(tiếp theo)
Còn Nhị-trùng, Ðại-tá CSBV Bùi-Tín thì được mớm của trục Ma Quỷ nên cho rằng: “Mỹ [làm bộ] không hiểu thái độ “Trung Lập” của Cambodia, và đặc biệt của Lào, ông hoàng Sihanouk và Phouma đều nghiêng về phía Hà Nội; Hiệp định Genève năm 1962 về nền trung lập của Lào không hề ngăn Bắc Việt Nam để nhiều quân ở Nam Lào và dùng Lào để thâm nhập qua Xa lộ Harriman được đơn-vị Ðoàn 959 của Pathet Lào bảo vệ. Mỹ (Harriman) làm rất ít để không tác động đến Vientiane và PnomPenh trong khi Hà Nội tranh thủ rất cao và tận dụng rất khôn khéo nền Trung lập nghiêng-ngả ấy với sự nháy mắt ngầm đồng ý của Harriman; Nếu phía Washington sớm nhìn thật rõ được những điều kể trên để có chủ trương thích hợp thì tình hình đã có thể đổi khác và sự kết thúc chiến tranh cũng không phải như chúng ta đã thấy! Ðại tá Bùi Tín chỉ nói như con Vẹt do một kẻ bí mật ở sau lưng hối thúc. Làm gì Bùi Tín hiểu được sự tấn công qua Cambodia và Lào là “Một sự di tản chiến lược an toàn” qua tu chánh-án Cooper-Church 1970 (manage the defeat) và sẽ trở lại ở giai đoạn-3 màn kết (Overhauling the damage control to Roll-Back 2010-2020) Cuối cùng thì Trung Quốc đã chia ra nhiều tiểu quốc bằng “tối huệ quốc” của Hoa Kỳ (the U.S. Freedom Support Act) cũng tái diễn lại y chang trường hợp một nước độc tài như Liên-bang-Liên Xô bị chia cắt bởi tám nước Cộng Hoà. Dĩ nhiên là những nước Cộng Hoà tách rời này mực sống của người dân cao hơn dân cư sống tại thủ đô Bắc Kinh và Moscova dựa vào cái dù che “The US Freedom Support Act”.

Vì trong guồng máy chiến tranh, Mỹ đã chuẩn bị và đang phải kiểm soát lại trong kinh tế và cả trên chính-lược Mỹ để phải đè bẹp Trung quốc bằng mọi giá; Năm 1962 Tình Báo MACV báo cáo Pentagon là quân Bắc Việt đang xây dựng đường Mòn Hồ bắt đầu từ phía Tây vùng phi quân sự; Được lệnh từ viên chức đứng hàng thứ Ba của Bộ ngoại giao là Harriman (người sáng lập ra đảng-hội Skull and Bones 1920) ngầm ra mật-lệnh cho Forrestal, thành viên Hội đồng An Ninh quốc gia Hoa-Kỳ (NSC) và Leonard Unger, Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào thông báo cho MACV không được đụng đến phần đất của Lào-quốc. Năm 1964, Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cảnh cáo Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara: Dù được lệnh như MACV không được quyền can dự ở Lào, nhưng ít ra phải để cho QLVNCH có quyền chống đỡ biên giới của họ chớ? Mc Namara không còn cách nào bèn cầu cứu với George Bundy, cố vấn TT Johnson để thả dây cương cho quân lực VNCH được quyền đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Dĩ nhiên TT Johnson rất bằng lòng chấp nhận ngay; Công điện đang chuyển qua MACV Saigon, thì liền sau đó có lệnh ngầm, Forrestal cảnh cáo ngay với Bundy:

“Dù rằng TT Johnson đã ký lệnh, nhưng không có dấu “khán” của Harriman thì là một điều rắc rối: “Anh cũng thừa hiểu chữ ký của Johnson không thôi thì không có giá trị” Bao nhiêu đó thôi thì độc giả cũng hiểu ngay là ai nắm chính sách của Hoa Kỳ (to send the telegram without Averell Harriman’s approval is just asking for trouble! Even if, the telegram had already received Johnson approval, but that was not enough).

Thế nên, Tôi tự cho rằng đây là Xa lộ Harriman! Đến khi vì quá sốt ruột đem lại sự chiến thắng tự vệ cho nhân dân miền nam, Tướng Westmoreland đòi hỏi ngay vị Tổng tư Lệnh quân đội Mỹ là TT Johnson xin TT cho lệnh quân đội Mỹ đánh sang Lào thì ông bị triệu hồi về Mỹ ngay. Sau này SOG xin phép được hành quân qua Lào và Cambodia để cấp cứu đồng đội lâm nạn nhưng vẫn bị từ chối; Vì thế Tôi tự cho rằng Đường 559 đả trở nên Xa Lộ Harriman từ dạo đó, Nó đã có ống dẫn dầu huyết mạch chạy song song với nó. Năm 1967-68 khi tôi đang học khóa Chỉ huy Tham Mưu tại Air University Maxwell Montgomery, Alabama Hoa-kỳ - Lúc này chiến tranh VN đang thời khốc liệt vào Tết Mậu-Thân, Cứ mỗi lần ‘coffee-break’ Tôi bị bao quanh bởi các bạn Mỹ, và sĩ quan Đồng minh cùng khóa, kể cả các giảng viên. Họ luân phiên hỏi Tôi về chiến tranh VN, Tôi còn nhớ rõ, Tôi chỉ đáp lại là: “phòng thủ Nam Việt Nam trở thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch vùng biên giới với các quốc gia Lào và Cambodia. Tôi không phản đối gì việc ngăn ngừa Cộng Sản bành trướng, nhưng chẳng thấy chiến lược nào đang áp dụng lại có triển vọng thành công; tuy nhiên, lòng yêu nước của tôi mạnh hơn nỗi bất mãn về chiến lược lãnh đạo kém!”

Một viên chức cao-cấp về địa dư của quân đội Hoa Kỳ, ông John-Collins, ghi nhận rằng: Ðường Trường Sơn này cũng chẳng có gì lạ, ngoài một chuỗi dài rừng núi bao la hiểm trở, có những đoạn đường Mòn dài cả chục cây số, lá rừng dầy đặt che khuất ba tầng đến nỗi không thấy được ánh mặt trời. Dưới đó, nhứt là thời kỳ chống thực dân Pháp, biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ yêu nước hy sinh cả đời mình cho cuộc kháng chiến chống Pháp; hằng ngày họ phải còng lưng khuân vác những trang cụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến; người Pháp với phương tiện không thám nghèo nàn và lỗi thời thì làm cách nào mà phát hiện nổi. Ngoài ra kháng chiến quân ăn uống kham khổ, không cần tiếp tế như một đạo quân dã chiến, nên khó bị phát hiện. Trang bị vũ khí cướp được của Pháp hay những vũ khí mà họ tự tạo thô sơ qua các Công binh xưởng, ráp nối như đồ chơi trẻ con mà John.Collins cho là Rube-Goldberg Toys. Giữa năm 1950, lực lượng Việt Minh bắt đầu khai mở Ðường Trường Sơn, tuy nhiên chỉ hoạt động cầm chừng, lẻ tẻ từng Toán nhỏ giao liên, nhưng chỉ xuyên qua những đoạn đường thuộc phần đất thực dân Pháp tạm chiếm của các thành phố lớn như: Nha Trang, Qui Nhơn, Ðà-Nẳng, Huế, Quảng Trị… còn lại họ di-chuyển xuyên qua các vùng đồng bằng, cận đông của Dãy Trường Sơn do lực lượng Việt-Minh kiểm soát. Hiệp định Genève ngày 20 tháng bảy, 1954, Cộng Sản bị đẩy ra Bắc, ngoài vĩ-tuyến 17,

Quân đội Cộng sản buộc phải lên tàu của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, như Ba-lan, Hungary…từ các hải cảng như Quy Nhơn…Nhưng Cộng sản vẫn gài lại một số cán bộ nằm vùng. Ở những Làng Huyện cận sơn như Minh Long, Ba tơ, Gia Vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Cán bộ Cộng sản lấy vợ Thượng, chịu hội nhập phong tục “Cà răng căng tai” đóng chốt tại chỗ. Cộng sản chôn dấu một số vũ khí để mai phục về sau khi phát động tái vỏ trang xâm lược miền Nam; Một số cán bộ nồng cốt được đưa ra Bắc nhưng quyết không từ bỏ ý đồ trở lại thôn tính miền Nam bằng vũ lực vì mắc mớ gia đình còn kẹt lại tại Miền Nam. (Từ 1943 khi Harriman đang làm Ðại sứ Mỹ tại Liên Xô đã có ý đồ dời chiến tranh qua Triều-Tiên rồi Việt Nam (theo mô hình chia đôi thành hai nước như sẽ kết thúc chiến tranh và chia Đức ra làm hai theo chương trình “Aid to Russia 1941-1946 Plan) Sau khi móc nối được Cụ Hố Chí Minh vào Service of War Information 1943 (tôi tạm dich “Sở tin Chiến tranh ở Côn-Minh, chắc chắn thế hệ thứ tư thứ năm sẽ nói rõ những sự kiện này ra vì các sử-gia luôn luôn sẽ làm sáng tỏ và công minh cho lịch sử VN sau này với vô số tài liệu bất thần lộ ra như cuốn DVD sự thật HCM).

Vì thế Ðường Trường Sơn được đổi tên lại là Ðường Mòn HCM do Nhóm tham mưu học giả của Harriman tung tin ra từ các nước Tây phương với mục tiêu chính trị, Họ muốn vinh danh HCM để bù đáp lại sự phản bội vì quyền lợi buộc Họ phải lừa gạt để kéo dài chiến tranh cũng như Họ tìm cách đưa tên HCM vào danh nhân thế giới tại UNESCO, Liên Hiệp Quốc sau này, nhưng thất bại vì sự đả phá của nhân dân Miền Nam chưa thấu hiểu.

Từ tháng Tư 1959, Bộ chính trị Cộng sản Hà Nội triệu tập một cuộc họp bí mật thứ 15 do áp lực ngầm của trục Ma Quỷ, để rồi Lê Ðức Thọ cương quyết đưa hàng ngàn cán bộ CS miền Nam trở về nằm vùng mai phục chờ chỉ thị mới của Bộ chính trị Trung ương Ðảng (trong khi cụ Hồ đã ra lệnh rút 100.000 vế Bắc) Ðể thực hiện ý đồ này: Theo lệnh trục Ma/Quỷ, Lê Đức Thọ chỉ thị thành lập một đơn vị Mới để chuyên trách đưa người và tiếp liệu vào Nam. Ðó là “Ðoàn chuyển vận 559” do Tướng một sao Vỏ Bam chỉ huy. Quân đội Bắc Việt đặt tên là Đường 559 – Trong hồi ký của Ðại tá Bùi Tín “From Enemy to Friend” Paris, tháng 10-2003, chỉ gọi là Ðường 559. Phía Hà-Nội không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ. Sự thật HCM đã bị bọn hai anh em Lê Ðức Thọ và Mai Chí Thọ cùng Lê Duẩn trở về Hà Nội nắm quyền, cách ly HCM, ngày ngày lo vui thú điền-viên qua vun tưới cây “Vú-Sữa” Miền Nam và chỉ làm cảnh khi phải đón tiếp phái đoàn ngoại giao mà thôi.


HẾT

QUEENBEE-1