.Trong thời gian tôi ở phi trường Phan Rang, có mấy sự kiện sau đây xảy ra mà tôi còn nhớ:
Chuyện thứ nhất xảy ra vào ngày Chủ Nhật 15 tháng 9 năm 1974. Lúc bấy giờ Đại tá Phan Quang Phúc (Biệt Danh Anh Năm Phúc Gogo) Tư-Lệnh Phó Sư-Đoàn 2/KQ vào thay Đại tá Đổ Trang Phúc, Căn Cứ Trưởng CC20CTKQ đi học khóa Tham mưu cao cấp. Đồng thời vì là ngày Chủ Nhật, nên đa số các đơn vị trưởng không có mặt trong căn- cứ, chỉ còn lại Sĩ-Quan Trực Chỉ-Huy Căn Cứ là Thiếu Tá Trương Hải, Đoàn Trưởng ĐPV mà thôi. Theo như tin tức kiểm chứng được sau này với những người biết rõ câu chuyện thì vào ngày nói trên có một chiếc Boeing 727-121C số đuôi XV-NJC của Hàng Không Việt Nam, do Trưởng phi cơ là một Trung Tá KQVNCH tên Nguyễn Thanh Lịch cất cánh lúc 2:12 chiều từ Đà Nẳng đi Saigon. Đến khoảng 2:30 chiều thì đài Không Lưu Saigon được báo cáo phi cơ bị không tặc cưỡng ép bay ra Hà Nội. Lập tức lệnh ra cho Phi Trường Phan Rang cấp tốc ngụy trang giả làm phi trường Nội Bài, Hà Nội, trong khi đó phi hành đoàn sẽ bay vòng vòng tìm cách đánh lạc hướng tên không tặc. Đồng thời Liên Đoàn Phòng Thủ được lệnh bố trí chận bắt tên không tặc khi phi cơ đáp xuống. Theo như phỏng đoán sau này: Phi hành đoàn đã cố gắng đánh lừa tên không tặc và sau đó cho phi cơ đáp xuống. Nhưng có lẽ tên không tặc nhìn thấy cờ vàng vẽ trên các mái nhà, biết là bị gạt nên rút chốt lựu đạn cho nổ. Phi cơ nổ tung và rơi xuống gần phi đạo. Tất cả hành khách, phi hành đoàn tổng cộng 75 người và tên không tặc đều chết hết. .
Phân Đoàn của tôi được lệnh canh gác chung quanh hiện trường để nhân viên bệnh viện đi thu liệm tử thi và xương thịt vương vãi khắp nơi. Đây là hình ảnh thảm khốc đầu tiên trong đời mà tôi đã chứng kiến. Tuy tôi không được chứng kiến tận mắt tất cả thi thể mà các nhân viên bệnh viện thu nhặt hết, nhưng những mảnh vụn của xương thịt vương vãi khắp nơi thì tôi có thấy mấy chỗ. Sau đó mấy ngày mùi hôi thối bốc lên thật kinh hoàng. Tất cả mọi người gần khu vực đó không chạy tránh đâu cho khỏi được, ngửi mùi đó hầu như ai nấy đều muốn bệnh hết. Thỉnh thoảng lính gác đi lục xoát, lai rai vẫn có người thông báo về tìm được mảnh xương thịt nào đó còn sót ở khu vực chung quanh. Kế tiếp đó là tin đồn từ lính gác ban đêm: Nào là có người đang gác bỗng nghe tiếng người nói chuyện. Có người đang đứng gác nửa đêm bỗng thấy có tiếng trẻ nít vừa đi vừa khóc… và ngay cả có mấy người lính tìm được tiền bay rơi vãi đâu đó nữa. Ôi thôi đủ thứ lời đồn nhưng thật ra sau khi chúng tôi kêu mấy người lính gác lên hỏi trực tiếp thì ai nấy đều chối phăng hết.
Chuyện thứ hai xảy ra vào ngày 22 tây tháng 12 năm 1973. Đó là có hai đặc công VC bò vào phá hủy 2 chiếc F5E và làm hư hại một chiếc khác do Không Quân Hoa Kỳ mới vừa viện trợ. Vụ này xảy ra là do đặc công móc nối với nội tuyến gài vào một đơn vị của Chiến Đoàn Địa Phương Quân canh gác mặt trách nhiệm bên ngoài. Sau khi An Ninh Quân Đội điều tra, phát hiện được dấu vôi bột trắng do nội tuyến để lại dẫn đường cho đặc công bò vào. Hai tên đặc công bị trực thăng Gunship bay lên truy đuổi và bắn hạ ngay bên ngoài căn cứ. Còn tên nội tuyến ở Chiến Đoàn Địa Phương Quân bỏ trốn mất từ lâu. Tôi không biết sau này có bắt được hắn hay không? Cả Liên Đoàn Phòng Thủ gần như ở vào tình trạng báo động đỏ một thời gian dài. Riêng quân nhân các cấp ở Đoàn Phòng Vệ chúng tôi thật là vất vả sau sự kiện này, vì Sĩ Quan cao cấp ở khắp nơi liên tục bay ra Phan Rang kiểm tra. Sự tổ chức và kế hoạch phòng thủ căn cứ của chúng tôi đương nhiên là bị chiếu cố đến từng chi tiết nhỏ, cả đám thầy trò chúng tôi gần như túc trực 24/24 ở vị trí trách nhiệm của mình một thời gian dài không đi đâu rời xa vị trí được.
Sự kiện thứ ba xảy cũng vào năm 1973, tôi đang làm Phụ Tá Phân Đoàn Trưởng Phân Đoàn 2, thì được bổ nhiệm kiêm luôn Trung Đội Trưởng Trung Đội Xung Kích. Trung Đội Xung Kích này được thành lập sau khi có nhiều tin tức tình báo đưa về cho biết ban đêm có nhiều Việt Cộng len lỏi từ núi rừng về những thôn làng lân cận mang đồ tiếp tế lên núi. Không Đoàn Trưởng KĐYC (Không Đoàn Yểm Cứ) Trần Đình Giao muốn thành lập một Trung Đội Xung Kích ban đêm đi ra nằm tuyến bên ngoài vành đai phi trường. Thứ nhất cũng nằm trong kế hoạch Phòng Thủ phi trường Phan Rang, Thứ hai để góp phần với các đơn vị Địa Phương Quân bấy lâu nay chịu trách nhiệm này được rảnh tay mở rộng vòng kiểm soát ra xa hơn. Thật ra các thành phần ở Đoàn Phòng Vệ chúng tôi từ Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cho tới lính tráng đa số đều xuất thân từ bộ binh hoặc các binh chủng chiến đấu trước đây vì bị thương loại hai hay một lý do gì đó được tuyển về Không Quân làm nhiệm vụ phòng thủ. Thí dụ trong Phân Đoàn của tôi có Trung Sĩ nhất Lâm Sên, ông này người Miên, từ binh chủng Nhảy Dù về, võ thuật rất giỏi lại có cả bùa Miên. Người ông ta xâm đầy khắp, ngay cả các lóng tay cũng đều xâm chữ Miên trên đó, nhìn mặt ông ta là thấy "ngán" rồi, lính tráng không ai dám chọc ông Trung Sĩ nhất này giận, dù ông rất hiền và đặc biệt ông rất kỷ luật. Hoặc Trung Sĩ nhất Tiệp ở TQLC bị thương loại hai chuyển về… Lính tráng thì cũng vậy, đa số cũng từ các đơn vị bộ binh khác chuyển về, nên phải nói là rất hổn tạp. Tôi là Sĩ Quan "sữa" mới từ quân trường ra gặp đám lính hỗn tạp như vậy quả thiệt cũng nhức đầu với họ lắm, may nhờ có mấy ông Hạ Sĩ Quan này phụ giúp nên cũng đỡ.
Kế hoạch thành lập Trung Đội Xung Kích được chúng tôi đón nhận không chút phàn nàn vì đa số là quân nhân gốc tác chiến. Vả lại nhiệm vụ chỉ đi ra ngoài vành đai phi trường ban đêm gài mìn bẫy và chia phiên nhau canh gác đến sáng lại gở mìn ra đi về lại căn cứ. Mấy chuyện này đối với mấy ông "thần" tác chiến trước đây, bây giờ ở Phân Đoàn của tôi thì nhằm nhò gì. Chúng tôi còn khoái với kế hoạch này nữa vì được Không Đoàn cho nhiều ưu đãi. Cứ đến chiều là chúng tôi qua phòng Vũ Khí của Liên Đoàn do Trung Sĩ Tập phụ trách, ký nhận vũ khí, đạn dược, mìn bẩy, máy truyền tin PRC25… đầy đủ như lính tác chiến thực thụ, xong xe GMC chở ra xuất phát tại cổng kho bom đi đến điểm đã được chỉ định trước trên bản đồ, giăng mìn bẫy phục kích và chia nhau canh gác đến sáng. Cứ thế chúng tôi thay phiên nhau mỗi đêm một Tiểu Đội. Riêng tôi và Phân Đoàn Trưởng nếu không có gì cần ở trong căn cứ thì cũng thay phiên nhau đi ra ngoài nằm kích với anh em.
Một đêm không nhằm phiên trực, tôi đang nằm ngủ thì máy walkie talkie từ Tổng Đài Bộ Chỉ Huy Phòng Thủ Hỗn Hợp gọi tôi lên trình diện gặp Không Đoàn Trưởng và Liên Đoàn Trưởng gấp. Không biết chuyện gì nhưng chắc chắn là phải quan trọng lắm. Tôi choàng dậy và chạy ngay lên BCH Phòng Thủ Hỗn Hợp của căn cứ. Đến nơi thì thấy Trung Tá Trần Đình Giao, Không Đoàn Trưởng KĐYC, Thiếu tá Trương Khương, Liên Đoàn Trưởng LĐPT và Thiếu Tá Trương Hải, Đoàn Trưởng Đoàn Phòng Vệ… tất cả đều có mặt đầy đủ ở đó. Tôi được thông báo là một tiểu đội trong toán Xung Kích của tôi phục kích bên ngoài đã hạ được Việt Cộng. Quả là một tin sốt dẻo. Không Quân mà phục kích ngoài rừng giết được Việt Cộng thì đúng là chuyện ít xảy ra. Sau đó tôi tháp tùng theo Trung Tá Trần Đình Giao và Thiếu Tá Trương Khương bay trực thăng ra ngoài điểm nơi một tiểu đội Xung Kích của tôi đang nằm.
Sau khi dọn an toàn bãi đáp và được sự yểm trợ chiếu sáng của một chiếc trực thăng khác. Chúng tôi đáp xuống điểm. Trung Sĩ nhất Tiệp, Tiểu đội trưởng đội Xung Kích báo cáo một Việt Cộng vướng mìn chết ngay tại chỗ, một tên khác bỏ chạy, bị anh em trong tiểu đội bắn đuổi theo và chắc chắn tên này cũng bị trúng đạn rồi. Cả tiểu đội nói có nghe tiếng la thét đau đớn của nó. Vì trời tối quá, Trung Sĩ nhất Tiệp không cho đi tìm dấu vết bắt nó. Nghe thế, Trung Tá Trần Đình Giao cho trực thăng bay lên soi đèn tìm và quả nhiên thấy tên thứ hai nằm chết cách đó không xa . Lục xét chung quanh thì thấy có gạo, muối, súng ống của hai tên du kích VC này. Trung Tá Trần Đình Giao ra lệnh cho khiêng xác hai tên VC lên trực thăng chở về và ra lệnh Tiểu Đội tiếp tục nằm kích cho đến sáng…
Qua hôm sau trong khi Không Đoàn Trưởng thuyết trình cho Đại Tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Tỉnh Ninh Thuận và các Sĩ Quan cao cấp khác trong đơn vị, tôi được đề cử lên làm một màn giới thiệu về Trung Đội Xung Kích của đơn vị và nói về thành tích đêm qua. Tiếp theo đó Không Đoàn Yểm Cứ thưởng Trung Đội chúng tôi một số tiền đãi các anh em ăn nhậu một chầu từng bừng. Đó là một kỷ niệm khó quên trong khi phục vụ tại đây.
*****
***** *****
*****
Những ai ở CC20CTKQ vào những ngày tháng cuối trước khi Căn Cứ thất thủ, tôi nghĩ là khó có thể nào quên được. Phi trường lúc bấy giờ gồm nhiều đơn vị tác chiến như Địa Phương Quân, SĐ2BB, Biệt Động Quân, Nhảy Dù tiếp ứng để cố phòng thủ phi trường. Những đơn vị phòng vệ của chúng tôi cũng ứng chiến 24/24 với sự phối hợp của các đơn vị bạn. Khi Lữ Đoàn 3 Dù chuyển về căn cứ, Phân Đoàn 2 chúng tôi nhận nhiệm vụ canh giữ cổng số 1 và khu nhiên liệu. Các vọng gác của chúng tôi có đơn vị Nhảy Dù tăng cường yểm trợ. Cứ mỗi một vọng gác lại có một chốt của anh em Nhảy Dù nằm gần đó. Tất cả các Phân Đoàn khác cũng nhận được sự tăng cường yểm trợ của Nhảy Dù, BĐQ, SĐ2BB…như thế để canh giữ các yếu điểm khác. Bên trong căn cứ thì như vậy, bên ngoài thị xã chúng tôi còn có một nhà máy nước cung cấp nước cho toàn căn cứ với một phân đội trú đóng dưới quyền điều khiển của Thượng Sĩ Trần Văn Di, khi bình thường thì không sao nhưng lúc bấy giờ nhà máy nước này cũng trở thành một điểm quan trọng vô cùng. Lở địch quân chiếm đóng nhà máy nước thì căn cứ sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Do thế một bộ phận Nhảy Dù cũng được phái ra tăng cường bảo vệ nhà máy nước. Nói chung việc phòng thủ đơn vị lúc bấy đó được lấp dày kín bởi sự tăng cường của nhiều đơn vị bạn.
Đơn vị chúng tôi lúc bấy giờ sinh hoạt như thành phần tác chiến thực thụ. Chúng tôi được trang bị súng ống đạn dược đầy đủ như các đơn vị chiến đấu chuyên nghiệp bạn. Thực phẩm cũng được phân phối theo tiêu chuẩn đầu người với gạo sấy và đồ hộp của Quân Tiếp Vụ. Vì lệnh cấm quân gắt gao nên không ai ra vào mua bán tiếp tế thêm gì được ngoài những khẩu phần được phát. Có một sự kiện như sau mà tôi tin ai ở căn cứ lúc đó sẽ khó mà quên được. Đó là lệnh cho bắn bò để ăn. Địa thế trong phi trường rộng lớn với nhiều đồng cỏ do đó có nhiều Sĩ Quan cao cấp đã mua bò về thả và mướn người canh giữ. Đàn bò của mấy vị này lên tới mấy trăm con chứ không ít. Tới những ngày chót của CC20CTKQ, bò không ai chăm sóc, đi lung lung khắp căn cứ. Nhân lúc phi trường không được tiếp tế từ bên ngoài sau lệnh cấm quân, các vị Sĩ Quan cao cấp này đã cho phép quân nhân được bắn bò làm lương thực. Thế là mọi người có thịt bò ăn thoải mái. Nhưng việc bắn bò giết thịt một cách vô trật tự đã nảy sinh ra mấy vấn đề khó khăn khác:
- Thứ nhất nhiều quân nhân lạm dụng cơ hội này bắn giết bò một cách bừa bãi và quá phí phạm. Chính mắt tôi trông thấy có những quân nhân khi thấy xác một con bò mới bị bắn hạ, chạy đến định xẻ thịt thì phát giác hai đùi sau của con bò đã bị cắt mất. Mấy quân nhân này đã "chê" không thèm cắt phần thịt còn lại trên con bò đó mà đi kiếm con bò khác bắn để lấy hai đùi sau mà thôi và tình trạng như vậy không phải là ít. Ban đầu bò còn dạn dĩ, dần dần hể thấy dáng người là chúng bỏ chạy toán loạn.
- Thứ hai, sau lệnh cho bắn bò được mấy ngày, xác bò bị rửa và sinh ra mùi hôi thối khắp căn cứ đến độ bệnh viện trong căn cứ phải báo động khẩn cấp là nguy cơ bệnh truyền nhiểm sẽ xảy ra nếu không có biện pháp ngăn chân kịp thời. Lập tức lệnh ngừng không cho tiếp tục bắn bò được ban ra. Sau đó nhân viên y tế của bệnh viện phải đi lùng xác bò nằm rải rác trên những cánh đồng khắp căn cứ rải vôi hoặc hoá chất diệt trùng để khử mùi hôi thúi. Thiệt hết ý luôn!
Trước đó thân nhân của quân nhân các cấp lần lượt đều được di tản hết kể cả các quân nhân KQ ở những đơn vị không chiến đấu. Những đơn vị trọng yếu như Liên Đoàn Phòng Thủ, Truyền Tin, Nhiên Liệu thì phải ở lại ứng chiến và yểm trợ. Lệnh cấm quân được ban hành rất gắt gao. Ngoại trừ những quân nhân có phận sự, tất cả còn lại đều phải ở yên một chỗ, không ai được di chuyển lộn xộn Ở bên ngoài căn cứ tình hình cũng rất bất ổn. Các đơn vị tan hàng từ Đà Nẳng, Nha Trang… chạy về ngày càng nhiều kéo theo một số đông dân chúng đã bắt đầu hoang mang vào phi trường xin di tản gây nên một trình trạng hỗn loạn vô cùng. Cuối cùng lệnh đóng cổng không cho bên ngoài vào ồ ạt như trước nữa. Với sự giúp đỡ của Nhảy dù, chúng tôi làm một nút chận cách cổng số 1 khoảng 100 thước và kiểm soát từng quân nhân một trước khi cho họ vào, còn dân chúng thì người nào là thân nhân gia đình của các quân nhân chạy về thì mới cho vào... còn lại thì lính Nhảy Dù giải tán hết.
Tuy nhiên biện pháp đó kéo dài không được bao lâu thì dân chúng lại kéo vào nữa. Lần này với báo cáo là bên ngoài thị xã có nhiều thành phần xấu và các quân nhân rã ngũ vô kỷ luật đã bắt đầu cướp bóc, hảm hiếp nên dân chúng thà chết chứ không ai muốn trở ra ngoài nữa. Thật là một tình huống khó khăn! Chúng tôi báo cáo lên cấp trên và xin chỉ thị ứng phó với tình hình này và cuối cùng được lệnh cho dân chúng vào. Sau đó chúng tôi thành lập một Tiểu Đội đặc biệt phối hợp với Nhảy dù hành quân ra ngoài thị xã tước khí giới của các quân nhân đào ngũ, vô kỷ luật và các tay du đãng thừa nước đục thả câu. Chúng tôi được lệnh bắn bỏ không tha nếu những tên này kháng cự lại. Nhờ sự giúp đỡ của các anh em binh sĩ Nhảy dù, nên việc trấn áp thành phần bất hảo này không mấy khó khăn dù con số của bọn chúng rất đông và nhờ thế vãn hồi được trật tự cho thị xã Tháp Chàm.
Sáng sớm 16 tháng 4 năm 1975 ngày định mệnh! Bên trong phi trường đã khá hỗn loạn. Đạn pháo kích của VC đã lai rai rót vào phi trường từ suốt đêm qua và đến sáng sớm thì nhịp độ pháo kích càng gia tăng. Quân nhân và một số dân chúng chưa di tản kịp đã nhốn nháo túa ra phi đạo dành nhau lên những chiếc C119 hoặc các trực thăng tải thương đến độ bửng của một chiếc C119 phía sau chịu không nỗi sức nặng của bao nhiêu con người bu bám lên nên bị gảy rớt xuống luôn. Số người chen chúc trong lòng phi cơ đông nghẹt đến độ các pilots không thể cất cánh được vì thiếu an toàn và cuối cùng đành phải bỏ một phi cơ C119 nằm lại trên phi đạo.
Tôi đang đứng cạnh một chốt gác gần một bơm xăng tiếp tế nhiện liệu thì Trung Úy Trần Ngọc Bảo Phân Đoàn Trưởng gọi máy hỏi vị trí của tôi. Mấy phút sau anh ta lái một chiếc xe Pickup Không Quân không biết anh ta lấy ở đâu ra vì cấp số chúng tôi không có xe này. Anh ta nói với tôi là em ruột của anh ta vừa tử trận trong một phi vụ A1 Skyrader khi làm nhiệm vụ. Thật là một tin bất ngờ. Mới hôm qua Trung Úy Bảo còn chở tôi đến gặp người em của anh nói chuyện ở dưới cánh phi cơ A-1 khi biết được phi đội A1 này biệt phái ra tăng cường yểm trợ cho chiến trường Phan Rang, vậy mà bây giờ đã nghe anh ấy chết rồi! Tôi còn đang đứng nói chuyện với Trung Úy Bảo thì Thiếu Tá Trương Hải Đoàn Trưởng Đoàn Phòng Vệ gọi tôi trên máy báo tin này đồng thời ra lệnh cho tôi nhận nhiệm vụ Xử Lý Thường Vụ Phân Đoàn 2 để Trung Úy Trần Ngọc Bảo theo máy bay về Saigon lo cho người em. Trung Úy Bảo chở tôi đến một chiếc C119 khác, anh giao tôi cái máy Walkie Talkie của anh và chiếc pickup xong theo C119 về Saigon. Số Trung Úy Bảo như vậy mà còn hên, nhờ vậy mà anh không phải chạy bộ.
Tôi tiếp tục đi tuần đến mấy vọng gác nói chuyện trấn an các binh sĩ, hạ sĩ quan thuộc quyền, vì đã có mấy lính gác bỏ vọng gác trốn hoặc nhảy theo phi cơ về Tân Sơn Nhất rồi. Tình trạng quả thật đã tồi tệ lắm! Các binh sĩ ở các vọng gác không còn tinh thần, ai nấy đều nhốn nháo lên hết trong khi pháo kích địch đã bắt đầu tăng dần. Ngay tôi cũng hoang mang không biết mình phải làm gì! Một vài vọng gác chỉ còn 1,2 người lính. Một vài vọng gác khác không còn ai! Những người còn ở lại với tôi cũng bồn chồn không yên và tất cả lệnh lạc tôi đưa ra vào giờ này đối với họ gần như không tác dụng gì khi họ chứng kiến cảnh dân chúng và quân nhân từ các nơi chạy về mấy bữa trước túa hết ra phi đạo, mạnh ai nấy tìm bất cứ phi cơ nào có thể bay được để xin đi theo. Cảnh hỗn loạn đã đến lúc không còn gì có thể ngăn chận được. Ban đầu, lính Nhảy Dù canh gác không cho dân chúng và quân nhân tiến vào phi đạo để tìm phi cơ nào trống nhảy lên theo đi, nhưng càng lúc số người hỗn loạn càng đông đến độ 1ính Nhảy Dù nổ súng ngăn cản cũng không làm sao cản nổi.
Tôi gọi Thiếu Tá Trương Hải. Không thấy trả lời. Tôi gọi Thiếu Tá Trương Khương cũng không thấy trả lời. Tôi cứ lái chiếc pickup vòng vòng gần hanga dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương nơi có lính Nhảy Dù đang canh giữ chiếc trực thăng cho Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Thấy hơi yên tâm khi thấy chiếc trực thăng của Trung Tướng vẫn còn đó. Ở một hanga gần bên hanga dùng làm Bộ Chỉ Huy SĐ6KQ của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, tôi gặp Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt KĐP/KĐYC đang ngồi. Cho đến giờ phút này, nhắm mắt lại tôi vẫn còn nhớ rõ ràng dáng ngồi của Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt trong hanga ngày hôm đó. Ông ta là một người mập mạp, gương mặt lúc nào cũng vui vẻ và có tài hí họa rất nổi tiếng trong tạp chí Không Quân Gió Cát của căn cứ. Nhưng lúc bấy giờ nét vui vẻ cố hữu trên gương mặt phốp pháp của ông không còn nữa, thay vào đó là gương mặt của một người đã mất hết thần khí! Ông ngồi xếp bằng tròn, trên người mặc chiếc áo giáp và đôi mắt lạc thần đang nhìn ra một hướng xa xăm nào đó. Không biết ông đang nghĩ gì, nhưng đôi mắt và dáng ngồi thiểu não của ông đã để lại trong tôi một ấn tượng khó tả mãi cho tới bây giờ !
Tôi tiếp tục lái xe đến một chốt gác khác. Trống trơn. Lính gác đã bỏ đi đâu mất hồi nào rồi! Tôi quay xe lại chạy ngược về phía kho nhiên liệu mà lòng dạ rối bời, không biết mình sẽ phải làm gì trong khi bên ngoài phi đạo từng cuộn khói bốc lên theo từng viên đạn pháo kích. Nghe những báo cáo qua lại trong máy walkie walkie báo về tổng đài BCH Phòng Thủ Hổn Hợp thì VC đã lên đến đồi Đại Hàn và đang làm đề lô cho pháo kích vào phi trường?? Mà quả thật vậy, đạn pháo kích càng lúc càng chính xác vào các phi đạo làm hư hỏng mấy đường băng. Phi cơ gần như tê liệt không còn cất cánh được. Tôi gọi mấy vị chỉ huy của tôi một lần nữa, cũng không nhận được trả lời. Tôi gọi tổng đài BCH Phòng Thủ Hỗn Hợp thì được trả lời cũng không liên lạc được với Bảo Châu (danh hiệu Thiếu tá Trương Hải). Tôi gọi Trung Uý Nguyễn Hữu Tô Châu là Phân Đoàn Trưởng Phân Đoàn 1. Ngày thường chúng tôi chơi thân với nhau lắm, hể lên máy là có ngay, vậy mà giờ đó tôi cũng không thể liên lạc được với anh.
Lúc đó khoảng hơn 10 giờ sáng, vừa lái xe Pickup vừa lo âu suy nghĩ vẫn vơ thì phía trước tôi có một đám quân nhân Địa Phương Quân với súng ống và máy PRC25 truyền tin đầy đủ…. đứng giữa đường chận xe lại. Một Thiếu Úy Địa Phương Quân bước tới bên cửa xe:
- Thiếu Úy cho chúng tôi "quá giang" đi với.
- Mấy anh đi đâu? Tôi đang đi tuần mà??
- Trời đất! Giờ này còn tuần với tiễu gì nữa Thiếu Úy. Lệnh ra cho tan hàng rồi. Còn không chạy là không kịp đó. Tụi nó đã vào bên trong phi trường nhiều lắm rồi. Bên tụi tôi đã cho lệnh "bung" hết nãy giờ rồi.
Tôi còn đang hoang mang thì phía sau xe pickup, đám Địa Phương Quân đã nhảy lên đầy nhóc hết. Anh chàng Thiếu Úy Địa Phương Quân này cũng tự động nhảy lên phía bên ghế hành khách và dục tôi chạy. Hai bên đường và trên phi đạo, trên bờ cỏ… lúc bấy giờ xuất hiện đủ mọi loại xe: gắn máy Honda, Zeep, GMC, pickup…tuôn ra chạy về hướng cổng số1 của phi trường. Không còn chần chờ, nghĩ ngợi gì nữa, tôi cũng phóng gas chạy theo đoàn xe hỗn loạn đó trong khi phía sau những đợt nổ và khói bốc lên từ những viên đạn pháo kích địch đang rót xuống càng lúc càng nhiều.
Ra tới cổng số 1 không bao xa thì không thể đi được nữa. Bao nhiêu chiếc xe lớn nhỏ đều dồn ra nơi này nên gây ra một cảnh kẹt xe khủng khiếp. Trên đường, dưới lề cỏ, dầy đặc những xe nằm ngổn ngang một cách vô trật tự. Xe chúng tôi không thể nào nhích đi đâu được chứ đừng nói là có thể chạy. Cuối cùng phải đành bỏ xe pickup lại và tất cả đi bộ ra thị xã Tháp Chàm. Một quang cảnh thê thảm và buồn tủi chưa từng thấy khi chúng tôi ra tới nơi đây. Dân chúng thì mặt mày nhốn nháo sợ hãi, tay xách nách mang, già trẻ lớn bé kéo nhau đi lung tung khắp mọi nẻo đường. Còn lính tráng thì một số đông đã cởi bỏ quân phục, súng ống vứt la liệt khắp đường phố, một số cứ nhắm theo người trước mà đi một cách bất định. Có một vài thương binh dìu nhau đi vất vưởng không một ai ngó ngàng tới. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh sống động thê thảm vô cùng, mà cá nhân tôi là một nét chấm phá trong đó! Bức tranh này sống động đến độ nó ám ảnh tôi mãi tới bây giờ, nếu nhắm mắt lại tôi vẫn như còn thấy rõ ràng trước mắt vậy.
Tôi đang đi theo đám đông thì có người mặc đồ dân sự nắm tay tôi lôi vào một căn nhà kế bên. Té ra đó là hai người lính trẻ trong Phân Đoàn 2 của tôi. Một người tên là Tám, biệt danh là Tám Dẹo và một người nữa tên Thu, thằng Thu này lại đang đi với một cô gái giang hồ ở "động" bà Tô mà nó cặp từ lâu. Tôi được lôi tuốt ra sau nhà. Nơi đây đã đầy hết người đang đứng ngồi lố nhố, còn chủ nhà không biết là ai, có thể đã bỏ đi đâu mất từ lâu, Tám Dẹo nói:
- Trời đất! Giờ này mà ông còn mang súng ống làm chi. Dzô đây tui kiếm đồ civil cho thay.
Tám Dẹo bảo tôi đứng yên đó với thằng Thu và con bồ của nó, xong chạy đi đâu đó một lát quay trở lại với một bộ đồ dân sự cũ và một đôi dép. Nó nói nó đi xin những người dân bên ngoài cho tôi đó. Tôi thay đồ lính và mặc vào bộ đồ Tám Dẹo đưa thì may thay khá vừa vặn. Suốt cuộc đời, tôi sẽ không bao giờ quên được cảm giác cởi bỏ bộ quân phục ra thay vào bộ đồ civil dân chúng cho tôi ngày hôm đó. Tôi xếp bộ quân phục lại, nhét cây súng P38 và hai cái máy walkie talkie vào trong bộ quân phục, xoa nhẹ lên bông mai Thiếu Uý trên chiếc mũ lưỡi trai mà lòng cảm khái vô cùng trước khi thảy bỏ tất cả xuống cái giếng phía sau ngôi nhà. Tôi chỉ giữ lại tờ giấy Chứng Chỉ Tại Ngũ và xếp nhỏ nó lại nhét vào lai áo sơ mi. Một cảm giác buồn tủi và nhục nhả vô hình tự nhiên dâng trào lên không diễn tả được. Cái cảm giác đó sẽ mãi mãi là một nỗi buồn không bao giờ có thể tan biến hết mỗi khi tôi hồi tưởng lại. Thú thật chưa bao giờ tôi thố lộ ra với ai cái cảm giác đó, kể cả vợ con tôi. Tự tôi buồn và xấu hổ lắm nên không dám nói ra. Cho tới bây giờ khi đang viết những dòng này diễn tả lại cảm giác ngày hôm đó, hai hàng nước mắt của tôi rơi xuống hồi nào không hay.
Tôi, Tám Dẹo, Thu và con bồ của nó theo đám đông dân chúng đi một lúc thì gặp một toán quân thuộc Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù. Tất cả tháp tùng đi theo. Toán Nhảy Dù mở đường băng suối, băng rừng với dự tính di chuyển về hướng Cà Ná. Đoàn người đi theo theo toán quân Nhảy Dù ngày hôm đó ước chừng cũng hơn trăm người chứ không ít. Trong khi đi có hai ba chiếc trực thăng quần trên đầu nhiều lần và gọi máy truyền tin hỏi có Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi trong đoàn không? Sau khi bên dưới xác nhận là không có, hai chiếc trực thăng lại bay đi mất. Trên đường đi, toán Nhảy Dù khinh binh đi trước mở đường có vài lần chạm súng lẻ tẻ và đánh đuổi một vài chốt du kích. Chúng vừa chạy vừa bắn trả, nhưng may mắn không có ai bị trúng đạn và không có gì nguy hiểm xảy ra cả. Đêm đó chúng tôi nghỉ đêm bên một dòng suối. Tôi nói với Tám Dẹo và Thu là ngày mai tôi sẽ tìm hướng khác đi ra phía quốc lộ 1 vì đi cả đoàn quá đông như vầy nguy hiểm quá. Chúng tôi bây giờ đã giả làm dân, trong tay không có vũ khí, nếu đụng địch quân thì chỉ biết nằm im chịu trận giữa hai lằn đạn thôi chứ cũng không thể làm gì hơn. Nên tôi quyết định ngày mai tách ra đi riêng. Tám Dẹo, Thu và con bồ của nó xin đi theo tôi. Nếu thoát thì thoát chung còn nếu lỡ có gì thì thầy trò đành chấp nhận. Thế là qua hôm sau, 17-4-1975, chúng tôi tách rời đám đông dân chúng và đoàn quân Nhảy Dù, tìm hướng ra quốc lộ 1 với mục đích kiếm xe đò di chuyển về Phan Thiết. Bốn người chúng tôi đi mãi miết trong những cánh rừng chồi, khát quá gặp những vũng nước trâu bò nằm rất hôi thối cũng phải ráng nhấp môi uống chút đỉnh cho đỡ khát. Khoảng 2,3 giờ chiều, khi nghe tiếng xe chạy bên ngoài xa, mừng quá chúng tôi bương ra thì gặp ngay bộ đội CS nằm kích bắt tại trận! Chúng dẫn 4 người chúng tôi ra phía bên ngoài quốc lộ 1 thì thấy xe Motolova chuyển quân của bộ đội CS Bắc Việt đậu đầy ngoài đó, ngoài ra không có xe cộ nào chạy trên quốc lộ 1 vào lúc đó hết cả. Té ra tiếng xe chúng tôi nghe ban nãy là tiếng xe chuyển quân của chúng!
Bọn bộ đội CS dẫn chúng tôi tới một khoảng đất trống nơi đây đã có đầy dân chúng và quân nhân bị bắt trước từ hồi nào ngồi ở đó rồi. Tôi hỏi thăm mấy người bị bắt từ trước thì địa điểm ở đây còn cách Cà Ná khoảng 2,3 cây số. Ngồi chờ ngoài nắng khoảng 2 tiếng đồng hồ thì một tên sĩ quan bộ đội ra lên lớp chúng tôi một thôi một hồi, sau đó bảo chúng tôi phải đi trở lui về tỉnh Ninh Thuận, không được đi về phía trước. Lúc đó trời đã chiều lắm rồi. Tất cả đám đông dân, quân chúng tôi bị xua đuổi đi ngược lại hướng Phan Rang hết.
Trời sập tối thật mau. Tôi nhìn hai bên núi rừng vắng vẻ đang mờ dần trong màn đêm từ từ phủ xuống, rồi nhìn lại cả đám người chúng tôi lố nhố trên đường như những cánh ma trơi đang tiến thối lưỡng nan không biết phải đi về đâu đêm nay? Cái hình ảnh đó sao mà thê lương chi lạ! Cả đám đông cuối cùng bàn với nhau là nằm dọc theo ven đường nghỉ ngơi qua đêm rồi mai sáng hẳn hay. Lúc đó dọc đường có nhiều chiếc xe đò định đi về Phan Thiết nhưng bị VC chận lại không cho đi, họ cũng nằm dọc theo hai bên đường ngủ qua đêm với hy vọng ngày mai có thể chạy về Phan Thiết được. Nhờ thế đám đàn bà, con nít được các tài xế cho lên hết trên xe tránh sương đêm. Cả đêm hôm đó thỉnh thoảng xe của quân bộ đội CS Bắc Việt di chuyển về hướng Phan Thiết không ngừng. Tôi buồn và lo trong bụng vô cùng. Như vầy thì hy vọng về tới Saigon của tôi sẽ còn gặp nhiều khó khăn lắm, với tình hình này không biết sẽ ra sao? Tôi nằm bên lề đường thức sáng đêm nhớ về gia đình, nhớ về người vợ trẻ đang mang thai sắp sanh mà lòng buồn không tả nổi.
Mới tờ mờ sáng ngày 18 tháng 4 năm 1975, cả đám tàn quân và dân chúng lết thết đi bộ về hướng Phan Rang, nhưng đi chưa được bao lâu thì mấy chiếc xe đò đêm qua nằm chờ quay đầu trở lại Phan Rang hết luôn. Họ bị bộ đội CS Bắc Việt nổ súng chận đuổi không cho đi về phía Phan Thiết. Sẵn đó mấy tài xế xe đò chở hết đám chúng tôi về Phan Rang