Chiều Hoàng Liên Sơn
Nhạc & Lời: Phạm Thiên Tứ
Tiếng hát: Việt Long
Mẹ Đi Thăm Con Ở Chốn Lưu Đày


Từng giòng lịch sử và giòng thời gian dài lê thê vùn vụt trôi qua, theo tiếng còi tàu tốc hành hú từng hồi lát gừng giống như tiếng nấc cụt, con tàu lửa từ từ xục xịch ục ịch rên siết, hì hục, lết lết, rọt rẹt chuyển bánh. Con tàu dường như nhão mục, rền rĩ rung chuyển, rung rinh, lắc lư thụt lui thụt tới, cạ quẹt, nghiến trên hai thanh tà vẹt hoen màu rỉ sét. Tôi nghe thật nhức óc và điếc con ráy quá chừng! Than khói đen đen xám xám kéo theo đoàn va-gông cũ kỹ, xập xệ lắc lư, khói toả thành một lằn dài ngoẵng bay mù mịt cả một góc trời.

Vẫn những toa tàu chật như nêm chở đầy nhóc hàng hoá cồng kềnh ngổn ngang. Hành khách hỗn độn từ ga Sài Gòn đi về miền Nha Trang, họ lố nhố bu đầy trên bậc cấp, trên mui trần, bên những ô cửa. Họ la hét, xô đẩy, giành giựt chỗ ngồi náo loạn. Tất cả những toa xe đều huyên náo, ồn ào kinh khủng. Nhân đó nạn sờ mó, móc túi, cướp bóc tràn lan trong toa tàu. Dù có tên công an Tiểu-đoàn đường sắt chống trộm cướp thủ củ súng và cây dùi cui lăm le trong tay, ông ta đập cây dùi cui chan chát trên ô cửa, ổng lớn tiếng oang oang la hét không ngớt, tay chỉ chỏ ra lệnh đóng hết cửa tàu. Cuối cùng ổng đứng áng ngữ ở bậc thang cửa lên xuống tàu, ổng cũng không thể ra oai; mà đành lắc đầu ngao ngán giương mắt trơ ra nhìn.

Bà mẹ chồng, các con trai, & tôi ngồi trên tàu lửa chật như nêm, họ nhét chúng tôi ngồi chung với bầy súc vật ngổn ngang: gà, vịt, ngỗng, ngan, nhảy lên đầu lên cổ chúng tôi kêu quang quác, heo trợn mắt đỏ, mõ kêu eng éc, chó tru từng hồi; chúng đồng loạt kêu la rần trời, nghe quá đinh tai nhức óc. Không những thế, mà áo quần chúng tôi bị trét đầy phân heo, phân chó hôi thối khủng khiếp. Khổ nhứt là khi chúng tôi đáp tàu chuyến, tàu chợ, xuống tàu để lên xe vô Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc, xa Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2, (từ ngã ba Tân Phong, Quận Xuân Lộc, thuộc Tỉnh Long Khánh) thăm Luật, nơi mà:
Ngọn gió chướng, hồn tôi nghe buốt lạnh.
Cơn mưa chiều tí tách chạnh lòng thêm.
Chuỗi ngày xưa trong cuộc sống êm đềm.
Còn đâu nữa nghĩ càng thêm đau xót.
Dòng thời gian đã trôi đi mai một.
Hơn nữa đời người đã trót đeo mang.
Đã ngắt đi tiếng dạo của cung đàn.
Cung lỡ nhịp với muôn vàn cay đắng.
Tâm hồn tôi đã chìm vào sâu lắng.
Đôi vai này gánh nặng nỗi niềm đau.
Rồi dòng đời cứ trôi chảy qua mau.
Tôi lần bước bao niềm đau uẩn khúc (1)

Về sau nầy Luật bị chuyển trại ở Long Giao, vô Z 30, không có tiền, nên nhiều lần mẹ con bà cháu trụt xuống tàu lửa, hay xuống xe đò tại ngả ba Ông Đồn, Xuân Lộc, rồi đi bộ ngang qua trại “tù cải tạo” Z 30 C, Gia Rai ở đồi Phượng Vỹ. Hồi xưa nơi ngọn đồi nầy là Trung-đoàn 48, thuộc Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ. Muốn đi vô trại tù Z 30 A – hay Z 30 B - xa rất xa đường đi khó khăn và nguy hiểm, nhứt là lúc mưa ào ạt đổ xuống khu rừng rậm, thế nhưng ai nấy cũng mừng vì thiên nhiên được kỳ cọ rửa sạch cây cối, và những lán trại tù, nóc nhà tôn, nhà lá... có những anh tù “cải tạo” ở đó cũng bớt khổ, vì họ không bị những cơn nóng nung muốn lột da, lúc rừng cây trở nên dịu dàng vừa qua trận mưa to, đã tắm mát núi rừng thì chớ, lại nữa những anh tù ở ngoài rừng được “tắm” thoải mái trong nước mưa, họ không bị khan hiếm nước khi “cải tạo” phải lau mình chỉ ở một ly nước nhỏ.

Mẹ con tôi vội vàng lẽo đẽo theo sau những chị vợ tù, họ từng đi thăm nuôi chồng, cha, con... nên biết rõ có một con đường đi tắt xuyên qua những đồi nương, sẽ mau đốt giai đoạn sớm vô lán trại tù mau hơn trước khi trời sập tối. Mẹ con bà cháu tôi cố rảo bước, chỉ sợ chậm lại, bị lạc mất những người ấy, thì không thể tìm thấy họ, vì rừng núi rậm rịt, con đường đất lại ngoằn ngoèo khuất lấp bở những lùm cỏ mọc cao tới ngực, thiệt khó vạch lối đi, cỏ tranh cao lút đầu bọn trẻ đã cào xướt vô da con những lằn dài đỏ tươm máu rát bỏng, hoa mắc cỡ, cỏ may rậm cao gần đến bụng con, bông cỏ xâu vô hai ống quần, chích vào chân chúng tôi ngứa ngáy, khó chịu dường bao. Ve chó, ve đất, châu chấu, cào cào, ruồi trâu, muỗi cứ bay ào ào lên từng đoạn, mỗi khi chúng tôi bước qua khu đường tắt.

Trại tù Z 30 là một trong muôn vàn trại tù mọc lên đông đen nhiều vô số trên toàn cõi Việt Nam, đấy là những thành trì cốt cán, chặt chẽ, nơi độc ác, tróc khảo, lột da con người đau đớn kinh khủng, do đảng và nhà nước dựng lên, để cai trị tù “cải tạo”. Tù nhân "chính kiến" bị dời đổi đi luôn luôn, xáo trộn lung tung tùng phèo lên như thế, vì đảng, nhà nước, cán bộ rất sợ! họ không muốn người tù ở lâu một nơi, cùng ở chung một chỗ, thì tù nhân dễ dàng kết thân với nhau, sẽ bí mật “tạo phản, phục hồi danh dự, mà phục quốc, phục quê”. Chả phải trai tráng đi “học tập cải tạo” (Reeducation Camp) nghe "rất kêu" như voi rống hổ gầm trong rừng sâu nước độc là gì! trăm ngàn tốp tù chuyên môn đi khổ sai “lao động là vinh quang”. Do: có những vị trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từng oai hùng hiên ngang chiến đấu phi thường vì lý tưởng, vì trách nhiệm bổn phận làm trai, họ chưa bao giờ thất bại trên chiến trường. Nhưng bây giờ họ phải tuân lệnh cấp trên, ngậm ngùi thổn thức buông súng bỏ tàu, như một người lỗi hẹn, luồng hào khí uất nghẹn tuôn trào, khi đất nước suy tàn trong bi lụy, vì chiến sử ác nghiệt từ định mệnh bi tráng, thăng trầm, họ đành làm người bồi hồi đắng cay chua chát, dày vò bởi từ ngữ “thua cuộc", họ uất hận mang theo vô vàn xót xa cay đắng khôn lường mãi đay nghiến dày vò khi lịch sử chưa bạch hoá:
Có phải Đảng đã trả thù ác độc
dân miền Nam, sau khi cướp miền Nam
Nhãn "cải tạo", mác "khoan hồng, học tập"
Thực chất giết người quỷ quyệt, dã man? (2)

Tốp tù kia ở trong vòng rào quần quật lo đào ao, đào hầm hố, tốp khác phải đi gánh phân, múc nước đái tưới rau tươi gieo trồng. Trong lều bên góc trại có dựng lên một lò rèn thô sơ, tù nhân vô đó làm bằng tay chế ra loại thủ công thành dao rựa, liềm, cưa… Tù phải tự làm thợ rèn cuốc, xẻng, cào; để đi cuốc đất, trồng ngô khoai đem cho đảng và cán bộ ăn “ngập mặt”, còn người làm những công việc nặng nhọc thì chúng bắt “nhịn ăn khát uống”. Tù vác xẻng đi đào mương khai cống rãnh. Tốp tù được đi rừng, nghĩa là có chút “tự ro thái mái” đi ra ngoài vùng có người dân sinh sống, thì thong thả và tự do hơn chút chút, (so với những anh tù bị kềm kẹp ở trong lán trại). Họ có thể đi ra ngoài rừng chặt cây, lấy củi, chặt tre đốn gỗ, để làm nhà tù. Công việc nầy quá nặng nhọc, khổ cực vất vả trăm bề, dĩ nhiên có mấy tên công an kè kè súng theo sau. Ai đời khiêng vác những vật dụng quá nặng nề trên đôi vai về lán trại tù, khi họ làm thành nhà tù xong, thì tự nhốt mình trong những lán trại xa xôi hẽo lánh: mùa nóng thì nóng lột da, mùa lạnh thì lạnh thấu xương. Thật dã man độc ác vô cùng, chẳng khác gì hồi trị vì của thời bạo chúa Tần Thủy Hoàng:
Chúng ta là người chứ đâu là chó!
Để nghịch cảnh khốn khó… nó bó cái khôn!
Sao ép thân trong tù ngục gò bó, để bị giam hãm tâm hồn?
Sao không đứng dậy, để đào mồ chôn toàn trị?
Dân chủ- Tự Do- Độc lập- Nhân quyền… há chẳng phải là những điều trân quí?
Vì tương lai của thế hệ ngàn sau, sao không hy sinh, không nung chí đấu tranh? (3)

Nơi tiếp tân của trại tù: trên bàn quản giáo có chiếc hộp để “Góp ý”. Thật ra, đấy là nơi dùng làm “cần câu”, theo dõi, đấu tố nhau, điềm chỉ “cho chắc cú thấu triệt” hơn. Muốn thăm tù, tại đấy có nhiều thủ tục đơn từ khai báo lỉnh kỉnh, lẩm cẩm, rườm rà, linh tinh và mỏi mòn chờ đợi. Tôi bồn chồn nôn nóng lo âu chờ đợi vài giờ, nhón gót dáo dác nhìn quanh, mẹ con cứ đi ra lại đi vô. Trong hàng rào phân định làm thành mô hình chữ U, là bảy dãy nhà tù lợp tôn, lợp lá đối diện nhau. Phân đôi giữa những dãy tù là khoảng sân vừa đủ rộng. Đi xuống dãy nhà bếp và bốn dãy nhà tù biệt giam. Nơi đây tù nhân bị mang gông cùm lởm chởm, cornex ở tít sau mé xa cuối cùng trong vòng kẽm gai, nơi đó các anh bị đọa đày khổ cực, khốn cùng đắng cay, đau đớn thân xác, khổ sở vô vọng hết biết. Tù nhân bị tù không bao giờ biết ngày tuyên án, chẳng hiểu lúc nào mới ra khỏi nơi qủy khóc thần sầu!

Đến giờ được phép thăm nuôi, tôi đặt những túm quà lên bàn, thì cán bộ lấy cây que tăm xe đạp thọc moi móc tỷ mỷ mấy lọ mắm ruốc, rất lâu. Chả biết họ nghĩ sao mà lấy mũi dao cạy cả cây kem đánh răng còn đóng kín trên miệng ống típ vậy? Nhưng, thành thật mà nói, mẹ con tôi sợ tên quản giáo (mà mẹ con tôi rỉ tai nhau: "hắn có bộ mặt Lucifer”, tất nhiên hắn có biết chữ tiếng Việt "lu xi phe" là gì, chứ đừng nói tiếng ngoại quốc) coi ở phòng khách, ai nấy đểu sợ gấp trăm lần sợ người mang bệnh cùi lở loét. Chỉ sơ suất một điều gì, kể như chúng tôi không được hắn cho phép thăm viếng, không thể chuyện trò với chồng, con, cha, gì sớt. Nhưng nói cho cùng, không phải cán bộ trông coi trại giam, là ai ai cũng "ác ôn côn đồ độc ác" cả đâu. Bằng chứng là có duy nhứt một cán bộ tên Nhượng biết điều, ông ta đối đãi với tù khá tôn trọng, từ-tâm, dễ dãi, có tình người hơn nhiều người cán bộ công an cộng-sản khác.

Nhìn qua khe hở hàng rào gỗ cao lút đầu mình, tôi thấy đoàn tù khoảng mười lăm người lần lượt nối gót nhau ra nhà khách. Trên mặt họ chảy dài những giọt mồ hôi hột, sau lưng và trước ngực áo ướt đẫm mồ hôi, những vệt mồ hôi trên áo qua bao năm tháng cũ, bện chung với những đám hô hôi mới rịn ra hôm nay đã bạc phơ từng đám, đang kêu sột soạt như mo cau. Trong cơn bấn loạn, sợ hãi, và băn khoăn tột độ, mẹ con tôi dáo dác nhìn quanh, cố tìm khuôn mặt người thân. Tôi lặng người nhìn những khuôn mặt vàng bũng, nhận ra nét cằn cỗi, già nua, hốc hác, bơ phờ và ốm đói, mỏi mệt, từ những lằn nhăn bên khóe miệng người tù, trên đuôi mắt hằn lún đường rãnh trên vầng trán phong sương cao cao sạm nắng gió khuya chiều, mà bỗng dưng tôi cảm thấy mình chới với bủn rủn.
Chỉ tiếc qua đi cái tuổi xuân thì
Cái tuổi "tao mày" đang hăng nhuệ khí
Theo nghiệp binh cùng quyết chí làm trai
Cái thời mà đất nước vẫn chia hai
Mình diệt Cộng để cứu dân cứu nước (4)

Nhà khách im phăng phắc nghe cán bộ đọc tên tù "cải tạo" , ông ta ấn định cho tù ngồi đúng chỗ xong, những anh tù vừa ngồi xuống dãy ghế gỗ, thì mọi nơi, mọi chỗ, mọi người đồng loạt rộ lên tiếng nói rộn ràng lao xao, ríu rít như bầy ong vỡ tổ. Người người bùi ngùi, thân thiết mừng rỡ trong nghẹn ngào, nức nở xúc động bồi hồi chào mừng nhau, rưng rưng nghẹn ngào hỏi thăm, an ủi, vỗ về. Tay me con tôi luôn quệt nước mắt, trào tuôn hai hàng lệ. Những anh tù "cải tạo" ngậm ngùi uất nghẹn cúi đầu mà không thể khóc, miệng họ cố mỉm cười méo mó, che dấu nỗi chua cay xót xa, đầy đắng chát tủi nhục vô trong lòng.

Tôi và Luật có khác gì nhau, chúng tôi đều ở giữa hai vòng ngục tù quê hương, gia đình tôi nói riêng và đa số gia đình bạn tù nói chung, cùng đồng bào thì ở tại vòng ngục tù bao la ngoài chấn song vô hình, khổng lồ đồ sộ mà vô cùng kiên cố. Tù "cải tạo" từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, lan ra tận Phú Quốc, Côn Sơn, đều giống nhau. Trước kia Luật đã ở các trại tù: Suối Máu - Ra Phú Quốc - Về trại Long Giao, vân vân… Sau đó chuyển tới trại Z 30 A. Rồi chuyển qua Z 30 B. Gia Rai – Xuân Lộc.
Chồng tôi ở vòng tù trong địa ngục, đôi khi anh bị cùm trong vòng tù thứ ba là nơi chuyên giam nhốt ai có “trọng tội”, bị xiềng xích hai tay hai chân, khi bọn cán bộ hành hạ tra tấn "tù" xong, thì bị nhốt vô nơi cùm gông dành riêng cho "thứ dữ". Quả thực, hồi nhỏ chồng tôi có tên cúng cơm rất ư là dễ sợ, do bố mẹ đã đặt cho ảnh cái tên: “Phạm Trọng Luật”, khi lớn lên, Luật đi học đến lớp Nhứt, thầy giáo vui tính gọi bố mẹ lên, thầy ôn tồn nói:
- Tên gì cụ không đặt, lại đặt cho con cụ có cái tên kinh khủng đến thế. Nếu cậu ấy không có "tội", thì cũng vì "phạm trọng…" mà vô tù, nghiã là đi tù ây.
Thầy giáo “làm phụ thầy bói" nói như thế mà linh! Nay ảnh bị “phạm trọng luật” (!, ?) đi tù ngót 10 năm, bị học tập "cải tạo" sao ta!? Có lần chồng tôi cười cười trêu đùa:
- Em ơi! Anh có muốn đổi tên thật phí, vẫn bị lừa như thường.
- Mắc mớ gì đổi tên, mà bị… ai lừa nào!
- Không đổi tên họ, không phạm trọng luật, anh bị tù xong béng đời trai, là gì đây!

Tôi hết sức lo lắng về tình trạng bệnh sốt rét của Luật, nhứt là đôi bàn tay anh đã lở loét, bàn chân anh làm độc dạo trước, do bị cán bộ y tế trại kêu anh làm thí nghiệm, ông ta lấy con dao bầu cắt rau trong nhà bếp, cứa cứa vô chỗ đau, xịt máu mủ ra. Chẳng có sát trùng, sát triết, không có thuốc tê, thuốc bại gì ráo. Luật đau đến ngất thì thôi. Mặc dù Luật đã ở tù mươi năm rồi, mỗi tháng anh đều được giấy cho đi thăm nuôi, nhưng gia đình tôi quá nghèo. Một năm chúng tôi chỉ chia nhau đi thăm nuôi Luật khoảng năm ba lần. Có năm chúng tôi không đi nỗi hai lần.

Cho đi thăm nuôi tù, nghe thì "có vẻ như" nhân đạo, thật ra nhà nước chẳng ưu ái khoan hồng, tử tế hay tốt lành gì. Cho phép người ở vòng tù ngoài đi thăm nuôi vòng tù trong, chẳng qua là đảng muốn tù ngoài gánh vác đỡ bớt gánh nặng "nuôi miệng ăn ở tù trong". Mặc dù tù “cải tạo” ăn ngày non bữa, bỏm bẻm chỉ có một muỗng cơm lạt độn bo bo hoặc sắn khoai với vài hột muối. Do số lượng tù quá sức đông, nếu chiết tính sơ sơ, đảng cũng nát óc điên đầu, nhà nước khó khăn, nan giải trong vấn đề gạo thóc mắm muối của đảng, thì dù tí cơm gạo tẻo teo cho tù nhân; cũng là chuyện không thể.
Luật thấy rõ hai túm quà bé tí nị, mà gia đình mang vô cho anh, nhưng quý giá gấp mười lần cá, thịt: Đó là tất cả sức cần lao, đói khát, gian khổ, từ mẹ già răng long tóc bạc. Từ những bàn tay các con gầy bé tí xíu, từ người vợ mảnh mai. Họ đã nhịn đói, nhịn khát, thiếu thốn trăm bề ngỏ hầu góp nhặt từng xu, từng đồng, họ cố gắng dành dụm, cúp nũm mang vào trại tù, cho anh chua xót ăn tạm qua cơn đói rã ruột.

Dĩ vãng vinh sang xưa, anh: xe pháo rủng rỉnh, nhà cửa đình huỳnh sung túc an vui, thình lình ồ ạt chảy về trong hiện tại đầy ứ quá khứ phản bội, khiến anh xốn xang chóng mặt cuồng quay đến hụt hơi. Vì, chuỗi lao tù cay cực kéo dài trước hàng chữ: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Mỗi lần gặp mẹ ruột, vợ, con: mệt mỏi vất vả đến thăm, Luật chỉ ôm chúng tôi khóc ròng. Anh khóc, không vì cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Mà bởi anh rõ hơn ai hết, khi nhìn mẹ gầy trơ xương, nhìn vợ ốm yếu, nhìn đàn con nheo nhóc khẳng khiu, yếu xìu, xanh lướt kia đang rưng rưng giọt lệ mừng vui cuống quýt. Luật lặng người nhận ra nét già khú đế trên khuôn mặt mẹ xếp lớp lăn tăn. Anh đau đớn nhìn những hố mắt con thơ còn quá nhỏ trũng sâu. Và, nơi khuôn mặt cô vợ hoa hậu diễm kiều mặt hoa da phấn năm nao, bàn tay búp măng nõn nà thuở xưa quá xinh. Nay “em tôi” có từng đường gân xanh nổi cồn bên thái dương, nơi bàn chân nứt nẻ, tróc lở, ở bàn tay sần sùi của “nàng”! Ấy vậy mà... Luật mủi lòng chẳng sợ ai cười chê, anh đã úp mặt vô hai bàn tay nứt nẻ mà khóc tướng lên, như trẻ thơ.
"Tao với mày" đâu phải dân khiếp nhược
Đã bao lần đối mặt trước quân thù
Đã bao lần đánh vào tận chiến khu
Đụng biển người nhưng mình đâu có ngán
Mình là dân bạn bè cùng súng đạn
Thì sá gì lúc hoạn nạn khổ đau
Mình đã thề cùng sống chết có nhau (4)
***
Lui cui dọn dẹp mấy bọc ni lông đựng túm xôi đậu xanh, tôi nhồi thêm ít đậu phụng rang vô thau xôi, để lát nữa sau khi hết giờ thăm nuôi, Luật sẽ xách vô trại, cùng anh em bạn tù chia nhau tí quà, (thay vì mẹ anh, Luật và mẹ con tôi ngồi ở đây, vừa ăn vừa nói chuyện, sẽ mất thì giờ, mà không nói được chuyện gì), thì tôi sửng sốt chợt thấy một đoàn hai chiếc xe hơi, từ ngoài con đường đất đỏ từ từ lăn bánh vào trại tù, và dừng lại ngay bên ngoài cổng trại Z 30. Trên xe lố nhố kẻ đứng người ngồi, đa số là người mặc áo tang, tôi nghe họ khóc than thảm thiết lắm. Tên cán bộ trại liền ra lệnh cho những người đang thăm nuôi dồn lại ở một cái bàn dài trong cùng. Tôi còn ngơ ngác lo lắng nhìn quanh, Luật thì thầm:

- Anh Trung-úy Long, tù ở trại Z 30 B, hiện làm tại tổ than của trại tù. Anh Long được tin mẹ ở Khánh Hội đã chết. Dù có giấy báo tử, anh Long tức tốc xin phép trại trưởng, cho anh về nhà một ngày, để phục tang. Nhưng họ kiên quyết không cho. Nên hôm nay, thân nhân của anh Long đưa mẹ về quê an táng tại Phan Thiết. Trên đường đi, xe tang ghé qua trước cổng trại, họ xin phép trại trưởng cho anh Long ra đứng bên trong cổng, ngay dưới hàng chữ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, để lạy chào mẹ lần cuối cùng.

Bần thần chua xót và vô cùng cay đắng, uất nghẹn đến nghẹt thở, khi tôi tận mắt chứng kiến cảnh anh Long xanh lướt, thân thể anh héo hon thất thểu ra cổng trại tù. Anh chập choạng ủ rủ như người mất trí, như người say, anh như thân cây sắp ngã. Anh Long lê từng bước thấp bước cao ra tới bàn quản giáo. Anh run run ký tên vào sổ thăm nuôi. Đôi mắt anh Long sưng chù vù, mọng đỏ. Lúc ấy người nhà quấng lên đầu anh mảnh khăn tang, anh buông thỏng hai tay, đứng bất động như trời trồng. Anh Long để mặc họ xỏ áo thả gấu xỏ quần trắng cho mình như cậu bé con. Hai người thân kè xốc anh Long ở hai bên cánh tay, dìu anh bước thấp bước cao ra cỗ áo quan mẹ lạnh giá. Như cái xác không hồn, anh Long run rẩy cầm ba cây nhang quỳ xuống mặt đường đất đỏ gồ ghề. Bỗng anh Long khóc rống tướng lên, nghe thảm thiết lắm. Anh Long sì sụp lạy mẹ và bất thần rệu xuống. Chuyện nầy ai ai trong trại tù Z 30 cũng biết, có thật 100%.

Bỗng dưng, từ thinh không rót vào tim tôi cảm giác rờn rợn, đau đau, phiền phiền uất ức, nghẹn ngào đau buốt rất vớ vẩn. Tôi để tiếng lòng ngân trong chiều Thu vẫn hầm hập nóng rần, dù gió heo may hái lá so đũa rụng đầy sân tù. Ôi! Vô vàn đau xót, chua cay và đắng chát nghẹn ngào, thương tâm dường bao! Những người đi thăm tù đang chứng kiến cảnh não nùng vĩnh biệt ly tan nầy, đều bưng mặt khóc. Nhìn mây trắng bồng bềnh trôi, như từng lọn bông gòn xôm xốp thao thức giữa hoàng hôn đượm buồn, tôi òa vỡ hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má.
Cổng đập đã mở toang hoang, mọi nỗi niềm đau đớn được dịp tuôn trào. Tôi khóc vì quê hương lầm than, khóc vì chồng đoạ đày khốn khổ trong ngục tù cộng sản, khóc vì anh Long tuy xa lạ, mà có phần gần gũi do đồng cảnh ngộ, nên vô vàn thân thiết, khóc vì mọi nhánh tình lưu vong bi lụy, người tù đoạ đày trên chính quê hương Việt Nam dấu yêu, khóc mẹ chồng già nua khổ sở, khóc các con thơ ốm yếu cơ cực đói khát; khóc chính thân tôi rục rả ủ rủ tàn úa trước thời gian. Khóc ròng! Chuyện mẹ đến thăm con trong tù “cải tạo” cuả anh Long, đã có thật qua lời thơ của một anh tù “cải tạo” ghi:
Xưa mẹ đến thăm con giữa chốn lưu đày,
Thời gian leo lét cháy trên tóc bạc như mây.
Tình mẹ thiên thu. Nhưng đời mẹ chỉ còn tháng ngày.
Mẹ thường đến thăn con như mưa xuống cỏ cây.
Trưa hôm nay nắng nhiều hơn cả gió!
Có chiếc xe tang phủ đầy bụi đỏ
Trong chiếc quan tài, mẹ lại đến đây,
Mẹ lại đến đây giữa chốn lưu đày
Dù môi mẹ không còn hơi thở!
Gió trong con nhiều hơn giông tố.
Dù tim mẹ không còn nhịp thở.
Đất lung lay, trời cũng xoay xoay.
Mắt con lệ mờ, hay sương khói xa bay? (5)
***
Thạch sùng tróc lưỡi lỏ mắt nhìn gia đình tù dở sống dở chết khi đất nước đổi đời. Số phận dân đen vùi dập trong bùn sau ngày 30 tháng 4 "mất nước". Đồng bào ngoài tù đói khổ lầm than. Luật ở tù trong một chế độ phi nhân, tàn bạo, dã man đáng nguyền rủa suốt kiếp. Suốt kiếp! Gây cuồng nộ triệu triệu con tim, làm kinh hoàng thế giới! Chúng tôi phải sống thầm lặng, đói nghèo, cơ cực suốt mười tám năm tẻ nhạt, hèn mọn, dưới tận đáy xã hội, giữa sự lạnh lùng, độc ác, phân biệt đối xử đầy bất công. Một sự thiếu thông cảm, không đức độ, hèn hạ trả thù dân tộc trắng trợn, chẳng vị tha và hoàn toàn không có sự đồng cảm, tương thân tương trợ trong lúc khốn cùng.

Chao! Trời cao đất dày ơi! Xin Trời ở trên cao ngó xuống. Đất ở dưới ngóng lên. Hai bên giá vai có hai thánh linh biên chép, soi xét: Chứ, chúng tôi nào làm gì nên tội, sao phải gánh chịu cảnh đoạ đày, tù tội oan nghiệt, ô nhục đến thế nầy? Quá khứ chồng chất lên dĩ vãng quá đầy, quá nặng, quá đau. Tôi không thể tom góp ít chuyện đau buồn vào từng ấy nét phác họa sơ sơ, ghi vỏn vẹn trên năm bảy trang giấy, kể hầu quý vị nghe hết nỗi cùng cực, cay đắng, khiếp đảm xiết đỗi trên chính quê hương tôi. Dạ thưa! Không thể!

Vã chăng, giờ nầy tôi ghi lại giòng “lịch sử đổi đời”, không mục đích để bôi nhọ làm xấu xí thêm trang giấy. Câu chuyện TÙ “cải tạo” sự thật rành rành phơi bày ra đấy, làm sao chối cải, tôi cũng chả cần phải trách móc "chế diễu chế độ, chế đá" gì. Tuyệt nhiên tôi không muốn lên án một cá nhân. Tôi chỉ xấu hổ khóc thầm vì mình vô phúc đã sống với "đời" & số phận hẩm hiu, bẽ bàng quá đỗi đau xót. Thế thôi!
***
Tình Hoài Hương


(1) Phong Vũ Thiên
(2) Ngô Minh Hằng
(3) Nguyên Thạch
(4) Trương Trọng Kiên
(5) Lê Xuân