang Hoa Kỳ để được xuyên huấn trên A-10. Chương trình “hẫp dẫn” này đã có trên giấy mực. Rất tiếc, vận nước sớm suy vong!
(4) Nguyên nhân khiến phía Hoa Kỳ không tiết lộ tổng số F-5E được chuyển giao có lẽ vì lúc đó việc “một đổi một” này đã bị phía CSBV tố cáo là vi phạm Hiệp Định Paris: Hà Nội cho rằng F-5E là một loại chiến đấu cơ mới, khác hẳn F-5A. Cũng nên biết nguyên tắc căn bản trong việc “một đổi một” là “hàng cũ” và “hàng mới” phải cùng một loại. Thế nhưng trong khi Hoa Kỳ âm thầm đổi F-5E cho VNCH, một phi công F-5E (cấp tá) của KQVN khi được các phóng viên tiếp xúc đã ra sức đề cao khả năng không chiến của loại phi cơ mới, vô tình gây ra rắc rối ngoại giao. Sau đó, đích thân Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh KQ, đã phải mở một cuộc họp báo để “đính chính”, cho biết khả năng của F-5E cũng chỉ tương đương với F-5A.
USS Midway transporting ex-VNAF aircraft from Thailand to Guam
Đa số tác giả tin rằng tổng số F-5E được chuyển giao cho KQVN là 40 chiếc, mà theo Ralph Wetterhahn, tác giả bài viết “Escape to U Taphao”, chỉ có 21 chiếc F-5E bay được sang Thái Lan trong những ngày cuối tháng 4/1975. Như vậy số F-5E bị bỏ lại VN phải lên tới hàng chục.
Ex-VNAF F-5E Tiger II in Poland Museum
Theo những nguồn tin không chính thức, ít nhất đã có hai F-5E trong số bị bỏ lại VN sau đó đã được tháo gỡ, chở sang Liên Xô để lượng giá. Tuy nhiên, trong một tuyên bố chính thức, các giới chức thẩm quyền của Hoa Kỳ cho biết trong số tất cả các loại phi cơ bị bỏ lại VN không loại nào có những trang bị “tối tân tới mức phải quan ngại” (khi bị lọt vào tay địch). Dĩ nhiên, với không ít người, “tuyên bố chính thức” nói trên không đủ sức thuyết phục!
Sau đây mời độc giả đọc thêm một đoạn mới được cập nhật hóa trên trang mạng Wikiwand viết về số phận những chiếc F-5 bị lọt vào tay CSVN:
“Khi miền Nam VN bị quân Cộng Sản Bắc Việt tràn ngập vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, có khoảng 877 phi cơ bị lọt vào tay địch. Trong số đó, nghe nói có 87 chiếc F-5A và 27 chiếc F-5E. Tới tháng 11 năm đó, nhà cầm quyền CSVN đã “mời” Liên Xô lựa chọn bất cứ chiến cụ nào của Hoa Kỳ bị tịch thu đem về để lượng giá, và Liên Xô đã đem một chiếc tàu tới chở một chiếc F-5, hai động cơ (J-85) rời, tất cả các loại phụ tùng và thiết bị bảo trì về Liên Xô. Một số F-5 khác được gửi tới Ba-lan, Tiệp-khắc để tìm hiểu thêm về kỹ thuật hàng không của Hoa Kỳ, một số bị phế thải được đem trưng bày tại các viện bảo tàng ở VN. Đoàn Khu Trục 935 thuộc Sư Đoàn 372 Không Quân Nhân Dân (CSVN) là đơn vị không quân duy nhất trên thế giới vừa sử dụng MiG-21 vừa sử dụng F-5. Theo thời gian, việc thiếu phụ tùng thay thế đã đưa tới tình trạng toàn bộ F-5 bị cho nằm ụ. Nhưng mới đây, vào tháng 5 năm 2017, nghe nói CSVN đang có ý định khôi phục một số để đưa vào hoạt động trở lại.
(http://www.wikiwand.com/en/Northrop_F-5)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-
Quân Sử Không Quân VNCH, Liên Hội Ái Hữu Không Quân - Úc Châu
-
Sơ lược về sự thành lập các đơn vị Không Quân, Trần Mạnh Khôi
-
South Vietnamese Air Force, Jim Mesko
-
Flying Dragons, Robert C Mikesh
-
Phi cơ Phản lực và KQ/VNCH, Trần Lý
-
Ký ức của các niên trưởng, chiến hữu KQ: Trần Bá Hợi, Dan Hoài Bửu, Nguyễn Quí Chấn, Lê Như Hoàn, Nguyễn Thiện Ân, Lê Tuấn Đạt, Phan Huy Bách, Hoàng Văn Hùng...