"Thả dàn" là gì ?


Nguyễn Văn Sâm


...Là Dàn cải lương thả cửa chắn cho khán giả dzô coi thoải mái không soát vé nữa, thường là cuối tuồng. Sau này "Thả dàn" được sử dụng rộng rãi có nghĩa "Feel Free" như :... Xài "Thả dàn" ....Uống "Thả dàn"....

Ngày nào như ngày nấy, tôi và những đứa bạn cùng trang lứa sống trong khu gọi là Chợ Cháy của cái chợ lớn hơn là Cầu Ông Lãnh, mới qua tuổi mười, chui rúc trong những gian sạp nho nhỏ, tất cả sinh hoạt của đời sống đều diễn ra trong đó. Chừng khoảng chín giờ sáng thì đã bắt đầu chờ đợi chiếc xe Renault nhỏ và mấy chiếc xe ngựa của những đoàn cải lương chạy qua mà hai bên hông xe nào cũng có dựng hai tấm Ba-nô lớn vẽ hình quảng cáo tuồng cải lương, bu theo để xin những tấm giấy “pồ-gam” (programe) nói về tuồng hát đêm hôm ấy. Trống trong xe đánh thùng thùng điếc tai nhức óc chen với tiếng phèng la, chập chõa chát chúa không làm chúng tôi ngại ngùng, trái lại càng bị kích thích hơn. Chạy, chạy. Bu bu. Níu níu. Kêu kêu. Cả chợ ai cũng ngó theo xe quảng cáo và lũ con nít ở trần chúng tôi. Nhiều bà nhiều cô cố bước mau tới kế bên để kịp nhận một tờ. Giấy in màu xanh đỏ có hình đào kép bận quần áo đẹp đẽ sang trọng, có sơ lược tuồng tích và có những câu rất kêu quảng bá sự hay ho của tuồng sắp được diễn đêm nay.

Chúng tôi tò mò để biết họ hát tuồng gì thì ít mà để làm một thứ tiền chơi đánh bài, chơi oảnh-tù-tì với nhau thì nhiều. Người phát giấy pồ-gam nhẵn mặt và bực bội với chúng tôi. Họ hất tay không cho khi thấy mấy thằng nhỏ xin hết tờ nầy tới tờ kia. Được tờ nào thì giấu mau ra sau lưng rồi đưa tay kia ra xin tờ khác. Có thằng, thường là thằng Dần, bạo dạn hơn, chờ lúc anh phát giấy vô ý, lẹ như chớp giựt cả xấp chạy biến vô trong chợ. Bữa hôm đó nó tha hồ mà làm cái của sòng bài cào chơi tiền bằng giấy pồ-gam, đứa nào đặt mấy tấm nó cũng giở, cũng ăn thua đủ.

Nhờ những tấm giấy xanh đỏ quảng cáo kia chúng tôi biết rành mặt đào kép, biết tên gánh hát, biết tuồng tích và biết ai thủ vai gì trong tuồng. Có đứa còn rành hơn, nó biết tên thầy tuồng và gánh nào chuyên hát loại tuồng gì nữa. Thằng Mẹo với thằng Ri kể vanh vách nào là gánh Hậu Tấn của Bảy Cao chuyên hát tuồng có pháo nổ lạch tạch, có bắn súng cắc bùm với lửa xanh phát ra ở đầu súng với mùi pháo bay ra khét lẹt, gánh Hậu Tấn Năm Nghĩa chuyên hát tuồng xã hội với chủ nhơn Lư Hòa Nghĩa xuống vọng cổ mùi tận mạng bằng những tiếng ơ… ơ kéo dài mà nó bắt chước kéo theo thì lần nào cũng đứt hơi ho sặc sụa. Mấy chị đàn bà bàn nhau rằng kép Thanh Tao, kép Năm Phồi, kép Bảy Nhiêu đẹp trai nhứt hạng.

Lúc nầy mấy rạp hát thường được đoàn lớn về đóng là rạp Nguyễn Văn Hảo ở đường Galiéni, góc với đường Dixmude, gánh nhỏ hơn chút xíu thì về trụ 1, 2 tuần ở rạp Aristo, tức Trung Ương Hí Viện ở đường gì đó ngó vô ga xe lửa Sàigòn, rạp Tân Tiến xéo xéo với đình Cầu Muối vùng chợ Cầu Muối. Rạp Văn Cầm ở đường Lacaze, tức Nguyễn Tri Phương sau nầy mà có một hai lần tôi rán đi bộ theo tụi nó tới để xin giấy pồ-gam rồi khi về bị cô tôi giảng mo-ran hai ba giờ đồng hồ, đứng bắt mỏi chưn…

Rồi thì những gánh như Tỷ Phượng, Phụng Hảo, Tiếng Chuông, Phước Chung, Thanh Hương Văn Chung rồi Thanh Hương-Hùng Minh… kể cả những chuyện nho nhỏ liên quan tới đào kép chúng tôi nhiều khi cũng nghe, cũng biết. Thằng Thìn không hiểu từ đâu mà học được câu hát “Bửu Tài là rể bầu Cao, cãi vã với vợ là đào Cẩm Vân”, nó ê a câu nầy hoài bên tai bọn tôi tới nỗi hơn sáu mươi năm nay tôi còn nhớ. Còn thằng Dần lớn con nhứt bọn thì khen không tiếc lời “Coi em bé Juliette Nga bận áo đầm trước khi đoàn Hậu Tấn Năm Nghĩa của ba mở màn, ra trình diễn một bản Hành Vân hay Mẫu Tầm Tử hoặc Khổng Minh Tọa Lầu hay một hai câu vọng cổ” thì bữa hôm đó về phụ má nó bán gạo rất là hăng hái. Cái thằng lớn mau như thổi, có nhiều giấy quảng cáo nhứt, có lần nó đi coi cọp về bị đòn vậy mà ngày sau bô bô về chuyện em bé Hương Lan ca mùi đứt ruột, bỏ xa Thần đồng Quốc Thắng bên tân nhạc của những kỳ Đại Nhạc Hội vốn cũng được chúng tôi ưa thích.

Chúng tôi, những đứa còn lại, chưa đủ lớn để có tiền mua giấy vô cửa hay không đủ lém để tự tin nắm tay một bà dễ tánh nào đó theo vô rạp, vậy mà nhiều đêm rủ nhau 5, 6 đứa tới trước rạp nghe phát loa họ vặn lớn những bài ca vọng cổ như Tôn Tẫn Giả Điên : “Úy trời đất ơi cái nỗi đoạn trường ! Cũng bởi vì tôi quá tin thằng Bàng Quyên là bạn thiết với tôi cho nên ngày hôm nay mới ra nông nỗi… nó đành tâm chặt đứt một bàn chưn tôi... còn như công cuộc ngày hôm nay đây….” Mà hễ mỗi lần thằng Dần ca, dầu cho nó vô tình hứng chí ca chơi hay cố ý châm chọc thì thằng Thới què, anh của con Hiền, con nhỏ nhí thường lẽo đẽo theo tôi nắm tay bắt chia giấy program tôi xin hay giựt được, đều nổi máu quạu lên rượt nó chạy có cờ, trước khi bắt đầu rượt thằng Thới đều chụp đại một cái chổi lông gà của ai đó quơ quơ coi bộ ngầu lắm… Sớm quá thì chưa vô được dầu là đã bắt đầu màn hai. Mấy đứa tôi lang thang ăn cóc, ăn ổi cho rẻ tiền, chờ tới chừng 11 giờ, màn ba bắt đầu, đợi chú gác cửa nháy mắt nói “thả dàn” rồi quay lưng đi vô, chúng tôi vén màn cửa chạy ùa vô coi cọp vớt vát lớp chót. Khúc nầy thường là hội ngộ, trùng phùng, vinh hiển, đào kép ôm nhau cười vui sau khi hoạn nạn đã hết. Chàng vinh hiển làm quan lớn, hai ba vợ, nàng cực khổ ngày xưa trở thành mệnh phụ phu nhơn, cô tỳ nữ trung thành nhiều khi được thưởng làm vợ hai…. trước khi màn nhung kéo lại có gắn tấm bảng đề chữ Vãn và nhạc “ò e rô be đánh đu tạc dzăng nhảy dù, zo rô bắn súng” phát lên. Tiếng guốc giày lốc cốc trên đường nhựa rôm rả một hồi rồi trả sự êm đềm của đêm lại cho Sài Gòn thanh bình tạm bợ vì tiếng súng lẻ tẻ còn ở quá xa. Chuyện thanh bình của nước nhà tuy chưa có nhưng vẫn ít bén mảng tới thành phố…Vậy mà thỉnh thoảng khán giả cũng ăn mãng cầu lửa, hết lựu đạn liệng lên sân khấu rạp Nguyễn Văn Hảo khiến kép Duy Lân phải bị cụt giò, tới cà na bay lên hàng ghế thượng hạng ở tạp Aristo khiến vài ba ông bà nhà giàu mất mạng. Gánh nào lãnh đạn thì khốn đốn vài ba bữa rồi cũng đứng dậy khai trương tuồng với phong cách mới. Những tuồng phong vị Ba Tư Ngàn Lẻ Một Đêm huyền ảo diễm tình ra đời với đủ thứ đèn màu xanh đỏ vàng tím, những tuồng hiệp khách bay lộn bằng dây móc kéo lên quay vòng vòng trên sân khấu xuất hiện. Thời nầy người ta chú trọng tới tuồng tích ly kỳ, cảnh trí huyền ảo, xiêm y rực rỡ. Sự ca diễn chỉ là thứ yếu.
Rồi thì những năm gần giữa thập niên 50, gánh Kim Chung, Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô đóng đô quanh năm ở rạp Aristo với kép đẹp Huỳnh Thái, Ngọc Toàn, đào thương Bích Hợp, đào diễn Kim Chung, các đào kép phụ chuyên làm hề đồng, làm tỳ nữ như Túy Định, Thúy Liệu, Phúc Lai, Tư Vững, Ba Hội chuyên diễn những tuồng tích phong vị Trung Hoa gần giống như trong các truyện thơ Nôm của thế kỷ trước mà nhơn vật thường là giai nhơn tài tử, với những mối tình thi vị, trong sáng của soạn giả Phong Trần Tiến. Vậy mà tuồng nào tuồng nấy ăn khách quá chừng, đêm nào rạp cũng chật ních. Thời nầy an ninh trong thành phố đã vững, lựu đạn giết dân của mấy ông trời con ngoài bưng vô không còn dịp tung hoành nữa, gánh Kim Chung sau đó dời sang rạp Olympic ở đường Chasseloup Laubat rồi phát triển thành 2, rồi 3. Người coi cải lương chuyển từ từ sang thích giọng ca, cách diễn… Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Thanh Nga, Diệu Hiền, Ngọc Giàu, Ngọc Nuôi, Út Hiền, Út Hậu, Tấn Tài, Thành Được, Thanh Sang, Hữu Phước… mỗi người mỗi vẻ, mỗi làn hơi, không ai giống ai nhưng người nào cũng có giọng ca trời cho, ru hồn người nên hái ra tiền và có thể nói là góp phần đưa cải lương lên vòm trời cao của nghệ thuật. Lúc nầy giấy pồ-gam cải lương hình như đã hết, chúng tôi hơi lớn lớn, bắt đầu chuyển sang sưu tập program của Ciné, cũng in bằng giấy màu của rạp Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Eden… đặc biệt viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Chúng tôi bắt đầu làm quen với tên tuổi đào kép của thế giới văn minh bắt đầu từ đây.


Nguyễn Văn Sâm