Remember ?

kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Tựa Đề: Ân TìnhThoáng Mất

  1. #1
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Button Do Ân TìnhThoáng Mất

    LỜI TÁC GIẢ



    Tôi không hề có ý định viết hồi ký về cuộc đời của một sĩ quan vô danh như tôi, mà chỉ muốn tiểu-thuyết-hóa lại quãng đời nhiều kỷ niệm của một người lính biển. Quãng đời đó đã chất chứa nhiều mẩu chuyện vui, buồn, hạnh phúc lẫn đau khổ. Những cuộc tình thơ mộng, dang dở được lồng khung trong bối cảnh chiến tranh của những ngày gần kề 30 tháng 4, năm 1975. Nhiều chi tiết thực và mộng xen kẽ nhau, giao hòa nhau dựng nên tác phẩm.

    Tác phẩm này được viết như một truyện dài, ấp ủ hoài bão trở nên một món ăn tinh thần cho những ai đã liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với cuộc chiến tranh Việt Nam, hoặc muốn có một khái niệm tổng quát về cuộc chiến đó, để hiểu, để cảm, để sống với tâm tư người dân thời chiến đặc biệt là lớp trẻ. Dù được dựng trong bối cảnh chiến tranh, tác phẩm tự nó không phải là một tài liệu lịch sử nhưng nó được viết với sự trang trọng và nghiêm chỉnh: Mong làm chứng nhân cho một quãng đời của tuổi trẻ nhiều biến động. Như đã trình bày ở trên, tất cả chất liệu, nhân danh, địa danh được nêu lên, được xử dụng, dù thật hay do trí tưởng chỉ nhằm mục đích tạo nên truyện. Độc giả có thể tìm thấy, bàng bạc đó đây, những mẩu chuyện trùng hợp ngoài ý muốn, hay tương tự với cuộc sống cá nhân ngoài đời, vì phải chăng tiểu thuyết, nhiều hay ít, thường gói ghém chất liệu góp nhặt từ những kinh nghiệm sống thực rất cận nhân sinh?

    Tôi xin chân thành cảm ơn các bậc đàn anh cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, Giáo Sư Bùi Hữu Thư, Đại Tá Khương Hữu Bá, Nhà Văn Vũ Thất và vài thân hữu ẩn danh đã dành nhiều thì giờ quí báu đọc bản thảo, góp ý kiến xây dựng, khích lệ và hướng dẫn cho tác phẩm này được hoàn tất.

    Tôi chỉ mong gửi đến quý độc giả tác phẩm đầu tay khiêm nhường nhỏ bé này như là một cố gắng lớn trong ước mơ đóng góp chút phần nhỏ cho kho tàng văn chương Việt Nam vốn đã chồng chất bao nhiêu danh tác. Tôi xin cảm ơn những ý kiến xây dựng của quý thân hữu và độc giả bốn phương, hầu hi vọng sẽ được gửi đến quý độc giả những tác phẩm kế tiếp.

    Xin mời mở sách! Xin hãy hướng lòng trở về quê hương những ngày khói lửa!




    TRÍCH LỜI PHÊ BÌNH


    Tôi đã đọc một mạch cuốn sách từ trang đầu tới trang cuối, và tôi đã được hưởng những giờ phút đọc sách thật thú vị.

    Cuốn ÂN TÌNH THOÁNG MẤT là một sáng tác văn chương, viết về quãng đời cùng tâm trạng của một chàng trai thời loạn, khoác bộ quân phục trắng của Hải Quân, trong giai đoạn khó khăn sôi bỏng nhất đã kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam. Những ký ức trong thời sinh viên đại học, khoảng thời gian du học khóa Sĩ Quan Hải Quân ở Hoa Kỳ và những tháng ngày trên sông biển là những hình ảnh có thực trong cuộc đời của tác giả. Những câu chuyện tình cảm được lồng trong sách, tác giả đã viết với một tâm trạng dạt dào, có những đoạn vui làm người đọc say sưa, có những chỗ ly biệt gợi nỗi buồn bâng khuâng làm ta thấy nuối tiếc.
    Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, California.



    Tôi rất thích những tâm tình anh mô tả, những mẩu đối thoại giữa các tình nhân, những đoạn tả cảnh, tả tình với nghệ thuật xử dụng âm thanh, màu sắc phối hợp với tình cảm, ký ức hết sức linh hoạt, hấp dẫn và cảm động. Nói chung, tác phẩm đầu tay khá hay và thành công.
    Giáo Sư Bùi Hữu Thư, Virginia.



    Tác giả viết về cuộc chiến Việt Nam với tương đối đầy đủ mọi khía cạnh. Lối văn ký sự nhẹ nhàng, thanh thoát, thật dễ thương, thật trau chuốt, thích hợp với mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Tác phẩm không những nói lên được tâm tư người trai thời loạn với những đau khổ, hạnh phúc và buồn vui của đời lính mà còn cả hoàn cảnh xã hội cùng tính chất máu lửa của cuộc chiến vừa qua.
    Một Nhà Văn QLVNCH, Texas.



    VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ

    Phạm Văn Thanh là cựu Sĩ Quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, đã phục vụ tại Giang Đoàn 91 Trục Lôi và Giang-Pháo-Hạm Tầm
    Sét HQ331 trước năm 1975.

    Trong suốt 20 năm qua, tác giả từng đảm nhận những chức vụ điều hành hệ thống điện toán tại University of Michigan, Washtenaw Community College, Ypsilanti Charter Township và dạy học bậc Đại Học Hoa Kỳ.

    Từ năm 1995 đến nay, ngoài việc điều hành AuViCom, một công ty cung cấp các dịch vụ điện toán, tác giả cũng tham gia tích cực vào những hoạt động của Viện Khảo Cứu Việt-Mỹ (VietnAmerica Institute) trong việc bảo tồn cùng phát huy chính nghiã quốc gia và văn hóa dân tộc trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.





    CHƯƠNG 1

    Sầu Viễn Xứ Khôn Nguôi

    Tuấn không ngờ đã phải rời bỏ quê hương ra đi tức tưởi trong nỗi tủi nhục và đầy nước mắt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khốn khổ đó. Tuấn đã không được chứng kiến những ngày cuối cùng của chế độ Cộng Hòa Miền Nam ở Sài Gòn như thế nào. Khó mà tưởng tượng được cảnh náo loạn, sợ hãi của người dân, nhất là thành phần quân đội trong giai đoạn cực kỳ nguy kịch này ra sao. Nhưng Tuấn biết rằng chàng đã rất khó xử vì phải chọn một lối thoát ngoài ý muốn khi đành đoạn bỏ quê hương ra đi với niềm bi thương mênh mang, với vô vàn nghẹn ngào ấm ức vào buổi chiều mưa bay mờ mịt trên hải đảo Phú Quốc xa xôi đó.

    Tuấn cũng không ngờ lần Thiên Hương tiễn chàng ra bến tàu trở lại chiến hạm HQ331 để khởi hành đi chuyến công tác Phú Quốc, trước khi nàng về Đại Học Sư Phạm thi ra trường, lại là lần cuối cùng bên nhau trong cuộc tình ngắn ngủi của chàng và Hương. Ba năm yêu nhau, sáu tháng sau khi đính hôn, Tuấn đã xa người yêu trong một ngày nắng đẹp. Chàng và Hương mất tất cả tình yêu cùng những mơ ước hiền hòa cho một cuộc đời bình dị, dưới mái ấm hạnh phúc gia đình, với ánh mắt trẻ thơ hồn nhiên hướng về một tương lai tươi sáng của Việt Nam Tự Do.

    Những hình ảnh của lần cuối tiễn đưa vẫn in sâu trong tâm khảm Tuấn như nét khắc đậm nét mà mưa nắng thời gian khó thể làm phai mờ đi được. Tuấn vẫn nhớ mãi dáng Hương dịu dàng trong chiếc áo dài lụa trắng mềm mại phô những đường cong gợi cảm và khuôn mặt u hoài trắng hồng dưới ánh nắng rực rỡ buổi sáng sớm hôm nàng đưa chàng đi. Tình yêu đang lúc mặn nồng cho ánh mắt nàng thêm thiết tha, tiếng yêu thương thêm đằm thắm khiến Tuấn càng bịn rịn hơn khi lái xe từ từ chạy ra đầu ngõ hướng về trung tâm thành phố. Tuấn vẫn nhớ bờ tường vi dọc con hẻm đang nở rộ những hoa đỏ tươi, rung rinh phô sắc trong làn gió hiu hắt và không khí mát mẻ của buổi sớm Sài Gòn đẹp trời. Thành phố ngoài kia đang bừng lên sức sống. Tuấn đã ngẩn ngơ trước khung cảnh Sài Gòn thân yêu, chan hòa nắng ấm trước mắt. Những con đường chàng vẫn thường đi qua, ngập ngừng đèn xanh đèn đỏ, những góc phố cũ kỹ quen thuộc với hàng quán bày bán bao món ăn ngon, những chuỗi âm thanh ồn ào quen tai của sinh hoạt phố phường và xe cộ xuôi ngược bỗng dưng trở nên quyến rũ và thân yêu hơn bao giờ hết. Suốt những năm quân ngũ, Tuấn đã từng đi công tác xa thành phố, nhưng sáng hôm ấy, Sài Gòn sao tha thiết quá, vấn vương quá!

    Càng gần Bến Bạch Đằng, vòng tay Hương càng thêm quấn quít, lời từ ly lắm nghẹn ngào cũng khó níu kéo được phút phân kỳ rồi sẽ phải đến. Tuấn đã chia tay với Hương tại cổng vào Bộ-Tư-Lệnh Hải Quân cạnh bùng binh Công Trường Mê Linh có tượng vị Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam Trần Hưng Đạo chỉ tay xuống sông tượng trưng cho lời thề đuổi giặc Nguyên năm nào. Sau nụ hôn vội, Hương chầm chậm lái xe trở về, trong lúc Tuấn còn bâng khuâng đứng trông vời theo bóng người yêu. Chiếc Honda Dame màu avocado từng làm bạn với chàng và Hương suốt thời gian yêu nhau dần dần lẫn khuất trong giòng xe cộ và phố phường, mà Tuấn vẫn nhớ như in nét lo âu trên gương mặt Hương lúc nàng ngoái cổ lại nhìn theo. Cảm giác thật lạ len lỏi trong óc Tuấn lúc đó, sau chàng mới biết, đã như một tiên kiến báo trước hạnh phúc buồn chung cuộc sẽ xảy ra sau này.

    Giờ đây, dù Tuấn đã may mắn thoát khỏi những năm tù đày trong ngục tù Cộng Sản, cuộc đời nổi trôi trên xứ người vẫn không làm nguôi ngoai niềm thương nhớ quê hương, người thân, bạn bè, cùng những kỷ niệm thân yêu cũ. Tất cả đã trở thành quá khứ, những ấm nồng một đời cũng đã nhạt nhòa, còn lại chăng là kỷ niệm, nuối tiếc lẫn u-uất trong lòng. Năm năm rồi xa cách!



    Phạm Văn Thanh

  2. #2
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    CHƯƠNG 2

    Mộng Hải Hồ


    Thi xong năm đầu chứng chỉ Toán Lý Hóa (MPC) tại Viện Đại Học Đà Lạt, Tuấn, Đức và Vinh đã rủ nhau ra Nha Trang nghỉ Hè cho thoải mái. Bọn Tuấn cùng đi với Thuận, một người bạn cũ và hiện là sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt về phép thăm gia đình. Thuận người Nha Trang nên tình nguyện làm Thổ Địa trong thời gian nghỉ Hè này.

    Bọn Tuấn thuê phòng tại một khách sạn bậc trung trên Đường Độc Lập, gần bờ biển. Từ trên cửa sổ phòng khách sạn nhìn ra khơi, Tuấn thấy biển mênh mông, thấp thoáng ghe, tàu trên mặt nước biển xanh lấp loáng ánh nắng. Sống trên Cao Nguyên từ nhỏ, biển là một khung cảnh mới lạ hứa hẹn nhiều điều thú vị cho Tuấn. Gần trưa, Thuận y hẹn, đến phòng trọ rồi cả bọn cùng nhau ra bãi biển chơi. Bãi biển Nha Trang dài, tương đối sạch sẽ, với nhiều quán nước giải khát cất dọc theo bờ biển. Có lẽ bọn Tuấn đi chơi vào buổi sáng một ngày làm việc nên bãi biển hơi vắng người. Bốn đứa sánh vai dạo bước trên bờ biển, để lại sau lưng những dấu chân trần in trên mặt cát trắng mịn. Từng đợt sóng nhấp nhô xô vào bờ, tràn qua chân bọn chàng rồi rút ra khơi, xóa đi những dấu chân vừa in hằn trên cát. Bọt nước trắng xóa bật vỡ thật nhanh theo mực nước rút. Cát chưa kịp khô, nhiều chú dã tràng đã vội vàng bò ra, kiên nhẫn khuân những hạt cát xếp thành vòng chung quanh miệng hang. Tuấn cảm thấy nhột nhạt dưới lòng bàn chân mỗi khi sóng biển tràn lên làm rã rời những hạt cát dưới bước chân chàng. Thêm một cảm giác mới đối với chàng nữa là sự mơn trớn thú vị khi nằm trên thảm cát trắng phau, mặc cho làn nước xanh vờn trên từng thớ thịt đỏ au vì nắng vì gió biển.

    Tắm biển chán, cả bọn kéo vào quán nước, ngả người trên những chiếc ghế dựa thấp lè tè sắp thành hàng bên ngoài, vừa uống nước, ăn vặt, vừa nằm nghỉ mệt. Tuấn hớp từng ngụm nước dừa tươi trong ly đá mát lạnh, nhai từng mẩu cùi dừa non mềm ngọt, mắt lim dim dõi theo những cánh hải âu chao lượn trên mặt biển loáng bạc. Giọng hát Khánh Ly rã rời qua những bản nhạc của Trịnh Công Sơn xoáy vào tim chàng nỗi chua xót cho thân phận người dân thời chiến. Nhìn bạn bè bên cạnh cũng đang trầm ngâm lắng nghe lời ca phẫn nộ, ngun ngút khói lửa chiến tranh, Tuấn cảm thấy thương hại cho chính mình, cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung quá đỗi. Tuổi trẻ chúng tôi đang ngày đêm đi làm lịch sử, kết từng nấc thang cho những tham vọng chính trị của cả hai miền Bắc, Nam thù nghịch, cùng một màu da, cùng một giòng máu. Không còn lối thoát khác! Chiến tranh đang cuốn hút anh em, bạn bè tuổi nhỏ của chúng tôi vào cơn bão biển phẫn nộ, vào cơn cuồng phong bạt ngàn, vào một cuộc hành trình vô định. Chiến tranh đang cày nát thịt da của mảnh đất quê hương, trên đó vẫn ghi hằn nhiều vết thương còn tấy mủ trong suốt bốn ngàn năm dựng nước, khởi đầu với cội nguồn Con Rồng, Cháu Tiên của giòng giống Lạc Việt.

    Tuấn nghĩ đến tâm trạng chàng hiện tại: chán nản, cô đơn và mất niềm tin. Chàng là một học sinh xuất sắc, gương mẫu, rất lý tưởng của Đà Lạt hồi còn ở trung học, mang theo nhiều kỳ vọng của thầy, cô. Giờ đây, chàng là cả một thất vọng lớn nếu họ hiểu tâm trạng chàng lúc này. Tuấn thiếu tình phụ tử từ năm chàng chưa được hai tuổi khi chiến tranh Việt-Pháp đã cướp mất người cha thân yêu. Mẹ chàng phải tần tảo nuôi hai đứa con mọn, và bởi vì muốn con được lớn lên trong không khí tự do nên đã khăn gói di cư vào Nam năm 1954. Tuấn đã có một thời ấu thơ đạm bạc, một thời niên thiếu nhiều ưu tư dằn vặt, kết hợp bởi những buồn tủi, những ước mơ, mà mơ ước lớn làm hành trang vào đời là Y-Khoa đã vỡ vụn. Đất nước thanh bình chỉ được vài năm lúc chàng còn bé, sau đó cuộc chiến lan tràn ngày càng ác liệt. Những năm cuối trung học, chẳng ngày nào chàng được học hành yên ổn, hết sinh viên vào từng lớp hô hào xuống đường biểu tình, lại đến sư sãi khiêng bàn thờ ra đường chống chính phủ trong khi chiến tranh gia tăng cường độ. Chàng lớn lên theo vận nước nổi trôi đó mà không có chủ định rõ rệt về cứu cánh cuộc đời mình. Tuấn đang lơ mơ nghĩ ngợi, tiếng nói bất chợt của Đức đánh thức chàng trở về với thực tại:
    -Nghe nhạc buồn quá! Chúng mình chẳng thoát khỏi cơn bão chiến tranh đâu.
    Thuận gấp tờ báo đắp trên mặt lại:
    -Trước khi vào Võ Bị, tui nản lắm. Đời sống thắc thỏm, lang bang không chủ đích. Bây giờ, dù gì đi nữa, tui cũng thấy đời mình có lý tưởng hơn.
    Tuấn thở dài:
    -Đó là tâm trạng chung của tuổi trẻ chúng mình. Chấp nhận và làm hết khả năng mình chứ biết sao hơn? Trai thời loạn mà Thuận!
    Giọng Đức hơi bất mãn:
    -Bạn bè lần lượt tòng quân làm mình cũng nôn, cũng lo lắng, học chẳng vô nổi, mình không trượt vỏ chuối cũng là may đó.
    Tuấn gạt ngang:
    -Thôi đừng nói chuyện chiến tranh nữa. Việc phải đến sẽ đến. Bây giờ kiếm gì lót dạ đã. Mấy bồ đói chưa?
    Vinh nhỏm dậy:
    -Đói meo rồi.
    Thuận buột miệng:
    -Tớ đề nghị chúng mình đi ăn nem nướng hoặc kéo nhau xuống Cầu Đá ăn sò huyết.
    Đức lim dim tưởng tượng:
    -Sò huyết nướng trên bếp than hồng. Vừa chín tới, miệng sò hé mở, dùng mũi dao nạy vỏ mở ra, vắt tí chanh, rắc tí muối tiêu, và...chụt. Nhai với tí rau thơm để thưởng thức chất nước ngọt đỏ như lựu của sò huyết thấm vào từng đầu giây thần kinh vị giác. Tuyệt diệu lắm!
    Tuấn nghe nó tả chân hấp dẫn quá cũng cồn cào trong bụng. Vinh pha trò qua giọng Huế:
    -Khoái khẩu rứa mà chần chừ chi tề?
    Thuận gật đầu:
    -D'accord! Đây xuống đó chỉ ba mươi phút thôi. Chúng mình đón xe lam.

    Đúng như Đức đã tán dương, món sò huyết ở Cầu Đá ngon tuyệt.

    Sau vài tiếng đồng hồ rong chơi thăm Dinh Bảo Đại và Hải Dương Học Viện, tiện đường cả bọn ghé thăm Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Bên trong khu phi trường quân sự, vài chiếc khu-trục-cơ cánh quạt Skyraider và phản lực A37 rằn ri màu ô-liu lẫn nâu đậm và nhạt, nằm phơi mình dưới ánh nắng ban trưa hừng hực. Vinh nhìn một cách thích thú những con chim sắt và mấy chàng sĩ quan không quân trong bộ đồ bay một mảnh, tay cầm mũ bay (helmet) đang bước vội trên sân. Vinh chỉ chiếc Skyraider, nói với cả bọn:
    -Mộng của tau là được lái phản lực F4 vượt bức tường âm thanh, chứ không phải loại cánh quạt kia. Đức nheo mắt nhìn Vinh trêu:
    -Chiều cao của bồ quá dư mà bề ngang hơi thiếu. Muốn lái phản lực, bồ phải tập tạ nặng cả năm, Vinh ạ!
    Cả bọn cười. Thuận đưa ý kiến:
    -Võ Bị là nhà của những chàng trai mang giòng máu hào hùng vì Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.
    Vinh đưa tay gãi đầu:
    -Võ Bị học lâu lắm!
    Tuấn quay qua Vinh khích lệ:
    -Muốn là được Vinh à! Còn gì thú bằng đạt được ước mơ của mình? Tập vài tháng chứ vài năm cũng chẳng sao, phải không?
    Vinh cười hỉ hả.

    Rời Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, cả bọn lại ghé tới Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân rộng lớn nằm ven biển. Gặp dịp Hải Quân đang tuyển mộ sinh viên sĩ quan vào những khóa Hải Quân OCS du học Hoa Kỳ. Cả bọn ngạc nhiên vì Tuấn tỏ ra rất hâm mộ quân chủng Hải Quân, đặc biệt là khóa OCS này. Tuấn hỏi liên miên về chương trình học, về đời hải hồ, về thủ tục nhập ngũ và chăm chú lắng nghe nhân viên ban tuyển mộ giải thích cặn kẽ từng chi tiết. Tuấn đã xin đơn nhập ngũ, rồi hứa hẹn một cách mơ hồ là sẽ trở lại trình diện trước hạn kỳ.

    Trên đường về, Đức vẫn thắc mắc về ý định đột ngột của Tuấn:
    -Bồ nghĩ kỹ chưa Tuấn? Định vào Hải Quân thật sao? Đời lính có gì sung sướng đâu?
    Vinh gật gù tán đồng:
    -Vào rồi là kẹt, không ra được nữa.
    Thuận cố thuyết phục:
    -Nếu thích binh nghiệp, sao không chọn Võ Bị Đà Lạt, gần nhà hơn Tuấn? Bốn năm sau ra trường, bằng tốt nghiệp sẽ tương đương với bằng Kỹ Sư và được chọn đơn vị phục vụ.
    Tuấn quay qua hỏi Thuận:
    -Đời lính có khổ lắm không Thuận?
    -Nếu tự ghép mình vào kỷ luật được thì chẳng có gì khổ cả. Điều đáng nói là sau khi ra trường, xông pha trước "làn tên mũi đạn," tính mạng mình có bảo đảm hay không mà thôi. Tuy nhiên, sống hay chết là do Trời định cả. Chả ai biết được số mạng mình rồi sẽ ra sao, Tuấn ạ!
    Vinh ngẫm nghĩ một lát rồi góp ý:
    -Hải Quân có lẽ là an toàn nhất trong những quân chủng, nhưng cũng buồn nhất nếu phải lênh đênh trên biển hàng mấy tháng liền. Hay là vào Không Quân? Tớ thích Không Quân, thường ở thành phố và những khóa lái phản lực, trực thăng cũng được huấn luyện bên Mỹ.
    Tuấn gật gù, nhìn bạn bè một lượt:
    -Mỗi quân chủng đều có thú riêng, tùy sở thích của mỗi người thôi.
    Ngưng lại vài giây, chàng hỏi Thuận:
    -Không rõ đời sống ở Trường Hải Quân OCS thế nào, chắc cũng tương tự như Trường Hải Quân Nha Trang hoặc Võ Bị Đà Lạt, phải không Thuận?
    Thuận gật đầu:
    -Đời sống quân trường, có lẽ ở quân chủng nào cũng vậy, tuy rằng mỗi ngành học mỗi khác. Tui không rành về Hải Quân, Không Quân nhưng ở Võ Bị Đà Lạt, ngoài kỷ luật quân đội bó buộc, suốt thời gian trong quân trường, đời sống của sinh viên sĩ quan hiện dịch Đà Lạt thoải mái và thơ mộng lắm. Người ngoài nhìn sinh viên Võ Bị Đà Lạt cuối tuần dạo phố trong bộ quân phục láng coóng đều ngưỡng mộ.
    Tuấn đồng ý:
    -Còn phải nói! West Point của Việt Nam mà!
    Đức nhìn Tuấn với ánh mắt hồ nghi, giọng quan tâm hơn:
    -Quân trường khác chiến trường một trời một vực, Tuấn ơi! Khổ riết rồi cũng quen. Vấn đề là có nên đi lính bây giờ không?
    Tuấn nhìn bạn, ngẫm nghĩ mãi: Bạn chàng có lý. Đành rằng chàng thích mộng tang bồng hồ thỉ, nhưng tại sao chàng có ý định vào Hải Quân nhanh như vậy?

    Tối hôm đó, Tuấn nằm nghĩ ngợi lan man. Chàng không muốn mình quyết định sai lầm để rồi phải ân hận, nhưng chàng cũng không muốn để lỡ một cơ may đang đến trong đời. Chàng muốn từ bỏ bút nghiên theo nghiệp kiếm cung ư? Vì sao? Gối hai tay dưới đầu, nằm nhìn lên trần nhà, Tuấn nghĩ về những lời đối thoại hồi chiều với bạn bè trên đường về. Những câu hỏi và những câu trả lời vẫn xoay quanh trong óc Tuấn khiến chàng lưỡng lự. Ánh đèn ngủ trên bàn chiếu ánh sáng lờ mờ khắp căn phòng. Cặp thạch sùng đuổi nhau trên trần nhà, lâu lâu lại tặc lưỡi nghe buồn buồn. Đức nhỏm dậy, kiếm sợi giây thun, gắn vào tay làm súng, nhắm bắn con thạch sùng khiến chúng chạy tán loạn, đuôi ngoằn ngoèo, những bàn chân đầy hấp khẩu của chúng bám ngược trên trần nhà dễ dàng như chạy trên mặt đất làm Tuấn lạ lùng. Tuấn chưa từng nhìn thấy thạch sùng lần nào ở Đà Lạt, kể cả gián nữa, mặc dù vẫn nhớ đến màn chữa bệnh suyễn bằng cách nuốt thạch sùng còn sống trong truyện Kinh Nước Đen của Nguyễn Thụy Long.

    Căn phòng chỉ có độc nhất một cái giường, nên ba đứa phải chen vai thích cánh ngủ chung trên đó. Đức và Vinh vẫn còn chới với vì ý định của Tuấn nên không ngủ yên. Đức ngồi xếp bằng tròn trên giường, thấy Tuấn không nói gì, bèn lên tiếng:
    -Bồ nghĩ về Hải Quân hả?
    -Ừ.
    Vinh bàn chuyện một cách nghiêm trọng:
    -Bồ phải nghĩ lại cho thật chín chắn đó Tuấn. Tớ cũng thích vào Không Quân nhưng chưa chắc lắm. Đức tiếp luôn:
    -Tớ tưởng bồ chỉ đùa thôi chứ không ngờ bồ có vẻ thích thật. Quyết định này sẽ ảnh hưởng đến cả đời Tuấn ạ!
    Tuấn tư lự, mắt vẫn dán lên trần nhà:
    -Tớ không bốc đồng đâu. Tớ sẽ cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định.

    Tiếng nói chuyện bên ngoài hành lang chợt vang lên văng vẳng giữa đêm khuya thanh vắng làm cả bọn im lặng để lắng nghe. Tiếng người con gái nài nỉ:
    -Anh Hai à! Anh cho em thêm một trăm, em ở lại với anh đêm nay, được hông?
    Không nghe tiếng trả lời, rồi giọng đơn đớt của cô gái kỳ kèo thêm:
    -Chỉ trăm bạc nữa thôi mà, anh Hai?
    Sau tràng ho lụ khụ trong cổ, giọng đàn ông khàn đục:
    -Hai trăm là quá rồi.
    -Ông chủ hãng mà kẹo quá dzậy? Em hổng chịu đâu.
    Tiếng lôi kéo và rồi cánh cửa đóng sầm lại, giọng cười lẳng lơ rúc rích nhỏ dần. Bọn Tuấn nhìn nhau.

    Tuấn thấy lòng hơi ngán ngẩm. Gần hai mươi tuổi đầu, chàng chưa làm được điều gì cả. Chàng vẫn phụ thuộc mọi thứ vào gia đình, chưa kiếm được một xu nào. Tuấn cảm thấy mình vô dụng quá: sự nghiệp chưa có, tiền bạc thì không, công ăn việc làm cũng chưa. Tuấn thích cuộc sống tự lập. Chàng thích được nhìn thấy những văn minh của nước ngoài. Ước mơ xuất ngoại ám ảnh chàng từ bé, nhưng với khả năng của gia đình chàng thì du học là một điều không tưởng. Có lẽ nhập ngũ khóa OCS là dịp may giúp chàng đạt được mơ ước đó. Nhưng một khi đã bước chân vào đời lính, chàng sẽ bị trói buộc với nghiệp lính không biết cho tới lúc nào. Tuấn cảm thấy hơi khó xử. Chàng muốn có một lối thoát nếu sau đó chàng không thích đời lính nữa. Hay mình cố gắng học xong Cử Nhân đã? Nhưng dù có học xong đại học thì chàng vẫn phải đi Thủ Đức. Cũng vậy thôi, chỉ trước hay sau và chàng sẽ mất một dịp hiếm hoi được xuất ngoại. Tuấn đã có ý niệm rõ rệt về những gì chàng phải làm nên lòng chàng bỗng bình thản hơn. Tuấn nhắm mắt, tuy vẫn lắng nghe những tiếng động từ phòng bên cạnh, đánh thức óc tò mò và trí tưởng tượng của chàng.
    Vinh quay qua nói:
    -Nóng khó ngủ gớm!
    Đức vừa nằm xuống một lát đã cựa quậy, gãi lưng sồn sột:
    -Giường có rệp sao mà ngứa quá?
    Tuấn nghe nói cũng phát ngứa cả người, lồm cồm bò dậy:
    -Nhìn kỹ xem! Con rệp như thế nào hả Đức?
    -Như con ve chó vậy. Lúc đói nó dẹp như tờ giấy, nhưng khi hút máu xong, mình nó tròn như hột đậu đen ấy.
    Vinh chặc lưỡi:
    -Nghe phát gớm!
    Tuấn nhìn khắp mặt giường trải drap trắng, giọng lạc quan hơn:
    -Khách sạn này cũng khá, làm gì đến nỗi có rệp trên giường.
    -Ai mà biết được.

    Đức lại ngồi lên, với tay lấy bao thuốc lá Capstan trên bàn ngủ, rút một điếu gắn lên môi rồi bật que diêm châm thuốc hút. Ánh lửa vàng xòe lên soi rõ khuôn mặt đăm chiêu của nó. Mùi diêm sinh nồng nồng lan khắp căn phòng. Đức yên lặng, chậm rãi nhả từng cụm khói lên không, mắt lơ đãng nhìn chú thạch sùng nằm trong góc trần nhà. Đức lại nhìn quanh quất. Tuấn biết Đức đang suy nghĩ nhiều. Nó là vậy! Những khi có chuyện lo nghĩ, nó thẳng thắn đề cập đến vấn đề, nêu ý kiến của nó, nhưng tôn trọng ý kiến của bạn bè. Khi chưa tìm ra giải pháp thích đáng cho vấn đề, nó tuy không nói ra, nhưng bứt rứt, muốn làm cái gì đó để giảm bớt sự căng thẳng trong tinh thần. Quen nhau từ năm đệ lục ở trung học đến nay, Tuấn hiểu tính Đức lắm. Đức là mẫu người năng động, tích cực, nhiều thiện chí và quan tâm tới tha nhân. Đức là một huynh trưởng trong Phong Trào Thanh Sinh Công và cũng là một trưởng Hướng Đạo nữa. Tài tháo vát, tính sắp sẵn, óc tổ chức và đa năng của nó rất hợp với Tuấn. Một điểm khác biệt chính giữa Tuấn và Đức là nó biết sống với đời hơn. Có lẽ phát sinh từ sự sớm lăn lộn trong trường đời sau khi bố nó mất sớm và ông anh cả hoang đàng phá tan sự nghiệp một đời gây dựng của bố. Đức thường bảo: "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, chứ hiền quá nhiều người bắt nạt." Tuấn không nghĩ vậy, chẳng để ai bắt nạt mình vì biết mình biết người và chọn bạn kỹ. Những người chàng cảm thấy không thể là bạn tốt được thì chàng chỉ xã giao hoặc lánh xa. Những gì không hợp với nhân-sinh-quan của mình, chàng tìm cách dung hợp tới một độ nào đó có thể chấp nhận được chứ không nhắm mắt hùa theo. Vinh thì xuề xòa, bản tính thiện, an phận và dễ bỏ qua. Về tầm vóc, ba đứa cũng khác nhau. Đức nhỏ con, có nụ cười tươi, mắt sáng vẻ tinh anh và đặc biệt có lọn tóc quăn tự nhiên trước trán. Tuấn dong dỏng thư sinh. Đức bảo: "Ngoại diện và nội tâm bồ trái ngược nhau, trông bồ hiền lành quá, chả ai nghĩ rằng bồ có nội tâm như thép nguội được." Nhiều khi chẳng cần nói ra, Tuấn và Đức vẫn cảm nhận được tư tưởng của nhau, biết nhau đang nghĩ gì, muốn gì. Nghĩ vẩn vơ mãi mà Tuấn thấy bạn chàng vẫn chưa ngủ, bèn hỏi:
    -Khuya rồi, sao không ngủ đi?
    Vinh đáp:
    -Chắc lạ giường, hay vì chuyện mấy con rệp.
    Nhìn Vinh mặc xà-lỏn, phô thân hình cao nhòng, ốm đói của nó, Đức bật cười:
    -Như cây sậy thế này mà đòi lái phản lực F4.
    Vinh khoe bắp thịt cánh tay, cười hì hì chưa kịp nói, thì Tuấn cũng buồn cười, chêm vào:
    -Gió thổi bồ bay ra khỏi cockpit mất thôi, Vinh à!
    Đức trêu thêm:
    -Tớ đề nghị, khi lên máy bay, bồ đeo thêm cục đá mười ký nữa.
    Tuấn bồi theo:
    -Nặng quá phản lực bay sao nổi?
    Cả bọn cười ngặt nghẽo. Vinh hơi quê:
    -Sức mấy! Bọn mi đợi coi tau có lái phản lực không. Tau tập tạ vài tháng là thành con kiến càng ngay.
    Tiếng nói hơi to, vang trong phòng, khiến Tuấn suỵt suỵt:
    -Gần hai giờ sáng rồi.
    Tuấn nằm xuống giường, xoay mình ra ngoài dục:
    -Ngủ thôi chứ. Mai đi Hòn Chồng nữa!

    Sau khi trở lại Đà Lạt, Tuấn bàn bạc về quyết định gia nhập Hải Quân với mẹ chàng. Tuấn nại lý do là trước hay sau, thanh niên nào cũng phải đi lính và nếu tình nguyện vào khóa Sĩ Quan Hải Quân OCS này, tính mạng an toàn hơn và chàng lại có dịp xuất ngoại. Mẹ Tuấn ban đầu không đồng ý và hết sức ngăn cản, nhưng cuối cùng Tuấn đã thuyết phục được mẫu thân chàng.

    Tuấn thu xếp mọi việc riêng tư, tìm thời giờ dành cho gia đình, bạn bè, xong trở lại Nha Trang trình diện Phòng Tuyển Mộ Sĩ Quan Hải Quân vài tháng sau đó. Bộ quân phục trắng như tuyết, cơ hội xuất ngoại và mộng kiếm cung đã cuốn hút Tuấn vào vùng bão loạn. Từ đó, chàng đã thật sự rời ghế đại học, tình nguyện vào Hải Quân với mộng hải hồ trong tâm tư và nỗi chán chường về những ngày tháng bất ổn của thời thế những năm 1968-1970.

    CHƯƠNG 3

    Thao Trường Đổ Mồ Hôi



    Khóa sinh viên sĩ quan hải quân của Tuấn được đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung học căn bản quân sự ba tháng.

    Những buổi thao diễn và học căn bản tác chiến dưới ánh nắng đổ lửa, dưới cơn mưa lũ chợt về, với gió Tây mang bụi chiến trường đến đã làm làn da thư sinh bạch diện của Tuấn trở nên sạm nắng, trông rắn rỏi và khỏe mạnh thêm. Áp dụng triệt để câu thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, bọn chàng đã được chăm sóc tận tình. Bọn Tuấn bị sĩ quan hay hạ-sĩ-quan huấn-luyện-viên phạt hàng trăm hít đất, chạy vài chục vòng quanh sân trường với ba-lô, nón sắt, súng đạn trên tay là thường. Sau vài tháng luyện tâm, luyện thân thể, luyện chí, thao trường đã lột lốt một công tử bột thành một chiến binh cường tráng, nhiều tinh thần trách nhiệm, tự kỷ, tự thắng, tự giác, nhất là tự mưu sinh thoát hiểm. Cơm nhà bàn với cá mối chiên, rau muống xào, cơm thuốc bổ đã đào luyện cơ thể bọn chàng sức chịu đựng bền bỉ để mò mẫm ra bãi tập, xạ trường lúc trời chưa sáng hay mắt nhắm mắt mở chà láng như gương giao thông hào sau những giãy doanh trại bằng đít gà-mên. Đang tuổi ăn tuổi ngủ lại phải thao luyện cực khổ, thời gian đầu, bọn Tuấn buồn ngủ kinh khủng. Khó tưởng tượng được là nhiều thằng bạn đồng khóa với Tuấn hình như mắc chứng mộng du: vừa đi vừa ngủ, đứng cũng ngủ được, đâu cũng ngủ được, ngủ say đến nỗi chuột gặm chân cũng không biết, nằm trên mồ mả hay đất đá cũng ngủ ngon như nằm trên giường nệm vậy. Đôi lúc Tuấn nghĩ, Việt Cộng chỉ đợi tới giờ ngủ, bò vào khiêng khóa sinh vô mật khu chắc nhiều đứa cũng chẳng thèm thức dậy.

    Tuy nhiên, ba tháng quân trường không phải là không căng thẳng tinh thần đâu. Khóa Tuấn có một sinh viên không chịu đựng nổi sự huấn luyện kham khổ đã dùng súng Carbin tự tử. Hắn bắn một phát từ dưới cằm xuyên lên mắt trái. Thế là hết căng thẳng ngay! Đến cuối tuần mà vẫn không giảm thì Vườn Tao Ngộ là nơi nhiều thằng bạn Tuấn giải tỏa được nỗi niềm tâm sự khi gặp lại những cô bồ xinh như mộng đến thăm viếng.

    Trong thời gian học căn bản quân sự ở Quang Trung, một sinh viên lần đầu tiên rời xa gia đình, lần đầu tiên sống tự lập, chẳng người thân thuộc hoặc có bồ như Tuấn thật cô đơn. Mỗi khi thấy những thằng bạn được bồ đến thăm, được gia đình tiếp tế thức ăn hàng tuần, Tuấn hơi tủi thân vì mình côi cút quá. Ăn cơm nhà bàn với thói quen nhỏ nhẻ, chậm rãi, chàng nhiều khi đói, phải lên Câu Lạc Bộ ăn vặt thêm vào buổi tối trong giờ tự do nghỉ ngơi. Nhiều khi, Tuấn muốn làm quen với bất kỳ ai đó như cô bán quán hay một nữ sinh xa lạ để có bạn nói chuyện, tâm sự cùng chia sẻ buồn vui, nhưng chàng chỉ dám nghĩ thầm đến thôi.

    Một ngày Chủ Nhật, Tuấn buồn tình theo mấy thằng bạn cũng côi cút như chàng ra Vườn Tao Ngộ. Ngắm những bóng hồng tươi cười bên những chàng lính tóc húi cua, quân phục hồ cứng thẳng nếp và giầy bốt-đờ-sô bóng như gương, Tuấn cảm thấy nỗi cô đơn gặm nhấm lòng mình. Nhìn những chàng lính khác vui đùa, ăn uống với thân nhân, cha mẹ, anh em dưới bóng cây bã đậu râm mát, Tuấn thêm tủi, ước gì chàng cũng có nguồn an ủi, khích lệ như những người bạn đồng khóa đó. Luẩn quẩn một lát, quan sát sinh hoạt chung quanh, tai văng vẳng nhạc tình cảm về đời lính, hoặc nghe loa phóng thanh trên đài cao gọi tên bạn bè có thân nhân tìm, Tuấn thấm thía nỗi cô đơn hơn. Đôi lúc, chàng hoài nghi về quyết định nhập ngũ khi tự hỏi tại sao mình phải chịu mồ côi bồ, mồ côi bạn, một mình thui thủi nơi đây? Giờ này, nếu chàng ở Đà Lạt vui với gia đình, đi chơi với Đức và Vinh chắc chắn thú hơn nhiều. Tuấn cuốc bộ trở về trại nghỉ ngơi, lấy sách ra đọc và vặn cassette nghe nhạc. Giọng hát Thái Thanh vút cao trong nhạc phẩm Em Ra Đi Mùa Thu, tâm sự xa xứ của Phạm Trọng do Nhạc Sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Tiếng hát vượt thời gian của người nữ danh ca như một làn sóng tràn vào tâm hồn Tuấn nỗi nhớ nhà. Nhớ đến mẹ chàng, Tuấn tự an ủi: "Thời gian sẽ qua nhanh lắm, mình phải phấn đấu đạt cho được cứu cánh đời mình để xứng đáng với lòng kỳ vọng của người mẹ hiền, một đời tần tảo nuôi con với mơ ước con mình sẽ nên người."

    Sau ba tháng học căn bản quân sự ở Quang Trung, sinh viên hải quân được đưa về tạm trú trên hai Tạm-Trú-Hạm APL cập tại Cầu C, cạnh Câu-Lạc-Bộ Hải Quân bên hông Hải Quân Công Xưởng. Tại đây, nhóm sinh viên sĩ quan OCS được trau dồi thêm vốn Anh Ngữ qua thời gian ngắn hay dài tùy theo khả năng mỗi người, trước khi được tuyển chọn đi Mỹ dự những khóa Hải Quân OCS tại The United States Naval Officer Candidate School thuộc Thành Phố Newport, Tiểu Bang Rhode Island.

    Trong thời gian đầu tạm trú tại APL, ban ngày các sinh viên khóa Tuấn được đàn anh huấn nhục trên bờ sông, trong khuôn viên rào kín bằng lưới mắt cáo, thao dượt diễn hành, v.v. Ban đêm, bọn Tuấn học tiếng Anh trong phòng ăn, tập nghe, nói và luyện giọng, hoặc được xe GMC chở tới học tại Trung Tâm Sinh Ngữ Thính Thị thiết lập trong một cao ốc nằm trên Đường Hai Bà Trưng, đối diện với Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi. Tại Trung Tâm Sinh Ngữ, bọn Tuấn được các giảng viên người Mỹ dạy tiếng Anh qua máy thính thị và thực tập đàm thoại.

    Tuấn nhớ một chuyện buồn cười khó quên xảy ra trong thời kỳ huấn nhục tại APL. Lâm, một sinh viên sĩ quan hiền lành, chỉ có tội rậm râu mà phải chịu nhiều điều cười ra nước mắt. Số là, vừa tới APL, một nhóm đàn anh cấp trưởng đã lôi tất cả sinh viên khóa Tuấn ra bờ sông, bắt xếp thành mấy hàng dài. Sau một hồi tràng giang đại hải moral bọn khóa sinh đàn em, đàn anh cấp trưởng đến trước mặt từng đứa một, vặn hỏi đủ điều, nhiều điều Tuấn nghe nghịch lý không chịu được.
    Một anh cấp trưởng nhìn hàm râu quai nón xanh rì của Lâm, hỏi:
    -Anh này, tên anh là gì?
    -Dạ Lâm, cấp trưởng.
    Anh cấp trưởng giả bộ nghe không rõ, hỏi lại, cố tình sửa chữ:
    -Già Lâm?
    -Không phải cấp trưởng. Tôi tên Lâm.
    -Trình diện cấp trưởng đàng hoàng.
    -Sinh viên sĩ quan Nguyễn Văn Lâm, số quân 72A123456 trình diện cấp trưởng.
    -Nhỏ quá, không nghe gì cả. Trình diện lại.
    Lâm lấy gân cổ trả lời:
    -Sinh viên sĩ quan Nguyễn Văn Lâm, số quân 72A123456 trình diện cấp trưởng.
    -Sao anh có nhiều râu thế?
    -Tui hổng biết.
    -Tại sao râu anh rậm mà anh không biết? Hai mươi hít đất!
    Tuấn cố bấm bụng nín cười, nhưng mấy đứa nhịn không nổi, phì cười. Vài anh cấp trưởng khác đứng bên ngoài hét lên:
    -Anh nào vừa cười đó, hai mươi hít đất!
    Vài đứa rời hàng ra nằm hít đất. Một số sinh viên khác bị các đàn anh cấp trưởng đứng ngoài lôi ra phạt riêng, trong đó có cả Tuấn. Anh cấp trưởng quen mặt đã dẫn Tuấn ra xa phạt cách riêng. Anh cấp trưởng này phạt tượng trưng Tuấn hít đất, thăng thiên độn thổ và vài hình phạt tiêu biểu khác tốt cho việc luyện thân thể thêm tráng kiện. Tuấn hiểu được dụng ý đỡ đòn cho mình nên thầm cảm ơn anh. Anh cấp trưởng đó là một cựu học sinh Trần Hưng Đạo Đà Lạt, học trên Tuấn mấy lớp. Hình như anh tên Hiển, bạn cùng lớp với nhân vật chính yêu cô giáo trong truyện Vòng Tay Học Trò của nhà văn nữ Nguyễn Thị Hoàng. Cô Hoàng là giáo sư hướng dẫn năm Tuấn học đệ lục trong thời gian dạy học ở Đà Lạt.

    Tuấn bị Hiển, anh cấp trưởng quen quay đại khái nên chàng vẫn có thể tiếp tục theo dõi chuyện huấn nhục Lâm một cách dễ dàng. Lâm bước ra khỏi hàng, nằm xuống hít đất.
    -Đếm to lên cho tôi nghe.
    -Một, hai, ba...
    Giọng anh cấp trưởng cao hơn:
    -Nhỏ quá, đếm lại!
    Lâm lại vừa hít đất vừa đếm oang oang:
    -Một, hai, ba, bốn...
    Sau khi hít đất xong hai mươi cái, Lâm đứng lên trình diện. Anh cấp trưởng lên lớp Triết Luận Lý, nói tiếp:
    -Anh phải biết rõ lý do mọi việc vì có hiểu nguyên do mới biết hậu quả được, rõ chưa?
    -Dạ, cấp trưởng.
    -Anh không dùng chữ "dạ" nữa, nghe quan liêu lắm. Phải nói là Aye, aye, sir! hoặc Yes, sir! No, sir! nghe chưa?
    -Dạ nghe.
    Anh cấp trưởng quát lên:
    -Trả lời là Yes, sir! Hai mươi hít đất!
    Lâm quính quáng:
    -Dạ cấp trưởng. Aye, aye, sir.
    Rồi tiu nghỉu nằm xuống vừa hít đất vừa đếm. Thi hành lệnh phạt xong, Lâm trình diện. Anh cấp trưởng hỏi lại:
    -Anh biết lý do tại sao anh rậm râu chưa?
    -Cha mẹ sinh ra như vậy.
    -Tại sao anh không nói cha mẹ anh sinh anh ra ít râu hơn?
    -Làm sao tui nói được.
    -Anh bao nhiêu tuổi?
    -Dạ 18 tuổi.
    -Mười tám tuổi sao già quá vậy? Anh áp-phe, chạy chọt vào Hải Quân phải không?
    Giọng Lâm bỗng trở nên hơi bướng:
    -Tui nhìn như vậy nhưng tuổi chỉ mới 18 cấp trưởng. Tui tình nguyện chứ hổng chạy chọt gì hết cấp trưởng.
    Anh cấp trưởng gằn giọng:
    -Tại sao anh ngu vậy! Không ở ngoài dẫn đào đi chơi mà vào Hải Quân? Anh chán đời rồi hay sao? Anh có biết Hải Quân đi biển mút mùa và nhiều đơn vị cũng đánh nhau ngày đêm không?
    -Dạ tui biết.
    -Thế sao anh vẫn tình nguyện? Hay anh bị đào đá? Chán đời mới đi lính?
    -Không cấp trưởng. Tui chưa có đào.
    Giọng anh cấp trưởng cay độc hơn:
    -Tại sao vậy? Hải Quân hào hoa mà không có đào sao? Chắc anh rậm râu quá, trông già khằn nên các em chê, phải không?
    -Không cấp trưởng. Tại tui nghèo nên chưa nghĩ tới.
    -Tại sao anh nghèo?
    -Tui hổng biết.
    Anh cấp trưởng cao giọng:
    -Nghèo cũng không biết. Hải Quân là phải biết mọi thứ. Cái gì hỏi cũng không biết, làm sao anh lãnh trách nhiệm của một Hải Quân Chuẩn Úy được? Ba mươi thăng thiên độn thổ cho tôi.
    Lâm có vẻ bất mãn, nhưng lại rời hàng, đặt hai tay lên đỉnh đầu nhảy ình ịch:
    -Một, hai, ba...
    Nhảy xong, Lâm mồ hôi vã ra như tắm, chàng hổn hển trình diện:
    -Sinh viên sĩ quan Nguyễn Văn Lâm, số quân 72A123456 trình diện cấp trưởng.
    -Bây giờ tôi đặt tên cho anh là Già Lâm, anh chịu không?
    Ngần ngừ vài giây, Lâm trả lời một cách khổ sở:
    -Dạ chịu.
    Anh cấp trưởng lại hét:
    -Yes, sir! chứ không vâng dạ gì cả.
    -Yes, sir!
    -Từ nay trở đi, mặt anh phải luôn luôn láng o, không một cọng râu nào nữa, nghe rõ chưa?
    Tiếng trả lời của Lâm to hơn:
    -Yes, sir! Aye, aye, sir!
    Anh cấp trưởng móc trong túi hai đồng 50 xu, đưa cho Lâm bảo:
    -Anh dùng hai đồng xu này nhổ râu sạch sẽ cho tôi. Lần đầu, tôi cho anh cạo râu. Anh không có lần thứ hai đâu.
    Tuấn hơi bất mãn, Lâm ngần ngại chưa biết tính sao, anh cấp trưởng quát vang:
    -Anh chống đối hả?
    -Không cấp trưởng.
    -Vậy thì nhổ lẹ lên.
    -Aye, aye, sir!
    Thế là Lâm có cái tên để đời Già Lâm. Từ đó trở đi, Lâm đã phải luôn luôn mang theo cái máy cạo râu chạy pin nhỏ trong người.

    Cuộc sống tại Tạm Trú Hạm tương đối sung sướng cho một sinh viên sĩ quan. Mặc dầu hàng ngày bọn Tuấn phải vừa làm việc, thao diễn, canh gác vừa học hành từ tờ mờ sáng cho đến gần nửa đêm, nhưng bọn chàng chẳng phải lo về vấn đề gì khác. Ăn ở miễn phí trên Tạm Trú Hạm, cập tại một vị trí an ninh và thơ mộng nhất Sài Gòn. Cuối tuần, sau khi thanh tra quân phục xong là sinh viên được đi bờ. Nhiều chàng được bồ đến đón tận cổng vào Tạm Trú Hạm. Chỉ những người chưa có bồ và gia đình ở xa như Tuấn, ngày nghỉ mới thấy cô độc. Nhiều lần đi bờ, Tuấn lang thang ngoài phố vài tiếng đồng hồ rồi lại trở về Tạm Trú Hạm. Thỉnh thoảng, chàng tình nguyện trực thay cho vài người bạn để họ về thăm gia đình. Những hôm đó, Tạm Trú Hạm thật yên tĩnh, chỉ còn vài sinh viên ở lại trong phòng ngủ rộng lớn, giăng mắc những hàng giường treo ba tầng. Tuấn có nhiều thì giờ làm những việc chàng thích, nhưng cũng có nhiều thì giờ để tình cảm lãng mạn lan man xâm chiếm lòng mình. Những ngày cuối tuần, bên Câu-Lạc-Bộ Nổi Hải Quân thường tổ chức tiệc khiêu vũ. Đứng trên mũi Tạm Trú Hạm, nghe tiếng trống bập bùng, điệu nhạc quay cuồng, nhìn những thân hình thon nhỏ, căng đầy nhựa sống của các nàng kiều nữ, nhún nhảy theo điệu Cha Cha nhịp nhàng, má dựa vai kề trong những bản Slow, Boston tình tứ hay Tango thanh nhã, Valse quí phái, Tuấn cảm thấy tuổi trẻ của mình nhiều đam mê, ham muốn hơn. Tối đó, Tuấn mơ thấy mình hóa thành con bướm Trang Chu bay lên đỉnh Vu Sơn, chàng đã vẽ thành những hải đồ vòng vèo trong giấc mơ yêu đương vụn vỡ.

    Tới năm 1970, theo lệnh giảm thiểu quân đội Mỹ ở Việt Nam của Tổng Thống Nixon, khoảng hơn nửa số 540 ngàn lính Mỹ, cao điểm của năm 1968 đã về nước và nhiều cao ốc cho Mỹ thuê đã bỏ trống. Cao ốc nơi Tuấn học sinh ngữ chỉ còn lại một số văn phòng của các giảng viên Mỹ, mấy phòng máy thính thị, ngoài ra hầu hết dùng làm phòng ngủ cho sinh viên sĩ quan đang theo học. Trong thời gian tạm trú tại APL, các sinh viên sĩ quan phải luân phiên canh gác cao ốc này. Bọn Tuấn được trang bị súng đạn, đứng gác trước cổng vào bên hông và chận hai đầu đường hẻm bằng rào cản kẽm gai, không cho xe cộ chạy ngang qua cao ốc, đề phòng đặc công Việt Cộng ném lựu đạn hoặc đặt chất nổ phá hoại. Ban đêm, vài cô bé đi chơi về khuya, dừng xe, chuyện vãn trong chốc lát, cũng khiến lòng những chàng lính biển cảm thấy ấm áp và bớt cô độc hơn.

    Một đêm, đang ngủ ngon, Tuấn bật dậy vì nghe tiếng la hét thất thanh vang trong đêm khuya rồi tiếng chân chạy rầm rầm trên lầu, dưới lầu. Tuấn tưởng Việt Cộng vào hoặc có biến cố gì nên chụp vội khẩu Carbin rồi chạy ra hành lang. Té ra là hai sinh viên sĩ quan ngủ trên lầu năm bị ma trêu. Một người kể rằng, đang chập chờn nửa tỉnh nửa mê, qua ánh đèn đường bên ngoài chiếu vào, hắn thấy bóng một nàng con gái tóc dài, mặt thật đẹp bước vào nhẹ nhàng đến bên cạnh. Hắn lạnh toát mồ hôi hột, tỉnh cả ngủ, biết là ma nhưng chưa kịp có phản ứng gì thì khuôn mặt kiều diễm đó đang cúi gần xuống rồi dần dần biến thành già nua xấu xí với hai hốc mắt lõm sâu và hàm răng nhe ra khủng khiếp. Thế là hắn bật dậy như chiếc lò-so chạy ra ngoài la hét om sòm không kịp mặc quần áo. Người bạn cùng phòng thần hồn nát thần tính cũng nhỏm dậy, vọt theo quên cả súng đạn. Biến cố ma trêu gây tác dụng giây chuyền, lần lượt đánh thức mọi người trong cao ốc. Tuấn nhìn ra ngoài lúc đó, thành phố trong giờ giới nghiêm, đường phố lặng lẽ không một bóng xe cộ, Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi bên kia đường vẫn lờ mờ trong đêm khuya, ẩn hiện cây lá và những bia mộ cao, thấp sau tường rào gạch.


    CHƯƠNG 4

    Qua Rồi Tuổi Học Trò



    Tuấn đang sửa soạn du học Hoa Kỳ khóa Hải Quân OCS mùa Thu năm 1970. Bây giờ là mùa Hè. Hoa phượng đang nở chói chan trên cành. Hoa phượng không nở lác đác mà hẹn nhau nở rộ một lúc trên cây. Màu phượng nhuộm đỏ cả một vùng, thắp hồng cả một đường và dệt thắm khắp khuôn viên, nhưng phải chăng, màu phượng chỉ rực rỡ hơn hoặc mênh mang buồn hơn trong sân trường vì dường như chúng có hồn và chất chứa hình ảnh cùng tâm tình của trai gái lứa tuổi học trò. Phượng về nhắc nhở mùa Hè đã đến. Buổi biệt ly chia tay giữa thầy, cô, bạn bè về nghỉ ba tháng Hè đã điểm. Ba tháng dằng dặc, đầy ắp nhớ thương, được khởi đầu bằng những cánh phượng đỏ như máu rơi tơi tả trên đường, hòa với giọng ve râm ran trên cây, đã gieo nỗi buồn man mác cho tuổi học trò nhiều mơ mộng. Đó là lúc những quyển lưu bút được chuyền tay nhau ghi lại nỗi nhớ thương cùng tâm sự của bạn bè tuổi nhỏ. Đó là lúc những cánh hoa phượng hồng được nhặt ép vào thư, vào lưu bút để sau này khi lật lại từng trang lưu bút, tuổi thơ lại hiện lên rõ ràng trong sáng như in trong lòng người.

    Tuấn cũng thấy lòng nôn nao, không những mùa Hè gợi cho chàng bao nhiêu kỷ niệm ấu thời mà ngày lên đường du học cũng gần kề. Sống ở thành phố Đà Lạt từ bé, Tuấn biết Đà Lạt không có hoa phượng. Tuy không có phượng, Đà Lạt có hoa mimosa cũng thường bắt đầu nở vào dịp Hè về. Ngày xưa, mỗi lần nhìn những chùm hoa mimosa nở rộ như kết bằng những cục bông gòn màu vàng nho nhỏ, mùi thơm thơm là Tuấn biết mùa Hè sắp đến. Mãi tới khi Tuấn có dịp về Sài Gòn nghỉ hè sau kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, chàng mới thấy cây hoa phượng tại một trường học. Nhìn cổng trường đóng im ỉm, từng giãy hành lang nằm im lìm dưới ánh nắng trưa đổ lửa, trong sân trường ngập xác phượng màu máu, Tuấn cũng buồn man mác khi nghĩ tới bạn bè đã rời trường, xa bạn, xa thầy cô về nghỉ "chín mươi ngày nhảy nhót ở đồng quê" ấy. Hoa phượng nở báo trước cuộc chia biệt suốt ba tháng Hè, bóng mát phượng lợp nhà những ngày nắng lửa cho học trò bên dưới quây quần tâm sự, và cành lá phượng là chỗ tạm dung cho những chú ve kéo về ra rả khóc than thân phận. Tuấn nghĩ khó có gì thay thế được ngôi vị Hoa Học Trò của phượng hồng trong tâm hồn ngây thơ đã in hằn bao kỷ niệm vui buồn của trai gái học trò.

    Đức không còn hứng thú theo đuổi MPC nữa nên đã dọn về Sài Gòn gần tháng nay để chuẩn bị ghi danh học Luật. Đức hiện sống tạm thời với gia đình người bà con ở gần Nhà Thờ Huyện Sĩ. Một sáng Chủ Nhật được đi bờ, Tuấn đón xe đến thăm Đức. Tuấn đứng tần ngần trước cửa nhà nhìn ba cô gái trạc tuổi nhau đang chuyện vãn dưới tàn cây trứng cá đầy những trái chín đỏ mọng. Trong nhóm, Tuấn chỉ biết Diệu Hiền, con người bà con của Đức, mà chàng đã gặp từ lần trước. Chợt nhìn thấy Tuấn, Hiền mừng rỡ reo lên:
    -Anh Tuấn! Mời anh vào chơi.
    Tuấn bước đến chỗ ba cô gái. Hai cô bạn của Hiền gật đầu chào chàng. Tuấn mỉm cười, gật nhẹ rồi hỏi Hiền:
    -Có Đức ở nhà không Hiền?
    -Có, anh đợi em gọi anh Đức.
    Nói xong, Hiền chạy vào trong nhà. Lát sau, Hiền trở ra mời Tuấn vào. Tuấn bước theo Hiền qua khoảng sân trước, vừa đi Hiền vừa nói:
    -Anh Đức đang tắm. Anh Đức bảo anh ngồi chơi đợi anh ấy vài phút.
    Tuấn đáp:
    -Không sao. Bố mẹ Hiền có ở nhà không?
    -Không anh. Bố chở mẹ em đi lễ rồi.
    -Hiền không đi với bố mẹ sao?
    -Có bạn em đến chơi nên em sẽ đi lễ chiều. À! Em quên chưa giới thiệu hai đứa bạn em với anh. Hiền quay ra ngoài sân gọi:
    -Ê! Tụi mi vào đây ra mắt anh Tuấn.
    Hai cô bạn của Hiền cùng bước vào nhà, dáng điệu e thẹn ngượng ngùng. Hiền chỉ cô gái mặc quần tây xanh đậm, áo thun trắng, tóc uốn cong ngang vai có khuôn mặt trắng hồng khả ái với đôi mắt bồ câu to đen láy:
    -Đây là Bích Vân, học đệ tứ Gia Long.
    Tiếng con bạn kia trêu nho nhỏ:
    -Trường Gia Lợn.
    Bích Vân nguýt nó rồi nhìn Tuấn gật đầu:
    -Chào anh Tuấn.
    Tuấn cười:
    -Bích Vân mạnh giỏi?
    Bích Vân cười nhẹ, cúi đầu lí nhí:
    -Mạnh chứ không giỏi anh à.
    Hiền quay qua cô gái cắt tóc tém, áo dài trắng, mặt trái soan, người hơi thấp hơn:
    -Còn nó là Tường Vi, bạn chung lớp với em ở Trưng Vương.
    Tường Vi cũng gật đầu chào. Bích Vân trả đũa:
    -Trường Trứng Vịt.
    Tuấn thân thiện, đùa xã giao:
    -Hai cô bạn của em trông quen quá, Hiền ạ! Hình như anh đã gặp trước ở đâu rồi thì phải.
    Bích Vân và Tường Vi nhìn nhau. Hiền ngây người hỏi:
    -Hồi nào anh Tuấn?
    Bích Vân nhìn Hiền cười, nói nhỏ với bạn:
    -Năm phút trước đây, ngoài sân, mi ngố quá!
    Tuấn cười theo:
    -Nữ sinh Trưng Vương và Gia Long thật thông minh và có nhiều tên thật đẹp.
    Diệu Hiền chen vào, giọng kiêu hãnh:
    -Đẹp như người vậy, hả anh Tuấn?
    Tuấn tán dương:
    -Người còn đẹp hơn chứ.
    Ba cô nữ sinh nghịch ngợm thích thú nhìn nhau khúc khích. Tường Vi bắt đầu dạn dĩ, giọng nhún nhường hơn:
    -Anh quá khen, chứ bọn em xấu như ma lem.
    Bích Vân huých bạn:
    -Mi nói giỡn? Mi xấu chứ nữ sinh Gia Long ai cũng đẹp, chả thế mà nhiều anh Vô Trật Tự (Võ Trường Toản) bên cạnh trường mi phải tới trồng cây si trước cổng trường tao đến mọc cả rễ chính rễ phụ.
    Hiền vênh mặt, không chịu kém:
    -Bao nhiêu anh Chết Vì Ăn (Chu Văn An) có thích Gia Lợn đâu? Mà chỉ thích Chết Vì Ăn Trứng Vịt thôi.
    Tường Vi hùa với bạn:
    -Con cháu Trưng Nữ Vương là nhất.
    Bích Vân nhanh nhẩu đáp lời:
    -Công chúa con Vua Gia Long thượng hạng.
    Ba cô gái chia thành hai phe, không ai chịu ai, tranh hơn mấy câu qua lại, rồi cuối cùng xúm quanh cái bàn ăn đặt sau tấm bình phong. Ngưng một lát, Bích Vân nheo mắt nhìn Hiền thấp giọng hỏi:
    -Có anh Vô Trật Tự nào thích Trứng Vịt Hiền chưa?
    Hiền lườm bạn, ngỏn ngoẻn, chưa kịp trả lời, Tường Vi quay sang Bích Vân, lau chau:
    -Nó có kép Chết Vì Ăn rồi. Anh chàng trông trí thức lắm, đeo cặp kính cận dầy tộp, hai mắt nhỏ lại như hai hòn bi ấy.
    Hiền hơi mắc cở, liếc nhanh Tuấn rồi phân bua:
    -Mi chỉ nói bừa. Hắn là anh của con bạn tao mà. Hắn chỉ Toán cho bọn tao, chứ tao với hắn đâu phải bồ bịch chi.
    Bích Vân lém lỉnh, tỉnh bơ nhìn Hiền đọc nho nhỏ:

    Tay cầm cuốn sách toán bìa vàng
    Sách bao nhiêu chữ, dạ anh thương nàng bấy nhiêu.

    Tường Vi ham vui, quên cả phe mình, được thể tiếp theo:

    Anh còn son, em cũng còn son
    Ước gì ta được làm con một nhà.

    Diệu Hiền hơi đỏ mặt:
    -Tao còn ngây thơ, chứ đâu như bọn mi, kép xếp hàng có đuôi như đi xem hội ấy.
    Bích Vân chế giễu:
    -Nàng còn bé tí, còn thiên thần dữ há!
    Hiền cười gượng:
    -Mi hỏi anh Tuấn thử coi?
    Tuấn vui vẻ giàn hòa:
    -Bọn em trạc tuổi nhau, phải không? Bé hột tiêu như thế thì ngây thơ là đúng quá rồi!
    Bích Vân quay sang Tuấn:
    -Mỗi người mỗi khác chứ anh Tuấn? Tụi em mười ba, mười bốn tuổi, đâu còn bé nữa, phải không anh?

    Từ lúc nghe Bích Vân và Tường Vi đọc những câu ca dao thật dí dỏm trêu Diệu Hiền, Tuấn đã nghĩ thầm: "Mấy cô này có vẻ lãng mạn dữ! 'Xuất khẩu thành chương' như thế cũng chẳng vừa gì." Chàng vui lây với niềm vui của ba cô gái lém lỉnh, nên muốn luận thơ một hồi cho vui. Tuấn làm bộ đạo mạo, lên giọng đàn anh trêu cả bọn:
    -Các em đang tuổi dậy thì, tâm hồn rất phức tạp, được hướng dẫn đúng đắn thì trở thành thiên thần dễ dàng. Còn không, thiên thần cũng dễ gãy cánh lắm vì cả tâm hồn và thể chất đang độ thay đổi nhanh nhất để chuyển tiếp từ trẻ con lên người lớn, đặc biệt về phần tình cảm. Ca dao Việt Nam có câu này vui lắm:

    Con gái mười bảy mười ba
    Đêm nằm với mẹ khóc la đòi chồng.

    Bích Vân và Tường Vi chúm chím cười. Diệu Hiền thẹn chín người, mặt đỏ bừng, đập khẽ bạn:
    -Mi kỳ quá!
    Tuấn vừa thương hại vừa buồn cười:
    -Ở lứa tuổi các em, con gái thường khôn hơn con trai khoảng hai tuổi về mặt tình cảm. Trưởng thành sớm hay muộn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chẳng hạn như môi trường sống, dịp gặp gỡ người khác phái, cơ thể phát triển nhanh hay chậm và kiến thức về sự luyến ái gái trai. Thời xưa, đôi khi con gái mười ba đã lấy chồng. Mười bốn là có thể có con đầu lòng rồi. Các em nhớ câu ca dao này nữa không?
    Bích Vân hỏi:
    -Gì anh?
    Tuấn chậm rãi đọc:

    Lấy nhau từ thuở mười ba
    Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
    Ra đường thiếp hãy còn son
    Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

    Hoặc như trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp:

    Em tuy mới mười lăm
    Mà đã lắm người thăm
    Nhờ mối mai đưa tiếng
    Khen tươi như trăng rằm.

    Bọn con gái cười rộn rã. Bích Vân lại được dịp trêu Hiền tiếp:
    -Khiếp! Sao mà sòn sòn thế mi? Đẻ không kịp thở nữa. Còn thì giờ đâu lang thang trên đường có lá me bay, có hoa phượng reo rắc, để các anh Vô Trật Tự nhìn theo ngẩn ngơ nữa hả mi?
    Tường Vi hùa thêm:
    -Rồi bò bía, xoài dằm, chè đậu đỏ, sinh tố mãng cầu ai ăn ai uống nữa? Mi nỡ để cho những món ngon vật lạ như vậy mai một uổng phí và bà Tầu xe bò bía, bà Tư bán chè buồn lòng sao?

    Tuấn lắc đầu nhè nhẹ mỉm cười. Chàng nghĩ đến anh chàng học sinh Chu Văn An nào đó mà gặp mấy cô gái lém lỉnh này chắc chỉ ngồi khóc hận. Hiền bị trêu quá chẳng biết nói sao nữa đành nhéo, đấm bạn thùm thụp cười trừ. Ba cô gái lại vui vẻ, tự nhiên đùa với nhau chứ không giữ gìn ý tứ như lúc mới gặp Tuấn nữa. Hiền chợt nhớ ra điều gì, chạy vào nhà trong đem ra mấy nhánh hoa phượng đưa cho Bích Vân và Tường Vi, rồi nhìn Tuấn hỏi:
    -Anh Tuấn biết hoa này không?
    Tuấn gật đầu:
    -Hoa phượng ở đâu nhiều thế Hiền?
    -Em nhặt ở trường.
    Tuấn thắc mắc:
    -Hoa này là hoa phượng hay hoa điệp?
    -Em không rõ.
    Bích Vân nhìn Tuấn hỏi lại:
    -Hoa phượng và hoa điệp khác nhau như thế nào, anh Tuấn?
    Tuấn cười gượng gạo:
    -Anh cũng không rành lắm. Hình như người miền Bắc gọi cây soan tây là cây điệp. Phượng cũng là tông chi gì đó với điệp nên trông y như nhau. Có thể hoa phượng chỉ toàn một màu đỏ và nhụy hoa ngắn hơn, còn hoa điệp có đài hoa ngả màu vàng và nhụy dài hơn hay sao ấy. Tuấn vừa nói vừa cầm cánh hoa phượng Hiền mới đưa, ngắm nghía. Hoa phượng chẳng có mùi thơm, năm cánh hoa màu đỏ, đài hoa nhỏ hơn nằm dưới cũng màu đỏ, giữa là nhụy hoa cong dài như những sợi râu. Tuấn ngắt thử một đài hoa. Chàng thấy đài hoa được cấu tạo như một cái túi nhỏ có hai lớp vỏ.
    Tường Vi lên tiếng:
    -Em nghĩ có lẽ còn nhiều hoa khác cùng họ với hoa phượng, phải không anh Tuấn?
    Tuấn nhìn Tường Vi ngẫm nghĩ vài giây rồi nói:
    -Ở đảo Barbados, Trung Mỹ có một loài hoa chắc cùng họ với phượng mà dân bản xứ gọi là Barbados Pride. Cây lá cũng giống phượng vĩ nhưng cành có gai nhọn. Hoa có thể còn đẹp hơn hoa phượng vì nó giống phượng mà có hai màu.
    Tường Vi chặc lưỡi:
    -Lạ quá nhỉ! Anh thấy hoa Barbados Pride thật chưa, anh Tuấn?
    -Anh chưa từng tới Barbados, mà chỉ thấy hình loài hoa đó trên card postal thôi. Nó có năm cánh hoa, bẹ hoa nhỏ màu đỏ dính với đài hoa toàn màu đỏ, cánh hoa xòe ra riềm loăn xoăn, trên cánh hoa màu vàng tươi nổi những gân đỏ tía. Nhụy hoa cũng như nhụy hoa phượng nhưng tận cùng là cục nhụy vàng hoặc đỏ khi còn non.
    Bích Vân nhíu mày nhìn hai bạn.
    -Đẹp tuyệt hả mi! Tiếc là ở xứ mình không có hoa phượng Barbados.

    Bọn con gái không hỏi nữa, kéo nhau ra sân trước tụm lại dưới gốc cây trứng cá to nhỏ với nhau, thỉnh thoảng vẫn liếc nhìn Tuấn với ánh mắt ranh mãnh. Diệu Hiền và Bích Vân bẻ đài hoa phượng, chu miệng thổi phồng lên như cái bong bóng nhỏ xíu, xong để trên lòng bàn tay, đập tay kia xuống kêu cái bép nho nhỏ. Cả bọn cùng cười vui rộn rã. Nhìn cánh phượng tan tác đỏ thắm trong lòng bàn tay của hai cô gái, Tuấn thấy chúng còn hồn nhiên với trò chơi ngộ nghĩnh này. Chàng thoáng bâng khuâng vì chỉ vài năm nữa thôi, bọn chúng sẽ "có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi" rời xa chuỗi ngày hoa mộng hiện hữu. Tuấn bỗng dưng cảm thấy tiếc nuối cho tuổi ấu thơ của mình vừa qua mau. Tuổi hoa niên với bạn bè và tháng ngày đầy ắp kỷ niệm học trò trên thành phố cao nguyên mù sương đang lãng đãng trôi vào quá khứ. Thành phố nhỏ hiền hòa đó đã ấp ủ nguyên vẹn tuổi thơ của chàng, dưới mái gia đình, trong sân trường, khắp lề đường góc phố. Chàng đã thật sự xa rời những ngày vui buồn thơ dại để sắp sửa bước sang một giai đoạn mới với nhiều thử thách trong đời.

    Đức tắm xong thay quần áo chạy xuống nhà, gặp Tuấn, tay bắt mặt mừng.
    Đức hỏi:
    -Chờ lâu không Tuấn?
    Tuấn cười đùa:
    -Không. Chỉ gần tiếng đồng hồ thôi.
    Đức cười hề hề:
    -Xạo hoài! Bồ có mục gì hấp dẫn vậy?
    -Định rủ bồ ra Chợ Trời Khu Dân Sinh rồi đi phố chơi. Lòng vòng xem có gì lạ không. Ở tàu buồn như chấu cắn.
    -OK. Đợi tớ một chút.
    Đức vào lấy ví đựng giấy tờ tùy thân, dặn Hiền sẽ không ăn cơm ở nhà rồi cùng Tuấn đi ra đầu ngõ. Tuấn thoáng nghe tiếng bọn con gái thì thào sau lưng:
    -Hai anh ấy beau quá!
    -Mi là con nít quỷ.
    -Mi thì ngây thơ dữ há!
    -Tao thích có anh trai như anh Tuấn.
    -Có anh trai chắc cũng thú phải không mi?
    -Ừa! Tha hồ nhõng nhẽo, vòi quà.

    Tuấn và Đức tới Chợ Trời Khu Dân Sinh. Tuấn tìm mua một cái va-li Samsonite to đủ đựng vài bộ quân phục hải quân: mùa Đông màu xanh nước biển đậm, mùa Hè ka-ki vàng, bộ tiểu lễ và bộ đại lễ trắng, một bộ quần áo dân sự cùng giầy, mũ casket và vài món lặt vặt cần thiết cho thời gian ở Mỹ. Lòng vòng trong Khu Dân Sinh cả tiếng đồng hồ, Tuấn kiếm được cho Đức chiếc hộp quẹt Zippo và khắc thêm tên TMD trên nắp mà chàng biết rất hữu dụng cho nó. Đức cũng mua tặng Tuấn một tập vở ghi chép với cây bút nguyên tử Parker. Hai đứa lang thang lên Sài Gòn, đi ăn, đi chơi với nhau mãi tới tối mới chia tay.

    Tuấn bớt cô độc khi gặp lại Đức ở Sài Gòn. Tuy nhiên, bọn chàng chưa có phương tiện di chuyển và nơi ăn chốn ở riêng tư nên thật bất tiện. Trên đường trở về Tạm Trú Hạm, Tuấn thầm nghĩ đến chuyện ổn định chỗ cư ngụ sau chuyến du học để có nơi nghỉ ngơi và họp mặt bạn bè mỗi khi về phép. Chàng cảm thấy vui hơn nữa khi nghĩ đến hai tuần lễ được về phép thăm gia đình trước ngày lên đường sang Mỹ.



    CHƯƠNG 5

    Chuyến Xe Định Mệnh



    Vì muốn dành dụm tiền nên thay vì đáp phi cơ cho nhanh và an ninh hơn, Tuấn mua vé xe đò Minh Trung về Đà Lạt nghỉ phép. Xe Minh Trung là loại xe chở hành khách như loại xe wagon màu đen chạy trục lộ Đà Lạt - Sài Gòn. Xe có ba giẫy ghế ngồi, chen chúc nhau thì chứa được khoảng 10 người, còn hành lý được chất lên mui và che lại bằng tấm poncho nhà binh phòng mưa gió.

    Chuyến xe khởi hành lúc 7 giờ sáng. Tuấn là người lên xe cuối cùng, nhưng may mắn được ngồi bên cạnh một cô gái thật xinh và duyên dáng trên hàng ghế trước với bác tài. Tuấn và nàng trao đổi vài câu chuyện xã giao. Cô gái người Bắc tên Băng Tâm, là một sinh viên đang học năm đầu Đại Học Kinh Doanh Đà Lạt, gia đình ở Đường Yên Đổ, Sài Gòn. Chỉ qua vài câu thăm hỏi, Tuấn có cảm tưởng như chàng và Tâm quen nhau đã từ lâu. Tâm tự nhiên, cởi mở và thân thiện chứ không kênh kiệu như đa số các cô gái đẹp khác. Tuấn hiểu ngay rằng, có Tâm trên chuyến xe, cuộc hành trình sẽ bớt mệt mỏi và đường cũng bớt dài hơn.
    Tuấn quay sang Tâm gợi chuyện:
    -Tâm nghỉ Hè với gia đình chắc vui lắm?
    -Cũng vui, nhưng mấy tháng Hè qua nhanh quá.
    Tuấn đồng ý:
    -Đúng rồi Tâm. Mới hôm nào, tôi về Nha Trang nhập ngũ, bây giờ đã hơn nửa năm trôi qua rồi. Đi học xa nhà chắc là buồn lắm, Tâm nhỉ?
    -Thời gian đầu thì buồn thật, sau đó quen dần anh ạ!
    Tâm tò mò:
    -Anh cũng xa gia đình vậy. À! mà anh học ở đâu?
    -Khóa Sĩ Quan Hải Quân OCS ở Hoa Kỳ.
    -Tiểu bang nào vậy anh?
    -Rhode Island.
    Tâm thành thật:
    -Em cũng không biết tiểu bang Rhode Island nằm chỗ nào nữa.
    -Gần New York, trên thủ đô Washington.
    -Thế thì xa California, phải không anh?
    -Xa lắm!
    Trầm ngâm một lúc rồi Tâm hỏi tiếp:
    -Anh ở bên Mỹ lâu không?
    -Khoảng gần một năm.
    -Đâu lâu lắm, anh nhỉ?
    Tuấn diễu cho không khí cởi mở hơn:
    -Thời gian trôi nhanh lắm, Tâm à! Như bóng câu qua cửa sổ ấy. Trai trẻ chả bao lâu mà đầu bạc mất thôi.
    Bác tài nãy giờ chỉ chăm chú lái xe, bây giờ mới liếc nhìn Tuấn.
    Tâm mỉm cười:
    -Anh làm như già lắm vậy?
    Tuấn trêu:
    -Đâu còn trẻ như Tâm?
    Chiếc xe vừa qua một khúc quanh gắt bên trái. Xe chật nên người Tâm ép sát vào Tuấn. Cặp đùi thon nhỏ của Tâm chạm vào đùi chàng nóng ấm. Tuấn cảm thấy lòng lâng lâng. Chiếc xe đã qua khỏi khúc quanh, Tâm ngồi thẳng lại, hai má đỏ hồng trên khuôn mặt trái soan. Tuấn nghĩ thầm: "Đẹp như nàng, chắc 'kép' đuổi đi cũng không hết. Nàng tự nhiên với mình vì bản tính của nàng như vậy đối với tất cả mọi người hay nàng có cảm tình với mình nên thân mật? Mình chủ quan quá không?" Tuấn kiếm chuyện nói để kéo dài cuộc đối thoại:
    -Tâm đã có dịp xuất ngoại chưa?
    Tâm lắc đầu nhè nhẹ:
    -Chưa khi nào, anh! Nhưng Tâm có một người anh trai du học bên Mỹ đã hai năm. Anh Hòa của Tâm học tại UCLA, về Kỹ Sư Cơ Khí. Anh ấy đang sống chung với gia đình chú em ở Glendale. Anh Hòa bảo cuộc sống bên Mỹ buồn lắm. Nhớ bồ, anh ấy chỉ đòi về Việt Nam anh ạ!
    Tuấn cười đùa:
    -Có bồ ở Sài Gòn mà anh ấy còn dứt áo ra đi được là giỏi đó, chứ như tôi thì học Kỹ Sư Phú Thọ cũng tốt rồi. Vừa gần nhà vừa gần bồ. Cuối tuần dẫn bồ đi bát phố thú hơn nhiều, phải không Tâm? Tâm nhìn chàng cười tươi khoe hàm răng trắng đều như hạt bắp:
    -Anh kinh nghiệm chứ Tâm chưa biết thú đó.
    Tuấn trêu thêm:
    -Xinh như Tâm thì thiếu gì chàng muốn theo Ngọ về?
    Tâm mỉm cười e thẹn:
    -Tâm xấu xí, ai mà thèm, anh đoán sai mất rồi.
    -Thế thì chắc Tâm kén quá?
    Di mũi giầy da mềm trên sàn xe, nàng nhỏ nhẹ:
    -Tâm đâu dám!
    -Hay ba má Tâm khó khăn? Phải để anh chàng nào đó lọt vào mắt xanh chứ? Nhiều khi mình phải khuyến khích những chàng nhát gái...
    Tuấn ngập ngừng, giọng chàng nhỏ lại:
    -Tôi cũng nhát lắm.
    Tâm đưa tay vén tóc qua tai:
    -Anh mà nhát thì còn ai bạo nữa?
    -Gặp chuyện thật, tôi nhát lắm. Tâm không nhớ "Dạo ấy anh hiền và nhát quá" hay sao? Tâm cười ngượng ngùng, nhìn mông lung ra ngoài cửa xe, rồi lảng qua chuyện khác:
    -Anh thích thơ văn?
    Tuấn gật đầu:
    -Thơ văn khiến tâm hồn mình phong phú hơn, phải không Tâm?
    -Tâm cũng nghĩ như anh. Nhưng ba me Tâm bảo con gái mà giàu tình cảm và lãng mạn quá về sau chỉ khổ thân.
    Tuấn phát biểu quan điểm của chàng:
    -Khổ, có lẽ do nơi số mạng, chứ giàu tình cảm mình mới dễ thông cảm người khác. Chỉ lo rằng tình cảm mình không đủ giàu và tim mình khô như nắm đất, chai như cục đá để không thể hiểu nổi, không cảm nổi tha nhân thôi.
    Yên lặng vài phút, Tâm mới lên tiếng:
    -Tâm cũng thích văn chương. Định vào Văn Khoa nhưng ba me Tâm nói Kinh Doanh giúp mình mưu sinh dễ và thực tiễn hơn.
    Tuấn liếc nhìn nàng rồi nhẹ nhàng an ủi:
    -Học gì cũng tốt, Tâm à! Miễn là mình thích ngành mình học, với lại cũng tùy theo hoàn cảnh gia đình nữa. Nếu cần giúp đỡ gia đình thì môn nào giúp mình kiếm việc dễ hơn có lẽ sẽ tốt hơn, Tâm nghĩ như vậy không?
    Tâm gật nhẹ đầu, khẽ nói:
    -Vì vậy, Tâm mới học Kinh Doanh đấy.
    Tâm mở cái túi da để dưới chân, lấy ra một quyển sách dầy đưa cho Tuấn. Nàng nói:
    -Tâm vừa mua hôm trước, mới đọc được vài truyện. Em mang theo để đi đường đọc cho vui. Anh đã xem chưa?
    Tuấn lật xem mục lục quyển Tuyển Tập Những Truyện Ngắn và lướt qua một số hình ảnh của những nhà văn trong sách, chàng trả lời:
    -Vài truyện đã đọc qua, nhưng lâu quá rồi nên tôi chẳng nhớ chi tiết thế nào nữa.
    Tâm vui vẻ:
    -Nếu anh thích, Tâm cho anh thuê lại đấy. Chỗ quen biết, chỉ năm đồng mỗi ngày thôi.
    Tuấn cũng vui vui với tính dễ thương của Tâm, đùa thêm:
    -Chỗ quen biết thì năm đồng, còn bạn bè phải tính mười đồng mới có lời chứ?
    Vài người ngồi trên băng ghế sau bật cười.
    Tâm ra điều kiện:
    -Anh biết không? Tâm thích kính biếu cho ai mà Tâm coi là bạn thân đó anh.
    -Tâm khôn quá! Mua thì không phải nợ. Nhận quà tặng thì mang nợ suốt đời có đúng vậy không? Tâm diễu:
    -Anh thông minh ghê!
    Tuấn nhún vai, làm ra vẻ kiêu hãnh:
    -Thông minh nhất nam tử mà.
    Tâm nhìn bác tài. Bác tài cười tủm tỉm, có vẻ thú vị.
    Quay qua Tâm, Tuấn nói nho nhỏ:
    -Tôi muốn được làm "Chúa Chổm" Tâm ạ!
    Tâm nhìn chàng cảm động. Tuấn nhìn lại nàng, ánh mắt chan chứa thân tình. Tuấn cảm thấy lòng mình thật ấm áp, luồng điện ấm truyền vào tim từ phần thân thể bên phải tiếp xúc với Tâm. Chàng chậm rãi tiếp:
    -Đùa cho vui, chứ Tâm giữ mà đọc. Khi nào xong, tôi hỏi mượn sau cũng được.

    Tâm không trả lời. Hai người ngồi im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Xe đôi lúc dằn xóc vì đường xấu. Sự đụng chạm làm Tuấn cảm được da thịt mềm mại của Tâm dù ngăn cách bởi làn vải quần áo mặc. Mùi nước hoa thoang thoảng của nàng đã bắt đầu quen thuộc với chàng. Lòng Tuấn hình như hân hoan và rộn ràng quá. Chàng chưa hề có cảm giác đặc biệt này với bất kỳ người con gái nào từ trước tới giờ. Tâm vẫn yên lặng nhìn khung cảnh hai bên đường chạy lùi về phía sau vùn vụt. Chàng thanh niên lần đầu tiên quen biết đã làm nàng suy nghĩ nhiều. Chàng thông minh, tế nhị và thật dễ mến. Tâm cảm được tâm hồn chàng một cách dễ dàng và thân thiện với chàng thật tự nhiên. Tâm thấy lòng mình giao động và thầm mơ ước vu vơ.

    Tới trưa, đến Định Quán, bác tài ghé vào một quán cơm quen. Xe ngừng, bác tài lên tiếng:
    -Bà con cô bác ơi! Mình ăn cơm trưa ở đây xong sẽ tiếp tục.
    Tuấn mở cửa nhảy xuống xe. Tâm cũng xuống theo. Chàng mời Tâm dùng cơm trưa chung cho vui. Tâm đồng ý. Tuấn và nàng bước vào quán cơm bên đường. Nhiều quán cơm khác dựng lên san sát nhau. Tuy nhiên, Tuấn thấy quán cơm bác tài ghé vào có vẻ sạch sẽ và hấp dẫn nhất nên vào đấy, kiếm chỗ ngồi. Tuấn nhìn lên bảng thực đơn, rồi quay sang hỏi Tâm:
    -Tâm ăn gì? Cơm dĩa có cơm gà, cơm sườn, cơm chiên thập cẩm, cơm bò kho, chả trứng?
    Tâm trả lời:
    -Anh chọn món gì thì gọi cho Tâm luôn.
    Tuấn thấy lòng vui vui:
    -Thôi cơm chiên thập cẩm nhá Tâm?
    Tâm gật đầu. Nhìn thấy bác tài đang rót bia ra ly đá, Tuấn đùa:
    -Uống la-dze 33 nhá Tâm?
    Tâm nheo mắt nhìn chàng, chun mũi lại:
    -Anh uống đi. Cho Tâm một chai xá-xị cũng được.
    Tuấn lại được dịp trêu:
    -Đùa cho vui, chứ anh uống xá-xị cũng say đó Tâm.
    Tâm giả vờ không hiểu, mở to mắt nhìn chàng hỏi:
    -Thật không? Xá-xị cũng làm say hả anh?
    Tuấn nói nhỏ chỉ vừa đủ để Tâm nghe:
    -Ngồi bên Tâm, anh uống gì cũng say được.
    Tâm bẽn lẽn, hai má đỏ hồng không nói. Bà chủ quán ngước nhìn chàng chờ đợi. Tuấn bảo bà chủ quán làm cho hai đĩa cơm chiên thập cẩm và hai chai xá-xị. Chàng hỏi Tâm dùng thêm gì nữa không. Tâm lắc đầu:
    -Đủ rồi anh.

    Tuấn nhìn Tâm rồi nhìn quanh. Hành khách trên hai xe Minh Trung và chiếc xe đò lớn đã vào đầy những quán cơm bên đường. Người ăn cơm, kẻ uống nước, nói chuyện huyên náo. Trời giữa trưa thật oi bức, không một làn gió nhẹ nên dù chiếc quạt máy trên mặt tủ lạnh đã quay hết tốc độ, quạt qua quạt lại mà cũng không đủ mát. Khoảng mười lăm phút sau, con gái bà chủ quán bưng hai đĩa cơm nóng hổi và hai chai xá-xị đã mở nắp ra đặt lên bàn trước mặt Tuấn và Tâm rồi hỏi:
    -Cô cậu cần gì nữa không?
    Tuấn nói không và cám ơn. Chàng rót xá-xị vào hai ly sẵn đá đập vụn trong khi đó Tâm lấy giấy kín đáo lau muỗng. Tuấn và nàng vừa ăn vừa chuyện vãn.

    Cơm trưa xong, mọi người lại ra xe. Bác tài kiểm điểm xem còn thiếu ai không, rồi rồ máy xe từ từ chạy tiếp.

    Trong suốt đường đi Đà Lạt, nhiều hành khách nhắm mắt nghỉ ngơi, chàng và Tâm lúc thì chuyện vãn, lúc cũng nhắm mắt cho đỡ mệt. Bác tài cho biết Việt Cộng đã đào đường, đắp mô tuần trước, cách Định Quán chừng hơn cây số làm kẹt đường hàng ngày trời. Tuấn nghĩ thầm: Chỉ sợ xe bị trúng mìn hoặc du kích chận xe, lùa thanh niên vào rừng thôi, chứ kẹt đường mà có Tâm bên cạnh, mình càng vui hơn. Tuấn thấy Tâm tế nhị, có óc khôi hài và nhận xét bén nhậy. Tâm hồn nàng phong phú, giàu tình cảm và khoáng đạt. Với tính tình trẻ trung, đơn giản và dễ thương, Tâm thật hợp với lối sống bình dị của chàng. Tâm lại đẹp, cao và thân hình cân đối đúng là mẫu người Tuấn mong muốn.

    Xế chiều, xe mới đến chân Đèo Prenn. Xe chạy ngang qua Thác Prenn, Tâm chỉ giòng nước trắng xóa đổ ào ào từ trên cao xuống, bảo Tuấn rằng nàng chưa có dịp đi Thác Prenn và Ponguar nhưng đã tới thăm Thác Cam Ly và Datanla với bạn bè. Không khí bắt đầu lạnh dần. Từ đây đến Thành Phố Đà Lạt còn khoảng ba mươi cây số nữa. Xe đang leo đèo. Bên phải là núi, bên trái là vực sâu, nhiều chỗ sương mù phủ kín, nhìn chẳng thấy đáy. Tâm chỉ dám nhìn he hé xuống vực, nàng nói:
    -Trông rợn quá, lỡ té xuống vực thì tan xác mất.
    Bác tài cười hềnh hệch:
    -Yên chí cô hai à! Tui hai mươi năm lái xe. Đường này tui thuộc nằm lòng mà.

    Càng gần Đà Lạt, thông càng nhiều và nhiều chỗ khí núi bốc ra mù mịt, bác tài phải bật đèn pha và chạy thật chậm lại. Nét mặt Tâm có vẻ lo lắng hồi hộp. Đến bến xe Đà Lạt - Sài Gòn lúc nắng chiều sắp tắt. Trời Đà Lạt trong sáng hơn nhưng vẫn lành lạnh. Tâm mở cái túi da lấy áo len mỏng màu rêu khoác lên người. Sau khi lấy hành lý, Tuấn gọi một chiếc taxi về nhà. Nhà Tuấn ở Đường Tăng Văn Danh cũng cùng đường lên Viện Đại Học Đà Lạt nên chàng mời Tâm lại đi chung với nhau. Trên taxi, Tuấn ân cần hỏi:
    -Đi xe cả ngày, Tâm có mệt lắm không?
    Tâm cảm động:
    -Có anh đi chung chuyến xe, chuyện trò thật vui, vừa bớt mệt vừa mau đến. Anh thấy vậy không? Tuấn gật đầu, nhìn nàng âu yếm:
    -Nhưng bây giờ đang buồn vì chúng mình sắp xa nhau rồi. Chẳng biết khi nào mới gặp lại Tâm?
    Tâm cắn nhẹ môi, hơi ngập ngừng, nhỏ giọng:
    -Em mới lên đây học vào đầu niên học vừa qua, ít bạn lắm. Khi nào rảnh, mời anh ghé đến Tâm chơi.
    Tuấn hân hoan nhưng xã giao:
    -Tôi chỉ ở Đà Lạt khoảng mười ngày rồi về Sài Gòn. Trong thời gian ở đây, tôi hứa sẽ tới thăm nếu Tâm không ngại.
    -Tâm sẽ vui lắm nếu gặp lại anh.
    Tuấn trao quyển sách cho Tâm. Nàng dịu dàng bảo:
    -Nếu không chê, anh giữ quyển sách này làm kỷ niệm.
    Biết rằng Tâm thật lòng và không nhận thì nàng buồn, Tuấn nhìn nàng trìu mến:
    -Cảm ơn Tâm. Món quà này rất quý đối với tôi.
    Tâm e thẹn nhìn lại Tuấn, ánh mắt hồ thu như giam giữ hồn chàng trong đó.

    Chiếc taxi chạy vòng theo bờ Hồ Xuân Hương. Hai bên đường, hàng thông già vươn lên cao vút. Nhiều người vẫn còn hóng gió hoặc câu cá trên những chiếc cầu gỗ sơn nhiều màu, bắc lan ra ngoài mặt hồ. Giữa hồ, vài chiếc pédalo đang đạp nước chậm rãi để lại đằng sau sóng nước hình chữ V lan nhè nhẹ trên mặt nước phẳng lặng phản chiếu những giọt nắng cuối ngày còn sót lại. Bên kia hồ là Nhà Thủy Tạ màu trắng in hình trên nền trời xanh lơ.

    Xe đã đến Ngã Ba Chùa. Nhà Tuấn ở xóm này nhưng chàng bảo bác tài xế taxi chạy về Viện Đại Học Đà Lạt trước. Chẳng mấy chốc, xe đã lên đầu dốc trường Bùi Thị Xuân. Tháp Chuông Nhà Nguyện trong khuôn viên Viện Đại Học đã hiện ra mờ mờ trong sương chiều. Lòng Tuấn bồi hồi vì đã xa thành phố Đà Lạt gần năm rồi. Ngày xưa, cũng con dốc này, cũng con đường này chàng đã lết mòn bao nhiêu đôi giầy đi học. Suốt bao năm ròng rã, từ những ngày mùa Xuân, tiết trời vẫn lành lạnh nhưng bầu trời trong xanh và cao vút, Tuấn đạp xe hàng chục cây số lên Trường Trung Học Trần Hưng Đạo, cho đến những buổi sáng mùa Thu trắng sương mềm, chàng co ro, nách cắp sách, hai tay cho vào trong túi quần, rảo bước chung với từng nhóm nữ sinh Bùi Thị Xuân trên đường lên Viện Đại Học Đà Lạt. Mấy cô nữ sinh áo trắng trinh nguyên hay áo tím màu mực đọng, sách vở ôm trong tay, trông thướt tha hiền lành nhưng khi tụm năm tụm ba thì nghịch ngợm cũng chẳng kém gì con trai. Mấy nàng đi trước, giả bộ đi thật chậm lại cản đường, nhóm đi sau vừa đi vừa đếm nhịp theo bước chân Tuấn, đọc trại thơ Đi Chùa Hương trêu rồi khúc khích cười với nhau, một cô thỏ thẻ: "Chàng ơi! Đi đâu mà vội mà vàng?
    Thuở làm sinh viên đại học, Tuấn cảm thấy mình lớn hẳn. Tuy vậy, những khi bị trêu ghẹo, trong lòng chàng tuy thích thú, nhưng hai tai nóng bừng, mặt mũi đỏ gay như người say rượu. Thấm thoát mà đã mấy năm trôi qua, kỷ niệm thư sinh vẫn còn nguyên vẹn trong lòng nhưng sao Tuấn cảm thấy tiếc nuối cho tuổi ấu thơ của mình đã qua nhanh. Đang nhớ về tuổi thơ, Tuấn nghe Tâm bảo bác tài chạy xuống con đường dẫn vào Khu Cư Xá Sinh Viên. Xe vừa chạy ngang qua cổng Viện Đại Học với hai cánh cổng chấn song sắt khép kín, Tuấn chỉ thấy mập mờ trong bóng tối nhá nhem tấm bảng đồng chữ nổi gắn trên cột đá.

    Tâm chỉ chỗ cho bác tài đậu xe. Tuấn mở cửa xe cho Tâm. Bác tài khuân hành lý của nàng ra, chỉ một cái va-li nhỏ và một cái túi da xách tay. Tuấn bảo bác tài xế taxi đợi, rồi xách va-li giùm Tâm vào phòng. Trời đã chạng vạng, ngọn đèn điện vàng vọt soi ánh sáng dọc hành lang khu cư xá. Tâm gõ cửa phòng, cô bạn gái ở chung phòng với Tâm mở cửa và reo lên:
    -Tưởng mi quên đường về rồi chứ?
    Tâm cười với bạn:
    -Nhớ mi nên lại mò về đấy.
    Tâm giới thiệu Tuấn với Kim Cúc. Chàng và Cúc nói với nhau vài câu xã giao rồi Cúc đỡ lấy va-li trên tay chàng đem vào phòng trong. Tâm vào bếp rót cho chàng một ly nước:
    -Anh ngồi chơi uống nước, đợi Tâm một chút nha!
    Tâm mở xắc tay, lấy bút viết địa chỉ trong lúc Cúc nháy mắt với Tâm mỉm cười một cách ranh mãnh. Tuấn nhấp ngụm nước, cầm mảnh giấy trao từ tay Tâm, đứng dậy kiếu từ:
    -Thôi gặp lại Tâm sau. Bác tài đang đợi ngoài xe. Tôi về cô Cúc. Tâm và Cúc ngủ ngon nhá!
    Tâm và Cúc chào lại rồi tiễn chàng ra cửa. Tâm dặn:
    -Anh nhớ ghé thăm em.

    Chiếc xe taxi đưa Tuấn về đến nhà thì đồng hồ đã chỉ 8 giờ 10 phút tối. Mẹ Tuấn, em gái chàng và cả Thịnh, bồ của nó cũng có mặt, đang dùng cơm tối. Mọi người rất vui mừng vì chàng đã bất ngờ về thăm gia đình. Tuấn mở chiếc Samsonite lấy hai gói quà đưa cho mẹ và em gái của chàng. Mẹ và em Tuấn vừa mở quà vừa hỏi thăm đủ thứ chuyện xảy ra từ hồi chàng mới nhập ngũ. Mọi người trong gia đình đều bảo rằng Tuấn trông lạ và khỏe mạnh hơn với làn da rám nắng và mái tóc lính ngắn cũn cỡn. Đến khuya, Tuấn mới tắm rửa rồi lên giường ngủ. Giường nệm, mùi mền gối cũ khiến chàng cảm thấy như được sống lại thuở còn thơ dại, nhưng hình ảnh Tâm vương vấn trong đầu làm Tuấn thao thức tới mãi gần một giờ sáng mới ngủ vùi vì mệt.

    Suốt thời gian ở Đà Lạt, Tuấn nằm nhà vui chơi với gia đình, đi thăm bạn bè và đặc biệt dành nhiều thì giờ cho Tâm. Hôm thì Tuấn và Tâm đi dạo phố, ăn uống, xem phim hay tay trong tay tâm sự bên bờ Hồ Xuân Hương. Khi thì Tuấn và nàng lang thang trong khuôn viên đại học, hoặc chuyện vãn, đàn hát tại phòng nàng trong cư xá. Có hôm, Tuấn, Tâm và nhóm bạn của nàng lại rủ nhau lên Nhà Thủy Tạ nghe nhạc, nhìn sương dấy lên trên mặt hồ hư ảo.

    Khuôn viên Viện Đại Học Đà Lạt vẫn không thay đổi gì mấy. Trường Khoa Học, Văn Khoa, Chính Trị Kinh Doanh vẫn những giãy giảng đường thấp, bảng đen vẫn mờ bụi phấn và con đường dẫn lên Thư Viện vẫn lào xào đá sỏi. Cảnh cũ đấy nhưng bạn bè xưa đâu làm lòng Tuấn man mác.

    Thư Viện kia của những phút bâng quơ
    Bài vở ngập mà cửa hồn vẫn mở

    Tâm rất thích cây hoa ngọc lan trồng cạnh Văn Phòng. Cây hoa cao hơn nhưng trông cằn cỗi hơn. Những đóa hoa ngọc lan nhỏ nhắn điểm lác đác trên cây, phô sắc trắng như ngà trong đám lá màu ngọc bích. Tuấn ngắt một đóa ngọc lan đưa cho Tâm. Nàng cầm đóa hoa đưa lên mũi hít nhẹ rồi bảo:
    -Mùi ngọc lan trang trọng hơn huệ, phải không anh?
    Nói xong Tâm đưa cánh hoa sát vào mũi Tuấn. Chàng hít một hơi dài:
    -Nhất là về đêm, nó có mùi thơm thoang thoảng thật dễ chịu.
    Xoay xoay đóa hoa trên hai đầu ngón tay, Tâm tiết lộ:
    -Anh Tuấn biết không! Lắm khi cây ngọc lan không kịp ra hoa nữa vì cứ ra được nụ hoa nào là mấy cô nữ sinh viên lại vặt trộm sạch sẽ.
    Tuấn chỉ Tâm cười trêu:
    -Còn ai vào đây nữa? Chính danh thủ phạm!
    Tâm mỉm cười, nhìn nghiêng sang Tuấn, gật đầu thú nhận:
    -Em chỉ là một trong những thủ phạm thôi.
    Cả hai cùng cười vui, đều bước về phía Tòa Viện Trưởng.
    Khoảng giữa Tòa Viện Trưởng và Văn Phòng, bể cá vàng lớn hình chữ nhật với hòn non bộ vẫn thi gan cùng tuế nguyệt. Vài búp sen hồng nhạt vươn lên cao khỏi mặt nước rong rêu. Đôi ba đóa hoa súng màu hồng phấn và màu trắng đang hé nở phô nhụy vàng ối trông thật đẹp. Tuấn chỉ một đóa hoa súng mới nở giữa hồ sát hòn non bộ, hỏi Tâm:
    -Tâm thích hoa sen hay hoa súng hơn?
    Tâm cúi xuống lấy tay vuốt nhẹ cánh hoa sen như lụa, ngước nhìn chàng trả lời:
    -Em thích mùi hoa sen nhưng lại thích hoa súng hơn vì cách kết cấu của đài hoa, cánh hoa cũng như lá nhỏ nhắn dễ thương hơn.
    Tuấn cũng đồng ý:
    -Cánh hoa súng dầy, khi nở xòe đều, thẳng thớm hơn hoa sen. Cánh hoa sen úp, to nhưng mỏng manh. Lá hoa súng hình trái tim màu xanh đậm hoặc hơi vàng khi còn non, trông láng mướt như ngọc. Tâm và Tuấn ngồi xuống cạnh bệ hồ. Làn gió nhẹ thoang thoảng mùi nước hoa Chanel khiến lòng Tuấn lâng lâng. Tuấn đưa thêm nhận xét:
    -Hơn nữa, hoa lá của sen thô và ngất ngưởng trên mặt nước, trái lại hoa và lá hoa súng nổi sát mặt nước trông trang nhã hơn hoa sen nhiều.
    -Em cũng nghĩ như vậy.
    Tâm cúi nhìn khắp trong hồ sen, nàng nói với Tuấn:
    -Tìm mãi cũng chẳng thấy chú cá vàng nào cả. Hôm trước em thấy nhiều cá lắm mà: cá đen, cá trắng và cá vàng.
    -Có lẽ chúng nấp trong hốc cây, dưới những lá sen to héo úa hay trong lùm thủy trúc. Ngưng lại vài giây, Tuấn cười cười nhìn Tâm:
    -Hay đã bị mấy chàng sinh viên câu lên mần thịt rồi?
    Tâm phụ họa:
    -Dám lắm anh! Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò mà.

    Tuấn và Tâm lang thang khắp nơi, quanh những gốc anh đào chưa khai hoa, lên cầu Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài đỏ chói bắc ngang qua lạch nước nhỏ cạnh Thư Viện. Cây cầu gỗ cong, giống kiến trúc Trung Hoa, hình như mới được sơn phết lại, trông nước sơn còn mới. Cạnh con lạch là vài cây liễu rủ lá nhắc Tuấn nghĩ đến câu thơ Kiều:

    Dưới cầu nước chảy trong veo
    Bên cầu tơ liễu bóng chiều thiết tha.

    Lần từng phiến đá lót đường xuống Trường Chính Trị Kinh Doanh. Bức tượng đồng đen của vị Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận NewYork và cũng là một học giả uyên thâm, lừng danh thế giới trước giảng đường mang cùng tên Spellman, rêu xanh phủ lác đác. Tuấn và Tâm ngồi trên bậc đá lạnh nhìn qua bên kia thung lũng, thông giao cành vẫn xanh như xưa. Tâm rủ chàng hôm nào đi Thác hoặc Vallée d'Amour chơi, Tuấn đồng ý và đề nghị mời Kim Cúc đi chung vào thứ Bảy tới.

    Tiếng chuông chợt ngân nga trong chiều làm Tuấn bỗng nhớ đến Nhà Nguyện trên đỉnh đồi, nên dìu Tâm thong thả đi lên hướng đó. Nhà Nguyện tô bằng đá sỏi và tháp chuông ba cạnh với hình thánh giá cao ngất trên không. Tuấn và nàng dắt tay nhau vào trong sân cầu nguyện lộ thiên.
    Tâm hỏi nhỏ:
    -Anh có đạo không?
    -Có, đạo Khổng, thờ cúng tổ tiên.
    -Gia đình em Công giáo.
    -Tâm đi lễ Chủ Nhật ở đâu?
    -Thường thì lên Nhà Nguyện này. Nếu siêng và có phương tiện, em qua Nhà Thờ Con Gà. Thỉnh thoảng, em cũng theo bạn lên Dòng Chúa Cứu Thế chơi. Dòng Chúa Cứu Thế tọa lạc trên đỉnh đồi cao, trông như tòa lâu đài thời Trung Cổ ấy.
    Tuấn tâm sự:
    -Anh có một người bạn rất thân tên Đức, cũng dân Công Giáo. Nhà nó ở Ngã Ba Chùa gần nhà anh. Hiện giờ nó đang học Luật ở Sài Gòn. Nếu gặp nó, Tâm nói chuyện về tôn giáo chắc hợp lắm. Anh và Đức xưa kia vẫn thường lên Dòng Chúa Cứu Thế thăm mấy vị linh mục và viếng Trại Gà Scala ở đó. Thú lắm!
    Giọng Tâm bỗng chùng hẳn xuống:
    -Phải chi anh ở đây lâu, tụi mình đi chơi nhiều nơi chắc vui lắm nhỉ? Tiện đây, em muốn làm một chuyện, anh làm chung với em nhá?
    -Làm gì vậy Tâm?
    -Anh cứ đứng yên lặng thôi. Em làm gì mặc em.
    -Cũng được. Tâm cứ tự nhiên.
    Tâm hướng về hình thánh giá, làm dấu rồi đứng lặng yên. Vài phút sau, Tâm vừa đưa tay làm dấu thánh giá vừa nói:
    -Xong rồi, mình đi về anh.
    Tuấn và nàng trở về khu cư xá. Tuấn muốn tới thăm Vinh, nên chàng nhã nhặn ngỏ ý với Tâm rồi từ giã, phóng xe ra hướng phố chợ.

    Thứ Bảy trước hôm Tuấn trở lại Sài Gòn, chàng, Tâm cùng với cặp Cúc và Thiện rủ nhau đi Thung Lũng Tình Yêu gần Viện Đại Học. Tâm nấu mì gói tôm thịt và cả bọn ăn trưa ở cư xá xong mới khởi hành. Tuấn chở Tâm trên chiếc Lambretta 175 Special mượn của Thịnh, bồ của em gái chàng. Cúc ngồi trên xe Suzuki với Thiện. Tâm mặc quần dài bó sát người trông nàng mi-nhon và mạnh khỏe. Sau nhiều lần đi chơi chung với nhau, Tâm không còn ngại ngùng mà tự nhiên thân mật hơn. Nàng ngồi nghiêng một bên, vai đeo chiếc sắc da nhỏ quàng giây đeo qua cổ, vòng tay phải ôm ngang bụng chàng.

    Cả bọn tới Thung Lũng Tình Yêu khoảng quá trưa. Vài người đang bách bộ bên bờ hồ, vài người đang đạp pédalo. Tuấn thuê hai chiếc pédalo, một cho Kim Cúc và Thiện, chiếc kia dành cho chàng và Tâm. Tuấn đỡ Tâm xuống chiếc xe đạp nước rồi Tuấn cùng nàng chậm rãi đạp ra giữa hồ. Cúc và Thiện đạp dọc theo bờ hồ phía xa xa.
    Tâm thích thú nói:
    -Em mới đạp pédalo lần đầu, cũng dễ phải không anh?
    Tuấn trả lời:
    -Như đạp xe đạp vậy thôi. Còn dễ hơn là đằng khác, vì nếu mình không đạp, xe đạp nước vẫn nổi, không đổ như xe đạp.
    Tâm gật đầu cười:
    -Có anh, em yên chí, chứ một mình em ngồi trên chiếc pédalo ở giữa hồ thế này chắc ghê lắm!
    -Có gì ghê gớm đâu Tâm?
    Tâm bẽn lẽn:
    -Lỡ rơi xuống hồ hoặc có con thủy quái như ở Hồ Loch Ness bên Scotland chồm lên thì sao?
    Tuấn thản nhiên:
    -Nó ăn thịt mình là cùng chứ gì. Anh biết anh sẽ sống sót.
    Tâm nhíu mày, vẻ hơi phụng phịu:
    -Sao anh biết? Chắc anh cầu cho nó ăn thịt em để anh được sống?
    Tuấn mỉm cười:
    -Anh đâu ác thế. Sở dĩ anh biết như vậy vì thịt anh vừa hôi vừa dai, nó chê. Nó chỉ thích thịt của em, vừa mềm, ngọt vừa thơm nữa.
    Tâm trở nên vui hơn:
    -Em nghĩ nó sẽ đớp cả hai.
    Tuấn diễu:
    -Thì chúng mình được sống chung với nhau trong bụng con thủy quái, cũng thú lắm chứ?
    Tâm e thẹn lặng yên. Nàng mở sắc tay lấy ra phong kẹo cao-su (chewing gum), vừa bóc giấy bạc vừa nói nhỏ:
    -Anh nhắm mắt lại đi.
    Tuấn làm theo lời Tâm, nàng đưa thỏi chewing gum lên môi chàng, rồi bóc một miếng khác bỏ vào miệng nhai nhóp nhép. Tuấn vốn không thích nhai gum vì mỗi khi nhai, bụng kêu lục bục và hình như chàng cảm thấy đói hơn. Nhai hết chất ngọt, Tuấn ném cục gum ra xa xuống nước. Từng vòng tròn đồng tâm loang rộng trên mặt hồ rồi biến mất dần. Chàng chỉ chỗ nước xao động, làm bộ hốt hoảng dọa Tâm. Nàng nhéo nhẹ cánh tay Tuấn, nũng nịu:
    -Anh hư quá! Trêu em mãi thôi.
    Tuấn sung sướng cười vui. Bầu trời trong xanh, lởn vởn nhiều cụm mây dị dạng, thỉnh thoảng lại che rợp bóng nắng. Mắt Tâm bỗng buồn thiu, nàng nhìn Tuấn nói:
    -Giờ còn anh, còn vui, mai anh xa Đà Lạt em sẽ buồn lắm!
    Tuấn quay sang Tâm, âu yếm:
    -Anh sẽ nhớ Tâm nhiều lắm!
    Trầm ngâm giây lát, Tâm ngước nhìn chàng, mắt nàng long lanh nửa đùa nửa thật:
    -Chỉ có nhớ thôi sao anh?
    Tuấn nao nức:
    -Dĩ nhiên có cảm tình mới nhớ chứ? Cảm tình càng sâu đậm thì nỗi nhớ càng vời vợi.
    Tâm cắn nhẹ môi:
    -Thế nỗi nhớ của anh thế nào?
    -Khó diễn tả chính xác, Tâm à! Nhiều khi mình cảm nhận được mà không cần phải diễn tả qua ngôn từ.
    -Không dùng ngôn ngữ diễn đạt tình cảm thì bằng cách nào hả anh?
    -Ánh mắt, nụ cười, thái độ, lối xử sự, hành động đều có thể diễn đạt tư tưởng của mình mà nhiều khi phải viết ra bao nhiêu trang giấy mới đạt được cùng mục đích. Tuy nhiên, lối này đôi khi cũng gây hiểu lầm, Tâm ạ!
    Tâm ngẫm nghĩ vài giây rồi nói:
    -Đúng rồi anh. Phải đợi đúng lúc, đúng dịp phải không anh?
    Tuấn gật nhẹ đầu:
    -Thông thường mình phải xử dụng tất cả những phương tiện có thể để diễn đạt, truyền thông tư tưởng hoặc tình cảm của mình đó Tâm. Thế mà cũng chẳng dễ đâu. Vẫn có lúc ông nói gà, bà nói vịt như thường.
    -Em thích ngôn từ ngắn gọn nhưng hàm chứa tư tưởng và tâm hồn sâu sắc.
    Tuấn đồng ý:
    -Anh cũng vậy. Những lúc cần nói thì nói cho ra lẽ, còn không thì nghe nhiều tốt hơn nói nhiều, phải không Tâm? Đỡ ân hận vì mình đã nói sai, nói bậy.
    Tâm nhìn mặt nước lăn tăn rồi ngước mắt nhìn chàng dịu dàng:
    -Thế bây giờ đúng lúc để nói chưa anh?
    Tuấn muốn trêu Tâm, giả bộ không hiểu:
    -Nói gì Tâm?
    Tâm ầm ừ trong miệng không trả lời. Tuấn nhìn Tâm chờ đợi. Nàng mắc cở vùng vằng:
    -Anh kỳ quá! Mai anh đi xa rồi mà không có gì để nói hết sao?
    Tuấn càng trêu già hơn:
    -Ngôn từ trở thành vô dụng rồi Tâm ơi! Nó không thể diễn đạt được những gì anh muốn nói với em lúc này.
    Tâm khẽ liếc chàng:
    -Điều chính yếu, thật quan trọng thôi.
    Tuấn nói vòng vo:
    -Em ở lại vui.
    Tâm cau mày phụng phịu:
    -Không phải điều đó. Anh đi xa thì em làm sao vui được?
    Tuấn tiếp theo ngay:
    -Em học giỏi, thi đậu.
    Tâm lắc đầu:
    -Cũng không phải điều đó. Dĩ nhiên là em học giỏi và sẽ thi đậu rồi.
    Tuấn ghé sát tai Tâm thì thầm:
    -Anh nhớ em!
    -Anh đã nói lúc nãy.
    Tuấn nhăn trán ra điều suy nghĩ mấy giây rồi nhìn Tâm:
    -Còn gì anh chưa nói nữa nhỉ? Ngồi bên người đẹp như em anh run quá, bao nhiêu ý tưởng bay đi đâu mất Tâm ạ! Em nhắc cho anh tí đi?
    Tâm nhoẻn miệng cười, nàng không còn giữ được thái độ hờn giỗi nữa:
    -Về anh và em.
    Nghĩ trêu Tâm như thế đủ rồi, Tuấn nhìn sâu trong mắt nàng, đổi giọng chậm rãi:
    -Anh có nhiều cảm tình và rất vui khi được quen em. Anh tiếc rằng chúng mình gần nhau chẳng bao lâu. Tuy thế, anh sẽ mang theo với anh tình cảm đẹp nhất về em.

    Tâm nhìn Tuấn cảm động, cặp mắt nàng đẹp hiền dịu, mũi dọc dừa cao, môi mọng đỏ trên khuôn mặt trái soan trắng hồng trong nắng. Với thân hình thon cao mảnh dẻ và những đường cong nẩy nở, Tuấn thấy Tâm tuyệt đẹp.
    Tuấn cầm bàn tay mềm ấm của Tâm, nhìn nàng say đắm, giọng như lạc đi:
    -Tâm thương anh không?
    -Anh nói trước đi.
    Giọng Tuấn trầm xuống, ấm áp:
    -Anh thương em nhiều lắm! Tuy mới biết nhau hơn một tuần nhưng anh cảm thấy như mình đã quen nhau từ lâu Tâm ạ!
    Tâm xiết nhẹ tay Tuấn, nói nhỏ chỉ đủ cho chàng nghe:
    -Em cũng thương anh.

    Tâm hồn Tuấn xao động quá, không cầm lòng được, chàng xích lại gần, vòng tay ôm Tâm, hôn lên tóc nàng, trán nàng, hai má nàng rồi đôi môi mọng đỏ của nàng. Tâm đáp ứng một cách tự nhiên như nàng đã từng chờ đợi giây phút này. Tuấn và nàng ôm nhau, yên lặng để nghe nhịp tim đập rộn rã trong ngực, nghe máu chảy ào ạt trong huyết quản, người nóng ran, rồi lại tìm môi nhau. Hơi thở Tâm thơm mùi chewing gum. Những ngón tay nàng mềm mại đan chặt trên mái tóc ngắn của chàng làm Tuấn đê mê, ngất ngây, rung động. Thời gian như ngưng đọng lại. Âm thanh như tan loãng mất hút trong không gian. Chung quanh là mặt hồ vắng rộng, không một chiếc xe đạp nước lảng vảng gần. Mọi người hình như đang thưởng thức niềm vui riêng của mình nên chẳng ai chú ý đến ai.
    Tâm dựa đầu vào vai chàng thì thầm:
    -Em thật hạnh phúc! Chỉ còn ngày nay nữa, rồi anh đi Mỹ, một phương trời lạ với nhiều thú vui. Không hiểu anh còn nhớ đến em không?
    Tuấn vuốt tóc nàng, vỗ về:
    -Chỉ xa nhau khoảng một năm thôi. Mình viết thư cho nhau, em chịu không?
    Tâm rúc đầu vào ngực chàng:
    -Nhưng xa mặt cách lòng. Không phải em nghi ngờ anh, nhưng ai cũng sợ như vậy.
    Tuấn hít mùi hương tóc Tâm:
    -Em tin vậy sao?
    Tâm khẽ lắc đầu:
    -Em tin em.
    -Anh cũng tin anh vậy.
    Tâm không trả lời, nhìn mông lung, định nói gì rồi lại ngập ngừng.
    -Thôi để em viết thư kể anh nghe nhiều chuyện. Bây giờ còn bên anh, em muốn tận hưởng những giây phút quý báu này.
    Tuấn gật đầu, vòng tay chàng ôm chặt hơn.

    Tuấn, Tâm và cặp Cúc Thiện đạp pédalo, đi dạo xem vườn hoa cho đến chiều khi mặt trời sắp tắt mới gọi nhau ra phố ăn uống. Tâm khuyên chàng nên về sớm sửa soạn và nghỉ ngơi để mai lên đường.

    Sáng sớm ngày Chủ Nhật, Thịnh đưa Tuấn ra bến xe đò Minh Trung, cũng chuyến xe 7 giờ sáng. Thành phố còn ngái ngủ, xe cộ thưa thớt. Đèn đường mới vừa tắt xong. Tháp chuông Nhà Thờ Chính Tòa Đà Lạt mà Tuấn quen gọi là Nhà Thờ Con Gà vươn cao trên những ngọn thông bên khu Bưu Điện. Mặt Hồ Xuân Hương thật phẳng lặng, mờ mờ hơi sương. Vài chú vịt trời bước lẹt bẹt trên bờ, thỉnh thoảng dừng lại, nghễn cổ, giang cánh quạt phành phạch, kêu cạp cạp khàn khàn. Một chú vịt con đang bơi vòng vòng cạnh bờ, khua vụn vỡ hình ảnh bầu trời trong xanh đang sáng dần, lấp ló hàng thông soi bóng nước.

    Đến bến xe, Tuấn đã thấy Tâm và Cúc đợi sẵn. Để chàng được tự nhiên, Thịnh chúc chàng đi bình yên rồi phóng xe trở về.
    Tuấn mừng rỡ bước nhanh đến chỗ Tâm hỏi:
    -Tâm và Cúc đến lâu chưa?
    Cúc nhanh nhẩu:
    -Vừa đến khoảng mười phút, anh Tuấn ạ. Chỉ sợ không kịp giờ. May đường ít xe cộ nên hóa ra lại tới sớm hơn anh.
    Tuấn nhìn Cúc ân cần:
    -Phiền Cúc và Tâm quá.
    Chàng quay sang Tâm, thấy gương mặt nàng ủ dột:
    -Tâm ngủ ngon chứ?
    Tâm chưa kịp trả lời thì Cúc chen vào:
    -Đêm bà ấy cứ sục sạo hoài chẳng cho ai ngủ cả. Năm giờ sáng đã thức dậy, nấu nước tắm rửa ào ào làm cả xóm phải thức giấc.
    Tâm phân trần:
    -Tin mi thì bán hết lúa giống. Sáng bảnh mắt còn trùm mền kín mít trên giường. Như mi chỉ có ế mất thôi.
    Cả bọn cùng cười.

    Mùi thức ăn tỏa ra từ những hàng quán gần bến xe lẫn với mùi phở bò bên tiệm Phở Ông Hạp bay sang thơm phức. Tuấn nhìn đồng hồ đeo tay, chỉ còn mấy phút nữa, không kịp ăn uống gì đâu, chàng nghĩ. Hành khách đã lên xe hết. Bác tài xế lạ, đang chất hành lý lên mui xe và buộc lại. Tuấn đặt cái gói giấy Tâm mới đưa xuống băng ghế trước để giữ chỗ bên cạnh một thanh niên tóc húi cua, gương mặt sạm nắng. Bác tài leo xuống kiểm điểm danh sách khách hàng.
    Tuấn ôm vai Tâm, nói nhỏ:
    -Tâm ở lại vui nhá! Khi có địa chỉ chắc chắn, anh sẽ viết thư về. Em cố gắng học. Anh thương em và nhớ em nhiều lắm.
    Tâm buồn bã:
    -Anh giữ gìn sức khỏe. Em nhớ anh!
    Tuấn ôm sát Tâm vào người lần cuối, chào Cúc xong mở cửa lên xe.
    Bác tài chạy vào trong văn phòng hãng xe đò. Hai phút sau trở ra, rồ máy xe, kiểm soát lại lần nữa rồi nói:
    -Bà con còn quên gì nữa không?
    -Không...
    Chiếc xe từ từ lăn bánh. Tuấn mắt vẫn không rời Tâm. Chàng đưa tay vẫy chào hai người con gái. Một tay Cúc đặt trên bờ vai Tâm như để an ủi nàng. Tuấn chợt buồn mênh mang khi bóng Tâm xa dần, khuất sau hàng thông già bên bờ hồ.

    Tuấn lại giã từ thành phố thân yêu nơi chàng lớn lên, nơi chàng đã chôn dấu bao nhiêu kỷ niệm tuổi ấu thơ. Nơi chàng vừa được hưởng gần hai tuần lễ hạnh phúc của tình yêu đầu đời mới chớm. Và cũng thành phố này, chàng đã vừa bỏ đi, có lẽ biền biệt vài năm nữa mới có dịp trở lại. Xin giữ giùm tôi những ấm nồng một đời.

  3. #3
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    CHƯƠNG 6

    Cố Lý Xa Xôi



    Tuấn giã từ Sài Gòn lên đường sang Hoa Kỳ vào một buổi chiều trời nhiều mây xám. Sân bay Tân Sơn Nhất hôm nay hình như vắng vẻ và đỡ oi bức hơn thường ngày, tuy rằng hành khách đổ về các cổng lên máy bay quốc nội vẫn tương đối nhộn nhịp. Đa số hành khách bên đường bay quốc ngoại là sinh viên sĩ quan Hải Quân du học, đứng chung từng nhóm với thân nhân đưa tiễn. Lời từ biệt giữa người đi kẻ ở sao chan chứa nhớ thương và đẫm đầy nước mắt. Phút phân ly càng nghẹn ngào hơn cho những cặp tình nhân đang yêu nhau. Những lời thì thầm, những cặp mắt rưng rưng và những khuôn mặt buồn hiu của thân nhân như muốn níu kéo người đi. Nhiều đứa cũng đơn độc như Tuấn thì tụm lại với nhau chuyện vãn vui vẻ hơn. Tiếng cô chiêu-đãi-viên hàng không ngồi tại quầy soát vé đang loan báo chuyến phi cơ American Airlines đường bay quốc ngoại vừa đáp xuống an toàn. Tuấn nhìn ra sân bay thấy chiếc Boeing 707 thon dài với nhiều cửa sổ trên thân tàu, đang từ từ giảm tốc độ để chạy vào sân đậu. Mươi phút sau, hành khách trên chiếc Boeing, đa số là người Mỹ đến từ BangKok, lũ lượt xuống máy bay. Nhân viên làm việc tại phi trường đổ nhiên liệu, chở hành lý ra chất lên chiếc Boeing vừa đến để sẵn sàng cho phi vụ kế tiếp.

    Khoảng nửa giờ sau, bọn Tuấn được lệnh ra phi cơ. Nhóm sinh viên sĩ quan hải quân du học lục tục ra cổng, lên máy bay trước nụ cười thật tươi của cô chiêu-đãi-viên hàng không xinh đẹp người Mỹ đứng đón tại cửa. Tuấn ngồi khoảng giữa lòng máy bay, cạnh cửa sổ. Chàng lặng lẽ nhìn xuống sân bay, nhìn xa hơn ra ngoài thành phố Sài Gòn đang dần về chiều như để giã từ. Lát sau, tiếng động cơ phản lực rú lên rồi lại giảm xuống, phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đạo chuẩn bị cất cánh. Hai cô chiêu-đãi-viên Mỹ kiểm soát giây buộc lưng an toàn cho mọi người, đóng những khay ăn lại, xếp gọn hành lý, mền gối trong tủ phía trên đầu hành khách. Phi công trưởng chào đón hành khách qua hệ thống vi-âm trong phi cơ và báo cáo tổng quát về hành trình, thời tiết, giờ giấc của chuyến bay, v.v. Chuỗi âm thanh động cơ phản lực ở tần số cao lại rít lên mãnh liệt. Máy bay cất cánh lao vùn vụt về phía trước và vút lên không trung. Tai Tuấn ù đi. Chàng lấy hai tay bịt tai lại, ngồi nhìn ra khung cửa sổ. Bên dưới là khung cảnh Sài Gòn xa dần, nhỏ dần. Chiếc máy bay hơi dằn một hồi mới bay êm trên không, trên những cụm mây trắng trôi lửng lơ. Cô chiêu-đãi-viên hàng không đang chỉ dẫn những biện pháp an toàn trong trường hợp khẩn cấp. Tuấn lắng nghe chữ được chữ mất xong nhắm mắt cho quên đi nỗi buồn xa quê hương, cho bớt thời gian mong mỏi. Chàng thỉnh thoảng nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài chỉ thấy mây trắng bao quanh phi cơ một màu xám nhạt. Ăn tối xong, Tuấn lấy quyển sách Tâm tặng ra đọc. Quyển tuyển tập những truyện ngắn của nhiều nhà văn. Đọc được vài trang, chàng lại đặt quyển sách xuống ngồi thừ ra nghĩ ngợi. Cứ cầm quyển sách lên, những giòng chữ lại nhảy múa trước mắt chàng rồi kết thành hình ảnh Tâm rạng rỡ. Tuấn nhớ Tâm và chuỗi ngày thơ mộng ở Đà Lạt. Lòng chàng sao tê tái!

    Tới khuya, máy bay đã bay trên vùng trời nước Nhật. Nhìn xuống nước Nhật về đêm, Tuấn thấy như một biển trân châu long lanh sáng rực một vùng. Máy bay hạ cánh xuống phi trường Osaka an toàn để lấy thêm nhiên liệu. Bọn Tuấn rời máy bay vào trong phi trường chờ đợi. Bầu trời vẫn còn tối, lấp lánh sao đêm. Khu phi trường sáng choang ánh điện, rộng rãi, sạch sẽ, có máy điều hòa không khí mát rượi không như khí hậu oi bức nóng nực ở phi trường Tân Sơn Nhất. Trong lúc chờ đợi, Tuấn rảo bước quan sát một vòng phi trường và sinh hoạt nơi đây. Nhiều tiệm ăn, tiệm bán vật kỷ niệm nằm ngay trong building này. Ngoài kia, nhiều khách sạn nằm bao quanh phi trường, xe cộ vào ra ban đêm không mấy nhộn nhịp. Trong phi trường, Tuấn cũng thấy có một cửa hàng PX bán đồ cho quân đội. Chàng bước vào cửa hàng PX, chọn mua một máy hình Canon nhỏ với vài cuộn phim màu.

    Sau ba tiếng đồng hồ chờ đợi, Tuấn và nhóm sinh viên sĩ quan hải quân lại lên phi cơ tiếp tục cuộc hành trình tới Hawaii. Tuấn đã thấy mặt trời mọc hai lần trong một ngày. Điều đó dễ hiểu nhưng lạ đối với chàng vì đây là lần đầu tiên chàng được chứng kiến. Máy bay hạ cánh xuống phi trường Honolulu lấy thêm nhiên liệu sau khoảng mười giờ bay. Nghỉ ngơi, lấy tiếp liệu xong, máy bay lại cất cánh lao vùn vụt vào lớp sương mù. Nhìn xuống hải đảo thần tiên, Hawaii chỉ còn là những chấm nhỏ bao quanh là mặt biển xanh thẫm mông mênh không bờ bến. Tuấn kéo miếng plastic che cửa sổ xuống, cố chợp mắt một chút, nhưng óc vẫn nghĩ ngợi lung tung. Tuấn nhớ tới Tâm với khung trời Đà Lạt mờ sương xa tít mù. Giờ này, nàng đang đến giảng đường Spellman hay vào Thư Viện? Chỉ mới quen nhau không lâu, chàng đã có nhiều cảm tình với Tâm. Hơn tuần lễ thật vui, thật hạnh phúc, quấn quít bên nhau, nay lại xa nhau gần nửa vòng quay trái đất. Tuấn thấy mình giống như một cánh chim trời vậy: hôm qua còn ở quê hương, giờ này đang trên đường đến Mỹ. Yêu nhau mà chàng đầu sông, thiếp cuối sông cũng y như một đọa đày hồn xác. Tuy nhiên, Tuấn cảm nhận được tình cảm đặc biệt Tâm dành cho chàng. Tuấn tin rằng Tâm cũng hiểu tâm tình chàng thế nào. Dù yêu Tâm, Tuấn chưa muốn bị ràng buộc bởi hôn nhân vì tương lai của chàng là đời lính biển với kiếp sống hải hồ nay đây mai đó. Tuấn và nàng lấy nhau xong, cuộc sống lứa đôi sẽ thơ mộng và hạnh phúc nếu được sống bên nhau. Nhưng nếu phải phục vụ trên chiến hạm, thực tế là chàng phải xa Tâm và xa thành phố biền biệt mấy tháng trời thì liệu nàng chịu được cảnh cô đơn của người vợ trẻ hay không? Vả lại, đời lính, sống chết chẳng biết thế nào. Tuấn chưa học xong, ra trường chưa biết đơn vị ở đâu, lỡ sau này phải về đơn vị tác chiến, bị thương hay bị chết sớm sẽ tội nghiệp nàng lắm. Đầu óc Tuấn vẫn còn ám ảnh bởi chuyện tình cay đắng của người chị họ, Hồng yêu anh Lâm, sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. Suốt ba năm yêu nhau, thêm bốn năm chờ đợi ròng rã, Anh Lâm ra trường, chọn đơn vị Nhảy Dù. Ba tháng sau anh ấy tử trận ở chiến trường Khe Sanh năm Mậu Thân. Chị Hồng đi nhận xác chồng về chôn tại nghĩa địa Gò Vấp. Những ngày Chủ Nhật sau đó, chị Hồng đang mang bầu đứa con đầu lòng, khăn sô buồn thảm lên thăm mộ chồng, ngồi khóc rưng rức. Yêu thương nhau, Tâm có thể chấp nhận mọi điều không may xảy đến cho mình, nhưng điều nàng có thể lỡ dở cả đời khiến Tuấn quặn thắt. Tuấn không muốn nghĩ nữa nên với tay tắt nút đèn, ngả ghế xuống một chút, cố dỗ giấc ngủ. Trong giấc ngủ chập chờn, hình ảnh Tâm hiện lên đằm thắm lẫn lộn với hình ảnh chị Hồng đáng thương và niềm chua xót của đôi nhân tình trẻ trong phim Chân Trời Tím òa vỡ thành những ảo giác, ập về đuổi theo chàng.

    Phi cơ đến lục địa Mỹ, tiểu bang Washington thì trời đã quá trưa, bọn Tuấn phải đợi ở đây chờ đổi máy bay quốc nội đi Providence, Rhode Island. Thế là Tuấn đã đặt chân lên bên kia bờ Thái Bình Dương. Trời mới sang Thu mà không khí ở đây đã lành lạnh. Hơn hai mươi tiếng đồng hồ bay, giờ đứng trên mặt đất, chân Tuấn như nhẹ hẫng. Tuấn đi lòng vòng một lúc để máu lưu thông điều hòa hơn. Chặng bay cuối chỉ mất khoảng năm tiếng đồng hồ là bọn Tuấn đến Providence. Vừa xuống phi trường Providence thì xe buýt của trường OCS đã đợi sẵn. Cả nhóm sinh viên lại leo lên xe buýt, rồi xe khởi hành bon bon chạy về trường. Tuấn ngồi ngắm nhìn phố xá sầm uất bên ngoài cửa sổ mà hơi buồn vì thấy quê hương của mình nghèo nàn quá. Nước Mỹ qua sách báo hoặc TV truyền hình mà từ thuở còn ở trung học chàng vẫn thường mơ ước được đặt chân đến, cũng không khác lắm với những gì chàng đang chứng kiến: nhà cửa chọc trời, xe cộ như mắc cửi, xa lộ nhiều tầng và bình nguyên mênh mông. Lòng Tuấn nao nao lẫn chút cảm giác xa lạ, lạc lõng. Quê người sao quá đầy đủ tiện nghi, chẳng thiếu thứ gì, có chăng là thiếu tình quê hương, ấm nồng kỷ niệm và những thứ thật thuần túy Việt Nam như hình ảnh con trâu, cầu ao, ruộng lúa, buồng cau.

    Xe ra khỏi thành phố hướng về vùng ngoại ô, chạy trên xa lộ rộng rãi, dài tít tắp. Tuấn chả biết đường xá gì chỉ nhớ rằng xe buýt chạy qua cây cầu cao và thật dài bắc ngang qua eo biển.


    CHƯƠNG 7

    Phương Trời Nhung Nhớ



    Trường Hải Quân OCS (US Naval Officer Candidate School) là trường huấn luyện các sĩ quan hải quân trừ bị. Trường OCS tuyển mộ những sinh viên đã có bằng đại học để huấn luyện thành sĩ quan hải quân qua một chương trình dài 6 tháng, học chuyên về hải nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, các sinh viên sĩ quan được gắn cấp bậc Chuẩn Úy. Sinh viên hải quân Việt Nam thụ huấn tại OCS theo Chương Trình Quốc Tế đặc biệt, ngoài thời gian học tại OCS, các tân chuẩn úy còn phải theo học khóa Hành Quân Sông Ngòi và Sình Lầy ở California. Trường Hải Quân OCS tọa lạc tại thành phố Newport trên một hòn đảo phía Nam tiểu bang Rhode Island, ngay cửa Vịnh Narragansette. Newport cũng là một hải cảng đẹp rất được khách du lịch ưa chuộng về mùa Hè. Trường Đại Học Hải Chiến (Naval War College), nơi sĩ quan tu nghiệp các khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Hải Quân cũng nằm gần đây trong cùng thành phố.

    Khi vừa đến trường, đàn anh cấp trưởng hướng dẫn bọn Tuấn rất cặn kẽ về mọi sinh hoạt của khóa sinh tại OCS, phát thêm quân trang, quân dụng và dẫn về phòng riêng của mỗi người. Ngay sau đó, bọn Tuấn được đi hớt tóc miễn phí. Những mái tóc, dù chỉ mới mọc được vài phân cũng bị chiếc tông-đơ điện của bác thợ cạo hớt sạch sẽ chỉ trừ lại tí tóc trên đỉnh đầu. Suốt hai tuần lễ đầu ở OCS, Tuấn và các sinh viên cùng khóa cũng bị đàn anh huấn nhục, không hành hạ cá nhân nhưng đại khái cũng như ở Việt Nam vậy. Những tuần sau đó, sinh hoạt trở nên bình thường hơn. Hoạt động thường nhật tại OCS là thể dục tập thể, thao dượt diễn hành, vệ sinh doanh trại, tới lớp học, trực Quarterdeck, thanh tra, đi bờ, v.v. Tới giờ ăn, cả lớp được dẫn đến Mess Hall, đứng đợi bên ngoài, toán trưởng phải xin lệnh vào ăn và được sinh viên cấp trưởng trực phòng ăn hôm đó sắp xếp chỗ ngồi, ấn định giờ vào, giờ ra. Bất cứ lúc nào, đi học hay đi từng nhóm, sinh viên phải đếm bước đi vào hàng, với quân phục chỉnh tề. Gặp sĩ quan hoặc cấp trưởng, tất cả khóa sinh phải chào kính. Đại diện sinh viên Việt Nam trong Chương Trình OCS này là một vị Hải Quân Thiếu Tá. Phụ tá ông có vài sĩ quan cấp úy. Tuy nhiên, theo chế độ đại học tự trị, sinh viên cấp trưởng chính là những người lèo lái mọi hoạt động thường nhật của sinh viên. Sinh viên cấp trưởng kiểm soát sinh hoạt của khóa sinh hàng ngày, thanh tra quân phục làm việc mỗi ngày và doanh trại cùng quân phục đi bờ hàng tuần. Đa số sinh viên phải tốn nhiều thì giờ sửa soạn quần áo, đánh bóng giầy đen, bút nịt giây lưng, tô trắng giầy đi bờ trước giờ thanh tra quân phục. Vài sinh viên giàu có, thường dự trữ một bộ quân phục hoàn hảo dành riêng để mặc vào lúc thanh tra. Những lỗi Tuấn thường nghe là lints on shirt, need more work on shoes, long hair, v.v. Doanh trại và phòng ốc phải giữ sạch sẽ, đến nỗi bọn Tuấn chỉ dám đi sát vào mé hai bên tường trong hành lang và dùng khăn tắm để lau sàn cho bóng lọng như gương. Mỗi phòng ngủ chung cho hai sinh viên cũng không phải là nơi có thể bừa bộn được mà giường, tủ, quần áo, mền gối, sách vở phải luôn luôn ngăn nắp gọn ghẽ. Ngoại trừ ngày nghỉ cuối tuần, những ngày trong tuần, sinh viên đều bận rộn từ lúc tờ mờ sáng cho đến giờ đi ngủ, nên chi bọn Tuấn phải học lối làm việc có phương pháp, theo đúng thời khóa biểu và tuân giữ kỷ luật gắt gao. Sinh viên nào phạm kỷ luật sẽ tùy theo lỗi, hoặc bị điểm xấu cho lỗi nhẹ hoặc phải điền mẫu giấy phạt 7-Bravo cho lỗi nặng. Một sinh viên phạm lỗi nặng có thể bị đưa ra trước Hội Đồng Kỷ Luật và bị trục xuất khỏi trường.

    Qua thời kỳ huấn nhục, những ngày cuối tuần, ngoại trừ sinh viên bị phạt, những sinh viên khác được đi bờ. Nếu muốn, sinh viên có thể leo lên xe buýt nhà trường chở đi chơi, hoặc tự túc đi đâu tùy ý, chỉ phải trở về trường đúng giờ ấn định thôi. Trong những chuyến đi chơi chung cả khóa, sinh viên bắt buộc phải mặc quân phục. Tuấn đã đi thăm chiến hạm Massachusette có chín nòng đại bác khổng lồ với lớp thép bọc đài chỉ huy dầy đến một tấc. Khi thăm tượng Nữ Thần Tự Do, Tuấn đã lên tới bậc cao nhất là ngọn đuốc. Đứng trên ngọn đuốc, chàng có thể nhìn bao quát gần hết thành phố NewYork. Dịp viếng tòa nhà Liên Hiệp Quốc cũng rất thú vị. Các hướng-dẫn-viên tháp tùng bọn Tuấn khắp nơi, kể cả phòng họp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Cũng trong thời gian viếng NewYork, Tuấn đã lên nhà hàng ăn nằm ở lầu trên cùng của tòa Empire State Building cao nhất thế giới thời bấy giờ. Ban đêm nhìn xuống, Tuấn có cảm tưởng những hàng đèn đường như đi ngược thẳng lên trời vậy.

    Sáng nay, Tuấn vừa nhận được lá thư đầu tiên của Tâm từ Việt Nam. Lòng hân hoan, Tuấn đem về phòng, mở vội thư ra đọc.

    Đà Lạt, Ngày Tháng Năm

    Anh thương yêu, Tâm đã suýt bật khóc khi cầm lá thư của anh viết về từ một địa danh xa lạ ở Mỹ. Từ ngày tiễn anh đi đến nay, thấm thoát đã gần ba tháng. Gần 90 ngày mà em cảm thấy như dài đến mấy năm anh ơi! Em hiểu rằng anh chưa có địa chỉ nhất định và trong thời gian mới nhập học, phải qua mấy tuần huấn nhục thì làm sao anh rảnh mà viết cho em được. Em chẳng khi nào trách anh đâu bởi em biết anh cũng nhớ em như em nhớ đến anh, phải vậy không anh?

    Bên này, bài vở thì nhiều, mà đầu óc em chẳng tập trung vào việc học được. Cũng tại nghĩ đến anh nhiều và nhớ anh quá đấy thôi. Đã thế, mỗi lần Cúc rủ em đi chơi cho khuây khỏa, nhìn quang cảnh nơi đâu cũng chỉ gợi nỗi nhớ lên thêm. Chúng mình chưa quen nhau bao lâu, nhưng mỗi lần đi lại trên những con đường ngày xưa với con dốc nhỏ, nhìn mặt nước hồ lồng bóng thông xanh hay qua phố chợ vẫn người qua lại đông đảo, nhưng em thấy chỗ nào cũng xa lạ quá! Chỉ vì thiếu vắng anh. Em ôn lại kỷ niệm của hai đứa mình rồi em lại buồn vì nhớ anh chất ngất. Nhiều khi nhớ anh quá, em lên Nhà Nguyện thủ thỉ với Chúa và Đức Mẹ, cầu nguyện cho anh được nhiều sức khỏe, bình yên và cho chuyện chúng mình nữa. Sau mỗi lần cầu nguyện, tâm hồn em thoải mái hơn, nhưng nhớ anh thì vẫn nhớ triền miên anh ạ! Anh nhớ lần đầu tiên chúng mình vào Nhà Nguyện không? Em đã cầu xin Chúa ban nhiều ơn phước cho anh để anh được bình yên và may mắn trên đường du học. Em cũng cầu nguyện cho tình yêu đầu đời vừa chớm trong em được bền chặt và sau này chúng mình được hạnh phúc mãi. Chưa biết ý Chúa thế nào, nhưng em tin tưởng rằng có cầu có thiêng, anh tin vậy không? Những ngày bên anh, em thật vui. Em cảm thấy anh hiểu được tâm tình của em, thông cảm những niềm vui nỗi buồn của em. Không phải khách sáo đâu, nhưng em cảm ơn chuyến xe đò hôm về Đà Lạt lắm vì nó đã chở anh theo. Em cảm ơn anh đã đến với cuộc đời em, đã cho em một thời gian chứa chan hạnh phúc. Em đã muốn tận hưởng thì giờ quí báu khi chúng mình gần nhau nên chưa tâm sự nhiều chuyện riêng tư với anh. Giờ đây, xa anh, em thừa thì giờ quá, em sẽ viết nhiều cho anh đọc, để giúp anh vui, để an ủi anh, và để tâm sự cho anh hiểu em hơn, anh nhá!

    Anh biết không, lần trước về Sài Gòn, ba me em nói với em về chuyện anh Huyến, con của ông bà Tường, bạn thân của ba em, muốn hỏi cưới em. Huyến hiện giờ là một bác sĩ quân y, đang làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Em quen với Huyến từ hồi còn bé và coi Huyến như người anh trai lớn chứ không có tình cảm gì đặc biệt. Ba me em sau Mậu Thân, gia sản bị thiêu hủy, công ty bị phá sản, nên nhờ ông bà Tường giúp đỡ về tài chánh rất nhiều để xây dựng cơ sở làm ăn lại. Mặc dù công ty của ba em đã vững lên, nhưng cần thời gian lâu dài mới có thể trả hết nợ, nhất là ơn sâu của ông bà Tường thì khó mà trả được bằng hiện vật. Không phải có ý gả con trừ nợ nhưng ba me em nói nếu làm thông gia với ông bà Tường thì ba me em yên lòng và bớt nghĩ ngợi hơn. Tuy nhiên, ba me để em quyết định hoàn toàn về cuộc đời của em. Ba me em không ép buộc, chỉ muốn em thật sự có hạnh phúc mà thôi. Ba me em cũng biết anh Huyến đã ngoài ba mươi tuổi rồi, có thể sự khác biệt về tuổi tác, tâm tính, lý tưởng và sự nghiệp sẽ không mang hạnh phúc như em mong muốn. Em đã suy nghĩ nhiều về việc này trong suốt thời gian về thăm nhà ở Sài Gòn và cả sau khi gặp anh. Em thương ba me em nhiều lắm nên muốn làm ba me em vui, nhưng em cũng không muốn lấy người mình không thật sự yêu thương. Từ ngày gặp anh, em hiểu rõ tâm hồn và tình cảm của chính mình hơn. Em yêu anh thật tự nhiên, không nghi ngại chắc anh cũng nhận biết như vậy. Em ước mong sao chúng mình được sống bên nhau mãi mãi dù trong hoàn cảnh nào đi nữa. Bây giờ anh đã hiểu lòng em, anh nghĩ sao? Cho em biết, anh nhá! Nhớ anh mỗi ngày mỗi hơn. Mong thư anh lắm đấy. Hôn anh,

    Băng Tâm

    Tuấn buông lá thư, nghĩ ngợi. Hèn chi đôi khi Tâm hình như muốn nói chuyện gì đó với mình rồi lại thôi. Thì ra nàng có nhiều điều suy nghĩ trong lòng. Tâm ơi! Anh yêu em nhiều lắm! Xa em, anh thấm thía nỗi nhớ nhung hơn. Anh vẫn chưa có gì cả: sự nghiệp, tiền bạc, danh vọng, chức vị mọi thứ đều không. Anh nghèo xác xơ, rách như sơ mướp. Anh đâu đủ khả năng lo cho cuộc sống lứa đôi của chúng mình. Anh cho tới bây giờ cũng chưa hiểu tương lai mình rồi sẽ ra sao. Cuộc đời anh bất định, nổi trôi sao bằng được ông bác sĩ quân y lắm bạc nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, lại được trọng vọng nể vì kia!

    Hôm nay là ngày đi bờ, nhưng Tuấn chẳng hứng thú đi đâu lúc này. Tuấn định ở lại trường, viết thư cho Tâm, nhưng chàng muốn đi dạo một hồi cho tâm hồn lắng xuống. Thay quần áo xong, Tuấn thả bộ dọc theo bờ biển gần trường.

    Ngồi trên hòn đá to nhìn ra biển. Gió biển nhè nhẹ thổi vào bờ làm sóng nhấp nhô, nước vỗ vào những mô đá cạnh bờ kêu lách chách. Ngoài xa, rải rác vài cánh buồm đủ màu no gió lướt vùn vụt trên mặt biển. Tuấn nhìn những cánh hải âu bay lượn trên không mà thấy đời mình thật cô độc. Những con chim hải âu đó còn có bầy có bạn chứ như chàng giờ có ai đâu? Tuấn mồ côi mồ cút, chiếc xương sườn cụt cũng chưa tìm ra. Những cánh buồm ngoài kia còn có bến đậu, chứ chàng lang bạt kỳ hồ, lấy giang hồ bốn biển làm nhà. Những cánh hải âu bay lượn trên trời trông thật hiền hòa, được vòm trời trong xanh bảo vệ. Tuấn cũng ví như cánh hải âu nhỏ bé kia, hiện đang thay lông đổi cánh, còn nấp yên lành dưới sự che chở của chim mẹ. Nhưng một hôm nào cuồng phong nổi lên đẩy giạt vào vùng bão loạn, liệu cánh chim non đó còn nhởn nhơ bay lượn nữa không? Liệu cánh chim nhỏ bé, mong manh đó có chống đỡ nổi với những cơn mưa bão phẫn nộ vùi dập không? Hay rồi đây cánh chim tả tơi, rơi rụng bên vệ đường, mục nát như cỏ cây?

    Tâm em! Đất trời rộng lớn quá, cánh chim còn quá nhỏ, chưa đủ sức để bay bổng, bay xa trong bầu trời êm ả này thì nói chi đến lúc gặp cuồng phong bão táp. Tuy nhiên, yêu em, anh cũng chẳng cần gì cả, ngoài em ra. Chúng mình sẽ tạo dựng từ đầu. Mình chỉ cần một mái tranh và hai quả tim vàng thôi. Tuấn buồn cười về sự ngô nghê của mình. Chàng nhủ thầm: Phải thực tế một chút chứ! Mình còn chưa nuôi nổi thân mình được thì làm sao bảo đảm hạnh phúc gia đình? Lấy nhau rồi uống nước lã trừ bữa hay sao?

    Tuấn lấy tập vở ra viết.

    Newport, November 1970

    Tâm thương yêu, Anh vừa nhận được thư em, mừng ghê. Đọc thư xong, anh nhớ em hơn, thương em hơn và anh cũng cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Như em biết, đời anh còn bất định quá. Anh yêu em, nên muốn em có hạnh phúc thật sự. Chân hạnh phúc được kết hợp bởi nhiều yếu tố thiết thực như tình yêu tinh thần và thể xác, sự xứng hợp về lý tưởng, sắc vóc, nhân-sinh-quan, tôn giáo và cụ thể nữa là khả năng tài chánh, v.v. Anh tin rằng yêu nhau, mình chẳng ngại gì đợi chờ nhau. Nhưng nó chỉ hợp lý khi cả hai đều nhìn thấy được kết quả của sự chờ đợi ròng rã đó trong tương lai gần thôi. Nếu không nhìn thấy ánh lửa cuối đường hầm thì mình khó đủ can đảm mò mẫm trong đêm tối lắm, em có đồng ý không? Đừng nghĩ rằng anh bi quan quá. Anh chỉ nghĩ một cách thực tế bởi vì yêu em, anh muốn đời em sung sướng và được hạnh phúc. Em hạnh phúc là anh vui rồi. Em đang có mọi thứ mà những cô gái khác mong muốn có ở một người chồng: tiền bạc, danh vọng, chức tước. Em còn nhiều thì giờ để suy nghĩ thật kỹ trước khi quyết định em ạ! Sau này, dù em quyết định thế nào đi nữa, anh vẫn tôn trọng nó mà không giận bởi vì anh yêu em. Em hiểu lòng anh chứ?

    Bây giờ, anh tâm sự cho em nghe nhá. Xa nhau, anh mới biết thế nào là nhớ nhung dày vò. Anh đang ngồi bên bờ Đại Tây Dương. Em thì ở bên kia bờ Thái Bình Dương. Anh ước được biến thành cánh chim hải âu trên kia, vượt đại dương về với em. À quên, cánh chim này chưa bay xa được. Thôi thì thế này nhá, anh sẽ biến hình nhỏ lại, chui vào một cái chai, đậy nút thật chặt lại rồi nhắm hướng la-bàn, lái cái chai xuyên đại dương về bên em. Tới nơi, anh sẽ biến hình lớn lên, anh sẽ ôm em thật chặt, hôn em thật lâu, em chịu không? Nghe anh đùa, chắc em vui hơn chứ?

    Anh cảm động khi em thổ lộ tâm tình của em. Anh cũng thích như thế. Có gì chúng mình cứ thành thật đối thoại với nhau, giải quyết vấn đề chung với nhau, em nhá? Nên chi, anh muốn hỏi em điều này: Em đủ can đảm đợi chờ đến khi nào anh có đủ khả năng đem hạnh phúc đến cho em, hay ít nhất cũng đến lúc anh có đời sống ổn định không? Anh chưa hiểu tới lúc nào, vì như em biết, anh bây giờ mới bắt đầu vào đời, phải chu toàn trách nhiệm trai thời chiến đã. Những bất trắc có thể xảy ra ngoài ý muốn của mình. Sống, chết cũng đến bất ngờ lắm. Anh chấp nhận đời lính với tính chất bất định của nó, nhưng yêu em, anh không đành lòng thấy em buồn khổ hay dang dở cả đời đâu. Trả lời anh nhá? Cho anh gởi lời thăm Cúc và Thiện.
    Yêu em, hôn em,

    Phạm Anh Tuấn

    Tuấn xếp tờ thư làm ba, bỏ vào phong bì, viết địa chỉ người nhận rồi kẹp vào trong quyển vở, định có dịp sẽ ra bưu điện gửi cho Tâm.


    CHƯƠNG 8

    Ngã Rẽ Tình Yêu



    Hôm nay là lần diễn hành đầu tiên của Tuấn tại Trường Hải Quân OCS. Chàng vì cao nên được đứng hàng đầu của Trung Đội 2, Đại Đội C thuộc Tiểu Đoàn IV. Từ sân bên cạnh hông Nimitz Hall, các đại đội diễn hành xếp hàng theo đội hình, rồi bước đều theo nhịp quân hành lần lượt đi vào phòng gym rộng lớn. Tại một góc nhà gym, ban quân nhạc đang chơi bản quân hành giữ nhịp.

    Sau khi tất cả tiểu đoàn đã xếp hàng theo đội hình hàng ngang trong nhà gym. Ban nhạc ngưng tiếng. Từng trung đội so hàng, kiểm điểm quân số. Trung-đội-trưởng báo cáo quân số lên đại-đội-trưởng. Các đại-đội-trưởng báo cáo đại đội mình lên tiểu-đoàn-trưởng. Sau đó, tiểu-đoàn-trưởng ra lệnh cử hành lễ chào quốc kỳ. Toàn thể khóa sinh hiện diện nhận lệnh từ tiểu-đoàn-trưởng, đứng trong vị thế nghiêm, hướng mặt về lá quốc kỳ treo trên cao. Quốc ca Mỹ trổi lên: O say, can you see, by the dawn's early light... Dứt bản quốc ca Mỹ, quốc ca Việt Nam kế tiếp. Nhập trường đã hơn một tháng, mấy tuần huấn nhục đã xong, những công việc thường nhật như đi thao diễn, tới lớp học, lau bóng sàn, thanh tra quân phục đã trở thành một tập quán đối với Tuấn, nhưng hôm nay Tuấn mới được nghe bản quốc ca Việt Nam lần đầu tiên trên đất Mỹ. Chàng ưỡn ngực cảm thấy hãnh diện và xúc động vô cùng.

    Sau bản quốc thiều, tiểu-đoàn-trưởng đi duyệt quân từng đại đội rồi trở về vị trí cũ. Kế tiếp là phần diễn hành. Bộ chỉ huy và toán quân kỳ tiểu đoàn dẫn đầu cuộc diễn hành. Các đại-đội-trưởng và toán quân kỳ cấp đại đội dẫn đầu đại đội của mình. Tiểu-đoàn-trưởng và đại-đội-trưởng mang găng tay trắng, tay cầm kiếm thẳng góc với mặt đất, mũi kiếm chạm vai, cánh tay thẳng xuôi xuống hai bên cạnh sườn. Mỗi đại đội thường gồm ba trung đội, chỉ huy bởi ba trung-đội-trưởng. Trung đội là thành phần nòng cốt trong buổi diễn hành.
    Từng tiếng hô dõng dạc:
    Platoon. Atten...Hut!
    Present...Arm!
    Right shoulder...Arm!
    Forward...March!
    Khúc quân hành lại được trổi lên. Giọng kèn đồng hòa với tiếng trống nhịp nhàng vang vang trong nhà gym điệu Military March. Toàn thể sinh viên trong những bộ quân phục chỉnh tề, trông lại càng hùng dũng và đặc biệt hơn với leggaits trắng, thắt lưng trắng, bao tay cũng trắng muốt, vác súng Garant trên vai bước rầm rập đều đặn theo nhịp từ từ tiến qua khán đài. Ban chỉ huy đại đội khi đi ngang khán đài thì chào kiếm. Mũi kiếm vung lên trước ngực rồi chỉ xuống đất chênh chếch về phía trước góc 45 độ. Khi mỗi trung đội đi ngang qua khán đài thì trung-đội-trưởng hô: Platoon. Eyes... Right! Hàng bên phải giữ nguyên hướng mặt nhìn thẳng về trước, trong khi mọi sinh viên khác đồng lúc quay mặt qua bên phải góc 45 độ hướng về quan khách. Qua khỏi khán đài, trung-đội-trưởng ra lệnh mặt hướng về vị thế cũ bằng khẩu lệnh: Order...Arm! Đoàn diễn hành lần lượt bước đều ra khỏi nhà gym rồi về dormitory của mình.

    Các môn học academic gồm chiến thuật, chiến lược, thiên văn, hàng hải, luật hàng hải quốc tế, kiến trúc chiến hạm, cơ khí, v.v. tính 45% tổng số điểm ra trường. Military gồm lãnh đạo, chỉ huy, drill, v.v. tính 55%. Các đại đội ganh đua với nhau về mọi môn từ học hành, diễn hành cho tới thể thao. Các môn thể thao như bơi lội, chạy nhanh, leo giây, v.v. được nhiệt liệt cổ võ. Đại đội nào thắng môn gì thì quân kỳ đại đội được gắn huy chương về môn đó: academic, drill, thể thao. Chính vì tinh thần ganh đua mà Tuấn đã buồn mất tuần lễ khi chính chàng, với khả năng bơi lội kém cỏi, đã để mất huy chương thể thao của đại đội mình trong tuần lễ đó, vì thua trong môn bơi tiếp sức. Nên chi, thật là một vinh dự và niềm hãnh diện cho đại đội nào mang quân kỳ gắn đầy những huy chương đẹp mắt, do đó tất cả sinh viên đều cố gắng hết sức học hành và ganh đua thật ráo riết.

    Điểm trung bình ở Trường Hải Quân OCS là 2.4 trên 4.0. Nếu sinh viên nào có điểm bất cứ môn thi nào dưới 2.4 thì phải học lại môn đó gọi là đi i ai (tự học thêm, individual effort). Tuấn nhớ mãi môn mã và giải mã luật hàng hải quốc tế để truyền tin tín hiệu cờ hay đèn vì môn này là một killer. Kết quả kỳ thi môn này thật bi thảm: cả lớp phải đi học lại, ngoại trừ Tuấn may mắn vừa được đúng 2.4 kỳ thi đó. Lý do là bọn chàng đã không có đủ thì giờ tra cứu các sách tham khảo để chuyển dịch các bản bạch văn hoặc mã số ra tín hiệu cờ hay Morse và ngược lại. Môn Phòng Tai cho Tuấn dịp học các phương pháp bảo trì, cứu cấp và sửa chữa khi trên tàu xảy ra hỏa hoạn hoặc bị ngập nước. Từng nhóm phải học cách xử dụng vòi nước chữa lửa, bịt những ống dẫn dầu hoặc ống nước bị bể, trám những lỗ thủng trên thân tàu. Khi thực tập, những điều kiện khẩn cấp được ngụy tạo y như trường hợp con tàu sắp bị đắm. Sinh viên mỗi nhóm phải thay phiên nhau ngụp lặn trong xác tàu sắp chìm, dùng tất cả vật liệu, phương tiện có sẵn và những điều học hỏi được để sửa chữa và giữ cho tàu khỏi chìm. Tuy đứa nào đứa nấy ướt như chuột lột, nhưng môn học này cho Tuấn kinh nghiệm thực tiễn để đối phó với trường hợp hư hỏng, nguy cấp có thể xảy ra trên chiến hạm.

    Khi học lái tàu và thực hành luật hàng hải, cả lớp được đưa vào phòng computer simulation với màn ảnh chung thật lớn gắn trên tường. Mọi chuyển dịch của mỗi con tàu trên màn ảnh do mỗi nhóm điều khiển đều được tính toán và kiểm soát bằng hệ thống máy điện toán. Lái tàu trên màn ảnh thật đơn giản. Mỗi nhóm cầm đầu bởi một sinh viên hạm trưởng, người ra lệnh cho con tàu di chuyển căn cứ vào hướng đi, góc độ bánh lái, vận tốc, v.v. Lái tàu chán, Tuấn đã thử cho tàu của mình đụng vào tàu khác, thì trên màn ảnh hai tàu cũng nổ tung và biến mất. Thực tập môn hải hành rất hào hứng vì giống như chơi một môn giải trí vậy. Vận chuyển con tàu trên màn ảnh chỉ dùng huấn luyện sinh viên làm quen với nhiệm vụ của người sĩ quan trưởng phiên trong lúc hải hành trên lý thuyết. Sau vài lần thực tập tương tự, cả lớp sẽ được sĩ quan giảng huấn dẫn ra khơi lái tàu thật.

    Sau vài tháng học tại trường OCS, Tuấn đã trở nên một sinh viên cấp trưởng của đại đội C. Chàng dẫn đầu một trung đội trong buổi diễn hành, thanh tra sinh viên đàn em và cùng với các sinh viên cấp trưởng khác tham gia trong hầu hết những hoạt động lèo lái khóa sinh tại đây. Tuấn đã quen với nếp sống và sinh hoạt của sinh viên sĩ quan tại OCS nên cảm thấy cuộc sống quân trường thật thoải mái.

    Cuối tuần này, mấy thằng bạn Mỹ bên King Hall rủ chàng ra Providence, thành phố lớn nhất của tiểu bang Rhode Island. Tuấn trú ngụ bên Nimitz Hall, trực Quarterdeck chung với thằng Ben một lần nên quen nó. Ben rất tếu, cầu thủ football từ hồi còn ở trung học. Thân hình Ben lực lưỡng và ngực đầy lông lá nên được bạn bè đặt cho biệt hiệu là Grizzly Bear. Thằng Ben thân với hai đứa bạn cùng phòng khác là Tom, da trắng như con gái và Johnny, đen như cột nhà cháy. Johnny chạy như ngựa nên bạn bè đặt tên là Crazy Horse. Tom thì cao nhòng, Tuấn gọi là Tom Kều.

    Phố Providence người đông, sinh hoạt tấp nập. Thành phố thật sạch, đẹp và đầy lá vàng. Mùa Thu đến mang theo những chiếc lá vàng nhiều màu, đỏ, cam khô rụng tơi tả trên đường. Đồi núi được tô điểm bằng đủ màu sặc sỡ. Cả bọn đi ăn, thăm thắng cảnh, thăm các công viên rực rỡ màu lá úa. Lá vàng run rẩy trên cây, lá vàng xào xạc dưới đất, lá vàng chao lượn trong không khí sau những cơn gió mạnh thổi qua, lá vàng bồng bềnh trên mặt nước hồ thu lạnh. Nhìn những cặp uyên ương ngồi trên ghế đá công viên, dựa vai nhau thủ thỉ, Tuấn thầm nhớ đến Tâm. Nàng vẫn hàng ngày đơn lẻ đi về trên lối xưa kỷ niệm mà nhớ người phương xa? Hay một thời yêu thương đang bị mưa nắng thời gian âm thầm xóa mờ vết tích? Dạo này giao mùa, tiết trời trở lạnh nên có lẽ thời gian quay chậm lại, và nỗi cô đơn càng thêm gặm nhấm hồn chàng. Mùa ở đây phân biệt rõ rệt chứ không chỉ có hai mùa mưa, nắng như ở Việt Nam. Dù vậy, mùa Đà Lạt cũng tương đối rõ ràng. Mùa Thu Đà Lạt cũng gây thơ, vài loại cây lá cũng úa vàng phảng phất nét buồn như ở xứ này. Tom ngẫu hứng, hát nhỏ:

    The falling leaves drift by the window.
    The Autumn leaves of red and gold.

    Johnny mơ màng, lẩm bẩm:
    -Poetic inspiration!
    Tuấn đồng ý với nó vì mùa Thu nơi đây thật đẹp. Mùa Thu cũng đẹp như mùa Xuân vậy. Mùa Xuân thì có đủ loại hoa đua nhau phô sắc. Mùa Thu thì đủ loại lá hẹn lúc đổi màu.

    Ba giờ chiều, cả bọn ghé vào một khu vực ăn chơi, giải trí thật nhộn nhịp. Phố xá hai bên đường được trang trí mỹ thuật với đèn màu chớp nháy, di động quanh những hình ảnh Vệ Nữ lõa lồ như khiêu khích, mời mọc người qua lại. Một khung trời trụy lạc, khêu gợi sự ham muốn đang bày ra trước mắt bọn Tuấn. Johnny làm bộ nghiêm trang, nhìn Tuấn lắc nhẹ đầu trêu cợt, giơ ngón tay trỏ trước mặt nó lắc qua lắc lại ra dấu cấm đoán. Tom Kều nhìn chàng nheo mắt, suýt xoa, chặc lưỡi mấy lần. Ben Gấu chẳng nói chẳng rằng, cười tủm tỉm, dẫn đầu cả bọn vào xem phim khỏa thân. Xem xong, đứa nào đứa nấy đầu óc bị "tẩu hỏa nhập ma," đi đứng có vẻ bất bình thường.

    Trời sắp tối, cả bọn lạc vào một khu phố hẻo lánh, thưa người gồm đa số dân da màu cư ngụ. Những đôi mắt hiếu kỳ, qua khung cửa sổ, nhìn bọn chàng lom lom. Mấy thằng bạn Mỹ cũng nơm nớp. Ben Gấu bảo:
    -Watch out! It's not safe here. We should get out quickly!
    Johnny trấn an:
    -Calm down, men! Your Johnny's still alive. Don't worry!

    Tuấn và Tom đang nhướng mắt kiếm tên đường phố, thì một bóng đen đã xuất hiện từ trong ngõ hẻm chận đầu. Tom kéo tay Tuấn lùi lại. Ben Gấu dang cánh tay vạm vỡ gạt Tuấn và Tom về sau. Johnny sát cánh với Ben. Thấy tình thế có vẻ căng thẳng, Tom Kều khệnh khạng thủ thế, Tuấn cũng nắm chặt hai nắm tay sẵn sàng. Trong hẻm lại xuất hiện thêm ba tên đen và một tên da trắng. Bọn chúng trông dữ tợn, quần jean rách rưới bẩn thỉu. Hai đứa trong bọn chúng đầu bịt bằng chiếc khăn chéo hất ngược về sau. Một thằng đen to lớn, hình như đầu đảng, rút con dao bấm trong túi quần, bấm kêu cái cách, lưỡi dao bật ra sáng loáng xanh rờn dưới ánh điện, nó cất giọng ồm ồm:
    -Money. All of you!
    Ben Gấu trả lời:
    -We have no money. Spent it all.
    Johnny không muốn gây chuyện, thương nghị:
    -Don't do it man! We'll be out of here.
    Tên cầm con dao bấm, đảo cặp mắt trắng dã, lừ đừ tiến tới gần.
    Ben nói nhỏ với bọn Tuấn: "Leave it to me."
    Tuấn lùi lại phía sau Ben, cùng Johnny, Tom Kều đứng ngoài hỗ trợ, thủ thế đề phòng. Tên đầu đảng đổi tay cầm dao vài lần, rồi bất ngờ vung tay dao lên. Nhanh như cắt, Ben Gấu nhảy lùi lại một bước tránh thoát. Tuấn thấy an tâm hơn vì Ben Gấu tỏ vẻ rất điềm tĩnh và tránh né thật nhanh nhẹn. Cả bọn kia cũng đứng ngoài vòng đấu, chỉ theo dõi trận đánh mà không động thủ gì. Tên đầu đảng gườm gườm, lừa thế để tấn công tiếp. Lưỡi dao lại chém dứ qua. Ben né qua trái tránh dễ dàng. Không để Ben đứng vững, tên đen lại thốc ngược mũi dao vào bụng Ben. Ben chỉ chờ có thế, nó xoay người vung tay trái chặt xuống một cú karaté thần tốc làm con dao trên tay tên địch văng xuống đất, nắm tay phải của Ben cùng lúc vù đến trúng cằm tên đen đẩy hắn dội ngược về phía sau. Tên đầu đảng loạng choạng, chưa hết kinh ngạc với lối công nhanh như chớp của địch thủ cũng to lớn chẳng kém gì mình thì Ben đã nhập nội, chụp cánh tay cầm dao của tên đen bẻ quặt ra sau lưng, đẩy hắn quay ngược lại. Tên đen nhăn nhó tỏ vẻ đau đớn, cố vùng vẫy thoát thân, nhưng Ben đẩy mạnh cánh tay tên đen lên cao hơn, tay phải nhấn đầu vai hắn xuống khiến hắn đau quá cong người chịu trận. Cả bọn địch vờn vờn bên ngoài nhưng không tên nào dám xông vào trợ giúp vì sợ tên đầu đảng của chúng bị thương. Tiếng còi xe cảnh sát hú gần đây. Bọn du đãng càng nhớn nhác, nửa muốn liều xông vào cứu tên đầu đảng, nửa muốn tháo chạy. Không muốn gây thù thêm, Ben đá văng con dao bấm nằm cạnh chân chàng ra đường, nói như ra lệnh:
    -That's enough. Get lost!
    Tiếng còi xe cảnh sát càng gần thêm. Ben đẩy mạnh tên đen về phía trước. Tên đen chúi nhủi vào đồng bọn, nhưng gượng lại được. Cả bọn du đãng không ngó lại, kéo nhau chạy vào trong hẻm. Thằng Johnny đắc chí khen:
    -You're very good. Man! Your Kung-Fu is excellent.
    Tuấn và Tom mừng húm vì may mắn không có điều gì đáng tiếc xảy ra. Tom vỗ vai Ben cảm ơn, Tuấn nói:
    -Unbelievable!
    Ben ngỏn ngoẻn:
    -I've made good use of my black belt karaté.
    Bọn Tuấn vội quay ngược trở lại hướng vừa đến, bước như chạy ra khỏi khu mất an ninh này, vừa lúc xe cảnh sát, theo sau là chiếc xe cứu thương vừa hụ còi vừa bật đèn chớp chớp chạy ngang qua con đường trước mặt, cách chỗ chạm trán một khu phố.

    Từ đó trở đi, Tuấn chừa không dám về quá tối nữa. Cũng từ đó trở đi, ngoài bạn đồng hương, Tuấn thân với bọn thằng Ben Gấu, Tom Kều và Johnny bên King Hall hơn. Nhiều tối thứ Sáu, trong bữa cơm, trên bàn ăn thường đốt đèn cầy cho ấm cúng, thằng Ben gọi vợ đem con trai đầu lòng vào ăn cơm chung với cả bọn. Ben đặt chiếc nôi nhỏ nhắn trên bàn ăn, nựng nịu con. Thằng bé mới hai tháng mà thật bụ bẫm, giống bố y hệt. Trông gia đình chúng nó thật hạnh phúc.

    Tuấn đã sống ở OCS một mùa Thu rồi. Ba tháng trời thật dài, nhưng nhức nhớ thương. Mùa Đông sắp đến. Tiết trời lạnh dần và trên không, từng đàn ngỗng trời bay theo hình chữ V, đang xuôi về hướng Nam để tránh tuyết. Thỉnh thoảng, tiếng ngỗng quang quác trên không trung gợi Tuấn nhớ quê hương vô cùng. Chàng vẫn nhận được thư Tâm đều đặn. Hôm nay, sau khi đi học về, Tuấn nhận được một bức điện tín. Đoán có gì bất thường, chàng vội vàng xé bức điện tín ra đọc:

    Người nhận:
    Tuấn Anh Phạm
    123 Nimitz Hall, OCS
    Newport, RI 12345

    Ba ốm nặng. Tâm phải về Sài Gòn. Báo tin anh sau.

    Người gửi là Tâm. Bức điện tín chuyển đi ngày hôm qua từ Sài Gòn.

    Tuấn về phòng, suy nghĩ liên miên. Ba của Tâm bệnh nặng? Chàng chưa hiểu rõ việc gì đang xẩy ra cho gia đình Tâm nên vừa lo lắng vừa sốt ruột vì chỉ có cách là đợi thư Tâm.

    Hơn hai tuần sau đó, chàng mới nhận được thư Tâm từ Việt Nam.

    Sài Gòn, Ngày Tháng Năm

    Anh thương yêu, Chắc anh đã biết chuyện buồn mà em đã báo cho anh và anh Hòa em bằng điện tín. Lúc đó, em cũng chẳng rõ về bệnh tình của ba em thế nào. Nhận được điện tín của Me là em hộc tốc trở về Sài Gòn kẻo không kịp nhìn thấy mặt ba em lần cuối.

    Ba đang làm việc tại sở làm, bưng chồng hồ sơ, nhẹ thôi, bỗng té xỉu, hôn mê không còn biết gì nữa. Nhân viên trong sở lập tức đưa ba em vào bệnh viện Grall ở đường Đồn Đất. Bác sĩ khám nghiệm xong, bảo rằng Ba bị đứt động mạch chính trong não, phải mổ gấp. Bệnh Viện Grall không đủ phương tiện tối tân mổ óc nên họ chuyển Ba sang Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, nhờ các bác sĩ quân đội Mỹ giúp. Cuộc giải phẫu óc thành công. Bác sĩ Mỹ bảo mặc dù đã chữa trị, và nằm trong phòng hồi sinh, nhưng tình trạng ba em rất nguy hiểm và chưa rõ ràng. Ba vẫn hôn mê suốt ngày đêm. Trong suốt một tuần lễ hôn mê, em, anh Hòa và Me đã luôn luôn ở bên cạnh, cầu khẩn Chúa và Đức Mẹ ban ơn cho ba em lành bệnh. Ba ngày nữa trôi qua, em và mẹ em gần tuyệt vọng thì bỗng nhiên tay ba em nhúc nhích làm em mừng quá. Me em hỏi chuyện thì Ba hiểu, chớp mắt nhè nhẹ. Bác sĩ hi vọng là Ba sẽ hồi phục và trở lại bình thường, vấn đề là thời gian thôi. Trong thời gian Ba nằm trong bệnh viện, ông bà Tường và anh Huyến cũng thường đến thăm, an ủi em và Me, cùng chăm sóc Ba. Em, anh Hòa và Me chỉ mừng chưa được một ngày thì tối khuya hôm đó, ba em lại hôn mê. Bác sĩ khám nghiệm và phát hiện máu lại đọng nhiều trong não bộ nên phải mổ lần thứ hai. Sau lần giải phẫu này, Ba có lẽ kiệt sức quá, nên hôm sau thì mất, không được thấy mặt vợ con lần cuối.

    Sau đám tang Ba, me em buồn quá, cứ khóc mãi. Em chẳng còn thiết gì nữa, vì Ba thương em nhất nhà. Sở dĩ Ba muốn em học về Kinh Doanh cũng là để sau này giúp Ba trông coi sổ sách và công việc làm ăn. Me cho em biết rằng trước khi bệnh xảy ra, ba em đã hứa hẹn sẽ thuyết phục để em chấp thuận lấy anh Huyến khi bố mẹ anh ấy đề cập đến chuyện hôn nhân lần nữa, viện lẽ anh Huyến cũng lớn tuổi rồi. Ông bà Tường muốn có cháu nội để nối giõi. Nghe chuyện ấy, em như người mất hồn. Em không nói gì cả. Từ chối thì Me và có lẽ linh hồn Ba cũng buồn. Nhận thì em không muốn, nên em đã lờ đi chưa trả lời. Em yêu anh và muốn đợi anh thôi. Anh Hòa không góp ý kiến nhiều, nhưng anh ấy khuyên em, nếu yêu ai thì nên lấy người đó.

    Em chưa nỡ nói rõ ý định của em thì me em phát ốm nặng. Me không muốn em xa nhà nữa. Me bảo rằng anh Hòa đã xa nhà rồi, me muốn em dời về Sài Gòn học để mẹ con gần nhau. Me em muốn em có nơi nương dựa, nên khuyên em bằng lòng lấy anh Huyến mãi. Em khổ tâm quá anh ơi! Em có nói chuyện của hai đứa mình với me em. Me bảo em nên thực tế vì trong tình cảnh này, anh Huyến mới là người có thể giúp đỡ và lo lắng cho tương lai em được. Lấy anh Huyến em sẽ được gần Me, sẽ có người giúp coi sóc công ty và me em được yên tâm. Anh Hòa sắp xong Cử Nhân nên không muốn bỏ học dở dang. Anh ấy định hoàn tất bằng Cao Học xong mới về nước. Anh biết em yêu anh. Em chỉ cần anh trong đời, nhưng em khó nghĩ là vì lo cho sức khỏe của Me nhất. Anh giúp em ý kiến, anh nhá. Em muốn đợi anh về rồi tính sau, còn mấy tháng hở anh? Anh đến ra mắt Me, em tin rằng khi nhìn chúng mình yêu nhau, muốn xây dựng với nhau thật sự, me em sẽ thông cảm, yên lòng hơn và sẽ cho phép chúng mình lấy nhau. Anh bằng lòng chứ? Em đợi anh về đấy. Yêu anh mãi mãi! Hôn anh,

    Băng Tâm

    Tuấn thẫn thờ. Không ngờ chuyện xảy ra nhanh như vậy. Tâm đang ở trong một thế kẹt. Tâm yêu chàng và chàng cũng yêu Tâm. Hai người yêu nhau thì lấy nhau. Chuyện đơn giản! Nhưng rồi sau đó thế nào? Tâm có được gần mẹ nàng không hay phải theo chồng bôn ba? Ai coi sóc công ty của ba nàng? Mẹ nàng sẽ buồn khổ vì xa con cái, vì chồng mất, vì cô độc, vì mang món nợ tình nghĩa không trả được. Tâm chưa chắc đã hạnh phúc khi lấy chàng vì mang bao nhiêu dằn vặt trong lòng. Tuấn thì thế nào? Cuộc đời bất định của một chàng lính biển. Tâm ơi! Anh cũng khó xử như em vậy.

    Nhận được thư Tâm đã gần một tuần mà chàng vẫn chưa trả lời nàng. Tuấn đã mất ngủ suốt tuần lễ đó. Đầu óc chàng lúc thì trống rỗng lúc thì đầy ắp mối lo nghĩ nên chẳng còn chỗ để chứa bài vở, công thức nữa. Tuấn yêu Tâm nhưng chàng không muốn ích kỷ. Mẹ nàng có lý khi khuyên Tâm lấy Huyến. Có lẽ đó là giải pháp tốt nhất cho trường hợp của Tâm. Tuấn hiểu vậy nhưng cảm thấy sót xa khi nghĩ mình phải xa Tâm. Tuấn mấy lần viết cho nàng, rồi lại xé thư đi. Tuấn không muốn mất nguồn hạnh phúc chàng mới tìm gặp. Đó là hạnh phúc, là tình yêu đầu đời của chàng. Tâm là những gì quý nhất mà chàng đang có. Tuấn cần tình yêu của nàng trên bước hải hồ đầy sóng gió này. Tuấn cần nàng an ủi, khích lệ những lúc tinh thần chàng sa sút. Tuấn cần Tâm để những lúc bị đời chà đạp, bầm dập còn có cái phao mà bám víu, có chỗ vịn mà gượng dậy, có lý tưởng mà theo đuổi. Tâm em! Tình yêu em đã mang đến cho anh niềm hi vọng vào một tương lai tươi đẹp, những giòng chữ thương yêu đã an ủi, khích lệ anh rất nhiều trong khi mưu tìm hạnh phúc chung đó. Phương này, anh không hiểu rõ hoàn cảnh thật sự của em ra sao và khi trở về phục vụ quê hương, anh cũng chưa biết tương lai sẽ thế nào nên anh không dám khuyên em điều gì cụ thể. Điều khó xử là một khi chúng mình quyết định đến với nhau, trái với lời hứa hẹn của ba em trước khi mất, sẽ làm sứt mẻ tình cảm gia đình không ít. Ngược lại, anh sẽ mất em và đời anh còn có nghĩa gì nữa?

    Những ngày kế tiếp đã trôi qua thật nặng nề, kéo lê nỗi suy tư, buồn bã trong lòng Tuấn. Tuấn không tâm sự cùng ai được càng làm chàng sống khép kín với nội tâm hơn. Trong lớp học, nhiều lúc chàng lơ đãng để hồn bay ra ngoài cửa sổ tới vùng núi đồi thung lũng xa xa, hoặc dõi mắt theo những đám mây trắng lang thang trôi trên nền trời xanh lơ vô tận. Những giờ học qua thật chậm chạp và buồn chán. Hết giờ học, đếm nhịp cho toán sinh viên đều bước trở về dorm, chàng thẫn thờ chứ không còn hứng thú và hăng hái như xưa. Nhiều đêm, Tuấn suy nghĩ miên man đến mất cả ngủ để rồi mắt mờ đỏ sọng buổi sáng, mặt mày đờ đẫn như người nghiện phiện buổi trưa. Đầu óc chàng rối chỉ và lòng chàng vò tơ, ngổn ngang trăm mối. Tuấn chẳng còn tha thiết gì nữa và đôi lúc muốn tung hê tất cả tương lai, mơ ước và trách nhiệm để trở về với Tâm. Một hôm, nhìn gương mặt đăm chiêu và hốc hác trong gương, Tuấn giật mình vì thấy chàng thay đổi nhanh quá, chả trách sao bạn bè thắc mắc về nét trầm tư mặc tưởng của chàng trong những ngày gần đây. Tuấn nhớ đến mẹ chàng, hằng đêm vẫn chờ mong ngày trở về của con mình mà cảm thấy ân hận. Tuấn nhủ thầm: Chuyện đâu vẫn còn đó, mình hãy tạm quên chuyện buồn này, để lo cho tương lai trước mặt và yên chí học hành đã. Hơn nữa, mình phải bàn luận kỹ càng với Tâm khi gặp lại nàng. Suy đi nghĩ lại, Tuấn càng buồn hơn vì thấy khó tìm được lối giải đáp ổn thỏa: Chàng và Tâm sẽ làm được gì? Nàng nỡ lòng quên lời hứa của ba nàng hay sao? Suy nghĩ mãi nhức cả đầu, Tuấn vào hồ bơi, bơi vài vòng cho nỗi buồn lắng xuống. Làn nước mát lạnh khiến tâm hồn chàng bình thản hơn.

    Cuối tuần đó, Tuấn quyết định viết cho Tâm những gì chàng nghĩ. Gửi thư xong mà lòng chàng ủ rũ, tâm trí rã rời. Hạnh phúc chàng mới có đó, lại mất ngay đó. Chàng lý tưởng quá hay chỉ quyết định một cách thực tế vì chàng yêu Tâm? Tuấn không muốn hi sinh tình yêu của mình, nhưng chàng đầu hàng nghịch cảnh một cách dễ dàng quá không? Tuấn vẫn tự hỏi lòng mình mà không trả lời thỏa đáng được. Thôi thì hãy phó mặc cho định mệnh!

    Tuấn đã nhận được thư của Tâm. Rồi một thư nữa. Thư thứ ba đến, chàng vẫn chưa trả lời. Tâm trách chàng phụ nàng. Em yêu! Hãy trách anh nhiều nữa đi. Hãy khóc cho đã nư cơn giận. Anh chẳng hề gian dối em điều gì. Anh dứt khoát như vậy chỉ vì anh quá yêu em đó thôi. Mặc dù anh có thể đợi ngày trở về, gặp lại em bàn chuyện một cách xây dựng với gia đình em xem sao. Nhưng rồi suy nghĩ mãi, anh thấy chúng mình khó thể quyết định khác hơn mà không làm sứt mẻ tình cảm gia đình. Nếu chấp nhận hoàn cảnh thì khoảng không gian đang ngăn cách giữa anh và em cũng như thời gian xa nhau hiện giờ, có lẽ thuận tiện nhất để chúng mình cố quên nhau mà ít đau khổ nhất. Anh đang cố quên để em yên lòng chấp nhận hạnh phúc em đang có, cho đẹp lòng mẹ em, cho hồn ba em vui. Em biết cố quên tức là còn quá nhớ, nhưng rồi thời gian sẽ làm anh nguôi ngoai và sẽ giúp em chấp nhận. Hãy trách anh xa mặt cách lòng nữa em nhá! Gần nhau trong tâm tưởng, dù một chiều, cũng là nguồn hạnh phúc đối với anh rồi. Những ấm nồng chúng mình san sẻ với nhau trong thời gian ở Đà Lạt chẳng khi nào phai nhạt trong anh. Anh muốn giữ mãi như nâng niu giữ quyển sách em tặng ngày nào, trang trọng như tình yêu đầu đời anh có.




    CHƯƠNG 9

    Hợp Tan



    Những tháng mùa Đông, bầu trời Newport mây xám giăng đầy, tuyết rơi ngập ngụa. Nhiều khi, những cành cây khẳng khiu gầy guộc bị phủ kín bởi một lớp tuyết trắng như bông gòn, có khi lại bọc một lớp đá trong suốt như pha-lê. Thỉnh thoảng, trận bão tuyết ở đâu kéo về trút lớp tuyết dầy mấy tấc trên mặt đất. Mọi vật bị phủ kín bởi màn tuyết trắng đục. Nhìn chung quanh, Tuấn thấy không gian mù mờ màu tuyết, khung cảnh yên lặng như một bức tranh tĩnh vật. Hàng thông xanh, giờ đây, nặng trĩu những mô tuyết đọng khiến cành lá oằn xuống như chỉ muốn gẫy, mái nhà dầy tộp lớp tuyết sốp làm ngôi nhà như lún xuống thấp hơn, và mặt biển cũng đóng băng phủ tuyết thành hình những đợt sóng xô vào bờ. Nếu không nhìn thấy những làn khói trắng bay lên từ ống khói lò sưởi và thỉnh thoảng cây cối không trở mình làm rụng rơi viền tuyết bám trên cành, Tuấn sẽ có cảm tưởng như thành phố đã ngưng hoạt động.

    Lần đầu tiên ngắm tuyết rơi loạn bên ngoài với những cánh hoa tuyết đủ dạng, hình lục giác, bát giác bay dính vào khung kính cửa sổ rồi tan nhanh, Tuấn thích thú vô cùng vì thấy cảnh tuyết rơi đẹp như tranh vẽ hoặc hình chụp trên những tấm thiệp Giáng Sinh. Nhưng rồi tuyết đọng trên mặt đất càng nhiều khiến cho sự chuyển dịch thêm khó khăn, người thêm tù túng. Những luồng heo may vi vút thổi khí lạnh từ vùng cực Bắc xuống làm nhức buốt thịt da. Khí trời lạnh giá nên Tuấn đi đâu cũng phải mặc áo khoác ngoài bằng dạ thật dầy mà vẫn không đủ ấm. Tháng đầu, chàng còn thấy tuyết đẹp, cảnh vật còn nên thơ. Những tháng kế tiếp, ngày hình như dài lê thê hơn, mùa Đông dường như bất tận.

    Khoảng gần cuối năm Âm Lịch, nữ ca sĩ Khánh Ly đã ghé thăm trường OCS và có trình diễn văn nghệ giúp vui trong nhà gym. Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn thì hết sẩy. Giọng ca khào khào, nhừa nhựa, tẩm á-phiện như ngày nào, dẫn đưa Tuấn trở về quê hương của những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 khi nhạc Trịnh Công Sơn đang thịnh hành khắp hang cùng ngõ hẻm ở miền Nam. Khánh Ly hát tình ca Trịnh Công Sơn cùng vài nhạc phẩm trong tuyển tập Ca Khúc Da Vàng mà Tuấn đã từng nghe trên bãi biển Nha Trang năm ngoái. Những bản nhạc này gợi lại trong lòng chàng quãng thời gian vừa rời ghế đại học để chập chững vào đời. Dù rằng, theo Tuấn, hầu hết nhạc phẩm trong tập Ca Khúc Da Vàng nói lên tâm trạng chung của người dân sống trong thời chiến, sự khốc liệt tàn bạo của chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài. Tuy thế, một số bài chứa rải rác nhiều câu đụng chạm đến chính trị, ngược lại đường lối tâm-lý-chiến chống Cộng, thiếu tinh thần trách nhiệm và có vẻ thiên tả. Tuấn không mấy thích loại nhạc du ca nhuốm mùi tiêu cực đó. Chiến tranh đau thương quá nên Tuấn đâm chán chường khi nghe mãi tiếng đại bác dội về thành phố, người chết hai lần hay xác người vùi dập khắp thôn quê, thành thị. Cách riêng, Tuấn rất thích những tình khúc không đượm mùi máu tanh, không gieo kinh hoàng chết chóc, không hình dung cảnh hoang tàn đổ nát mà ca tụng tình người và tình yêu muôn thuở. Cùng một cảm quan, Tâm cũng mê những tình khúc Ngô Thụy Miên và nhiều bản tình ca của Trịnh Công Sơn như chàng khiến cho dịp Khánh Ly đến trường OCS trở nên đặc biệt hơn đối với Tuấn. Lâu lắm mới gặp lại một cô gái Việt Nam duyên dáng trong chiếc áo dài đỏ, hát những bản nhạc Việt chứa chan kỷ niệm, Tuấn thích thú và cảm thấy nhớ quê hương, nhớ Tâm vô cùng.

    Một hôm, đi học về dorm, chưa kịp thay quần áo, Tuấn đã nghe tiếng kèn saxophone ré lên văng vẳng từ giãy hành lang bên cánh phải: bản Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn mà chàng thích từ lâu. Tiếng kèn còn non nớt, thỉnh thoảng lại lạc điệu, nhưng từ đó trở đi, tạo được một sắc thái đặc thù tại Nimitz Hall. Tiếng kèn saxophone alto hằng đêm quyện theo niềm thương nhớ người yêu của Tuấn: Hạ Trắng dâng nỗi nhớ lên cao như nắng gió cao nguyên tung bay tà áo, Lời Buồn Thánh thổi nỗi buồn da diết vào căn gác vắng, Rồi Như Đá Ngây Ngô gợi cảm giác ngậm ngùi khi nhìn nắng vàng rơi trên mái hiên hay Như Cánh Vạc Bay khơi sâu niềm tiếc nuối. Theo thời gian, tiếng kèn saxo của Lưu càng ngày càng nhuyễn hơn, cùng với nỗi nhớ thương người yêu mỗi đêm thêm chín mùi trong lòng Tuấn. Nhiều đêm nhớ quê hương, nhớ người yêu, Tuấn cảm thấy tiếng kèn tự nhiên nghe ngọt hơn, điêu luyện hơn, nức nở hơn, ray rứt hơn. Âm hưởng của những bản tình ca thân yêu cũ như vẫn còn vương vất đâu đây khiến Tuấn ngây ngô nhớ đến Tâm và những ngày hạnh phúc đã qua.

    Sau này có dịp bàn về nhạc lý với Lưu Saxo, anh bạn sinh viên cùng khóa, Tuấn mới biết anh là một người trầm lặng, ít hòa đồng, hình như tu-xuất thì phải. Chàng khám phá thêm rằng Lưu say mê âm nhạc, nghệ thuật và chán ngán chiến tranh. Tư tưởng Lưu bị ảnh hưởng không ít bởi triết-lý Jean Paul Sartre và loại nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn. Những ngày nghỉ, Lưu thường xách giá vẽ ra bờ biển sau trường, ngồi phác họa nhiều bức tranh tuyệt mỹ. Đặc biệt, Lưu thích bản Hạ Trắng, Diễm Xưa và giọng kèn ngọt như mía lùi của Trần Vĩnh nên đã tốn mấy trăm bạc vác cây kèn về, phùng mang trợn mắt tập dượt mỗi đêm.

    Thấm thoát mà gần nửa năm đã trôi qua. Những ngày tuyết giá cũng đã thưa dần. Những cơn bão tuyết sầm sập đổ màn tuyết trắng phau phủ khắp núi đồi muôn vật đã lùi xa, nhường chỗ cho ánh nắng vàng tươi rực rỡ và không khí ấm áp đang đánh thức những búp hoa lá non, những chồi lộc xanh, thảm cỏ tươi và cả muông thú sau giấc ngủ vùi suốt mùa Đông lạnh cóng. Tuấn nhớ rất rõ cảm tưởng mới mẻ của chàng khi một sáng sớm thức dậy nghe tiếng chim hót líu lo bên ngoài, ánh nắng mới xuyên qua mành cửa sổ phòng ngủ làm mọi đồ vật trong phòng sáng lóe lên màu nắng vàng sau những tháng ngày xanh xao vì phản chiếu màu tuyết. Mùa Xuân đã đến và nắng ấm đã về trong bầu trời cao rộng khiến tâm hồn Tuấn chợt thênh thang bao la hơn. Tuấn cảm thấy tinh thần sảng khoái, hân hoan khi nhìn đất trời muôn loài, muôn vật đổi mới với hoa lá đủ loại nở rộ thắm tươi, với cây cỏ xanh mướt như nhung, với tiếng chim ca hót líu lo trên cành. Trên sân cỏ rộng lớn trước trường, hoa dandelion trải thảm màu vàng tuyệt đẹp khiến Tuấn chạnh nhớ đến mùa Xuân Đà Lạt với hoa lá dại và khôn cũng đua nhau khoe sắc. Chàng trầm trồ: Sao cỏ bên này cũng đẹp thế! Nhưng sau đó không lâu, những túm bông trắng dính với hạt hoa màu đen nhỏ li-ti tung bay như những cánh dù theo gió chao lượn trong không gian, để lại bên dưới những cọng hoa xơ xác, trơ-vơ làm chàng buồn man mác.

    Xuân qua, Hè lại đến. Bộ quân phục màu xanh nước biển đậm và casket trắng được thay thế bằng bộ ka-ki vàng mùa Hè. Vào dịp cuối tuần, những tấm thân bóng lưỡng, gân guốc, màu nâu sạm nắng, nằm hong nắng hong gió trên những tấm khăn tắm sặc sỡ trải kín thảm cỏ cạnh bờ biển đằng sau trường. Ngoài hải cảng Newport, nắng ấm gọi mời những cánh buồm say gió lướt nhanh trên mặt nước màu hồ thủy, làm lu mờ cả hình ảnh cây cầu cao chót vót, thật dài bắc ngang qua vịnh Naragansette phía sau. Tuấn nhìn qua bên phải, chiếc hàng không mẫu hạm đơn độc lừ đừ tiến ngoài khơi, trông như một thành phố nhỏ màu lam nhạt vì tắm nắng hè. Đài chỉ huy bên hữu hạm vươn trên cao với những cột ăng-ten ngang dọc và đĩa radar quét từng vòng chậm rãi. Trên sàn chính, những chiếc phản lực cánh xếp, nằm sát nhau thành hình xeo xéo, mũi phi cơ hướng ra ngoài. Cảnh vật trông như một bức tranh thật linh động. Tuấn nâng chiếc máy Canon bấm vài tấm hình kỷ niệm.

    Thỉnh thoảng, vài con hải âu đậu trên mỏm đá gần đó kêu nho nhỏ gọi đàn đang bay lượn trên cao nhắc Tuấn đến thời gian mới nhập học, mới biết yêu, thế mà chỉ chưa đầy năm, tình yêu đầu của chàng nay đã trở thành bọt bèo. Thời gian trôi qua như một giấc mơ, và cánh chim biển nhỏ bé kia vẫn cô đơn dù sắp sửa tung cánh bay vào vùng bão loạn.

    Ngày Mãn Khóa đã đến. Sáng sớm, tất cả khóa sinh toàn trường xếp thành hàng ngũ chỉnh tề trên sân cỏ Vũ-Đình-Trường rộng lớn trước mặt tiền của trường. Ban quân nhạc với nhạc cụ sáng bóng phản chiếu ánh nắng ban mai đang tấu những bản nhạc hùng. Nhìn ra sân Vũ-Đình-Trường, Tuấn thấy rợp màu trắng như tuyết của quân phục đại lễ hải quân. Toàn thể khóa sinh và quan khách trên khán đài đứng trong tư thế nghiêm khi đón Tổng Thống Nixon, vị Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đến bằng chiếc máy bay trực thăng đậu trên bãi cỏ trước trường. Tổng thống cùng nhân viên tháp tùng được hướng dẫn đến an-tọa tại vị-trí danh dự nhất trên khán đài. Quan khách trên khán đài, ngồi trên ghế kê trên bục gỗ tam cấp, gồm viên chức cao cấp trong chính phủ, ban giảng huấn, thân nhân và bạn bè các sinh viên sĩ quan tốt nghiệp. Sau phần lễ nghi theo truyền thống OCS trong đó có phần trình diện các tân-sĩ-quan lên sĩ quan cao cấp đại diện hải quân và vị Tổng-Tư-Lệnh, phần duyệt binh, và phần diễn hành của toàn thể khóa sinh đang thụ huấn tại đây. Cuối cùng là huấn dụ cho các tân-sĩ-quan ra trường và lãnh bằng tốt nghiệp cùng nhận phù-hiệu hải quân chuẩn úy trên cầu vai. Buổi Lễ Mãn Khóa được kết thúc bằng cảnh tung những chiếc casket trắng lên trời tượng trưng cho sự khởi đầu kiếp sống hải hồ, phục vụ cho quốc gia dân tộc. Khóa Tuấn học có khoảng hơn chục nữ sinh viên sĩ quan hải quân và con rể của Tổng Thống Nixon, do đó Lễ Mãn Khóa có phần đặc biệt hơn chăng?

    Khóa Hải Quân OCS, Chương Trình Quốc Tế đã tổ chức phát bằng riêng trong nhà gym với mọi thủ tục truyền thống. Thế là sau những tháng ngày học tập cực khổ, liên lủy, Tuấn đã tốt nghiệp tại OCS. Tuy nhiên, bọn chàng phải về California theo học một khóa Hành Quân Sông Ngòi và Sình Lầy trước khi chính thức xong hẳn Chương Trình OCS và trở về quê hương.

    Bọn thằng Ben, Tom và Johnny cùng gia đình chúng nó mời Tuấn ăn cơm trưa tại một nhà hàng Ý ngoài phố Middletown trước khi từ giã. Bọn Tuấn vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ. Đứa con của Ben giờ không nằm lọt chiếc nôi nữa, nên vợ chồng chúng nó thay phiên nhau bế ẵm. Con Lisa, em gái của Johnny đang học trung học, trong lúc ăn cứ nhìn Tuấn đăm đăm. Lisa không đen như anh nó mà có nước da nhờ nhờ, hàm răng đều trắng bóc và gương mặt có duyên. Tuấn cũng gợi chuyện xã giao. Lisa cười tươi:
    -Where are you from?
    Tuấn đáp:
    -Vietnam.
    -North Vietnam or South Vietnam? They're two different countries, aren't they?
    -Same country, Vietnam, but it was divided into two parts after the Geneva Peace Agreement in 1954. I am from the South, but my parents moved to the South from the North because they wanted freedom.
    Mọi người nhìn Tuấn. Bố thằng Tom bảo:
    -I've thought that Vietnamese look like Philipino or Chinese before, but you don't. You look more like an Italian.
    Tuấn hơi ngượng:
    -All Vietnamese, northerners or southerners look like...me.
    Tom chen vào:
    -How do you tell the difference between an ARVN and a VC, Tuấn?
    -No way, Tom. Perhaps, by the uniform he wears or a weapon he carries.
    Johnny nói:
    -If we can't tell who our enemies are, how can we fight them and win that war?
    Tuấn lắc nhẹ đầu, nhìn Johnny:
    -It's not easy, Johnny.
    Johnny có vẻ quan tâm vì nó sẽ phục vụ trên một chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội đang hoạt động trong vùng Biển Đông Hải, nên hỏi Tuấn nhiều điều về chiến tranh Việt Nam. Tuấn đã cố gắng dùng vốn sinh ngữ hạn hẹp của mình giải thích cho mọi người hiểu về cuộc chiến đang diễn ra trên quê hương chàng, về tham vọng chinh phục miền Nam của Cộng Sản và nỗ lực của chính phủ miền Nam và các nước đồng minh tham chiến nhằm chận đứng sự bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản trên thế giới.

    Trong ba đứa nó, thằng Ben Gấu an nhàn hơn cả vì được nhận làm Physical Conditioning Coach cho đội football của trường Sĩ Quan Hải Quân Anapolis vào đầu khóa mùa Thu tới. Tom Kều cũng rất vui vì sẽ được phục vụ trên chiếc coastguard, căn cứ đóng ở San Diego gần gia đình nó.

    Lúc chia tay, mọi người bắt tay Tuấn. Con Lisa và vợ thằng Ben hôn phớt má Tuấn làm chàng đỏ mặt. Tuấn nắm mấy ngón tay mũm mĩm của con thằng Ben, rồi cùng bọn thằng Ben siết tay nhau bùi ngùi. Chúng nó nhắc lại lần đụng độ với bọn du đãng ở Providence với nhiều sảng khoái cùng chúc Tuấn những lời tốt đẹp nhất và hẹn ngày tái ngộ.
    Johnny vừa lắc tay Tuấn vừa nói:
    -We might run into each other on the South China Sea someday.
    Tuấn nhìn Johnny cười:
    -Hopefully! I will show you my beloved country stretching from Nam Quan to Cà Mâu.

    Buổi chiều thật rảnh rỗi, sau khi ăn trưa với bọn thằng Ben và gia đình chúng nó về, Tuấn quanh quẩn khắp nơi trong trường. Chàng cố thu lại tất cả hình ảnh về ngôi trường đã cho chàng bao nhiêu kỷ niệm khó quên trước khi rời xa nó. Ngôi trường không giống như bất cứ ngôi trường nào Tuấn đã theo học từ trước tới giờ. Ngôi trường không có bóng phượng hồng rực nắng, không có hoa mimosa vàng tươi, không có hàng khuynh diệp thơm mùi dầu gió, nhưng đã chiếm một chỗ thân yêu đặc biệt trong góc tim chàng. Tuấn sẽ được trở về quê hương sau gần năm trời xa cách. Chàng sắp được gặp lại những người thân yêu và bạn hữu. Dù cố quên Tâm, nhưng sao mỗi lần nghĩ tới ngày về, gặp lại Tâm chàng thấy lòng nôn nao. Sau nhiều biến cố xảy đến cho gia đình nàng, Tâm bây giờ ra sao?

    Cuối cùng, Tuấn trở về dorm. Đùa giỡn với bạn bè một lát, Tuấn cũng vui lây với niềm vui thể hiện trên những khuôn mặt hân hoan, trong giọng cười giòn dã của chúng bạn. Bạn bè cùng khóa đang sửa soạn hành trang rời trường, Tuấn chưa muốn làm chuyện đó vội nên lại ra ngoài, dạo một vòng. Cây phong cạnh cửa dorm mùa Thu trước lá vàng ối, mùa Đông vừa qua cành khẳng khiu trơ trụi, nay đã trở nên xanh um. Cơn gió biển thổi luồng khí mát rượi vào mặt chàng làm cành lá phong nhún nhảy xao xác. Những quả phong hình cánh chuồn lìa cành, xoay xoay trong không khí trước khi rơi xuống thảm cỏ khiến chàng liên tưởng đến sự chia ly sắp tới. Tuấn thấy hơi buồn vì suốt thời gian học ở California, chàng sẽ không còn được nghe tiếng kèn saxophone của Lưu nữa. Trong lần đi bờ trước tuần lễ mãn khóa, Lưu đã bỏ trường, bỏ đồng bạn, trốn ở lại đất Mỹ.

    Một ngày sau khi mãn khóa OCS, bọn Tuấn đáp phi cơ về California theo học tại Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Sông Ngòi và Sình Lầy ở Mare Island, Vallejo. Cũng giống như hầu hết các trung tâm huấn luyện khác, những hoạt động của bọn Tuấn tại đây cũng gồm những phần thể dục đào luyện sức khỏe và khả năng chịu đựng, tới lớp học thu thập những chiến thuật, nguyên tắc, kỹ thuật căn bản cần thiết, ăn uống, đi bờ, v.v. Điểm đặc biệt trong chương trình này là bọn Tuấn có dịp áp dụng ngay những lý thuyết và kinh nghiệm chiến trường vừa học được cho những cuộc hành quân thủy bộ giống như trong vùng sông ngòi chằng chịt của miền Nam Việt Nam.

    Để phù hợp với địa hình sông rạch ở những vùng U Minh, Cà Mâu, bọn Tuấn đã được đưa tới thực tập tại vùng Alpha Delta. Tại đây, bãi tập được phân chia làm hai căn cứ: địch và ta. Một mặt, bọn Tuấn phải học phòng thủ căn cứ, ngăn chặn địch tấn công và mặt khác, mở những cuộc hành quân truy lùng địch. Lính Mỹ cải trang thành Việt Cộng, bôi mặt mũi đen thui, mặc quần áo bà ba đen, ban đêm bò qua hào vào cắt giây kẽm gai, tấn công căn cứ. Tuấn phải phân chia trách nhiệm và bổn phận cho khóa sinh thuộc trung đội của mình trực gác trên chòi cao, giữ ụ đại liên, tuần tiễu doanh trại, kiểm soát an ninh, v.v. Về mặt hành quân truy lùng địch, bọn Tuấn phải soạn thảo kế hoạch hành quân, tổ chức lực lượng, họp và ban lệnh hành quân trong đó nhiệm vụ được qui-định rõ ràng cho từng tiểu đội.

    Trong khi hành quân, bọn Tuấn được chia thành nhiều toán bố trí trên những chiếc Giang Tốc Đỉnh PBR. Ba giờ sáng, bọn Tuấn đã trở dậy, ba-lô nón sắt, súng đạn lên đường. Chiếc PBR do Tuấn chỉ huy chạy vòng vèo trong vùng sông rạch đến điểm hẹn ấn định trong lệnh hành quân. Trời vừa tờ mờ sáng, chiếc PBR của bọn Tuấn mới đến vị trí ủi bãi. Chưa kịp đổ bộ thì địch đã từ dưới sình, dưới ruộng khai hỏa, tấn công tới tấp bằng tiểu liên AK, đại liên và lựu đạn. Bị phục kích bất ngờ, bọn Tuấn đã quính quáng, hàng ngũ rối loạn và thần kinh Tuấn như tê liệt đi chẳng biết phản ứng ra sao. Sau vài phút đầu kinh hoàng, bọn Tuấn mới lấy lại được bình tĩnh, phản công địch. Trong thực tế, vị hạ-sĩ-quan huấn-luyện-viên cho biết, bọn chàng có thể đã bị loại ra khỏi vòng chiến ngay từ phút đầu tiên vì thiếu cảnh giác, không thông thạo địa hình, thiếu kinh nghiệm chiến đấu và quên một chiến thuật du-kích-chiến căn bản là địch lợi dụng tối đa địa hình để đánh mạnh, rút nhanh. Tuấn hiểu thêm nhiều hơn về khả năng tác chiến, tinh thần đồng đội cùng cảnh giác cao độ về những hoạt động của địch, biết mình, biết người thì trăm trận, trăm thắng. Đây chỉ là một cuộc thực tập tương tự như phần nhỏ cuộc chiến thực sự đang diễn ra trên đất nước mình, nhưng Tuấn nhận thức rằng những kinh nghiệm hành quân trong vùng sình lầy và sông ngòi học hỏi được tại đây rất thực tiễn và quý báu cho chàng sau khi về nước.

    Trong những ngày nghỉ ở California, Tuấn đã thăm viếng chiếc cầu treo nổi tiếng Golden Gate Bridge cùng Phố Tàu China Town ở Cựu Kim Sơn. China Town cũng tương tự như Chợ Lớn. Tại đây, Hoa Kiều bán đủ thứ hàng hóa, thực phẩm Á Đông từ cơm Tàu, hàng xén, cho tới những loại trái cây nhiệt đới y như ở quê nhà như xoài, nhãn, ổi, chôm chôm, mít, mãng cầu, v.v. Đi trong Phố Tàu, Tuấn cảm thấy gần gũi với khung cảnh chung quanh, với ngôn ngữ và lối sống của Hoa Kiều hơn là lạc lõng trong phố Mỹ. Golden Gate Bridge là chiếc cầu treo một nhịp dài nhất thế giới, một công trình kiến trúc nổi tiếng gồm sáu lanes, xe cộ chạy hai chiều, bắc ngang qua eo biển Cựu Kim Sơn. Cầu này được treo bằng hai sợi giây cáp khổng lồ, thõng xuống từ trên đỉnh hai cột cầu cao chót vót. Hoàng hôn trên Golden Gate Bridge thật nên thơ. Đứng cạnh tượng ông kỹ-sư xây cầu, ngắm nhìn đồi núi mờ mờ bên kia bờ, vài chiếc thuyền trắng lừ đừ trôi trên mặt nước xanh bên dưới chiếc cầu cong, Tuấn chạnh lòng nhớ tới hai câu thơ của Thôi Hộ:

    Nhật mộ hương quan hà xứ thị
    Yên ba giang thượng xử nhân sầu

    Lưu lạc trên xứ người đã lâu, Tuấn thấm thía tâm sự của Thôi Hộ trong hai câu thơ đó lắm. Nhất là nơi quê nhà lại có dáng dấp Tâm hiện diện trong khung cảnh thơ mộng Đà Lạt, trên mặt hồ nước rộng, với nắng chan hòa, với gió se da và nụ hôn đầu đắm đuối. Thêm vào đấy, khí hậu ấm áp của tiểu bang California với những buổi nắng sớm, mưa chiều khiến Tuấn càng nhớ đến Sài Gòn, thành phố có con đường Yên Đổ với hàng cây rợp bóng, đâu đó tọa lạc ngôi nhà của người chàng yêu thương. Tình quê hương sao lai láng quá!

  4. #4
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    CHƯƠNG 10



    Giang Đoàn Trục Lôi



    Tuấn về nước gần cuối năm 1971, chọn đơn vị phục vụ là Giang Đoàn 91 Trục Lôi. Căn cứ hiện thời của đơn vị nằm cạnh Sở Hàng Hà bên Thị Nghè. Giang đoàn này nghe tên thì có vẻ nguy hiểm ghê gớm lắm, nhưng thật ra là một đơn vị bán tác chiến. Tuấn đến trình diện đơn vị mới vào một buổi sáng mùa Thu. Nhìn vài giãy doanh trại nhỏ xíu tọa lạc ngay ven sông, san sát những bụi dừa nước thấp và cầu cập tàu là những pontoon sắt ghép lại, Tuấn hơi thất vọng. Chàng đã chọn một đơn vị giang đoàn tại ngay Sài Gòn với mục đích có thời gian làm quen với đời lính và ổn định lại cuộc sống cá nhân của mình. Hơn nữa, chàng không muốn chọn một đơn vị tác chiến khi chưa có chút gì về kinh nghiệm chiến đấu, hoặc mới ra trường đã mút mùa lênh đênh theo những chuyến tuần dương dài hạn. Tuấn chỉ đợi khoảng mươi phút thì người hạ-sĩ Bí Thư ốm tong ra mời vào trình diện vị Chỉ-Huy-Trưởng của đơn vị. Tuấn sửa lại bộ tiểu-lễ trắng cho chỉnh tề, đội mũ casket ngay ngắn lại, rồi bước vào văn phòng, giơ tay lên chào theo lễ nghi quân cách, xưng tên tuổi và số quân. Ông Thiếu-Tá Chỉ-Huy-Trưởng chào lại rồi ngước nhìn Tuấn từ đầu đến chân, hỏi vài câu chuyện xã giao, sau đó ông đưa Tuấn qua giới thiệu với vị Đại-Úy Chỉ-Huy-Phó. Chỉ-Huy-Phó cũng có gia đình ở Đà Lạt, nên câu chuyện trở nên thân quen với đề tài xoay quanh thành phố đó. Chỉ-Huy-Phó dẫn Tuấn đi thăm doanh trại, giới thiệu chàng với vài sĩ-quan, hạ-sĩ-quan và nhân viên chính yếu của đơn vị. Ban đầu, Tuấn còn xa lạ với nếp sống cùng sinh hoạt trong đơn vị, nhưng chỉ vài ngày sau, chàng điều chỉnh lối sống của mình để phù hợp với công việc một cách thật nhanh chóng và dễ dàng.

    Tuấn được chỉ định đảm nhận chức vụ một trong bốn Phân-Đoàn-Trưởng, coi sóc một phân đoàn trục-lôi-đỉnh gồm 6 chiếc tàu sắt rà mìn. Công tác thường nhật của Tuấn là trông coi cho thủy-thủ-đoàn của mình bảo trì tàu bè, chăm sóc tinh thần kỷ luật và nhận công tác rà mìn với các sĩ quan khác. Nhiệm vụ chính của đơn vị là rà mìn Sông Lòng Tào, Sông Soài Rạp và Sông Đồng Nai để bảo đảm sự an toàn cho tàu buôn và các chiến hạm hải quân di chuyển trên các thủy trình này từ Vũng Tàu vào Sài Gòn hoặc lên Biên Hòa. Ngoài nhiệm vụ rà mìn, giang đoàn còn được xử dụng rà mìn hộ tống các xà lan chở bom đạn từ Kho Đạn Thành Tuy Hạ lên Biên Hòa cùng tham dự trong những cuộc hành quân hỗn hợp với các thành phần Hải, Lục, Không Quân ở khắp nơi nếu cần.

    Trục-lôi-đỉnh có hai loại: tàu gỗ được chế tạo đặc biệt để rà mìn, hoặc loại tiểu đĩnh đổ bộ LCM bằng sắt được biến cải thành. Trong công tác rà mìn tiêu biểu, trục-lôi-đỉnh thường kéo theo đằng sau một cặp xích mà những mắt xích được hàn với ngạnh thép thành hình xương cá. Một đầu xích rà mìn được buộc vào giây cáp và gắn vào một cái phao hình con cá, trên lưng cắm cờ đỏ. Khi rà mìn, nhân viên quay trục cáp, thả phao và giây cáp gắn xích rà mìn xuống sát lòng sông rồi kéo theo tàu. Xích rà mìn sẽ cắt đứt giây điện nối từ quả mìn neo ngoài sông và bộ phận kích hỏa trên bờ. Hai tàu rà mìn chạy song song sát bờ sông cũng kéo giây cáp gắn tấm lưới đan bằng sợi fiber giăng ngang qua sông để rà những quả thủy lôi thả trôi hoặc neo tại vị trí cố định trên sông. Công tác rà mìn thường nhật chỉ đơn giản như vậy. Tuy nhiên, trong những chuyến công tác rà mìn hộ tống các xà lan chở bom và đạn dược từ Kho Đạn Thành Tuy Hạ lên Biên Hòa theo Sông Đồng Nai, công tác được hoạch định qui-mô hơn với sự phối-hợp của giang đoàn Tuần Thám hộ tống và các đơn vị Địa Phương Quân án ngữ hai bên bờ sông trong suốt thủy trình đi qua. Một sĩ quan thâm niên, thường là Chỉ-Huy-Trưởng hoặc Chỉ-Huy-Phó của giang đoàn tham dự, luân phiên nhau chỉ huy lực lượng phối hợp. Trong trường hợp đó, lực lượng gồm 3 cặp trục-lôi-đỉnh rà mìn và 4, 5 cặp giang-tốc-đỉnh PBR hộ tống và yểm trợ cho những chiếc tàu dòng kéo theo sau hơn trăm thước giây cáp những xà-lan kết với nhau chở đầy bom đạn. Đội hình hộ tống cũng hơi thay đổi. Một cặp trục-lôi-đỉnh thả xích rà mìn đi tiên phong mở đường được yểm trợ bởi một cặp PBR, thành phần kế tiếp cũng tương tự như vậy. Cặp trục-lôi-đỉnh thứ ba thả lưới rà mìn cũng được yểm trợ bởi hai PBR. Một hoặc hai chiếc tàu dòng kéo nhiều xà lan chở bom đạn đi giữa đoàn, và cuối cùng là hai cặp PBR nữa đi đoạn hậu.

    Tuấn dùng số tiền dành dụm được sau chuyến du học, mua một chiếc xe Honda 50cc làm phương tiện di chuyển và ở tạm tại nhà ông bác họ gần ngã ba Trương Minh Giảng và Kỳ Đồng trong thời gian đầu phục vụ tại Giang Đoàn Trục Lôi. Tuấn thích hợp với không khí đại-gia-đình của đơn vị, trong đó, dù hệ thống quân giai và quân phong quân kỷ vẫn phải duy trì nhưng sĩ quan, hạ-sĩ-quan và nhân viên coi nhau như anh em cùng đối xử với nhau một cách thân tình. Điều Tuấn thích nữa là căn cứ đóng cạnh khu Thị Nghè đông dân cư và sinh hoạt phố phường cũng tương đối nhộn nhịp. Những ngày nghỉ, chàng chỉ phóng xe vài phút qua khỏi đoạn đường có hai giãy phố thấp thì đã đến cầu Thị Nghè và bên kia cầu là thành phố Sài Gòn hoa lệ. Dần dà, Tuấn trở nên quen thuộc với nhiệm vụ và bổn phận của mình cũng như thân thiết hơn với tất cả sĩ quan cùng nhân viên trong đơn vị. Chàng cảm thấy đời sống cũng như công tác tại đơn vị này rất thoải mái, chứng tỏ rằng sự chọn lựa đơn vị đầu tiên trong đời binh nghiệp của chàng là hợp lý.

    Về nước đã hơn một tháng rồi, Tuấn vẫn chần chừ, nửa muốn đến thăm Tâm, nửa lại không. Mặc dầu Tuấn nhớ nàng quay quắt và tò mò muốn biết đời sống mới của Tâm bây giờ ra sao, nhưng chàng cũng ngại gây xáo trộn cho đời nàng nên phân vân mãi. Cuối cùng, nhớ quá, chàng quyết định ghé tới tìm Tâm theo địa chỉ nàng đã cho năm ngoái. Tuấn dừng lại trước một ngôi nhà gạch, nhiều cây lá, trước nhà có cổng rào sắt. Tuấn hồi hộp bấm chuông. Một bà đứng tuổi, tóc vấn trần ra mở cổng:
    -Cậu tìm ai?
    Tuấn hỏi thăm:
    -Xin lỗi bà, đây có phải là nhà của cô Tâm không ạ?
    -Dạ phải, cô Tâm không có ở nhà.
    Tuấn mừng vì đến đúng nhà nhưng hơi thất vọng vì không gặp Tâm, chàng hỏi thêm:
    -Chừng nào thì cô Tâm về hả bà?
    -Khoảng năm giờ. Cậu muốn tìm cô Tâm có chuyện gì không? Có Bà tôi ở nhà.
    Tuấn bỗng thấy một bà tuổi trung niên, mặc bộ đồ màu mỡ gà mở hé cánh cửa hỏi vói ra:
    -Việc gì thế bà Năm? Bà Năm ngoái cổ lại trả lời:
    -Cậu ấy hỏi thăm cô Tâm.
    -Mời cậu vào chơi đã.
    Bà Năm mở rộng cánh cổng sắt để Tuấn dắt xe vào. Chàng dựng chiếc xe Honda sát hàng rào rồi bước trên con đường đá sỏi dẫn vào nhà.

    Nhìn gương mặt hiền hậu, dáng dấp sang trọng và có nét giống Tâm, Tuấn đoán bà ấy là mẹ của nàng, nên gật đầu chào rồi bước vào cửa. Mẹ Tâm dẫn Tuấn vào phòng khách và mời chàng ngồi. Sau khi ngồi xuống bộ sofa da màu ngà trong phòng khách, Tuấn tự giới thiệu:
    -Thưa bà, cháu là Tuấn, bạn học cũ của Tâm ở Đà Lạt.
    Mẹ Tâm vồn vã:
    -À cậu Tuấn! Con Tâm có nói chuyện với tôi về cậu. Cậu về nước khi nào vậy?
    Tuấn nhìn mẹ Tâm trả lời:
    -Cháu về Sài Gòn được hơn tháng rồi bác.
    Mẹ Tâm gật gù, nhìn chàng. Tuấn nhích người, ngồi dựa sát vào lưng ghế, kéo lại ống quần cho thẳng thớm rồi chàng thong thả tiếp luôn:
    -Tâm có cho cháu biết về tin buồn của bác trai khi cháu còn bên Mỹ. Cháu xin chia buồn với bác và gia đình.
    Mẹ Tâm thở dài thấp giọng:
    -Cảm ơn cậu. Nhà tôi không may mất sớm khiến gia đình thật bối rối. Cũng may là có bạn bè của Nhà tôi giúp đỡ và con Tâm trở về nên nhà cửa đỡ trống vắng.
    Ngưng vài giây, mẹ Tâm lại hỏi:
    -Thế cậu bây giờ đóng ở đâu?
    -Cháu đang làm việc bên Thị Nghè, cạnh Sở Hàng Hà bác ạ.
    Mẹ Tâm ồ một tiếng rồi nói:
    -Cũng gần nhỉ! Gia đình cậu ở đây hay vẫn ở Đà Lạt?
    -Vẫn ở Đà Lạt, Bác.
    -Ông bà cụ vẫn khỏe chứ, phải không cậu?
    -Cảm ơn bác, mẹ cháu vẫn bình yên. Lâu rồi cháu chưa có dịp về Đà Lạt.

    Bà Năm bưng khay nước đặt trên mép bàn chân quỳ làm bằng gỗ gụ hình quả trám, trên đặt khung kính dầy. Bà lấy hai ly nước ngọt đặt trên hai cái khay nhỏ, đẩy một ly về phía mẹ Tâm, một ly cho chàng. Bà cẩn thận đẩy ly nước tránh chậu lan đang nở hoa thơm ngát đặt giữa mặt bàn.
    Mẹ Tâm nhìn chàng bảo:
    -Mời cậu dùng nước đi.
    Tuấn nói cám ơn rồi nhấc ly nước, mời mẹ Tâm, uống một hớp rồi đặt ly xuống. Mẹ Tâm cũng chậm rãi nhấp nước. Tuấn bây giờ mới có dịp quan sát chung quanh. Trong phòng khách, chiếc tủ kính dài thấp kê sát tường, cũng bằng gụ, bên trong chưng vài tượng điêu khắc nhỏ bằng ngọc bích, cái quạt bằng ngà voi cùng vài chiếc lọ và bát đĩa cổ trong đó chàng biết được chiếc bình thời Khang Hi rất phổ thông. Ngay trên tủ kính, treo bức họa "Bữa Tiệc Ly" của Chúa Giê Su với mười hai tông đồ. Bức tranh sơn mài cảnh "Trẩy Hội Đền Hùng" thời xưa trông rất cổ kính treo trên tường phía bên chàng ngồi. Trên tường bên kia treo một bức tranh khảm xà cừ "Mai Lan Cúc Trúc" lóng lánh nối liền với nhau thành một bức khảm to. Phía dưới, cạnh đầu ghế sofa gần cửa sổ là chiếc bàn nhỏ cùng kiểu chân quỳ với bàn giữa phòng khách. Trên đặt một chậu tùng kiểng Nhật Bản tỉa thành những tàn lá cao thấp, che cho cặp hạc trắng co chân đứng bên gốc tùng cổ thụ.

    Tuấn nhìn khung hình gia đình phóng to đặt trên mặt tủ kính, lướt qua ảnh mọi người rồi dán mắt vào hình Tâm, nhưng hỏi tránh:
    -Anh Hòa có thường về thăm gia đình không hả bác?
    -Nó cũng mới về hồi Ba nó mất. Ở nhà hơn một tháng rồi trở qua Mỹ lại. Nó bảo năm cuối bậc Cử Nhân bài vở quá nhiều.
    -Anh ấy sắp xong Cử Nhân, bác nhỉ?
    -Cuối năm nay thì xong. Sau khi ra trường, tôi bảo nó về trông coi công việc làm ăn, nhưng nó muốn học lên Master nữa thì phải.
    Tuấn tế nhị:
    -Có chí như anh ấy, điều gì cũng đạt được dễ dàng bác ạ. Hai năm nữa sẽ qua nhanh lắm.
    Mẹ Tâm chặc lưỡi:
    -Công ty đang cần người chăm sóc. Con Tâm hiện giờ, những lúc rảnh rỗi cũng vào giúp làm sổ sách giấy tờ, còn phần điều hành vẫn giao cho người phụ tá của Nhà tôi trước kia. Cậu nghĩ coi, người nhà mình mới tin cậy hoàn toàn được chứ?
    Tuấn gật đầu đồng ý:
    -Đúng rồi bác! Chẳng ai tin cậy được như người nhà. Tuy nhiên, có Tâm giữ sổ sách kế toán thì bác khỏi phải lo lắng gì.
    -Có nó tôi cũng yên chí, nhưng rồi ...
    Mẹ Tâm chợt yên lặng, bỏ lửng câu nói. Tuấn đoán được ý nghĩ của bà, nhưng nói lảng sang chuyện khác:
    -Tâm dạo này ra sao hả bác? Vừa học vừa làm việc chắc là bận rộn lắm?
    Mẹ Tâm lại thở dài:
    -Con Tâm rất buồn khổ khi ba nó mất. Cả mấy tháng nó cứ thừ người, ăn lấy lệ, chả nói năng gì cả làm tôi lo sợ.
    Tuấn cảm thấy áy náy:
    -Chắc Tâm thương nhớ bác trai quá.
    Mẹ Tâm lại tiếp:
    -Cũng may mà nó xin vào được Văn Khoa. Việc làm là phụ, nhưng bài vở nhiều nên nó cũng bận rộn. Còn cậu đã lập gia đình chưa?
    Tuấn cười gượng:
    -Cháu còn lông bông lắm nên chưa dám nghĩ đến chuyện hôn nhân bác à!
    Mẹ Tâm đồng tình:
    -Đúng đấy cậu. Kiếm được người đàng hoàng cũng khó. Con trai hay con gái cũng vậy. Tôi thấy bây giờ trai gái mới lớn lên chúng đua đòi, ăn diện quá thể.
    Tuấn đưa đẩy:
    -Gặp được người tốt đã khó, còn phải có duyên với nhau nữa, phải không bác?
    Mẹ Tâm nhìn chàng kỹ hơn, giọng ân cần:
    -Cậu nói phải đó. Con Tâm nó thương cậu, nhưng nó không có duyên với cậu, nên việc chẳng thành. Cậu đừng buồn làm gì! Người như cậu chả thiếu gì bạn đâu.

    Vừa dứt câu, Tuấn nghe tiếng xe hơi dừng trước nhà, tiếng cửa xe đóng lại và rồi hai tiếng chuông reng khiến chàng tự nhiên thấy hồi hộp. Bà Năm trong nhà chạy ra mở cổng. Tiếng bà Năm vọng vào:
    -Cậu Huyến. Mời cậu vào. Nhà cũng đang có khách.
    Giọng đàn ông chững chạc:
    -Khách nào vậy bà Năm?
    -Có cậu gì bạn cô Tâm trước kia ở Đà Lạt.
    Không nghe tiếng trả lời. Mẹ Tâm cũng yên lặng lắng nghe. Tiếng chân bước trên sỏi lạo xạo. Bà Năm trở vào nhà với một người đàn ông trung niên trong bộ quân phục màu cứt ngựa, cầu vai màu huyết dụ nổi bật ba bông hoa mai vàng sáng chói.
    Mẹ Tâm vồn vã hơn:
    -Cháu Huyến. Ngồi chơi đi cháu. Đây là cậu Tuấn, bạn học với con Tâm ở Đà Lạt.
    Huyến nhìn chàng, giơ tay:
    -Hân hạnh biết anh.
    Tuấn nhìn Huyến mỉm cười, đứng dậy bắt tay Huyến:
    -Nghe Tâm nhắc đến anh luôn, giờ mới được gặp.
    -Hai cháu ngồi đi.
    Huyến ngồi xuống sofa bên phía mẹ Tâm. Bà Năm đem ra cho Huyến ly nước. Huyến người tầm thước có khuôn mặt khắc khổ. Thỉnh thoảng Huyến lén nhìn chàng soi mói. Mẹ Tâm lên tiếng pha loãng bầu không khí đột nhiên ngột ngạt:
    -Hôm nay cháu tới sớm vậy Huyến? Con Tâm chưa về.
    Huyến quay sang mẹ Tâm:
    -Cháu muốn rủ Tâm đi phố chọn ít hàng vải cho Tâm may áo.
    Đưa mắt nhìn chàng, Huyến tiếp:
    -Còn khoảng hai tuần nữa thôi bác.
    Mẹ Tâm ái ngại, nhìn Tuấn dò xem phản ứng:
    -À cậu Tuấn biết không. Huyến và con Tâm sắp làm đám hỏi, rồi để mãn tang sẽ làm đám cưới. Tuấn cố dấu xúc động, nhìn mẹ Tâm rồi Huyến:
    -Cháu xin chúc mừng bác, anh Huyến và Tâm.
    Huyến xã giao:
    -Nếu anh rảnh, hôm đó mời anh đến chung vui?
    Tuấn nhìn Huyến đáp:
    -Tôi sẽ rất vui. Tuy vậy, tôi chưa dám hứa trước anh Huyến à. Nhiều khi phải đi công tác. Anh biết đó! Lính tráng mà. Nhất là lính biển.

    Tuấn nói chuyện với mẹ Tâm và Huyến một hồi nữa, ý muốn đợi Tâm về. Mẹ Tâm cũng dè dặt hơn trước. Huyến ít nói. Hỏi thì trả lời, không thì chỉ ngồi nghe chuyện, vẻ mặt thường lầm lì khiến không khí đôi lúc nặng nề thêm. Máy lạnh trong nhà chạy rè rè cũng giảm bớt phần nào ngột ngạt và quạt trần quay nhè nhẹ làm rung rinh những cánh lan vằn vèo như những con bạch tuộc nhỏ khiến căn phòng khách có vẻ sống động hơn thật sự. Đồng hồ treo tường vừa điểm bốn tiếng. Thấy nói chuyện xã giao với Huyến và mẹ Tâm đã lâu, Tuấn đứng dậy kiếu từ, không quên gửi lời thăm hỏi Tâm và hẹn có dịp sẽ ghé thăm.

    Tuấn phóng xe lên Chợ Bến Thành. Sài Gòn lúc nào xe cộ vẫn nườm nượp. Tiếng động cơ của đủ loại xe cộ nổ ầm ầm không ngưng nghỉ. Khói xe hơi, khói xe gắn máy phun mù mịt như màn sương trắng xanh trong ánh nắng chói chan. Mặc quần áo dân sự, chỉ chốc lát là áo trắng của chàng đã dính đầy bụi khói đen thui. Lái xe giữa phố phường, len lách trong giòng xe cộ mà Tuấn chẳng cầm trí được. Chàng nghĩ đến Tâm, đến cuộc đối thoại vừa rồi. Chàng hơi mặc cảm về địa vị của mình: Một sĩ quan mới ra trường, lương ba cọc ba đồng, chưa có nơi ăn chốn ở riêng tư, sao so sánh được với Huyến. Tuấn hơi buồn. Chàng thở dài: Cố quên Tâm đi.




    CHƯƠNG 11

    Niềm Vui Hội Ngộ



    Vừa họp sĩ quan xong, Tuấn bước ra khỏi Phòng Hành Quân đơn vị thì nghe nhân viên trực nhật gọi giật giọng:
    -Chuẩn Úy Tuấn!
    Chàng quay lại. Thằng em trực nhật nói tiếp:
    -Có một cô tìm ông nãy giờ. Trông hết sẩy!
    -Xạo hoài mày!
    -Thật đó ông thầy.
    Tuấn ngạc nhiên, nheo mắt nghĩ ngợi: Ai vậy kìa?
    Thằng em nhỏ giọng tiếp luôn:
    -Cô ấy đợi bên Sở Hàng Hà, Chuẩn Úy.
    Tuấn cảm ơn nó rồi bước ra cổng qua Sở Hàng Hà.

    Bước lên khỏi bậc tam cấp trước cửa Sở Hàng Hà, Tuấn thấy Tâm đứng tần ngần trong đó. Trước mặt là người chàng yêu dấu bằng xương bằng thịt đã xa cách bao lâu nay. Tuấn đã nhớ nàng quắt quay, đã mơ tưởng đêm ngày và đã mong đợi từng giây gặp lại. Tuấn muốn chạy đến ôm nàng thật chặt để thấy rằng chàng vẫn có Tâm như thuở ban đầu gặp gỡ, vẫn còn nàng như lúc mới bỡ ngỡ nói tiếng yêu đương. Nhưng sao ngôn ngữ Tuấn vụng về, đôi chân hóa thạch để chỉ lặng nhìn người yêu của chàng đứng kia thật gần mà đang thoát tầm tay.

    Tâm vừa quay lại, nhìn thấy Tuấn, nàng nghẹn ngào không nói nên lời. Tuấn của nàng đó sao? Nàng tưởng rằng đã mất chàng từ lâu và chẳng bao giờ gặp lại lần nữa. Thế mà chàng đang đứng trước mặt, chỉ vài bước chân là nàng sẽ nằm trong vòng tay yêu thương của chàng mà từng đêm nàng hằng mơ ước. Có phải anh đã trở về từ giấc chiêm bao nào, cho em ngỡ ngàng cuống quít, cho em đắm đuối tâm tư và xôn xao nỗi nhớ?

    Tuấn và Tâm như vừa chợt tỉnh cơn mê. Tuấn bồi hồi quá, cố trấn tĩnh gọi nhỏ:
    -Tâm.
    -Anh Tuấn.
    -Sao Tâm biết anh ở đây?
    -Me em nói chuyện.
    Tuấn bước đến bên Tâm, nắm bàn tay mềm mại và nhìn đăm đắm vào đôi mắt đẹp như nhung của nàng. Tim chàng đập rộn rã trong lồng ngực. Những ngón tay Tâm run nhẹ nằm yên trong tay Tuấn. Tâm hít một hơi dài dằn bớt xúc động, rồi ngước nhìn chàng trách yêu:
    -Anh tệ quá! Sao biệt tăm tới giờ mới đến em?
    Tuấn hằng mong đợi lời trách móc đầy yêu thương này của Tâm từ lâu:
    -Anh bận Tâm ạ! Chân ướt chân ráo về đơn vị mới, anh phải vừa học hỏi công việc làm của mình vừa đi công tác liên miên.
    -Khổ lắm không anh?
    -Chẳng đến nỗi nào.

    Tâm dạo này hơi ốm. Tóc nàng cắt cao hai bên, đuôi tóc dài hơn, uốn cong ra ngoài chấm vai, phô chiếc cổ cao đeo sợi giây vàng nhỏ xíu có hình thánh giá. Tâm mặc váy màu đậm có sọc ca-rô nhiều màu chết đan vào nhau, áo lụa trắng. Cổ tay nàng đeo một cái đồng hồ vàng nhỏ và trên vai cái sắc da giây choàng qua cổ như những lần đi chơi với chàng ở Đà Lạt. Trông nàng vẫn xinh xắn như xưa, chỉ đôi mắt là hơi quầng sâu.
    Tuấn âu yếm:
    -Anh nhớ em quá!
    Tâm nói nhỏ vừa đủ cho chàng nghe:
    -Em nhớ anh còn hơn thế nữa.
    Tuấn như chợt nghĩ ra điều gì, chàng chần chừ rồi buông nàng ra:
    -Đến thăm, không gặp em mà chỉ gặp mẹ em và anh Huyến. Buồn muốn chết!
    Tâm nhìn chàng tội nghiệp:
    -Hôm đó, mãi tới gần 6 giờ em mới về. Nghe bà Năm bảo có bạn học cũ ở Đà Lạt đến thăm, thoạt tiên em không biết là ai, vào nhà mẹ nói rõ mọi chuyện. Em mừng ghê nhưng cũng buồn vì không gặp anh, nên anh Huyến rủ đi phố, em viện cớ nhức đầu hoãn lại hôm sau. Biết anh ở Sở Hàng Hà, em mới tìm dịp tới kiếm anh đấy.
    Tuấn nghe nói cảm động, chỉ muốn có dịp tâm sự cho vơi bớt nỗi nhớ thương chồng chất từ lâu. Chàng nhìn chung quanh, rồi quàng tay sau lưng Tâm, nói nhỏ:
    -Ở đây không tiện, mình ra ngoài kiếm chỗ nào ngồi nói chuyện, nhá Tâm?

    Tuấn và Tâm ngồi uống nước trong một quán lụp sụp bên cạnh Sở Hàng Hà. Tâm thuật sơ qua mọi chuyện xảy ra trong thời gian chàng ở Mỹ. Thỉnh thoảng, nàng ngưng lại vài giây để trấn tĩnh cơn sóng gió trong lòng. Kể xong, Tâm ngừng lại nghỉ giây lát. Nàng dùng hai ngón tay vuốt nhẹ những giọt nước đọng ngoài thành ly nước ngọt vài lần, lên tiếng trách:
    -Đang buồn vì Ba mất, lại nhận được thư anh bảo hãy quên nhau, em chỉ muốn điên lên. Sau mấy thư em gửi, anh không trả lời, em nghĩ có lẽ anh quen người khác, quên em rồi, em vừa buồn khổ vừa giận, chỉ muốn chết cho xong nợ.
    Tâm chớp mắt nhè nhẹ, cố ngăn những giọt lệ đang ứa ra trong khóe mắt. Tuấn đặt tay lên bàn tay Tâm vuốt những ngón tay búp măng thon nhỏ của nàng an ủi:
    -Đừng buồn anh nhá Tâm! Anh yêu em và vẫn yêu em như ngày xưa. Không có gì làm thay đổi tình cảm anh đã dành cho em. Em biết không! Dạo đó em là tất cả những gì quý nhất anh có. Mất em, anh cũng buồn, cũng khổ không kém gì em cả. Nhưng suy nghĩ mãi, anh thấy đó là giải pháp tốt nhất cho em lúc ấy. Hơi cải lương một tí, nhưng có thể nói là vì yêu em nên anh hi sinh tình yêu của mình. Hai mắt Tâm đã đỏ hoe, nàng để mặc cho những giọt nước mắt nóng hổi lăn xuống má, rơi xuống bàn. Tuấn áp đầu Tâm vào vai chàng, nghe lòng dâng lên niềm thương yêu mênh mang. Tuấn muốn ôm ghì lấy nàng, hôn lên mắt, môi nàng, khắp thân thể nàng, để uống những giọt nước mắt mằn mặn đang rơi đó, để tan biến vào nhau như hai dung dịch cùng chuẩn độ, để san bằng cho nhau tất cả niềm thương nỗi nhớ nhưng nhức bao lâu nay. Đợi cơn xúc động qua đi, chàng nâng mặt Tâm lên, nhìn sâu vào đôi mắt đẫm lệ thăm thẳm của nàng khích lệ:
    -Chúng mình cố gắng Tâm ạ! Chúng mình vẫn còn nhau cơ mà? Khi nào anh chưa bị "thủy táng" thì anh vẫn còn dịp ghé thăm em. Không thành vợ chồng thì mình thành anh em hay bạn bè vậy.
    Tâm cười gượng, lấy khăn trong sắc tay thấm nước mắt. Nàng hỏi nhỏ:
    -Có trễ quá không anh?
    -Em muốn nói về điều gì?
    -Thay đổi tình trạng hiện tại.
    Tuấn lo thầm:
    -Không nên Tâm ơi! Chuyện đã qua nó thuộc về quá khứ rồi. Hiện tại là sắp đến đám hỏi của em và anh Huyến. Anh thấy anh Huyến có căn bản tốt, sẽ bảo đảm được hạnh phúc cho em.
    Tâm khẽ lắc đầu:
    -Nhưng em không yêu anh Huyến.
    -Tình yêu có thể đến sau. Dù bây giờ không yêu đi nữa, sau này, sống với nhau có con cái rồi, mình cũng vì tình nghĩa. Huống chi, hai bên gia đình đã hứa hôn.
    -Em muốn sống đúng với lòng mình anh ạ.
    -Nhiều điều mình muốn nhưng không làm được. Có khi không muốn mà vẫn phải làm. Em nên vâng lời ông anh này chứ?
    Tâm không trả lời, tay mân mê chiếc thánh giá trước ngực, mắt nàng buồn rười rượi. Tuấn thấy thằng em trực lấp ló. Nó chỉ tay vào đồng hồ đeo tay của nó nhắc Tuấn nhớ tới giờ đi công tác rà mìn. Tuấn nhìn nó gật đầu. Nói chuyện với Tâm vài phút nữa rồi chàng trả tiền nước, dìu Tâm đứng dậy, vừa đi vừa nói:
    -Anh vui lắm khi gặp lại em, hiểu được lòng em. Chúng mình là bạn thân, là anh em. Em có thể tâm sự mọi chuyện với anh mà không phải nghi ngại gì cả. Tới giờ anh đi công tác rồi. Em về vui. Anh sẽ đến thăm khi rảnh rỗi, Tâm nhá!
    Tới chỗ dựng xe, Tâm mở khóa cổ xe, ngồi lên yên, sửa váy lại cho gọn ghẽ, nhìn Tuấn định nói điều gì nhưng lại đổi ý lặng thinh. Tuấn viết số điện thoại của đơn vị vào một mảnh giấy nhỏ đưa Tâm, rồi cầm tay nàng:
    -Anh vẫn yêu em. Cần thì cứ gọi cho anh.
    Tâm bỏ mảnh giấy vào sắc tay, nổ máy xe, nói nhỏ với chàng:
    -Em yêu anh. Em về.

    Tâm bịn rịn mãi mới cho xe từ từ chạy qua những gian nhà lụp sụp hai bên đường về hướng Sài Gòn. Tuấn nhìn theo cho đến khi màu áo trắng của nàng chìm khuất sau khúc quanh của giẫy phố thấp, mới lững thững bước vào trại như người mất hồn. Chàng thật sự mất Tâm rồi. Lòng Tuấn sao trống trải mênh mang buồn.

    Tuấn trở về Phòng Hành Quân, mặc chiếc áo giáp chắn đạn vào người, khoác giây đeo khẩu Colt 45 lên vai, cầm tập hồ sơ và bản đồ công tác rồi bước vội xuống cầu tàu. Những chiếc trục-lôi-đỉnh đã nổ máy xình xịch chờ đợi, phun ra đằng sau đuôi tàu lớp khói mỏng quyện trên mặt sông đang đầy. Giòng nước nhỏ dưới hầm máy được bơm ra ngoài thành giòng bên sườn tàu, thỉnh thoảng lại bị đứt quãng như bị bóp nghẽn bởi tiếng kẽo kẹt, nhức nhối của giây thừng nghiến vào móc buộc trên cầu tàu. Tuấn dừng lại vài phút, ngắm những chiếc trục-lôi-đỉnh cặp thành hàng sát nhau, che chở bởi những phao nổi màu cam và bánh xe hơi treo hai bên thành tàu để tránh xây sát hoặc móp bể vì cọ sát khi tàu dập dình trên mặt nước. Chàng đã quen thuộc với những chiếc tiểu đĩnh dầu giãi nắng mưa và nhóm nhân viên giàu tinh thần trách nhiệm này. Nhân viên chào kính khi thấy Tuấn đến, chàng giơ tay chào lại rồi quay sang Trung-Sĩ-Nhất Chính hỏi:
    -Mọi việc sẵn sàng chứ anh Chính?
    Chính cười tươi, giơ ngón tay cái lên ra dấu, nhìn chàng trả lời:
    -Đã sẵn sàng hết rồi Chuẩn Úy. Tôi đã lãnh khẩu phần lương khô công tác cho ông thầy rồi. Ông đi trên tàu tôi cho vui?
    Tuấn gật đầu rồi bước xuống chiếc trục-lôi-đỉnh do Chính làm thuyền trưởng. Chàng nhấc ống liên hợp của máy truyền tin PRC25 gọi các trục-lôi-đỉnh khác nhận báo cáo về tình trạng sẵn sàng, liên lạc với đơn vị bạn trên bờ, rồi báo cáo với Phòng Hành Quân giờ khởi hành công tác rà mìn.

    Lần lượt, từng chiếc trục-lôi-đỉnh màu xám nhạt theo nhau tách bến ra sông trong đội hình hàng dọc. Đến vị trí ấn định, Tuấn ra lệnh cho các tàu vào đội hình rà mìn: từng cặp trục-lôi-đỉnh chạy song song, mỗi chiếc sát một bờ sông và tất cả nhân viên đều được đặt trong tình trạng tác chiến suốt thời gian công tác. Nhân viên trên cặp trục-lôi-đỉnh dẫn đầu đoàn tàu quay trục cáp thả xích rà mìn và phao hình con cá há miệng đỏ lòm, nhe răng nhọn hoắt xuống sông, trên lưng cắm cây cờ đỏ, đuôi nhọn phất phới theo gió. Cặp tàu kế tiếp thả lưới và phao, còn cặp thứ ba chạy theo đội hình hàng dọc giữa sông, hộ tống cho hai cặp tàu đang rà mìn kia, hoặc dự bị nếu cần, sẽ thay thế cho những chiếc gặp trở ngại.

    Trong khi công tác, tới giờ ăn thì nhân viên trên tàu nấu cơm gạo sấy, chế biến thức ăn với thịt hộp thành bữa cơm tuy đạm bạc nhưng thân tình và ngon miệng. Những lần bọn Tuấn được ghe câu cho thêm tôm, cá tươi thì bữa ăn trở nên thịnh soạn hơn. Nhiều khi, ngồi trên phòng lái với Chính, nhìn nhóm nhân viên trên tàu vừa ăn vừa cười đùa vui vẻ, Tuấn nhận thức được niềm vui hiện tại của mình: tình đồng đội của nhân viên trong đơn vị cùng bổn phận, trách nhiệm và những vui, buồn của kiếp lính biển. Thành quả đạt được trong những công tác rà mìn tuy không oanh liệt như chiến công của các đơn vị chiến đấu, nhưng mỗi chuyến rà mìn hộ tống xà-lan an toàn đã giúp chuyển vận vũ khí và đạn dược cần thiết đến các đơn vị Hải, Lục, Không Quân bạn. Những quả mìn hay thủy lôi của địch bị trục-lôi-đỉnh phá hủy đã góp phần bảo đảm sự an ninh cho tàu bè di chuyển trên thủy lộ quan yếu nhất của miền Nam này.

    Tháng ngày công tác rà mìn trên sông rạch êm đềm trôi. Những hình ảnh mộc mạc như bụi dừa nước, đám lục bình hoặc ánh đèn le lói xuyên qua khe nhà sàn dọc bờ sông, giọng ầu ơ ru con trên ghe câu hay tiếng xành xạch của chiếc ghe máy chở đồ gốm chạy ngang qua thường gợi trong lòng Tuấn niềm trống vắng và cô quạnh. Vì thế, một biến cố khác thường dù nhỏ xẩy ra cũng gây sôi nổi cho bọn Tuấn. Một lần, lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng chính giữa của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam xuất hiện trên cây trong khu rừng gần bờ trên Sông Đồng Nai. Lá cờ thù nghịch khiêu khích thêm lòng căm phẫn, Chính nhìn Tuấn ngầm hỏi ý, chàng gật đầu và Chính đã nâng khẩu M16 triệt hạ bằng một loạt tiểu liên đốn gẫy nguyên cả cành cây treo cờ trong tiếng reo hò cổ võ của nhân viên. Thỉnh thoảng, những chiến hạm hải quân hay thương thuyền ngoại quốc vào, ra Sài Gòn cũng làm thay đổi khung cảnh đơn sơ trên Sông Lòng Tào. Thông thường, tuy không mấy bận rộn với công tác rà mìn hàng ngày, nhưng Tuấn phải cảnh giác đề phòng những biến cố có thể xảy ra đã giúp chàng quên đi dáng dấp Tâm cùng những kỷ niệm cũ trong chốc lát. Sau đó, hình ảnh cô liêu và âm thanh buồn buồn trên sông nước càng làm Tuấn thấm thía nỗi cô đơn hơn.

    Tâm đã làm đám hỏi đơn giản với Huyến. Theo lời yêu cầu của Tâm, nại lý do ba nàng mới mất, đám hỏi nàng chỉ tổ chức thu hẹp trong phạm vi gia đình với vài người bạn thật thân. Tuấn cũng tới chia vui với nàng. Hôm đó, Tâm thẫn thờ nhưng gượng gạo làm vui. Người vui nhất có lẽ là mẹ nàng và gia đình bên Huyến. Tuấn đã cố dấu tình cảm riêng tư mà tự nhiên vui vẻ với mọi người. Tuy vậy, tình yêu vừa mất đối với Tuấn là niềm mất mát quá lớn, đã khiến chàng, dù cố quên, cũng khó nguôi ngoai nỗi buồn. Đám hỏi xong, tuy nhớ Tâm, Tuấn cố tránh không gặp nàng nhiều, để nàng chấp nhận hoàn cảnh, lấy lại sự bình yên trong tâm hồn và sửa soạn cho tương lai chung của nàng với Huyến.




    CHƯƠNG 12

    Anh Rót Cho Khéo Nhé!



    Tuấn làm việc tại Giang Đoàn 91 Trục Lôi đóng cạnh Sở Hàng Hà khoảng gần nửa năm thì đơn vị được lệnh di chuyển về Căn Cứ Hải Quân Cát Lái, cách Sài Gòn chừng mười cây số.

    Căn Cứ Hải Quân Cát Lái khá rộng lớn, là nơi đồn trú của Bộ-Tư-Lệnh Lực Lượng Trung Ương, Bộ-Chỉ-Huy Giang Thuyền, Bộ-Chỉ-Huy Người Nhái và Toán Tháo Gỡ Chất Nổ, hai Giang Đoàn Trục Lôi và Giang Đoàn Tuần Thám. Trong căn cứ cũng có Khu Gia Binh cho gia đình binh sĩ, Câu-Lạc-Bộ, Bệnh Xá và cả sân chơi tennis nằm trong khu vực Bộ-Chỉ-Huy Giang Thuyền.

    Hoạt động hàng ngày của Tuấn ở căn cứ này cũng không khác gì hồi chàng còn ở Sở Hàng Hà. Điều thoải mái hơn là giang đoàn được chiếm ngự ba dãy phòng ốc thấp khang trang, chia thành nhiều khu vực riêng rẽ cho mỗi ban: Hành Quân, Nội Vụ, Tiếp Liệu, Cơ Khí, v.v. Nhân viên có phòng ngủ, phòng ăn rộng rãi, ngăn nắp hơn. Cầu tàu, nơi cập bến cho những phân đoàn trục-lôi-đỉnh cũng được xây chắc chắn và kiên cố cạnh bờ sông không có những bụi dừa nước mà mỗi khi thủy triều xuống phơi gốc dừa trên lớp bùn đen thui như ở Sở Hàng Hà. Tuy đời sống tại đây thoải mái hơn, trong thời gian đầu, Tuấn nhớ phố phường Thị Nghè và không khí đơn vị cũ, nên đã ghé về vài lần thăm nơi có ghi kỷ niệm và hình ảnh Tâm một lần đến thăm.

    Đổi về Căn Cứ Cát Lái được một thời gian ngắn thì đơn vị đề nghị Tuấn đi dự khóa huấn luyện Tác Xạ Pháo Binh ở Căn Cứ Hải Quân Bình Thủy dành cho các sĩ quan hải quân. Một vị Đại Úy Pháo Binh giàu kinh nghiệm, giảng dạy những lý thuyết căn bản về yểm trợ pháo binh. Đó là những kỹ thuật nhắm hướng, điều chỉnh, gọi pháo và phối hợp với lực lượng bạn trong trường hợp cần làm nhiệm vụ của người lính tiền-sát-viên hướng dẫn các khẩu đại bác pháo kích mục tiêu địch. Sau mấy tuần lễ học lý thuyết, Tuấn và nhóm sĩ quan cùng khóa được đưa đến vùng Tịnh Biên, Châu Đốc để thực tập.

    Căn Cứ Pháo Binh nơi Tuấn thực tập nằm trên một đỉnh đồi cao sát biên giới Cao Miên. Đứng trên đồi, nhìn qua biên giới, Tuấn thấy đồi núi xanh thẫm xa xa bao quanh vùng đồng bằng hoang vu màu vàng nhạt rải rác cây cối. Dùng ống nhòm quan sát kỹ hơn, Tuấn thấy những cây thốt-nốt trông như cây dừa to trong vùng oanh kích tự do lỗ chỗ hố đạn. Bên tay trái thuộc vùng đất Việt Nam là Kinh Vĩnh Tế thẳng tắp dài mút mắt, sáng loáng như giát bạc dưới ánh nắng mặt trời. Con kinh đào nổi bật trên những ô màu xanh, màu vàng của đồng lúa phì nhiêu, cò bay thẳng cánh trải dài đến tận chân trời. Nhìn khung cảnh thanh bình dưới chân đồi, Tuấn chợt mơ ước đến ngày chấm dứt cảnh tương tàn và dân lành được sống ấm no với bát cơm, khoanh cà trên ruộng lúa nương khoai của họ, để khỏi phải kinh hoàng vì những tiếng pháo kích của hỏa tiễn Cộng Sản hay giật mình vì đại bác phản pháo của bên ta từ đỉnh đồi này bắn đi. Tuấn nhìn lại chung quanh căn cứ, bên cạnh chàng là hai khẩu đại bác 105 li màu ô-liu hướng mũi súng qua biên giới, che chở bằng công sự phòng thủ chất mấy lớp bao cát. Gần đó là một dẫy nhà thấp lợp tôn, cũng chất bao cát trên nóc và chung quanh, là nơi đồn trú của toán pháo binh trách nhiệm. Tất cả bọn Tuấn phải đeo ống nghe bên tai để liên lạc và giảm bớt tiếng nổ đinh tai nhức óc của pháo bắn đi. Tuy vậy, cuộc thực tập rất thú vị đối với Tuấn vì mỗi sĩ quan khóa sinh đều được cơ hội tự điều chỉnh và gọi pháo bắn vào những mục tiêu do vị Đại Úy Pháo Binh chọn.

    Tới lượt chàng, mục tiêu là cây thốt-nốt hướng 290 độ. Tuấn quan sát mục tiêu bằng ống nhòm, ước định tầm xa, chấm tọa độ trên bản đồ, rồi ra lệnh:
    -Khẩu độ 320. Cao độ 035.
    -Thuốc nạp 2.
    Anh lính pháo binh lập lại lệnh và gắn ống thuốc súng vào khẩu đại bác. Tuấn lại tiếp:
    -Đầu đạn chạm nổ.
    -Sẵn sàng...
    -Bắn!
    Tiếng đạn départ rít lên, tiếng nổ chát chúa truyền vòng quanh vùng núi đồi như ma gọi. Nòng súng giựt lại, mặt đất rung nhẹ. Tuấn giương mắt chăm chú nhìn mục tiêu qua ống nhòm đeo trước ngực. Vài giây sau, chàng thấy cụm khói trắng tỏa lên trước mục tiêu về bên trái một chút, và rồi tiếng nổ nhỏ mới vọng về.
    Tuấn lại ra lệnh:
    -Phải 50. Xa 100. Điều chỉnh.
    Anh lính pháo binh gióng lại hướng súng, điều chỉnh lại cao độ một cách nhanh nhẹn, thuần thục.
    -Sẵn sàng...
    -Bắn!
    Tiếng đạn pháo lại rít lên và quả đạn vút đi rèn rẹt trong không khí. Lần thứ hai, quả đạn rơi đúng hướng nhưng xa hơn mục tiêu. Thêm một lần điều chỉnh tầm xa nữa, quả đạn rơi đúng ngay mục tiêu ấn định. Vị Đại Úy Pháo Binh thấy vậy gật gù và Tuấn sung sướng bỏ ống nhòm xuống, đứng nhìn đồng bạn tuần tự thay phiên bắn tập. Tuấn nghĩ điều chỉnh pháo binh tác xạ rất thích thú vì phải tính toán làm sao để quả đạn rơi ngay điểm ấn định. Khóa Tác Xạ Pháo Binh này thật hữu ích cho Tuấn vì những nguyên tắc căn bản gọi pháo hoặc yểm trợ pháo cũng áp dụng cho hải pháo trên chiến hạm. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi của một sĩ quan khóa sinh, vị Đại Úy Pháo Binh cho biết những "con gà cồ" hiện nay của ta khó mà chọi lại những khẩu đại pháo 130 li mới của Cộng Sản với tầm xa hơn 30 cây số. Ông cũng nêu ra một điều khác biệt giữa pháo binh Việt Nam Cộng Hòa và pháo Cộng Quân là tuy có tầm xa hơn, nhưng pháo địch chẳng cần đến yếu tố chính xác. Thỉnh thoảng, chúng pháo kích vài quả vào thành phố, dù là chỉ giết hại thường dân vô tội, cũng sẽ làm xôn xao dư luận và gây hoang mang cho dân chúng. Vị Đại-Úy Pháo Binh đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng về sự chính xác của pháo binh bên ta trong lúc tác xạ và trích đoạn kết bài thơ Làng Tôi của Yên Thao làm một ví dụ:

    Hỡi anh đồng đội
    Người bạn pháo binh
    Đã đến giờ chưa nhỉ?
    Mà tôi nghe như trại giặc tan tành
    Anh rót cho khéo nhé!
    Kẻo nhằm nhà tôi
    Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
    Có giàn hoa lý có người tôi thương.

    Tuấn cười thầm nhớ đến câu vè dí dỏm:

    Ai ơi đừng lấy pháo binh
    Đêm đêm nó thụt rung rinh cả nhà.

    Trở về lại Căn Cứ Cát Lái, với sinh hoạt đều đặn trong đơn vị, Tuấn cảm thấy cô đơn, nhớ Tâm nhiều hơn, nhớ phố phường Sài Gòn hơn. Tuấn cũng vừa nhận được tin Vinh đã tốt nghiệp khóa Sĩ Quan Không Quân về nước, hiện đang phục vụ tại Sư Đoàn 3 Không Quân đồn trú tại Căn Cứ Không Quân Biên Hòa. Vinh giờ đây là sĩ quan hoa tiêu trực thăng, không đúng như mộng ước làm phi công phản lực F4 của nó. Đức cũng vừa nhập ngũ khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Thế là cả ba đứa bọn chàng đã lần lượt bị cuốn hút vào cơn bão chiến tranh, mỗi đứa một cách. Tuấn quyết định đi tìm một phòng trọ ở Sài Gòn làm chỗ nghỉ ngơi và nơi gặp mặt của bọn chàng những khi về phép. Muốn vậy, Tuấn phải dạy kèm tại tư gia để kiếm thêm ít tiền trang trải tiền thuê phòng, ăn uống, v.v.

    Tuấn ghé vào sạp báo mua tờ nhật báo Sài Gòn Mới, đọc mục quảng cáo, khoanh tròn những nơi chàng muốn tới xem. Sau mấy chỗ không vừa ý, Tuấn đến một căn nhà 5 tầng trong con hẻm sạch sẽ trên đường Trương Minh Giảng. Căn nhà khang trang, cao hơn mặt đường, chiều ngang hơi hẹp, sân trước nhỏ có rào sắt và mỗi tầng đều có ban-công. Nói chuyện với bà chủ nhà, Tuấn được biết gia đình bà chủ ở Cần Thơ. Tại đây, ngoài gia đình cô Lệ thuê suốt lầu 5, chỉ có bà chủ, cô con gái lớn và bà quản gia cư ngụ mà thôi. Cô gái lớn con bà chủ đang học ngành Kinh Doanh ở Viện Đại Học Đà Lạt, thỉnh thoảng mới về nhà. Bà chủ cũng bận công việc doanh thương xa, nên rất vui vẻ để Tuấn thuê căn phòng nhỏ trên sân thượng với giá rẻ, sau khi biết chàng trước kia cũng học ở Viện-Đại-Học Đà Lạt. Tuấn hài lòng với căn phòng trọ có giàn hoa giấy ngoài sân thượng tương đối rộng rãi. Chàng mừng hơn nữa khi được bà chủ nhà giới thiệu dạy kèm cho mấy chị em con cô Lệ, người láng giềng kế bên dưới phòng chàng. Thật là lưỡng tiện! Từ đó, những ngày nghỉ hoặc mỗi lần về phép, Tuấn và bạn chàng tụ họp tại đây. Đức cũng dạy kèm một học sinh trường Lê Bảo Tịnh và thỉnh thoảng, thay Tuấn dạy đám con cô Lệ để phụ thêm vào ngân quỹ vốn nhỏ nhoi của bọn chàng. Đời sống Tuấn trở nên thoải mái và ổn định hơn.




    CHƯƠNG 13

    Cạm Bẫy Cuộc Đời



    Tuấn cầm quyển sách toán xuống nhà cô Lệ thì con bé Hoa, gái út của cô Lệ nắm tay Tuấn bảo:
    -Anh Tuấn ơi, chị Kim bệnh.
    Tuấn nhìn nó hỏi:
    -Bệnh gì vậy?
    -Chị trùm mền rên hừ hừ trong phòng.
    Tuấn đi vào phòng khách, thật ra là phân nửa mặt tiền giãy lầu cô Lệ thuê, sát ban-công, ngăn cách với phòng ngủ bởi vách tường ngăn chỉ trừ lối đi. Thằng Phát và Việt chào Tuấn.
    Phát nói:
    -Chị Kim sốt, anh Tuấn.
    -Không sao. Khỏi bệnh học bù cũng được.

    Tuấn mở quyển tập của Phát ra coi xem tuần trước chàng đã dạy những gì, và kiểm soát bài tập chàng dặn Phát làm trong tuần đó. Kim học đệ tam và Phát học đệ lục trường Thánh Thomas nằm trên đường Trương Minh Ký. Cô Lệ ly-dị chồng vì anh chồng bỏ bê gia đình đi mèo mỡ lăng nhăng, lương lính chỉ đem cờ bạc, nhậu nhẹt tối ngày với bạn bè. Cô Lệ phải đi làm sở Mỹ từ sáng sớm tới gần nửa đêm mới về nhà để nuôi bốn đứa con nhỏ. Cô không có thì giờ chăm sóc con cái nên mấy đứa nhỏ học hành ngày càng bết bát lại hay lêu lỏng ngoài đường. Đó là lý do cô Lệ nhờ Tuấn chỉ dạy thêm về bài vở cùng dẫn dắt chúng. Là chị cả trong nhà, mặc dù mới mười sáu tuổi, Kim lo cơm nước, giặt giũ quần áo và giờ ăn giấc ngủ cho các em thay mẹ. Tuấn tội nghiệp nàng vì tuy hoàn cảnh chật vật và thiếu tình phụ tử, Kim tỏ ra rất ngoan và đảm đang. Chàng thường an ủi Kim và chăm sóc chị em nàng như những đứa em ruột của mình. Kể từ lúc Tuấn bắt đầu kèm chị em Kim học, chưa khi nào chị em nàng bỏ một buổi học nào. Hôm nay là lần đầu tiên Kim vắng mặt, Tuấn nghĩ có lẽ nàng ốm nặng chăng?

    Tuấn giảng về phương trình bậc nhất chứa một ẩn số, cách nhận diện ẩn số, cách giải phương trình và cho vài ví dụ để Phát hiểu. Sau khi chắc chắn là Phát đã hiểu rõ ràng, Tuấn ra bài tập cho Phát làm. Tuấn cũng xem xét bài vở của thằng Việt, em kế Phát đang học lớp nhất và con Hoa lớp ba rồi cắt nghĩa bài học ở trường cho chúng nó hiểu thật rành rẽ. Những gì khó hiểu, chàng giảng đi giảng lại nhiều lần, lấy ví dụ cụ thể, giản dị để chúng dễ hiểu hơn. Theo thời-khóa-biểu, Tuấn dạy con cô Lệ mỗi buổi hai tiếng đồng hồ vào những ngày chàng được ở nhà. Giờ giấc có thể linh động tùy theo những công việc chàng cần phải làm trong ngày đó. Hai giờ học đã qua. Sau khi ra bài tập cho thằng Phát, toán đố cho thằng Việt, toán cộng, trừ cho con Hoa, chàng dặn con Hoa phải học thuộc lòng bảng cửu chương. Tuấn thu xếp sách lại rồi lên phòng của mình. Chàng lục tủ kiếm thuốc cảm aspirin đem xuống nhà đưa cho thằng Phát, bảo nó cho Kim uống hai viên mỗi lần, hai lần một ngày.

    Trời chiều đã bớt nóng nực hơn. Tuy thế, căn phòng của Tuấn trên sân thượng không gắn máy lạnh, từ buổi trưa cho đến xế chiều thường oi bức vì mặt trời chiếu qua khung cửa sổ lớn. Tuấn đứng dậy mở tung cửa ra ngoài sân thượng cho gió mát lùa vào. Chàng xuống lầu tắm rửa vì phải dùng chung phòng tắm với gia đình cô Lệ. Tuấn thay quần áo, định ra Nhà Sách Khai Trí kiếm mua vài quyển sách tham khảo.
    Tuấn vừa tháo giây xích khóa bánh xe Honda vào khung rào sắt của sân trước, con Hoa đã chạy vội xuống réo om sòm:
    -Anh Tuấn. Chị Kim làm sao á.
    Tuấn khóa xe lại rồi chạy lên lầu 5. Con Hoa dẫn Tuấn vào phòng ngủ của gia đình nó. Chàng hoảng hốt khi thấy Kim nằm thẳng cẳng trên cái đi-văng thấp, mắt nhắm nghiền, mặt đỏ bừng, từng lọn tóc bết vào bên má đẫm mồ hôi, chiếc mền len quân đội vẫn đắp trên người.
    Giọng con Hoa lo lắng:
    -Chị Kim chết không hả anh Tuấn?
    Tuấn để tay trước mũi Kim thấy hơi thở nàng thật nhẹ.
    -Chị Kim không chết đâu. Xỉu thôi à. Phát và Việt đâu rồi?
    -Hai ảnh ra ngoài hẻm.
    Tuấn đoán là Kim bị sốt quá cao nên xỉu chăng. Chàng kéo chiếc mền ra để giảm bớt nhiệt độ rồi chạy lên lầu rút vội khăn và lấy hộp thuốc aspirin xuống. Tuấn vặn nước lạnh, vò khăn, vắt bớt nước rồi đem vào phòng lau mặt mũi cho Kim, xong gấp khăn làm đôi đắp ngang trán nàng. Tuấn kéo màn chắn dọc theo lối đi lên phòng khách vào một góc và đem chiếc quạt máy từ ngoài phòng khách vào cắm điện quạt cho Kim mát. Con bé Hoa bồn chồn, đứng ngồi không yên, chỉ sợ chị nó chết. Mắt Kim vẫn nhắm nghiền nhưng mặt bớt đỏ dần. Tuấn lại giặt khăn, lau mặt và cổ cho Kim lần nữa. Một lát sau, Kim quay đầu nhè nhẹ, tỉnh dần lại, rồi nàng từ từ mở mắt ra, thấy Tuấn, Kim thều thào:
    -Anh Tuấn.
    Tuấn ngại Kim hiểu lầm, giải thích:
    -Kim bị xỉu nãy giờ. Bé Hoa gọi anh vào.
    Con Hoa thấy chị nó tỉnh lại, mừng rỡ cứ quấn quít bên chị. Tuấn lấy khăn ra, sờ trán nàng, thấy đã bớt nóng. Chàng hỏi:
    -Kim cảm thấy thế nào?
    -Đã đỡ rồi.
    Tuấn bảo con Hoa lấy cho chàng ly nước. Chàng quay lại nói với Kim:
    -Kim uống viên thuốc cảm cho đỡ sốt nhá?
    Kim gật đầu. Tuấn đỡ lưng Kim ngồi dậy trên đi-văng. Kim mặc đồ bộ mỏng, mồ hôi ướt đẫm lưng. Đưa Kim hai viên aspirin, chàng bảo uống với ly nước con bé Hoa vừa đem vào. Uống xong, Kim nằm xuống, kéo mền đắp ngang người:
    -Em lạnh.
    Tuấn vói tay tắt quạt điện. Thấy Kim đã tỉnh, Tuấn định ra phố nên hỏi lại:
    -Kim khỏe hơn nhiều chứ?
    -Dạ khỏe. Cám ơn anh nhiều.
    -Không có chi. Giúp nhau là chuyện thường mà Kim. Kim nằm nghỉ cho khỏe, anh ra tiệm sách một lát. Tới khuya, em hãy uống thêm hai viên aspirin nữa trước khi đi ngủ.
    Kim chớp mắt, gật nhẹ.
    Tuấn dặn con Hoa trông chừng chị nó. Con bé gật đầu lia lịa. Tuấn bước ra ngoài lên phòng chàng. Xuống nhà, Tuấn gặp thằng Phát và Việt vừa đi chơi về, bà quản gia cũng đã về và đang dọn dẹp ở nhà dưới. Tuấn không biết nghĩ sao lại trở lên phòng chàng, thay quần áo ra không đi nữa.

    Kỳ về phép kế tiếp, Tuấn đang sửa soạn bài vở xuống dạy chị em Kim thì nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Tuấn ra mở cửa, con Hoa thò đầu vào hỏi:
    -Anh Tuấn có đi đâu không?
    -Không. Sắp đến giờ học rồi.
    -Chừng nào anh Tuấn dạy tụi em?
    Tuấn nhìn đồng hồ đeo tay, nói:
    -Một tiếng nữa.
    Con bé khép cánh cửa rồi đi xuống. Vài phút sau, lại nghe tiếng gõ cửa, Tuấn hỏi vọng ra:
    -Gì nữa bé Hoa?
    Không nghe tiếng trả lời. Tuấn đứng dậy ra mở cửa. Kim đang quay mình đi xuống, tay cầm quyển vở cuốn tròn lại. Thấy Tuấn, Kim xoay người, ngước mặt nhìn chàng:
    -Anh Tuấn. Anh rảnh không?
    -Rảnh Kim. Có gì vậy?
    -Em muốn nhờ anh giảng bài tuần trước. Tuấn nói:
    -Chút nữa anh giảng cũng được.
    -Em không muốn anh tốn thì giờ nên bây giờ hỏi anh bài kỳ trước, chút nữa, anh dạy bài mới, đỡ mất công hơn.
    -Cũng được Kim. Anh xuống ngay.
    -Mấy đứa nhỏ ồn ào lắm. Anh dạy em trên này được không?
    Tuấn ngần ngừ vài giây:
    -Thôi cũng được.
    Kim bước vào phòng. Tuấn bảo nàng để cửa mở cho mát. Kim đưa cái khăn cho chàng:
    -Khăn của anh, em giặt sạch rồi.
    Tuấn cầm lấy cái khăn được xếp gọn ghẽ. Cái khăn chàng đã dùng lau mặt cho Kim tuần trước khi Kim ốm. Tuấn nhìn Kim hỏi thăm:
    -Kim hết bệnh rồi chứ?
    -Hết rồi anh.
    Tuấn chỉ ghế cho nàng ngồi, rồi chàng lấy bài tuần trước giảng cho Kim. Kim yên lặng chăm chú lắng nghe. Nhìn Kim, Tuấn thấy nàng hơi khác vì nàng mặc váy ngắn, áo poulo trắng, không phải đồ bộ như những lần trước. Hình như Kim cũng trang điểm sơ sài. Tuấn thấy Kim lớn và đẹp hẳn ra vì nàng có khuôn mặt trái soan, mắt nâu to và chiếc mũi cao thẳng. Giảng bài cho Kim xong xuôi. Kim cảm ơn rồi nói:
    -Không có anh, em chắc chết mất.
    Tuấn cười xòa:
    -Làm gì Kim. Sốt quá Kim chỉ xỉu đi rồi tỉnh lại chứ làm sao mà chết được.
    -Con Hoa lay em mãi mà không thấy em cựa quậy gì, nó tưởng em chết rồi, sợ quá nên gọi anh đó.
    -Chuyện nhỏ nhặt có chi đâu mà Kim phải thắc mắc. Nếu anh đau ốm thì em cũng giúp anh vậy.
    -Nhưng em cảm thấy như mắc nợ anh một cái gì ấy.
    -Đừng nghĩ đến nữa Kim. Thôi đến giờ học rồi, mình xuống nhà đi.
    Tuấn và Kim xuống phòng học nhà nàng thì bọn em Kim đã ngồi đợi sẵn...

    Một hôm, thằng Phát đàn đúm với mấy đứa choai choai hút xì-ke bỏ học. Kim nói chuyện đó với Tuấn. Tuấn cũng buồn. Chàng hiểu tâm trạng buông xuôi và buồn tủi của những đứa trẻ thiếu tình thương, thiếu sự chăm sóc của cha mẹ như chị em Kim. Tuấn không muốn chị em nàng sa ngã vào hố lầy nghiện ngập và những cám dỗ tai hại cho tương lai của chúng. Buổi học tới, Tuấn hỏi nhỏ Phát: -Anh nghe nói em bỏ học đi chơi với bọn hút xì-ke, phải vậy không?
    Phát có vẻ ngượng ngùng, chối biến:
    -Đâu có. Em chỉ đi chơi không à. Đâu có xì-ke!
    -Anh chỉ dặn vậy thôi. Những đứa bạn xấu có thể làm mình hư hỏng theo chúng, nên chi, các em phải chọn người tốt mà kết bạn. Việc quan trọng trước tiên là cố gắng học hành để sau này mình có thể bảo đảm tương lai cho chính mình và gia đình mình được.
    Chị em Kim ngồi im lặng nghe. Chúng nó nể Tuấn bởi vì không những chàng kèm chúng học mà còn thông cảm tâm trạng của chúng. Tuấn thương chúng nó như em chàng vậy. Thuở nhỏ, Tuấn đã sống trong hoàn cảnh túng thiếu, mẹ chàng cũng phải khổ cực kiếm từng đồng nuôi con khôn lớn. Hoàn cảnh của chị em Kim cũng tương tự như chàng. Điều khác biệt là chị em nàng đang sống trong một xã hội băng hoại với tâm trạng "sống vội" của thanh thiếu niên giữa thời buổi chiến tranh này. Nhiều lúc giá trị luân lý, đạo đức không còn, mà nhường chỗ cho quan niệm đua đòi, hưởng thụ vật chất nhất thời. Tuấn tự nhiên hết hứng thú dạy nữa. Giảng moral chị em Kim một hồi có lẽ hữu ích hơn, Tuấn nghĩ vậy, nên quyết định:
    -Tuần này, anh để các em có thời giờ ôn lại tất cả những gì mình học từ trước. Có điều gì không hiểu thì hỏi anh. Kỳ tới, mình sẽ học chương mới. Hôm nay, chúng mình nói chuyện gẫu với nhau cho vui? Mấy đứa em Kim mừng rơn, dạ thật nhanh. Thằng Phát lên tiếng hỏi:
    -Mình nói chuyện gì vậy anh Tuấn?
    -Đủ thứ chuyện. Bất kỳ chuyện gì các em muốn. Tự do nói những gì các em nghĩ.
    Kim mở lời trước:
    -Xì-ke là gì hả anh?
    Tuấn nghĩ cần phải giải thích rõ vấn đề này cho chúng hiểu nên trả lời:
    -Nói chung, xì-ke là những loại thuốc cấm, rất hại cho tinh thần và cơ thể con người như là cần sa, thuốc phiện, héroin, bạch phiến, v.v. Thuốc được bán trái luật cho những người nghiện dùng.
    Phát thắc mắc:
    -Xì-ke trông như thế nào anh?
    -Có loại trông như bột trắng, có loại đựng trong lọ như nước, có loại như thuốc lá vậy. Người nghiện mua xì-ke với giá rất đắt về chích vào mạch máu, hít vào mũi hoặc hút như thuốc lá.
    Con Hoa lau chau:
    -Xì-ke ngon không anh Tuấn?
    -Xì-ke không phải là thức ăn mà là hóa chất độc hại. Người nghiện phải cần thuốc liên tục, nếu không có, họ bị cơn nghiền hành hạ khổ sở lắm.
    Kim xen vào:
    -Chết không anh?
    -Chết, nếu dùng quá liều.
    Ngưng một lát để chị em Kim suy nghĩ rồi Tuấn nhìn vào mắt chúng, đặt câu hỏi:
    -Tại sao mình phải tốn tiền bạc chích xì-ke để xì-ke vật chết mình?
    Bọn em Kim nhìn nhau, Kim lên tiếng:
    -Những người đó ngu quá!
    Tuấn gật đầu, nhìn khắp lượt từng khuôn mặt non nớt đang nghệt ra dường như thấm ý, giọng chàng đanh thép hơn:
    -Ngu nhất là những người không có tiền, phải ăn cắp hoặc cướp của giết người lấy tiền chích xì-ke. Tội của họ nặng lắm. Cảnh sát sẽ bỏ tù hay xử tử nữa.
    Chị em Kim nhìn nhau, con Hoa lè lưỡi làm ra vẻ sợ sệt:
    -Eo ơi! Dễ sợ.
    Tuấn lại nhẹ giọng, đánh đòn tâm lý:
    -Nên chi, các em đừng chơi với người hút xì-ke. Mình có thể bị vạ lây, cảnh sát bỏ tù mình luôn. Cha mẹ làm việc cực khổ nuôi con ăn học, mình phải biết thương cha mẹ, phải cố gắng học để trở nên người tốt, đúng không các em? Anh thuở bé cũng có nhiều điều buồn tủi lắm và có hoàn cảnh tương tự như các em vậy, nhưng anh biết thương mẹ anh nên không hư hỏng.
    Kim nói nhỏ:
    -Anh kể cho chúng em nghe được không?
    Tuấn gật đầu, chậm rãi:
    -Năm 1954, sau khi ba anh mất sớm, mẹ anh di cư vào Nam chẳng đem theo được gì ngoài hai đứa con nhỏ. Hồi đó, anh chưa đầy hai tuổi, em gái của anh mới được mấy tháng. Gia đình anh sống chung mấy năm trong căn nhà nhỏ với một gia đình khác có bốn đứa con trai đều lớn hơn anh...
    Con Hoa cắt ngang:
    -Mình cũng có bốn chị em.
    Kim suỵt suỵt cho nó yên lặng:
    -Anh kể tiếp đi?
    Tuấn nhớ đến mẹ chàng, người mẹ suốt đời tần tảo vì con cái. Mặc dù sinh trưởng trong một gia đình Nho Giáo, con cụ Đồ Văn, mấy đời dạy học tại Làng Bãi Trữ, Tỉnh Ninh Bình, mẹ chàng là con gái trưởng phải giúp đỡ gia đình và chăm sóc cho các em nên chẳng được học hành bao nhiêu. Tuy thế, mẹ chàng nhận thức rõ rệt được tầm quan trọng của sự học nên một đời mang hoài bão nuôi con ăn học thành người.
    Tuấn lại kể tiếp:
    -Anh bắt đầu lớp Mẫu Giáo và hằng đêm sau giờ cơm tối, anh ngồi học chung với bốn đứa kia bên ánh đèn Hoa Kỳ lù mù nhỏ xíu trên bàn ăn. Đêm nào, anh cũng bị hà hiếp, không bị xé sách vở, lấy cắp bút mực, che mất ánh đèn thì cũng bị đánh đập và mắng chửi là "đồ con nhà mồ côi."
    Thằng Phát tức tối, cất giọng hằn học:
    -Sao anh không uýnh bọn nó?
    Thằng Việt nghiến răng:
    -Em uýnh chúng nó bể mặt.
    Kim buồn cười:
    -Ảnh còn nhỏ xíu, làm sao uýnh lại bốn đứa lớn. Mấy đứa mày ngu quá!
    -Mẹ anh không muốn hiềm khích với gia đình kia nên khuyên anh đi ngủ rồi sáng mai dậy sớm học. Từ đó trở đi, vào mỗi buổi sáng, khi mọi người còn say giấc ngủ thì mẹ anh đã gọi anh thức giấc và dậy anh học những vần i, tờ đầu tiên trong đời, trước khi gánh hàng ra chợ.
    Tuấn dừng lại, nhìn chị em Kim. Kim nhìn lại chàng với ánh mắt thông cảm:
    -Hồi nhỏ, anh cũng bị bắt nạt quá.
    Mắt thằng Việt long lên:
    -Em đi học võ, đứa nào ăn hiếp là em uýnh bể đầu, sặc máu mũi.
    Tuấn cười, nhìn thằng bé tính hào hiệp nhưng nóng như Trương Phi này khuyên:
    -Mình không cứ một chút là đánh người khác. Biết võ nghệ mình lại càng phải khiêm nhường hơn. Chỉ nên dùng võ trong trường hợp phải tự vệ thôi.
    Thằng Phát vẫn chưa hài lòng:
    -Không lẽ để chúng nó hiếp đáp mình hoài hả anh Tuấn?
    Tuấn nhỏ nhẹ:
    -Tìm giải pháp ôn hòa trước. Nhiều khi mình nên nhịn nhục. Không thể tránh được xô xát thì lúc đó mình bắt buộc phải tự vệ.
    Ngưng lại vài giây, nhìn mấy đứa em Kim, Tuấn ôn tồn nói thêm:
    -Anh cũng cùng hoàn cảnh như các em, cũng thiếu tình phụ tử, nhà nghèo và mẹ anh không có nhiều thì giờ chăm sóc con cái. Anh thương mẹ anh vô cùng và chẳng bao giờ quên được lời an ủi khích lệ của mẹ anh những lúc anh buồn tủi vì bị hà hiếp.

    Chị em Kim nhìn nhau có vẻ buồn buồn. Lát sau, Kim mới lên tiếng:
    -Nhiều lúc tụi em buồn lắm, anh Tuấn biết không? Khi tủi thân quá, em chẳng biết nói với ai.
    -Tâm sự với má em cũng được?
    Kim lắc nhẹ đầu:
    -Má đi làm hoài, tới khuya lắc mới về, em thấy má mệt nên không muốn làm rầy má nữa. Với lại, nhiều chuyện em khó tâm sự cùng má được.
    Tuấn ân cần khuyên:
    -Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, có niềm vui nỗi buồn riêng. Càng khổ, mình càng phải phấn đấu hết sức với khả năng của mình, Kim ạ! Anh coi các em như em của anh vậy. Nếu tin anh, gặp điều gì khó nghĩ, các em có thể tâm sự với anh, nếu anh giúp được, anh sẽ không từ chối đâu. Các em đừng ngại gì hết.

    Bốn chị em Kim ngồi lặng thinh, nhìn Tuấn như một ông anh lớn với ánh mắt ngưỡng mộ. Kim nhìn chàng thật thân thiết. Thằng Phát xoay xoay cái bút chì trong tay, cúi đầu nghĩ ngợi. Thằng Việt và con Hoa chụm đầu vào nhau thì thào điều gì đó. Tuấn moral đã đủ nên cho chị em Kim nghỉ học. Chàng lên phòng, sửa soạn ra





    CHƯƠNG 14

    Dạ Vũ Giáng Sinh



    Về Cát Lái gần một năm thì đơn vị thay Chỉ-Huy-Trưởng và rồi Chỉ-Huy-Phó mới. Chỉ-Huy-Phó mới thuyên chuyển về là Đại Úy Huân, xuất thân từ Khóa 17 Nha Trang. Với tính tình cởi mở, dễ hòa đồng và trẻ trung, ông Phó mới đã tạo được không khí làm việc hăng say và thoải mái hơn. Cùng thời gian ấy, một nhân viên Giám Lộ tên Tân cũng được đổi về đơn vị. Tân trông bụ sữa, cao lớn đẹp trai, nhiều tinh thần trách nhiệm, rất nghệ sĩ và tình cảm. Từ đó, ngoài Thiếu Úy Khiết, Tuấn có thêm hai người bạn thân mới nữa. Thiếu Úy Khiết, Khóa 19 Nha Trang, trở thành người bạn thân nhất của Tuấn từ dạo chàng vừa về Giang Đoàn 91 Trục Lôi. Khiết hiền lành, xuề xòa, giàu tình cảm và cũng văn nghệ một cây. Ông Phó mới tính vui vẻ, thân mật với biệt tài độc tấu tây-ban-cầm nhạc Classics và Flamenco. Tuấn, Khiết và Tân trở nên thân cận một cách dễ dàng. Hơn thế nữa, Tuấn coi Tân như một người em tinh thần. Những lúc buồn vì nhớ Tâm hoặc có nhiều lo nghĩ trong lòng, Tuấn thường tâm sự, đàn hát với Khiết và Tân hoặc chuyện trò, đi chơi tennis với Đại Úy Huân. Nhiều khi rảnh rỗi, Tân đã chỉ cho Tuấn cũng như nhiều nhân viên trong đơn vị những bước nhảy thật bay bướm.

    Mùa Noel năm đó, đơn vị tổ chức Lễ Giáng Sinh có văn nghệ và dạ vũ. Nhân viên được phép dẫn gia đình và thân nhân vào tham dự chung vui. Chỉ-Huy-Phó còn độc thân nên dẫn theo ba cô cháu gái: Thiên Hương, Thu Thủy, Phương Quỳnh cùng cô bạn của Hương là Thanh Vân. Ông Phó hãnh diện giới thiệu ba cô cháu xinh đẹp với tất cả nhân viên. Ba cô cháu ông Phó nổi bật trong đêm văn nghệ Giáng Sinh năm ấy. Mỗi người mỗi vẻ: Thiên Hương là chị cả có vẻ chững chạc, khôn khéo. Thu Thủy thì trầm lặng, kín đáo. Phương Quỳnh là em út, hơi thấp hơi hai chị nhưng xinh nhất trong ba chị em. Tuấn có dịp nói chuyện xã giao với cháu ông Phó và thân nhân của nhân viên một lúc rồi ra ngoài tiếp tục việc trực nhật của mình.

    Ngồi trong Phòng Hành Quân ở giẫy nhà song song với phòng tổ chức dạ vũ, Tuấn nghe Thiếu Úy Khiết, Tân và nhiều người khác trình bầy những nhạc phẩm thật đặc sắc. Tuấn nghĩ, có lẽ Khiết và Tân được nhiều điểm nhất trong đêm nay, đặc biệt từ ba cô cháu ông Phó. Tuấn cảm thấy hơi ghen với Khiết và Tân mặc dù hai người là bạn thân của chàng. Tuấn đứng dậy, bước đến cạnh cửa sổ nhìn qua Phòng Dạ Vũ. Tiếng nhạc dặt dìu một bản Slow, chàng nghĩ tới những người nào đó đang dìu ba cô cháu ông Phó mà tự nhiên hơi buồn. Nhiều người lầm tưởng chàng "đắt bồ," nhưng thật sự chàng cô đơn quá. Tâm đã ngoài tầm tay của chàng. Tuấn cảm thấy lòng quạnh quẽ, chàng thở dài, bước ra ngoài cửa. Tuấn bỗng dưng vui lên khi nhìn thấy Thanh Vân và Thiên Hương đang đi dạo bên ngoài. Tuấn tiến về hướng hai nàng, hỏi xã giao:
    -Vân và Hương không ở trong đó nhảy vài bản cho vui?
    Thanh Vân đưa tay đỡ cao tóc sau gáy:
    -Trong đó nóng và ồn ào quá, chú à.
    Hương lơ đãng nhìn bầu trời trong xanh, nắng chiều đang nhạt dần nói:
    -Ngoài này mát mẻ khoảng khoát hơn nhiều.
    Tuấn nhìn Hương và Vân chậm rãi:
    -Hương và Vân vui chứ? Có thân nhân chung vui, buổi văn nghệ nhộn hẳn lên. Tôi nghe Thiếu Úy Khiết và Tân hát hay quá!
    Hương nhìn Tuấn:
    -Rất tiếc chưa được nghe chú hát. Cháu nghe nói chú nghệ sĩ tính lắm.
    Tuấn khiêm nhượng:
    -Tôi chỉ giỏi hét thôi.
    Thanh Vân mời mọc:
    -Chú vào hát vài bản cho mọi người thưởng thức?
    Tuấn cười:
    -Hát với Khiết thì tôi bị lu mờ thêm Vân ạ. Hẹn dịp khác vậy.
    Nói xong, Tuấn nhìn sang phía Hương bắt gặp ánh mắt nàng nhìn lại. Thiên Hương không sắc sảo như Phương Quỳnh nhưng có nhiều nét dễ thương hơn. Thanh Vân hơi ngăm nhưng cũng rất có duyên.
    Thanh Vân hỏi:
    -Sao chú không dẫn bồ vào chung vui?
    -Còn mồ côi mà. Đang định nhờ Vân và Hương giới thiệu đây.
    Thanh Vân cười cười:
    -Chú thì thiếu gì?
    -Vân không thấy tôi chỉ có một mình sao? Đâu có hai mình như người khác?
    -Tại chú không muốn?
    -Muốn mà không có thì đúng hơn.
    Hương xen vào:
    -Chú kén quá?
    Tuấn nhún vai:
    -Tôi có là gì đâu mà kén chọn hả Hương? Chắc chưa có duyên với ai đấy thôi?

    Điệu nhạc vừa chuyển qua kích động với bài Thủy Thủ và Biển Cả. Vân đổi đề tài:
    -Đời thủy thủ cũng thú hả chú?
    Tuấn gật đầu:
    -Thú mà vô định lắm.
    -Sao vậy chú?
    -Đi biển hoài khó làm được việc gì khác, Vân à.
    Hương giờ mới lại lên tiếng:
    -Chú dự định làm gì thêm nữa sao? Cháu nghe chú Huân nói công tác bận rộn lắm.
    Tuấn trầm ngâm giây lát rồi chậm rãi đáp:
    -Ai cũng có những hoài bão muốn đạt được trong đời. Lính biển cứ biền biệt mấy tháng mới về bến. Nghỉ được dăm bữa nửa tháng lại đi, Hương và Vân thấy không? Muốn học tiếp cũng khó. Muốn tạo dựng hạnh phúc gia đình, chăm sóc con cái cũng chả được gần, nói chi đến nguy hiểm bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra.
    Hương tỏ vẻ thông cảm:
    -Chú Huân tới nay vẫn còn độc thân là vì thế. Cháu có ba người chú đang phục vụ trong quân đội nên cháu hiểu lính hơn, chú ạ! Lính nào cũng có những vui, buồn riêng, tuy nhiên, Hải Quân đỡ nguy hiểm, phải không chú?
    -Nói chung thì vậy, nhưng nhiều đơn vị tác chiến cũng nguy hiểm lắm.
    Hương an ủi:
    -Thời chiến mà. Trực tiếp hay gián tiếp, ai cũng khổ chú nhỉ?
    Thanh Vân xin kiếu để vào gặp Thủy trong Phòng Dạ Vũ có chút việc. Tuấn đề nghị dẫn Hương thăm một vòng doanh trại. Hương nhìn Tuấn gật nhẹ đầu, thoáng chút e lệ. Hai người sánh bước bách bộ quanh căn cứ, vừa đi vừa chuyện trò. Chỉ còn hai người, Tuấn và Hương trao đổi những quan niệm cùng ý tưởng riêng tư một cách tự nhiên và dễ dàng hơn. Tuấn được biết Hương đang học Đại Học Sư Phạm vì thích nghề gõ đầu trẻ. Nói chuyện với Hương, Tuấn cảm thấy thú vị và tâm đầu ý hợp về nhiều điểm. Nàng hiền lành thiết tha nhưng có vẻ cương nghị và tự lập. Hương có nhân-sinh-quan vững vàng, muốn sống một cuộc đời bình dị nhưng có lý tưởng. Qua giọng nói chân tình, chững chạc, qua những mẩu đối thoại, Tuấn tìm thấy nơi Hương hình ảnh một người vợ hiền có thể giúp chồng thành công, một người "đầu ấp tay gối" mà cũng là "cộng-sự-viên" đắc lực. Tuấn cảm thấy dễ tâm sự, thân thiết và tin cậy Hương dù là lần đầu gặp nhau. Tuấn nhớ tới Tâm và buổi ban đầu gặp gỡ đã gieo trong lòng chàng bao luyến nhớ và cảm tình sâu đậm. Chàng cũng có ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó ở Hương, người con gái lạ mà chàng chỉ mới quen biết vài tiếng đồng hồ. Không nói ra, nhưng Tuấn nghĩ bụng: Tình cảm của mình chắc lại sóng gió vì cô cháu ngược đời này mất thôi.
    Khi Tuấn và Hương quay trở lại chỗ cũ thì Thanh Vân cũng đang luẩn quẩn bên ngoài. Tuấn đứng chuyện trò với Hương và Vân một lát nữa rồi mời hai nàng trở vào tham dự tiếp Chương Trình Dạ Vũ.

    Buổi Văn Nghệ Giáng Sinh thật vui và hào hứng. Dạ Vũ Giáng Sinh tàn, ông Phó đưa cháu về rồi mà nhiều sĩ quan trẻ còn ngẩn ngơ trông theo mãi.

    Trong phòng ngủ, tối hôm đó, nhóm sĩ quan trẻ chỉ nằm mơ mộng và nói chuyện về các cháu gái của ông Phó với nhiều cảm tình đặc biệt. Tuấn lẳng lặng nằm nhắm mắt nghe chuyện tới hai giờ sáng mới ngủ thiếp đi.





    CHƯƠNG 15

    Đóa Hồng Sinh Nhật



    Cả nhà đều yên giấc trong đêm khuya thanh vắng. Hương nhìn đồng hồ trên bàn ngủ, đã hai giờ sáng, nàng nhẹ nhàng chổi dậy khỏi giường, tới bên cửa sổ, nhìn xuống khung sân sau. Cây Táo Thái Lan sai trái đứng im lìm bên cạnh chuồng bồ câu. Cặp bồ câu thỉnh thoảng lại gù gù nho nhỏ. Ánh trăng thành phố soi khắp không gian trước mắt nàng một màu bàng bạc hiền dịu. Hương ngước nhìn bầu trời Sài Gòn trong xanh, êm ả, lấp lánh muôn vì sao khuya, nhớ đến buổi tiệc Giáng Sinh trong Giang Đoàn Trục Lôi vừa qua. Hình ảnh chàng thanh niên cao ráo, đẹp trai và thật dễ mến chập chờn trong đầu óc nàng. Hương đã có dịp nói chuyện với Tuấn và tìm thấy ở chàng mẫu người nàng mong muốn. Chàng nhiều nghị lực và cao vọng, cởi mở mà chân tình. Chàng có tâm hồn khoáng đạt, thanh cao dù rằng chàng cũng chỉ mơ ước được sống một cuộc đời bình dị như nàng. Hương chưa hiểu nhiều về cuộc đời riêng tư của chàng, nhưng cũng có ít nhiều khái niệm về nhân-sinh-quan qua đối thoại và một cách gián tiếp, qua nhận xét của chú Huân viết trong quyển sổ tay về những nhân viên trong đơn vị mà nàng vô tình đọc được. Nàng trằn trọc, khó ngủ mấy hôm nay vì những ấn tượng tốt đẹp ban đầu đó. Mình phải tìm hiểu chàng kỹ càng và xem tâm tình chàng thế nào. Hợp nhau thì mới dễ tiến xa hơn chứ tình cảm không thể một chiều và gượng ép được. Dù chàng cho biết vẫn còn độc thân, nhưng biết đâu chàng đã có người yêu? Lịch thiệp như chàng thiếu gì cô gái muốn chiếm được trái tim chàng? Hương tự nhiên hơi buồn, từ trước tới giờ, chưa ai khiến nàng phải nghĩ ngợi đến mất ngủ mấy hôm nay như lần này. Nàng nhớ ánh mắt nhìn trìu mến thiết tha, nhớ nụ cười đôn hậu và giọng nói từ tốn trầm ấm của chàng. Dù chàng tỏ ra có nhiều thiện cảm đối với mình, nhưng có thể chỉ xã giao và không săn đón như những người nàng đã gặp trước kia. Hương cảm thấy tự ái nàng bị va chạm. Chị em nàng được tiếng là hoa khôi ở Gia Long. Bao chàng trai có nhiều điều kiện hơn chàng, với tương lai, sự nghiệp đầy hứa hẹn ngấp nghé mà bọn nàng vẫn dửng dưng. Tuấn chỉ là một sĩ quan trẻ, một người lính biển như chú Huân. Tuy rằng chàng thật dễ mến nhưng tại sao mình lại nghĩ về chàng và nhớ chàng nhiều thế? Đó chỉ là cảm tình do sự mến mộ hay tình yêu phát sinh từ sự luyến ái gái trai? "Con tim có những lý do của nó mà lý trí không thể nào hiểu được." Hương nghĩ như thế và nhất quyết kiếm dịp và thời gian tìm hiểu chàng thêm. Chú Huân có thể là nhịp cầu giao cảm giữa nàng và Tuấn. Hương cảm thấy nhức đầu, mắt cay sè, nên quay về giường cố dỗ giấc ngủ.

    Một buổi sáng Thứ Bảy nắng đẹp, Hương, Thủy và Quỳnh ra phố chợ mua sắm ít vật dụng cần thiết để trang trí nhà cửa và thực phẩm để nấu nướng. Hương đã ngỏ ý với bố mẹ cho phép mời bạn bè cùng lớp và hai cô em họ, con Dì Uyên đến chơi. Nàng cũng đã dặn chú Huân mời Tuấn tới cùng với chú từ tuần trước.

    Sau cơm trưa, mấy chị em xếp đặt bàn ghế ngoài phòng khách. Hương trải tấm khăn bàn trắng, viền hoa lỗ chỗ ngoài riềm lên chiếc bàn lớn hình chữ nhật. Giữa bàn, nàng chưng hai mươi đóa hồng nhung Đà Lạt đỏ thẫm cắm trong bình hoa bằng thủy tinh trong suốt. Màu đỏ nhung của hoa nổi bật trên nền trắng trông sang trọng và dễ thương vô cùng. Mấy đứa em họ của Hương cũng tới sớm giúp nàng nấu nướng thức ăn và sắp xếp. Mọi người vừa làm việc vừa chuyện vãn cho đến gần chiều tối mới xong xuôi. Hương vào phòng trang điểm sơ lại vừa lúc bạn bè nàng cũng lần lượt đến, chào hỏi, đùa giỡn huyên náo ngoài phòng khách.

    Khoảng 6 giờ chiều, Chú Huân và Tuấn về nhà bằng xe Jeep của chú. Nhân viên tài xế thả chú Huân và Tuấn xuống trước cổng nhà. Chú Huân dặn nó đến đón trước giờ giới nghiêm. Thằng em tài xế vâng dạ, chào hai người xong lái xe chạy đi.
    Hương ra mở cổng, chào chú Huân và Tuấn. Nàng nói:
    -Hai chú về trễ quá, tụi cháu đợi nãy giờ.
    Chú Huân nhìn quanh cười vui, cao giọng chọc chạch:
    -Làm cái gì mà trang trọng quá dzậy. Có cả hoa hồng nữa?
    Hương trách lấy lệ:
    -Chú chỉ nhớ tới ai không à, chứ có để ý gì đến lũ cháu này đâu?
    Tuấn đoán ra được phần nào, nhưng giả bộ hỏi xã giao:
    -Dịp gì vậy Hương?
    -Sinh nhật của Hương, chú.
    Tuấn ồ một tiếng nhỏ, khách sáo đưa đẩy:
    -Tệ quá! Chú không biết hôm nay là sinh nhật của Hương nên chẳng có gì. Thôi thì chúc Hương một tuổi nữa thật vui, thật như ý.
    Hương cười tươi:
    -Cảm ơn chú. Già thêm một tuổi thì có. Hai chú về được là quý lắm rồi.
    Khôi, anh bạn học với Hương cũng đứng lên chào hỏi xã giao vài câu. Tuấn để ý thấy hôm nay Hương mặc váy màu xanh nước biển đậm và cái áo ngắn tay màu trắng điểm lấm tấm hoa nhỏ màu phấn nhạt làm tăng nước da trắng hồng của nàng lên. Trông nàng tươi mát và trẻ trung. Chú Huân là người trong nhà nên không dè dặt gì, lảng vào nhà trong.

    Hương mời Tuấn ngồi chơi nơi chiếc ghế mây, rồi nàng đi rót nước cho chú Huân và chàng đặt lên cái bàn nhỏ bên cạnh. Tuấn thoáng thấy màn cửa lên phòng khách rung rinh, he hé, bóng người thấp thoáng và tiếng người suỵt suỵt ở nhà trong. Tuấn ngồi vài phút thì bố mẹ Hương theo sau là chú Huân bước ra, nên chàng đứng dậy chào. Chú Huân giới thiệu chàng cùng bố mẹ Hương. Bố Hương thân mật bắt tay Tuấn rồi ngồi xuống tiếp chuyện. Bố mẹ Hương cũng còn trẻ, người tầm thước, độ khoảng ngoài bốn mươi là cao. Trong lúc chuyện trò thì chị em Hương và hai cô em họ cùng bạn bè Hương đem thức ăn ra sắp trên bàn. Thức ăn đã dọn ra đầy bàn chung quanh bình hoa hồng. Mẹ Hương ghé tai nhắc nhỏ với bố nàng bữa cơm chiều đã sẵn sàng. Bố Hương đưa tay mời chú Huân và Tuấn xong đứng dậy, lại gần bàn ăn, nhìn qua một lượt, rồi hướng về mọi người đang đứng chung quanh, bố Hương bảo:
    -Thôi chú Huân và các cháu cứ dùng cơm tự nhiên với nhau cho vui.
    Hương nhìn Bố, ngập ngừng:
    -Bà và bố mẹ cũng...
    Bố Hương cười gạt ngang:
    -Bố mẹ vào dùng cơm chung với bà nội. Bọn trẻ ngồi với nhau thân mật hơn chứ có bố mẹ lại mất vui đi. Chú Huân đại diện được rồi.
    Nói xong, bố mẹ Hương bước vào nhà trong.
    Bọn trẻ bắt đầu ồn ào. Trong đám, chỉ có Khôi, Tuấn và chú Huân là phái nam, còn lại toàn là con gái. Hương xếp chỗ ngồi ở đầu bàn cho Tuấn. Đầu bàn đối diện là chú Huân. Hương ngồi cạnh Tuấn bên phải. Các em Hương và bạn bè trám vào những ghế còn trống. Thấy mọi người vẫn còn ngượng ngùng, Hương lên tiếng:
    -Chú Huân lớn nhất chủ tọa chứ?
    Chú Huân cười:
    -Sinh nhật của mày chứ của tao đâu? Tao chỉ dựa hơi thôi.
    Ông nhìn mọi người quanh bàn tiệc:
    -Toàn lũ cháu, chỉ có ông Tuấn là người mới. Mày giới thiệu mọi người chứ Hương?
    Hương chỉ từng người giới thiệu với Tuấn. Ngoài chị em Hương còn có Thanh Vân mà Tuấn đã gặp trong đơn vị, Ngọc Lan và Hồng Mai con Dì Uyên, Phương và Khôi bạn học đã quen biết gia đình Hương từ lâu. Mọi người bắt đầu tự nhiên hơn, vừa ăn vừa nói chuyện, đùa giỡn vui vẻ.

    Hương săn sóc Tuấn thật chu đáo. Tuấn cũng galant, gắp thức ăn cho nàng, khen bình hoa hồng đẹp, khen thức ăn ngon. Hương không nhận công, trả lời:
    -Mẹ, các em và bạn cháu nấu đấy, chứ cháu nấu nướng dở ẹc à!
    Tuấn đùa:
    -Hương khiêm nhượng quá! Chú ăn thì giỏi chứ nấu vụng lắm, chỉ biết nấu mỗi món trứng luộc dằm nước mắm là ngon tuyệt. Khi nào có dịp, chú sẽ trổ tài cho Hương coi.
    Hương mỉm cười thẹn thùng.
    Quỳnh phân bua:
    -Chú Tuấn biết không! Sinh nhật của cháu có bao giờ được bình hoa hồng đẹp như thế này đâu.
    Chú Huân cười khì:
    -Tao đã bảo sinh nhật năm nay nó làm đặc biệt quá mà. Những năm trước, chỉ có một nồi chè, một cái bánh hay mì, phở là cùng. Năm nay, chỉ thiếu món vòi voi, môi đười ươi, bàn tay gấu là đủ tám món "bát trân" rồi.
    Mọi người cười rộ, nhìn Hương với ánh mắt ranh mãnh khiến nàng mắc cở đỏ hồng hai má. Tuấn đánh trống lãng:
    -Mẹ và các em Hương nấu nhiều món ngon quá!
    Thủy nói không nghĩ ngợi:
    -Nấu mệt hơn đi nhà hàng.
    -Dĩ nhiên!
    Hương tiếp theo:
    -Đỡ tốn kém hơn nhiều.
    Tuấn tán dương:
    -Nhà hàng cũng chỉ nấu được như thế thôi. Chú thấy tổ chức tại nhà ấm cúng và thân mật hơn.
    Chú Huân nheo mắt nhìn chàng trêu:
    -Ông nịnh đầm bỏ mẹ.
    Tuấn hơi mắc cở, chống chế:
    -Ngoại giao mới đúng, Chỉ Huy Phó. Nếu không, về đơn vị lãnh mấy củ thì suốt đời lận đận.
    Mọi người lại cười, khiến Tuấn đỏ mặt.
    Phương xoay sang trêu Hương:
    -Hoa hồng nhung tượng trưng cho tình yêu nồng nàn, phải không mi?
    Hương lườm bạn:
    -Chắc được tặng hoa hoài sao mi rành quá vậy Phương? Tao thấy đẹp thì mua chứ biết gì đâu!
    -Mi ngây thơ, vô số tội! Mua hoa hồng nhung là tao đi guốc trong bụng mi rồi, Hương ơi!
    Hương cười ngượng ngập:
    -Tao nghi mi đi guốc trái quá.
    Khôi liếc nhanh qua Hương rồi ngồi trầm ngâm ngắm những nụ hồng thật trang nhã rải đều đặn quanh miệng bình thủy tinh. Hương mặt cứ đỏ au vì bị bạn bè trêu chọc, nàng đổi chiến thuật bằng cách lờ đi, không đối đáp đôi co nữa mà chỉ nói chuyện nho nhỏ với Tuấn. Mọi người lại vừa ăn vừa chuyện vãn vui vẻ.

    Ăn uống, dọn bàn xong xuôi, Hương đề nghị đem đàn nhạc ra hát. Chú Huân sở trường về nhạc Classics và Flamenco nên ông độc tấu bài "Romance d'Amour," "Leyenda" và bài "Recuerdos de la Alhambra" thật réo rắt. Ngọc Lan và Phương Quỳnh hát khá hay. Quỳnh đơn ca thêm một nhạc phẩm ngoại quốc lời Việt "When We Were Young" rất dễ thương. Tuấn đệm đàn cho Quỳnh hát, nhưng đàn chưa vững, chàng đuổi Valse muốn hụt hơi. Theo lời yêu cầu, Tuấn rủ Hương hòa chung bản "Tình Khúc Tháng Sáu" của Ngô Thụy Miên thì lại bị yêu cầu hát tiếp Tình Khúc Tháng Bảy, Tình Khúc Tháng Tám, v.v. Bài hát gợi cho chàng một cảm giác khó tả: niềm vui từ một tình cảm mới đang phát sinh xen lẫn với tiếc nuối cho tình yêu đầu thơ mộng vừa mất. Đôi khi Tuấn bắt gặp hình ảnh Tâm nơi Hương và bàng hoàng chợt nhận thấy rằng bóng dáng Tâm đã chiếm ngự một phần lớn đời chàng, một mảnh "puzzle" đã tìm được và ráp nối trong "puzzle cuộc đời" của chàng. Hương có phải là một mảnh lớn khác trong puzzle cuộc đời đó hay không? Chàng chưa biết, nhưng Tuấn cảm thấy gần gũi, hiểu nàng một cách dễ dàng và thân quen với không khí đầm ấm, cởi mở nơi đây. Đàn hát chán, mọi người lại ngồi tán gẫu lan man đủ thứ chuyện. Trời khuya dần, lần lượt từng người cáo từ ra về. Riêng Tuấn và chú Huân còn được dịp chuyện vãn thêm với chị em Hương cho tới gần giờ giới nghiêm vì đợi thằng em tài xế của chú Huân trở lại đón về đơn vị.

    Những tháng ngày sau đó, khi rảnh rỗi, Tuấn thường tới nhà Hương chơi vào buổi chiều. Không khí gia đình ấm cúng, thuận thảo và cởi mở khiến chàng cảm thấy dễ hội nhập và hòa đồng với sinh hoạt của gia đình nàng. Chàng và Hương xin phép đi chơi với nhau hoặc cùng với mấy chị em bát phố, bơi lội, ăn uống, xem phim, v.v. Bố mẹ Hương ngầm chấp nhận Tuấn như người trong nhà, có lẽ như chú Huân vậy. Hương và các em nàng vẫn quen miệng gọi chàng bằng "chú" chả vì, chàng là bạn của chú Huân mà. Tuấn cũng xưng "chú" với nàng một cách tự nhiên. Chàng cảm thấy càng ngày càng có nhiều cảm tình với Hương, khi xa thì nhớ vu vơ, lúc gần nhau, lòng chàng lại rộn rã.

    Chiều Chủ Nhật, thấy rạp Rex chiếu phim hay, Tuấn rủ Hương và Thủy, Quỳnh đi coi phim. Cả bọn đến rạp Rex đúng vào thời gian trình chiếu phim "Doctor Zhivago" phỏng theo quyển tiểu thuyết mang cùng tên của nhà văn hào Nga Boris Pasternak. Đây là loại phim tình cảm lồng khung trong bối cảnh xã hội thời Cách Mạng Vô Sản ở Nga, loại phim mà Tuấn và Hương đều thích xem. Trong lúc chị em Hương đứng đợi, vừa nói chuyện vừa liếc mắt nhìn những tờ quảng cáo dán trên tường, Tuấn đứng xếp hàng mua vé. Sau khi lấy vé, Tuấn mua thêm thức ăn vặt đem vào rạp hát.

    Tuấn và Hương ngồi bên nhau coi phim, thỉnh thoảng lại thì thầm nho nhỏ. Thủy và Quỳnh cũng mải mê với tình tiết éo le của truyện phim. Tới giờ tạm nghỉ giữa phim, đèn bật sáng, Tuấn và Hương bàn về chuyện tình của nàng con gái tên Lara với Doctor Zhivago. Thủy chen vào, thú thật:
    -Cháu chưa hiểu rõ cốt truyện.
    Tuấn giảng giải:
    -Chuyện phim nói lên sự thay đổi về xã hội và đời sống vật chất cũng như tình cảm của người dân thuộc chế độ Nga Hoàng cũ trước sự thay đổi về chính trị trong cuộc Cách Mạng Vô Sản ở Nga. Hương góp ý kiến:
    -Cuộc cách mạng đã ảnh hưởng đến lối sống, lối suy nghĩ và hành động của người dân Nga nhiều quá. Chuyện tình buồn ghê hả chú? Omar Shariff đóng vai Doctor Zhivago và Julie Christie trong vai Lara thật xuất sắc.
    Tuấn gật gù:
    -Nhà đạo diễn tài ba David Lean quay phim này cũng rất tốn kém.
    Quỳnh hỏi:
    -Phim dài mấy tiếng đồng hồ hả chú Tuấn?
    -Hình như ba tiếng hay sao ấy.
    Còn nhiều thì giờ chờ đợi, Hương bèn lôi kẹo bánh, nho khô ra phân phát cho mọi người rồi vừa nhai vừa nói chuyện...

    Đèn lại tắt để chiếu tiếp phim. Hương tìm tay Tuấn trong bóng tối và dúi vào giữa lòng bàn tay hai viên kẹo. Tuấn nhìn qua nàng, ánh sáng trên màn ảnh chiếu khuôn mặt nàng mờ ảo. Chàng bóc giấy, đưa lại nàng một cục kẹo rồi bóc viên kẹo kia bỏ vào miệng ngậm. Viên kẹo có mùi rượu Rhum thơm thơm, cay cay, nồng nồng. Tuấn ghé sát tai Hương thấp giọng:
    -Kẹo ngon Hương.
    Hương thì thào:
    -Cháu để dành cho chú đấy.
    -Các em có phần chưa?
    Hương khôi hài:
    -Chúng nó còn vị thành niên, không được ăn kẹo có rượu chú à! Kẹo này chỉ dành cho người lớn thôi.
    Tuấn trêu:
    -Chú có cô cháu gái lớn quá. Chừng nào cho chú uống rượu thật đây?
    Hương mắc cở ậm ừ:
    -Chưa có ai khiêng rượu tới chú ơi.
    Tuấn hỏi dò:
    -Chú thấy Khôi có vẻ cảm cháu nặng rồi đấy.
    -Khôi chỉ là bạn thôi. Học cùng lớp với cháu và Thủy.
    -Bạn rồi bồ mấy hồi. Tình bạn trai gái biến thành tình yêu dễ dàng lắm.
    Hương khẳng định:
    -Cháu thì khác. Khôi là bạn, không hơn không kém.
    Giọng Tuấn hân hoan hơn:
    -Chắc điều kiện của cháu khó quá hở?
    -Không hẳn chú ạ! Cháu dễ có cảm tình với người mà cháu nể phục. Cháu cũng không đòi hỏi gì về giàu sang, tiếng tăm hay địa vị cả.
    Nãy giờ, Tuấn đã bỏ dở mất vài đoạn phim. Hương cũng như chàng chả để ý nhiều đến sự gián đoạn đó, vẫn thì thầm nói chuyện.
    -Cháu đã chấm được ai chưa?
    -Mới có cảm tình, nhưng cháu chưa biết rõ người đó thế nào.
    -Sao không tìm hiểu thêm về anh ta?
    -Cháu cũng đang cố đó chứ.
    Viên kẹo tan gần hết, chất lỏng rượu vỡ trong miệng hơi nhặng nhặng, cay nồng hơn. Mùi rượu Rhum xông lên mũi vẫn không xua được mùi Chanel số 5 thoang thoảng làm Tuấn rạo rực. Tuấn và Hương lại lặng yên, mắt dán lên màn ảnh theo dõi đoạn kết thật buồn của cuốn phim. Phim hay và cảm động!

    Phim vừa dứt, đèn bật sáng, tiếng ghế xập lại, tiếng người di động ồn ào. Cả bọn ngồi nán lại đợi người ra bớt để khỏi phải chen lấn. Mặt Hương đỏ hồng. Tuấn vươn vai, bẻ đốt ngón tay vài cái rồi đứng dậy cùng ba cô cháu bước dần ra ngoài rạp hát. Hơi nóng bên ngoài phả vào mặt Tuấn rát rạt. Thủy vẫn còn ấm ức về chuyện phim:
    -Chú Tuấn! Zhivago chết thật buồn.
    Hương cũng đồng tình:
    -Tội nghiệp! Thấy người yêu mà lúc chết không gặp mặt nhau.
    Quỳnh thắc mắc:
    -Sao Zhivago không gọi Lara?
    Tuấn trả lời:
    -Zhivago bị bệnh tim, tình cờ thấy Lara sau một thời gian dài mất liên lạc, ông ấy xúc động mạnh, lên cơn đau tim, đâu gọi được gì nữa.
    Quỳnh nói thêm:
    -Đứa con gái của Zhivago và Lara xấu quá. Cha mẹ đẹp vậy mà con gái thì xấu.
    Thủy đáp gọn:
    -Phim mà! Tuấn tiếp theo:
    -Với lại chắc lao động cực khổ trong chế độ mới nên nhan sắc tàn phai đi.
    Hương nói :
    -Cháu thấy buồn vì đời sống con người bị cuốn theo sự đổi thay của xã hội nhiều quá.
    Tuấn cười:
    -Thế mới có phim hay chứ. Chắc khóc hết nước mắt rồi, phải không?
    Hương vênh mặt:
    -Cháu đâu dễ khóc vậy chú!
    Một phút qua, không ai nói thêm câu nào, Quỳnh lên tiếng hỏi:
    -Bây giờ tới mục gì, chú Tuấn?
    Hương đùa:
    -Về nhà nấu cơm, rửa chén chứ mục gì nữa?
    Tuấn nhìn đồng hồ đeo tay cười:
    -Còn sớm mà! Mình qua Tân Định ăn thạch chè Hiển Khánh cho mát. Trời nực quá! Các cháu nghĩ thế nào?

    Cả bọn ra lấy xe. Tuấn đạp máy xe Honda. Hương ngồi đằng sau, ôm ngang bụng chàng. Tuấn từ từ cho xe chạy về hướng Nhà Thờ Đức Bà. Thủy chở Quỳnh theo sát sau xe chàng. Con đường Tự Do ngang nhà hàng Continental tương đối mát mẻ vì hai hàng cây cao rợp bóng. Từ xa, Tuấn đã thấy Nhà Thờ Đức Bà với hai ngọn tháp chuông nhọn màu xám nhạt in hình trên nền trời trong xanh cao vút, lững thững vài cụm mây trắng nổi lững lơ. Xe cộ nối đuôi nhau lượn quanh Công Trường Hòa Bình có tượng Đức Mẹ Fatima đỡ quả địa cầu. Xa hơn, bên tay trái, sau khuôn viên rợp bóng lá và hàng rào sắt cao là Dinh Độc Lập đồ sộ, chiếm ngự một vùng thật quang đãng. Dinh Độc Lập nguy nga, trông như một tòa nhà bằng cẩm thạch trắng nổi bật trên thảm cỏ xanh rộng rãi chung quanh. Tuấn vòng xe qua bên phải. Bưu Điện người ra vào tấp nập. Những hàng quán bán bò bía, paté chaud và thức ăn vặt vẫn đông người thưởng thức.

    Vòng tay Hương chặt chẽ như vòng tay Tâm khiến Tuấn có ý tưởng so sánh giữa hai người con gái. Cả hai đều dong dỏng cao, đẹp và thông minh. Tâm nhu mì, giàu tình cảm, nhẫn nhục. Hương chững chạc, tháo vát, nhiều nghị lực. Mỗi người đều có những ưu điểm riêng. Tuấn nghĩ thật là một diễm phúc cho anh chàng nào vớ được một trong hai nàng. Tuấn đã yêu Tâm. Chàng cũng có nhiều cảm tình với Hương, hơn là tình cảm giữa chú và cháu. Giờ đây, Tâm đã ở ngoài tầm tay của chàng. Tình cảm Hương thế nào, chàng chưa rõ. Đời người chẳng có mấy dịp may, cơ may đến mà mình không giữ lấy thì nó sẽ qua mất, nhất là tình yêu!

    Mải nghĩ vẩn vơ, Tuấn đến Tân Định hồi nào không hay. Chàng gửi xe, cùng mấy cô cháu bước vào tiệm. Tiệm thạch chè vào ngày cuối tuần nóng nực, đông nghẹt. Tuấn phải đợi mất mười lăm phút mới có bàn cho bốn chú cháu. Người hầu bàn đến, chàng để cho ba cô cháu ruột dư chọn mấy món bánh: bánh nhân mặn, bánh su-sê, bánh da lợn và mỗi đứa một ly thạch chè đá bào nhỏ mát rượi.

Similar Threads

  1. Theo Tàu Mất Nước, Theo Mỹ Mất Đảng
    By hieunguyen11 in forum Nhận Định Thời Cuộc
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-16-2012, 12:42 AM
  2. Mất Đà Nẵng
    By tieuchuy in forum Chuyện 30.4
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-29-2012, 01:23 AM
  3. Mất Gốc !
    By loibangTQLC in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-20-2011, 06:02 PM
  4. Coi Chừng Mất Bóp
    By Thienbang in forum Linh Tinh
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-08-2010, 04:32 PM
  5. Chuyện Mất Dép
    By chimtroi in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 01-22-2008, 07:37 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •