Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 9 trên 9

Tựa Đề: Bên Kia Sông

  1. #7
    chieutim's Avatar
    Status : chieutim v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2009
    Nguyên quán: Italy
    Posts: 794
    Thanks: 8
    Thanked 34 Times in 23 Posts

    Button Do



    Đường Việt Nam








    Tự sự Nguyễn Ðức Quang:
    Tâm Thức Dân Tộc và Phong Trào Du Ca 1966-1975

    Hoàng Khởi Phong
    (ghi)

    LTS – Nhân ngày giỗ đầu của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (27 tháng Ba, 2012), chúng tôi xin trích đăng lại một phần cuộc phỏng vấn Nguyễn Đức Quang của nhà văn Hoàng Khởi Phong, trong đó cho thấy quan niệm “âm nhạc dấn thân” của người nhạc sĩ khởi xướng ra Phong trào Du Ca Việt Nam.

    1- ... Tôi sinh năm 1944, tại Sơn Tây. Cha tôi là một công chức trong ngành giáo dục., ông đã xê dịch rất nhiều nơi.

    Tôi nhớ ngày tôi còn nhỏ xíu, tôi đã theo ông đi làm việc tại Chapa, rồi vài năm sau, một thời gian ngắn trước cuộc di cư vĩ đại của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, cha tôi đổi vào làm Tổng Thư Ký cho Bộ Giáo Dục trong Sài Gòn, thành thử vô hình chung gia đình tôi di cư trước. Mới tháng 4 năm 1954, gia đình tôi đã có mặt tại Sài Gòn.

    Năm 1958, cha tôi lại đổi ra làm Trưởng Ty Tiểu Học ngoài Côn Ðảo. Năm đó tôi đã lên Trung Học được hai năm, mà tại Côn Ðảo thì trường học chỉ có tới lớp Nhất, thành thử suốt ngày tôi lêu bêu nơi đầu ghềnh cuối bãi. Ðến bây giờ tôi còn nhớ được vài địa danh tại hòn đảo ngục tù này. Suốt ngày tôi thơ thẩn, lang thang theo các tù nhân được làm việc bên ngoài khu giam. Lúc đó tôi là một thiếu niên hiếu động, tò mò nghe các tù nhân nói về đủ thứ tù nổi danh của hòn đảo này.

    Năm 1959 cha tôi đổi về Ðà Lạt, tôi theo học trường Bồ Ðề cho tới năm 1961 mới vào học tại Trường Trung Học Trần Hưng Ðạo, một trường công lập lớn nhất của tỉnh Ðà Lạt. Năm 1964 tôi đậu Tú Tài, và theo học Khóa I Chính Trị Kinh Doanh của Viện Ðại Học Ðà Lạt, khi ngành này vừa mới thành lập.

    2- Ðời nhạc của tôi có một bước rẽ quan trọng: Ðó là lần gặp gỡ với anh Phạm Duy. Trước khi gặp anh Phạm Duy, tôi đã có soạn khá nhiều ca khúc. Nhạc của tôi sau này người ta gọi là nhạc cộng đồng, nhạc sinh hoạt, hay là một loại nhạc nào đó, một thứ tình cảm khác, một thứ tình cảm không phải chỉ dành cho hai người đang yêu nhau, mà là một thứ tình cảm thiết tha nói lên cái liên hệ giữa vùng đất và con người.

    Nhóm chúng tôi tham gia nhiều công tác xã hội, Ðầu năm 1965, chúng tôi dự phần vào một công tác dài ngày. Chúng tôi dựng 200 căn nhà cho đồng bào Thượng, nạn nhân chiến cuộc. Trại Suối Thông, lập ở Phi Nôm, và nhóm chúng tôi phải nằm tại đây trong hai tháng trời. Giữa năm 1965, nhóm chúng tôi tham gia một trại khác của sinh viên toàn quốc. Ðịa điểm sinh hoạt là Thạnh Lộc Thôn. Trại có tới hai, ba trăm trại viên, lập thành một địa điểm như một cái làng nằm trong tỉnh Bình Dương. Chính trong kỳ sinh hoạt này tôi được gặp nhạc sĩ Phạm Duy.

    Dịp này nhạc sĩ Phạm Duy đến sinh hoạt với toàn thể sinh viên chúng tôi. Ông đang làm loạt nhạc mới mà ông gọi là 10 bài Tâm Ca, lúc đó mới chỉ xong có 7, 8 bài. Ông hát những ca khúc này, và tôi bị choáng ngợp bởi nhạc và lời của những bản Tâm Ca này. Ông hát một hơi năm bản, và trong giờ nghỉ của ông, tôi được anh em của nhóm tôi đẩy ra trình diễn một số ca khúc của tôi. Chỉ là vài bài ca sinh hoạt mà thôi.

    Tôi bị nhạc của Phạm Duy hớp hồn như thế nào, thì ông ngạc nhiên về những ca khúc của tôi như thế. Sau đó hai bên gặp gỡ, với Phạm Duy, ông cho tôi là một khám phá mới. Nó khác hẳn những dòng nhạc của những người đi trước và cùng thời với ông. Do đó Phạm Duy đề nghị mỗi tuần gặp nhau một lần vào tối Thứ Năm, để hát cho nhau nghe những sáng tác mới. Tôi đã trình bày cho Phạm Duy nghe toàn bộ những ca khúc trong tập Trầm Ca. Nội dung những ca khúc trong tập nhạc này, là đặt vấn đề thanh niên đối với vận mạng đất nước, đưa ra những suy nghĩ của tuổi trẻ như những sáng tác trong bài “Nỗi Buồn Nhược Tiểu” hay “Tiếng Hát Tự Do” hay “Lìa Nhau,” và ban Trầm Ca đã ra đời trong dịp này, với thành phần nòng cốt là phần lớn bạn bè ở Ðà Lạt. Từ đó chúng tôi được đi hát với Phạm Duy.

    Chúng tôi tạo được một ảnh hưởng khá lớn. Cuối năm 1965, nhóm chúng tôi được mời tham dự các sinh hoạt các kỳ trại, và đặc biệt là các khóa huấn luyện thanh niên, của các hội đoàn thanh niên tại khắp bốn quân khu. Giai đoạn này nghĩ lại là một giai đoạn lạ lùng nhất. Chúng tôi làm việc như điên cuồng, sáng tác, tập tành, đi trình diễn, đi huấn luyện. Chúng tôi không còn biết đến một điều gì khác ở cái tuổi 20 lúc đó.

    Những chuyến ăn cơm nhà, vác ngà voi đó bề gì cũng cho chúng tôi một cơ hội nhìn ngó lại mặt mày của chính chúng tôi, và đồng thời chúng tôi cũng có cơ hội được nhìn ngó cái mặt trái của chiến tranh, và của dân chúng Việt Nam ở những chỗ giáp vòng lửa đạn, và tận cùng khổ đau.

    Chính những chuyến đi này, đã thổi vào tâm hồn tôi những trận gió nóng hừng hực. Những sáng tác của tôi, nếu anh để ý thì hình như ít có những hoa và bướm, chỉ toàn là những tiếng kêu. Nhiều khi tôi muốn rú lên trong những ca khúc của tôi. Những thanh âm của sự khổ đau làm sao mà êm ả được. Trong những vùng tương đối có an ninh, nơi các thành phố tôi bắt gặp những hình ảnh đau lòng khác của chiến tranh: Những hố ngăn cách giữa giầu và nghèo, những bất công, những sa đọa của một xã hội trong thời chiến... Ðó là một trong những lý do khiến những ca khúc của tôi có được những hình ảnh, tâm tình và những suy nghĩ mới sống động, sát với thực tế xã hội.

    Suốt hơn một năm trời đi và sinh hoạt như thế, tổng kết lại có hơn ba mươi tỉnh liên lạc với nhóm chúng tôi, tự động đề nghị giúp họ tiếp tục có điều kiện sinh hoạt, có bài hát, có trò chơi, có công tác xã hội, lập thành một đơn vị gì đó. Ðó là một kết quả đầy xúc động, và bởi vậy chúng tôi không ngừng lại được. Những sợi dây liên lạc đầu tiên này chính là những mắt lưới chắc chắn, và nương vào đó phong trào du ca hình thành. và chính thức có giấy phép hoạt động từ năm 1966.

    3- Người ta có thể coi Du Ca là một phong trào thanh thanh niên, hay một phong trào sinh viên, học sinh, hay là một nhóm người hoạt động xã hội, hay là một ban văn nghệ, hay là cái gì đó, nhưng có một điều dứt khoát trong tôn chỉ (nếu có) của chúng tôi, thì Du Ca không làm chính trị. Tôi không phủ nhận trong anh em chúng tôi sau này cũng có người hoạt động chính trị, nhưng đó là một mặt khác của mỗi người trong anh em chúng tôi.

    Chúng tôi chỉ là những người trẻ, trẻ cả tâm hồn lẫn thể xác, muốn tìm một con đường để phụng sự xã hội, khác với mọi con đường đã có sẵn. Chúng tôi muốn phục vụ xã hội nhiều hơn là mưu đồ một việc gì đó cho mỗi anh em chúng tôi. Chúng tôi chọn thanh niên làm đối tượng chính cho mọi sinh hoạt của chúng tôi, kế đó là những hoạt động trong phạm vi xã hội, đặc biệt là cứu trợ, bởi vì đất nước đang trong thời chiến, nạn nhân của chiến tranh đã lắm, mà thiên tai, hỏa hoạn, lụt lội, bão tố còn đóng góp thêm không ít khổ ải cho dân tộc Việt Nam.

    Nói khôi hài một chút thì ngay từ khi mới ra đời, phong trào du ca nổi lên như một bầy ong vỡ tổ, nhao nhao khắp mọi nơi. Chỉ trong một khoảng thời gian không đầy một năm, trên toàn quốc có cả trăm toán du ca, chỉ riêng Vùng Một Chiến Thuật, Ðà Nẵng và Huế không mà thôi đã có hơn ba chục toán. Một toán du ca địa phương thường do một nhóm bạn trẻ địa phương tự phát động, khi đủ nhân số tới một mức độ nào đó, thì Văn Phòng Trung Ương của Phong Trào Du Ca, cử người tới huấn luyện. theo nhu cầu tại chỗ.

    Thỉnh thoảng Phong Trào Du Ca tổ chức những trại huấn luyện đặc biệt, các đoàn địa phương gửi người về tham dự. Mỗi hai năm lại có một đại hội để các nơi về dự.

    Con số đoàn viên của Phong Trào Du Ca trên toàn quốc vào khoảng từ 4,000 cho tới 5,000 người. Ðến bây giờ nghĩ lại tôi thấy chắc chắn chúng tôi đã tìm được một chất keo nào đó, để buộc được mấy ngàn con người, cùng một nhịp đập của trái tim, một nhịp thở của buồng phổi, một hướng sinh hoạt chung.

    Một khi phong trào đã dấy lên, tại tỉnh nào cũng có một đoàn du ca, không lớn thì nhỏ. Với hàng ngàn đoàn viên trên toàn quốc thì không một ai có thể phủ nhận anh em chúng tôi là một sức mạnh. Ðó là một lực lượng nhân sự lớn lao mà ngay cả các đoàn thể do chính quyền thành lập cũng không hơn được. Hơn thế nữa, lực lượng đó còn đang độc lập, không bị chi phối bởi bất cứ một phe nhóm chính trị nào. Tính độc lập ấy cũng đã gây không ít phiền lụy cho chúng tôi sau này.

    4- Năm 1967, sau một năm hoạt động, anh em chúng tôi quyết định tổ chức Ðại Hội Du Ca Kỳ I. Ðịa điểm tổ chức đại hội được CPS cho mượn và thời gian sinh hoạt kéo dài trong ba ngày, với sự tham dự của rất nhiều anh em đại diện các đoàn du ca từ khắp nơi về tham dự.

    Khi phong trào thành lập và hoạt động được hai năm thì tôi tin rằng phong trào sẽ không bao giờ tan vỡ, bởi vì những người du ca chúng tôi đáp ứng cho một nhu cầu xã hội lúc bấy giờ. Chúng tôi không làm chính trị, nhưng không một ai có thể chối cãi sinh hoạt của du ca có một ý thức chính trị cao. Chỉ nội một điều chúng tôi ca tụng tự do, hô hào cho tự do đã đủ làm cho cả hai phe tham chiến không lấy gì hài lòng. Bởi vì tự do là một cái gì hoàn toàn lạ mặt đối với phía Cộng Sản, còn đối với chính phủ miền Nam, chúng ta có một thứ tự do bị hạn chế khá nhiều. Chúng tôi không muốn dính dự vào chính trị, nhưng những người làm chính trị thì lại muốn chúng tôi. Thành thử đã có nhiều lần người ta tìm cách vận dụng chúng tôi.

    Phần tôi tôi có ý thức chính trị, song tôi không hoạt động chính trị, và lý tưởng của riêng tôi là ca hát cho đời, thiết tha nói lên những suy nghĩ của tuổi trẻ chúng tôi, kêu gọi mọi người hãy yêu thương nhau, hãy xắn tay áo và làm việc, không phải là lúc ngồi đặt vấn đề, mà là lúc bắt tay vào việc. Làm những việc nhỏ thôi, trong tầm tay của mình, làm tốt cho một số người ngay bên cạnh mình mà thôi. Phía Cộng Sản, họ chuyên trị hoạt động đoàn thể, nên hình như họ nhìn vấn đề sinh hoạt cộng đồng, họ nhìn Phong Trào Du Ca nghiêm trọng hơn chính quyền miền Nam.

    Những người anh em du ca chúng tôi hãnh diện làm được khá nhiều việc. Thổi được một luồng gió mới sinh động qua các trường học, đặc biệt là tạo được một ảnh hưởng đối với học sinh sửa soạn bước vào đại học, tạo một cơ hội cho tuổi trẻ nhìn lại chính thân phận của mình, và hoàn cảnh của đất nước, của dân chúng, của xã hội. Ðó là một cái nền của một bức họa, và rồi anh em chúng tôi, mỗi người tùy khả năng mà dệt gấm thêu hoa.

    5- Tôi có bốn đợt sáng tác, mỗi đợt có thể coi như là một tập ca khúc: “Trầm Ca, Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Hát Tự Do, Ruồi và Kên Kên.” Tuy là bốn đợt sáng tác trong bốn thời điểm khác nhau, song tinh thần của những ca khúc không có gì thay đổi nhiều. Có nhiều người kết tội tôi là làm những ca khúc phản chiến. Tôi xác nhận trong những ca khúc của tôi quả có một số bài phản chiến. Nhưng tôi nghĩ bất cứ một người dân thường nào cũng yêu hòa bình, và chán ghét chiến tranh. Hòa bình có phải chăng là niềm khát khao của toàn thể dân tộc, bởi vì trên thế giới này, không có một dân tộc nào chịu nhiều khổ đau vì chiến tranh cho bằng dân tộc Việt Nam.

    Những ca khúc của tôi đâu phải chỉ có toàn những lời ca rên xiết vì hòa bình. Con số những ca khúc mà người ta coi là phản chiến thật ra rất ít. Tôi chống lại mọi áp đặt, mọi bất công, mọi tệ trạng, mọi điều xấu làm con người tha hóa, thành thử có một dạo chính quyền miền Nam cũng nhìn tôi bằng một con mắt nghiêm khắc. Bởi vì tôi là một trong những người đã viết những ca khúc nói lên tệ trạng tham nhũng của miền Nam. “Ruồi và Kên Kên” là một tập gồm những ca khúc khiến tôi trở thành một cái gai cho cả hai phe tham chiến. Phe nào cũng là ruồi, và phe nào cũng có hình ảnh của kên kên.

    Sau năm 1975, phong trào du ca tất nhiên cũng như mọi đoàn thể và đảng phái của miền Nam tự động “đóng cửa tiệm.” Một số nhỏ thoát đi được sang nơi xứ người, việc trước tiên là làm lại cuộc đời. Theo tôi biết có đến một nửa số đoàn viên du ca đã ra khỏi nước. Một nửa có nghĩa là hàng ngàn người đang sinh sống trong những quốc gia xa lạ. Con số thì to, nhưng việc quy tụ không phải là một điều dễ dàng gì. Thành thử đã nhiều năm nay, anh em chúng tôi lòng muốn tập họp lại nhưng hoàn cảnh thực tế không cho phép.

    Về điều kiện xã hội tại những nơi mà anh em du ca đang tạm sống, nói chung các cộng đồng Việt Nam ở Mỹ đa dạng quá, lôi cuốn thanh niên đi vào các sinh hoạt chính trị nhiều hơn là sinh hoạt thanh niên thuần túy. Sinh hoạt thanh niên phải luôn luôn được bồi đắp bởi những lớp người mới, và những sáng tác mới cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Thiếu sự liên tục của các lớp người trẻ thì thật giống như một cái cây mỗi ngày mỗi cằn cỗi. Ðó là một lý do khác khiến anh em chúng tôi tuy đã có mặt nơi đây khá đông, nhưng còn ngần ngại trước khi chính thức bắt tay vào việc gây dựng một phong trào sinh hoạt thanh niên khác.

    Về những sáng tác mới, tôi chỉ muốn nói một điều: Ngày xưa tôi sống thật trên quê hương tôi... Ngày nay tôi không có cơ hội tích lũy những chất liệu vừa kể. Những sáng tác thuần kỹ thuật và trí tuệ cho dù có hay nó vẫn có một cái gì đó không thật, thành thử nó cứ gượng và vì vậy mà không đi được vào lòng người.

    Lớp người khai phá phong trào du ca bây giờ đã bước vào tuổi già. Vài người ở ngưỡng cửa 60, số đông anh em trên 50. Tinh thần của chúng tôi tuy vẫn còn, nhưng thể chất có lẽ sẽ không còn được dẻo dai, bền bỉ như 30 năm trước. Vả lại nếu bây giờ hình thành một sinh hoạt thanh niên thì đó có thể không phải là “Phong Trào Du Ca” của 30 năm trước, và tại quê nhà. Chỉ có thể tựa vào đó như một chất keo, hàn gắn lại anh em sau ba chục năm rời rã, kế đó phải có một tinh thần sinh hoạt mới, phù hợp với hoàn cảnh mới, và những con người mới. Tinh thần của du ca phải là một tinh thần sinh động, không đóng chấu với bất cứ một hoàn cảnh chính trị hay xã hội nào, ngoại trừ sự hữu hiệu.

    (http://hocxa.com)

  2. #8
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Note

    Mùa thu lại đi
    (Nguyễn Đức Quang sáng tác và trình bày)








  3. #9
    chieutim's Avatar
    Status : chieutim v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2009
    Nguyên quán: Italy
    Posts: 794
    Thanks: 8
    Thanked 34 Times in 23 Posts

    Button Do Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ






    KHI BÀI HÁT TRỞ VỀ

    (Tiểu luận về nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, đăng lại nhân ngày giỗ anh, 27 tháng 3)

    Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.

    Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy mà đi của Nguyễn Xuân Tân (Tôn Thất Lập), Tổ quốc ơi ta đã nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người.

    Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.

    Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
    Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
    Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm
    Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.


    Lời nhạc của Việt Nam quê hương ngạo nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho Việt Nam quê hương ngạo nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau.

    Việt Nam quê hương ngạo nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.

    Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng đạo, Du ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

    Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.

    Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam quê hương ngạo nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.

    Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam quê hương ngạo nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”

    Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi nào đặt hàng hay một ông Tổng ủy trưởng Dân vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam quê hương ngạo nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước. Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngả của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.

    Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam quê hương ngạo nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.

    Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
    Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
    Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
    Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.


    Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc. Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên.

    Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.

    Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam quê hương ngạo nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

    Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo dục và Thanh niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của “mùa hè đỏ lửa” chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam quê hương ngạo nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:

    Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
    Xương da thịt này cha ông miệt mài
    Từng ngày qua
    Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
    Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
    Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
    Còn Việt Nam
    Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.


    Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt.

    Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng. Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.

    Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước? (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.

    Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.

    Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Dậy mà đi, Nối vòng tay lớn của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

    Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
    Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
    Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
    Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.


    Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam.

    Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.

    Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
    Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
    Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
    Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.


    Việt Nam quê hương ngạo nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng.

    Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử. Sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.

    Trần Trung Đạo

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Những bức ảnh lịch sử quý hiếm bên bờ sông Bến Hải
    By hung45qs in forum Sưu Tầm, Biên Khảo
    Trả lời: 2
    Bài mới nhất : 11-24-2011, 02:45 PM
  2. Bên Kia Sông - Thái Hiền
    By hung45qs in forum Video ca nhạc Việt
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-11-2011, 06:34 AM
  3. Bên ni bên nớ - Tặng các " CB " điều hành HQ
    By Southsky in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-18-2010, 11:07 PM
  4. Hoa rụng ven sông
    By saorơi in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 05-25-2009, 11:43 PM
  5. Ai có về bên bến sông Tương
    By PS khoá 72G in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 05-09-2009, 01:55 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •