Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 9 trên 9

Tựa Đề: Ðầu mối 2 cái chết của TT Diệm/Kennedy

  1. #7
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default "Khui hầm" (Open Vaught) Quân Sự Quốc Tế (tiếp theo)

    Trong cẩm nang The Secrets of the Tomb, Harriman đã chọn 2 nhân vật cho giai đoạn hậu-chiến “Vietnam’ postwar là Bonesman KerryMcCain

    - [Siêu Chiến Lược EURASIA 1920-2020_2
    www.truclamyentu.info/tlls_thu-vien-bo-de-online/tvbd_tvvinh_sieu...

    ... 2005 interviewed U.S. POW Senate John McCain ... Cruel April = Tham muu truong WSAG, ... và tài tử phản chiến trung úy John F Kerry, ...]

    Vì thế, McCain có trách nhiệm phải nói thật vào mốc thời gian decent interval (giải mật) về nhân vật có nhiều huyền thoại như HCM. Nhưng có một chuyện chắc chắn là McCain không phải phổ biến nhân vật HCM cho người Việt bị phĩnh gạc mà thôi, mà cho thế gian đều biết đấy. Nhưng cũng có một điều chắc chắn HCM thật là vậy, như ngày 20/10/2014 khai giản toà nhà Quốc Hội Mới, tam đầu chế “buộc phải trang trí phòng họp Diên-Hồng chỉ có tạc tượng HCM mà không có cờ đỏ búa liềm và tuyện đối không có câu vinh danh đảng cộng sản ở nơi trang trọng như trước”. Có nghĩa Secret Society muốn người Việt phải vinh danh HCM vì chính cụ mới là người quốc gia (tác giả viết theo góc nhìn từ Secret Society cho nên khoan quăng đá nhé; những dòng chữ tiếng Pháp từ Paris Match trích ra) Việc nầy hảy để sữ gia hậu cận đại sẽ lo. Trên đời nầy có những chuyện thấy zậy nhưng không phải zậy!)

    Harriman lý giải cho rằng cuộc đổ quân Mỹ trên bờ biển Inchon, Triều Tiên thành công là do Nhóm Tham-Mưu Dân-Sự George Kennan của ông thiết kế chớ không phải do tài của các tướng-tá, cũng như ông muốn Võ Nguyên Giáp trở nên nổi tiếng vì nhu cầu chiến lược cuộc chiến VN như một công cụ gián tiếp cho quyền lợi Mỹ, vì thế sau khi bi oanh tạc 11 ngày đêm Hà Nội tuyên bố đầu hàng Mỹ đâu có chịu vì theo lịch trình Hà Nội được chỉ định “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ dưới đất và trên không 1954 và 1972” chứ sự thật Giáp thiếu căn bản quân sự, điều dễ hiểu: chả lẽ tất cả sĩ quan BV đều là thiên tài hết? Trong khi không tốt nghiệp một trường ốc đại học quân sự nào?

    Đứng trên phương diện quân-sự thuần túy, bỏ qua chính-lược, ngay đến những người lính Hải-Quân bình thường cũng không dám chọn Inchon làm bãi đổ quân; Vì nơi đây toàn là San-hô và đá ngầm, tàu đổ bộ chỉ có đi vào mà không đi ra vì San-hô và đá ngầm sẽ đánh, cắt thủng và chìm tàu; Với tư-tưởng và góc nhìn của con mắt Đại Tư-Bản, Harriman cần đổ quân an-toàn và lấy yếu tố bất ngờ mà địch quân không thể tưởng-tượng được để bảo vệ 100% cho sinh mạng các Binh-sĩ và nơi đây cũng là cái ‘thùng rác’ để hủy bỏ các tàu nầy, vì quân đội Mỹ sẽ phải trang bị trong tương-lai loại tàu tối tân hơn. Còn hành quân LS 719 phải tiêu hủy nhiều trực thăng với gần 800 khẩu phòng không cổ điển, cả hai đều phải hủy bỏ tại thùng rác lộ thiên nầy bắng tính dụng của Mỹ cho kế hoạch “Aid to Russia 1941-1946 Plan renewed” dĩ nhiên phải chấp nhận sự hy sinh nhiều đoàn viên phi hành Army Aviation cho cuộc chiến vì America First.

    Cuộc đổ quân tại Inchon cũng không khác gì cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy, chỉ khác ở chỗ là, Inchon bảo vệ sinh mạng con người Mỹ, còn Lam Sơn 719 tiêu diệt con người bản xứ được gọi là Cộng Sản/Quốc Gia.. Duy có một điều giống nhau là, Tư-Bản sản xuất ra các loại vũ-khí mới và hủy bỏ những chiến cụ lỗi thời tại nơi hành-quân và có sự cấu kết, đồng lõa của Liên-Xô cùng phế thải tại vùng núi-non hiểm-trở đó, những chiến cụ dư thừa, lỗi thời từ Thế chiến thứ 2. Trước khi từ giã chính trường, Harriman lại áp-lực Hành-Pháp cách chức Tướng Westmoreland và triệu hồi về Mỹ giống như Tướng Mac Arthur; Lý do đã công khai xác nhận trong một buổi họp ở Thượng-Viện. “Lực-lượng Đồng-Minh nên đánh qua Nam-Lào, để cắt đứt đường “Xa lộ Harriman” [mòn Hồ] phá tất cả ống dẫn dầu và hệ thống tồn trữ vũ-khí của CS” Cũng như Tướng háo thắng Mac Arthur, ngày 5/April/1951 gởi thơ cho Dân-Biểu Joseph Martin, lãnh-đạo dân tộc thiểu số; Xin được phong tỏa dọc bờ biển Trung-Quốc và tấn công những Căn-Cứ ở Mãn-Châu (Manchuria) có sự hiệp lực với Quân-Đội Trung-Hoa Quốc-Gia ở Đài-Loan; Vì trước đó Tướng Arthur có xin phép TT Truman để đánh Trung-Quốc dựa vào độc quyền Bom nguyên-tử, nhưng TT Truman bị sức ép của W A Harriman nên từ chối cho là quá nguy-hiểm, (Dĩ nhiên tướng Arthur làm sao hiểu nổi Harriman muốn đặt TQ vào ngồi chiếc ghế hội-viên LHQ, nên phải bỏ rơi THQG và VNCH, đem Hạm đội 7 vào gần Đài Loan là chận Mao làm ẩu chiếm Đ.L chớ không phải làm thịt Mao) Tướng Arthur lại qua mặt TT Truman bằng cách viết thư cho Toà Lập-Pháp với mong muốn Quốc-Hội sẽ chấp thuận. Kết cuộc, Tướng Mac Arthur bị giải nhiệm vì lý do mà TT Truman cho rằng: “không được quyền phát ngôn về chính sách Quốc-Gia” (Unauthorized Policy Statements) giấy chứng-từ giải nhiệm Tướng Arthur do đích thân Harriman soạn thảo văn thư để cho TT Truman ký khán.

    Tưởng cũng nên biết qua tiểu-sử của W.A.Harriman: Ông sanh vào ngày 15/Nov/1891 tại New-York. Là một chính khách gây nhiều ảnh-hưởng lôi cuốn người khác theo mình, là một Cố-vấn lỗi-lạc, kiệt xuất trong ngành ngoại-giao và đặc biệt là thủ-phạm số ‘Một’ trong mưu đồ giật sập nền Đệ I Cộng-Hòa Việt-Nam. Tốt nghiệp Đại-học Yale 1913, ông hưởng một gia tài kếch xù của người cha là E.H.Harriman, người có nhiều thế lực trong ngành Hỏa-Xa, năm 1916 cai quản thêm một xưởng đóng tàu. Từ năm 1917 đến năm 1925 là đầu nậu của một Công-ty thương thuyền, Harriman cai quản một đội thương thuyền lớn nhất Thế-giới. Ông mới thật sự là giai cấp Đại Tư-Bản, giai cấp thống lãnh nước Mỹ.

    Năm 1930, Harriman bỏ cuộc hưởng giàu sang ra chính trường để dấn thân bảo vệ quyền lợi cho giới Đại Tư-bản? Hay ông là người Ái-quốc dấn thân để bảo vệ Tổ-Quốc khỏi rơi vào tay Chủ Nghĩa Cộng-Sản? Cả 2 trên đều đúng, bằng chứng, tới giờ nầy nước Mỹ vẫn là Đệ-Nhất Anh-hùng trong thiên hạ; Thoạt đầu, ông phục vụ trong ngành Hành-Pháp của Tổng-Thống Franklin Roosevelt với chức vụ rất khiêm nhường trong Bộ phục hồi Quốc-Gia (National Recovery Administration) Cố-vấn Hội-đồng thương mãi kiêm quản-lý sản-xuất, kiêm ngành vật-liệu thô (raw materials) Sau một thời gian học hỏi lấy đà, Harriman được Roosevelt chọn làm sứ-thần đặc-biệt, phối hợp trung gian hợp-đồng mua bán giữa Liên-Xô và Anh-Quốc (1941-1943) và năm 1943 ông muốn được bổ nhiệm làm Đại-Sứ tại Moscow cho sách lược chia đôi hai quốc-gia Đức, Triều Tiên và Việt Nam được trôi chảy theo đúng trục lộ trình do nhóm tham mưu của Harriman thiết kế.

    Trong suốt thời gian làm Đại-Sứ 1943-1946, Harriman được người Nga kính mến vì đã đem rất nhiều phúc lợi cho họ, mục tiêu của Harriman là nhắm vào giai cấp sản xuất [công nông] của Liên Xô, tại sao chủ nghĩa Cộng sản đối xử con người như Bầy-Ong, Bầy Kiến? Harriman tin vào chế độ dân chủ, bởi vì dân chủ đã mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người, hảy xây dựng thế giới thành nơi an toàn cho nền dân chủ! Ngược lại, Harriman cũng không muốn người Nga và Âu-Châu sẽ đổ máu vì chiến tranh cứ liên tục xảy ra trên Lục-địa văn minh nầy; cũng như theo ông đang xảy ra Đại chiến-2 và từ đó trong tâm ông đã nẩy ra tư-tưởng đổi vùng bạo-loạn hay nói trắng ra là “đổi màu da trên xác chết” được gọi là hoạ da vàng, mà mãi đến sau nầy (năm 1964) Giáo Sư Francois Xavier Winters mới cho rằng cuộc chiến Việt-Nam là một cuộc chiến thế mạng (surrogate) “một cuộc tế thần, lấy da Vàng thế vào chỗ da Trắng!” được thể hiện qua tình cảm với một nước [Nga] bị nhiều lần ngoại bang xâm chiếm (Pháp, Đức, Nguyên-Mông) Harriman là tác giả của hai Tác-phẩm: Peace with Russia (1959) và American and Russia in a Changing World (1971) Đọc xong 2 cuốn nầy, và phối kiểm với ROE (Rules Of Engagement) trong cuộc chiến VN, người ta có cảm tưởng Ông như một người ‘Nga-kiều’ yêu nước, nhưng thật sự không phải vậy mà ông muốn cải biến chế độ Cộng Sản thành Siêu Cộng Sản toàn vẹn như nước Mỹ sau nầy, và chỉ có Liên Xô trong ngôi vị số-2 cho mục tiêu giải trừ hoạ Da-Vàng đang là nguy cơ hăm doạ nhân loại; LX là nạn nhân bị dân Tàu lấn đất giành dân ở cực đông nam LX. Đến thời Tổng-Thống Harry S Truman, Ông phục vụ với chức vụ Bộ-trưởng Thương-mại (1946-1948) Giám-đốc chương trình Marshall, tái thiết Âu-Châu (1948-1950) Người Đại diện của Hoa-kỳ trong Minh-Ước Bắc Đại Tây-Dương (NATO) và cũng là Ủy-viên nghiên cứu phòng thủ Tây-Âu (1951) Trong thời gian nầy, Harriman xử dụng William E Colby một nhân viên tầm thường của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ ở Stockholm và Rome để điều hành thuê mướn những dịch-vụ loại trừ phe Tả cũng như Cộng-Sản trong những nước Tây-Âu bằng công-cụ vô cùng hữu-hiệu là Mafia, thế nên Harriman rất có kinh-nghiệm khống-chế bộ máy Hành-Pháp của các vị Tổng-Thống nước Mỹ sau nầy. Nếu ta nhìn cho kỹ thì quả thật nước Mỹ lãnh đạo bằng một Ðảng siêu Mafia Skull and Bones, (Đả lâu lắm rồi, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Liên Bang Felix Frankfurter (1882 – 1965) đã dám nói trước khi chết) “Những người thật sự cai trị ở Washington là vô hình, và thực thi quyền hành từ sau hậu trường.” tất cả đều tốt nghiệp từ lò luyện thép duy nhứt: Ðại học Yale và Harvard chỉ là công cụ chuyên viên cho Yale như 4 đời giòng họ Bush và Harriman.

    Năm 1950, Khi chiến tranh Triều-Tiên bắt đầu, sáng lòe trong tâm tưởng của ông, đã đến lúc ông phải thực thi những gì mà ông hằng đeo đuổi. Harriman tức tốc bay về gặp TT Truman, xin ở ngay tại văn phòng điều hành (Executive Office Building) bên cạnh TT Truman như là một người phụ-tá về những dịch-vụ An-Ninh Quốc-Gia. Ông đề nghị TT Truman cho ông tháp tùng với Trung-Tướng Matthew Ridway đến Tokyo gặp Tướng Mc.Arthur, mục đích chuyến đi nầy là căn dặn Tướng MacArthur đừng có gây hấn với Trung-Quốc cũng như xúi bẩy Đài-Loan ăn phần vào và Ông cũng bảo-đảm cho Mc Arthur đổ bộ vào Inchon mà không sợ bị Liên-Xô can thiệp vì Liên Xô là bầu-bạn gắn bó ngầm với Mỹ qua tiền viện trợ giúp-đỡ tính dụng của công ty Harriman Co. Aid to Russia 1941-1946 Plan.

    Quả thật sự hoài nghi của Harriman thành sự thật, nên ông buộc lòng phải ép TT Truman giải nhiệm cả hai ông, Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Louis.A.Johnson và Tướng McArthur; Harriman đề nghị vị Tướng tay chân của ông lên thay thế Bộ-Trưởng Quốc-Phòng là Tướng Bộ-Binh, George C. Marshall. Harriman thay mặt cả Truman soạn thảo công lệnh, Tướng-lãnh không được tuyên bố vung-vít về Sách-lược Quốc-Gia nữa, rút ra từ sự giải nhiệm Tướng Arthur; Trong năm nầy (1950) Ông tuyển chọn những tài hoa kiệt xuất của Hoa-Kỳ vào làm việc tại một Viện Nghiên-Cứu đặc biệt mà phần trên tôi có giải thích chưa rõ đó là Nhóm Tham-Mưu Dân-Sự của lý thuyết gia George Kennan, gồm nhiều học giả nghiên cứu khác nhau và đây là ‘những hoàn-ngọc ẩn của nước Mỹ được hoàn toàn dấu kín cho cơ mật quốc gia.

    Một học giả sáng chói trong Nhóm nghiên cứu nầy cho biết: Chắc-chắn sẽ xảy ra cuộc chiến tranh nguyên-tử ở Âu-Châu, hậu quả sẽ tàn phá Bắc bán-cầu, bao gồm Âu-Châu, Mỹ, Canada. Học-giả nầy đề nghị nên đổi trục chiến tranh qua Á-Châu và cũng để giải tỏa sự thăng bằng nạn nhân mãn cho thế-giới “Họa Da Vàng,” Đó là nguyên nhân thãm trạng chiến tranh Việt Nam phải xảy thay vì theo trào lưu tiến hoá của phong trào giải trừ chế độ thực dân (decolonalism) mà hơn 60 nước trên thế giới đã tìm sự độc lập cho dân tộc mình trước 1960. Thế thì xuất phát tại nơi nào ở Châu-Á: Theo nhận thức của giáo-sư Sử-Điạ, George Kennan: Tất cả những loài động vật trên trái đất đều có khởi nguyên của nó, có đường Hưu-Nai chạy, loài Kiến biết trước trời giông bão, cũng có đường bầy Voi qua lại (La Piste des Elephants) cho đến hang động sau cùng gởi nắm xương tàn của chúng, vì chúng có linh-tính biết trước ngày chết. Còn loài người thì có con đường gây ra bạo hành do cơ trời “thiên-hạ đại loạn” Từ Đại-Đế La-Mã, đến Nã-Phá-Luân, đến Hốt Tất-Liệt (Khoubilai) cho đến Đức-Quốc-Xã, Quân phiệt Nhựt…cái trục ‘bạo-loạn’ đó vẫn là từ Âu sang Á, sang Nga, Ba-Tư, Đông-Âu, Nam-Âu, Ai-Cập, tràn qua Thổ-Nhĩ-Kỳ (turkey) Iraq, Iran, Ấn-Độ…phía Đông Tân-Cương, Tây-Tạng, Nội-Mông, Mãn-Châu, Cao-Ly, bao trùm cả Trung-quốc nhưng khi đến Việt-Nam thì bị khựng lại; như quân Nguyên-Mông đã 3 lần dừng bước tại Việt Nam vì thua trận phải chạy về Xứ. Kết quả, Harriman chọn Triều Tiên làm “diện” phát khởi còn Việt Nam làm “điểm” tận cùng ở Á-Châu, là cái trục dứt điểm chuyển hướng từ bên trời Tây hướng về trời Đông, lấy Đông-Dương làm nơi chạm tuyến sau cùng (Jet-stream front).

    Giáo-sư Sử-địa, William A.Withington tại Đại-Học Kentucky thì cho rằng: qua Lịch-sử, người dân ở các nước Á-Châu, nhất là Vùng Đông Nam-Á không thích sự đô hộ của người da trắng, dù rằng chủ nghĩa thực dân không còn nữa, muốn lấy lòng họ nên để cho người cùng màu da hay may ra chế độ CS dầy xéo lên đất họ một thời gian lâu mau tùy trình độ dân trí giác ngộ. Theo như ý đồ của Harriman, nên dựa vào chiến thắng Điện-Biên-Phủ để tạo cho phe Cộng-Sản một uy tín rất cao đẹp, lần đầu tiên một Nhóm Du-kích Á-châu đã đánh bại một đạo quân của một cường quốc Âu-Châu, rồi trở thành mô hình gương mẫu cho các phong trào giải phóng dân tộc khác, gồm gần 60 Nước trên toàn thế giới, như ở Bắc-Phi, Nam-Dương, Phi-Luật-Tân, Mã-Lai, Phi-Châu, Trung Nam-Mỹ, và Trung-Đông..Phía Thế-Giới Tự-Do bị đẩy vào vị thế phòng thủ; Làm thế nào để phục hồi chính nghĩa, kéo họ về với Mỹ...? Sau một thời gian kinh qua thế sự, dù Hồ-Chí-Minh đã bị dụ-dỗ để trở thành Đồng-Minh của Mỹ cũng phải chờ thêm một thời gian trắc nghiệm coi cho được; Vì “Freedom is not for Free!” nên để Việt Nam phải trả một cái giá cho sự Tự do của Họ như tại đất nước Mỹ lịch sử đả chứng minh qua Concord. Dù rằng, theo tin từ tình báo Quân-Đội OSS, nhóm Hồ là một tổ-chức có kỷ-luật vững chắc, chấp nhận gian nguy chiến đấu chống Nhật và giúp Mỹ tìm cứu khi Phi-công bị nhảy dù xuống vùng của họ. Hành-Pháp Mỹ thời TT Truman bị Harriman ép buộc phải từ khước lời thỉnh cầu của Cụ Hồ, tháng 8 và 9 năm 1945 qua 8 bức thư xin Mỹ bảo đảm độc lập như Phi Luật Tân như bảo đảm Hiến pháp VN giống y chang như Mỹ, trong khi HCM đang kiểm soát Hà-Nội, và đặt hoàn toàn niềm tin tuyệt đối vào Mỹ.

    Hồ-Chí-Minh cầu khẩn qua trung gian của văn phòng “Cơ-quan Chiến-lược” Hoa-kỳ, đã gởi yêu cầu lên TT Truman xin cho Việt-Nam được hưởng quy chế như Phi-Luật-Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc-lập; Từ tháng 10/1945 cho đến tháng 2/1946, Hồ đã viết cho TT Truman ít nhất 8 văn-thư, chính thức kêu gọi Hoa-kỳ và Liên-Hiệp-Quốc can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp cho thích hợp theo trào lưu hiện tại, nhưng … cứ cho rằng nghiệp quả thiên định cho dân Việt như sách lược “vòng Kim-Cô” của Harriman áp đặt lên trên dầu dân tộc VN 30 năm theo thiết kế của Kennan 1945-1975 rồi mới được độc lập thống nhứt (một chứng liệu đả có trong thiết kế nho nhỏ do anh ThienLe: tài liệu của US Defense Supply Center Philadelphia (DSCP) thì C-ration used trong chiến tranh Việt Nam là phần thặng dư còn lại trong Đệ Nhị Thế Chiến (WWII).

    (còn tiếp)

  2. #8
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default "Khui hầm" (Open Vaught) Quân Sự Quốc Tế (tiếp theo)

    Trước khi, nghĩ gì hãy tìm hiểu trước đã. Các bạn chưa hiểu vấn đề đã nghĩ rồi, tức là đã phát ngôn. Tất nhiên tri thức và nhận thức là một quá trình dài, phải có thời gian, ý thích nghien cuu và trí tuệ thì mới có được. Nếu ai cũng có được ngay thì cả thế giới ai cũng là giáo sư hết.
    Tổng-Thống tiền nhiệm Franklin D. Roosevelt cũng được Harriam thuyết phục: “Hoa-Kỳ chủ-trương không để cho Pháp trở lại Đông-Dương và đề nghị đặt Việt-Nam dưới quyền quản-trị tạm thời của Liên-Hiệp-Quốc” Điều quan trọng ở đây là theo ý-đồ toan tính của Harriman, khi Liên-Xô và Trung-Quốc cùng nhau công nhận Hồ-Chí-Minh vào tháng 1/1950, thì cũng đúng vào lúc mà William Averell Harriman cảm thấy phải thật sự dấn thân nhảy vào chính-trường để bảo-đảm sự phồn vinh cho quyền lợi nước Mỹ [đây tôi muốn nói có phần nguồn dầu khí ở thềm lục địa VN qua sự phát hiện của Vệ-tinh tình báo spy satellite] Liền sau đó ông tuyển mộ những nhân tài học giả kiệt xuất để nghiên cứu giúp ông trong vấn đề chiến thắng ý-thức-hệ Cộng-Sản trong chiến tranh lạnh (Cold War) Harriman coi trọng Nhóm Học-Giả Dân-Sự nầy là bộ óc của nước Mỹ. Tôn chỉ, nên dùng một ‘đấu pháp’ tuy nhẹ nhàng với Liên-Xô nhưng phải chiến thắng đối thủ qua môn võ-thuật, dùng sức mạnh tối đa của địch để tạo thành sức mạnh của ta ‘trong cái thế bên kẻ mạnh’ (on strong-man side) mà chúng ta cần sẽ phải áp dụng tại Đông-Dương: Hãy tạm bỏ qua thuyết Domino cũa Eisenhower. Ðó là lý do sâu-xa mà Harriman không muốn Hoa-kỳ ký tên vào Hiệp định Genève-1954 chia 2 miền Nam và Bắc! Ranh mãnh trong vấn đề hiệp định Geneve nầy để vỗ ngực chỉ có Hoa Kỳ là muốn Việt Nam được thống nhứt cho thế chiến lược toàn cầu của Mỹ với thâm ý xô đẩy VN vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn cho mưu đồ quyền lợi của thế lực trong Hội Đồng Kỹ Nghệ quốc phòng. Nhưng rốt cuộc cũng vào quĩ đạo cũa Mỹ tuy được độc lập thống nhứt dưới cái dù của Mỹ, và phải trả một cái giá quá đắt ? Vì freedom is not for free.

    William Averell Harriman (1891-1986) kiến trúc sư cuộc chiến VN

    Trong những nhân vật sừng-sỏ trên đây, chỉ có W.A. Harriman là người có nhiều tham vọng, nhưng thật ra ông cũng là một thiên tài “giấu-mặt” làm nên lịch-sử Hoa-kỳ. Theo cá nhân tôi nghĩ đem so với Quân sư Gia-Cát-Lượng để đánh giá thì Harriman quả thật xứng đáng là một “Đại-đế giấu mặt” không những trong nước Mỹ mà cả thế giới; báo chí thời đó cũng như hai văn hào Walter Isaacson và Evan Thomas mô tả Harriman là người lãnh đạo trong Nhóm “Sáu người thông-thái” nắm vận mệnh thế giới. Riêng Harriman biết xử dụng đồng tiền của người Cha để lại và mở kinh doanh ngân hàng W.A.Harriman and Company rồi trở nên Tổng Giám-Đốc đội thương thuyền lớn nhất thời đó, năm (1917-1925) Sự thành công theo phóng đồ thẳng đứng của ông làm “thôi miên” giòng họ Bushes, trong đó có George Herbert Walker, là tiền bối bốn đời của TT Bush-Con, Tổng-thống thứ 43 của Hoa-kỳ và ông Prescott Bush là cha của George H.W. Bush, Tổng-thống thứ 41 của Hoa-kỳ. Thật cũng là điều lạ, ở trên đời nầy ít ai chịu thuần phục một kẻ nhỏ hơn mình 16 tuổi như so sánh Harriman với Walker, ấy thế mà cả hai ông Bushes nầy đã thích-thú học-hỏi, tự-nguyện làm thành viên trong thương nghiệp mà người Chủ là Harriman; Chẳng bao lâu từ một người đại-lý buôn bán vỏ xe khiêm-nhường, Ông nội Bush con là Prescott Bush đã trở nên nhà triệu phú, với số tiền chuyên ngân từ Fritz Thyssen (Đức).

    Harriman, tuổi vừa tròn 27 và mới tốt nghiệp 4 năm Đại-Học Yale; Năm 1917, lợi dụng trong thời chiến áp-lực chính quyền phải ký hợp đồng vào sự nghiệp đóng tàu hàng-hải dù cha Ông nổi tiếng là ông Vua về sở hỏa-xa. Harriman đóng tàu thành công trong thời chiến, chẳng bao lâu Harriman trở nên ông Vua về đội thương thuyền hàng hải lớn nhất vào thời đó, được củng cố phát triển qua danh xưng United American Lines, ông đặt vào trọng tâm tham vọng lợi nhuận qua hợp đồng với nước Đức bằng đường hàng-hải Hamburg-American Trong khi hơn nửa thế kỷ, người ta đều nghe danh ngân hàng tín dụng thương mại Quốc-tế BCCI (Bank of Credit and Commerce International) do sư tổ dòng họ Bush, George Herbert Walker sáng lập truyền lại cho cả dòng họ Bush sau nầy.

    Trong Đảng Công-Ty, đáng kể là nhánh Cộng-Hòa có dòng-tộc Rockerfeller và Stillman, nhưng tất cả không ai chịu dấn thân ra làm chính khách để bảo vệ quyền lợi Công-ty, mặc dù phần đông, bản chất của họ phát xuất từ Đảng Cộng-Hòa. Đứng trên góc cạnh nước Mỹ, Harriman là một thương gia giàu có, một chiến lược gia có tằm cở quốc tế, một chính trị gia có tầm nhìn sâu-sắc, một chính khách lỗi-lạc, một nhà ái-quốc hiếm có, một đảng viên Dân-chủ đúng nghĩa để lo cho quyền lợi của tất cả Tập đoàn Tư bản không phân biệt lớn nhỏ, chịu dấn thân xa rời sự hưởng thụ giàu sang, hy-sinh và tận-tụy cho sự hùng-mạnh của đất nước Hoa-Kỳ. Yêu nước là yêu Tư-bản Chủ-nghĩa, vì Hoa-kỳ là tiêu biểu.

    Khi Cách Mạng Nga thành lập chính quyền (năm 1917) và thành phần Tư-sản bị đày ải cho đến chết tại vùng đông lạnh Tây-Bá-Lợi-Á (Siberia) Harriman nhìn xa hơn vào lá cờ ‘Búa-Liềm’ ông đã đặt nhiều quan tâm đến giai cấp Công-nhân là chính, ông không sợ những giáo điều của Lenin sẽ đi vào thực tế như tư tưởng Lenin: “Trước hết, chúng ta sẽ chiếm Đông-Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á-Châu, sau đó bao vây Hoa-kỳ và thành lũy cuối cùng của Chủ-nghĩa Tư-bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa-kỳ cũng sẽ phải rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rục. Vì thế đã là người Cộng-Sản phải đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù là giai cấp Tư-Sản” và ‘Chính sách cải tạo’ là kỹ thuật đánh lừa người Tù “luôn luôn làm cho chúng có ý hy-vọng được tự-do, chuyển trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy-vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Siberia còn ở Mỹ là Alaska.

    Sau nầy Phạm Văn Đồng và toàn thể CBCS cũng nghĩ như vậy: “Đem 10.000 nhân viên quan chức miền nam có nợ máu với nhân dân ra đày ải ở vùng sơn cước thâm u nầy cho chúng chết lần chết mòn tại Siberia/VN, bằng cách cho chúng ăn thật ít bắt chúng làm thật nhiều”; duy chỉ có Mafia-Lê Đức Thọ thì biết chắc chúng sẽ nối tiếp theo sau diện ODP.

    Harriman không căm ghét người Nga mà trái lại Ông rất có cảm tình với người Nga qua nỗi lòng của Ông, lồng vào hai tác phẩm “Peace with Russia” 1959 (hòa bình với Liên-Xô) và “America and Russia in a Changing World” 1971 (Hoa-Kỳ và Liên-Xô cùng thay đổi cục diện thế-giới) Một tư-tưởng vĩ-đại đang nảy sinh trong khối óc của ông, người Công-nhân và Nông dân là nguồn nhân lực “sản xuất”, xứng đáng được hưởng những của cải do họ làm ra, nổi bật hơn, là tại sao không để cho họ chia phần làm chủ (Profit Sharing) ông vẽ ra một thế-giới phồn thịnh do người công-nhân sản xuất ra của-cải và chỉ có vài người bỏ vốn đầu tư thì chính họ mới là người lãnh-đạo, vì trên thực-tế “người nào chi tiền người đó chỉ-huy” (như trong chiến-tranh Việt-Nam, có lần Tướng O’Daniel nói toạc ra ‘ai chi tiền người đó chỉ-huy) Sự bỏ vốn đầu tư ở Liên-Xô không ngoài mục đích trên và sau nầy là Trung-Quốc; Đây là hình thức cũng như chân lý thực tế nắm chắc giai cấp thợ thuyền một cách tinh-vi với giá rẻ mạt, nhưng căn cứ trên sự hài lòng tự nguyện, thay vì đối xử với Họ như bầy Ong bầy Kiến, Harriman mảnh liệt tin tưởng phải xây dựng thế giới thành nơi an-toàn cho nền dân chủ, bởi vì chế độ Dân chủ sẽ mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người.

    Thật vậy, khi cướp được chính quyền vào năm 1917, hăng say trong chiến thắng, Lenine thường chủ quan với đề tài: Cộng-sản, Tư-bản, ai thắng ai?” Và càng đi xa hơn bằng cách tuyên bố: “Tụi Tư bản, nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nỗi, nó biết người ta mua dây thòng lọng để treo cổ chúng nó, thế mà chúng nó vẫn sản xuất và bán cho người ta” Từ đó đến nay đã gần 100 năm, và nếu chúng ta lấy mốc điểm thời gian 160 năm khi Karl Marx (1818-1883) viết tuyên ngôn thư Ðảng Cộng sản, suy ngẫm những biến cố lịch sử đã xảy ra: Chúng ta thấy nó hoàn toàn trái ngược lời tiên tri của Marx và Lenine. Marx tiên tri là Tư bản dãy chết, cách mạng tất yếu sẽ xảy ra tại những nước Tư bản, Lenine tiên đoán Cộng sản sẽ treo cổ Tư-bản; Nhưng Tư bản không dãy chết, không bị Cộng sản treo cổ, mà ngược lại, câu nói của Marx trở thành: Cộng sản dãy chết. Cách mạng tất yếu sẽ xẩy ra tại các nước Cộng sản “Và câu nói của Lenine cũng trở thành: “Tụi Cộng sản nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nỗi, nó biết người ta bán Coca Cola, Mac Donald, quần Jeans, hàng hóa cho nó, để dụ nó vào sập-bẫy, để bóp cổ nó chết, nhưng nó vẩn cứ mua!” W.A Harriman quả thật là một chiến-lược gia thiên tài, nếu chúng ta nghiên cứu chiến lược “Eurasian” của Skull and Bones đánh sập các nước Liên Xô và Ðông âu, thì chúng ta thấy họ đến với các nước nầy đầu tiên bằng những bang giao kinh tế, thương mại, đến với Coca Cola, Mac Donald, sau đó từ từ biến kinh tế quốc doanh thành kinh tế tư doanh, với tuyệt chiêu là “tối-huệ-quốc” làm cho xã hội dân sự các nước nầy mỗi ngày một trở nên mạnh; dỉ nhiên Ðảng và nhà nước CS mỗi ngày một yếu đi, đến lúc không thể cưỡng lại được, thì chế độ sụp đổ. Lẽ tất nhiên sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông âu còn nhiều lý do qua sự nối-tiếp điều hành kiệt xuất của giòng họ Bush: Chiến tranh Tình-báo Phản-gián là một cú đấm sau cùng của loài Ma Ðầu-lâu Skull and Bones, vì đi với Ma phải mặc “Áo-Giấy” là vậy, cho nên Harriman không ngại ngùng khi sáng lập ra Ðảng Ðầu-lâu Xương-người. [Skull and Bones]

    Ngày hôm nay, Hoa kỳ cố gắng đưa-đẩy Việt Nam vào Tổ chức Thương Mại Quốc-tế (WTO) theo lộ-đồ, giúp VN trở thành Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo An LHQ, rồi có Vệ-tinh riêng để bảo vệ lãnh thổ (Hoa-kỳ đã hủy diệt những thám thính cơ bí-mật với âm mưu tìm kiếm hơi đốt cũng như dầu hỏa trên thềm lục địa VN, [kẻ lén lúc dọ thám tìm mỏ, nhưng có người âm thầm triệt hạ cho biết tay mảnh vun rớt trên đảo Phú Quốc] Kẻ bành trướng không chịu hiểu: “Cái ổ con Ó-Mẹ làm ra không thể Le-Le hay Vịt trời-Con nở ra nơi đó!”) Tình báo Hoa-kỳ theo lộ trình sơ khởi về phát họa những chiến thuật ngắn hạn, nằm trong một chiến lược dài hạn, đó là thay thế mô hình tổ chức xã hội độc đoán, độc tài CS, bằng mô-hình tổ chức xã hội Dân chủ, Tự do và kinh tế thị trường. Hoa kỳ tiên đoán theo lộ-đồ:

    Chế độ Cộng sản chỉ sụp đổ dưới Ba sức ép:

    - (1) Nhất là giới trí thức, sĩ phu, sinh viên, học sinh sẽ phải can đãm đứng lên đấu tranh càng ngày càng đông hơn, đấu tranh cho quyền sống và quyền làm người
    - (2) Sức ép đến từ quốc-tế, đến từ hành động của Cộng đồng người Việt hải ngoại
    - (3) Sức ép đến từ sự rạn nứt, (đây là tuyệt chiêu của CIA) chia rẻ trong Ðảng Cộng sản qua tố cáo chỉ mặt các quan chức tham nhũng.

    Dưới thời Cách-Mạng Nga thành lập chính quyền năm 1917 bởi Aleksandr Kerensky, đảng Công-ty nầy cho mượn ngay tín-dụng số tiền là 325 triệu dollars để mua các vật liệu làm chiến-cụ, dĩ nhiên vật liệu nầy phải từ Hoa-Kỳ chuyển qua Liên-Xô. Mặt khác Harriman với con mắt nhìn xa thấy rộng, đang dòm ngó nguồn tài nguyên ‘dầu khí’ và mỏ ‘manganese’ để luyện thành hợp kim ‘alloy’ làm vũ-khí, nhất là các túi dầu chạy dài dọc theo các nước Cộng-Hòa Trung-Á đang nằm sâu dưới lớp Tuyết dày đặc mà chỉ có Hoa-kỳ mới có đủ khoa-học và kỷ-thuật để khai thác. Một tư-tưởng kinh-dị về “Eurasian Great Game” đang thoáng in sâu trong óc của Harriman từ dạo đó (1920) Đây là một kế hoạch chiến lược dài lê thê đến hàng thế kỷ mà một đời người không đủ thời gian đảm trách.

    Harriman chụp lấy cơ hội nhảy vào chính-trường, Thủ-tướng Anh, là Winston Churchill và Chủ-Tịch Liên-Xô, Stalin biết mọi việc ở Mỹ qua Harriman; Trong suốt thời gian Đệ II thế chiến, Harriman là người trao mật tin giữa London và Moscov, ông chọn con số cho gọn trong hồ-sơ phối hợp giữa hai bên là 322 (his diplomatic case the numerals 322) cho tiện giữ bí mật. Dù rằng cuộc đời thương-mại đang quá thành công trong việc làm ăn với hai chính quyền đang xung đột với nhau là Đức và Liên-Xô. Bên cạnh đó Công-ty Remington-Arms của Rockerfeller lại buôn lậu bí mật vũ-khí từ Hoa-kỳ bán cho Đức qua ngã Holland vào đầu năm 1930; Đối với Tập-đoàn Tư-bản nầy chỉ biết có quyền lợi qua đồng Dollar, không có bạn mà cũng không có thù, chỉ có quyền lợi quyết định sự liên-minh.

    Harriman bỏ ngành Hỏa-xa qua ngành đóng tàu chiến và trở nên Đại-đế ngoài nước Mỹ, (Overseas-Empire) Theo như báo chí Saint-Louis thời đó mô tả, khi con người quá thành công về tiền-tài thì người ta lại muốn bước vào đài danh-vọng, Harriman biết chuẩn bị cho mình rất chu đáo để trở nên một nguyên thủ Quốc-gia Hoa-kỳ. Nhưng Chúa lại không chìu lòng người, hai lần ra ứng-cử đều bị thất bại, năm 1952 và năm 1956; Mặc dù đã chuẩn bị sẳn-sàng lấy đà lên chức cuối cùng làm Thống-đốc của một tiểu bang lớn nhất nước Mỹ, là New-York.

    Năm 1962, Tổng-thống Diệm được sự mách nước của vị Đại-sứ khả ái Frederick Nolting, nên đã đề cử ông Cố-vấn Ngô-Đình-Nhu qua Genève để gặp Phù-thủy Harriman và thuyết phục Harriman đừng ký vào hiệp định Trung-Lập Lào, vì biết chắc rằng Hà-Nội sẽ vi phạm và lợi dụng phần đất Lào để lấn chiếm Miền-Nam. Theo chương trình thì Harriman chỉ tiếp ông Nhu có 30 phút, nhưng cuộc bàn thảo kéo dài đến 3 tiếng; Khi Harriman tiển chân ông Nhu ra về, ông Bộ-trưởng Cao Xuân Vỹ nhận thấy vẽ mặt hai người hầm-hầm như bực tức một điều gì. Khi Cụ Nhu gặp ông Vỹ, Cụ Nhu bèn xả ra cho nhẹ người: “cái thằng Cha nầy không biết gì cả”. Làm sao Cụ Nhu biết được thế siêu chiến lược của Harriman về Eurasian! Định kiến Axiom-1 biến con đường mòn HCM thành Xa-lộ Harriman có ống dân dầu chạy song song theo nó do LX chịu thiết bị?

    Đây là sự suy diễn có tính cách riêng tư của người viết: Một ông già 71 tuổi, đầy mưu-mô và bản-lãnh, kiên-nhẫn để cho cậu nhỏ [Cố vấn Nhu] đáng con mình hằn-học, chẳng lẽ Harriman nói toạc ra rằng: vì quyền lợi của Liên-Xô và Mỹ đã đồng thuận dùng Đông-Dương làm nơi thí nghiệm vũ khí mới vừa chế tạo và giải tỏa số Bom đạn thặng dư sau thế chiến-2, bằng cái trò chơi chiến tranh lấy danh từ hào nhoáng, về phía Liên-Xô “chiến tranh giải phóng” (NLF) và huê dạng về phía Hoa-Kỳ như “kế hoạch chống nổi dậy” (CIP) Đối với Harriman và Nhóm tham-mưu Học-giả kiệt xuất của ông sẽ không có Đại chiến thứ-3 mà chỉ có cuộc chiến khu-vực, lấy Triều-Tiên và Đông-Dương làm chiến tuyến thuộc Màn-2 của Eurasian Great Game. Trận Triều-Tiên vì quyền lợi tức thời nên để lại 50.000 quân, còn Đông-Dương vì quyền lợi tiềm-tàng để thành lập một nước VNCH lớn hơn, và sẽ thắt chặt hơn nửa thế kỷ sau đó 1995; Cái thâm-thúy là dùng khuôn viên các trường Đại-học để lý-giải hậu quả nơi chiến trường tại Việt Nam qua ba đáp sổ dưới đây:

    - (1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon.
    - (2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires.
    - (3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances.

    Cùng với 3 định-đề (axioms) đã được bàn luận sâu rộng tại các Đại-Học về cuộc chiến VN trong giai đoạn năm 1960-1971 như Kenneth E. Sharpe trong “The Post Vietnam Formula Under Siege” và “Political Science Quarterly” đây là thời kỳ giải kết của Mỹ. Cái nhóm Tham-mưu nầy đã có chủ trương đưa Trung-Cộng gia nhập vào Liên-Hiệp-Quốc, nên buộc phải giải nhiệm Tướng Mc Arthur trong cuộc chiến Triều-Tiên và bức tử Miền Nam thuộc VNCH. Chiến-lược giải kết nầy đã tạo nên một tầm vóc Quốc-Tế dù kết quả có bị mang tiếng nhất thời “con Cọp giấy”, “người khổng-Lồ với đôi chân đất sét” và đưa nước Mỹ vào thời kỳ suy thoái. Nhưng tập đoàn Tư-bản cho là thời kỳ nghỉ-ngơi sau khi hoàn-tất một công trình (Inventory năm 1973-1980) Còn Nhóm Học-giả Tham-mưu thì cho rằng, trò chơi cử-tạ để phô trương bắp thịt của Hoa-kỳ đã xong, bây giờ tới phiên người Nga phải trả giá về sự cho ra đời Chủ-nghĩa Cộng-sản khắp Năm châu, bằng cách đặt Liên-Xô vào vị trí của Hoa-kỳ, như quân-đội Nga tiến vào Afghanistan. Ngoài ra Hoa-kỳ cũng phong tỏa kinh-tế các nước chư-hầu của Liên-Xô, buộc Liên-Xô phải tăng cường viện trợ kinh-tế cho họ. Mặt khác Hoa-kỳ cũng gây rối khắp nơi, làm cho Liên-Xô phải quân viện hay chính thức tham chiến để lộ bộ mặt thực dân Đỏ. Để kết cuộc qua đó mà người dân trong khối Cộng-Sản mới có cơ-hội sáng mắt, so-sánh giữa hai thể chế “Dân-chủ Tư-bản” và “Dân-chủ Cộng-sản” ai thắng ai? Một cuộc bỏ phiếu bằng chân! Một cuộc chiến thắng thầm lặng với thủ đoạn Thần sầu Quỹ khóc, nhưng không dám nói ra, sợ lương-tri nhân loại nguyền rủa, vì gieo rắc tai-ương cho các nước nhược tiểu; Cái danh xưng nổi lên cho là thất bại thảm hại của Hoa-kỳ để làm mờ đi cái “mục-tiêu” chủ yếu là đồng Dollar hốt vào qua kỷ nghệ sản-xuất chiến tranh, và nước Mỹ vẫn là Đệ Nhứt siêu cường không nước nào địch nổi.

    Sau cuộc chiến khá dài tại Việt Nam, nhưng họ không dám tuyên bố đó là một chiến thắng thầm lặng (Quiet-Victory) biết bao thảm họa cho người dân của ba nước Đông Dương, vì Họ không dám nhận những danh từ không tốt đẹp gì dù đã làm phong phú hoá trong tự điển Anh Ngữ như, “Bỏ phiếu bằng chân” (voted with theirs feet) “Cánh Đồng Chết” (Killing field) “Thuyền Nhân” (Boat People) “Học Tập Cải Tạo” (Reeducation-Camp) “Vùng Kinh Tế Mới” (New Economical Zone)

    -12 năm sau, và cũng đã đến lúc kết thúc mật-kế Pennsylvania giao Miền-Nam cho Hà-Nội Năm 1974 đệ tử ruột của Harriman là William H.Sullivan cựu Đại-sứ Lào và đương kiêm thứ trưởng Ngoại-Giao cho Kissinger đã phán một câu rất mất dạy về quan điểm Hoa-kỳ lúc ấy: “Chúng tôi hy vọng rằng, Đông-Dương sẽ lui vào chỗ của nó trong bóng tối, và nó xứng đáng như vậy”. Thật tội nghiệp cho các nước nhược tiểu, phù-thủy Harriman đâu cần biết Đông-Dương là gì, ông chỉ coi đó như là một vùng hoang dã chỉ xứng đáng là nơi để thí nghiệm vũ-khí như chúng ta thường cho là “vùng oanh kích tự-do” Dĩ nhiên Tổng-thống Diệm dễ gì để cho đất nước mình trở thành lò luyện thép. Phù-thủy Harriman đích thực trở nên thủ phạm số một đã giật sập nền Đệ I Cộng-Hòa và ra lệnh giết chết hai anh em TT Diệm, Miền Nam trở thành chính phủ bù nhìn từ đấy! Ấy thế mà ngày sinh nhứt thứ 90 của W A Harriman, người em út cuối cùng của dòng họ Kennedy còn sống là Edward Kennedy lại tuyên bố: “Nếu không có Ngài nước Mỹ và loài người không thể sống trong một trật tự thế giới mới” [The New World] “We couldn’t have held the twentieth century without him” như thế kỷ-21 nầy.

    (còn tiếp)

  3. #9
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Secret Society biến hồn ma VNCH hiện ra làm "cố-vấn"

    Cuộc chiến VN chia ra 2 giai đoạn: (1)- prewar = "Hoa Kỳ hiệp cùng TQ đánh tan LX ra từng mãnh" Và giai đoạn (2)- postwar = Hoa Kỳ hiệp cùng VNCH (tái sử dụng vũ khí Mỹ) đánh tan TQ ra từng mãnh đưa Ấn-Độ thế vị trí Đùng trong thiên hạ, như bài "Siêu Chiến Lược Eurasia-1" đã diễn-dẫn!

    Vậy thì sau này khi cố vấn quân sự Mỹ sang VN thì cái đám Mỹ gốc Việt này cũng theo về. Nhìn thì cứ tưởng “VNCH” sống lại, mặc quân phục Mỹ, sai bảo, dạy dỗ con cháu của những kẻ từng Thắng Mỹ, diệt Ngụy năm xưa... Chắc chắn các vị sĩ quan Mỹ gốc Việt sẽ nói tiếng Mỹ với các du học sinh QĐND hay QLVNCH? Chẳng biết trình độ tiếng Mỹ của các du học sinh tới đâu, nhưng phải nhập gia tùy tục. "Cái đau" là trong lúc giao dịch, phe ta chắc sẽ nhủ thầm: không biết cô/cậu này có biết tiếng Việt không? Rõ ràng họ Trần, Nguyễn … là VN rành rồi. Nhưng nó không nói chữ Việt nào, mà tiếng Mỹ nó nói như Mỹ. Lỡ nó đẻ ở Mỹ, cha mẹ nó không dạy tiếng Việt thì sao? Mà nếu nó biết tiếng Việt thì đâu có nói sau lưng nó được, lỡ nó là tai mắt của CIA thì sao?
    Đau thật ! QUẢ BÁO NHÃN TIỀN !Có khác nào hồn ma VNCH sống lại, tàng hình vào quân đội Mỹ, nắm đầu Quân Đội Nhân Dân mà… sai bảo. Vậy thì ai thắng ai???. Trời xanh nào có thấu cho nỗi lòng Đảng ta !!!

    TRIỀU-ĐẠI-2 SKULL and BONES
    (Prescott Bush, người tiền bối tham vọng đưa con cháu mình vào danh sách tổng thống nước Mỹ?)
    Prescott Bush, chất Xám kiệt xuất của ngành tình-báo, An-Ninh Quốc Gia Hoa-kỳ?
    Lợi dụng thời Thế-chiến thứ-1, Nhóm Yale-Skull áp lực chính quyền ký hợp đồng sản xuất kỹ nghệ chiến tranh, Họ tự ý thành lập “Hội-đồng Kỹ-nghệ Chiến-tranh” [War Industries Board] do Wall Street bảo trợ, người Giám-đốc là Bernard Baruch chuyên lo liên lạc đặt hàng giữa chính phủ và công xưởng về đóng tàu cho Hải quân. Vào mùa Xuân 1918, thình lình có mật lệnh [Harriman] từ ông Bernard Baruch gởi thẳng cho Prescott Bush, chỉ định P. Bush làm Chủ tịch Hội đồng WIB, ngày 1/6/1918 P. Bush chấp hành và trình diện tại Washington; Thực thi đúng theo tuyên ngôn của các trường Ðại-học Quân-sự: “Muốn củng cố hoà-bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Liền sau đó không lâu, Thượng nghị sĩ bang Mississippi, James Vardarman phàn nàn rằng: “nên giải tán Hội-đồng buôn xác chết nầy, vì tự nó nói lên sự ăn-chận trên tay các công ty khác và giành giựt độc quyền lợi nhuận!” (Thí dụ như công-ty Halliburton của Phó TT Dick-Cheney sau nầy).

    Sau Thế chiến-2, 1946 một sự chạy đua phát triển vũ-khí để gây chiến, từ một cuộc chiến Nóng (1941-1945) đến cuộc chiến Lạnh được thống kê qua sự sản xuất như sau: 38 phần trăm 1941-1947; 40 phần trăm cho 1953 (chiên tranh Triều-Tiên); từ 45 phần trăm cho 1959, đến 49 phần trăm cho 1968 trong suốt cuộc chiến tại Việt Nam là nhiều nhứt. 1947 Prescott Bush và Robert A Lovett cùng Brown Brothers Harriman đồng quyết định cải đổi OSS thành CIA để làm công cụ bạo lực cho WIB; Nhóm nầy mở rộng Ngủ Giác Ðài tăng quân số Tướng lãnh nhiều hơn xưa, tăng tốc cho chương trình không gian, điện tử hoá siêu kỹ thuật cho quân đội. Bộ tam sên: Prescott Bush chắc chắn sẽ thành Thượng nghị sỉ 1950, gây ảnh hưởng bao trùm Quốc-hội, còn W.A.Harriman, người Cố-vấn tổng thống, nhưng lại có nghĩa nắm chính sách ngoại giao với nước ngoài, riêng Robert A Lovett sẽ đi từ Thứ-trưởng rồi Bộ-trưởng quốc phòng để điều động các cuộc hành quân bí-mật trên những nước đem lại quyền lợi cho Tư bản Mỹ. [như trước đó có hai cuộc hành quân bí mật: [covert operation] đáng kể là khuyến dụ Cụ Hồ vào OSS nơi Trùng Khánh, Côn Minh, Sở thông tin Chiến tranh (Service of War Information) và qua cuộc hành quân bí mật của điệp viên OSS-19, Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pát-Pó giúp Cụ huấn luyện quân sự cho Trung-đội Võ trang tuyên truyền của Trung đội Trưởng Võ Nguyên Giáp và CIA phải hoàn thành cuộc di tản về Ðài-Loan Thống chế Trưởng- giới-Thạch và phe phái.

    Prescott Bush hăng-say tham dự những năm tháng chiến tranh ác liệt, đôi khi người ta lầm tưởng chỉ có một mình ông đơn độc chiến đấu trên trận mạc, ông chia ra hai phần thời gian ở Washington và trận mạc, ít khi về thăm nhà, sự làm việc nhiệt thành đã đặc vào ống kính của Harriman. June, 1918 P.Bush mau lẹ đáp ứng sản xuất qua Pháp cho Lữ-đoàn Pháo Dã-chiến 158th một số lớn đạn dược gọi là sản-phẩm lấy tên là Tiểu-đoàn Yale cung cấp. Có nghĩa Tiểu đoàn-Yale Pháo binh của ông sẽ tham dự vào chiến tuyến phía Tây [Western Front] Ðại-úy Prescott Bush và pháo thủ của ông đang chịu áp-lực trận địa pháo dữ dội của địch. Chúng đang cố tâm hủy diệt tất cả pháo-đội Hoa kỳ, Tuy nhiên sự phản pháo của Lử-đoàn pháo 158th đã làm tiêu tan các công sự kiên-cố của quân Ðức. Dưới con mắt làm ăn của P.Bush, lấy thịt đè người nên phía WIB đả bán ra được 4.2 triệu quả đạn sau khi tàn cuộc chiến đem một số tiền quá lớn về cho War-Industries-Board.

    Mới chỉ 23 tuổi đời vào năm 1918, Prescott Bush là một Ðại-úy Pháo binh năng nổ, một hôm ông viết một bức-thư khôi hài về cho mẹ, sau khi đọc xong bà mẹ tự hào về con mình nên đem tin vui nầy cho tờ báo địa phương “The Ohio State Journal” đăng tin ở trang đầu: “Ðại-úy P. Bush chỉ một mình nhận được ba huy chương cao quý của chính phủ Pháp, Anh và Hoa-kỳ, vì đã cứu ba vị Tướng lãnh đồng minh, Pershing, Foch, và Haig đang đến thăm viếng đơn vị Tiểu đoàn Yale Pháo binh của ông. Ngày 15, July, P.Bush đang hướng dẫn ba Tướng nầy tham quan đơn vị, thì thình lình một trái đạn 77mm từ trên không rơi xuống, sự phản ứng tự nhiên P. Bush rút con dao (bolo-knife) hất mạnh lên như chơi baseball vào trái đạn, cho nên trái đạn không chạm nổ và rơi xuống bên cạnh như một hòn đá tảng vô hại. 24 tiếng đồng hồ sau P. Bush được ân tặng huy chương “Cross of the Legion of Honor của chính-phủ Pháp, The Victoria Cross của chính phủ Anh, và The Distinguished Service Cross của Hoa-kỳ”. Nhưng khi P. Bush nhận được một mẫu giấy đính chính trên tờ báo Pháp, liền lập tức ông nói cho mẹ hay, “đó chỉ là bức thư khôi hài để làm cho mẹ vui, chớ chuyện đó không bao giờ có!” Ngày hôm sau, September 6, 1918 tin nầy được đính chính trên báo chí là Tin Vịt-Cồ! Kể từ giờ phút nầy, trong đầu P. Bush luôn luôn in sâu về sức mạnh của “truyền thông văn hóa” vẫn có tác dụng gây ảnh hưởng, dù thật hay không thật và ông muốn con cháu ông phải xuất thân từ quân đội để lãnh đạo đất nước trong trật tự và kỷ luật

    Năm 1950, là người Phụ tá cho Harriman, P. Bush quyết định công-cụ Truyền thông văn hóa nặng ký hơn CIA và cho ra quyền bất khả xâm phạm về “Tự do ngôn luận” một vũ khí lợi hại khi cần khủng bố chính quyền buộc họ phải đi đúng American-First. P. Bush qua đời 1972, làm sao ông biết được Con và Cháu nội sẽ là Phi-công Tổng thống thứ 41 và 43 của Hiệp chủng Quốc đã khai thác tuyệt vời truyền thông văn hóa cho quyền lợi của bọn dầu-hỏa qua sự chuyển ngân vào ngân hàng Thụy Sĩ. Ðúng theo di-truyền của giòng họ Bushes là: năng-lượng, tình báo, và an ninh quốc gia. Dòng họ Bushes không bao giờ chịu đào tạo Bác-sỉ, luật sư, thầy giáo, khoa học gia … mà chỉ chuyên về 3 địa hạt nêu trên.

    Nguyên nhân nào W.A Harriman chịu chấp nhận Prescott làm phụ tá Ðảng hội Skull and Bones: Tình cờ, đầu năm 1926, người em của Harriman là Bunny Harriman đang uống rượu với P. Bush và nói chuyện công việc làm ăn. Prescott vẫn còn làm việc với hãng nhựa U.S Rubber, đại lý bán vỏ xe, còn Bunny đang bề bộn công việc ở Wall Street. Sau khi họ nhận ra nhau cùng tốt nghiệp Ðại học Yale, Bunny mới thú nhận tại Công ty người anh W.A Harriman and Company rất cần những nhân tài phụ giúp, hỏi P.Bush có muốn cùng giúp việc cho anh mình không? P. Bush nhận lời ngay, sau đó không lâu từ một Ðại lý bán vỏ xe khiêm nhường, Prescott trở nên một triệu-phú quá dễ dàng. Tóm lại W.A Harriman tin tưởng nhận P. Bush vào làm việc và tin cẩn chọn P. Bush như người phụ tá tham mưu tin cậy của ông [http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman 1/22/2006, trang 4 of 7] Prescott Bush là người sau chót trong 6 nhân vật nắm vận mệnh thế giới nhưng được Harriman cân nhắc lên làm Phụ-tá tham mưu cho Harriman.

    Harriman vở mộng vì đặt quá nhiều tin cậy vào viên Phụ tá của mình, Prescott Bush, trong khi Harriman muốn hợp-lý hóa bằng những quyết định phức tạp chia ra cho hai nhóm rõ rệt: Nhóm Dân chủ do W.A.Harriman và Lovett, còn nhóm Cộng hòa do P. Bush và Bunny Harriman. Nhưng nhìn vào hai nhóm nầy thì chẳng có công bằng tý nào vì phía bên kia vẫn còn người em của Harriman. Nhưng điều cấm kỵ là không được phê bình đàm tiếu nói xấu cãi vã nhau, P. Bush giữ thái độ im lặng về những hành động của Harriman làm việc với hai vị tổng thống, F.D.Roosevelt và Truman; Sư thật làm sao P. Bush hiểu được trong tương lai của trận chiến Triều Tiên chỉ dựa vào môi trường chạy đua và phát triển thế hệ phản lực cơ chiến đấu cho quốc-phòng giữa Liên Xô và Mỹ. Còn như tới phiên chiến tranh Ðông Dương mới qua giai đoạn phát triển thế hệ phản lực cơ cho Hàng không dân dụng và trực thăng. Có một điều quan trọng nữa là làm cách nào để dùng xăng hoá học (synthetic fuel) để làm diệu bớt sự thay đổi nhiệt độ cho môi trường sống như Hitler đã thành công từ 1933, nhưng vì lòng tham vô đáy, dòng họ Bushes đã đi chệch ra khỏi quỹ-đạo chiến lược của Harriman! Quên đi quyền lợi của các loại Tư-bản lớn-nhỏ khác!

    1950, Prescott Bush đã là một Thượng nghị sĩ sừng-sỏ trong Quốc hội, ông nắm ảnh hưởng trong chức vụ Trưởng ban Hội đồng an ninh và tình báo gián điệp và nắm luôn Trưởng Hội-đồng về cơ quan quốc phòng, trong đó đáng kể có người bạn chí thân chuyên môn về tình báo là Allen Dulles. P. Bush quá hăng-say về chương trình “dọ thám bằng vệ tinh”. Sau Thế chiến-2, ông giành ưu tiên tài chánh không giới hạn cho Bác-học Werner Von Braun và các Khoa học gia người Ðức chạy trốn về với Hoa kỳ, chuyên trách hoả-tiễn, đồng thời tối tân hoá chương trình phóng hoả tiễn liên lục địa. Ðặc thù, P. Bush ghét cay ghét đắng TT Kennedy về vụ thất bại tại Vinh Con Heo vì Kennedy phản bác (P. Bush thố lộ bằng lời nói với lịch-sử, sự thất bại chỉ vì Kennedy không muốn đứng về phía sau nhóm nổi dậy, có nghĩa là đem Hải lục không quân ra can thiệp mà xem việc làm của Bushes qua công cụ CIA như con Voi rừng kinh-dị khó dại).

    Với tham vọng người con trai của mình sẽ chạy đua vào nhà Trắng, 11 ngày trước khi Kennedy bị ám sát, đứa con Trai của ông là George H.W. Bush đứng trước bục phòng họp báo Thủ-đô ở Austin, tuyên bố sẽ ứng cử vào Thượng nghị sĩ của Ðảng Cộng Hòa. Vào được chức vị Thượng nghị sỉ trong khi TT Kennedy đã bị ám sát, nhưng George H.W Bush mở pháo trận đầu tiên tấn công Civil-right của Kennedy vì cho rằng đe-dọa hiến pháp, trong khi Barry Goldwater biện luận Hoa-kỳ vấp phải vấn đề kỳ thị màu da. George H.W. Bush cũng chống lại đường lối Liên bang tước đoạt quá nhiều quyền hạn của Tiểu bang. Về phương diện ngoại giao, ông chống đối Kennedy về lời đề nghị kiểm soát việc chạy đua vũ trang, biện luận thay vì phải cứng-cựa với chính sách chống Cộng sản; Những đặc điểm không kém phần quan trọng, George.H.W. Bush với 40 tuổi, thành công và là phi-công tác chiến anh hùng của tổ quốc. Có một tài sản đáng kể về thương nghiệp dầu hoả, nhưng vì tham vọng dầu-hoả mà dòng họ Bushes phải mai một sau nầy! Hơn nửa thế kỷ nay, dòng họ Bushes vẩn tự hào là “chống-Kennedys” vì Bushes xem giòng họ Kennedy là những kẻ muốn tranh tài với họ! Tuổi trẻ có phải vì nóng tính, nông nổi nên nói toạc móng heo!? Jeb Bush đã dám tuyên bố và thách-thức (có lẽ cũng bị thọc gậy bánh xe đang lăn ngon trớn theo đà mạnh tiến vào toà Bạch-ốc) “Tôi nghĩ, chúng tôi có thể hạ giòng họ Kennedy trong trận football, chúng tôi cũng hạ họ trong trận basketball, baseball, và bất cứ cái trò chơi quỷ-quái nào mà họ muốn đấu!”(Dịch theo nguyên văn, cuốn sách “The Bushes”, 2004, page 497 Petter and Rochelle Schweizer).

    Thế nhưng! thế hệ trước là thủ phạm nhưng lại vô cùng khôn khéo, Bush-Cha vẩn tỉnh bơ giữ mối giao hảo bề ngoài rất tốt đẹp, ông [George H.W Bush] dựa vào vị thế thượng phong làm Phó, rồi Tổng thống nên phía đối địch cũng ngậm bồ-hòn cười nhe răng trong giao tế. Người em út còn sót lại của TT Kennedy, Thượng nghị-sĩ Ted Kennedy 1990 cũng giúp TT Bush-Cha cho qua Disabilities Act và luật cải-bổ Di-dân. Khi rời Nhà trắng hai vợ chồng của Bush-Cha cũng làm bộ tiếp nối tình cảm, nhưng lần nầy qua nhà người Chị của Ted Kennedy, Eunice Shriver.

    Vâng lời Bush-Cha, Bush-Con, năm 2000 vừa nhậm chức Tổng thống, hâm nóng thêm tình cảm giữa hai họ, nhân dịp đám tang của Thượng nghị sĩ Paul Coverdell của Georgia, Bush cùng Ted Kennedy dự đám tang, sau giờ tan lể, Bush-Con lỏ con mắt tìm kiếm Ted Kennedy ẩn hiện trong đám đông. Khi gặp Ted, Bush-Con cười khà đưa tay bắt: “Tôi nghe anh có đi dự nên kiếm, Tôi ghi nhận anh đã làm những việc ích lợi cho dân cho nước” Ted cười khô cho qua. Tuy nhiên dù mối liên hệ tình cảm khó hiểu, nhưng cũng tiếp nối được đến thế hệ thứ-3.

    Vào tháng chạp, 2000 TT Bush-Con mời gọi Ted Kennedy, họ nói chuyện với nhau như hâm nóng lại tình cảm khắng-khít ngoài mặt giữa hai họ và cùng giúp đỡ chia sẻ cho nhau vì lợi ích cho đất nước. Ted Kennedy vui lòng chấp nhận vì đại cuộc, Bush-Con bèn mời Ted cùng họ hàng Kennedy đến dự một cuộc họp mặt riêng tư để xem cuốn phim những ngày căng thẳng về cuộc khủng hoảng đe dọa Hoả tiễn nguyên tử của Liên Xô 1961; Sau đó Ted giúp Bush cho qua sự cải bổ Giáo dục vào 2001 và hai năm sau, TT Bush-Con tuyên dương công trạng Ted về sự tận tụy giúp đỡ dân chúng Hoa kỳ. Nhưng Ted Kennedy vẩn ngoan cường giữ vững lập trường, chiến tranh Iraq là một sai lầm, móng vuốt của thất bại và chính sách khánh tận (a failed, flawed, bankrupt policy) Tháng 11/2001 Bush-Con thông báo sẽ đặt tên Robert Kennedy trên Cơ quan chính phủ, Bộ Tư-pháp, có sự tham dự của Ted Kennedy với vẻ mặt gượng cười chua xót.

    Giòng họ Bushes thì quá nhiều tham vọng về xăng dầu và quá nóng ruột về phát triển Hàng- không Dân-dụng muốn hấp-tấp bắt chước như Harriman đã thâu vào quá nhiều lợi nhuận khi phát triển Ðội hàng-hải đi biển lớn nhứt vào thời gian Thế chiến-1, vì tham vọng vào xăng dầu nên bị Dick Cheney lấn lướt đến nỗi thân bại danh liệt cho triều-đại-2 Skull and Bones, rồi ngã quỵ.

    Kết quả, sự phản trắc, thất trung thể hiện trong bữa cơm tối của Ðảng Cộng hòa, Prescott Bush đã thẳng thừng tấn-công Harriman, “xem như Harriman, một công nhân đả cởi bỏ nón nhựa an-toàn ra khỏi đầu, và quăng đôi găng-tay lao động xuống đất, đi ra về một mạch không ngó lại” ngụ ý vô trách-nhiệm. Từ dạo đó P.Bush âm thầm theo dỏi từ chiến tranh Triều Tiên đến vấn đề giao tế thế giới. Dựa vào đó, Harriman đùn trách nhiệm cho dòng họ Bushes để cho George H.W. Bush nhảy vào cuộc chiến Việt Nam từ 1960 nhưng dưới sự diu dắt truyền nghề của Harriman cho đến khi mật kế Pennsylvania hoàn tất, có nghĩa là tạo nên một mô hình kiểu mẫu cho Hà Nội thống nhứt Việt Nam thành một qua mô-hình hiệp định Paris và cũng là lúc TT Nixon lên ngôi 1969. Thế là công cụ CIA do Dân-chủ Harriman thành lập 1947, bây giờ 1960 Cộng-hòa George H.W Bush được hưởng trọn vẹn. Thế nên chúng ta đoán chắc sự thất bại tại Vịnh Con Heo, thủ phạm chính là George H.W. Bush nhưng Kennedy phải chịu trách nhiệm vì đương kim tổng thống. Vì Harriman biết cuộc chiến VN sẽ đem lại thãm hoạ nên muốn lẩn trốn thì tội tình gì George H.W.Bush phải lộ diện, nên Bush-Cha đã khoán trắng cho Donald Rumsfeld muốn làm gì thì làm

    Sau Tết Mậu thân 1968, để chuẩn bị cho phong trào phản chiến, trong giai đoạn Tướng Abram trách nhiệm về việc lần lượt rút quân Mỹ về nước theo lộ trình sắp xếp hành khách lên phi-cơ. Trong khi Trung-úy phản chiến thuộc đại học Yale, John F.Kerry, Duyên tốc đỉnh cùng Thượng nghị sỉ Joe Lieberman, ứng cử viên Tổng thống, cầm đầu tờ báo Yale Daily News cùng một số đông sinh viên Yale đòi hỏi không tham dự cuộc chiến VN. Năm vừa qua 10/1967 họ trả lại thẻ quân-dịch cho Bộ tư pháp; Nhưng hơn ai hết, là người thay thế Harriman nắm giử chính sách, và cũng là lần đầu tiên George H.W.Bush công khai xuất hiện nhưng lại không muốn cho ai biết đến sự xuất hiện nầy, coi như đây là một trách nhiệm quan sát tại chổ cho biết sự tình, giai đoạn phải lần lượt rút quân về theo lịch trình của hệ thống các hãng Hàng-không Dân-dụng đã thiết kế.

    Ðể chuẩn bị thay thế Harriman sẻ từ giã chính trường 1969, và thời gian chuyển tiếp cũng sắp đến, ngày 26/12/1967 Bush-Cha sẽ đi thăm Việt Nam bàn thảo với Ðại sứ Ellsworth Bunker như một cuộc thăm không chính thức, lặng-lẽ không ồn-ào, Ông đi thăm các chiến sỉ Mỹ ngoài mặt trận, dùng trực thăng HU-1 đi thăm các tiền đồn từ Mekong Delta đến Ðà-Nẳng. ông đáp xuống Hàng không mẫu hạm dự một cuộc thuyết trình oanh tạc Bắc Việt. Vào một buổi sáng đến phi trường Ðà Nẳng đang bị pháo kích. Trong khi thăm viếng, phi công phải bay vòng để khỏi bị hoả lực ở dưới bắn lên. Ðược hỏi, các người lính đều có ý kiến như nhau: “Chỉ đơn giản nếu Hoa kỳ giữ lời cam kết thì chiến thắng sẽ đến!” Bush-Cha giữ trong óc “sự kiện Vịnh BV và Trân Châu Cảng đều giống nhau vì số nhân viên tham chiến có quá nhiều” chỉ có một điều tối kỵ là quân Mỹ sẽ rút ra hết để lại biết bao thãm trạng bi lụy cho người dân miền Nam mà ông là người nối tiếp chính sách đó!

    Ngày 11/5/1970 theo lộ trình John Kerry và số đông Yale và các phân khoa sẽ đến hành lang Quốc hội: “Chúng tôi bầu các người để chấm dứt chiến tranh hay chúng tôi phải tống các ông các bà ra khỏi chiếc ghế Quốc hội?” Trong đám đông nầy có Giám đốc Ðại học Yale, Kingman Brewster; riêng Prescott Bush, Chủ tịch Hội-đồng Kỹ nghệ Quốc phòng, hiểu rất rõ đường lối của Skull and Bones, đành phải phàn nàn “làm như vậy sẽ là một nhục khí cho Yale” Trong dòng họ Bushes, người cháu họ George Walker đang là lính chiến Sư-đoàn Dù, còn người cháu họ John Ellis đang hoạt động để chấm dứt chiến tranh.

    Khi TT Nixon thắng cử 1968, ông giúp đỡ Bush-Cha được bầu là Dân biểu cho nhiệm kỳ đầu vì là đứa con của Prescott Bush, được chỉ định làm Ðại-sứ tại Liên Hiệp quốc 1970, Trưởng Hội đồng của Ðảng Cộng hòa 1973-1974, được ở trong tham mưu của TT Nixon. Nixon xem gia đình Bushes như là những thiên tài giúp đỡ tham mưu cho ông, 1976 được sự tín nhiệm giữ chức trưởng ngành CIA, Bush-Cha hy vọng được làm Phó cho TT Ford trong nội các dù không được dân bầu. Nhưng Tôi vẩn nghĩ rằng: Bush-Cha là cố-vấn trong bóng tối cho Nixon 1969 về chính sách vì ông mới thực sự là người nắm giữ chính sách ngay sau khi Harriman rời khỏi chính trường 1969.

    Khi TT Nixon từ chức, Chủ tịch Quốc hội Gerald Ford lên làm Tổng thống, theo Tu chánh án 25th [The Twenty-fifth Amendment] TT Ford phải chờ Lưỡng viện của Quốc hội chấp nhận theo phổ thông đầu phiếu. Riêng Ông Dean Burch, cố vấn Tổng thống Ford đề nghị: “Cá nhân tôi chọn George H.W Bush [Bush-Cha]” và Richard A Moore, một thành viên tham mưu toà nhà trắng: “Cha và ông của Bush-Cha, cả hai đều được mọi người kính nể và là chủ của nhửng nhà Bank lớn ở New-York. Nhưng không may thay, Bush-Cha đã bị thua phiếu của Nelson Rockefeller 68/101, TT Ford rất lấy làm tiếc, vì hai người cùng là bạn thân, Ford mời Bush-Cha vào phòng bầu dục hàn huyên nhưng tiếc thay không còn ghế nào cho Bush.

    Nhưng không sao vì nắm chính sách, biết được thế chiến lược toàn cầu nên Bush-Cha cần qua Bắc kinh ngay để thương thảo về việc bỏ vốn làm ăn của Tư bản Mỹ. Như thay thế nhiệm vụ của Kissinger còn đang dang-dở và vô số đường lối ngoại giao của hai nước chưa được sáng tỏ cho lắm, Bush-Cha cần kiểm điểm cho đúng lộ trình. Harriman dù xa lìa chính trường nhưng luôn luôn bám-víu, theo-dõi kế hoạch Eurasian, ông tin tưởng tài ba của Bush-Cha, đặc biệt là về phương diện tình báo và phản tình báo; là một cố vấn thật tốt cho Bushes. Sự thiên tài độc đáo về tình báo chuyên trách của dòng họ Bush làm cho Harriman yên tâm, Bush-Cha sẽ đánh bại Cộng sản không khó lắm; Harriman cũng nhấn mạnh cho người kế vị của thế hệ sau biết rằng: “Phải tuyệt đối quan tâm và theo dõi sát nút về vấn đề ngoại giao, nhứt là với Trung quốc. Dù sao cũng phải rút kinh nghiệm như Harriman, con người tuy quyền hạn bao la nhưng người dân không biết đến, còn Tướng nổi tiếng Eisenhower thì làm sao họ không bầu cho ông. Harriman hai lần ra ứng cử Tổng thống đều thất bại (1952 và 1956) Con đường tốt nhứt nên dựa vào liên danh nào mà người cầm đầu phải là nổi tiếng mà người dân sẽ bầu như trường hợp tài tử Ciné hay Tướng tài [Eisenhower, Reagan…] Bằng giá nào cho kịp nếu phải làm Phó trước để lấy đà vào năm 1980 là thuận lợi nhứt theo lời Tổ-sư cố vấn W.A.Harriman, cuối cùng Bush-Cha chịu làm phó cho Liên danh Reagan, nhưng mà là phó với quyền hạn bao la.

    (còn tiếp)

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-03-2010, 01:24 PM
  2. Sự thật cái chết của Ngô Đình Cẩn
    By Thienbang in forum Sưu Tầm, Biên Khảo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-18-2009, 11:03 PM
  3. KHÔNG NHỚ : Cái Quên Của Người Lớn Tuổi
    By vunivercial in forum Sức khoẻ
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-14-2009, 12:12 AM
  4. Massachusetts tiễn biệt TNS Edward Kennedy
    By PS khoá 72G in forum Tin tức đó đây
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-28-2009, 04:02 AM
  5. Mối tình Việt - Ấn
    By loibangTQLC in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 05-16-2009, 01:01 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •