Status :
Tham gia: Jun 2010
Posts: 1,924
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
"Khui hầm" (Open Vaught) Quân Sự Quốc Tế (tiếp theo)
Trong cẩm nang The Secrets of the Tomb, Harriman đã chọn 2 nhân vật cho giai đoạn hậu-chiến “Vietnam’ postwar là Bonesman Kerry và McCain”
- [Siêu Chiến Lược EURASIA 1920-2020_2
www.truclamyentu.info/tlls_thu-vien-bo-de-online/tvbd_tvvinh_sieu...
... 2005 interviewed U.S. POW Senate John McCain ... Cruel April = Tham muu truong WSAG, ... và tài tử phản chiến trung úy John F Kerry, ...]
Vì thế, McCain có trách nhiệm phải nói thật vào mốc thời gian decent interval (giải mật) về nhân vật có nhiều huyền thoại như HCM. Nhưng có một chuyện chắc chắn là McCain không phải phổ biến nhân vật HCM cho người Việt bị phĩnh gạc mà thôi, mà cho thế gian đều biết đấy. Nhưng cũng có một điều chắc chắn HCM thật là vậy, như ngày 20/10/2014 khai giản toà nhà Quốc Hội Mới, tam đầu chế “buộc phải trang trí phòng họp Diên-Hồng chỉ có tạc tượng HCM mà không có cờ đỏ búa liềm và tuyện đối không có câu vinh danh đảng cộng sản ở nơi trang trọng như trước”. Có nghĩa Secret Society muốn người Việt phải vinh danh HCM vì chính cụ mới là người quốc gia (tác giả viết theo góc nhìn từ Secret Society cho nên khoan quăng đá nhé; những dòng chữ tiếng Pháp từ Paris Match trích ra) Việc nầy hảy để sữ gia hậu cận đại sẽ lo. Trên đời nầy có những chuyện thấy zậy nhưng không phải zậy!)
Harriman lý giải cho rằng cuộc đổ quân Mỹ trên bờ biển Inchon, Triều Tiên thành công là do Nhóm Tham-Mưu Dân-Sự George Kennan của ông thiết kế chớ không phải do tài của các tướng-tá, cũng như ông muốn Võ Nguyên Giáp trở nên nổi tiếng vì nhu cầu chiến lược cuộc chiến VN như một công cụ gián tiếp cho quyền lợi Mỹ, vì thế sau khi bi oanh tạc 11 ngày đêm Hà Nội tuyên bố đầu hàng Mỹ đâu có chịu vì theo lịch trình Hà Nội được chỉ định “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ dưới đất và trên không 1954 và 1972” chứ sự thật Giáp thiếu căn bản quân sự, điều dễ hiểu: chả lẽ tất cả sĩ quan BV đều là thiên tài hết? Trong khi không tốt nghiệp một trường ốc đại học quân sự nào?
Đứng trên phương diện quân-sự thuần túy, bỏ qua chính-lược, ngay đến những người lính Hải-Quân bình thường cũng không dám chọn Inchon làm bãi đổ quân; Vì nơi đây toàn là San-hô và đá ngầm, tàu đổ bộ chỉ có đi vào mà không đi ra vì San-hô và đá ngầm sẽ đánh, cắt thủng và chìm tàu; Với tư-tưởng và góc nhìn của con mắt Đại Tư-Bản, Harriman cần đổ quân an-toàn và lấy yếu tố bất ngờ mà địch quân không thể tưởng-tượng được để bảo vệ 100% cho sinh mạng các Binh-sĩ và nơi đây cũng là cái ‘thùng rác’ để hủy bỏ các tàu nầy, vì quân đội Mỹ sẽ phải trang bị trong tương-lai loại tàu tối tân hơn. Còn hành quân LS 719 phải tiêu hủy nhiều trực thăng với gần 800 khẩu phòng không cổ điển, cả hai đều phải hủy bỏ tại thùng rác lộ thiên nầy bắng tính dụng của Mỹ cho kế hoạch “Aid to Russia 1941-1946 Plan renewed” dĩ nhiên phải chấp nhận sự hy sinh nhiều đoàn viên phi hành Army Aviation cho cuộc chiến vì America First.
Cuộc đổ quân tại Inchon cũng không khác gì cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy, chỉ khác ở chỗ là, Inchon bảo vệ sinh mạng con người Mỹ, còn Lam Sơn 719 tiêu diệt con người bản xứ được gọi là Cộng Sản/Quốc Gia.. Duy có một điều giống nhau là, Tư-Bản sản xuất ra các loại vũ-khí mới và hủy bỏ những chiến cụ lỗi thời tại nơi hành-quân và có sự cấu kết, đồng lõa của Liên-Xô cùng phế thải tại vùng núi-non hiểm-trở đó, những chiến cụ dư thừa, lỗi thời từ Thế chiến thứ 2. Trước khi từ giã chính trường, Harriman lại áp-lực Hành-Pháp cách chức Tướng Westmoreland và triệu hồi về Mỹ giống như Tướng Mac Arthur; Lý do đã công khai xác nhận trong một buổi họp ở Thượng-Viện. “Lực-lượng Đồng-Minh nên đánh qua Nam-Lào, để cắt đứt đường “Xa lộ Harriman” [mòn Hồ] phá tất cả ống dẫn dầu và hệ thống tồn trữ vũ-khí của CS” Cũng như Tướng háo thắng Mac Arthur, ngày 5/April/1951 gởi thơ cho Dân-Biểu Joseph Martin, lãnh-đạo dân tộc thiểu số; Xin được phong tỏa dọc bờ biển Trung-Quốc và tấn công những Căn-Cứ ở Mãn-Châu (Manchuria) có sự hiệp lực với Quân-Đội Trung-Hoa Quốc-Gia ở Đài-Loan; Vì trước đó Tướng Arthur có xin phép TT Truman để đánh Trung-Quốc dựa vào độc quyền Bom nguyên-tử, nhưng TT Truman bị sức ép của W A Harriman nên từ chối cho là quá nguy-hiểm, (Dĩ nhiên tướng Arthur làm sao hiểu nổi Harriman muốn đặt TQ vào ngồi chiếc ghế hội-viên LHQ, nên phải bỏ rơi THQG và VNCH, đem Hạm đội 7 vào gần Đài Loan là chận Mao làm ẩu chiếm Đ.L chớ không phải làm thịt Mao) Tướng Arthur lại qua mặt TT Truman bằng cách viết thư cho Toà Lập-Pháp với mong muốn Quốc-Hội sẽ chấp thuận. Kết cuộc, Tướng Mac Arthur bị giải nhiệm vì lý do mà TT Truman cho rằng: “không được quyền phát ngôn về chính sách Quốc-Gia” (Unauthorized Policy Statements) giấy chứng-từ giải nhiệm Tướng Arthur do đích thân Harriman soạn thảo văn thư để cho TT Truman ký khán.
Tưởng cũng nên biết qua tiểu-sử của W.A.Harriman: Ông sanh vào ngày 15/Nov/1891 tại New-York. Là một chính khách gây nhiều ảnh-hưởng lôi cuốn người khác theo mình, là một Cố-vấn lỗi-lạc, kiệt xuất trong ngành ngoại-giao và đặc biệt là thủ-phạm số ‘Một’ trong mưu đồ giật sập nền Đệ I Cộng-Hòa Việt-Nam. Tốt nghiệp Đại-học Yale 1913, ông hưởng một gia tài kếch xù của người cha là E.H.Harriman, người có nhiều thế lực trong ngành Hỏa-Xa, năm 1916 cai quản thêm một xưởng đóng tàu. Từ năm 1917 đến năm 1925 là đầu nậu của một Công-ty thương thuyền, Harriman cai quản một đội thương thuyền lớn nhất Thế-giới. Ông mới thật sự là giai cấp Đại Tư-Bản, giai cấp thống lãnh nước Mỹ.
Năm 1930, Harriman bỏ cuộc hưởng giàu sang ra chính trường để dấn thân bảo vệ quyền lợi cho giới Đại Tư-bản? Hay ông là người Ái-quốc dấn thân để bảo vệ Tổ-Quốc khỏi rơi vào tay Chủ Nghĩa Cộng-Sản? Cả 2 trên đều đúng, bằng chứng, tới giờ nầy nước Mỹ vẫn là Đệ-Nhất Anh-hùng trong thiên hạ; Thoạt đầu, ông phục vụ trong ngành Hành-Pháp của Tổng-Thống Franklin Roosevelt với chức vụ rất khiêm nhường trong Bộ phục hồi Quốc-Gia (National Recovery Administration) Cố-vấn Hội-đồng thương mãi kiêm quản-lý sản-xuất, kiêm ngành vật-liệu thô (raw materials) Sau một thời gian học hỏi lấy đà, Harriman được Roosevelt chọn làm sứ-thần đặc-biệt, phối hợp trung gian hợp-đồng mua bán giữa Liên-Xô và Anh-Quốc (1941-1943) và năm 1943 ông muốn được bổ nhiệm làm Đại-Sứ tại Moscow cho sách lược chia đôi hai quốc-gia Đức, Triều Tiên và Việt Nam được trôi chảy theo đúng trục lộ trình do nhóm tham mưu của Harriman thiết kế.
Trong suốt thời gian làm Đại-Sứ 1943-1946, Harriman được người Nga kính mến vì đã đem rất nhiều phúc lợi cho họ, mục tiêu của Harriman là nhắm vào giai cấp sản xuất [công nông] của Liên Xô, tại sao chủ nghĩa Cộng sản đối xử con người như Bầy-Ong, Bầy Kiến? Harriman tin vào chế độ dân chủ, bởi vì dân chủ đã mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người, hảy xây dựng thế giới thành nơi an toàn cho nền dân chủ! Ngược lại, Harriman cũng không muốn người Nga và Âu-Châu sẽ đổ máu vì chiến tranh cứ liên tục xảy ra trên Lục-địa văn minh nầy; cũng như theo ông đang xảy ra Đại chiến-2 và từ đó trong tâm ông đã nẩy ra tư-tưởng đổi vùng bạo-loạn hay nói trắng ra là “đổi màu da trên xác chết” được gọi là hoạ da vàng, mà mãi đến sau nầy (năm 1964) Giáo Sư Francois Xavier Winters mới cho rằng cuộc chiến Việt-Nam là một cuộc chiến thế mạng (surrogate) “một cuộc tế thần, lấy da Vàng thế vào chỗ da Trắng!” được thể hiện qua tình cảm với một nước [Nga] bị nhiều lần ngoại bang xâm chiếm (Pháp, Đức, Nguyên-Mông) Harriman là tác giả của hai Tác-phẩm: Peace with Russia (1959) và American and Russia in a Changing World (1971) Đọc xong 2 cuốn nầy, và phối kiểm với ROE (Rules Of Engagement) trong cuộc chiến VN, người ta có cảm tưởng Ông như một người ‘Nga-kiều’ yêu nước, nhưng thật sự không phải vậy mà ông muốn cải biến chế độ Cộng Sản thành Siêu Cộng Sản toàn vẹn như nước Mỹ sau nầy, và chỉ có Liên Xô trong ngôi vị số-2 cho mục tiêu giải trừ hoạ Da-Vàng đang là nguy cơ hăm doạ nhân loại; LX là nạn nhân bị dân Tàu lấn đất giành dân ở cực đông nam LX. Đến thời Tổng-Thống Harry S Truman, Ông phục vụ với chức vụ Bộ-trưởng Thương-mại (1946-1948) Giám-đốc chương trình Marshall, tái thiết Âu-Châu (1948-1950) Người Đại diện của Hoa-kỳ trong Minh-Ước Bắc Đại Tây-Dương (NATO) và cũng là Ủy-viên nghiên cứu phòng thủ Tây-Âu (1951) Trong thời gian nầy, Harriman xử dụng William E Colby một nhân viên tầm thường của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ ở Stockholm và Rome để điều hành thuê mướn những dịch-vụ loại trừ phe Tả cũng như Cộng-Sản trong những nước Tây-Âu bằng công-cụ vô cùng hữu-hiệu là Mafia, thế nên Harriman rất có kinh-nghiệm khống-chế bộ máy Hành-Pháp của các vị Tổng-Thống nước Mỹ sau nầy. Nếu ta nhìn cho kỹ thì quả thật nước Mỹ lãnh đạo bằng một Ðảng siêu Mafia Skull and Bones, (Đả lâu lắm rồi, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Liên Bang Felix Frankfurter (1882 – 1965) đã dám nói trước khi chết) “Những người thật sự cai trị ở Washington là vô hình, và thực thi quyền hành từ sau hậu trường.” tất cả đều tốt nghiệp từ lò luyện thép duy nhứt: Ðại học Yale và Harvard chỉ là công cụ chuyên viên cho Yale như 4 đời giòng họ Bush và Harriman.
Năm 1950, Khi chiến tranh Triều-Tiên bắt đầu, sáng lòe trong tâm tưởng của ông, đã đến lúc ông phải thực thi những gì mà ông hằng đeo đuổi. Harriman tức tốc bay về gặp TT Truman, xin ở ngay tại văn phòng điều hành (Executive Office Building) bên cạnh TT Truman như là một người phụ-tá về những dịch-vụ An-Ninh Quốc-Gia. Ông đề nghị TT Truman cho ông tháp tùng với Trung-Tướng Matthew Ridway đến Tokyo gặp Tướng Mc.Arthur, mục đích chuyến đi nầy là căn dặn Tướng MacArthur đừng có gây hấn với Trung-Quốc cũng như xúi bẩy Đài-Loan ăn phần vào và Ông cũng bảo-đảm cho Mc Arthur đổ bộ vào Inchon mà không sợ bị Liên-Xô can thiệp vì Liên Xô là bầu-bạn gắn bó ngầm với Mỹ qua tiền viện trợ giúp-đỡ tính dụng của công ty Harriman Co. Aid to Russia 1941-1946 Plan.
Quả thật sự hoài nghi của Harriman thành sự thật, nên ông buộc lòng phải ép TT Truman giải nhiệm cả hai ông, Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Louis.A.Johnson và Tướng McArthur; Harriman đề nghị vị Tướng tay chân của ông lên thay thế Bộ-Trưởng Quốc-Phòng là Tướng Bộ-Binh, George C. Marshall. Harriman thay mặt cả Truman soạn thảo công lệnh, Tướng-lãnh không được tuyên bố vung-vít về Sách-lược Quốc-Gia nữa, rút ra từ sự giải nhiệm Tướng Arthur; Trong năm nầy (1950) Ông tuyển chọn những tài hoa kiệt xuất của Hoa-Kỳ vào làm việc tại một Viện Nghiên-Cứu đặc biệt mà phần trên tôi có giải thích chưa rõ đó là Nhóm Tham-Mưu Dân-Sự của lý thuyết gia George Kennan, gồm nhiều học giả nghiên cứu khác nhau và đây là ‘những hoàn-ngọc ẩn của nước Mỹ được hoàn toàn dấu kín cho cơ mật quốc gia.
Một học giả sáng chói trong Nhóm nghiên cứu nầy cho biết: Chắc-chắn sẽ xảy ra cuộc chiến tranh nguyên-tử ở Âu-Châu, hậu quả sẽ tàn phá Bắc bán-cầu, bao gồm Âu-Châu, Mỹ, Canada. Học-giả nầy đề nghị nên đổi trục chiến tranh qua Á-Châu và cũng để giải tỏa sự thăng bằng nạn nhân mãn cho thế-giới “Họa Da Vàng,” Đó là nguyên nhân thãm trạng chiến tranh Việt Nam phải xảy thay vì theo trào lưu tiến hoá của phong trào giải trừ chế độ thực dân (decolonalism) mà hơn 60 nước trên thế giới đã tìm sự độc lập cho dân tộc mình trước 1960. Thế thì xuất phát tại nơi nào ở Châu-Á: Theo nhận thức của giáo-sư Sử-Điạ, George Kennan: Tất cả những loài động vật trên trái đất đều có khởi nguyên của nó, có đường Hưu-Nai chạy, loài Kiến biết trước trời giông bão, cũng có đường bầy Voi qua lại (La Piste des Elephants) cho đến hang động sau cùng gởi nắm xương tàn của chúng, vì chúng có linh-tính biết trước ngày chết. Còn loài người thì có con đường gây ra bạo hành do cơ trời “thiên-hạ đại loạn” Từ Đại-Đế La-Mã, đến Nã-Phá-Luân, đến Hốt Tất-Liệt (Khoubilai) cho đến Đức-Quốc-Xã, Quân phiệt Nhựt…cái trục ‘bạo-loạn’ đó vẫn là từ Âu sang Á, sang Nga, Ba-Tư, Đông-Âu, Nam-Âu, Ai-Cập, tràn qua Thổ-Nhĩ-Kỳ (turkey) Iraq, Iran, Ấn-Độ…phía Đông Tân-Cương, Tây-Tạng, Nội-Mông, Mãn-Châu, Cao-Ly, bao trùm cả Trung-quốc nhưng khi đến Việt-Nam thì bị khựng lại; như quân Nguyên-Mông đã 3 lần dừng bước tại Việt Nam vì thua trận phải chạy về Xứ. Kết quả, Harriman chọn Triều Tiên làm “diện” phát khởi còn Việt Nam làm “điểm” tận cùng ở Á-Châu, là cái trục dứt điểm chuyển hướng từ bên trời Tây hướng về trời Đông, lấy Đông-Dương làm nơi chạm tuyến sau cùng (Jet-stream front).
Giáo-sư Sử-địa, William A.Withington tại Đại-Học Kentucky thì cho rằng: qua Lịch-sử, người dân ở các nước Á-Châu, nhất là Vùng Đông Nam-Á không thích sự đô hộ của người da trắng, dù rằng chủ nghĩa thực dân không còn nữa, muốn lấy lòng họ nên để cho người cùng màu da hay may ra chế độ CS dầy xéo lên đất họ một thời gian lâu mau tùy trình độ dân trí giác ngộ. Theo như ý đồ của Harriman, nên dựa vào chiến thắng Điện-Biên-Phủ để tạo cho phe Cộng-Sản một uy tín rất cao đẹp, lần đầu tiên một Nhóm Du-kích Á-châu đã đánh bại một đạo quân của một cường quốc Âu-Châu, rồi trở thành mô hình gương mẫu cho các phong trào giải phóng dân tộc khác, gồm gần 60 Nước trên toàn thế giới, như ở Bắc-Phi, Nam-Dương, Phi-Luật-Tân, Mã-Lai, Phi-Châu, Trung Nam-Mỹ, và Trung-Đông..Phía Thế-Giới Tự-Do bị đẩy vào vị thế phòng thủ; Làm thế nào để phục hồi chính nghĩa, kéo họ về với Mỹ...? Sau một thời gian kinh qua thế sự, dù Hồ-Chí-Minh đã bị dụ-dỗ để trở thành Đồng-Minh của Mỹ cũng phải chờ thêm một thời gian trắc nghiệm coi cho được; Vì “Freedom is not for Free!” nên để Việt Nam phải trả một cái giá cho sự Tự do của Họ như tại đất nước Mỹ lịch sử đả chứng minh qua Concord. Dù rằng, theo tin từ tình báo Quân-Đội OSS, nhóm Hồ là một tổ-chức có kỷ-luật vững chắc, chấp nhận gian nguy chiến đấu chống Nhật và giúp Mỹ tìm cứu khi Phi-công bị nhảy dù xuống vùng của họ. Hành-Pháp Mỹ thời TT Truman bị Harriman ép buộc phải từ khước lời thỉnh cầu của Cụ Hồ, tháng 8 và 9 năm 1945 qua 8 bức thư xin Mỹ bảo đảm độc lập như Phi Luật Tân như bảo đảm Hiến pháp VN giống y chang như Mỹ, trong khi HCM đang kiểm soát Hà-Nội, và đặt hoàn toàn niềm tin tuyệt đối vào Mỹ.
Hồ-Chí-Minh cầu khẩn qua trung gian của văn phòng “Cơ-quan Chiến-lược” Hoa-kỳ, đã gởi yêu cầu lên TT Truman xin cho Việt-Nam được hưởng quy chế như Phi-Luật-Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc-lập; Từ tháng 10/1945 cho đến tháng 2/1946, Hồ đã viết cho TT Truman ít nhất 8 văn-thư, chính thức kêu gọi Hoa-kỳ và Liên-Hiệp-Quốc can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp cho thích hợp theo trào lưu hiện tại, nhưng … cứ cho rằng nghiệp quả thiên định cho dân Việt như sách lược “vòng Kim-Cô” của Harriman áp đặt lên trên dầu dân tộc VN 30 năm theo thiết kế của Kennan 1945-1975 rồi mới được độc lập thống nhứt (một chứng liệu đả có trong thiết kế nho nhỏ do anh ThienLe: tài liệu của US Defense Supply Center Philadelphia (DSCP) thì C-ration used trong chiến tranh Việt Nam là phần thặng dư còn lại trong Đệ Nhị Thế Chiến (WWII).
(còn tiếp)