Remember ?

kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Tựa Đề: Giã biệt với Sài Gòn

  1. #1
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st Giã biệt với Sài Gòn

    ADIEU à SAIGON
    Tác giả: Jean Lartéguy
    Chuyển ngữ: Dương hiếu Nghĩa

    ===========

    LỜI GIỚI THIỆU TÁC GIẢ



    Phóng viên có tầm vóc, nhà báo, tác giả kịch nghệ, tiểu thuyết... v.v.. Jean Lartéguy thông báo ngay là trong cuốn sách nầy, được thảo trong một phòng ngủ ở khách sạn Continental tại Sài Gòn, ông đã mô tả những giờ cuối cùng của sự đầu hàng của Miền Nam Việt Nam và một cuốn sách kế tiếp së nói về cơn hấp hối của thành phố Sài Gòn .

    Trên thật tế, mặc dầu là anh đã nói như vậy nhưng thật sự đây là cơn hấp hối của thủ đô Sài Gòn mà Jean Lartéguy mô tả với tài năng thường ngày của mình. Từ khi Bắc Việt bắt đầu tấn công Miền Nam Việt Nam , quân lực Miền Nam với 270.000 người đã chống với 230.000 quân Bắc Việt và quân Việt Cộng (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) . Quân số ngang ngửa nhau,và Miền Nam Việt Nam cũng có thể dành được chiến thắng, nếu ở Sài Gòn có một Bộ Tham Mưu có đầy đủ chiến lược. Tác giả biết rõ về các giai đoạn của tấn thảm kịch ở Đông Dương đã lên án một cách không vừa lòng những người có trách nhiệm của Miền Nam . Để đối lại với sự tham nhũng của các tướng lãnh và sự thiếu ý thức của binh sĩ Miền Nam Việt Nam , phía Bắc Việt có sự dũng cảm của các cấp cán bộ và sự tận dụng các binh sĩ. Không có gì lạ hết, vì thế mà chỉ trong hai tháng, gần như không có đánh nhau, quân lực Miền Nam Việt Nam bị tan rã. Như thế, bây giờ Sài Gòn được gọi là thành phố Hồ chí Minh: một giai đoạn mà nhiều người ở Âu Châu đã coi. như một chiến thắng. Trong quyển sách nầy Jean Lartéguy cũng cho chúng ta thấy tại sao Sài Gòn không bị đốt cháy.

    _________________________________



    LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ

    Bức màn tre vừa được thả xuống Sài Gòn và xuống 25 năm cuộc đời của tôi.

    Tôi đặt chân lên Sài Gòn lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã qua Việt Nam trên con tàu Marseillaise, một chiếc tàu sơn toàn trắng, trên đó các sĩ quan trẻ đều quyết tâm đi tìm cái chết . Chúng tôi đã phung phí lương của mình trong các quán rượu thượng hạng để làm cho các cô gái lai xinh đẹp để ý đến mình, các bà vợ của các nhà trồng tỉa hay công chức đang đi trở về với chồng trong cái thiên đường ngoại quốc nầy.

    Tôi bị đuổi đi cũng từ Sài Gòn ngày 28 tháng 5 năm 1975. Một sự liên lạc thật là sôi động ! Giặc giáo phái suýt làm tôi mất mạng, chuyện sát hại ông Diệm, chuyện đổ bộ ồ ạt của quân lính Mỹ, các cuộc đảo chánh leo thang, tướng Khánh với bộ râu dưới cằm và một cái đầu rỗng tuếch, Nguyễn cao Kỳ với quân phục phi công sáng chói, ông Thiệu khó mà thấy được mặt và ông Minh "lớn" lúc nào cũng im lặng bởi vì ông không có gì để mà nói, nhưng chơi quần vợt rất sành và trồng nhiều giống lan.

    Người ta "vứt" tôi ra khỏi thành phố nầy, một thành phố đã không còn mang tên là Sài Gòn nữa, mà là thành phố Hồ chí Minh, một thành phố của "bác Hồ", một thành phố mà càng ngày càng trở nên xa lạ với tôi quá ; tôi còn gì để làm ở đó nữa.



    Còn thành phố kia, thành phố mà tôi thương mến, nó đã chết rồi khi các chiến xa Liên Xô với các xa đội Bắc Việt đã ủi sập hàng rào của Dinh Độc Lập mà không cần đòi hỏi người ta cũng së mở ra cho họ vào...

    Ba người dân của sao Hỏa từ Hà Nội vào, nhỏ con, mặc quân phục màu xanh lá cây, đội nón cối, đeo súng lục lủng lẳng bên hông, đã tống đạt dưới hình thức một bản án, lệnh trục xuất tôi "vì những bài viết của tôi". Họ không biết là tôi đã quyết định lên phi cơ ngay ngày hôm sau, và họ cũng không biết là tôi cũng không vui vẻ gì để kéo dài thêm thì giờ ở bên cạnh một thành phố đã chết.

    Đó không phải là một cuốn sách .Nó chỉ là một bản thảo. bản thảo đó , có thể rồi tôi cũng së viết, một ngày nào đó thôi. Chỉ là chuyện giã biệt Sài Gòn của tôi. Và cũng là lịch sử của 5 ngày hấp hối của Sài Gòn và câu chuyện kể về cái chết của thành phố nầy. Nhưng đó không có gì khác hơn là những ghi vội thảo nhanh trên giấy trong phòng ngủ của tôi ở khách sạn Continental mà thôi!



    Jean Lartéguy


    CHƯƠNG MỘT



    25 THÁNG TƯ 1975



    Tỷ giá của đồng bạc Việt Nam: 3500 đồng ăn 1 mỹ kim



    Cuối cùng rồi tôi cũng đến được Sài Gòn . Không có dễ gì đến được Sài Gòn và đến phút cuối cùng tôi vẫn tưởng rầng tôi sẽ bị duổi ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất .

    Vài ngày trước đó, tôi đã xin một chiếu khán ở tòa Lãnh sự của Miền Nam Việt Nam . Tôi và anh Raoul Coutard (1) phải thực hiện một cuốn phim về sự thất thủ của Sài Gòn . Tôi có một bức thơ giới thiệu rất tốt của đài truyền hình Pháp và tôi đến trình diện ở tòa Lãnh Sự với cái tên thật của tôi, chớ không phải dưới cái tên L'Artéguy, một cái tên giả mà tôi đã tự đặt ra để xuất bản một vài bài báo mà không phải bị bắt buộc phải xin một "giấy phép" với cấp trên của tôi. Lúc bấy giờ tôi còn là một sĩ quan trong Quân đội .

    Anh Coutard thì được giấy chiếu khán, còn tôi thì bị từ chối.

    Đúng là tôi bị đập một lần nữa. Cả hai tên của tôi đều nằm trong sổ bìa đen ! Một hồ sơ thật đầy đủ làm tên tôi nổi bật lên. tôi bị cấm thời ông Diệm cũng như thời ông Khánh, và thời ông Thiệu lúc đầu. Nhưng, lợi dụng sự cạnh tranh của những người nầy và người khác, và những sự thay đổi chánh quyền , tôi thường len lỏi được dưới mọi thời...

    Nhưng lần nầy thì vô phương. ông Thiệu có một đội ngũ cảnh sát khá giỏi và không tha thứ tôi đã viết về chế độ của ông ta , về cá nhân ông ta với một vài sự thật không mấy vui .

    Tôi xin kể :

    " Ông Thiệu là một giáo dân, người tế nhị và hay suy nghĩ, lại có tánh quá đa nghi đến độ mà ông không tin một ai hết, theo lời người ta kể lại, kể cả hình bóng của ông khi ông thấy nó trong gương. Nếu cứ tiếp tục như thế mãi ắt có ngày ông kêu người ta bắt giữ chính cái hình bóng của ông !..."

    " Nước Việt Nam cứ mỗi ngày mỗi giống nước Tàu thời Quốc Dân Đảng trước thời Mao trạch Đông. Sài Gòn là Thượng Hải nhưng thành công hơn... Cảnh sát trưởng Gia Định đã mua cái ghế đó với giá mười triệu đồng, quận trưởng Tân Bình với giá hai chục triệu đồng. Còn quận 5 ở Chợ Lớn thì chỗ đó lúc nào cũng đấu giá. Khi tôi rời khỏi Việt Nam thì là hai mươi lăm triệu."

    Tùy viên báo chí của tòa đại sứ không chịu tiếp tôi, ông nầy tên là Nghĩa, có họ hàng với một ông cũng tên Nghĩa nào đó , là một người có quyền thế lớn trong chính phủ của ông Thiệu

    Ông dùng điện thoại trong tòa lãnh sự để nhắc tôi :

    - "Tôi rất tiếc, nhưng ông có tên trong sổ bìa đen. Tôi phải gởi một điện tín về Sài Gòn để xin chỉ thị của Chánh Phủ ."

    Tôi cự anh ta:

    - "Chánh Phủ nào ? Ông Thiệu đã xuống rồi và ông tướng Minh sẽ thay thế ông Thiệu, Và chắc ông biết ông Dương văn Minh quá nhiều chớ ? ông ta là một trong những người bạn của tôi đó. Vậy ai sẽ trả lời điện tín của anh ? Không có còn Chánh Phủ nào đâu, Sài Gòn sẽ mất trong vài ngày nữa thôi, tôi phải có mặt ở đó để chứng kiến xem cái gì sẽ xảy ra, bên cạnh của anh Coutard.

    Tôi thương đất nước nầy và thành phố Sài Gòn , và tôi hằng ước mong Miền Nam Việt Nam phải chiến thắng, do đó không có gì ngăn cản tôi nhìn thấy được vì chế độ đã bị ung thối nên mới dẫn đến sự mất nước . "

    Ông tùy viên Nghĩa hơi bối rối, và xin lỗi tôi là đã không giúp gì hơn được cho tôi. Tôi phải chờ phép của một Chánh Phủ đã không còn trên thực tế, và của một ông Tổng trưởng đã chuồn đi rồi.

    Ông Thiệu thì đang sửa soạn hành lý, đóng thùng của cải ... còn ông già Hương dũng cảm người thay thế ông Thiệu thì lại điếc.. Người ta thấy ông trả lời điện thoại một cách khó khăn. Và ông lại quá cận thị nữa, người ta thấy ông đọc một công điện cũng khó khăn nữa. Tôi nhớ lại ông Hương như là một người dũng cảm nhưng hoàn toàn không có hữu hiệu. Đúng là một chiếc độc bình..

    Ngày mai là ngày có chuyến bay, mà có thể đây là chuyến bay cuối cùng đáp xuống được phi trường Tân Sơn Nhất Do vậy tôi phải liều.Tôi lấy vé đi Hong Kong, vì biết rằng chuyến bay của hãng Air France không đi xa hơn Sài Gòn , ở đó phi cơ sẽ rước đầy ấp các người tỵ nạn Pháp, Việt và Mỹ. Tôi sẽ xin một chiếu khán quá cảnh tại chỗ, và trong cảnh hỗn loạn có anh cảnh sát nào lanh mắt nhìn ra được tôi? Tất cả những người Pháp đều có quyền có một chiếu khán quá cảnh 7 ngày, trừ phi người đó có tên trong sổ bìa đen.

    Ngày 24 tháng 4, chuyến bay của chúng tôi, chiếc phản lực Jumbo gần như trống.. Trong số hành khách ít ỏi nầy, có ông Paul d'Ornano, một người dân Corse, thượng nghị sĩ của cộng đồng người Pháp ở Viễn Đông, ông ta mang theo cho các cử tri của ông một công điện của Tổng Thống Pháp để yêu cầu họ hãy ở lại tại chỗ và đồng thời cũng đem theo 4 người nữ y tá của hãng Hàng Không Air France đang trong thời kỳ nghỉ phép, để họ đến săn sóc giùm những người tỵ nạn. Những người nữ tốt bụng. Có một không khí "đời tàn" trong chiếc phi cơ rộng lớn nầy. Chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ , những người không biết nhau nhưng chúng tôi cảm thấy thật gần nhau . Chúng tôi muốn ôm nhau từng người một. Riêng tôi, lúc nào cũng thấy lo ngại, tự nhủ thầm : Liệu tôi có thể qua được hay lại bị đuổi đi như một người không lương thiện? Nếu họ giữ tôi lại phi trường, thì tôi sẽ cố tìm cách để chuồn đi... chỉ cần bỏ ra một số mỹ kim thôi.

    Đến Sài Gòn rồi. Tim tôi càng đập mạnh. Cũng thật may mắn, khi tôi bước xuống khỏi phi cơ, tôi gập ngay ông Lãnh sự Pháp, ông M.de Beauvais, một người mà tôi đã quen ở Lào. Ông ta đến đón ông Thượng Nghị Sĩ Paul d'Ormano và ông Morgan một anh Pháp lai rất tế nhị, quen thuộc với tất cả các đường dây và với tất cả các mưu mô thủ đoạn. Morgan lấy tờ thông hành của tôi và lo mọi thủ tục cho tôi. Tôi thấy ông ta nói chuyện với anh cảnh sát, dĩ nhiên là không biết nói chuyện gì , trong khi anh cảnh sát đóng mộc vào tờ thông hành của tôi như một cái máy . Thế là tôi đã có một chiếu khán quá cảnh. Anh ta không nhìn tý nào vào giấy tờ của anh ta. Cái anh chàng Morgan nầy phải là một người chơi xì phé có hạng lắm, hay là một nhà ảo thuật cừ khôi. đang chơi trò ảo thuật..



    Bây giờ là tôi đang ở Sài Gòn . Một cảm giác tuyệt vời. Thành phố mà tôi gặp lại không có một chút gì thay đổi, từ lúc tôi còn ở đây lần cuối cùng vào năm 1971. Cũng một dòng vô trật tự của xe gắn máy và của xe 4 ngựa cũ kỹ như những cái xoong còn chạy bằng dầu, cũng những mùi xăng và mùi hôi thúi như thuở nào. Những chiếc xe Jeep và những quân xa chở nhiều dân tỵ nạn hơn là binh sĩ và những vật dụng hỗn tạp không một chút liên quan nào đến cuộc chiến. Cảnh sát thì dửng dưng đối với sự lưu thông hỗn loạn nầy, vốn là hình ảnh của đất nước nầy. Mỗi người cứ làm theo ý của mình.

    Theo báo chí của Pháp và của Hoa Kỳ thì tình hình bi thảm lắm. Người ta bíết là Bắc Việt chỉ còn cách Sài Gòn có 25 cây số mà thôi. Ở Xuân Lộc đang có một cuộc chiến rất là gay go , người ta phải xử dụng đến loại bom hút dưỡng khí CBU gây tử thương hằng ngàn người mà không sao cản nổi sức tiến của quân cộng sản .Tất cả đều nát hết. Các thành phố ở về phía Bắc đã mất rồi :Đà Nẵng thì bị thất thủ sau Huế, còn các tỉnh miền Duyên Hải về phía Bắc của Nam Việt thì bị thất thủ tỉnh nầy đến tỉnh khác, như sung rụng vậy. Tôi đến một thành phố yên tĩnh vốn đang tiếp tục chăm lo việc buôn bán như thường lệ, một thành phố có vẻ thật sự bất cần, dửng dưng trước mọi sự..... Cả một sự ngơ ngác ! Các anh cảnh sát hình như chỉ dễ dãi hơn với các anh tài xế tắc xi và không thấy họ lấy thuế giữa phi trường và thành phố nữa để có thêm tý tiền vào lương của họ.

    Tôi thấy khách sạn Continental không có gì thay đổi, và ông Lợi, ông già giám đốc, vẫn tươi cười và vẫn mập như ông Phật Di Lặc. Ông siết mạnh tay tôi thật nồng ấm.

    Các tiệm buôn cũng như các quán nhậu có gái ở đường Tự Do vẫn mở cửa. Cuộc sống vẫn tiếp tục. Các anh bồi phòng thì cười ngất khi thấy mặt tôi. Tôi không biết tại sao, tôi thường tạo niềm vui cho các anh bồi phòng của khách sạn Continental nầy, bởi vì thường thì tình trạng của tôi rất là bất bình thường, người ta hay tìm tôi để trục xuất tôi, và sau đó lại dẫn tôi trở lại hay là người ta quên tôi luôn không chừng. Tôi là một trong những trò vui của khách sạn.Các anh bồi phòng nầy được coi như một nguồn tin tức. Ngồi xổm ở cuối hành lang, theo dõi được tất cả, họ rất là lanh lợi và giúp đỡ mọi người . Coi như họ là thành viên của gia đình tôi ở Sài Gòn vậy.

    Tôi chiếm một phòng rộng lớn mà tôi đã từng ở lúc trước, có quạt máy ở trên trần, có vòi nước gương sen trong phòng tắm, nhưng cũng co một vài con gián.. Ngày thứ hai thì tôi lo hợp pháp hóa tình trạng của tôi và lo đổi chiếu khán quá cảnh của tôi thành chiếu khán cư trú. Tôi không nhờ tòa đại sứ hay tòa lãnh sự Pháp, mà tôi trả tiền cho anh gát cổng để anh đi phân phối vài ngàn đồng cho những tay cảnh sát. Tất cả mọi người đều có phần của mình.

    Ở Việt Nam, người ta phải biết là nên tránh giao dịch với những công chức quan trọng mà phải giao cho những người nho nhỏ ở bên cạnh họ vì những người nầy biết cách dàn xếp mọi việc mà không một chút ồn ào.

    Tình hình các biến cố quá dồn dập đến độ tôi không còn kịp xin chiếu khán nữa.

    Tôi đi một vòng lần đầu tiên ra thành phố. Coi như tôi đi đổi gió. Tôi bắt đầu hỏi về tỷ giá của đồng bạc, một hàn thử biểu không sai lầm được ở Sài Gòn nầy.. Tỷ giá nầy chẳng những được lối chơi ngông của giới nhà báo chúng tôi ấn định bằng cách loan tin tức thật hay giả, mà thường thì do người Tàu và người Mã lai, vốn đứng đắn biết cách đánh giá đúng tình hình. Tỷ giá bây giờ là 3.500 đồng ăn một mỹ kim, nhưng phải lên đến 4000 đồng cho giấy 100 mỹ kim, trong lúc giá chánh thức chỉ có 755 đồng cho một mỹ kim. Tôi kết luận ngay là có nhiều người theo sát thời cuộc đã quá lo ngại về tình hình nên đã sửa soạn cuốn gói.

    Tôi thử điện thoại đến một số bạn bè, một số nhân vật trong hai chính phủ cũ và mới, nghị sĩ hay tướng lãnh, chủ báo hay một vài nhà báo thường. Tôi chỉ nghe được lời của người giúp việc: " ông đi khỏi rồi" hoặc "ông, .. bà... không có ở nhà", hoặc "có thể ông tôi sẽ về lại ngày mai". Đôi khi tôi còn nghe tiếng cười hô hố trong điện thoại "Ông... đã đi lâu rồi, đi nghỉ hè ..Hi Hi.."

    Tôi lần theo dấu của vài người bạn người Trung Hoa. Cũng y như vậy thôi. Không có người nào ở đầu dây. Một số người Việt Nam và Trung Hoa đã chạy đi rồi, trong số những người có chút địa vị quan trọng hay giàu có . Chỉ còn lại những con cá nhỏ hay là những kẻ vô tư lự - những người lê dương không biết sợ là gì - hay những người chưa tìm được dường dây có thể đưa họ rời khỏi thành phố vốn không biết thất thủ lúc nào... Tôi trở về phòng và các kỷ niệm cũ tuần tự ùn ùn kéo đến với tôi...



    *

    * *



    Cách đây 25 năm, tôi đi dạo trên đường Tự Do. Người ta ngồi uống rượu cỏ nhác-sô đa hay Pernod trên sân thượng, lúc bấy giờ chưa có huýt ky. Sài Gòn không có vẻ gì là một thủ đô cả, nó là một loại thành phố pha trộn giữa một thành phố của Miền Nam và một thành phố thuộc địa với những mái hiên lớn, với những cửa sổ mở rộng và các anh bồi bàn mặc toàn trắng. Có một không khí vừa hấp dẫn vừa khó chịu đối với những người mới tới đây. Trong lúc các binh sĩ đang chết ở ngoài Miền Bắc thì người dân ở đây lo làm tiền, và nhóm dân Corse thì lo buôn bán ngoại tệ, lo mở sòng bạc và nhà thổ, đi lễ nhà thờ, làm việc từ thiện và đôi khi mướn bọn giết người để thanh toán nhau... Tôi được mời lên chơi ở một đồn điền cao su ở Lộc Ninh, thuộc nhóm công ty Đất Đỏ. Đời sống của các chủ đồn điền cao su ở đây thật như "ông hoàng", người Anh đã nói như vậy.

    Người ta bắt đầu cạo mủ cao su từ sáng sớm tinh sương. 11 giờ trưa thì hồ bơi được dành cho phu nhân của các phụ tá và giám đốc đồn điền. Rồi thì nghỉ trưa. Chiều thì vào câu lạc bộ, mặc toàn trắng và áo dài."Muốn tới đâu thì tới" ! Với sự nguy hiểm đang rình rập. Thật là rất hấp dẫn, khiêu vũ bừa bãi. Nhưng bừa bãi ở đây đôi khi cũng là cái chết. Vùng nầy coi như đã thối từ lâu rồi và có những toán Việt Minh từ năm 1950 đã bắt đầu kiểm soát vùng đồn điền cao su mà ở đây chuyện cũng dễ dàng quá vì đại đa số nhân công và nhân viên đều từ Miền Bắc tới.

    Câu lạc bộ vườn cao su Lộc Ninh đã bị tấn công sau khi tôi rời khỏi nơi đó và cuộc chơi đã chấm dứt bằng một cuộc tàn sát. Máu me be bét đầy cả các áo vét trắng và các áo dài dạ hội. Tôi đã bị các kiều dân Pháp nầy quyến rũ, họ rất can đảm, không lo nghĩ gì hết, và quá đua đòi làm sang khi sống chung với người dân Việt Nam ở đây, mà họ không muốn biết là ai hết. Người dân ở Miền Nam rất tế nhị và rất hoạt bát, họ có thể lấy cắp của bạn một cách rất là vui vẻ, vừa rất trung thành vừa vẫn không trung thành , tận tình với bạn mà vẫn giữ tính độc lập của họ, ngạo nghễ và hơi kỳ lạ. Cái đẹp bí ẩn của thành phố Sài Gòn nằm ở chỗ có sự pha trộn của người dân da trắng hạng sang ở các dường phố đầy bóng mát chung quanh nhà thờ lớn, của người dân da trắng bình dân hơn ở vùng Dakao những người sẵn sàng tham gia mọi biến cố dù là biến cố nguy hiểm nhứt, của những người lai có chân cả mọi phía, những người đang nắm giữ lực lượng cảnh sát công an, của các công chức người Việt Nam ôm cứng các công thức hành chánh lúc nào cũng viết chữ thật đẹp như các thầy dòng ở các trường đạo. Chung quanh họ là dân chúng lúc nào cũng lăng xăng , đông đảo, hiếu kỳ và vui tính. Còn phải kể thêm những người Tàu tinh tế mà bụng lúc nào cũng no tròn cũng như tài sản và sự nghiệp của họ.. Lại có tiếng cắt cụp của những xe mỳ bán dạo, và các hộp đêm có tên là Xóm nhà lá..... Đồng bạc trị giá chánh thức là 17 quan Pháp. Ở Câu lạc bộ thể thao, các cô gái nằm hứng nắng trên bờ hồ tắm . Có những sĩ quan trẻ đến tán tỉnh họ, các sĩ quan nầy về nghỉ phép ngắn hạn ở đây trước khi trở về chiến đấu ở đồng bằng Bắc Việt hay trong rừng núi miền Thượng Du . Họ nói cho các cô nàng nghe về những người thuộc dân tộc thiểu số mà họ chiêu mộ vào thân binh như những người Nùng, người Thổ, người Mường hay người Thái trắng...

    Vẫn có một vài bà hoàng ở Sài Gòn . Họ đã về già như tôi rồi, nhưng họ vẫn còn giữ một vài nét vinh quang, dù giờ đây họ đã nghèo..Và tôi chắc chắn rằng họ đã khóc nhiều khi họ biết rằng thành phố Sài Gòn của họ sắp chết..

    Ngày xưa Sài Gòn là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Chánh thức thì Hoàng đế Bảo Đại trị vì ở đây, nhưng chỉ là một hư cấu mà mọi người đều vui vẻ hòa thuận với nhau thôi. Ông ở trên Dà Lạt, thường đi săn cọp, uống rượu và đi tán gái. Còn người Pháp thì mới thật sự là những người cai trị Đông Dương nầy và các binh sĩ thuộc đạo quân viễn chinh Pháp thì lo đánh giặc, nhất là ở Bắc Việt . Về sau, tôi đi ra Hà Nội để biết thành phố nầy và bởi vì tôi lúc đó còn trẻ và cũng còn thích nghe tiếng súng, nên tôi có ý thích Hà Nội hơn là Sài Gòn . Giữa Hà Nội và Sài Gòn lúc nào cũng có một sự cạnh tranh. Hà Nội duyên dáng hơn và ít quyến rũ hơn Sài Gòn . Đây mới thật sự là một thành phố có lịch sử, có nhiều công trình cổ xưa hơn hai thế kỷ trong lúc Sài Gòn thì không có gì cả.

    Hà Nội có những ngôi đền cổ như chùa Quạ, được xây cất cách xa bờ biển, bên cạnh hai cái hồ nơi được phản chiếu những cái miếu. Thành phố Hà Nội có vẻ khắc khổ, ở đây có mùa đông lạnh lẽo. Các cửa sổ đều có kính, và có khi người ta còn phải đốt lửa trong các lò sưởi...

    Người dân Miền Bắc phải chiến đấu cả với thời tiết, khí hậu, sự nghèo đói (đồng bằng Bắc Việt là một nơi có dân số đông đúc nhất thế giới), và cả với nạn lũ lụt của sông Hồng, nên họ rất cứng rắn và ít cười đùa. Người của họ thấp bé và có gương mặt trẹt. Họ rất dễ bị cuồng tín, quyết tâm đấu tranh đến kỳ cùng, nên họ không có được lối sống quá đáng và cá nhân chủ nghĩa không chữa được của người dân Miền Nam ..

    Họ được sanh ra cho những cuộc phiêu lưu lớn, tập thể, để xâm chiếm, cho chiến tranh. Họ thích những chế độ ở đó người ta cùng đi đều bước, trong khi ở Sài Gòn thì như gái điếm của Á Châu. Người ta khiêu vũ với bất cứ loại nhạc nào. Người ta có thể ví họ như những nhà tiên tri của thành phố Jérusalem, một thành phố mở rộng tay cho tất cả những ai qua đường.. Một cô gái nhưng trong tinh thần hoàn toàn tự do của những người bán thân, mà không theo ai bao giờ.

    Sài Gòn quyến rũ tôi mà cũng đôi khi làm tôi bực tức. Hà Nội là thủ đô của chiến tranh mà Sài Gòn hình như không cần lo nghĩ tới.. Người ta lo làm tiền bằng mọi cách, người ta đi ra ngoài chơi, khiêu vũ, tán gái.. người ta dám thua cả một nắm giấy bạc trong các sòng bài ở Đại Thế giới , nơi mà luôn có sự gian lận, để rồi sau đó vào tiệm hút bàn luận về cuộc đời, sống và chết....đôi khi bàn luận về Chúa trong khi uống trà hay hút một điếu thuốc phiện để tỏ ra mình sành đời.

    Sài Gòn tự đứng ngoài chiến tranh . Người ta có thể nói Hà Nội là thủ đô của chiến tranh còn Sài Gòn là thủ đô của đồng bạc. (Cái không khí đó tôi vẫn còn thấy vào tháng 4 / 75, trong lúc chiến tranh đã đến gần vùng ngoại ô của thành phố rồi, nhưng Sài Gòn vẫn tiếp tục sống vô tư lự. )

    Tôi trở lại Việt Nam vào năm 1952, lần nầy thì tôi ở lại hơi lâu. Tôi đã phải theo dõi cuộc chiến ở Đông Dương cho tờ Paris-Press. Tôi ở lại Sài Gòn vài tuần lễ và ở đó tôi đã lấy lại được các thói quen của tôi. Trái với người ta đã tưởng, các nhà báo thường hay quanh quẩn ở nhà.

    Chúng tôi gập nhau tất cả cùng ở một nơi và vào những giờ nhất định. Chúng tôi ở khách sạn Continental là trung tâm điểm báo chí của Sài Gòn . Người vừa mới tới thì đến đó để bắt mạch Đông Dương , dù anh từ Ba Lê, Nhiêu Do, hay từ Luân Đôn, La Mã hay Bonn . Ngoài Continental ra cũng có một vài quán rượu ở đó người ta cho chúng tôi thiếu chịu. Cũng như tiệm Amiral của ông Paul Boyer, người biệt kích đã cùng tôi chiến đấu ở Viễn Đông . Và còn một vài nơi nữa nhỏ hơn nhưng có quá nhiều ruồi. Rồi người ta đến lượm lặt vài giòng tin tức ở tòa soạn báo Đông Dương - Đông Nam Á Châu, một tờ báo được Chánh Phủ trợ cấp- hoặc ở đài phát thanh. Quân đội thì chuyên chở chúng tôi không mất tiền, còn câu lạc bộ của các đơn vị thì luôn luôn mở rộng cửa đón chúng tôi . Người ta kiểm duyệt các điện tín của chúng tôi . Nhưng sau những cuộc mặc cả lăng nhăng với những người kiểm duyệt, cuối cùng rồi thì chúng tôi cũng gởi đi được gần như những gì đã xảy ra. Nhưng tôi còn muốn biết thêm Hà Nội nữa.

    Khi tôi vừa đến thủ đô Miền Bắc tôi bị quyến rũ ngay. Buổi sáng sớm nầy ở bên bờ hồ nhỏ với ngôi chùa nhỏ ở giữa hồ và chiếc cầu vòng cung dường như làm bằng sơn mài đỏ... Người ta ngửi thấy mùi chiến tranh ở đây. Người ta nhảy vào thảm kịch. Hai dân tộc, hai nền văn minh, hai hệ thống chánh trị đụng độ với nhau, và nếu chúng tôi có binh sĩ thiện chiến thì ngọn gió của lịch sử than ôi đâu có thổi về hướng mình.

    Trái lại ở Sài Gòn dường như người ta không biết sự đối đầu nầy. Đó là một sự pha trộn hổn hợp giữa dân lai và người Việt Nam thân Pháp, những chánh trị gia , mặc dầu bị bịt mắt, vẫn là những người Pháp xã hội cấp tiến. Hà Nội thì không . Các vị trí chiến đấu rất là chắc chắn được đào kỹ.

    Tôi đã ở Hà Nội vài tuần. Tôi đã theo dõi một số cuộc hành quân, như trận Na San, gần giống như trận Điện biên Phủ, nhưng thành công. Tôi đã chứng kiến một sự tan rã của người Pháp trong xứ Thái và đã sống ở Lai Châu, trên đèo Claceau vào những giờ sau cùng trong vùng nầy, một trong những vùng mà tôi cho là đẹp nhất trên thế giới. Tướng Salan đã thay cho tướng De Lattre vừa mới qua đời. Người ta gọi ông tướng nầy là "quan liêu", khác hẳn với người mà ông vừa thay thế. Không như những người tiền nhiệm của mình, ông đã tránh không làm những điều quá vinh quang mà dại dột, là không làm gì hết.

    Khi tôi không đi theo một đơn vị nào đó trong cuộc hành quân thì tôi sống trong trại báo chí. Rất là ít tốn kém, số tiền mà tờ Paris-Press trả cho tôi chỉ giúp tôi vừa đủ sống. Trong khi ngoài mặt trận thì lương thực tác chiến không phải tốn xu nào. Còn ở Sài Gòn thì là tôi nghỉ ngơi., thư giản... Khác hẳn với một số lớn bạn đồng nghiệp của tôi, tôi không về Sài Gòn thường. Lúc nầy tôi rất là nguyên tắc trên phương diện tôn giáo. Tôi vừa trút bỏ bộ quân phục, và Sài Gòn dưới con mắt của tôi là một thành phố của tội lỗi và của đời sống dễ dãi. Tôi trách nhất thủ đô Miền Nam vì ở đây không ai quan tâm đến chiến cuộc cũng như sự thắng thua lúc đó. Mối tình của tôi được đặt ở Hà Nội nhưng điều nầy không cấm cản tôi thỉnh thoảng phải về Sài Gòn với người bạn gái lai đẹp đẽ của tôi.

    Tôi ở Đông Dương cho đến năm 1954, vào cái năm thất trận Điện biên Phủ, thỉnh thoảng cũng có đi qua Lào, Cam Bốt, Thái Lan, Hong Kong, hay Nhật Bổn và cũng có về lại Pháp một vài chuyến. Tôi nghe được tin thất trận của chúng tôi ở Việt Trì, nơi mà các tiểu đoàn của Võ nguyên Giáp đã đe dọa từ lâu. Sự thất trận nầy đã là một hồi chuông báo tử cho Hà Nội . Tôi vẫn nhớ rõ là ở Sài Gòn không khí lúc bấy giờ rất đỗi lạ lùng, cũng giống như vào những ngày cuối tháng 4 năm 75 vậy. Người ta tổ chức những buổi lễ cầu nguyện ở nhà thờ, người ta phải làm như vậy vì có những trận có đến mấy ngàn người hy sinh. Nhưng rồi người ta cũng không tin. Tất cả họ cho là là bề ngoài, không đúng sự thật. Chúng tôi phải thú thật rằng ở Sài Gòn thì người ta bất cần biết gì hết trong lúc ở Hà Nội thì là một thảm kịch. Hà Nội thì tang tóc còn Sài Gòn thì vừa ngoe nguẩy sau đám táng vừa lẩm bẩm : "Chuyện xảy ra ở ngoài kia, giữa người Miền Bắc và người Pháp. Với chúng ta , cũng dễ giàn xếp thôi . "

    Chuyện đã dễ giàn xếp thực vì Hiệp Định Genève dự trù sẽ tách rời Miền Bắc và Miền Nam , một sự ly dị giữa Hà Nội và Sài Gòn . Hiệp Định cũng dự trù phải có tổng tuyển cử, một chuyện không bao giờ xảy ra bởi vì không ai muốn hết. Đối với người Việt Nam , cũng như đối với người Á Đông, thế giới của hình thức, của bề ngoài hoàn toàn khác hẳn với thế giới hiện thực. Vấn đề tổng tuyển cử "dân chủ" thuộc về thế giới của bề ngoài, là trò giả hiệu. Người ta chỉ thi hành một bên nầy cũng như phía bên kia mà thôi. Cho nên tổng tuyển cử chỉ là một hình thức mà thôi không hơn không kém.

    Trong thời gian chiến trận Điện biên Phủ , vào một lúc nào đó, tình hình quân sự (không phải chánh trị) có thể bị đảo ngược nếu người Mỹ chấp nhận can thiệp vào với lực lượng không quân của họ. Và như thế thì họ sẽ không bị thảm bại hai chục năm sau, và người ta có thể thương lượng với những điều kiện khá vẻ vang hơn. Chính từ Điện biên Phủ nầy mà người Mỹ đã bắt đầu chuốc lấy sự bại trận trong cuộc chiến tranh nầy, vì họ không hiểu được rằng sự thất trận của nước Pháp chính là sự thất trận của Tây Phương.. Chúng tôi đã mất mặt một lần rồi khi chúng tôi đã phải nghiêng mình trước những đòi hỏi của người Nhật. Chúng ta , những người mũi lõ (mũi cao) - ở Á Châu, người ta thường gọi tất cả những người da trắng như vậy - chúng ta phải giữ sự đoàn kết chặt chẽ với nhau. Người Mỹ trái lại, họ tưởng rằng với Điện biên Phủ, họ đã chiến thắng được những người thực dân Pháp.

    Chúng tôi không phải ở trong thời kỳ đó nữa. Chúng tôi tìm kiếm một cách vô vọng một chiến thắng tưởng tượng để được thương lượng trong những điều kiện vẻ vang.

    Các tướng De Lattre, Salan và Navarre đã có nhận được lệnh là thương lượng, một khi tình hình quân sự đã được phục hồi. Chúng tôi đánh nhau trong những năm dài ở Đông Dương để vãn hồi hòa bình và đưa chúng tôi ra khỏi hoàn cảnh khó xử nấy.

    Nhưng bọn Việt Minh không cho chúng tôi thi hành điều nầy một cách dễ dàng. Họ nhất quyết phải đạt cho bằng được một chiến thắng quân sự , bởi vì người da trắng phải mất mặt hẳn mới được . Họ chết bao nhiêu cũng không cần. Người cộng sản Việt Nam thích chiến tranh hơn là hòa bình. Họ không có khả năng chờ đợi một năm, hai năm để trở thành người chủ của đất nước nầy mà không có bắn được một tiếng súng. Họ đã võ trang cho cả nước để nung nấu hoàn toàn chiến tranh mà không cần biết gì đến quốc gia dân tộc. Kể cả lẩn tránh một số bài toán mà nền hòa bình đã đặt ra, những bài toán không giải quyết được như sinh kế của cả Miền Bắc Việt Nam.

    Chúng tôi bị thua ở Điện biên Phủ trong những điều kiện thật là khó khăn, mặc dù có lương tri. Chúng tôi đã tạo ra một căn cứ ngay trong miền núi, xa hẳn các căn cứ khác và các phi trường của mình. Vả lại chúng tôi thiếu phi cơ. Chúng tôi tập trung quá nhiều lỗi lầm chiến lược cũng như chiến thuật. Nhưng chúng tôi vẫn giữ được , thường nhờ người Miền Nam Việt Nam đã không bỏ chúng tôi . Đây chỉ là một cuộc thất trận chớ không phải một thảm họa. Bọn Việt Minh cũng hiểu như vậy bởi vì chúng chấp nhận thương lượng với chúng tôi ở Genève. (lúc bấy giờ người ta gọi cộng sản Miền Bắc là Việt Minh ) Sự ra đi của người Pháp khỏi Miền Bắc được tiến hành trong danh dự. Nhưng rồi sau đó chúng tôi đã lại phải rút đi ra khỏi Miền Nam vì người Mỹ đã muốn thay chân chúng tôi một cách quá gấp.

    Tôi đã mất Hà Nội , nhưng tôi vẫn còn Sài Gòn .

    Và không khí ở Sài Gòn thật là lạ lùng. Một triệu người di cư người công giáo đã đến từ Miền Bắc đã định cư ngay cửa ngỏ của thủ đô của Miền Nam Việt Nam .Một người công giáo nhiệt tâm, có cả tinh thần quan lại lẫn thầy tu xuất, ông Ngô dình Diệm , được người Pháp chúng tôi đưa lên nắm chánh quyền dưới áp lực "thân tình" của Hoa Kỳ và của Giám Mục Spellmann.

    Cao Ủy Pháp lúc bấy giờ là tướng Ely. Một cái đầu thông minh như người Hy Lạp, một tín đồ ngoan đạo Tin Lành thuộc dòng quý tộc, trong túi đầy ấp những nguyên tắc, mê say luật lệ và công lý.. nhưng không biết tý gì về đất nước nầy, một đất nước mà công lý bị lẫn lộn với quyền lực, và luật lệ bị lẫn lộn với sự tế nhị.

    Ông thú thật trong Hồi Ký của ông về sự thiếu khả năng của ông. Ông yểm trợ hết mình lá bài Ngô đình Diệm, trong khi các vị khách lớn tuổi của Đông Dương, tất cả những người Pháp đã biến thành dân Á Châu, những người đã từng quỳ gối trước các giáo phái và các cơ quan mật vụ, đều đặt hết tín nhiệm vào ông Bảo Đại và vài vị tướng lãnh trẻ đang ủng hộ chúng ta . Vì họ biết rõ rằng ông Diệm là người của Hoa Kỳ , ông ta sẽ đuổi hết người Pháp đi và mạnh miệng tuyên bố là ông ta không chấp nhận Hiệp Định Genève. Do đó ông ta chỉ cần không thi hành Hiệp Định đó, là sẽ cung cấp cho quân thù một cái cớ rất có giá trị trên bình diện chánh trị quốc tế, để gây lại chiến tranh .

    Một số người Pháp thì ủng hộ các giáo phái, số khác thì ủng hộ ông Diệm.

    Ở đây tôi không đi sâu vào chi tiết về cuộc chiến nầy vì ở đó cái ý nghĩa cao đẹp của nó dôi khi lẫn lộn với một cái gì bẩn thỉu. Ở đây đã có 3 giáo phái, hai thuộc về tôn giáo. Đó là giáo phái Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh, và giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Châu đốc. Còn phái thứ ba là Bình Xuyên, một tổ chức hổn tạp gồm bọn bất lương, bọn cướp bóc đường sông và biến thành những kẻ tống tiến. Trưởng phái nầy là Bảy Viễn, người làm tất cả mọi việc cho Bảo Đại, vì ông nầy cho phép y mở các sòng bạc ở Chợ Lớn, cũng như các tiệm hút thuốc phiện và cả các ổ điếm. Bảy Viễn cũng còn cho mở một nhà thổ khổng lồ gọi là Bình Khang, chứa gần ba ngàn gái điếm ngay gần một công viên. Thật là kinh khủng. Sự hủ hóa nầy đã lên đến tuyệt đỉnh, đi tới chổ quá loạn. Sự đồi bại nầy ở tầm tay của mọi người với bất cứ giá nào. Tất cả đều được thực hiện với sự tăng cường tối đa bằng đèn nê-ông trong sự căm ghét của người Việt Nam . Mỗi cô hay mỗi nhóm đều có phòng riêng với phòng ngủ và phòng khách sang trọng. Người ta có thể chọn lựa từ cô gái Cam Bốt 12 tuổi đến cô gái Tàu lớn hơn và đẹp của Hải Nàm, dĩ nhiên cũng còn có các cô gái Thái và Việt Nam ẻo lả nữa.. Đồng thời Bảo Đại cũng giao cho Bình Xuyên ngành cảnh sát , công an (vì ông ta cần có tiền). Tướng cướp giờ là chỉ huy trưởng cảnh sát ! !

    Dựa vào Quân đội quốc gia , và ngân khoản dồi dào do Mỹ cung cấp, xử dụng vừa tiền vừa súng liên thanh , ông Diệm thanh toán cả 3 giáo phái nói trên. Trước hết là Bình Xuyên. Phải trục xuất hết bọn công an đang nằm ngay đầu đường Catinat (sau đổi thành đường Tự Do) và cả trong Chợ Lớn mà họ đang giữ chặt. Tôi còn nhớ rõ các trận đánh trên đường phố, tiếng súng ở khắp nơi cũng như các đám cháy ở một vài khu vực dân cư trong thành phố..Tôi nghe tiếng súng bắn, tiếng đạn reo ở trên sân thượng của khách sạn Continental, ở chợ Bến Thành, và sau đó tôi thấy tôi đang nằm trong một cái rãnh bên lề đường, nằm giữa hai lằng đạn của hai bên... nhưng rồi thì các trận đánh được gom về một chỗ : người ta đánh nhau trong một khu vực có nhà cửa và xa xa một đỗi, có người đang ngồi bình thản bên ly rượu huýt-ky hay cỏ nhác sô đa trên sân thượng của nhà hàng Brodard hay Pagoda...

    Riêng những anh lính chửa lửa thì khỏi nói. Không thấy một anh nào có mặt, ngay như đang có đám cháy trong một khu nào đó ở Sài Gòn , vì rất là nguy hiểm, dại gì ! Chiến cuộc và thanh bình lẫn lộn nhau trong một vũ điệu hết sức phi lý, giữa cáí sống và cái chết, giữa nụ cười và nước mắt.... Một nhà báo già, bà Anne de Buchepot của Orléans người ốm yếu da đen , một giống ngựa đua gầy xấu, cỡi xe đạp đi giữa chiến trận, yên lặng và thản nhiên với nguy hiểm vai đeo máy hình lủng lẳng phất qua phất lại bên trái bên phải. Bà ta bị trúng một phát ngay giữa trán và té xuống chết ngay một cách êm thắm. Bà nằm chết giữa đường, không một ai ngó ngàng tới suốt cả buổi chiều ở đó... Chúng tôi phải đậu tiền lại để chôn cất Bà...

    Các cuộc đánh nhau trên đường phố chấm dứt sau khi bọn công an của Bảy Viễn đầu hàng và sau khi tổng hành dinh của Bảy Viễn bên kia cầu chử Y bị các binh sĩ Dù của Đổ cao Trí chiếm giữ. Có vài ngàn người chết. Bảo Đại bị hạ bệ và khi tôi đi qua tòa Đô sảnh, đầu tôi bị trúng một tấm ảnh của ông ta do ai đó liệng xuống từ cửa sổ. Qua việc triệt tiêu các giáo phái, ông Diệm đã thắng ông Bảo Đại, và ông sẽ dựng lên ở Miền Nam Việt Nam một chế độ kiểu hơi độc đáo, một đảng duy nhất, đảng Cần Lao, pha trộn giữa cá nhân chủ nghĩa, thiên chúa giáo với quan lại và quốc gia chủ nghĩa cố chấp. Trên thực tế, một giáo phái khác đang nắm chánh quyền, giáo phái của người Thiên Chúa Giáo Miền Bắc mà chỉ huy và cán bộ là các quan lại của Miền Trung

    Tôi đã theo dõi rất sát những giai đoạn khác nhau của cuộc chiến nầy. Tôi đã có đi tuần tiễu với Bình Xuyên, với Phật Giáo Hòa Hảo và với bạn tôi là đại tá Le Roy, chỉ huy lực lượng công giáo ở Bến Tre, người đứng về phía các giáo phái nầy. Đã đến lúc tôi phải cuốn gói để về Pháp. Tôi đã có viết một quyển tiểu thuyết với tựa đề là "Các linh hồn phiêu lãng" mà sau nầy cộng với chuyện mất Hà Nội sẽ trở thành quyển "Họa Da Vàng"



    *****************

    ( Xin xem tiếp Phần 2)



    Chú thích:

    (1) Raoul Coutard, 30 năm ở Đông Dương , Tình nguyện vào Quân đội năm 1945, sau đó là nhiếp ảnh viên của S.C.A. Trở thành chuyên viên điện ảnh, đã chế ra kiểu hình Godard khi anh là Giám đốc phim ảnh. Đã cùng anh Schoendorffer thực hiện cuốn phim " Trung đội 317" ở Hòa Bình, Việt Nam mà anh hằng yêu mến, phim được giải ở Hội Điện Ảnh Cannes.


    --------------------------------------------------------------------------------




    CHƯƠNG MỘT (phần 2)



    Hiện tôi đang đi về Pháp. Miền Nam Việt Nam chánh thức thì không có cấm tôi, nhưng tốt hơn là tự tôi phải làm cho người ta quên tôi đi. Đã hai lần tôi đã sống ở Hà Nội , buông mình theo thú vui của duy vật biện chứng và của tự phê bình. Tôi hoàn toàn không có chích ngừa chống thuyết mác xít hẹp hòi đó và những thói quen bảo trợ của họ. Nhưng nó rất là hữu hiệu trên bình diện quân sự .

    Vào năm 1960, tôi nộp đơn xin chiếu khán vào Miền Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ chế độ của ông Diệm rất là vững vàng. Đó là chế độ của một gia đình và của những người ủng hộ ông ta. Còn về lý thuyết của đảng Cần Lao (đảng duy nhất), nó chỉ là một sự pha trộn hổn hợp đủ mọi ý kiến mâu thuẩn nhau, nhưng dường như khá thích hợp với các bộ óc Việt Nam nào thích mọi hình thức hồ lốn.

    Phe nầy, ngoài Giám mục Ngô đình Thục, còn có ông Ngô đình Cẩn mà người ta gọi là người điên đẩm máu ở Hué, và một người nữa khá đẹp, bà Nhu, vợ của ông Ngô đình Nhu, người thảo chương trình và là người trí thức trong gia đình . Bà Nhu đã nhanh chóng nổi tiếng bằng những sự phóng đãng ái tình, bằng những lời nói đanh đá của bà, bằng sắc đẹp và sự cứng rắn của bà..

    Người ta cho tôi một giấy chiếu khán về Miền Nam Việt Nam đồng thời cho tôi hiểu rõ là tôi chỉ là người được "dung thứ" thôi.

    Tôi thật tình đã có thành tích không tốt. Tôi hình như đã là bạn của các giáo phái. Tôi chỉ là người bị quyến rũ trên khía cạnh thơ mộng của họ mà thôi. Trên bình diện quốc gia , các giáo phái nầy chỉ là một thứ dị giáo và phải được kiểm soát nếu không muốn nói là phải bị dẹp đi, và không có quyền có Quân đội riêng .(2)

    Người ta cho phép tôi đi du lịch có hướng dẫn, nghĩa là phải cùng đi với phái đoàn báo chí của thế giới thứ ba vốn chưa bao giờ đặt chân lên đất nước Việt Nam . Trung Quốc thường dùng phương thức nầy. Với tôi thì những anh Ấn Độ, Phi Luật Tân, và Phi Châu do người ta cho đi dạo chơi không mất tiền thì họ rất là vui vẻ, sẵn sàng đớp hết mọi thứ ruồi , cả tin tất cả những gì mà người ta kể cho họ nghe.

    Trong những người hướng dẫn viên, những "nhân viên tuyên truyền và quảng cáo" tôi tìm thấy một vài người quen cũ.. Trong số đó, một người ranh mãnh tánh vui vẽ vốn đã cùng tôi trước kia có đến một vài nơi không được sạch sẽ , nhưng bây giờ thì anh ta đã có vẻ là người có đức hạnh rồi. . Đó là cái mốt của Sài Gòn lúc bấy giờ.. Người ta đã là người có đạo đức, người ta truyền bá lời tán tụng đạo đức cho người Mỹ những điển hình về đạo hạnh và vô tư . Tất cả đều do lỗi của người Pháp hết vì họ đã sống không được tốt. Vì tôi là người Pháp độc nhất trong đoàn, người ta xin tôi diễn thử trò ngây thơ. Tôi buồn quá. Đôi khi tôi dằn tánh nóng không được , nhất là khi một cô gái Cần Lao mà tôi đã biết quá rõ lại dở trò đạo đức trách móc tôi đã quá mềm yếu trước những cô gái Việt Nam.

    Hai lần học tập ở Hà Nội chung với bọn người cách mạng đã giúp tôi làm quen với tánh xấu của mình. Miền Nam bây giờ đã giống Miền Bắc . Sự tuyên truyền đã chú ý đến sự lấy lòng hơn và đã bớt năng động.

    Tôi lang thang với đoàn du lịch của tôi, rất là ngoan ngoãn, nghe những lời tán tụng khen ông Diệm, lúc đi thăm viếng một vài công trình của chế độ. Tôi tự nhủ thầm: "Làm sao mình bỏ đi được khỏi bọn nầy khi mà họ cứ gật đầu mãi như cái máy để luôn luôn tỏ ý tán thưởng" Cuối cùng cơ hội mong muốn đã đến với tôi. tại sân bay Đà Nẵng , tôi gập lại người quen cũ : Tôn thất Đính. Tôi biết ông hồi ông còn là đại úy Dù, la cà với máy móc hoàn toàn kiểu như người Pháp, can đảm nhưng hơi gàn. Bây giờ ông là tướng. Ông nhào ngay lại tôi khi thấy tôi đứng riêng một mình và la lên :

    - "Mầy làm gì ở đây ?"mầy không hay biết gì sao ?"

    - Biết chuyện gì ?

    - - Trời ơi, Bọn Bắc Việt vừa mới tấn công ở phía Bắc đây."

    - Thật vậy sao ?

    - Đúng vậy

    - Làm sao mình đi đến đó xem.

    - Tao đưa mầy đi "

    Không ai biết và cũng không ai thấy, tôi đi ngay khỏi các hướng dẫn viên và leo lên máy bay của Tôn thất Đính.Tôi đến ngay trận địa. Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai đã vừa bắt đầu. Ở phía Quảng Trị. gần biên giới. Người Mỹ đang khởi công làm một con đường chiến lược dọc theo vĩ tuyến 17, để đánh dấu biên giới. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã tấn công công trường và bãi để dụng cụ. Không phải du kích mà là quân chánh quy thuộc sư đoàn 308 hay là sư đoàn 315 gì đó.

    Tôi chứng kiến được khi chiến trận chấm dứt. Quân tấn công đã gây nhiều thiệt hại nhưng cũng bị đẩy lui. Có hằng trăm tử thương còn nằm ngay trên trận địa.

    Trong lúc đó người ta tìm tôi khắp nơi . Cuối cùng em ông Diệm là ông Nhu, người đặc trách về tuyên truyền, về cảnh sát và nhiều chuyện khác nữa, đã tìm thấy tôi xen vào một lần nữa, vào những chuyện không liên quan gì đến cá nhân mình. Nói cách khác, đang làm công việc của báo chí chớ không phải của một người khách du lịch.. Người ta nhốt tôi vào một cái chòi lá với hai người lính gác ngay trước cửa và tôi bị nằm mọt xác trong hai ngày tại đó cho đến lúc họ chuyển tôi về Sài Gòn .

    Tôi thấy mình đang ở cái thế giới thiên đường của ông Nhu. Văn phòng của ông là một loại phòng thu thanh có ống nói và máy thu âm được dấu kỹ. Ông ta chưa hút thuốc phiện nhưng rồi cũng sẽ hút thôi. Ông ta bắt đầu cự nự tôi, nói rằng tôi đã phản bội một lần nữa với sự tin cậy của dân chúng Việt Nam , và tôi đáng bị phạt nặng về sự trốn đi của tôi.. Người ta luôn luôn có chìu hướng đối xử với những nhà báo như một đứa trẻ mà người ta bắt gặp đang trộm kẹo mứt trong tủ. Nhưng hình phạt đôi khi cũng có thể là cái chết, giống như trường hợp anh Paul Léandri của AFP hồi tháng 3 năm 1975 trong các địa điểm cảnh sát của ông Thiệu.

    Cũng may thay cho tôi., Ngô đình Nhu không phải là một người ngu như đại tá Phan Kim người đã giãi quyết anh Léandri. Ông ta để cho tôi trình bày lý lẽ của tôi. Tôi giải thích với ông ta rằng :

    - " đây là lần đầu tiên, Miền Nam Việt Nam có quyền làm như thế. Bọn Hà Nội đã tấn công bằng các đơn vị ở cấp sư đoàn, vi phạm công khai Hiệp Định Genève. Thật là một điều quá bất ngờ , ngẫu nhiên mà một nhà báo Tây Phương, một người không thuận lợi cho chế độ lắm lại chứng kiến được chiến trận và thấy được xác chết của bộ đội Bắc Việt trong quân phục chánh quy. Và thay vì khen ông ta và giúp anh

    ta có đủ sự dễ dãi để anh ta viết bài thì lại bỏ tù anh ta "

    Ông Nhu, thay vì trục xuất tôi, lại dẫn thẳng tôi đến một buổi tiếp tân ở Dinh Độc Lập, ở đó tôi gặp tất cả gia đình họ Ngô và cả triều thần của gia đình nầy : Bà Nhu đã cười với tôi giống như là nhăn mặt với tôi vậy, Tổng Thống Ngô đình Diệm thì nghe tôi nói , mắt nhắm mắt mở hay là làm bộ như thế không biết. Người ta cho tôi một ly nước cam, người ta ca ngợi tôi với lòng khoan dung của Tổng Thống đối với những chuyện kỳ lạ kiểu của tôi. Sau đó ông Nhu đưa tôi đi viết bài cho báo của tôi. Bài báo được phát hành bên Pháp với tựa đề : "chiến tranh thứ hai ở Đông Dương đã bắt đầu". Đó là ngày 18 tháng 10 năm 1960.

    Triều đình nhà Ngô đã ở vào một thời kỳ khác rồi, một sự sao chép quá dở của triều đình Hué. Ở đó người ta dịu dàng trong đạo đức giả, nhưng cũng khá trung thực. Như thế đã là khá hơn những gì xảy ra sau đó. Những người họ Ngô có đủ thứ tật xấu, Bà Nhu thì đã không chịu nổi rồi, nhưng không ai có thể nghi ngờ về tinh thần quốc gia và lòng can đảm của họ. Ông Diệm là một người tò mò, với bộ mặt bất động và bình tĩnh như một bà sơ. Đã nhiều lần ông đã thử sống như một tu sĩ ,nhưng không bao giờ thử sống với đàn bà. Một vị Tổng Thống còn trinh! Ông mê say cầu nguyện, bấp cải và những giấc nghỉ trưa dài. Đối với ông người ta có những biểu hiện kính trọng như đối với một quân vương. Không thể tự bầu mình lên như một vị hoàng đế được , ông đã tuyên bố thành lập Cộng Hòa Việt Nam, và đưa ông Bảo Đại ra khỏi nước , người mà ông đã từng rất sát cánh chặt chẽ. Không như bà Nhu, ông thuộc một đại gia đình quan lại ở Miền Trung, ông rất liêm khiết và thiển cận. Ông tin tưởng vào đức hạnh truyền thống: công việc, gia đình , kính trọng ông bà, và kỷ luật . Ông sống trong quá khứ trong khi Hồ chí Minh ít nhất cũng biết chế ra một loại nước chấm mới cho chim ăn, bằng cách pha trộn vào thành phần cũ kỹ Khổng Mạnh, loại bột ngọt của Mác xít thuộc Tây Phương .

    Bây giờ người Pháp chúng tôi không được nhìn với con mắt thiện cảm. Tướng Lansdale, người đã đưa ông Diệm lên yên ngựa, vừa cho xuất bản một bản tường trình trong đó ông ước tính rằng người Pháp đã mất hết thế chánh trị ở đây chỉ vì cái nhãn hiệu thực dân mà họ đã từng mang, và cả thế quân sự nữa chỉ vì họ đã không biết thích ứng với một loại chiến tranh lật đổ mà công tác tuyên truyền được trộn lẫn với những trận đột kích của đặc công. Do đó ông trách người Pháp những gì mà người Mỹ sẽ thi hành sau đó, nhưng còn tệ hơn nữa.. Cũng đừng nên quên rằng Ngũ Giác Đài đã đánh giá Hiệp Định Genève là một thảm họa có thể đưa tới sự thất bại của cả vùng Đông Nam Á luôn..

    Thế mà chúng tôi đã để lại trên trận địa từ 1945 đến 1954: 91.000 người chết, trong đó phải kể là 75.000 con dân chính cống của nước Pháp và ít nhất 5 khóa của trường Võ Bị Saint Cyr. Cũng đã nhờ họ mới có được Miền Nam Việt Nam và Sài Gòn mới có được những cô gái chơi trò đạo đức.... Chuyện đó cũng không tốt lắm cho thủ đô Sài Gòn đâu.

    Đường sá có sạch sẽ thật đấy, các bãi cỏ được cắt kỹ lưỡng, nhà cửa được sơn phết lại với màu trắng hay màu be, vấn đề lưu thông được đưa vào nề nếp và các cảnh sát rất chững chạc trong đồng phục trắng của họ.

    Các hộp đêm được đóng cửa, các quán rượu quá ồn ào và những xe ba gác cũng bị cấm. Không cho các sòng bạc hoạt động. Tôi không nói tới thuốc phiện.Người ta đã thiêu hủy hằng ngàn ống tẩu. Và các sĩ quan như đại tá Trần văn Đôn, người sanh đẻ ở Bordeaux (Pháp) đã đứng ra đốt hết lon Pháp của mình. Người ta đã thăng cấp tướng cho ông vì chuyện đốt lon nầy. Khiêu vũ bị cấm, và trong tất cả các khách sạn rất khó mà mang lên phòng mình một cô gái Việt Nam . Còn làm tình với "đôi mắt xếch" trở thành một tội lỗi và một sự lăng nhục giống nòi. Tất cả giống như ở Hà Nội .

    Nhà hát Tây được biến thành Quốc Hội , ở đó tay chân của nhà Ngô trịnh trọng ngồi họp.

    Nhưng ở thôn quê thì tình hình xuống cấp nhanh chóng. Vấn đề thành lập các ấp chiến lược để gom dân về ở, đến lúc xử dụng mới được biết đó là một thảm họa vì do những công chức ngạo mạn hoặc các quân nhân hung tợn quản trị.

    Tôi gởi bài của tôi đi và sau đó tôi được dẫn trở về biên giới.

    Bây giờ thì tôi đang ở Cam Bốt. Hoàng thân bạn của tôi, ông Norodom Sihanouk đã quyết định là không phỏng vấn bất cứ một nhà báo nào khác, nên tổ chức cho tôi một "buổi họp báo". Được hai tên bộ hạ Mayer và Barret ngồi kèm hai bên, một tên gầy một tên mập, một tên "đỏ" một tên "trắng", ông ta biến tôi thành một người quá kỳ lạ trong vòng gần hai tiếng đồng hồ.

    Sau khi từ thành phố Grasse trở về đây, ông đã có gầy đi trong bệnh viện của Bác sĩ Pathé, ông có vẻ đứng ngồi không yên.

    Duyệt qua tất cả những người thân cận của mình, ông trách con trai ông là không thể gần đứa con gái nào mà không cho nó có chửa, trách mẹ cậu ta, bà hoàng hậu, là đã mua bán dược phẩm, và trách ông đại sứ của chúng tôi là đã dính vào đủ trò ô nhục với những "gái trẻ, thật trẻ, người Cam bốt."..

    Tôi đánh giá cao sự yên tĩnh, sự thanh bình ở Cam Bốt. Nếu người ta nói ông Sihanouk điên thì ít nhất ông cũng đã giữ đất nước ông đứng được ngoài vòng của chiến tranh.

    Tôi biết là ở Sài Gòn đang sắp xảy ra một điều gì đó, tôi biết người ta đang chuẩn bị một cuộc đảo chánh và tôi chờ.

    Ngày 11 tháng 11 năm 1960, từ sáng sớm tôi đã lên đến phi trường Pochentong , lúc đó còn dưới quyền quản trị của người Pháp.

    Một trong những người Pháp ở đó đã nói với tôi :

    - "Sài Gòn đã gởi cho chúng tôi bằng máy điện báo :RKO kỹ thuật, nó có nghĩa là không một phi cơ

    nào được đáp xuống phi trường Tân sơn Nhứt vì thời tiết xấu. Nhưng anh hãy nhìn bầu trời xem, Hoàn toàn quang đãng !."

    Tôi , thì tôi đã hiểu. Nếu phi trường bị đóng cửa, thì tức là đã có xảy ra chuyện gì đó. Đó là chuyện mà tôi đang chờ đợi !

    Tôi lái xe vượt qua biên giới vốn không còn có ai canh gác. Ở Sài Gòn , quân NHãy Dù đang tấn công vào dinh Tổng Thống . Tôi chứng kiến với họ sự kết thúc của cuộc đảo chánh, một cuộc kết thúc quá bẽ bàng, thảm não !

    Cuộc đào chánh nầy đã thất bại bởi vì binh sĩ Dù đã được xác nhận là có tính khờ khạo không chữa được và hai anh em của ông Diệm đã chứng tỏ là có can đảm và dám quyết định.. Hiện giờ tôi đang ở Miền Nam Việt Nam mà không có chiếu khán, bị trục xuất, rồi lại lén lút trở về để chứng kiến một cuộc đảo chánh. Thật là rất khó cho tôi để giải thích rằng tôi không hề biết chuyện nầy. Vậy là tôi phải lo trở lại Cam Bốt như lúc tôi đã qua đây. Trong trường hợp đó, tôi chỉ có một phương cách: mấy ông chủ đồn điền cao su và mấy ông linh mục. Đi tìm họ là tôi thấy mình đã trở lại các đồn điền lớn ở dọc theo biên giới. Chỉ cần đi bộ vài giờ xuyên rừng là tôi đã về đến đất Cam Bốt rồi. Thật là tôi quá nông nỗi....

    Khác hẳn với một nhân viên mật vụ, một nhà báo tường thuật sự phiêu lưu mạo hiểm của mình. Bài tường thuật về những sự phiêu lưu của tôi đăng trên báo Paris - Presse không đáng để bị Việt Nam kết tội và ghi tên tôi vào sổ bìa đen.

    Tôi phải chờ đến năm 1963 và cuộc đảo chánh ông Diệm lần nầy đã thành công, mới có thể trở lại Sài Gòn . Tôi quen biết hết các tác giả của cuộc đảo chánh nầy (kể cà đại tá CIA, ông Conin, người đã có thể là chỉ huy vụ nầy) : tướng Trần văn Đôn, người Bordeaux; tướng Lê văn Kim đã từng là phụ tá của tướng Pagbol; Mai hữu Xuân, cựu chỉ huy trưởng cảnh sát và sau cùng là tướng Minh Dương (được gọi là Minh "lớn") là người chỉ huy trong vụ nầy.. Các cơ quan tình báo và mật vụ của Hoa Kỳ đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ là ông Cabot Lodge đề có quyết định phải loại trừ ông Diệm . Hoa Kỳ ước tính rằng chế độ ông Diệm không cho người Mỹ thực hiện những gì họ muốn làm, và vì sự vụng về của mình nên ông Diệm không được lòng dân. Hoa Thạnh Đốn tưởng rằng ván cờ đã được thỏa thuận nên họ đã quyết định cho đổ bộ ồ ạt binh sĩ Mỹ vào Miền Nam , nhưng chánh quyền ông Diệm đã không muốn một con số quá lớn quân nhân Mỹ đến đây, họ sẽ làm hư hỏng đất nước nầy đi vì sự tiêu xài mỹ kim của họ. . Và về điều nầy thì chính phủ của ông Diệm có lý.

    Chánh Phủ ông Diệm đã có yêu cầu là mỗi binh sĩ Mỹ chỉ được tiêu ở đây 50 mỹ kim mỗi tháng mà thôi.. Trước hết ông Diệm và những người của ông là những người quốc gia cố chấp. Họ từ chối không cho các nhân viên Hoa Kỳ trực tiếp kiểm soát đất nước . Muốn loại trừ anh em nhà Ngô, người Mỹ cần có một lý do. Họ tung tin ra là chế độ muốn thương lượng với Miền Bắc qua trung gian của Đại Sứ Pháp và đồng nghiệp của ông ở Hà Nội.. Điều nầy sai.

    Họ dùng những người Phật Tử để chống ông Diệm. Thình lình người ta thấy xuất hiện những ông tăng của phái Tiểu Thừa mặc y vàng như bên Cam Bốt và Lào, trong lúc ở Việt Nam thì tăng ni mặc y nâu vì thuộc phái Đại Thừa vì ảnh hưởng của người Tàu và họ ít sống theo lối cộng đồng . Những vị tăng mới xuất hiện nầy nói là để chống lại sự biệt đãi của chính phủ đối với người công giáo, nên họ bắt đầu tự thiêu ở những nơi công cộng và chợ búa, điều mà bà Nhu sau nầy còn mỉa mại gọi đó là món "thịt nướng" (nguyên tác : "barbecues", tiếng Mỹ) . Bà quá vụng về. !

    Bằng mọi cách, các cơ quan Hoa Kỳ muốn bôi đen chế độ, lần lượt cáo buộc là độc tài công giáo, (trong lúc ở Hoa Kỳ vừa mới bầu vị Tổng Thống đầu tiên người công giáo , ông Kennedy), là trung lập, cả đến là thân Pháp nữa, một điều thật là quá quắc ! Khi người ta muốn giết con chó của mình thì người ta nói là nó có ghẻ !

    Hai ông Diệm, Nhu bị tấn công ở Dinh Gia Long đã trốn được và đi đến Chợ Lớn nhờ sự giúp đỡ của một trong những sĩ quan khởi nghĩa, đại tá Nguyễn văn Thiệu. (3) Họ trốn trong một nhà thờ ở Chợ Lớn và họ bị giết chết trong một xe thiết vận xa trên đường đưa họ về Bộ Tổng Tham Mưu

    Tôi đến Sài Gòn ngày hôm sau. Tôi đã tìm được mả của hai anh em họ. Họ đã được an táng ở phía sau Bộ Tổng Tham Mưu, về sau người ta cho cải táng ở đất thánh, trong nghĩa trang của người Pháp, nằm về phía sau hầm mộ của gia đình Prouvost, giữa hai ngôi mộ của ông Aufroy Ernest, dược sĩ, chết năm 1876, và thiếu úy Thủy quân lục chiến, Trousselier.

    Họ đã gặp lại những người Pháp mà họ đã từng quá ghét, quá thương và gặp lại nền văn hóa đã từng được khắc sâu vào họ.

    Với "Ủy Ban Quân nhân Cách mạng" của tướng Minh Dương và với nhóm tướng lãnh trẻ hầu hềt đều xuất thân từ trường võ bị Coetquidan hay những quân trường khác của Pháp , không khí Sài Gòn đổi khác ngay.

    Hồi thời ông Diệm, như tôi đã trình bày ở trên, thành phố Sài Gòn có vẻ mặt như một cô gái có tư cách, đạo đức giả , che dấu hết những gì không thể cho thấy từ thân thể mình.. Với các tướng lãnh, người ta lại bắt đầu khiêu vũ, các quán rượu có gái bắt đầu mở cửa lại. Thành phố Sài Gòn vén cửa lên và để lộ các bắp đùi ra... Cả nước tưởng chừng như đã sắp có hòa bình rồi.

    Sự thật trái hẳn lại. Chiến cuộc tăng cường độ lên gấp hai lần, nếu không muốn nói là đã leo thang với sự tham chiến của người Mỹ.

    Người ta lại loại tướng Minh Dương , và nhóm các tướng lãnh thân Pháp coi như đã làm xong công tác,, bằng cách cáo buộc họ "có ghẻ", tức là trung lập. Chuyện đó chưa xảy ra lúc đó đối với tướng

    Minh, nếu tôi tin vào những lời ông ta nói với tôi lúc bấy giờ.

    Một anh hề, mập lùn, con người hay gieo rắc sự khiếp sợ, đã thay thế họ: đó là tướng Khánh., với những trò giả dối của ông ta, đôi khi quá xoàng và thô bạo, cuối cùng ông ta phải rời khỏi Việt Nam và trở thành chủ một quán ăn ở Ba Lê.

    "Bị đập" thời ông Diệm, tôi lại bị tiếp với ông Khánh, ông nầy đã nghe biết được về những chuyện của tôi nên đã thề sẽ lột da tôi nếu tôi bước chân đến Sài Gòn .

    Đảo chánh đã xảy ra liên miên như thác đổ. Tất cả những ông thủ lỉnh nhỏ được người Mỹ vận dụng, đã bắt dầu lên chiếm sân khấu chánh trị . Những cuộc đảo chánh đó làm cho Quân đội bị chia rẽ. Ngày 12 tháng 8 năm 1965 phi công Cao Kỳ lên nắm chánh quyền và người ta chấp thuận cấp cho tôi một chiếu khán vào Miền Nam Việt Nam . Đã là kẻ thù của tướng Khánh, tôi trở thành bạn của tướng Kỳ mà tôi không biết.

    Bây giờ là tôi trở lại Sài Gòn .Tình hình đã quá thảm hại. Nếu người Mỹ không can thiệp ồ ạt, theo tôi thì Miền Nam đã thua rồi. Các tướng lãnh đã có những tranh chấp nội bộ đến độ gần như không còn một Quân đội nữa. mà chỉ là những nhóm phục vụ hết người nầy đến người khác. Có môt số phần tử thuộc các giáo phái bị ông Diệm dẹp tan, nay họ nhập vào hàng ngũ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhất là nhóm Bình Xuyên, những kẻ cướp trên sông khi xưa.

    Sài Gòn đã không còn là một thành phố sạch nữa, không còn thơm tho như trước nữa và người ta cứ để như thế muốn ra sao thì ra.Người ta không còn tôn trọng đèn đỏ nữa. Mặc các anh cảnh sát cứ làm hiệu , mặc không ai muốn tuân hành. Cảnh sát đã mất uy tín bởi vì họ đã nặng tay đối vói các sư sãi và sinh viên. Ở Sài Gòn lúc bấy giờ đã có sáu ngàn "hộp thơ" Việt Cộng.Chỗ nào cũng có mở quán rượu cho lính Mỹ cũng như tôi đã từng thấy ở Nhật và ở Phi luật Tân: một cái quầy dài với một cô gái trước mỗi khách hàng.Cô gái phải bắt người đối diện uống, đồng thời phải làm cho anh ta hy vọng rằng cô nàng sẽ theo mình sau giờ đóng cửa, uống cho tới khi nào anh ta say hoàn toàn ngã lăn ra, hoặc không còn khả năng đòi hỏi gì nữa cả. Thân hình gầy gò của cô gái, cô chỉ nghiêm túc bán cho một anh "bạn" nào đó đang lo bảo quản cho mình, và thỉnh thoảng cô ta cho một anh cảnh sát mượn, không mất tiền, để anh nầy để yên cho cô hoạt động: mãi dâm, chợ đen hàng ăn cắp từ chợ Mỹ (nguyên tác tiếng Anh :PX)

    Sau đó là tới ma túy. Ở đâu cũng có các phòng đấm bóp như ở Thái Lan. Người Mỹ rất sợ các bệnh hoa liễu, nên thay vì làm tình lại thích những xoa bóp bằng tay của các cô chuyên nghề "xoa bóp"..

    Không còn ai muốn đánh giặc nữa, cả sinh viên , các anh cu li, cho đến những anh Tàu ở Chợ Lớn đều muốn được tuyển vào phục vụ trong các căn cứ Mỹ. Tinh thần công dân đã chết rồi, các tướng lãnh trẻ của Miền Nam đã mất hết tinh thần đó rồi. Có nhiều cô gái công tác cho Việt Cộng , các cô khác thì đóng tiền cho họ, có những cô khác thì mơ ước kết hôn với một lính Mỹ và trốn đi. Sự ung thối đã bắt đầu và ngày càng tăng theo nhịp độ đổ bộ của Quân đội Mỹ.

    Tôi đã viết trong quyễn "một triệu mỹ kim, người Việt" :

    "Ngày 1 tháng 3 năm 1967, đối với cuộc chiến tranh nầy, Miền Nam Việt Nam và những cố vấn Mỹ

    của họ đã bại trận rồi. Đã không có một trận đánh nào, chỉ có hằng trăm xã , hằng trăm ấp chiến lược

    bị mất. Thường thì họ đầu hàng, hay khá hơn nữa họ giữ nguyên trạng và bí mật ngã theo Việt Cộng

    Có nhiều nơi bị "giải phóng " cả vùng..Có nhiều vùng người ta xài tiền Hồ chí Minh, trong một số vùng khác thì có những cột mốc dài theo lộ để chỉ dẫn cho người ta cách vào vùng giải phóng . Có nhiều điểm thu thuế cầu đường được đặt ngay bên cạnh đồn bót. Thuốc lá bị đánh thuế.. .Hai chánh quyền !..."

    Tôi đã lái chiếc xe Citroen 2 ngựa, đi lang thang trong vùng do Việt Cộng kiểm soát mà không có chút e ngại nào. "Vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn Chợ Lớn bị một thứ vòng đại đỏ bao vây hết bên ngoài, từ phía Nam khoảng 15 cây số của thành phố Bến Lức, 7 cây số về phía Bắc của thị trấn Thủ Đức, 8 cây số về phía Tậy của Cát Lái. Tại Sài Gòn, có tin các sĩ quan , bộ đội, và cả ủy viên chánh trị Việt Cộng lẻn được về thăm gia đình của họ, hoặc để chữa trị.

    "Người Mỹ đã thấy được là tình hình đã ung thối đến mức nào rồi.

    " Ở Sài Gòn có một không khí rất lạ lùng. Tất cả đều gian lận, tất cả đều sai hết. Cộng sản họ đã tin chắc là họ đã thắng trận rồi. Các cuộc xung đột và những giải pháp của nó đã qua khỏi giai đoạn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vì tổ chức nầy đã biến thành CPLTCHMN . Nó đã nằm trong phạm vi quyền lực của Ủy Ban Trung Ương đảng từ Hà Nội .

    Cũng giống như người Pháp, người Mỹ vốn đã biết sẽ thua ở Đông Dương nên đã chuẩn bị sẵn sàng ra đi, nếu cộng sản khéo léo trong thương lượng.. Nhưng Hồ chí Minh, Giáp và Phạm văn Đồng bị Liên Xô và Trung Cộng thúc đẩy nên muốn có một chiến thắng quân sự . Họ nói với nhau :

    - " Hãy cho người Mỹ chờ đợi cho đến khi nào họ mất hết thể diện, cho tới khi nào những sự bảo đảm

    mà họ đòi hỏi thật sự không còn giá trị gì nữa. "

    Chính vào lúc đó, tháng 3 năm 1965, họ phạm vào một lỗi lầm rất nặng. Đột nhiên Hoa Kỳ can thiệp ồ ạt.

    Ngày 1 tháng 3 năm 1965, Việt Cộng coi như đã thắng trận giặc nầy rồi,.

    Ngày 1 tháng 10 năm 1965, Việt Cộng coi như đã thua trên bình diện quân sự .

    "Chiến trận gây nhiều chết chóc nhất đã xảy ra ở Chu Lai, ở đó có sự tham chiến của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Trong vòng 6 tháng , từ tháng 3 đến tháng 9 / 1965 , Việt Cộng đã thình lình cho rút hết toàn bộ binh lính ra khỏi các vùng mà họ đã chiếm được và quay trở về những nơi ẩn náu cũ.

    Thành phố Sài Gòn trở thành như một địa ngục. Không tài nào thong thả đi dạo được và sự lưu thông đã đến một cường độ dữ dội. Hàng ngàn xe vận tải to lớn chạy như điên trên đường phố, với còi hụ inh ỏi. Hàng trăm hằng ngàn binh sĩ Mỹ đi tìm gái và rượu. và sẳn sàng trả cho họ bất cứ giá nào. Sài Gòn bị tràn ngập chăng ? Không Sài Gòn sẽ nuốt chững con quái vật nầy.. Và người dân Sài Gòn sẽ biết cách lợi dụng, từ anh phu xích lô đến anh nhà buôn giàu có. Sài Gòn sẽ trở thành một nhà thổ khổng lồ ! Nhìn bề ngoài, tất cả cấu trúc gia đình , luân lý, tôn giáo và cả chánh trị đều như sụp đổ...

    " Người Mỹ ước tính là họ đối diện với khoảng 165.000 Việt Cộng chánh quy hay du kích địa phương, và cán bộ từ Miền Bắc lên đến 10.000 người . Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì có 10 sư đoàn với khoảng 250.000 binh sĩ chánh quy, 250.000 địa phương quân và dân vệ, 70.000 cảnh sát. Lực lượng Mỹ lên tới con số 150.000 vào ngày 12 tháng 10."

    Lúc đầu thì người Mỹ lấy làm khích lệ với những mục đích tốt. Cũng trong ý định đó mà tướng Westmoreland đã cho công bố chín điều "giới luật" cho các binh sĩ Mỹ ở Việt Nam .Họ được khuyến cáo là lúc nào họ cũng phải có những điều luật nầy trong người , một tấm giấy cứng nhỏ, khổ 9 trên 6 phân có in những điều giới cấm đó. :

    " 1.- Hãy nhớ là ở đây các anh là khách, đừng đòi hỏi gì hết, đừng tìm những đối xử riêng lẻ.

    2.- Hãy hòa mình với dân chúng, Hãy hiểu đời sống của họ, Hãy biết ngôn ngữ của họ và tôn trọng luật pháp và phong tục tập quán của họ.

    3.- Hãy tỏ ra có lễ độ và kính trọng trong sự giao tiếp với phụ nữ.

    4.- Hãy làm bạn với những binh sĩ và dân chúng Miền Nam Việt Nam

    5.- Hãy để cho người Việt Nam được ưu tiên

    6.- Hãy ở trong thế thủ và sẵn sàng hành động như một người lính.

    7.- Đừng làm cho người ta chú ý bằng hành động ồn ào, thô bạo và khác hẳn với hành động của những người khác.

    8.- Tránh đừng xa rời dân chúng bằng cách khoe mình giàu sang và có quyền được ưu đãi.

    9.- Trước hết , các anh là người của quân lực Hoa Kỳ , đến đây với một nhiệm vụ khó khăn. Các anh phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình, trong mọi việc làm, công cũng như tư, giữ danh dự cho chính mình và cho Hoa Kỳ ."

    Cả 9 điểm của tướng Westmoreland đã được thi hành, nhưng ngược lại. Người Mỹ không coi mình như người khách mà coi mình như người chủ. Họ không bao giờ hòa mình với dân chúng :Họ sống riêng trong căn cứ có máy điều hòa không khí của họ, và ăn đồ hộp lạt lẽo vô vị trong khi họ có thể tự đãi mình bằng một bát phở hay hủ tiếu có bán khắp nơi, ở mọi nẻo đường. Cũng có đôi lúc họ liều đi ăn ở nhà hàng, nhưng của Pháp, chớ không bao giờ đến tiệm ăn Việt Nam . Người Mỹ cho người ta cái cảm tưởng là họ sống trong một hòn đảo mà họ mang theo với họ.

    Còn về chuyện " tỏ ra có lễ độ và kính trọng trong sự giao tiếp với phụ nữ" thì đối với họ, tất cả người phụ nữ Việt Nam đều là gái điếm hết ! Dĩ nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ vậy. Binh sĩ Mỹ cưới người Việt Nam phần đông là gái không đứng đắn, chỉ với những người mà họ đã có biết qua.

    "Hãy làm bạn với binh sĩ và dân chúng " : Đối với lính Mỹ, người quân nhân Việt Nam là nhát, không có khả năng chiến đấu, luôn sẵn sàng để phản bội.

    "Hãy ở thế thủ và sẵn sàng hành động như một người lính" : Những anh lính lớn con người Mỹ thường không được như vậy, vì điều nầy mà họ đã trả một cái giá quá đắt .

    "Đừng làm cho người ta chú ý bằng một hành động ồn ào, thô bạo và..... tránh xa rời dân chúng bằng cách khoe mình giàu sang và có quyền được ưu đải ": Tất cả những nắm mỹ kim họ ném lên bàn ! Người dân Miền Nam Việt Nam vốn khôn lanh như khỉ, nên tự nhủ:"Chúng ta không thể nào làm khác hơn là yểm trợ họ, và như vậy là ta phải thừa cơ hội chớ " Họ cứ thế họ gậm nhắm Quân đội Hoa Kỳ . Đến chỗ họ biển thủ hay dánh cắp tới 30 % tất cả những gì Hoa Kỳ đã mang sang .

    Có vài lần người ta xử bắn một kẻ có tội "quấy phá an ninh" hay một anh Tàu nào đó về tội buôn lậu. Từ trên xuống dưới trong hệ thống chánh trị và quân sự chỗ nào cũng có chợ đen. Khi ông rời khỏi nước Việt Nam , tướng Khánh mang theo một va ly đầy giấy 100 mỹ kim.

    Một chỗ nương náu: sân thượng của khách sạn Continental, ở đó tôi gặp lại vài người Pháp già nhớ nhà. Đây la một nơi cần được giữ chỗ trước . Người ta gặp ở đây vài anh nhà báo Mỹ. Thường thì người Mỹ không thích khách sạn Continental vì ở đây không có máy lạnh. Họ thích các trung tâm hay căn cứ của họ hơn, được tổ chức vừa ý họ hơn và luôn luôn có máy điều hòa không khí.

    Nhưng với một nhà báo, làm việc với người Mỹ một khi được tín nhiệm rồi thì là tuyệt vời . Thật là rất có hiệu quả: Quân đội Hoa Kỳ là một bộ máy to lớn, chạy rất là tốt.... và bài được đánh đi ngay bên cạnh đó.



    Tôi đã rời khòi Sài Gòn những tưởng rằng trên bình diện quân sự người Mỹ đã lật ngược được tình hình, nhưng họ đã thua về mặt chánh trị . Vì họ không lựa được người xứng đáng để điều khiển đất nước , và không có được một ý thức hệ có giá trị khả dĩ có thể chống lại với người cộng sản. Thuyết Dân chủ không phải được tạo ra cho người Đông Nam Á Châu.

    Tôi không có ở Sài Gòn trong trận tổng công kích Tết Mậu Thạn mà mãi về sau tôi mới đến đó được . Bọn Việt Cộng đã phân tích sai tình hình. Họ không bao giờ hiểu gì hết về Sài Gòn . Họ đã lập luận rằng : thành phố nầy đã chán ngấy về sự ung thối về người Mỹ, đã chín mùi rồi cho một cuộc tổng nổi dậy. Họ đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho cuộc tổng tông kích. Họ đã giốc hết toàn bộ lực lượng của họ vào trận đánh chiếm Sài Gòn , cả chủ lực và thành phần bí mật nằm vùng. Nhưng Sài Gòn không có tổng nổi dậy, và dân chúng Sài Gòn không có theo cộng sản . Bọn Việt Cộng bị lạc đường trong thành phố . Điều nầy dẫn đến một sự tàn sát sau nhiều trận đẫm máu, vì Việt Cộng đánh quá hăng. Họ đã gần chiếm được tòa đại sứ Hoa Kỳ. Nhưng họ quá đơn độc.

    Họ đã treo được cờ CPLTCHMN trên thành nội Huế, nhưng họ đã phạm vào những tội không thể tha thứ được, còn tệ hơn tội sát nhân nữa. Họ đã tàn sát thẳng tay tất cả những ai chống lại họ. Ở Sài Gòn thì phần đông là cảnh sát . Ở Huế , thì tất cả giai cấp tư sản và thượng lưu trí thức đã từng theo họ. Và không ít các công chức.

    Ở Hué cũng như ở Sài Gòn , trong ngày Tết 68 nầy, cộng sản đã thất bại về chánh trị . Không bao giờ sẽ có cuộc nổi dậy nào có lợi cho họ nữa . Tệ hại hơn nữa, CPLTCHMN trong dạng quân sự, vì bị quá nhiều thiệt hại nên đã gần như không còn nữa và đã hoàn toàn rơi vào tay của cộng sản Bắc Việt. Tức là bọn Việt Cộng và CPLTCHMN đều thua trận nầy.

    Chúng ta đang ở vào ngày 24 tháng 4 năm 1975, và không có chỗ nào, dù là Miền Nam đang trong tình trạng sắp tan rã, dân chúng cũng không hề nổi dậy. Không có một đơn vị nào mang cả vũ khí và quân trang sang hàng ngũ cộng sản .



    Tôi trở lại Sài Gòn vào tháng 2 năm 1971, để hưởng cái Tết.

    Vào lúc 12 giờ trưa hay 6 giờ chiều, con đường Pasteur bị tắm trong một màu xanh quá khó chịu của dầu benzin cháy không hết. Các loại chim đều bay đi hết. Nước sơn trên tường bị bong ra, thành phố đã trở thành ghê tởm.Có nhiều toán trẻ lang thang đi ăn cắp vặt, nhiều người tàn tật đi ăn xin .... Có khoảng 200.000 trẻ lang thang trên đường phố Sài Gòn và 200.000 người ăn xin,(4) vô gia cư và phạm đủ thứ tội. Dân số đã trên 4 triệu, trong khi thành phố chỉ dự trù cho 500.000 dân... Sài Gòn đã biết được trước nhất một thời kỳ đặc biêt sảng khoái lúc binh sĩ Hoa Kỳ ồ ạt đổ bộ, 540.000, chưa kể quân số của hạm đội 7, các toán tuần tiễu duyên hải, các nhà thầu và nhóm dân sự vụ, cộng cả thảy khoảng 600.000 người . Các binh sĩ đổ bộ lên đợt đầu tiên được đón tiếp trên bãi biển với các tràng hoa tươi. Bây giờ thì hết rồi Với bất cứ một căn phòng nào, lớn nhỏ không cần , người ta đã có ngay một quán rượu. Tìm thêm vài cô gái đưa vào đó , thế là xong....

    Vào tháng giêng năm 1971, quân số Hoa Kỳ đã xuống dần, đến con số 350.000. Vào tháng 5, thì chỉ còn có 284.000. Đồng bạc Việt Nam lại xuống giá. 1 mỹ kim chỉ đổi được có 400 đồng (giá chánh thức là 200). Ngày 29 tăng lên 600 đồng.

    Trên phương diện quân sự, phần thắng lợi coi như nghiêng về phía Miền Nam Việt Nam . Tôi đã tham dự cuộc hành quân Lam Sơn. Người Mỹ đã có ý muốn chứng minh trước khi họ rút đi, rằng Quân đội Miền Nam Việt Nam có khả năng chiến đấu một mình được rồi.. Từ Khe Sanh, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải tiến vào lãnh thổ Lào để cắt ngang đường mòn Hồ chí Minh .

    Chuyện "Việt Nam Hóa chiến tranh" đã cho thấy đó chỉ là một đòn bịp để cho chúng ta hiểu được sự bại trận vào năm 1975.. Thí dụ như Hoa Kỳ đã giúp huấn luyện một số phi công lái trực thăng. Nhưng các phi công trẻ nầy không biết xử dụng dụng cụ bay, chỉ nhắm hướng bay bằng thị giác mà thôi. Một chiếc trực thăng chở một số nhà báo, bị rơi vào sương mù bị lạc qua vùng cộng sản và bị bắn hạ. Tôi thoát được là nhờ đi được trên một chiếc trực thăng khác, cũng bị lạc nhưng may mắn hơn họ đáp được xuống đất nhà.

    Người ta đã đào tạo và huấn luyện ở Hoa Kỳ những sĩ quan Việt Nam chuyên trách sau nầy về liên lạc địa-không Họ có khả năng điều khiển từ dưới đất hỏa lực không trợ . Họ đã tập sự, lập đi lập lại nằm lòng những gì người ta đã dạy. Trên trận địa, họ cho thấy là họ không có đủ khả năng để điều khiển hỏa lực không trợ của các phi cơ Mỹ. Chỉ vì họ quá kém về Anh văn.

    - " Quân đội Miền Nam Việt Nam không thiếu một món gì hết, cho tới một chiếc bù lon cũng không thiếu"

    Đó là những gì hầu hết các tướng lãnh Hoa Kỳ đã nói Nói vậy chớ trừ một vài đơn vị thiện chiến còn thì

    tất cả đều như cái bị rách. Người Mỳ đề cao giá trị của QLVNCH để họ có thể rút đi càng sớm càng tốt.

    Tôi đã khám phá ra cái thành phố Sài Gòn của những người lính Mỹ đào ngũ, một thành phố ghê tởm vừa tự bán mình vừa giữ nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta suy nghĩ thật kỹ thì Sài Gòn lần lượt đã từ chối người Pháp, chế độ của ông Diệm, người Mỹ và bọn Việt Cộng. Thành phố nầy chưa bao giờ thật sự là một thành phố Việt Nam , nó thả mình phiêu lưu theo thế giới và buôn lậu. Chúng tôi sẽ trở lại sau nầy về những nguồn gốc của nó.

    Tôi đã viết trong quyển "Chuyến du lịch đến tận cuộc chiến tranh " :

    -" Trước kia Sài Gòn rất là duyên dáng. Người ta ai cũng biết cười. Thành phố đã qua thử thách vì

    hằng trăm ngàn lính Mỹ, với đồng mỹ kim đầy túi và muốn tất cả đều được mua bán tự do, rượu, gái, ma túy và sẵn sàng trả với bất cứ giá nào cũng được .Tất cả những rào cản đều được đồng mỹ kim dẹp hết kể cả một dạng về luân lý, và tất cả các cấu trúc xã hội chỉ còn giữ lại một vài cơ cấu mà thôi. Trước kia, trong thế kỷ khác nào đó, người ta gọi Sài Gòn là "hòn ngọc Viễn Đông" và Sài Gòn giờ đây đã trở

    thành một thành phố của các sự hối lộ và của thanh toán nhau...Từ các thùng rác không đổ đi được và những miệng cống bị tắt tịt.. phóng lên một mùi xú uế nồng nặc đã thành một mùi đặc biệt của thành phố nầy ...."

    Người ta tìm được ở đây bạch phiến với một giá bất chấp mọi sự cạnh tranh nào. Nguyên chất ,

    90 %, và rẻ hơn thuốc phiện vốn từ đó bạch phiến được lấy ra. Đó là do bọn cộng sản đã mang sang từ Lào, từ Tam Giác Vàng , từ Thái Lan .. để cho tràn ngập thị trường ở đây. Chu ân Lai đã từng thú nhận

    như thế trong một cuộc phỏng vấn ở Hán Khẩu :" Người Mỹ họ có B.52, thì chúng ta có ma túy"

    Ở tiệm Soul Alley, nằm về phía sau Tân Sơn Nhất , thường có những tay ăn cắp chuyên nghiệp, thường là

    những lính đào ngũ da đen. Họ đào ngũ bởi vì họ quá nghiện rồi và tự biết là họ sẽ không bao giờ có được bạch phiến nữa khi về đến Hoa Kỳ . Cũng như người ta đã từng nhắc nhở với họ trong tờ Stars & Stripes rằng bạch phiến ở Hoa Kỳ mắc bằng 10 lần hay 20 lần hơn, nên họ đã thích đào ngũ để ở lại đây luôn.

    Sài Gòn đã bung to ra vì Quân đội Hoa Kỳ . Các người lính Mỹ dơ dáy, tóc để dài, thường hay làm dấu hiệu hòa bình trên đường phố. Họ la cà hết các quán rượu nầy đến nhà thổ khác. Họ làm thối nát Sài Gòn và ngược lại Sài Gòn làm hư hết binh sĩ Mỹ.

    Đối với vấn đề nầy, phải nhấn mạnh đến ảnh hưởng của người phụ nữ Việt Nam . Chính họ là người nắm túi tiền. Có 3 người đàn bà đã có một vai trò quyết định trong việc để mất Miền Nam Việt Nam . Bà Thiệu, vợ của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa , bà Khiêm , vợ của Thủ Tướng chính phủ , và bà Quang, vợ của cố vấn quân sự đầy quyền lực của Tổng Thống. Các bà nầy có những văn phòng bí mật ở Sài Gòn để ở đó họ bán đấu giá những địa vị những chức vụ, những giấy phép quan trọng, những chiếu khán xuất cảnh, những giấy miễn dịch Quân sự . Bán tất cả miển là có tiền, có mỹ kim hay đồng quan Thụy sĩ..

    Người thợ thủ công phải chung một phần lợi tức của mình cho đại tá hay ông tướng nào đó của đơn vị mình để được tiếp tục ở nhà hành nghề . Những anh Tàu giàu có còn lanh hơn, tự xung phong làm bếp cho tướng lãnh. Dĩ nhiên họ phải cung cấp cả bếp lẫn thức ăn cho vị tướng đó. Năm 1971, quân số của hầu hết các đơn vị đều gian dối: người ta thổi phồng quân số lên để giúp cho các sĩ quan có thêm tiền lương của lính ma lính kiểng hoặc bán đi thực phẩm của họ.

    Lúc bấy giờ, ông Thiệu là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa , chánh thức được Tổng Thống Hoa Kỳ và CIA nâng đỡ. Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Phó Tổng Thống và tướng Minh Dương là người rất bình dân. . Ông vẫn là người tiêu biểu cho hòa bình . Sau đó tướng Kỳ bị loại ra và tướng Minh thì bị đưa sang Thái Lan. Các tướng lãnh và đại tá thì ủng hộ ông Thiệu. Họ muốn được yên thân để làm giàu.

    Tất cả cho thấy có một sự thúi nát, nhưng người dân Miền Nam Việt Nam vì không muốn chế độ cộng sản nên phải chấp nhận ông Thiệu và mọi sự hư hỏng nầy. Và vì họ nhớ tới vụ tàn sát ở Huế.

    Chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát phần lớn lãnh thổ vào năm 1971 từ sau khi các đơn vị Hoa Kỳ rút đi.Đó là trên phương diện chánh trị. Và họ sẽ mất dần trên phương diện quân sự .

    Người dân Miền Nam Việt Nam rất sợ người dân Hỏa Tinh của Hà Nội , những người "nhỏ thó mặt

    đồ xanh lá cây". Đối với họ đây là những người thuộc một hành tinh khác, một giống người khác , khắc nghiệt, cười nhưng không biết động lòng, là những tượng gỗ . Sài Gòn vẫn thích đời sống dễ dãi, và không muốn vào nhà kín để trở thành một bà sơ đỏ.

    Lịch sử về những nguồn gốc của Sài Gòn đã cho chúng ta hiểu nhiều hơn về lối sống và xử sự của người dân, vừa có chút máu tàu , chút máu Miên, rồi đã phải sống chung và liên lạc lâu dài với người Pháp, rồi với người Nhật, với người Mỹ... không thể sống mà không có người bảo hộ, những người mà họ vẫn luôn luôn không trung thành, mà thiếu họ cũng không được .



    *

    * *

    Chú Thích của dịch giả:

    (2) - Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài không phải là dị giáo như tác giả đã hiểu, nên đến giờ nầy (thế kỷ 21) vẫn còn tồn tại. Chỉ riêng có nhóm Bình Xuyên thì sai trái, không có chánh nghĩa, nên bị triệt tiêu là quá đúng.

    (3 )- Ở chỗ nầy tác giả có một nhận xét quá chủ quan, có thể sai. Sự thật là người lái xe "Citroen 2 ngựa" đưa hai ông Diệm Nhu và tùy viên quân sự rời khỏi Dinh Gia Long là thiếu tá Trang khánh Hưng, người cùng quê và bạn học một trường một lớp từ nhỏ với dịch giả. Anh cũng là một sĩ quan thiết giáp như dịch giả, được biệt phái qua Bộ Thanh Niên, làm việc với ông Cao xuân Vỹ. Anh được lệnh của ông Cao xuân Vỹ đến chờ đón hai ông Diệm Nhu ở một nghách bí mật từ Dinh Gia Long ra, ngay lúc hoàng hôn chiều tối ngày 1/11, lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Công tác hoàn thành, anh đưa họ vào nhà ông Mã Tuyên hồi gần 9 giờ đêm, và từ đó họ mới vào được nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn. Riêng đại tá Thiệu, với tư cách là sư đoàn trưởng sư đoàn 5, ông đang cùng với Bộ Tham Mưu sư đoàn ở Bộ Chỉ Huy hành quân của sư đoàn, không đóng gần Dinh Gia Long ;

    (4) tác giả quá chủ quan, đưa ra những con số cao gần gấp 10 lần sự thật.




    --------------------------------------------------------------------------------


    CHƯƠNG MỘT

    (tiếp theo của phần 2 )



    Theo ông Pétrus Trương vĩnh Ký (quyển sách “Những Kỷ Niệm Lịch Sử của Sài Gòn và Những Vùng Ngoại Ô” : diễn văn của ông Pétrus Ký tại Đại Học Thông Dịch Viên 1887) thì cái tên Sài Gòn mà chúng ta đang gọi là tên của thành phố Chợ Lớn , thành phố của người Hoa trong hiện tại. Chữ “Sài” được mượn từ một chữ Tàu, có nghĩa là “Cây”; chữ “Gòn” tiếng Việt Nam có nghĩa là cây gòn. Thoạt đầu lúc người ta mới gọi Sài Gòn thì có rất nhiều cây loại nầy được người Cam Bốt trồng chung quanh các thành cổ bằng đất mà hiện nay người ta vẫn còn thấy được dấu vết gần đình Cây Mai và quanh vùng đó. Do vậy người Cam Bốt đã chỉ rõ cả vùng nầy là Sài Gòn.

    Trước vua Gia Long, Sài Gòn chỉ là một làng thường của người Cam Bốt, có tên gọi là Prei Kor với những rào cây xanh bằng cây “gòn” , nhưng dầu đơn sơ như vậy đây là dinh của một vị vua.

    Năm 1680, có hai vị tướng người Trung Quốc đời nhà Minh không chịu tùng phục người Mãn Châu là kẻ xâm lăng nước Tàu lúc bấy giờ, nên đã cùng với 3000 binh sĩ trốn đi trên 60 thuyền lớn. Họ đến với vua Hiền Vương của Việt Nam (lúc đó còn gọi là An Nam) . Vị vua nầy viết cho họ một lá thư để trao cho quốc vương Cam Bốt, chư hầu của Việt Nam, cho họ được phép ở Nam Kỳ để khai phá đất hoang quá rộng ở đây. Lúc bấy giờ quốc gia Cam Bốt đang trong thời kỳ suy đồi, được chia ra làm hai vùng, một là ở phía Tây chịu ảnh hưởng của Thái Lan, và một vùng ở phía Đông chịu ảnh hưởng của Việt Nam . Coi như quốc gia nầy sắp bị diệt vong , cuộc xâm lăng của người Pháp đã cứu được quốc gia đó.

    Đến được Đồng Nai, hai tướng người Tàu chia ra thành hai nhóm, một đi lên Miền Đông ở Biên Hòa và một nhóm xuống Mỹ Tho ở Miền Tây. Vị vua Cam Bốt ở Prei Kor cảm thấy bị đe dọa vì hai nhóm Tầu ở cả hai Miền Đông và Miền Tây, nên viết thư cầu cứu quốc vương Việt Nam .

    Quốc Vương Việt Nam muốn lợi dụng cơ hội để xuống chiếm luôn vùng nầy, nên đã gởi đến một tướng lãnh nào đó có tên là Văn. Vua Cam Bốt ở Sài Gòn chọn con đường tự tử để khỏi phải bị bắt để rồi sẽ bị nhốt vào cũi cho đến chết vì đói, theo phong tục lúc bấy giờ.

    Sụ can thiệp của triều đình Việt Nam đưa đến một làn sóng di cư của người dân Việt và nhờ sự giúp đỡ và khuyến khích của chính phủ đã lần lần chiếm hết Miền Nam Việt Nam.

    “ Thật tình mà nói thì trên phương diện hoàn toàn luân lý, người dân Việt vào Nam lúc bấy giờ hầu hết không phải là những người được chọn lọc, mà phần đông là dân bị đày biệt xứ, những người đào ngũ, những người sống lang thang không cửa không nhà, nhưng cũng là những người có cá tính đặc biệt quen với những thiếu thốn, chịu gian khổ, và họ đến nơi định cư với những đức tánh chịu khó, dẻo dai và ham hoạt động .

    Do vậy, Sài Gòn cũng như cả Miền Nam Việt Nam được thoát thai từ một sự pha trộn giữa người Cam Bốt , những dân bất hảo và phiêu lưu người An Nam thời đó, người Mã Lai, người Nhật và một số lính đánh thuê người Tàu bị đuổi khòi Trung Quốc .

    Sự nổi dậy của người Tây Sơn, dân vùng bình nguyên An Khê, đã làm cho Nguyễn Ánh (về sau trở thành vua Gia Long) phải bỏ chạy. Nhưng may mắn ông lại gặp được một nhân vật đặc biệt là linh mục d’Adran, ông Pierre Pigneau de Béhaine, Khâm Mạng tòa thánh ở Nam Kỳ. Vị giám mục lực lưỡng nầy, người có một dòng máu lạ lùng pha trộn giữa một dũng tướng, một nhà ngoại giao và một nhà truyền giáo, là người bảo trợ cho người mà ông gọi là “một ông vua nhỏ bé, đau khổ của xứ Nam Kỳ”. Qua trung gian của giám mục nầy, Nguyễn Ánh xin được sự trợ giúp của nước Pháp, và ông giao cho Giám mục những gì quý giá nhất của đời ông : đó là hoàng tử Cảnh và ấn tín của nhà vua.

    Ngày 28 tháng 11 năm 1787, Hiệp Ước Versailles đã được ký kết, theo đó vua Louis XVI cam kết đặt lại ngôi vị quốc vương cho Nam Kỳ, bù lại người Pháp sẽ được tự do buôn bán trên toàn cõi Việt Nam và đặc biệt được quyền xử dụng hải cảng Tourane (Đà Nẵng) . Nhưng hoàn cảnh nội bộ của nước Pháp sau đó đã buộc vua Louis XVI phải quyết định hủy bỏ cuộc viễn chinh.

    Ngày 24 tháng 7 năm 1789, Giám mục Bá Đa Lộc vào Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) với 3 chiến thuyền, trong đó có chiếc Méduse với một đạo quân tình nguyện do chính ông tuyển mộ : 400 người Pháp. Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn, một căn cứ không mấy quan trọng và từ nơi đó ông chờ viện binh của ông.

    Giám Mục Pigneau de Béhaine sẽ trở thành Bộ trưởng Chiến Tranh và Tổng Trưởng Ngoại Giao của vua Gia Long trong suốt 10 năm liền. Chính ông ta đã chuyển những nhóm người ủng hộ nhà vua thành một quân đội hiện đại, vững mạnh , mà cán bộ chỉ huy thuộc nhóm quân tình nguyện người Pháp

    Quân Tây Sơn thua và bị đuổi đi, Nguyễn Ánh lấy lại Huế và sau đó Hà Nội (ngày 20 tháng 7 năm 1802) và lên ngôi với danh hiệu là Gia Long. Ông nhận sự tấn phong từ hoàng đế Trung Quốc vẫn luôn luôn với danh nghĩa là bá chủ của An Nam Quốc. Chỉ còn thiếu có phép lành của người bạn Giám Mục của ông mà thôi.

    Sau đó không bao lâu thì Giám Mục qua đời. Ông được chôn ngay cửa thành phố Sài Gòn , trong một “ngôi mộ nguy nga” . Bây giờ thì chung quanh đó có quá nhiều nhà sùm sụp. Và toàn là kẻm gai chung quanh. Có nhiều binh sĩ đang phòng thủ ở đó sau những bức tường bằng bao cát. Một lần nữa, vị Giám Mục Pigneau de Béhaine nầy lại có mặt ở tiền tuyến..

    Thành Sài Gòn được Ông Olivier, một người Pháp trong hàng ngũ tình nguyện mà Giám Mục Bá Đa Lộc mang sang, đã đứng ra xây cất theo kiểu Bát Quái dồ, có 8 cừa (8 ô theo thuật bói toán của người Tàu, gồm 4 hướng chánh và 4 hướng phụ), được dựng lên hướng về nhà thờ chánh tòa. Giám mục Pigneau de Béhaine người rất mến thương đại đội binh sĩ của ông nên cất nhà ở ngay tại đó.

    Đã trở thành hoàng đế, vua Gia Long đóng đô ở Huế, để Sài Gòn cho người phụ tá thân tín của ông là Ngài Tả quân Lê văn Duyệt, người sẽ trở thành Tổng Đốc xứ Nam Kỳ.

    Nhờ vào một vài người Pháp mà ông giữ lại bên mình, vua Gia Long đã tiến hành được một chuyển đổi thật sự cho đất nước. Thật vậy, đi trước Nhật bản gần 60 năm, Ngài đã đoán thấy cái lợi của sự tăng trưởng sức mạnh mà một quốc gia Á Châu có thể có được do sự thu nhận kỹ thuật của phương Tây.

    Vua Gia Long mất vào năm 1820 và người con trai thứ tư của Ngài lên nối ngôi. Cũng giống như những vì vua kế tiếp là Thiệu Trị (1841- 1847) và Tự Đức (1847-1883), vua Minh Mạng tiêm nhiễm văn hóa Trung Hoa. Ông khinh miệt những người Tây phương mà ông gọi là “ngoại lai” và nghi ngờ các xí nghiệp của họ. Triều đại của 3 vì vua nầy đã đánh dấu một sự phục hồi rõ nét ảnh hưởng văn hóa Khổng Học của Trung Quốc đến trở thành mẫu mực . Trong khi vua Gia Long đã biết được sự cần thiết của một sự hiện đại hóa càng nhanh càng tốt, thì những người kế thừa ông lại tin là có thể bảo vệ nền văn hóa Khổng học của Trung Quốc bằng cách cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài.

    Để giữ vương quốc bị “Hán hóa” của mình cách biệt với thế giới bên ngoài, vua Minh Mạng và những vì vua kế tiếp đã truy hại những giáo dân, thuộc “giáo phái nghịch đạo”. Riêng tại Bắc Việt con số bị giết đã lên tới 70.000 trong tổng số 300.000 người. Có những sự bắt bớ toàn bộ, nhà thờ bị đốt, các linh mục truyền giáo bị xử trảm… đã khiến cho hải quân Pháp phải can thiệp , bắn chìm trước càng Đà Nẵng năm 1847 những tam bản và chiến thuyền của Việt Nam

    Những sự truy hại người công giáo vẫn cứ được tiếp tục như thường và một vị cố đạo người Tây ban Nha là Giám mục Diaz đã bị hành quyết. Điều nầy giải thích tại sao một tàu hộ tống và một biệt đội bộ binh tham gia việc chiếm đóng Nam Kỳ và tiến chiếm Sài Gòn .

    Hoàng đế Napoléon III đang cần có một vài chiến thắng quân sự đã lấy cớ vì những sự truy hại đó để can thiệp. Ngày 25 tháng 11 năm 1857, một hạm đội gồm có 14 chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của đô đốc Rigault de Genouilly đã bắn vào các thành lũy của Đà Nẵng và các đại đội đổ bộ của ông ta đã chiếm thành phố và hô vang những khẩu hiệu “Vạn tuế Hoàng Đế Nã phá Luân”

    Ngày 17 tháng 2 năm 1859, đến lượt Sài Gòn bị chiếm. Cuộc tiến chiếm Sài Gòn bắt đầu từ sáng sớm tinh sương và chấm dứt lúc 10 giờ sáng và thành lính do ông Olivier xây cất bị chiếm. Người Pháp và người Tây ban Nha tìm thấy được ờ đó một số vật liệu đáng kể : “200 khẩu đại bác bằng sắt và bằng đồng, 20.000 khẩu súng tay, 8 tấn rưỡi thuốc pháo… một thùng đựng bạc để đúc tiền trị giá 130.000 quan Pháp và một số lượng gạo đủ nuôi 8.000 người trong một năm. “

    Đô đốc long trọng chiếm thành phố và chỉ định đại tá Jauréguiberry làm tổng trấn. Đô đốc Bonard kế vị đô đốc Rigault de Genouilly với danh xưng là thống đốc toàn quyền xứ Nam Kỳ. Vua Tự Đức đành phải chịu mất cả Sài Gòn và các tỉnh phía Nam.

    “Không thấy có Sài Gòn một thành phố của người An Nam lúc chúng tôi đến đây” Ông Jean Bouchot đã viết như vậy trong Tập San Nghiên Cứu vế Đông Dương “ .

    “Trong giới hạn hiện tại của trại binh sĩ Pháp, người ta chỉ có thể nhìn thấy được một số xóm, làng mạc, những vùng dân cư rải rác, hoặc dọc theo hai bờ sông, hoặc trên bờ rạch theo các hàng cây xanh, hoặc trên sườn đồi nhỏ nằm trong vùng bảo vệ của trại lính.”

    Và đây là phần mô tả của ông Léopold Pallu của tạp chí La Barrière năm 1859 :

    “ Người khách du lịch lúc đến Sài Gòn thấy được bên bờ phải của con sông một con đường mà hai bên nhà cửa thưa thớt, cách khoảng với nhau, có nhiều khoảng trống lớn. Hầu hết các căn nhà cây được lợp bằng lá dừa nước. Có một số ít được xây bằng đá, nóc lợp bằng ngói đỏ xem đẹp mắt phần nào. Kế đó là nóc nhà mái cong của một ngôi chùa phối cảnh của con rạch Tàu và hai con kinh nhỏ dùng cho các xuồng ghe nhỏ của người bản xứ. Một hàng hiên không còn thẳng đứng được dùng làm chợ mà nóc của nó lúc nào trông cũng thấy muốn xiêu về bên phải. Hằng ngàn chiếc ghe thuyền chen nhau đậu vào bờ sông trông như một làng nổi. Người An Nam, người Ấn Độ, Tàu và vài quân nhân người Pháp và Phi Châu qua lại đi tới đi lui, thoạt nhìn tạo nên một cảnh trí lạ nhưng sau đó thì mắt thấy chán chê ngay. Sau đó thì Sài Gòn không còn có gì để mà xem nữa hay nếu có thì dọc theo con rạch Tàu còn một số nhà khá sạch sẽ được xây cất bằng đá, trong đó có một ít nhà cũ, còn đứng vững được sau các cuộc nổi dậy vừa qua. Lúc chúng tôi vừa đến chiếm cứ ở đây thì vùng đất thấp hiện tại của Sài Gòn chỉ là một vùng đồng ruộng sình lầy tràn ngập nước khi thủy triều lên. Các quan chức dân sự và quân sự và những người khá giả thì ở trên bình nguyên chạy dài từ thành lính Pháp đến cánh đồng mả, trong khi lớp dân chúng đang cần làm lụng mỗi ngày thì chen chúc nhau ở bên bờ phải của con rạch trong những nhà sàn lợp lá trông như được treo lửng lơ dọc theo hai bên bờ sông như chúng ta còn thấy hiện nay.Vài con đường nhỏ được nâng cao lên khỏi mặt nước nối liền thành phố kỹ nghệ với các khu nhà quý tộc, và ai cũng biết là người An Nam quá quen với chuyện đi dưới ruộng rồi thì việc liên lạc qua lại giữa các khu không có gì gọi là khó khăn hết.” (báo Courrier de Sài Gòn ngày 5 tháng 6 năm 1865)

    Vài năm sau, một người khách du lịch khác đã viết về Sài Gòn như sau :

    “Có những lều nhỏ được cất theo kiểu nhà sàn, nối liền nhau bằng những cây tre kết lại với nhau, làm thành khá nhiều khu dân cư. Hai bên bờ có rất nhiều con rạch nhỏ đầy bùn. Đó là nhà ở của dân chúng được xây cất ở nơi mà bây giờ người ta gọi là thành phố Sài Gòn , lúc đô đốc Rigault de Genouilly mang lá cờ tam tài của Pháp đến dựng lên ở cái thành lính đổ nát của người An Nam lúc bấy giờ.”

    Một sĩ quan đã mô tả cho chúng ta bên trong của các nhà đó như sau :

    “ Một buổi sáng tôi đã đến thăm một vài căn nhà nhỏ của Sài Gòn, mặc dầu tôi cảm thấy khó chịu khi tôi tiếp xúc với những người có hàm răng đen vì trầu và môi đỏ như máu vì bị chất vôi ăn trầu đốt cháy, và họ hay cắn rận chí của chính họ. Cũng giống những căn nhà ở Đà Nẵng, bàn ghế bên trong rất thô sơ. Trên nền nhà bằng đất họ trải chiếu. Người dân thường ngồi trên chiếu để ăn cơm. Nằm ở cuối nhà là một chiếc giường, với khung cây và cao hơn mặt đất, có chiếu trải ra trên đó. Hai bên vách có treo các thúng rổ đan bằng tre, trong đó là ổ chuột, bồ cạp v.v.. Nhà không có cửa sổ, không có ống khói, chỉ có một cửa trước với một tấm phên dở lên dở xuống bằng một khúc tre…”

    Ông Jean Bouchot còn viết như sau :

    “ Khi quân lính tiến vào, thành phố chỉ có một thành lính, được xử dụng như một trung tâm hành chánh hơn là một căn cứ quân sự, với một trại của mấy ông đồ nho và môt vài khu buôn bán, nhà cửa lụp xụp như người ta thường thấy chung quanh các trại lính người An Nam khác.

    Hầu hết phần đất bây giờ nằm giữa bờ sông, chợ, đường Catinat (Tự Do) và đường Bonard, là khu đất sình lầy, trong đó còn có vài con rạch nhỏ đầy bùn chạy ngang dọc. Như người ta đã nói một cách công bằng, phải tài lắm mới lắp hết được vùng sình lầy nầy trong một thời gian ngắn kỷ lục, rồi làm cho đất cứng lại, đặt ống cống, xây cất nhà đẹp và các tượng đài kỷ niệm, phóng các con đường và trồng cây 2 bên, xây các đại lộ, các bồn binh, đặt các ống nước và phông tên nước khắp nơi đề có nước ngọt xử dụng cho đời sống của dân chúng …Nói tóm lại bằng mọi cách tạo ra một thành phố kiểu Âu Châu, duyên dáng, xinh đẹp, tiện nghi cho đời sống, ăn ở, đầy sức sống và mọi sinh hoạt cho 35.000 dân. Công trình nầy chúng tôi phải ghi công cho các đô đốc và vị toàn quyền đầu tiên của chúng tôi một người dân chính, ông Le Myre de Villers. Từ một bãi sình lầy, ngập nước , bẩn thỉu… nhờ họ đã biến thành một trong những thành phố đẹp nhất và trong lành nhất ở Viễn Đông.”

    Đô đốc Charner, vừa đặt chân lên bờ đã bắt tay ngay vào việc.Cùng với những người kế vị ông , các đô đốc Bonard, De la Grandière, Rose, Ohier Cornulier-Lucinière, Dupré, Krantz, Duperré, Lafont…. họ cùng nhau xây dựng một thành phố. Nhưng thật đúng là quan niệm của hải quân: những đại lộ thẳng tắp được trồng cây hai bên lề tất cả đều dẫn xuống hải cảng, như đường Catinat (Tự Do). Dĩ nhiên còn có những đường cắt ngang. Các nhà đều được xây cất bằng gạch và sắt, như bệnh viện Grall, được thoát thai từ lối kiến trúc thượng từng như những chiến hạm để cho không khí được lưu thông dễ dàng.

    Cuộc tiến chiếm đã phá hết thành phố Sài Gòn cũ, kế hoạch xây cất thành phố mới được vẽ rộng ra quả là một sự hồi sinh. Phải san bằng vùng bình nguyên quá cao , lấp bằng càc vũng lầy, làm lại các con đường và xây cất nhà cửa trên vùng đất không có chân. Con đường đầu tiên được sửa chữa phục hồi lại là con đường Catinat, dựa trên con đường cũ của người An Nam đi từ con sông đến thành lính cũ. Bên trái con đường nầy từ con sông đi lên, ngay đại lô Charner bây giờ, là con kinh Charner cũng được gọi là con Kinh Lớn, chỉ mới được lắp đi vài năm gần đây thôi. Con kênh nầy vốn giúp cho các thuyền bè chuyên chở đầy ấp hàng hóa, và thực phẩm đưa vào dọc theo hai bên chợ, đã phải bị lấp đi vì tình trạng ao tù nước đọng, quá bẩn dễ sanh bệnh thời khí. Hai bên bờ kinh là hai bến cảng, đó là bến cảng Charner và bến cảng Rigault de Genouilly, thẳng góc với con sông và đến đường Espagne là hết.

    Đô đốc Bonard cho xây cất ngoài vòng thành một căn nhà rất đẹp bằng cây ván, mua ở Tân gia Ba, tạm dùng làm dinh toàn quyền. (tất cả các đô đốc vẫn tiếp tục ở dưới tàu của họ neo trên sông Sài Gòn vừa để cho mát mẻ mà cũng vừa để được lãnh tiền lương hải hành và 12 phần lương thực mà họ vẫn có quyền được hưởng.) Cột cờ đươc dựng lên phía trước mặt tiền nhìn về con sông Sài Gòn. Đây cũng là nơi dẫn đến hệ thống điện tín nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn , Biên Hòa , Bà Rịa, và Vũng Tàu. Điện tín tư vẫn có như ở bên Pháp.

    Trại lính của tiểu đoàn binh sĩ bản xứ trên đồi trông thật ngoạn mục. Gần đó, bên trong trại cũ của những nhà nho cũng được thấy dựng lên một số trại gia binh. Các nhà kho và cơ xưởng của hải quân và của pháo binh thì nằm ở giữa con sông và các công trình mới, ở đó người ta đã tiến hành lấp con rạch nhỏ. Bên cạnh đó là trường dạy các thông dịch viên, một bệnh viện mới và một số nhà đẹp của các bà sơ của dòng Saint Enfance…

    Ở đâu cũng có trồng cây cỏ xanh um. Nhà thờ được cất xong năm 1885. Phải tốn hết 2.059.257 quan Pháp. Người ta rất hãnh diện. Cũng như với nhà hát lớn, vườn bách thảo và nhà vòm của nó dành để chơi nhạc, khách sạn và các nhà bưu điện, câu lạc bộ sĩ quan và khách sạn của vị Phó toàn quyền. Về vật liệu, luôn luôn là gạch và sắt.

    Bình luận gia của tờ “Tạp Chí Đông Dương” (1898) đã bay bướm kết thúc một bài hay tuyệt, mô tả như sau:

    “ Các anh không được nói về Sài Gòn một cách hời hợt nữa, các anh phải hiển nhiên công nhận thành phố nầy không phải là một tác phẩm giả tạo, một ý thích bất thường của một vài ông đô đốc hay của một ông toàn quyền dân sự, sau cùng các anh sẽ đoán ra tại sao bao nhiêu người Pháp và công chức, kiều dân, bộ binh và lính thủy đã thương yêu xứ Nam Kỳ lắm lúc tha thiết đến có thể chết vì nó, tại sao họ muốn nó phải có một tầm quan trọng, và không bao giờ nghi ngờ về tương lai của nó. Nếu các anh hiểu được chuyện đó các anh sẽ phải ngã mũ chào Sài Gòn , thủ đô của Nam Kỳ, ở đó suốt 35 năm không gián đoạn lá cờ của nước Pháp hãnh diện tung bay…”

    Sài Gòn sẽ trở thành một trong những thành phố dễ thương nhất của Viễn Đông. Đời sống ở đây rất êm dịu, nhất là cho những người Âu Châu. Các thương buôn đến từ Pháp và hợp tác với người Hoa để giữ độc quyền về lúa gạo và mua bán đất đai. nhưng chỉ trong thành phố thôi. Người Việt Nam vẫn còn là chủ của những đồng ruộng lớn ở Miền Tây.

    Từ năm 1880, ở Sài Gòn đã có một hội đồng thành phố nơi đó các công chức và kiều dân Pháp làm luật hơn là những người Việt Nam mà trước đó họ cần phải xin được vào quốc tịch Pháp..

    Ba sở công cộng đã được thành lập: sở thuốc phiện, sở rượu và sờ muối. Một người du lịch vào thăm sở thuốc phiện và mê say 3 bộ máy cân tự động do một công chức chánh ngạch của quan thuế , ông Deyne, sáng chế ra giúp có thể cân được 10.000 hộp thuốc phiện trong một ngày.

    “ Vào ngày mà chúng tôi đến viếng nhà máy chế tạo thì cái kho chứa cây thẩu để cho lên men đang có đến 34.570 kí lô thuốc phiện đang lên men mà giá tại xưởng là 13 hay 14 $ một kílô. Cái kho chứa võ cây thẩu có những bình chứa hình xi-lanh, có hình dáng như các hộp sữa đặc . Mỗi bình chứa độ 100 gờ ram vỏ cây thẩu và bán ra thị trường với giá là 1 đồng bạc một hộp. Vỏ cây hay đúng hơn là lá cây thẩu ép lại, chưa nấu, do công nhân và các thợ đốn cây làm ra. Họ nhai các vỏ cây nầy như ăn trầu vậy. Vỏ và lá cây thẩu có một số lượng rất ít mót-phin và dược chất khác từ thuốc phiện. Sở nầy cung cấp cho Bắc Việt và Trung Việt từ khi hai nơi nầy bị cấm trổng cây thẩu.”

    Hải cảng Sài Gòn được trang bị lại. Một đường xe lửa được thiết lập để nối liền thủ đô Miền Nam với Hà Nội ở Bắc Việt .

    Dưới sự lãnh đạo của ông Paul Doumer, một nước Đông Dương thuộc Pháp được hình thành. Mặc dầu có một số chống phá của người quốc gia nhất là ở Bắc Việt, sự tăng trưởng của một vài hội kín ở Trung Việt và sự ra đời của một vài giáo phái ở Nam Việt nhưng thuộc địa vẫn tiếp tục phát triển. Phần lớn dân chúng dưới trào của ông Albert Sarraut, đã chọn nước Pháp.

    Trong thời kỳ Thế chiến 1914-1918, cả Đông Dương chỉ có 2.500 vệ binh Đông Dương mà không có xảy ra một biến loạn nào, trong lúc có gần 100.000 người Việt sang tác chiến và làm việc tại Pháp.

    Nam Kỳ có một quy chế cùa một lãnh thổ Pháp, và Sài Gòn có một sự quyến rũ như một thành phố của một tỉnh được chuyển đến vùng nhiệt đới..

    Các buổi khiêu vũ, các chợ hoa, các cuộc triển lãm, các chầu kịch nghệ…đã làm cho người ta quên hết những hiểm họa đang đe dọa Đông Dương và đặc biêt hơn hết là Sài Gòn .

    Đảng cộng sản của Hồ chí Minh và đàng Việt Nam Quốc Dân Đảng, một đảng nhái theo đàng Kou ming Tang của Trung Quốc xúi người ta đình công và biểu tình đã bị thẳng tay dập tắt. Có ai lo lắng cho Sài Gòn, ngoài một số chuyên viên mật thám ?

    Lạ lùng thay, vào năm 1939, khi chiến tranh bùng nổ, toàn cõi Đông Dương thật là yên tịnh. Mà đây cũng là một thời kỳ phồn thịnh nhất ờ đó. Giá gạo và cao su đang lên, con đường hỏa xa xuyên việt đã thực hiện xong, nối liền Sài Gòn với Hà Nội trong 50 giờ. Những kẻ gây rối được đưa vào nhà tù.

    Người dân bản xứ và kiều dân Pháp sống gần nhau hơn bao giờ hết.Người ta qua lại tiếp đãi nhau. Cả một thế hệ người Việt được đào tạo về văn hóa và tư tưởng của Pháp.

    Nước Pháp thất trận năm 1940. Đông Dương bị cắt đứt liên lạc với nước Pháp và suốt 5 năm như vậy. Ngày 18 tháng 6, Nhật bản gởi tối hậu thư cho tướng Catroux, buộc ông nầy phải đóng cửa biên giới Việt Hoa trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và để cho giới chức Nhật được quyền kiểm soát biên giới nầy.

    Trên thực tế không có quân và cũng không có không quân, mà đã có kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ nhưng vô hiệu , toàn quyền Catroux đành phải nhượng bộ. Đô đốc Decoux thay thế ông ta và còn phải buông bỏ một vài chỗ nữa : phi trường Hà Nội , phi trường Lào Kay và cả cảng Hải Phòng, để chỉ đổi lấy một sự công nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Đông Dương một cách mơ hồ.

    Hiến Binh Nhật, (Kempétai) được dùng để xúi dục dân chúng chống lại người Pháp, họ xử dụng các giáo phái chánh trị - tôn giáo ở Miền Nam như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hão và những nhóm quốc gia nhỏ. Nhưng Đồng Minh thì vẫn tiếp tục không nhận sự giúp đỡ của họ.

    Đô dốc Decoux và nhóm người của ông cưỡng lại từng bước một, báo cho chính phủ Vichy nhưng sống hoàn toàn tự túc, không có viện trợ, không có lệnh lạc gì cả, vô phương tìm được một sự ủng hộ của một nhóm dân chúng Việt Nam nào ngoài các nhóm cộng sản , quốc gia và nhóm cộng tác với Nhật Bản.

    Ngày 9 tháng 3 năm 1945, là ngày của bạo lực. Lực lượng của Mikado tấn công bất thần. Quân đội Pháp bị triệt tiêu, bị cầm tù ờ Sài Gòn, bị sát hại ở Lạng Sơn. Không còn chánh quyền nữa. Người Nhật biết mình sấp sửa thua nên trước khi thất trận họ muốn lôi kéo cả vùng Đông Nam Á vào cuộc chiến chống người da trắng.

    Người Pháp ở Sài Gòn sắp biết những giờ phút khó khăn. Họ bị tập trung vào một số khu vực. Đã quen với lối sống tự do thoải mái, họ gặp lại nhau người nầy nhìn người khác, suốt thời gian không một người giúp việc nên họ thấy khó mà sống khổ như vậy được.

    Hà Nội và Huế đã rơi vào tay của Việt Minh cộng sản vào lúc Nhật đầu hàng. Bảo Đại cũng thoái vị chạy theo Việt Minh. Tại Sài Gòn Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất được người Nhật dựng lên nhưng đã nhanh chóng bị cộng sản chế ngự. Cờ đỏ tung bay từ biên giới Trung Quốc đến mũi Cà Mau .

    Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Hà Nội Hồ chí Minh tuyên bố độc lập trên toàn cõi Việt Nam và nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam ra đời. Tại Ba Lê, người ta không biết những gì đã xảy ra và người ta đề ra những kế hoạch trên cung trăng.

    Nếu Việt Minh nắm chặt được Miền Bắc, thì ở Miền Nam lại hoàn toàn khác hẳn.

    Ngay tại Sài Gòn tình trạng hỗn loạn đang tiến mạnh . Trộm cướp từ Khánh Hội, Chợ Lớn, Đakao, tràn lan ra khắp nơi ở Đô thành. Ở các cửa ngõ vào thành phố bên kia sông Sài Gòn , các tay cướp Bình Xuyên bắt đầu ra trấn đóng các căn cứ để từ đó họ tung ra làm ăn ở ven đô. Sự sôi động đang tăng dần. Các nhóm trốt-kít, cộng sản, Cao đài đều tung ra hoạt động, trong lúc chung quanh các trại lính Nhật, chuyện buôn bán vũ khí đang phát triển mạnh.

    Bọn cộng sản không kiểm soát nổi dân chúng . Quân đội Anh đến nhận sự đầu hàng của người Nhật phải duy trì trật tự . Họ dùng lại những binh sĩ Nhật vốn một lòng với những đám nổi dậy.

    Ngày 2 tháng 9, có một người truyền giáo bị ám sát trên sân nhà thờ, một nhóm người do các tay cầm đầu xúi dục đã cướp phá gia cư của người Pháp. Hàng trăm người trong cộng đồng Âu Châu bị bắt đi. Có một số người chết và bị thương….

    Khoản 2000 binh sĩ Pháp - trong đó có 1400 tù binh chiến tranh được tái võ trang- chỉ trấn giữ thành lính Pháp (11 ème R.I.C), nơi đó có một số ngườiViệt Nam thân Pháp tỵ nạn. Quân đội Anh có khoản 1800 lính Anh và Ấn.

    Ngày 24 tháng 9, có hơn chục người Pháp bị ám sát trong khu vực hải cảng và ngày 25 trong cư xá Hérault ngay giữa khu người Âu Châu có một trăm người da trắng và lai gồm cả nam nữ và trẻ con bị tàn sát trong những điều kiện đặc biệt hết sức dã man. Một trăm năm chục người khác bị bắt cóc và giữ làm con tin. Tất cả đã đượcxảy ra trong vòng hai tiếng đồng hồ trong sự kinh hoàng và hổn loạn.

    Bọn cộng sản vì sợ bị cho là có liên lạc dính líu với chánh quyền mới của người Pháp nên thẳng tay giết chóc không biết gớm tay. Họ còn làm hăng say hơn những người cuồng tín thuộc các giáo phái và bọn cướp bóc vùng Dakao để người Âu Châu không thể biết họ là ai. Do đó lúc bấy giờ thật rất khó mà thương lượng được với họ . Sau 80 năm bị đô hộ rất thanh bình và không biết gì là lo âu , bây giờ Sài Gòn lại có một bộ mặt khác, một bộ mặt thật hãi hùng. Từ đâu mà Sài Gòn lại có bộ mặt nầy ? Từ những cuộc biến loạn có nguồn gốc của nó ?

    Ngày 6 tháng 10, chiến xa của tướng Leclerc đổ bộ từ sông Sài Gòn chạy ngược lên đường Catinat (Tự Do) trong cơn bão, mưa như trút nước . Như thế là cuộc chiến đầu tiên ở Đông Dương vừa bắt đầu…. Thành phố Sài Gòn được bình định nhanh chóng, và từ thời điểm nầy Sài Gòn sẽ được đứng ngoài các trận chiến. Trừ hai trường hợp, là trận tấn công các giáo phái vào năm 1955 của chánh quyền, và trận tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 của cộng sản . Nhưng Sài Gòn sẽ lợi dụng cuộc chiến nầy, một cuộc chiến dài bất tận trong suốt 30 năm mà không biết ngượng ngùng và cũng không giữ ý tứ chút nào.



    Ngày thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975 nầy, trên sân thượng của khách sạn Continental… tôi ngồi uống rượu với một vài nhà báo . Họ đến đây để chứng kiến những ngày cuối cùng của Sài Gòn ,.Những anh bạn cũ không còn ở đây nữa : các anh Bodard, Clos Ullman và tất cả các anh khác, những người mà người ta gọi là các nhà báo gốc Á Châu. Anh Schoendorffer đã viết xong một quyền sách rồi nên không thể đến, anh Bernard Fall thì đã đi đong vì đã đạp phải một quả mìn của Việt Cộng … .

    Chung quanh chúng tôi như thường lệ vẫn có bọn giả trang, bọn gái điếm, bọn ăn xin, và bọn tàn tật không biết thật hay giả, cụt tay cụt chân…..Và bọn trẻ con cứ như đàn ruồi mà chẳng một ai đưổi được. Gái cũng như trai, họ cứ như rình rập mình, và sẳn sàng trao cho mình những gì mình muốn, bất cứ loại nào mà mình thấy cần, từ ma túy đến gái… . Và lúc nào cũng có thể chôm cái ví của mình nữa , nếu chúng nó có cơ hội.

    Bên kia đường là các quầy nhỏ của những người bán thuốc lá. Tất cả đều rất yên tĩnh! Vậy thì chiến tranh nó ở đâu ?

    Nhưng ở Tân sơn Nhứt , các xe ca đầy ấp người đang đổ người Mỹ và người Việt Nam xuống sân nhựa. Không đi qua hàng rào quan thuế hay an ninh, cảnh sát , họ chạy ùa vào các chiếc phi cơ Galaxy khổng lồ sẵn sàng cất cánh ngay sau đó; thường vào ban đêm…

    Từ hai đến ba ngàn người dân tỵ nạn định tràn qua lực lượng an ninh cảnh sát của phi trường để vào một trong các chiếc phi cơ nầy . Hoa Kỳ dự trù di tản 130.000 người Việt Nam mà họ nghĩ là họ có bổn phận vì “nghĩa vụ tinh thần”, trong số đó có khoảng 50.000 người được xếp vào loại “có nguy cơ cao” sẽ nguy hiểm đến tánh mạng nếu họ còn ở lại Miền Nam Việt Nam, như là các nhân vật chánh trị , các nhân viên tình báo, cảnh sát và những người hồi chánh. Khoản 30.000 đã được di tản xong. Cho tới ngày hôm qua người Mỹ tin là họ còn được một tuần lễ nữa cho vấn đề di tản bằng cả phi cơ vận tải C.130 và những chiếc C.141. Nhưng các tin tức quân sự hình như rất xấu. Chốt Xuân Lộc vẫn còn, nhưng sư đoàn 18 bộ binh có nhiệm vụ phòng thủ tại đây đã bị bọc hậu nên phải rút về Trảng Bôm nằm ở giữa Xuân Lộc và Sài Gòn . Tỉnh Hàm Tân bị mất làm cho hải cảng Vũng Tàu (cap Saint Jacques) bị trống, hải cảng nầy ở cách thủ đô 65 cây số có thể giúp di tản một lượng người đông đảo hơn. Hoa Kỳ do đó có dự trù cho đổ bộ vài ngàn thủy quân lục chiến để giữ hành lang giữa Sài Gòn và Vũng Tàu. Nhưng đã quá muộn. Căn cứ Không Quân Biên Hòa đã bị pháo binh nặng của cộng sản bắn vào…

    Nếu Biên Hòa mất – và có ai cản được chuyện đó – thì Miền Nam Việt Nam chỉ còn có mỗi một phi cảng duy nhất là Tân sơn Nhứt . Chỉ cần vài quả rốc kết cũng đủ để vô hiệu hóa phi cảng nấy.

    Hai ngân hàng Chase Manhattan và First National City vừa cho đóng cửa. Hầu hết các hãng hàng không không còn bảo đảm một chuyến bay nào nữa ngoại trừ 3 hãng: Hàng Không Pháp Air France, hãng UTA, và hãng Air Việt Nam . Lý do là : các chuyến bay C.130 và C.141 của Hoa Kỳ đã có bị địch bắn lên.

    Ông Trần văn Hương, một ông già suy yếu đáng kính, người đã thay thế tướng Nguyễn văn Thiệu, đã tiếp xúc hết người nầy đến người khác, từ Đại sứ Pháp, Đại sứ Hoa Kỳ, đến vài nhân vật địa phương mà tên tuổi gần như đã bị chìm trong quên lãng. Ông nghiên cứu tình hình. Rất là chăm chỉ. Ông đã có một vài biện pháp quan trọng. Phải chăng ông đã thay thế một tướng lãnh bằng một đại tá ở chức vụ Đô Trưởng Sài Gòn ?

    Tôi thật sự đã ngửi được ngày cuối cùng của thành phố Sài Gòn và tôi không thể tin được đó là sự thật. Đã nhiều lần rồi Sài Gòn đã được cứu thoát như một phép lạ vậy. Nhưng lần nầy, người ta thấy khó mà chuyện đó có thể xảy ra. Cả 4 sư đoàn có nhiệm vụ phòng thủ thành phố trên thực tế đã bị cô lập.

    Thiết quân luật vào 8 giờ chiều. Chúng tôi ăn tối tại khu vườn phía sau khách sạn. Một trái hỏa châu đang lơ lửng bay trên không dưới chiếc dù của nó..Từ căn phòng của tôi nhìn xuống tôi thấy con đường vắng hoe. Không có một bóng người, cà một đội tuần tiễu cũng không có. Có một vài tiếng súng trong đêm tối nhưng xa xa ..Tôi hy vọng ngày mai hai bạn Merlin và Mathurin sẽ tới, đó là một người quay phim và một người thu âm thuộc toán của chúng tôi . Có lẽ họ phải lấy chuyến bay từ trạm Bangkok. Họ đã thử vào Cam Bốt qua ngả Lào nhưng không được.

    Có nhiều chuyện lạ lắm đã xảy ra ở Phnom Penh.. Cái được gọi là “giải phóng” thành phố bắt đầu bằng một buổi lễ và đã chấm dứt bằng những cuộc tàn sát ghê rợn và một sự xua đuổi dân chúng hàng loạt…. ra khỏi thủ đô.

    Chúng tôi có phải chứng kiến một cảnh “giải phóng” như vậy ở Sài Gòn hay không đây ????



    *****************

    CHƯƠNG 2

    NGÀY 26 THÁNG 4 1975



    Giá đồng đô la : 4000 đồng Việt Nam (giấy lớn :100 $ và 50 $, đề mang theo dễ dàng)

    khoảng 3800 đồng Việt Nam (giấy nhỏ)

    Giá vàng : 700 đô la hay 3 triệu đồng Việt Nam một lượng, 37,5 gram

    **********



    Tổng Thống Thiệu sẽ bay đi đêm nay đến Đài Loan, với 16 tấn hành lý gồm toàn bộ sưu tập đá quý, đồ cổ, và người ta còn nói vàng của Ngân Hàng Quốc Gia . (1)

    Tờ báo “Tin Tức Viễn Đông chạy hết trang nhất đầu đề : " Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing đã đàm thoại với Đại sứ Pháp tại Sài Gòn qua điện thoại.” Đó là tin tức quan trọng hàng đầu. Làm như là ở Paris không còn gì khác để làm và để thảo luận nữa vậy.

    Và đây là những lời tuyên bố của Thượng Nghị Sĩ Paul d’Ornano, nghị sĩ của những người Pháp ở Việt Nam, người đã cùng đi một chuyến máy bay với chúng tôi :

    -“ Tôi rất sung sướng được thấy là tôi đang ở giữa những người Pháp của Sài Gòn mà tôi thấy là họ rất bình tĩnh và cũng rất là xứng đáng như khi tôi đã ở đây với họ trong 3 tuần trước . Và tôi cũng rất là vui sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống Pháp đã tiếp tôi ngay trước khi tôi lên phi cơ khời hành từ Ba Lê sang đây, để nhấn mạnh tất cả sự ân cần và quan tâm đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn , một cộng đồng mà ông biết và rất can đảm và rất có giá trị …”

    Ông Paul d’Ornano dự trù sẽ ở lại Sài Gòn khoảng 10 ngày rồi mới về Ba Lê. Không biết ông có đang mơ ngủ không vậy ? Trong mười ngày nữa tình hình của chúng ta sẽ ra sao đây? Đang lo băng bó các vết thương của chúng ta dưới đống gạch vụn của thành phố Sài Gòn ? Hay là đang là tù binh hoặc là bị bắt làm con tin của cộng sản Bắc Việt ?

    Ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Jean Sauvagnargues còn tuyên bố là : "Vẫn còn hy vọng có khả năng thương lượng được một giải pháp chánh trị.”

    Tôi rất muốn thấy chuyện đó vào một buổi sáng quá nóng lúc tôi đang vừa uống tách cà phê sáng vừa ăn miếng đu đủ và trái măng cụt, vừa để ý lắng nghe được tiếng nổ không biết từ đâu. của một chiến xa ? một tiếng nổ lớn ? từ đâu ?

    Một anh tóc đỏ đang chạy giữa mấy chiếc bàn ăn. Anh ta là người của toán phát thanh. Anh ta là con trai của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao, đang hợp tác làm việc với chúng tôi. Ông Đại sứ đang mệt với anh ta, vì đã nhờ hai anh sen đầm bắt được anh ta rồi, họ đã đưa anh ta về tòa Đại sứ rồi để tống cổ anh ta về Pháp. Nhưng anh ta đã trèo tường ra và hiện đang đến với chúng tôi đây.

    Câu chuyện “ngừng bắn” cụ thể đang được xác nhận.

    Và đây là những điều kiện của cái gọi là CPLTCHMN đưa ra trước khi thương lượng:

    - Sài Gòn phải thành lập một chính phủ mới, một chính phủ không có bất cứ một người nào thuộc phe cánh của ông Thiệu.

    - Chánh Phủ đó phải tuyên bố lập trường vì hòa bình, độc lập, dân chủ, để hòa giải quốc gia và thi hành các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê.

    - Chánh Phủ đó phải bắt buộc các quân nhân Hoa Kỳ đang giả dạng thường dân phải rời khỏi tức khắc nướcViệt Nam và phải rút đi tất cả các tàu chiến và hải quân Hoa Kỳ ra khỏi vùng biển của nướcViệt Nam.

    - chính phủ đó phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ và trả tự do cho tất cả tù nhân chánh trị

    Chỉ còn co` tướng Dương văn Minh một mình trên sân khấu chánh trị; nhưng Tổng ThốngTrần văn Hương đã nhiệm chức được 5 ngày nay, rất muốn được nắm quyền Tổng Thống đó tối thiểu một tuần lễ. Ông ta đã có đề nghị với tướng Minh ghế Thủ Tướng với tất cả quyền hành , nhưng tướng Minh đã từ chối.

    Chúng ta đang ở chỗ nầy.

    Tướng Nguyễn cao Kỳ, một đối thủ bất hạnh của ông Thiệu, viên phi công nhỏ bé với hàm râu mép và với bộ đồ bay màu sắc rực rỡ dạo nào, được thấy xuất hiện trở lại. Ông ta từ đâu đến ?

    Ông tuyên bố là ông ủng hộ tướng Minh Dương. Theo ông thì một chính phủ mới là rất cần thiết, để lấy lại lòng tin trong dân chúng, và để hoạch định một kế hoạch hầu đạt được một sự ngừng bắn. Với một vài tướng lãnh khác, những người được coi là ưu tú của quân đội Miền Nam Việt Nam, ông ta cũng sẽ thử cố quân bình lại tình hình quân sự . Ông ta chắc cũng còn rảnh rỗi, vì ông cho tôi biết là ông ta sẵn sàng dành cho tôi một cuộc phỏng vấn. Giờ giấc ? Tùy ở tôi .

    Ông Phó Thủ Tướng (chắc là tướng Trần văn Đôn), mà cũng là Tổng Trưởng Quốc Phòng đã có quyết định về phần ông, là sẽ có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những công dân nào muốn chạy trốn ra khỏi đất nước .

    Biện pháp gì đây ? Ai sẽ có biện pháp ? Chẳng còn gì nữa cả . Quân sự thì hỗn loạn, chánh trị thì trống rỗng. Về tướng Đôn nầy thì ông không có gì mà phải sợ bị thiệt thòi.. Sanh đẻ ở Bordeaux, ông ta là công dân Pháp. Và dầu cho ông có đốt giấy thông hành hay cấp bậc sĩ quan Pháp của ông để làm vui lòng ông Diệm và bà Nhu chăng nữa, thì ông cũng vẫn biết là ông ta sẽ không bao giờ mất quốc tịch Pháp của mình đâu. Toàn là chuyện trò hề !

    Nhưng kìa, thình lình một tin tức được truyền đi làm xuống hẳn giá ngoại tệ và giá vàng. Báo chí thi nhau đăng tin nầy, kể cả tờ Saigon Post và tờ Tin Tức Viễn Đông.

    “Ở Hà Nội đã xảy ra một cuộc đảo chánh. Tướng Võ nguyên Giáp đã phải đi lánh nạn ở Mạc tư Khoa , trong khi 5 sư đoàn quân Bắc Việt phải trở về Miền Bắc để lập lại trật tự ở đó.”

    Và người ta dựa trên việc đó để giải thích sự ngừng hoạt động của quân Bắc Việt .

    Người ta lại cho tôi một giải thích khác nữa thiết thực hơn : quân Bắc Việt đang gác súng chờ tướng Minh thành lập chính phủ, một chính phủ mà Hà Nội sẽ chấp thuận để thương thuyết.

    Về phần mình, người phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài (Hoa Kỳ) chỉ ghi nhận có một sự yên tĩnh ở Miền Nam Việt Nam . Ông ta cho đó là vì quân cộng sản Bắc Việt đang cần có một sự tái tiếp tế về xăng dầu và đạn dược.

    Riêng tôi thì tôi lại có cảm tưởng rằng cộng sản Bắc Việt đang tập trung các đơn vị của họ chung quanh Sài Gòn để sẵn sàng phóng ra một cuộc tấn kích cuối cùng. Họ có được lợi ích gì để thương lượng với tướng Minh thay vì với ông Hương ? Vai trò trung gian mà nước Pháp muốn thực hiện có làm cho những người quốc gia cực đoan lo sợ hay không khi chúng ta không quên rằng họ vẫn còn nhớ là chúng ta đã chiếm đóng đất nước của họ trong gần non một thế kỷ ?

    Đám đông dân chúng đang xin được di tản càng lúc càng đông hơn bao giờ hết trước tòa Đại sứ và Lãnh sự quán Hoa Kỳ, đã làm tắc nghẽn sự lưu thông ở đây và xe cộ phải rẽ qua một con đường khác.

    Trước khách sạn, người ta đang bán các loại sách thường là sách cũ và thuộc các thư viện tư. Tôi rất nghi ngờ về xuất xứ của các loại sách nầy. Các anh bồi phòng đã bắt đầu đánh cắp của chủ vì những người chủ nhà đã bỏ nhà ra đi rồi. Tôi mua được quyển “Cuộc du hành để khám phá Huế ờ xứ Nam Kỳ” (xuất bản ở Ba Lê năm 1889) chỉ với vài đồng bạc Việt Nam. Trong đó tôi đọc được một đoạn. Thì ra tất cả đều chỉ có một thứ bột. Đứng trước một sự quá ư đầy đủ, đứng trước một sự thiếu hiểu biết trầm trọng về dân tộc nầy, người ta vẫn tỏ ra sửng sốt.

    Mới có 9 giờ sáng mà trời đã quá nóng rồi. Những cơn mưa lớn của gió mùa sẽ bắt đầu và những đám mây đen kịt đang che phủ bầu trời chưa thấy tan ra.

    Tôi và anh Coutard tản bộ đi viếng chợ trời. Đó cũng là một thú vui khi đến Sài Gòn . Người ta có thể tìm thấy mọi thứ được tuồn ra đây từ các căn cứ và chợ của quân đội Mỹ từ các loại máy thâu thanh nhỏ bằng transistor, các máy ảnh, các loại máy thâu băng, máy quay phim, đến các chai rượu huýt ky, rượu khai vị, rượu rum rồi các loại đậu phộng rang, bắp rang, các loại túi vải đeo lưng của quân đội , ống dòm v.v. thượng vàng hạ cám đủ các thứ…..

    Giá cả thì vẫn không thay đổi, và cũng vẫn là các bà vợ cảnh sát là chủ quầy hàng.. Họ giống như những con gà mái lớn ôm trong tà áo thay vì trứng là các máy Nikkon, Canon, Sony, v.v…

    Chúng tôi gặp một nhóm đông những anh sen đầm Pháp. Để phòng xa những chuyện bất ổn, nhân viên của tòa Đại sứ Pháp được tăng cường 13 anh sen đầm còn độc thân thuộc hạt Périgord hay ở Larzac, người khỏe mạnh, ăn nói chững chạc. Họ rất tự nhiên và thoái mái giữa những người bán hàng lậu nầy, trả giá các máy quay phim, và cũng đã biết giá hối đoái của đồng bạc và đồng mỹ kim rồi, không dễ bị gạt đâu, họ sống rất là sung sướng vì có sức khỏe, sẳn sàng đánh đấm hay dùng vũ khi nếu cần. Họ vừa đi vừa vui vẻ tán gẩu với mấy cô gái mà họ cho là đẹp và không có gì đáng sợ. Không phải hạng người dễ dãi mà cũng không phải là hạng điếm đàng. Trái lại là khác. Họ chỉ muốn cho chúng ta biết về gia thế của họ thôi, đó là những người đáng kính , có tài sản đàng hoàng.

    Người con trai độc thân dù là Pháp hay là Mỹ lúc nầy rất là được giá. Một món hàng đắt giá nhất trên thị trường Sài Gòn , đó là những người mạnh khỏe. Người con gái Việt Nam khi có được một người chồng Pháp thì đương nhiên sẽ được có quốc tịch của chồng mình và sẽ nhận được một thông hành Pháp. Không có vấn đề chiếu khán xuất cảnh nữa.

    Thấy râu tóc của mình quá dài cho mùa nóng nực nầy ( 33 đến 36 độ) tôi phải lo đi cắt tóc mới được . Tôi vào một hiệu cắt tóc lớn ở dưới đường Catinat, ở đây nhân viên phục vụ toàn là phái nữ. Rõ ràng là những hoạt động của tiệm cắt tóc nầy không chỉ giới hạn trong việc săn sóc sắc đẹp mà họ còn có thể làm thêm công việc giúp cho những bạn trai bớt cô đơn. Lúc tôi bước vào thì tiệm có vẻ vắng khách. Các cô dùng thì giờ rảnh rỗi để cắt móng tay hay kéo một vài hơi thuốc lá.

    Trong lúc người ta gội đầu cho tôi, rồi tỉa tóc cho tôi, rồi cắt móng tay cho tôi (sau đó người ta hỏi tôi xem tôi có muốn gì thêm nữa thì trên lầu sẵn có khâu đấm bóp và thư giãn), thì tôi để ý đến một cô người Tàu rất là đẹp, hình như đang sắp sửa đi du lịch. Một chiếc va ly da samsonite, và một túi da lớn được thấy ngay bên cạnh cô ta. Cô đeo hầu như gần hết nữ trang của mình. Ánh đèn chiếu sáng lấp lánh các hột xoàn bên hai vành tai của cô ta. Ngồi trên một ghế phô tơi ngay sát bên cạnh tôi, là một người Mỹ to lớn với chiếc sơ mi bông màu rực rỡ bỏ ngoài, trên cái bụng phệ của ông ta . Cô gái người Tàu có vẻ sốt ruột, nôn nóng. trái lại anh chàng Mỹ kia thì rất là bình tĩnh. Ông ta đòi 3000 mỹ kim để ghi tên cô ta vào danh sách. Và ông ta còn nói rõ là “tiền mặt”.

    Mỗi người Mỹ đều có quyền, với tư cách cá nhân của mình, được ghi tên 8 người vào danh sách đi : vợ, gia đình Việt Nam của người vợ hay của người vợ chưa cưới của mình.

    Cô gái người Tàu trả giá, môi mím chặt. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng là sắc đẹp của cô ta không làm cho anh chàng Mỹ kia chú ý, mà chỉ có đồng tiền của cô ta thôi. Người ta ngã giá là 2700 đô la ngay trước mặt tôi. Người Mỹ đứng dậy, cô gái đi theo ngay, mang theo cả va ly và xách tay. Hướng về Tân sơn Nhứt .

    Cô thợ làm móng tay cho tôi cho tôi biết cô Tàu kia là bà chủ của cô, và anh chàng Mỹ kia chỉ là một nhân viên nhỏ trong vô số ban, ngành trong tòa đại sứ, nhưng lại có cơ hội và phương cách để kiếm được vài chục ngàn đô la, khoảng chừng 20 ngàn nếu anh ta tìm đủ được 8 người cho danh sách của mình.

    Đã 10 giờ 30 sáng. Chúng tôi đang ở tại tòa Đại sứ Pháp. Và ông Jean Marie Mérillon đang tiếp chúng tôi .Tôi đã từng gặp ông này ở thủ đô Amman của nước Jordanie, nơi mà ông đã bị một tháng 9 đen tối, vì các chuyến bay không được đáp xuống, và các trận chiến giữa người Árập di cư và người Palestine. Ông ta đã sửa tòa Đại sứ của mình thành như một pháo đài, vì nó nằm giữa hai lằn đạn của cả 2 phe, và trong liên tiếp 3 tháng trường, chính ông ta và nhân viên của ông đã sống trong tình trạng như bị vây hãm.

    Nhỏ con, người mảnh khảnh nhưng rất lanh lẹ (tướng De Gaulle đã phái ông ta sang cho quốc vương Hussein với lý do là bóng ông ta sẽ không thể nào che khuất được quốc vương ) ông đã từng là một cựu sinh viên sáng giá. Bây giờ thì ông đang tóm lược cho chúng tôi nhanh chóng tình hình trên một tấm bản đồ lớn của Miền Nam Việt Nam treo ngay phía sau bàn làm việc của ông.

    - “Bọn cộng sản Bắc Việt , các anh muốn gọi họ là Việt Cộng cũng không sao, hiện đang ở chung quanh Sài Gòn với lực lượng đáng kể. Ít nhất là 15 sư đoàn . Chỉ còn có một cứu cánh, đó là tướng Minh Dương. Một khi được trao cho quyền bính rồi thì ông ta là người duy nhất có thể thương lượng. Nhưng mà chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ. Ông già Hương, người muốn tự xem mình như Thống chế Pétain, đã không muốn rời khỏi ghế Tổng Thống . Ông ta muốn được giữ nó ít nhất trong 8 ngày để lưu lại trong lịch sử Việt Nam một kỷ niệm của ông ta, dù ông ta là một người rất khiêm nhường. Ông ta đã tuyên bố với tôi rằng :

    -" Này ông Đại sứ , cũng giống như Thống chế Pétain, tôi đã hiến thân nầy cho đất nướcViệt Nam”

    (Có nhiều người xấu miệng đã cho rằng ông cũng có thể tự xem mình là “người” có thể dám nói là “ tôi đã hiến thân nầy cho nước Pháp” lắm đó)

    Ông Hương là một người đã lớn tuổi, hay hay, và thống thiết, và lúc nào cũng muốn bám víu vào tính cách hợp pháp, hợp hiến một cách vô vọng. Ông ta lý luận như sau : “Ông Thiệu là Tổng Thống của nền Cộng Hòa đã trao quyền hành lại cho tôi một cách hợp pháp vì tôi là Phó Tổng Thống . Tới phiên tôi tôi cũng phải làm giống như vậy, tôi sẽ trao quyền Tổng Thống lại cho ông Chủ Tịch Thượng Viện là ông Trần văn Lắm. Khi đã nắm được quyền rồi thì ông Lắm sẽ triêu tập Quốc Hội Lưỡng Viện lại, và chỉ có Quốc Hội mới quyết định gọi ông Minh đến để trao thẳng cho ông ta quyền bính, dĩ nhiên dù có sai chút ít đối với Hiến Pháp.

    “ Nhưng mà bọn cộng sản Bắc Việt không muốn ông Hương chút nào.Vì ông đã từng phản bội họ. Ông đã từng chiến đấu trong hàng ngũ của cộng sản trong 4 năm.

    “Tôi đã có cố gắng đẩy ông già gân nầy ra khỏi ghế Tổng Thống của ông ta, nhưng ông đã cố giữ lại. Ông đã là một người gần như mù rồi, đi đứng lại khó khăn , bây giờ ông lại muốn làm một người điếc nữa !

    “Một khi ông Thiệu và nhóm quân nhân của ông ra đi rồi thì chúng ta chỉ còn lại những chánh trị gia lớn tuổi của thời Nam Kỳ thuộc Pháp mà thôi. Họ còn lại ở những Ban và Tiểu Ban với những bài diễn văn kêu to nhưng vô tích sự với tất cả những nghi lễ mà chúng ta đã chỉ dạy cho họ. Những bình bông của thời đệ tứ Cộng Hòa với những đóa hoa cằn cỗi hay lỗi thời trước khi De Gaulle nắm chánh quyền. Nhưng giờ đây tình hình ở Việt Nam còn gấp nghìn lần bi đát hơn nước Pháp lúc đó nữa.

    “ Tôi có cảm tưởng như là không có môt ai biết được hơn chúng ta là hiện ta đang ở đâu, và tôi hình như đang nói chuyện với những người đang ờ trong trạng thái “mộng du”

    Qua một khe cửa ông Đại sứ chỉ cho chúng tôi một tòa nhà lớn : tòa Đại sứ Hoa Kỳ

    -“Và ở đây cũng vậy ! toàn là những người đang “mộng du”.

    Bây giờ là 12 giờ trưa rồi. anh Coutard đi ra ngoài, còn toán của chúng tôi có lẽ cũng sẽ tới bằng chuyến phi cơ của Hàng Không Việt Nam., chuyến bay liên lạc thường xuyên hằng ngày giữa Sài Gòn và Bangkok.

    Tôi cố gắng sấp xếp lại mọi việc cho có thứ tự trong đầu của tôi trong lúc tôi tản bộ từ tòa Đại sứ trở về phòng.

    Tình hình quân sự coi như vô vọng rồi. Người Mỹ họ đã cho di tản nhân viên của họ và những người Việt Nam đã làm việc với họ theo kế hoạch đã định trước, không gấp gáp lắm. Làm như họ vẫn còn nhiều thì giờ lắm vậy.

    Cảm thấy mình đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi, người dân Miền Nam Việt Nam mà nhất là dân Sài Gòn tự nhiên quay về với nước Pháp . Họ cần có một người cha. Mất cha rồi thì họ tìm đến người ông. Nhưng ông người Pháp thì đã quá mệt mỏi rồi. Ông ta đã chán ngấy với tất cả các loại phiêu lưu chánh trị hay quân sự nên không thể làm gì cho họ hơn được ngoài những lời khuyên lơn và những mỹ từ. Người dân Sài Gòn không làm chủ lịch sử họ bao giờ . Họ phải luôn luôn nắm tay người cha, dù là cha Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ .

    Và kia là người ông Pháp đang trở lại với đôi nạng. Chỗ nào cũng thấy bắt đầu treo cờ

    tam tài. Người ta sơn cờ cả trên nhà và các kho hàng nữa. Còn các nhật báo nào còn xuất bản thì đã đổi giọng rồi. Bây giờ người ta gọi cộng sản là “phía bên kia” và người ta không còn nói tới chuyện “ngừng bắn” nữa.

    Chánh Phủ quân sự ở Sài Gòn cuối cùng rồi cũng ra một thông cáo : “Từ nay, giờ thiết quân luật sẽ chấm dứt từ 6 giờ sáng thay vì 7 giờ nhưng sẽ bắt đầu từ 8 giờ tối.”

    Hàng ngàn người Việt Nam được báo trước là họ sẽ phải đi ngay không chậm trễ, đã chuẩn bị hành lý và bỏ nhà để đến các địa điểm tập trung, ở đó họ được xe buýt và các loại xe khác của tòa Đại sứ Hoa Kỳ bốc đi.

    Chúng tôi đang ngồi uống một ly rượu với một ông đại tá của Miền Nam Việt Nam . Ông nầy sau khi đã phục vụ trong binh chủng Dù đã về làm việc ở văn phòng báo chí thuộc Bộ Tổng Tham Mưu . Ông ta có vẻ sốt ruột. Không biết ông ta muốn trấn an chúng tôi hay tự trấn an mình. Ông ta nói :

    -“ Tình hình thật ra cũng rất là bi đát nhưng không đến đỗi vô vọng. Với sự giúp đỡ của các đơn vị Dù và các đơn vị xung kích, chúng tôi đã quyết định thành lập các toán du kích ở đồng bằng. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng sẽ chiến đấu theo lối cách mạng và sẽ chống lại cộng sản bằng chính vũ khí và chiến thuật của họ."

    Rất là quan tâm, tôi hỏi lại ông ta :

    - Ngày mai ông sẽ làm gì? Chúng ta gập lại nhau được không ?

    - Tôi rất bận ngày mai. Tôi phải sửa soạn cho con tôi nó đi xuất ngoại.

    Chắc chắn là ông ta bận lo cho chính ông ta thì phải hơn. Trong lúc ông ta vừa mơ về khu kháng chiến vừa nhậu huýt ky, chắc chắn là ông ta đang tính chuồn.

    Vì các cấp chỉ huy của ông đã cho ông gương xấu, như Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, tướng cố vấn quân sự Đặng văn Quang, các tỉnh trưởng… tất cả những người nào đã kiếm tiền đầy túi rồi bây giờ họ phải bay đi Đài Loan, Phi luật Tân hay Hoa Kỳ

    Nếu như binh sĩ mà không xứng đáng để đi đến sự thất trận thì cấp chỉ huy của họ đều phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, dĩ nhiên trừ một vài trrường hợp. Họ đâu đến đổi điên hay vô tâm đến độ không biết rằng trước mặt họ là cả một đội quân cảm tử, không biết gì là tham nhũng, với những cấp chỉ huy thật tâm chia xẻ với họ cả về sinh mệnh lẫn hành động.

    Chìa khóa của sự sụp đổ của cả một lâu đài từ trong nhiều năm qua là tướng Thiệu nầy. Từ đầu đến cuối chính ông ta đã để cho cả binh sĩ và dân chúng của ông trong trạng thái “mộng du” (đi rong trong giấc ngủ mê). Cho đến lúc chính ông nửa tỉnh nửa mê, đã lấy một quyết định hết sức thảm hại là rút quân bỏ Vùng Cao Nguyên mà không tham khảo với một ai hết, mà cũng không có một công tác chuẩn bị nào cho sự rút quân nầy..

    Vậy ông Thiệu là ai ? Đã nhiều lần chúng tôi đã tự đặt câu hỏi đó trước mặt người nầy, một người thật sự chẳng có ra gì.

    Trước tiên ông không phải là một quân nhân ưu tú. Theo sự nhận xét của tất cả các chuyên viên thì ông sống với quá nhiều sự bảo vệ và ngay lúc ông sấp sửa về hưu thì ông lại được thăng cấp thiếu tá giả định . Nhưng ông là một chánh trị gia lỗi lạc, một người biết cách lợi dụng các sư đoàn thuộc phe đối lập một cách ngoạn mục, và lợi dụng sự thèm khát của các quân nhân . Đồng thời tỏ ra cho người Mỹ thấy khó mà tìm ra người thay thế ông được .

    Ông đã trị vì 10 năm. Ngày 17 tháng 6 năm 1965, sau nhiều ngày bàn cãi, trả giá gay go, ông được bầu lên làm lãnh đạo với đa số phiếu của đại diện quân nhân các cấp, giúp ông loại được đối thủ là tướng không quân Nguyễn cao Kỳ. Hai năm sau ông được bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa và được tái đắc cử ngày 30 tháng 10 năm 1971. Ông từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975.

    Ông Nguyễn văn Thiệu thuộc một gia đình ở Miền Trung, dư ăn dư để, không hơn không kém. Ông theo học một khóa sĩ quan hải quân và trong khi ông chỉ mơ ước được chỉ huy một tàu chiến thì một sự tình cờ lại đưa ông đến trường sĩ quan võ bị Dalat. Ông thuộc đảng Đại Việt, một đảng tinh hoa, theo lối nói của thời đó, một đảng quốc gia cực đoan đã có lúc hợp tác với người Nhật. Trong những người thân cận của ông, người ta thường thấy các đảng viên Đại Việt, như tướng Trần thiện Khiêm chẳng hạn.

    Chống Pháp triệt để, ít nhất cũng trong lúc đầu, đảng Đại Việt đã đào tạo được một số cán bộ chánh trị và trí thức ở Việt Nam. Ông Diệm hình như đã thừa hưởng được gia sản nầy. Ông Thiệu ít hay nhiều cũng đã dính vào gia đình nhà Ngô, vốn là quan lại của triều đình. Và ông Diệm cũng là người làm cho ông Thiệu đi lên. Là sĩ quan trong quân đội Pháp, ông Thiệu chỉ có làm cho người ta chú ý vì sự tránh né và sự kín đáo của ông.

    Ở Đông Nam Á, người Trung Hoa thường hay đầu tư vào một số nhân vật nào đó, với hy vọng một ngày nào đó người đó lên nắm được quyền hành thì họ sẽ được trả giá gấp bội. Ông Francis Koo đầu tư vào ông Thiệu. Không biết vì trực giác hay do thông minh tính toán ? Là một người Trung Hoa sanh đẻ ở Thượng Hải, được nuôi nấng nên người ở bên Pháp, ông thuộc một gia đình lớn người công giáo. Ông là bạn thân của con trai ông Tưởng giới Thạch, và chỉ là một đệ nhất thơ ký của tòa Đại sứ Trung Hoa Quốc gia tại Sài Gòn, vào thời ông Diệm. . Chỉ là một tấm bình phong. Sau khi một hiệp ước giữa các nước hội viên của tổ chức O.T.A.S.E. được ký kết thì ông Koo chỉ huy hết các tổ chức tin tức tình báo của Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai Á và Đài Loan. Một loại phối trí viên chịu trách nhiệm về những cuộc hành quân chánh trị .

    Ông Thiệu lúc đó chỉ là một sĩ quan thường đang làm việc trong triều đại của ông Diệm. Ông vào đạo Thiên Chúa giáo và cưới một bà vợ người Miền Nam , người công giáo, sáng sủa, nhưng thích tiền và danh vọng. Cũng như các bà Việt Nam khác, bà là một tay chạy áp phe đáng ngại.

    Là một đại úy lúc ông Diệm nắm chánh quyền , ông lên Thiếu Tá và sau đó Trung tá. Ông ta luôn luôn dửng dưng và kín đáo. Ông rất là trung thành với chủ nghĩa quốc gia của mình và khéo léo giúp đỡ mọi người . Luôn luôn ông không làm cho người ta chú ý đến mình. Ở trong dinh, người ta khen ông về sự yên lặng và sự trung thành của ông. Ông vào được nhóm người của ông Diệm là nhờ gia đình của ông, dù muốn dù không ít nhiều cũng đã nằm trong quỹ đạo của nhà Ngô, nhờ vào đạo Thiên Chúa của ông và nhờ vào đạo của bà vợ ông.

    Ông Francis Koo đã cho ông lời khuyên và yểm trợ ông. Ông Thiệu trở thành chỉ huy trưởng đoàn vệ binh của Tổng Thống . Cuối cùng ông nắm đươc một vị trí then chốt và ông đã sẵn sàng để được người ta trả giá.

    Khi ông Diệm bị lật đổ, ông khôn ngoan đứng ngoài, và chỉ nhảy vào tham gia khi ông đã hiểu (hay Koo cho ông biết không chừng) rằng nhóm chủ trương đảo chánh sẽ thắng vì họ có sự ủng hộ của Hoa Kỳ . Và chỉ có ông mới có thể cho phép hai ông Diệm Nhu trốn khỏi từ Dinh Gia Long để chạy đến một nhà thờ ở Chợ Lớn . Ở đó hai người bị khám phá ra sau khi bị tố giác. Cũng có thể do ông ta. Ông ta khôn khéo lắm!(2)

    Ông Thiệu không thích lộ diện trên sân khấu. Để cho các tướng lãnh trẻ , sáng giá tự do mua may quây cuồng và xâu xé lẫn nhau. Chỉ có ba vòng tôi là tướng Minh Dương và các tướng lãnh thân Pháp phải ra đi : Lê văn Kim, Trần văn Đôn, Mai hữu Xuân và Tôn thất Đính. Sau đó là Khánh và tướng Minh Trần… Bây giờ mới xuất hiện tướng Nguyễn cao Kỳ với hàm râu mép, và cả một lô phi công của ông ta, những người thích chơi trò cao bồi ngoài phố.

    Người ta mới bắt đầu nói tới ông Thiệu như là một người duy nhất biết điều và có lý tính trong chính trường của nhóm quân nhân thích đu giây, quên chiến cuộc mà chỉ ham làm chánh trị giống như một nhóm người biểu diễn trò xiếc ngoài đường phố.

    Bọn Việt Cộng chiếm các ấp chiến lược, thiết lập các hệ thống của họ trong các thành phố. Hoa Kỳ chuẩn bị can thiệp mạnh khắp nơi để tái lập tình hình bi đát đó lại. Nhưng chỉ sau khi Hà Nội đã bác bỏ đề nghị hòa bình của Tổng Thống Johnson.

    Lẽ ra họ phải chấp thuận ngay lúc đó hơn là phải đến một năm sau, và nếu không có thêm 2 triệu người chết nữa, cờ đỏ đã phất phơ ở Sài Gòn rồi.

    Vào tháng 3 năm 1965, 10 triệu người trong số 14 triệu dân ở Miền Nam lúc bấy giờ đã trực tiếp hay gián tiếp bị dưới sự kềm kẹp của Việt Cộng vốn kiểm soát gần 4/5 lãnh thổ. Chánh Phủ chỉ còn có các thành phố , giống như những hạt nho khô trên bánh ngọt vậy

    Hoa Kỳ thấy không thích thú lắm khi họ nhảy vào cuộc chiến bẩn thỉu nầy, vì cộng sản đã từ chối một nhượng bộ tối thiểu khả dĩ giúp họ khỏi mất mặt và tránh khỏi cái bẫy. Họ muốn ít nhất cũng phải có một vị nguyên thủ quốc gia coi được để không làm bực mình dư luận quần chúng Hoa Kỳ vì những trò hề của mình. Họ chọn ông Thiệu, một người có vẻ đứng đắn, chớ không phải ông Kỳ với nhóm áo bay màu cam và các cảnh sát thích trò giải trí vui chơi.

    Vận xui “không phải lúc” lại đến . Một chiếc trực thăng Mỹ bắn nhằm rốc kết xuống một căn nhà nơi đó đang có một cuộc hội họp của Bộ Tham mưu tướng Kỳ, nhưng cũng may là tướng Kỳ chưa đến. Biến cố nầy làm cho tướng phi công mất đi một số phụ tá đàn em giỏi.

    Kể từ lúc đó, mức điểm của tướng Kỳ xuống thấp và ngôi sao của ông Thiệu lại lên. Ngoài ra ông Thiệu còn có một lợi thế lớn hơn đối thủ của mình : ông biết rõ các bạn của mình, ông biết răng của họ đang ngứa , họ đang thèm danh vọng, tiền bạc và thăng quan tiến chức. Nhất là tiền. Lương của một đại tá hay của một ông tướng không có nghĩa lý gì. Người ta không có sống được đúng mức. Để có thêm nhiều thân hữu chống tướng Kỳ, ông Thiệu phải có nhiều tiền hoặc do nhóm người Tàu hoặc do Mỹ cung cấp. Nhờ đó ông mua được các cấp thiếu tá và đại úy. Và trả tiền mặt (3). Còn ông Kỳ thì chỉ có hứa suông. Vì bị mất một số cảnh sát viên thân cận trong biến cố nói trên, nên ông thấy những nguồn lợi chính vốn thu được từ các tổ chức kiếm tiền như các quán rượu, gái nhảy hay ma túy… bị cạn dần . Còn ông Thiệu thì thiết lập hệ thống hối lộ vốn giúp ông từ đây nắm vững được quân đội dể các cấp sĩ quan đại diện có thể bầu ông lên vị trí lãnh đạo với đa số phiếu áp đảo.

    Khi nắm được chánh quyền rồi thì ông Thiệu sẽ giữ chặt lấy. Vì đã chán không muốn nghe nói tới chuyện đảo chánh hay âm mưu đảo chánh nữa nên người Mỹ coi như đã chọn được đúng người rồi và quyết định cứ giữ nguyên như vậy, do đó rất có lợi cho ông Thiệu .

    Ông Thiệu có tính hay đa nghi, và quỷ quyệt như cáo già giống như ông đã làm chánh trị trong suốt cuộc đời của ông vậy. Không phải chánh trị lớn lao gì mà là nhỏ thôi với những mánh khóe trong cạnh tranh cá nhơn, trong những cuộc tranh đấu ngoài hành lang về ảnh hưởng, về thế lực. Ông loại tất cả các đối thủ của mình bằng cách cho người nầy chống người kia, hoặc mua đàn em của họ.

    Bà Thiệu và bà Thủ Tướng Khiêm qua thương nghiệp của mình đã gần như thu hút hết tiền tệ của Miền Nam Việt Nam . Nếu không qua hai bà thì người ta không có thể có một chỗ làm tốt, chẳng những hái ra tiền mà còn không nguy hiểm đến tánh mạng với một đồng lương khốn khổ. Mà phải trả trước và phài tỏ ra trung thành với phe cánh mới được.(4)

    Ông Thiệu đi lên từ từ, không nỗ lực lắm, không phạm một vụng về nào và rất thản nhiên. Đươc các tướng lãnh bỏ phiếu tín nhiệm, giờ đây ông lại được dân chúng bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa . Người Mỹ tin tưởng rằng ông rất cứng và thông minh. Ông rất ít nói. Nhưng than ôi ông quá yếu ớt và không thể đứng vững một mình được. Ông cần phải có một người đỡ đầu để hướng dẫn ông và trợ lực cho ông. Sau người Pháp là ông Diệm, và sau đó là người Mỹ, và ông Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ . Ông không biết tý gì về vụ Watergate (nghe lén). Ông không thể chấp nhận được chuyện đó. Theo ông thì làm chánh trị là phải làm như vậy mới được. Tại sao người ta trách Tổng Thống Hoa Kỳ về chuyện đó ? Chuyện mà ông thường làm hằng ngày để loại trừ các đối thủ của ông ?.

    Trong bài diễn văn cuối cùng mà ông đọc trước khi ông từ chức, ông buộc tôi Hoa Kỳ là đã phản bội ông và phản bội cả ông Tổng Thống Nixon là người đã ủng hộ ông.

    Ông Thiệu là một người quốc gia trung thực, nhưng ông không thể tưởng tượng hình dung ra được một chế độ không tham nhũng. Ông chỉ là một người do các bạn đồng nghiệp của ông bầu lên . Ông phải liên tục trả tiền cho họ để họ đứng yên và tỏ ra trung thực hay có vẻ trung thực, đó là quy luật, đồng thời họ phải loại trừ những người chống đối chế độ: đó là các tướng lãnh tốt. Ngoài ra tất cả người còn lại đều xoàng.

    Từ một năm nay, chuyện tham nhũng đó đã lan rộng ra, không tha thứ được. Những người chung quanh ông Thiệu ngày càng tỏ ra ham ăn. Ông Thiệu không có một phẩm chất quân sự nào hết và ông lại bất cần các tướng lãnh khác. Những người mà ông đã đưa lên làm tư lệnh lữ đoàn, sư đoàn, quân đoàn, tỉnh trưởng, vùng chiến thuật… đều có nhiệm vụ phải làm tiền để làm giàu cho quỹ của đảng và mua chuộc người nầy người khác. Họ không phải được chọn vì nhiệm vụ hay vì phẩm chất quân sự mà chỉ vì sự trung thành và vì đồng tiền mà họ phải cung cấp (5) . Người Mỹ đã không còn ở đây nữa thì chỉ còn có đè đầu dân chúng để lấy tiền mà thôi. Tuy nhiên cũng còn một vài đơn vị xung kích còn nguyên vẹn như các đơn vị Dù vốn tôn trọng tinh thần đồng đội hơn là lợi lộc. Nhưng mà sau khi họ không còn bị luân chuyển như chong chóng phục vụ hết tiểu khu nầy đến tiểu khu khác, thì họ lại phải “đóng quân”như Thủy quân lục chiến ở Quảng Trị, thì lúc bấy giờ họ lại mắc phải cùng một thứ bệnh và từ ông đại tá đến anh thiếu úy thường ai cũng chú tâm đến chuyện mua bán hết.

    Linh hồn chốn địa ngục của ông Thiệu là tướng Đặng văn Quang, một con heo mập, mà ai cũng biết rõ là bà vợ của ông nầy đã có giao dịch buôn bán với bọn Việt Cộng . Ông ta là chủ lớn của đường dây ma túy. Lợi lộc hơn nhiều đối với việc mua bán lúa gạo hay gỗ xây cất từ vùng Việt Cộng mang về. Tổng Thống Thiệu đã chịu ảnh hưởng hoàn toàn của tướng Quang. Chính tướng Quang đã xuống lệnh cho quân đội và đã cắt cử các tướng lãnh, nhưng ông Thiệu đã ra quyết định cho các cuộc hành quân mà không cần nghĩ biết xem những người được tướng Quang cắt cử đó có đủ khả năng thi hành hay không . Nói một cách cụ thể hơn là không còn có một bộ tham mưu nào nữa cả. Vì ông Thiệu với tính đa nghi sợ sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân sự nên đã bỏ hẳn bộ tham mưu. Hậu quả : lúc Bắc Việt tung ra chiến dịch Tổng Tấn Công vào tháng 3 năm 1975, thì quân đội gần như không có chiến đấu, vì quân đội không phải được thành lập ra để chiến đấu nữa vì thường thì cấp chỉ huy đều không có khả năng.

    Lúc nào ông cũng sống và hành động qua một người cha, nên người ta nói ông Thiệu sẽ mất hết tinh thần thực tế khi người Mỷ bắt đầu bỏ ông. Và vì ông không chấp nhận chuyện đó, nên ông từ chối không coi đó là một sự thật. Ông không hiểu tý gì về Hiệp Định Ba Lê và cũng giống như ông Diệm đối với Hiệp Định Genève, ông tin rằng ông không cần phải thi hành Hiệp Định đó. Hoàn toàn viễn tưởng ! Ông yêu cầu ông Nixon hãy làm sao cho ông được yên tâm. Tổng Thống Hoa Kỳ đã gởi cho ông 3 lá thơ riêng với tánh cách cá nhơn, bảo đảm với ông rằng nếu Bắc Việt tổng tấn công ông toàn bộ thì quân đội Hoa Kỳ sẽ bay sang tiếp cứu. Lúc bấy giờ ông Thiệu mới chịu ký tên vào Hiệp Định và lúc đó Kissinger mới nhận được nhận giải thưởng Nobel vể hòa bình .

    Tháng chạp năm 1974: một sư đoàn chánh quy Bắc Việt tấn chiêm vùng Phước Long, chiếm đóng thị xã tỉnh lỵ đầu tiên thuộc một tỉnh của Miền Nam Việt Nam.

    Theo Hiệp Định Ba Lê và những điều khoản mật để bảo đảm cho Hiệp Định nầy, thì Hoa Kỳ phải yểm trợ Miền Nam Việt Nam. Nhưng Hoa Kỳ không có một hành động nào hết. Dư luận dân chúng Mỹ chống lại mọi hành động tái can thiệp, và lúc bấy giờ không phải ông Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc là người cai trị Hoa Kỳ nữa, (vì Tổng Thống Ford không phải là người được dân chúng bầu lên), mà là Quốc Hội lưỡng Viện đầy quyền lực đang trong giai đoạn “chơi” lại Hành Pháp.

    Ông Thiệu bắt đầu nhận thấy mình bị mồ côi. Ông không còn biết cái đầu của mình ở đâu nữa. Ông cảm thấy bồn chồn và không yên. Vốn là người không chịu nói chuyện với ai, là người không bao giờ lo lắng về một sự chống đối nào thật sự như một vài nhân vật nào đó, một vài lương tâm tốt của Phật Giáo , những người Công Giáo… tự nhiên ông thấy mình không có sự ủng hộ của dân chúng, thình lình ông muốn tìm tới một sự hòa giải với họ, muốn dựng lên một cái gì như là chủ nghĩa tự do. Thất bại hoàn toàn. Ông biến đi, người ta không tìm thấy được ông nữa . Ông như mất đi rồi, ông cảm thấy sợ, vì thấy mình cô đơn.. Thay vì ông tìm hiểu xem cái gì đã xảy ra, thì giờ đây ông đang ở trong trạng thái mộng du, và đất nước Việt Nam cũng đi theo ông luôn. Tất cả Miền Nam Việt Nam đang đi theo sau vị Tổng Thống của mình, trên một cây rui trên nóc nhà, mắt nhắm tít lại.

    Ông Thiệu là một người Công Giáo, nhưng ông còn tin hoàn toàn vào dị đoan. Ông tin vào thuật phong thổ và số tử vi , thờ cúng ông bà nghiêm túc, và thường tham khảo mấy người đồng bóng. Cha ông được chôn cất ở Cam Ranh. Trên mộ của người cha, ông có cho dựng lên một cây kim chỉ Nam lớn. Vào cái ngày mà quân cộng sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch Tổng Tấn Công vào Miền Nam Việt Nam, ngày 14 tháng 3 năm 1975, một cơn bão đã nổi lên và sét đánh trúng ngay vào ngôi mộ đó làm gãy cây kim đi. Đối với ông Thiệu, đây là một điềm rất xấu. Phải chăng chúng ta đang ở vào năm Mão (con mẻo) và ông Thiệu lại ở vào tuổi Tý (con chuột): Mèo luôn luôn bắt chuột ăn. Và phải chăng Staline và Fidel Castro cũng cùng tuổi con mèo ?

    Ông Thiệu coi như đã thua rồi. Và không có một ai để xốc ông lên, để đánh thức ông dậy. Ông Đại sứ Graham Martin lẽ ra phải làm chuyện đó. Nhưng ông nầy cũng đang ở trạng thái “mộng du” khác, kiểu riêng của ông ta. Ông có một người con trai tử trận ờ Việt Nam. Theo ông thì cuộc chiến tranh nầy đã trở thành một dục vọng rồi. Ông không thể chấp nhận việc Hoa Kỳ đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam . Ông hành động như là Tổng Thống Nixon vẫn đang còn tại chức vậy, vì ông Nixon là người được dân chúng bầu lên, coi như sự kiện Watergate không bao giờ có vậy. Và do đó, chuyện ông Thiệu biến mất đi sẽ tạo nên một lỗ hổng chánh trị lớn

    Ông Thiệu đã có một kế hoạch nội an của ông Diệm trên phương diện chánh trị : một đảng chánh trị duy nhất, nhưng hai hệ thống song song. Những người tiếp nối ông không được chuẩn bị kỹ càng trong công tác nắm chánh quyền, đã tiềp tục đi theo con đường cũ đó tức là không có làm gì hết.

    Vào cái ngày thứ bảy 26 tháng 4 nầy, thành phố Sài Gòn đang mất máu lần lần và mất cả thịt nữa, nhưng việc đó chưa thấy rõ được lắm đâu.

    Có tin ngoài phố: Bọn cộng sản Bắc Việt xác nhận là họ sẽ làm chủ thành phố Sài Gòn ngày 15 tháng 5 để ăn mừng ngày sinh nhật của Hồ chí Minh . Mặt khác, chiến dịch tổng tấn công mà họ đang tiến hành cũng được mang tên của người lãnh tụ già Bắc Việt.

    Tôi tự hỏi tại sao họ lại phải đợi đến ngày 15 tháng 5 ? Các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chỉ có một việc là tiến vào thôi. Trừ phi ngoài Hà Nội người ta nhất quyết phải chọn ngày đó. Ngay từ đầu Hà Nội vẫn là người chủ của chuyện nầy .

    “Đâu có thề được, một người Việt Nam nói với tôi như thế, người ta không có nghe một tiếng súng đại bác nào cả”

    Tôi muốn đẩy mạnh anh ta để cho anh mở to cặp mắt ra. Nếu anh ta lên một chiếc xe tắc xi, và đi ra khỏi thành phố, thì anh ta sẽ nghe được những tràng súng đại liên ngay.

    Anh Raoul Coutard vừa ở Tân sơn Nhứt về. Chiếc phi cơ của Hàng Không Việt Nam đã từ chối không chịu cất cánh lên từ Bangkok. Chúng tôi vẫn không có một người nào thêm trong toán của chúng tôi .

    Tôi ngủ không được . Chiếc quạt máy không chạy nữa vì không có điện. Trời quá nóng. Và lại thêm sự yên tĩnh nầy !

    Có tiếng còi hụ của một chiếc xe Hồng Thập Tự cứu thuơng đi nhanh qua…..



    **********************

    CHÚ THÍCH (của dịch giả)

    (1) Lời đồn thôi, vì số vàng dự trử đằng kho của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn còn nguyên cho đến chiều ngày 30/4/75 thì ông Nguyễn văn Hảo mới giao cho người đại diện của cộng sản Bắc Việt để họ mang xe chở ngay về Hà Nội tối hôm đó.

    (2) Đoạn nầy tác giả vì có định kiến và thành kiến với cá nhân ông Nguyễn vănThiệu nên viết có phần không đúng lắm:

    - ông Thiệu với tư cách là đại tá Tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh đã là người tham gia từ đầu trong nhóm quân nhân đảo chánh, như là một thành viên chánh thức, với sự tham gia của đơn vị của mình như là một đơn vị bộ binh chủ lực của cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963.

    - Bản doanh của sư đoàn 5 không đóng gần dinh Gia Long nên việc hai ông Diệm Nhu trốn ra khỏi dinh Gia Long vào lúc gần sáng hoàn toàn do hai ông Cao xuân Vỹ và thiếu tá Trang khánh Hưng sấp xếp và lo liệu, không dính gì đến ông Thiệu.

    - Khi đến nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn chính ông Diệm đã gọi điện thoại trực tiếp nói chuyện với tướng Dương văn Minh hồi gần 6 giờ sáng ngày 2 tháng 11, chớ tuyệt nhiên không có ai là người tố cáo hết, bản thân dịch giả có mặt ngay lúc đó trong phòng của tướng Minh với một số tướng lãnh khác, nên là nhân chứng biết rất rõ chuyện nầy.

    (3) Việc nầy thì hơi lố bịch. Làm gì có chuyện nầy ? nhưng vốn tôn trọng quyền của tác giả chúng tôi cũng xin dịch đúng theo nguyên văn quyển sách.

    (4) Đây cũng là một nhận xét hơi chủ quan của tác giả.

    (5) Xin nói thẳng thừng là nhận xét của tác giả e rằng sẽ quá tội nghiệp cho hương linh của những vị anh hùng đã tuẫn tiết chăng ? như tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Phú và các đại tá Nguyễn văn Cẫn…, hoặc cho một số rất nhiều quân nhân ưu tú khác thuộc mọi quân binh chủng như tướng Lê quang Trưởng, Lê văn Lưỡng, Lâm quang Thi, Đổ kế Giai, Lê minh Đảo v.v., các hải quân đô đốc Chung tấn Cang và Diệp quang Thủy, tướng không quân Trần văn Minh, tướng thiết giáp Trần quang Khôi hay pháo binh Nguyễn đức Thắng, v.v.. hay các quân nhân ưu tú khác rải rác ở hầu hết các chức vụ hành chánh quân sự khác ? Vì tất cả đều chỉ biết hy sinh phục vụ cho chánh nghĩa quốc gia dân tộc chớ chẳng có ai là tay sai làm tiền cho ông Thiệu hay cho bất cứ ai cả !

    --------------------


    Chương 3

    NGÀY CHÚA NHẬT 27 THÁNG 4
    Giá đồng đô la : 4000 đồng Việt Nam một đô la



    3 giờ 30 sáng ngày 27/4/75:

    Tôi giật mình thức dậy vì tiếng rốc kết nổ làm rung chuyển cả thành phố Sài Gòn . Một quả rốc kết rơi rất gần. Tôi thò mũi ra cửa sổ. Tiếng còi hụ của xe chữa lửa và của xe cứu thương. Xa xa có những cột khói đang lên… Không thể nào ra được, vì còn giờ thiết quân luật. Nhưng cũng không thể nào ngủ lại được.

    Con người của ông Thiệu cứ ám ảnh tôi mãi. Tới giờ phút cuối cùng ông cũng chưa hiểu là người Mỹ không còn muốn nghe nói tới ông ta và tới hai chữ Việt Nam nữa.Và ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã nuôi dưỡng ông trong ảo ảnh của mình, nói trắng ra trong sự điên rồ của ông ta.

    Ông Thiệu đeo cứng vào ý nghĩ đó. Ông ta muốn nhất thiết Quốc Hội Hoa Kỳ phải viện trợ bổ túc cho ông 300 ngàn đô la, trong khi số tiền đó sẽ không thể dùng được vào việc gì cả, thì giở còn đâu nữa mà dùng để mua dụng cụ? Chẳng qua đó chỉ là một cử chỉ mang ý nghĩa là họ chưa có bỏ rơi số phận cũa ông ta, là người ta còn đưa bàn tay ra cho ông nữa để kéo ông ra khỏi vũng sình mà ông đang mắc lầy.

    Dĩ nhiên ở đâu cũng còn có sự tiêu pha lãng phí và tham nhũng. Quân đội của ông Thiệu đã quen với lối sống xa hoa, lãng phí đạn dược, dụng cụ và xăng dầu. Quân đội đó cũng là nạn nhân của người Mỹ vốn để lại cho họ một hạ tầng cơ sở quá nặng nề, các căn cứ quân sự, các phi trường, các kho tàng và cơ xưởng. Chỉ riêng việc bảo quản các cơ sở hạ tầng đó cũng phải tốn kém hằng tỷ rưỡi đô la hàng năm, và tiền viện trợ cho Miền Nam Việt Nam do đó cứ khô cạn dần. Bây giờ thì chỉ còn có 700 triệu hàng năm, trong khi viện trợ của Liên Xô cho Hà Nội cứ tăng lên mãi – trên một tỷ rưỡi đô la cho năm nay.

    Khi ông Thiệu cho lệnh Vùng 2 Chiến Thuật rút đi, ông đã nhìn về Hoa thạnh Đốn . Không phải ông lấy một quyết định quân sự mà ông chơi trò đe dọa chánh trị . Bỏ đi một phần lãnh thổ của mình, ông tưởng rằng ông có thể bắt chẹt những người đồng minh cũ của ông phải can thiệp mạnh mẽ, phải chiến đấu trở lại bên cạnh ông ta, và phải giữ những lời mà họ đã hứa để cho ông ký vào Hiệp Định Ba Lê. Ông quên rằng người Mỹ đã cho ông biết vào tháng 12 năm 1974 là họ sẽ không làm gì nữa hết khi tỉnh Phước Bình rơi vào tay cộng sản Bắc Việt và không bao giờ các pháo đài bay B.52 sẽ bỏ bom vào các sư đoàn Bắc Việt nữa. Do có những thỏa thuận như vậy cho nên họ không bao giờ can thiệp vào chuyện quân đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm quận lỵ của một tỉnh cũa Miền Nam Việt Nam . Những thỏa thuận đó đã xảy ra vào tháng 10 năm 1972, sau khi Kissinger đã thất bại trong hai ngày để thuyết phục ông Thiệu ký vào Hiệp Định Ba Lê.

    Tướng Haig đã có mang đến trao cho ông Thiệu một bức thư (hay 3 bức) của ông Nixon, thừa nhận những sự “thỏa hiệp kín” đó.

    Vậy Đại sứ Graham Martin đã làm trò gì ? Ông đã không có nói cho ông Thiệu và đã thúc đẩy ông cho lệnh rút lui Cao Nguyên hay sao ? Rằng: “Ông hãy cho Quốc Hội Hoa Kỳ thấy là ông đang sấp sửa mất tất cả. Hãy đánh thức dư luận Hoa Kỳ dậy. Hãy buộc Hoa Kỳ phải giữ lời hứa của ông cựu Tổng Thống của họ.“ d4” Người ta đoan chắc như vậy.

    Ông Thiệu đã hành động như là không tính gì đến việc mất các tỉnh vậy. Và ông ra lịnh cuộc rút lui đó . Một cuộc rút lui hoàn toàn thật là thảm bại trên phương diện quân sự, không có môt chút lo lắng gì về hậu quả trên địa thế. Chuyện mà ông quan tâm là những phản ứng của Hoa Kỳ. Ông ta không biết là người ta không muốn nghe nói tới nữa về vấn đề “đổ máu” , về “Việt Nam” mà người ta đã ước tính là đã mất rồi; là Ngũ Giác Đài đã bôi tên Việt Nam trong sổ kiểm soát rồi; là người ta đã nghe những tiếng kêu của một dân tộc mà người ta đang bóp cổ rồi; Kêu la đã là vô lễ rồi mà còn ngoan cố đòi viện trợ nữa. Ít nhất ông cũng phải chứng tỏ được tư thế của mình và đừng nên đến quấy rầy lương tâm tốt của người Mỹ đang trên đà phục hồi lại sau những hậu quả xấu của vụ Watergate. Sau cơ quan điều tra liên bang lại đến lượt cơ quan tình báo trung ương.

    Chính cái hình ảnh nầy của Hoa Kỳ tới giờ chót Đại sứ Graham Martin cũng không muốn đưa ra cho ông Thiẹu, người mà ông được lệnh phải đẩy ra ngoài. Đối với viên chức ngoại giao loại nhà nghề nầy, nước Việt Nam không phải một nhiệm sở như những nơi khác như Bangkok chẳng hạn, nơi mà ông đã thành công và cũng là nơi mà từ đó ông sang đây. Ông đã chuyển cuộc chiến nầy thành một chuyện thích thú riêng của chính mình. Đây là một sự lựa chọn xấu nhất mà ông có thể làm được trong những hoàn cảnh hiện tại.

    Ông Martin đã thay thế cho ông Ellsworth Bunker sau khi Hiệp Định BaLê được ký kết, với vai trò là một người cha đỡ đầu mà người Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam không thể thiếu được .Và ông đã thành công. Quá thành công, tự nhiễm độc mình đồng thời làm cho người mà mình đang che chở cũng bị nhiễm độc luôn.

    Ở vào cái tuổi 62, ông Graham Martin có một dáng đi hùng dũng, người thì mảnh khảnh, gương mặt thì rắn rỏi, kiểu như một con sói già xám khi đi vào cái hoàn cảnh tận thế thì đến lượt nó cũng mất hết lý trí. Thí dụ như ông bướng bỉnh muốn bảo vệ một cây cổ thụ phía sau tòa đại sứ Hoa Kỳ nhưng cái cây nầy nó gây trở ngại cho trực thăng không đáp xuống được. Ông cho người gát giữ cây nầy sợ rằng nhân viên an ninh lợi dụng đêm tối sẽ đốn nó đi. Các anh đặc công bí mật đã thử lơi dụng sự cảnh giác của ông ta và đã đốn nó dưới ánh sáng trăng bằng cưa máy.

    Ông ta đã đồng nhất hóa cây đó với nước Việt Nam . Như ông Thiệu với các ngôi mộ của cha mẹ ông ta. Và như vậy mà ông vẫn giữ bề ngoài của một nhà ngoại giao lạnh như tiền, rất thản nhiên, tao nhã. Cũng như ông Thiệu nữa, một con người cố giữ bộ mặt thanh thãn, giấu kín sự điên rồ của mình.Trong lúc Miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.

    Những thượng nghị sĩ Mỹ được gởi sang Sài Gòn để điều tra về tình hình đã biết rõ chuyện đó và một người trong số đó ngày 5 tháng 3 đã tuyên bố với Tổng Thống Ford: “Có một chuyện mà tất cả chúng tôi đều đồng ý là ông Đại sứ của chúng ta ở Việt Nam là một tai họa. Ông cố hết sức giữ ý chí của mình, nhưng trên phương diện thể chất ông ở trong tình trạng rất xấu.”

    Ông Graham Martin túc trực ở đầu giường của Miền Nam Việt Nam như một bác sĩ biết người bệnh của mình đã hết cách cứu chữa rồi nhưng ông vẫn cố giữ cho anh ta vững tinh thần bằng cách nhắc đi nhắc lại là anh ta còn có thể lành được bệnh. Vậy mà bây giờ thì người bác sĩ vì cứ nhắc hoài như thế nên ông đã bắt đầu tin rằng sự nối dối của mình là một sự thật.

    Và khi mà người ta đòi hỏi ông ta phài chuẩn bị sự ra đi của người Mỹ và sự di tản của đồng bào ông thì ông trì hoãn cố làm chậm lại. Ông không muốn rời khỏi người bệnh, và vẫn muốn giữ tất cả nhân viên của mình luôn kế cận bệnh nhân.

    Đây là một ví dụ nữa về trạng thái “mộng du” của ông Martin: Trong khi sự tan vỡ được gần như hoàn toàn rồi, trong khi hàng trăm ngàn người dân tỵ nạn đã trên con đường di tản, ông ta còn gởi về Hoa thạnh Đốn những bản đỉện tín dài nhằm yêu cầu gởi khẩn cấp sang cho “Miền Nam Việt Nam những chương trình phát triển kinh tế dài hạn”.

    Là một người mất ngủ, thần kinh bị căng thẳng, lúc nào cũng uống thuốc, ông đã trở thành đa nghi và bí mật, và lánh mặt cả với các cộng sự viên của mình. Ông nói năng và hành động nhân danh của một nước Hoa Kỳ vốn đã không còn ở đây nữa, một quốc gia Hoa Kỳ của ông Nixon, của một sự bảo đảm cho Miền Nam Việt Nam, của một nước Mỹ trước sự kiện Watergate, trước cảnh đại hồng thủy. Giống y như ông Thiệu vài ngày trước khi từ chức, trong bài diễn văn cuối cùng của ông ta về một Miền Nam Việt Nam thật sự không còn nữa với Hiệp Định Ba Lê, đã hứa với dân chúng Sài Gòn một thành phố đang bị bao vây là ông sẽ tái chiếm lại hết các tỉnh bị mất.

    Bây giờ thì chỗ trống đang dành cho tướng Minh Dương. Tôi đã ở ngay nhà ông ta. Ông đang lập chính phủ của mình. Tôi phải đến gặp ông lần nữa hôm nay…. nếu toán chuyên viên quay phim của tôi cuối cùng đến đây được . Ông Minh sẽ sẳn sàng có một lời tuyên bố.

    Tôi được biết là giá đồng mỹ kim hôm nay lên đến 4000 đồng Việt Nam, lúc tôi xuống phòng ăn để dùng điểm tâm

    Ngân hàng Chase Manhattan đã quyết định di tản nhân viên của họ sang Phi luật Tân, nhân viên cấp cao thì đồng ý, cấp nhỏ hơn thì được lãnh một tháng lương và người ta cho họ nghỉ việc. Có tất cả là 43 người. Ban Giám Đốc của Ngân Hàng Bank of America đã rời Sài Gòn , chỉ còn lại quản lý là người Việt Nam .Những người gởi tiền đang yêu cầu được rút tiền ra. Ngân hàng Trung Ương cho biết là ngân hàng bảo đảm sẽ trả tiền mặt, nhưng biện pháp nầy không thể làm mất đi sự hổn loạn. Các ngân hàng của người Mỹ ở Sài Gòn đã cho đóng cửa mà không có báo trước cho khách hàng hay cho các ngân hàng Việt Nam mà họ có liên quan thỏa hiệp. Quyết định bất thần nầy đã làm tăng một cách nguy hiểm đến biến động rút tiền ra. Vào những ngày cuối cùng của tháng 4 /75, những người gởi tiền đã rút ra gần 40 tỷ bạc Việt Nam (khoảng 60 triệu mỹ kim) chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ .

    Tất cả các hãng hàng không xử dụng sân bay Sài Gòn, ngoại trừ các hãng Hàng Không Pháp, và hãng U.T.A. , và Hàng Không Việt Nam… đã hủy bỏ hết các chuyến bay có ghé lại Sài Gòn : Hãng Pan Am và Hàng Không Trung Hoa, Cathay Pacific, Hàng Không Singapore, Thái International…, vì lý do an ninh, họ nói như thế.

    Báo Việt Nam viết:

    “Người ta đính chánh rằng Tổng Thống Trần văn Hương, bị áp lực của các Đại sứ Pháp và Hoa Kỳ là ông Mérillon và ông Martin, đã yêu cầu tướng Minh Dương hãy thay ông ta ở chức vụ nguyên thủ quốc gia” Một sự đính chánh thật là ngớ ngẩn, vì tướng Minh đã xác nhận với tôi rằng ông ta đã lập Chánh Phủ.

    Cuối cùng một biện pháp lớn đã được ban hành: “Các cơ quan công cộng sẽ làm việc ngày 1 tháng 5.”

    Trên thực tế, thì Chánh Phủ không còn nữa. Cũng không phải một văn phòng nội các nào xử lý thường vụ nữa . Chẳng có con ma nào hết. Chẳng có một Chánh Phủ nào để cho ông già Hương bám vào nữa hết.

    Ngày hôm qua đây, Tổng Thống Hương còn bắt chơi bài quốc ca khi ông bước vào Thượng Viện. Ông cũng còn được một toán quân danh dự mặc đồ trắng bắt súng chào đúng theo nghi lễ. Nhưng các đơn vị xung kích, mặc áo giáp và đội nón sắt đang nằm ở các vị trí chiến đấu trên các đường lân cận. Sẵn sàng chiến đấu. Quân cộng sản Bắc Việt đang ở trong tầm súng đại bác.

    Hiện tôi đang có bản văn của bài nói chuyện của ông ta.

    “ Tôi yêu cầu Thượng Viện giúp tôi chỉ định một nhân vật khả dĩ có thể thương lượng được với phía bên kia.”

    Chỉ còn có tướng Minh mà thôi , nhưng ông Hương lại thích ông Trần văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện hơn, “bởi vì ông nầy là đại diện hợp pháp của nền Cộng Hòa” và chính ông nầy đã ký vào Hiệp Định Ba Lê … và nhất là vì ông chánh trị gia già nầy không bao giờ chịu ủng hộ tướng Minh.

    Mười bốn sư đoàn cộng sản Bắc Việt đang ở ngay cửa của Sài Gòn . Lại đến lượt tướng Trần văn Đôn, người công dân của nước Pháp, cũng đứng vào hàng. Theo ông thì hình như ông đã có đường dây liên lạc được với phía địch.

    Có giá trị gì tướng Minh và cái gọi là lực lượng thứ ba nầy ?, hay cái đường lối thứ ba nầy mà ông ta đang là người cầm cờ đây ?

    Chỉ có vài nhóm có thế lực, nhưng ở Ba Lê thì “lực lượng Việt Nam tự do”, “lực lượng tranh đấu cho Dân chủ và hòa bình” , “lực lượng quốc gia tranh đấu cho hòa bình và trung lập cho Miền Nam Việt Nam”, “Hiệp Hội Phật Giáo Hải Ngoại”, “Phong Trào Hòa Hợp Hòa Giải quốc gia” và “Phong Trào đòi quyền sống cho Phụ Nữ Việt Nam”. Chỉ có chừng vài ngàn người thôi, nhất là các Ban Tham Mưu. Tôi còn quên “Lực lượng Hòa Giải quốc gia” của nghị sĩ Vũ văn Mẫu mà phần lớn các Phật tử đều không muốn tham gia. Hầu hết đều là những nhóm nhỏ và những hội ái hữu người lưu vong.

    Toàn là mộng du và sân khấu bóng hình, đầy chia rẽ và tranh chấp cá nhân, và cạnh tranh rắc rối giữa các nhóm, giữa đạo giáo, đôi khi còn tiền bạc nữa. Và cầm đầu các nhóm nầy là một nhân vật vừa không dám quyết định và can đảm không cầm được dây cương mà hình như còn bị người ta giật dây mình nữa : đó là ông Dương văn Minh, còn được gọi là Minh Dương (hay Minh lớn nữa)

    Năm nay ông 59 tuổi. Đối với người Việt Nam thì ông quá lớn con, do đó có tên là Minh Lớn. Ông chơi quần vợt giỏi và biết giữ sức khoẻ cho mình. Ông trồng hoa lan. Ông là một trong những chuyên viên nổi tiếng về hoa lan và ông cũng nuôi các loại cá lạ trong các hồ kiếng hoàn chỉnh. Ông thuộc loại giai cấp tiểu tư sản thân Pháp và nói tiếng Pháp của tỉnh Mỹ Tho, đối với Sài Gòn Mỹ Tho là một tỉnh “Pháp” hơn các tỉnh khác của Việt Nam. Ông gia nhập quân đội Pháp vào năm 1940, thiếu úy năm 1942, thời Diện Biên Phủ ông là trung tá. Ông sang học và đậu bằng Tham Mưu Cao Cấp ở Ba Lê. Vinh thăng thiếu tướng năm 1955 và là Tổng Tham Mưu Trưởng năm 1959. Người ta thấy ông là một quân nhân tốt vì ông không có làm chánh trị . Cũng có thể là ông không làm chánh trị nhiều vì ông không vào đảng Cần Lao, vốn là đảng duy nhất của chế độ, trong đó người ta mua quan bán chức. Đồng thời ông cũng rất là bình dân. Vào năm 1962, ông Diệm cho ông ra rìa và cho ông một chức vụ gần như danh dự là cố vấn quân sự của Phủ Tổng Thống nên ông có nhiều thì giờ rổi rảnh. Người ta thấy ông luôn luôn có mặt mỗi buỗi sáng ở sân quần vợt của Câu lạc Bộ Thể Thao, và hay chơi với những tay vợt hay của tòa đại sứ Hoa Kỳ. Do đó người ta đã quyết định dùng ông để lật đổ chế độ. Nhưng ông là một người tôn trọng pháp luật nên người ta phải thúc đẩy ông.

    Ngày 1 tháng 11 năm 1963, cuối cùng ông là người đứng đầu các tướng lãnh lật đổ ông Diệm và cũng hơi lạ là ông đã trở thành Chủ tịch của Hội Đồng Quân nhân Cách mạng và sau đó là Nguyên thủ Quốc gia .

    Tôi gặp ông rất lâu lúc đó. Ông mong muốn có hòa bình, mà không phải bất cứ hòa bình kiểu nào, và triệt để không nhận mình là trung lập. Ông ta nói với tôi ngay tại văn phòng của ông ờ Tổng Tham Mưu :

    “Phải có môt cuộc đảo chánh, hay là chúng tôi sẽ mất hết…Làm sao mấy ông muốn là chúng tôi đi tới hòa bình được, khi chúng tôi phải thỏa hiệp với Miền Bắc lúc chúng tôi đang ở thế yếu ? Đó là chúng tôi tự hiến mình cho cọp ăn. Trung lập hả ? nó không có nghĩa gì hết, và cái đó không bao giờ là một vị thế tốt để nói chuyện với cộng sản”.

    Nhưng mà mặc dầu vậy, đối với dân chúng ông ta vẫn được xem như một biểu tượng của hòa bình . Đâu đâu cũng hoan hô ông. Và nhiệt liệt.

    Ngày 31 tháng giêng năm 1964, người Mỹ lấy làm tức tối đã buộc tội ông là muốn thương thuyết với Bắc Việt , một chuyện hoàn toàn sai. Và họ đã dùng một anh hề lật đổ ông, đó là tướng Nguyễn Khánh.

    Vào cuối tháng 10 ông coi như bị lưu đày sang Thái Lan, lãnh lương đại sứ nhưng không có một nhiệm vụ gì hết. Ông ở đó 4 năm, dùng thì giờ đọc sách nhiều hơn là tiếp khách, buồn lắm.

    Cuối cùng vào tháng 10 năm 1968, ông Thiệu cho ông trở về nước và đề nghị ông làm cố vấn của Phủ Tổng Thống. Ông tự biết mình không thể làm được nên từ chối. Và từ đó ông không làm chánh trị và trở thành một người phong lưu, một người hiền triết mà người ta tôn sùng như một ông phổng.

    Cuối cùng vào năm 1971, ông lại lên tiếng và sau nhiều lần do dự, ông đứng ra tranh cử với ông Thiệu vào chức vụ Tổng Thống. Nhưng chỉ để rút lui sau đó, lấy cớ là những trò bầu cử nầy chẳng qua chỉ là một màn kịch mà thôi. Âu cũng là một chuyện thường tình ở Việt Nam cũng như ở khắp Đông Nam Á . Thái độ ngập ngừng do dự nầy của tướng Minh là một điệu nhạc “valse” của ông ta, 3 bước tới, ba bước lui.

    Ông Thiệu đắc cử và ông Minh trở về với vườn hoa lan và hồ nuôi cá của ông. Qua tiếp xúc ông tìm lại bạn bè cũ trong quân đội , vì cuối cùng ông cũng hiểu là không có họ ông không làm gì được cả. Nhưng ông cũng chỉ có lời nói suông còn ông Thiệu thì là tiền ! Mà là tiền mặt nữa !.

    Tôi gặp ông Minh lại rất thường, ông giải thích với tôi là ông rất chán ghét chánh trị, nhất là các quân nhân hay chen vào làm chánh trị, ông chỉ muốn giúp đất nước của mình mà thôi và khi nào người ta cần đến ông là ông sẽ có mặt ngay. Là một quan sát viên tỉnh táo, nhưng ông vẫn là một người hoạt động với tính không dứt khoát. Nay thì ông theo ý kiến của những người nầy, mai thì ông lại theo lời khuyên của những người khác. Người ta tưởng rằng ông sắp nói hay sắp làm một chuyện gì đó; nhưng ông tự khép kín trong một sự yên lặng khó hiểu.

    Cuối cùng giờ của ông ta cũng đã điểm. Ông biết lần nầy chỉ có một mình ông là có thể không phải cứu Miền Nam Việt Nam mà là ngăn cản được chuyện tàn phá thành phố Sài Gòn. Bởi vì Miền Nam Việt Nam hiện chỉ là một thành phố với gần 4 triệu dân cùng một số lớn người dân tỵ nạn mà người ta ngăn cản không cho vào, và các bộ đội cộng sản Bắc Việt thì không còn có cách gì chống lại họ được nữa.

    Tôi đang đọc tờ “Tin Tức Viễn Đông”, một trong những cách giải trí nhất của tôi. Lẫn lộn trong nhiều chuyện đính chánh và tin đồn thất thiệt, tôi khám phá ra một bài được đóng khung của ông Gustave Lê văn Hổ như sau :

    “Những ngày gần đây, nhiều tin đồn quá đáng có thể làm tổn hại đến thanh danh và danh dự của gia đình chúng tôi , liên quan đến những cuộc cướp bóc ở quán Auberge des Roches Noires ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Các nguồn tin nầy được cố ý tung ra do những người xấu miệng. Để trả lời cho những chuyện ngồi lê đôi mách vốn chỉ là những chuyện bẩn thỉu không đàng hoàng đó, nhân danh gia đình chúng tôi, tôi cực lực đính chánh và tuyên bố là không có một vụ cướp trộm nào đã xảy ra ở đây hết. Hiện chúng tôi đang sống như hầu hết anh chị em ở đây trong an ninh hoàn toàn. Mặc dầu những chuyện phá phách như đã nói ở trên, quán chúng tôi vẫn tiếp tục mở cửa và tiếp khách như trong thời gian qua. Vốn là người quân tử, chúng tôi tha thứ hết các luận cứ sai trái đã được đưa ra trong một thời điểm lệch lạc và yêu cầu tác giả của việc đó hãy có một chút lương tri và chính trực để rút các lời nói láo xược được tung ra nhằm làm mất thanh danh gia đình chúng tôi và phá hại cuộc buôn bán của chúng tôi.”

    Ký tên : Lê văn Hổ Gustave, chủ quán “Đá đen”. Vũng Tàu.

    Đây cũng là một trong nhiều chuyện lộn xộn kiểu Việt Nam mà chúng ta cũng nên tìm hiểu bên trong nó là cái gì.

    Xa xa một chút còn có vài hàng như sau :

    “Sáu mươi mốt người đã được di tản khỏi Sài Gòn đi Tân gia Ba sau khi tòa Đại sứ Anh ở Miền Nam Việt Nam tạm đóng cửa”

    Và sau hết là Tử vi cho ngày chúa nhật:

    “ Hãy lên một chương trình và cứ theo đó mà làm. Anh sẽ đi vào một sự lầm lẫn nếu anh nghe quá nhiều người hoặc anh mong muốn làm gấp. Một thay đổi nhỏ ra ngoài nề nếp cũ sẽ có lợi. Đời sống vật chất của anh: anh sẽ ngạc nhiên đôi chút, hoàn cảnh không được rõ lắm. Anh dự trù có những chuyện thay đổi nhưng anh không chắc chắn về hình thức thay đổi. Đường lối chánh trị đúng nhất là cứ sống ngày qua ngày thôi. Đời sống xã hội của anh : anh cố gắng thay đổi chỗ ở. Đừng làm chuyện đó trước lễ Giáng Sinh. Anh phải tổ chức lại đời sống gia đình của mình. Nếu anh chưa cưới vợ, thì hãy sống độc thân một năm nữa.Thật là một điều không hợp lý để kết bạn vĩnh viễn ngay bây giờ. Có một chút căng thẳng trên cương vị cá nhân. Anh có một bài toán phải giải quyết, anh sẽ có giải đáp trước ngày lễ Giáng sinh. Tất cả sẽ được giải quyết nếu anh bình tĩnh và có quyết tâm.”

    Anh Christian Hoche của tờ Figaro và Michel Laurent, nhiếp ảnh viên của thông tấn xã Gamma đến ngồi cùng bàn với chúng tôi . Họ còn trẻ, đầy lòng hăng hái. Họ cười khi nghe tôi đọc mục tử vi.

    Cùng với toán của anh Moscardo thuộc đài truyền hình, họ sẽ đi xem chuyện gì đã xảy ra trên đường đi tử Xuân Lộc đến Trảng Bom. Tôi vẫn còn ngồi chờ toán của chúng tôi . Nếu họ tới thì có lẽ chúng tôi sẽ cũng đi theo hướng đó, vì theo một số tin tức thì cộng sản Bắc Việt đang đánh nhau quyết liệt với anh em tự vệ công giáo.

    Mặt ông thiếu tá có nhiệm vụ cùng đi theo họ thấy tái xanh. Bọn cộng sản Bắc Việt sau hai ngày nghỉ, đã lại tiếp tục mở lại các cuộc tấn công.

    Chúng tôi tưởng rằng Miền Nam Việt Nam còn có 4 sư đoàn chánh quy, một sư đoàn biệt động quân , một sư đoàn Dù và một lữ đoàn thiết giáp . Tất cả khoảng 100 ngàn người phải đối diện với 15 sư đoàn cộng sản đang bao vây Sài Gòn từ ngày 18 tháng 4, cộng với các trung đoàn pháo binh. Nếu tính theo số người thì 100 ngàn người của Miền Nam Việt Nam phải đương đầu với 120 ngàn quân Bắc Việt đang vây hãm họ, Nhìn thoáng qua thì thật tình không tương xứng chút nào. Nhưng quân đội Miền Nam Việt Nam thì đang trong tình trạng lộn xộn, mất tinh thần và được bị mất đi một số cấp chỉ huy và vũ khí nặng.

    Hai anh bạn Hoche và Laurent thuộc toán của anh Moscardo và ông thiếu tá đi trên hai chiếc xe La Dalat, nhỏ hẹp, chỉ có 2 mã lực.

    Tôi và anh Coutard đi xuống bến tàu. Một quả rốc kết 122 ly rơi vào khách sạn Majestic, vốn đã có sân thượng bị phá hư. Tôi được biết là tướng Vanuxem, bạn và cố vấn của ông Thiệu đã ở đó và đang đi tìm một khách sạn khác.

    Ba trái rốc kết khác đã rơi xuống sau nhà ga xe lửa trung ương, làm cháy cả khu vực nầy. Có tất cả 10 người tử thương. Người ta còn nghe nhiều tiếng gầm của đại bác ở xa xa . Pháo binh 155 ly của Mỹ bắn trả lại đại bác 130 ly của Liên Xô.

    Chúng tôi ăn trưa tại Bến Nhà Rồng. Ăn cua rang muối. Chúng tôi đang tìm hiểu xem có một sự bí mật nào mà quân đội của Miền Nam Việt Nam một quân đội hùng mạnh nhất, được trang bị tốt nhất ở Đông Nam Á nầy, lại có một quân chủng Không Quân hùng mạnh… lại bị ngã gục chỉ trong một tháng . Bây giờ họ chỉ còn gom lại để phòng thủ vùng ngoại ô của Sài Gòn sau khi bị mất gần hết lãnh thổ của mình ngoại trừ một vài tỉnh ở phía Nam, mà không biết giờ nào cũng phải mất nốt .

    Và đây là những sự kiện và những con số :

    Ngày 9 tháng 3, sau một thời kỳ tạm lắng chừng 3 tháng, trong lúc chiến dịch tổng tấn công mang tên là chiến dịch Hồ chí Minh mới bắt đầu, thì đây là lực lượng của 2 Bên. Họ suýt soát gần ngang nhau.

    - Miền Nam Việt Nam có khoản 270.000 quân chánh quy, 300.000 địa phương quân, 200.000 dân quân tự vệ (không có giá trị bao nhiêu). Ngoài ra về Không Quân họ có 60.000 (phi công và nhân viên kỹ thuật), và về Hải Quân 40.000. Có cả thảy là 6 sư đoàn Không Quân với cả ngàn phi cơ, trong đó có khoảng 370 loại tiềm kích và bỏ bom, nhưng vì thiếu chăm sóc nên khoảng trên một phần ba đang chờ được sửa chữa.

    Điều thiệt thòi lớn nhất của quân đội nầy là : không có một trừ bị nào, tất cả các đơn vị đều bị dàn ra hết trên trận địa.

    -Bên phía cộng sản Bắc Việt , họ có 24 sư đoàn , mỗi sư đoàn từ 6000 đến 8000 binh sĩ (các sư đoàn của Miền Nam Việt Nam trên nguyên tắc có 12.000 người) và 55 trung đoàn chiến xa biệt lập, pháo binh và hỏa tiễn tùy theo sơ đồ căn bản của quân đội sô viết. Không có Không Quân.

    Tóm lại, quân đội Miền Nam dàn ra 270.000 binh sĩ đối diện với 230.000 quân Bắc Việt và Việt Cộng .

    Các đơn vị xung kích của Miền Nam trên hẳn các đơn vị của Miền Bắc ; bộ binh thì hơi kém hơn về phẩm nhưng họ có vũ khí tốt hơn. Dụng cụ cũng tốt . Các chiến xa sô viết tốt hơn chiến xa của Hoa Kỳ nhưng về phần còn lại, hai bên đều ngang nhau, để bù lại việc chiến xa Miền Nam kém hơn thì họ lại có một lực lượng Không Quân hùng mạnh và một số lớn trực thăng.

    Vào lúc khởi đầu tấn bi kịch thì quả là hai bên ngang nhau. Cũng không hẳn là như vậy. Bộ chỉ huy tối cao của Miền Nam Việt Nam không có ai hết trong khi phía địch thì trái lại, các cấp chỉ huy là những tay thiện chiến hiểu biết rành rẽ những lời giáo huấn của Clausewitz, của Mao trạch Đông và của bậc Thầy của ông nầy là Tôn Tử. Họ có một quá khứ, một kinh nghiệm lâu năm về chiến tranh và một Tổng tư Lệnh có uy tín là Võ nguyên Giáp, mặc dù ông nầy đau yếu và mệt mỏi nhưng luôn luôn vẫn là nguồn khích lệ của quân đội .

    Ở Miền Nam không có Bộ Tham Mưu. Ông Thiệu đã bỏ nó đi rồi, vì sợ bị tạo phản.Việc thăng thưởng của hàng tướng lãnh được thi hành vì lợi lộc, hay vì tiền bạc. Đâu đâu cũng có gia đình trị. Chiến lược của ông Thiệu rất là giản dị : Giữ tất cả lãnh thổ để không cho CPLTCHMN có mảnh đất nào từ đó thành lập được chính phủ. Một chiến lược như vậy phải hao tốn rất nhiều binh sĩ.

    Lực lượng địa phương quân ở Miền Nam không có phẩm lượng tốt để giữ vai trò đó, và các Tư Lệnh Khu hay ở địa phương thường dùng lực lượng địa phương quân để chiếm đất, nên vì đó mà họ không có lực lượng trừ bị. Các đơn vị chánh quy thì được dùng vào nhữngviệc lớn hơn và được xử dụng như sen đầm. Họ giữ cầu, giữ đường, và các đèo, các thành phố . Trái lại quân Bắc Việt có thể vận hành theo ý muốn và tập trung lại rất dể dàng.Chỗ nào quân cộng sản cũng tấn công, còn quân Miền Nam thì phải ở thế phòng thủ .

    Từ năm 1972, quân đội Miền Nam đóng ở các căn cứ và không nhúc nhích, cả Thủy quân lục chiến và biệt động quân cũng vậy. Chỉ trừ các đơn vị Dù, còn các đơn vị khác thì ở tình trạng không hoạt động. Họ đóng quân luôn trong 3 tháng không thay đổi vị trí. Cả gia đình họ đến, vợ con và cả ông bà nữa.

    Trong một quân đội đi giật lùi đầy thành lũy như thế, người ta dùng thì giờ lo chăn nuôi, họ nuôi heo, nuôi gà vịt, hoặc lo trồng trọt, buôn bán, gát qua một bên mọi hoạt động quân sự được xem là khổ cực: thao dượt, tu bổ thành lũy… Làm như người Mỹ vẫn còn ở đó sẳn sàng can thiệp nếu có gì quá xấu xảy ra.

  2. #2
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st

    Chương 3

    Phần 2



    Mục tiêu đầu tiên của chiến dịch tổng tấn công của cộng sản Bắc Việt là cô lập Vùng Cao Nguyên Trung Phần, từ vùng Ban Mê Thuột , sau đó chiếm Kontum và Pleiku. Khi Miền Nam Việt Nam bị cắt đứt thành 2 đoạn rồi thì họ sẽ đánh chiếm Đà Nẵng và Huế. Nhưng chỉ vào khoảng tháng 10. Nếu thành công trong giai đoạn đầu nầy thì các tướng lãnh Hà Nội dự trù sẽ đợi cho đến hết mùa mưa mới tiếp tục bao vây Sài Gòn trong năm tới. Họ chỉ hy vọng chiếm được Sài Gòn vào tháng 5 năm 1976, nếu mọi việc đều diễn tiến tốt đẹp suông sẻ đúng theo kế hoạch đã dự tính.

    Hồi Tết Mậu Thân 1968, họ đã ước tính tình hình quá lạc quan, nhưng lần nầy thì họ lại ước tính bi quan hơn.

    Ngày 9 tháng 3, Việt Cộng cắt dứt các trục giao thông chính: quốc lộ 19 từ Qui Nhơn đến Pleiku, quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang. Trong đêm 9 tháng 3 đến ngày 10 tháng 3 họ tấn công vào Ban mê Thuột. Họ hơn hẳn về quân số: 6 sư đoàn quân Bắc Việt đối với 3 sư đoàn (cho cả vùng Cao Nguyên), và đối với 1 sư đoàn Nam Việt (tại Ban mê Thuột).

    Chính trong bối cảnh nầy đã xảy ra vụ ám sát anh Paul Léandri, nhân vật số 2 của Thông tấn xã A.F.P tại Sài Gòn .

    Ở Sài Gòn người ta chỉ biết Ban mê Thuột bị Bắc Việt tấn công và chiếm giữ vào ngày 12 tháng 3. Người ta không biết được chi tiết. Anh Léandri cho ra ngay một bản tin như sau:

    “Một vị linh mục Việt Nam là nhân chứng, thấy tận mắt những trận đánh ở Ban mê Thuột đã xác nhận với thông tấn xã A.F.P. ngày thứ tư rằng trận tấn công vào thành phố đêm chúa nhật rạng ngày thứ hai là do người Thượng tự xưng là F.U.L.R.O. (Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées : Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Các Dân Tộc bị Áp Bức ) và những đơn vị Việt Cộng thuộc MTGPMN. Vị linh mục đã trốn thoát được khỏi thành phố ngày thứ ba, đã báo là khi các trận đánh bắt đầu hồi 3 giờ sáng, thì dân chúng vẫn tưởng là bọn FULRO gồm toàn người Thượng đã đứng dậy chống chánh quyền địa phương một lần nữa, như vào hai năm trước lá 1963 và 1964 . Nên dân chúng (70 % là đồng bào Thượng) hoàn toàn không sợ hãi lúc ban đầu. Nhưng đến sáng ra, theo sau các toán nhỏ FULRO là cán binh Việt Cộng có chiến xa yểm trợ . Theo các nhà truyền giáo thì không có bộ đội Bắc Việt, mà hoàn toàn chỉ có FULRO và các trung đoàn địa phương Việt Cộng . Dân chúng bắt đầu muốn chạy vào rừng lân cận. Có một số chạy thoát, và một số bị chết vì bị bắn. Tiếng súng bắn càng ngày càng nhiều do đó nhiều gia đình đóng cửa ở trong nhà dùng bàn ghế làm nơi trú ẩn. Kể từ lúc đó, chiến trận mới thật sự bắt đầu, lúc đó khoảng 10 giờ sáng. Theo lời của vị linh mục thì các nhà thờ đều bị thiệt hại do đạn đại bác, nhà dân chúng cũng vậy. Trong khi đó thì các vườn cao su ở chung quanh Ban mê Thuột thì vẫn yên tĩnh vì linh mục chạy xuyên qua các vườn cao su để đến một cái đồn gần đó. Và ông xác nhận là trên thực tế thì lúc đó chiến trận chỉ đang xảy ra trong thành phố mà thôi. Ở vùng Cao Nguyên nầy, linh mục nói, chiến thuật của cộng sản là bao vây kinh tế toàn vùng bằng cách phong tỏa hết các trục giao thông chính dẫn vào các thành phố lớn như Kontum, Pleiku để cô lập các thành phố nầy. Vào lúc cuộc tấn công vào thành phố Ban mê Thuột vừa mới bắt đầu, có một số quan sát viên đã đề cao sự hiện diện và sự gia tăng hoạt động của các nhóm võ trang tự xưng là F.U.L.R.O. Phong trào nầy đã ly khai trong 4 năm rồi trước khi trở về với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 tháng giêng năm 1969. Và chánh thức mà nói thì phong trào F.U.L.R.O. nầy không còn nữa. Một bản tuyên bố của chính phủ hồi tháng 11 vừa qua đã cho biết đó chỉ còn là một nhóm cướp bóc nhỏ mà thôi. Dù muốn dù không trong khi chờ đợi các nhân chứng khác thì hình như chắc chắn là những toán võ trang đầu tiên vào thành phố Ban mê Thuột là người thượng. Đó là những toán võ trang đã mở đường cho cộng sản địa phương người Việt Nam .Còn bộ đội Bắc Việt thì theo nhân chứng nầy thật sự không thấy có mặt.”

    Bản tin nầy hoàn toàn không đúng với sự thật, và nó đưa đến cái chết của anh Léandri thuộc thông tấn xã A.F.P. Anh ta sẽ mất mạng, trong cương vị một người rất yêu và tôn trọng sự thật, mất mạng vì những tin tức không đúng sự thật. Anh ta tự hại mình.

    Vị linh mục người Việt Nam bị đầu độc vì sự tuyên truyền chống người thượng , mà theo lời của linh mục Blanchetti một trong những người chứng rất hiếm về sự tuyên truyền ở Cao Nguyên nầy từ tháng 8 năm 1974, vị linh mục Việt Nam nầy đã bịa đặt ra hoàn toàn lịch sử của nhóm F.U.L.R.O.

    Hoàn toàn không có gì được gọi là một sự giải phóng mà thật sự chính là một hành động tấn công chiếm thành phố . Và cũng không có một người F.U.L.R.O. nào hết, mà chỉ là những phần tử cộng sản địa phương, nhưng chủ lực là sư đoàn 320 của Bắc Việt, một sư đoàn nổi tiếng ở mặt trận Điện biên Phủ ,với những chiến xa , pháo binh, và vũ khí tối tân của sư đoàn . Độc địa hơn nữa, cũng theo lời của linh mục Blanchetti nầy, tất cả mọi người ai ai cũng biết về trận tấn công sắp xảy ra nầy. Kể cả một cơ quan dân sự vụ người Mỹ, một nhóm quan sát viên nhỏ chuyên cung cấp tin tức cho tòa đại sứ Hoa Kỳ. mà theo từ ngữ quân sự là nhóm tình báo. Có những đồng bào Thượng đã đến báo cho người Mỹ và chánh quyền địa phương là đang có những chuyện gì lạ lạ ở trong rừng. Họ đã thấy được từ hơn 12 cây số những chiến xa lớn đang tiến theo các đường mòn của những người thợ rừng. Và đàng sau các chiến xa là cả một sư đoàn Bắc Việt đang tập trung cho cuộc tấn công. Vị trí của đồng bào Thượng rất là đơn giản. Họ không theo Bắc Việt mà cũng không theo Miền Nam mà chỉ muốn sống chung giữa họ mà thôi. Nhưng ngược lại thật ra cũng có một vài phần tử đã được dùng để dẫn đường cho quân đội Bắc Việt.

    Vào ngày chúa nhật 9 tháng 3, các chiến xa Bắc Việt đã tập trung tại tuyến xuất phát ở cách thành phố chừng vài cây số.Nhưng không thấy ai có phản ứng gì cả. Bất động hay phản bội, hay vô ý thức ?

    Có 1 trung đoàn bộ binh và một vài tiểu đoàn biệt động quân trấn giữ Ban mê Thuột . Vào hồi 3 giờ sáng, pháo binh Bắc Việt nã liên hồi vào thành phố, kéo dài cho đến 7 giờ sáng. Linh mục Blanchetti là người duy nhất thoát khỏi bàn tay cộng sản . Tối hôm đó ông bận đi làm lễ trong một làng xa..

    Lúc 7 giờ sáng, các chiến xa tiến vào thành phố . Người ta đánh nhau hai tiếng đồng hồ ở phi trường. Hậu cứ của sư đoàn 23 bộ binh bị tràn ngập và giới chánh quyền trong tỉnh bỏ chạy hết, giống như các nơi khác. Họ chỉ ở đó để làm tiền, không phải để chiến đấu, hơn thế nữa là không phải để chết tại đó. Người chỉ huy quân sự Vùng 2 Chiến Thuật là tướng Phú, một quân nhân rất tốt đã có tuổi, bị bỏ rơi vì không phải là người trong tổ chức mưu mô của chánh quyền. Đươc đánh giá là vô hại trên phương diện chánh trị và là một quân nhân tốt nên người ta mới giao cho ông trấn giữ vùng Cao Nguyên với một quân số quá thiếu. Tướng Phú yếu đuối vì bệnh hoạn nên không lanh trí và không có khả năng chứng tỏ được nét đặc thù của mình. Hai trung đoàn bộ binh có nhiệm vụ phòng thủ Kontum và Pleiku đã được người ta lấy đi và thay thế bằng biệt động quân . Nhưng họ không mang theo các chiến xa và pháo binh của họ vốn là sức mạnh của mình.

    Đổng bào Thượng thì lo chạy vào rừng, đó là nơi ẩn náo cố hữu của họ. Còn dân chúng phần đông là gia đình các quân nhân thì cũng chạy trốn, gần 25 ngàn phụ nữ và người già đến trà trộn với binh sĩ thuộc sư đoàn 23 bộ binh đang cố tập trung lại bên ngoài Ban mê Thuột, khoảng 30 cây số về phía Tây của thành phố

    Đây không còn gì gọi là một quân đội nữa, mà là một đàn cừu . Không tìm thấy được một cấp chỉ huy nào trong lúc quân đội Bắc Việt đang bao vây họ. Người ta gọi không quân yểm trợ. Nhưng các phi công đều biết là Bắc Việt có một đội phòng không hùng mạnh ; đại bác 40 ly tự động, súng liên thanh nặng với tốc độ tác xạ nhanh và nhất là hỏa tiễn địa không SAM. Vì thế họ sợ nên thay vì họ yễm trợ trực tiếp ngay chiến trường thì họ lại bay cao khoảng 3000 bộ để thả bom xuống trúng trật không cần biết, do đó sự yểm trợ của họ không hữu hiệu gì hết.

    Thành phố được các nhóm quân nhân do trực thăng đổ xuống chiếm lại, nhưng rồi sau đó lại bị mất .

    Những sự kiện mà anh bạn Paul Léandri đã đem đến quả là rất xa xôi đối với chúng ta nhưng ít nhất anh ta cũng phải được tuyên dương vì đã dám loan tin là tỉnh Ban mê Thuột đã rơi vào tay cộng sản Bắc Việt.

    Hai ngày sau khi bản tin của anh được gởi đi, tức là vào ngày thứ sáu 14 tháng 3, anh Léandri tiếp ngay tại văn phòng của anh, ông thiếu tá Mai, xử lý thường vụ giám đốc sở Nhập Cư, nơi cấp chiếu khán nhập cư, và sau đó là thiếu tá Bắc cùng sở với thiếu tá Mai. Hai người nầy vừa hăm dọa trục xuất anh Léandri vừa muốn biết tên của vị linh mục Việt Nam kia. Đối với họ, không phải chuyện Ban mê Thuột thất thủ là điều quan trọng mà chỉ là chuyện phong trào F.U.L.R.O. đã có tham gia vào cuộc tấn công nầy. Anh Léandri trả lời là anh quá bận chỉ có thể rảnh vào lúc 18 giờ chiều mà thôi.

    Và đây là luận điệu chánh thức về cái chết của anh. Luận điệu nầy cũng hoàn toàn không đúng, cũng như bản tin của nhà báo:

    “Vào lúc 18 giờ, anh Léandri rời khỏi văn phòng của thông tấn xã A.F.P. nhưng anh cũng đã rất thận trọng gọi báo cho các đồng nghiệp của mình biết là anh bị đòi tới sở Nhập Cư. Anh có vẻ rất là nóng nảy, bồn chồn. Đã từ lâu rồi ờ Việt Nam anh Léandri đã bị khó chịu về thời tiết và hàng ngàn sự phiền toái dành cho các nhà báo làm việc ở Sài Gòn . Trong lúc anh Léandri vào văn phòng Nhập Cư / Tổng Nha Cảnh sát , thì người tài xế của anh đi tới đi lui cạnh chiếc xe của mình, đậu ngay cửa vào sở.

    Vào khoảng từ 19 giờ đến 19 giờ 30 từ văn phòng Nhập Cư đã gọi một loạt điện thoại về Thông tấn xã, để báo tin cho vợ là anh sẽ về trễ, và cho Đại sứ Mérillon ở tòa đại sứ Pháp để báo là anh đang ở sở Nhập Cư, phòng 3018, và báo cho thông tấn xã A.F. P. một lần nữa là anh đang bị giam giữ. Người ta đang đe dọa giữ anh lại suốt đêm để sáng hôm sau trục xuất anh bằng chuyến phi cơ đầu tiên. Tuy nhiên ông De Beauvais, tổng lãnh sự Pháp đã cố gắng thử điện thoại cho sở Nhập Cư, và đã gởi một cộng sự viên của mình là ông Morgan đến ngay tại chỗ. Ông Morgan đã gặp thiếu tá Mai và anh Léandri ở sân của sở Nhập Cư. Anh Léandri phàn nàn là anh đang bị nhốt và anh yêu cầu sự can thiệp tức khắc của ông tổng lãnh sự. Do vậy ông Morgan phải đi tìm ông Beauvais.

    Khoảng hơn 8 giờ thì một nhân viên mặc thường phục gọi anh tài xế Hưng bảo anh nầy dời chiếc xe qua bãi đậu xe bên cạnh, phía trước tổng nha cảnh sát . Phía bên kia đường là Nha Công An, ở đó có các đơn vị cảnh sát dã chiến dĩ nhiên có thành tích không tốt lắm.

    Ông Tổng lãnh sự Pháp đến sở Nhập Cư , lần nầy cùng đi với ông Morgan. Sĩ quan trực báo cho 2 ông biết là ông Léandri đã lên xe của ông và đã đi rồi. Điều nầy hoàn toàn không đúng.

    Khi thấy họ ra dấu với nhau hơi lạ, ông Morgan biết là ông Léandrei không có đi về nhà anh ta mà hình như là qua bên công an. Ông Tổng lãnh sự và ông Morgan yêu cầu được liên lạc với trung tá Phan Kim hay thiếu tá Mai hay bất cứ với một sĩ quan nào khác ở đây. Vô ích. Về đến tòa lãnh sự quán, ông tổng lảnh sự mới biết là anh Léandri không có về nhà.

    Vào lúc 22 giờ ông tổng lãnh sự được báo là anh Léandri đã bị bắn chết vì đã cố chạy trốn. Và đó là luận cứ chánh thức về cái chết của anh ta : Tất cả đều sai hết:

    Sự thật là : anh Léandri không phải bị bắn chết trên xe của anh. Họ dàn dựng hết sau khi bắn chết anh Léandri. Họ đặt xác chết của anh vào ghế tài xế trong xe của anh và sau đó họ bắn vào xe, nhưng lần nầy họ bắn bằng súng M16. và họ đẩy xe anh húc vào tường.



    Cũng vào ngày hôm đó, ông Thiệu sẽ lấy quyết định cho rút hết toàn bộ ra khỏi Cao Nguyên Trung Phần. Người ta kể lại là anh Léandri bị giết vì anh đã được biết trước về kế hoạch lui quân nầy: nhưng đó là hoàn toàn không đúng..

    Người ta còn cho biết là anh đã tiết lộ kế hoạch nầy ra; hoàn toàn sai. Anh có bao giờ ra khỏi Sài Gòn đâu vì anh bận việc túi bụi ở văn phòng của anh. Và anh cũng cố gắng tìm hiểu tin tức tới đâu hay tới đó vậy.

    Cái chết của anh đã làm cho không khí nặng nề thêm với những diễn biến của tình hình kế tiếp. Tất cả đều phi lý , không hiểu nổi và hết sức điên rồ, và không thể đào đâu ra sự thật được . Chúng tôi sẽ còn gặp lại hai sĩ quan cảnh sát nầy là ông Kim và ông Mai và một lần nữa trong những hoàn cảnh hết sức lạ lùng.

    Ngày thứ sáu 14 tháng 3, ông Thiệu về Phan Rang đến thăm ngôi mộ tổ tiên của nhà ông hình như bị sét đánh, và sau đó rời Phan Rang đi ra Cam Ranh, từ đó ông ra lệnh cho tướng Phú đến gặp ông ở đây. Trong lúc ông nầy đang lâm trận và vừa chiếm lại được Ban mê Thuột .

    Không tham khảo ý kiến của bất cứ một người nào, ông cho lệnh rút quân. Nhưng còn có ai nữa đâu mà tham khảo ? Ông đâu còn có Bộ Tham Mưu nào nữa đâu ?, vì trong nhiều năm qua ông trực tiếp chỉ huy các tướng lãnh của ông. Vì tánh đa nghi và cũng vì sợ nữa.

    Trong hồ sơ của các cố vấn Mỹ, đã có một kế hoạch dự trù rút hết toàn bộ các đơn vị về Nam Kỳ (nguyên tác :Cochinchine), nếu áp lực cộng sản quá mạnh và nếu vì lý do ngân sách hay chiến thuật mà không còn đủ khả năng giữ toàn bộ lãnh thổ. Nhưng kế hoạch nầy dù sao cũng chỉ còn là một dự án mà thôi.

    Ông Thiệu chỉ lăm lăm lo nhìn về phía Hoa Kỳ và ông không biết những gì đang xảy ra trong đất nước của ông. Ông xa rời tất cả thực tế. Một cuộc rút quân toàn bộ như vậy đòi hỏi cả ngàn sự thận trọng. Phải chuẩn bị thật là tỷ mỷ. Đâu có phải chỉ cho một cái lệnh là đủ mà phải đi vào tất cả các chi tiết. Thí dụ như trước tiên cần phải di tản hết tất cả gia đình của quân nhân các cấp, tiếp theo là các phòng sở để chỉ còn lại toàn là các đơn vị chiến đấu mà thôi. Và các đơn vị nầy cũng phải được rút đi từng chặng, từng tuyến một, rất là thận trọng, theo từng thời khắc biểu.v.v.. Một cuộc hành quân như thế đòi hỏi phải có thì giờ và phương tiện, và nhất là phải giữ độ “mật” cao tối đa, và hoàn toàn, một điều nà người ta quên hết hay không cần biết đến nữa ở Miền Nam Việt Nam, vì coi như tất cả mọi người đều biết, và biết hết mọi việc, hay còn biết hơn thế nữa là khác. Một cuộc rút quân như thế cần phải được thực hiện bằng đường biển, đường bộ và cả bằng đường hàng không, điều nầy đòi hỏi một sự phối hợp thật chặt chẽ của tất cả mọi phương tiện…….

    Vào lúc ông Thiệu lấy quyết định nầy, các trục giao thông từ vùng Cao Nguyên dẫn xuống đồng bằng hay xuống bờ biển đều bị cắt đứt hết, như các quốc lộ 17, 21 và cả đường Dalat nữa. Người ta chỉ còn xử dụng không quân mà thôi, nhưng không quân thì hoàn toàn không đủ cho một cuộc di tản như thế.

    Ông Thiệu ra lệnh cho tướng Phú là phải về vùng duyên hải với tất cả các đơn vị của ông, di tản cả Kontum và Pleiku trong lúc họ đang còn giữ và có thể giữ được mãi mãi, nhất là Pleiku vốn là một căn cứ rất quan trọng.

    Tướng Phú coi như là một người đã mất hết không còn gì nữa. coi như ông mất hồn, không còn thấy xương sống mình ở đâu nữa. Ông cũng không còn thiết tha gì đến chuyện bàn cãi về cái lệnh trớ trêu nầy, một cái lệnh lui quân chỉ có một mục đích duy nhất là gây sự chú ý cho người Mỹ vốn chẳng cần muốn biết và cũng chẳng còn muốn nghe tới hai chữ Việt Nam nữa . Vì đây chỉ lấy sự rút Cao Nguyên để dọa người Mỹ mà thôi !

    Tướng Phú bắt đầu chuyển bản doanh về Nha Trang và sau đó ông chuyển giao quyền chỉ huy lãnh thổ lại cho một trong những người phụ tá của ông là một ông đại tá biệt động quân , một ông Tất nào đó mà người ta cho thăng cấp chuẩn tướng trong dịp nầy. Chính ông nầy mới lo tổ chức cuộc rút quân.

    Biệt động quân được thành lập cho trận chiến lưu động, cho đặc công, cho đột kích, và ông đại tá nầy chỉ có làm như vậy thôi . Ông không có học tham mưu bao giờ. Ở đây là chỗ cần phải có một ông tướng thật sự, một ông tướng biết tất cả mọi sự tinh tế của loại hành quân nầy. Người ta lại chỉ định một người chỉ huy, nói là có can đảm thì cũng có can đảm thật đấy, nhưng ông không có được một ý kiến nào, một kế hoạch nào để mà thi hành cái lệnh nầy. và ông cũng mù tịt về phương tiện mà ông cần phải có nữa.

    Hiện ò tại Pleiku là thủ đô của vùng Cao Nguyên còn có 5 liên đoàn biệt động quân 1 lữ đoàn thiết giáp và tất cả cơ giới của sư đoàn 23 bộ binh , tất cả các đơn vị địa phương quân và cả một hệ thống tiếp vận của căn cứ quan trọng nầy vốn là căn cứ của một sư đoàn Không quân nữa.

    Khi lệnh lui quân được “biết” (khác với ban hành), thì cả cái thế giới tốt đẹp ở đây chạy hết trong một sự vô trật tự quá kinh hồn.. Mạnh ai nấy chạy để tự cứu lấy mình trong khi ngay tại chỗ chưa có một sự đe dọa nào ! Một đoàn gồm nhiều ngàn chiếc xe đổ về quốc lộ 7 về hướng Qui Nhơn, không còn lối chen chơn làm nghẽn hết lối đi về bờ biển. Lẫn lộn hết nào là xe của thường dân, quân xa, xe kéo pháo binh, xe chở heo, gà vịt, xe của người Hoa và xe thiết giáp , xe của công chức, của cảnh sát , chở gia đình ông bà cha mẹ vợ con và cả một lũ trẻ con nheo nhóc….

    Thật là một cơ hội bằng vàng cho bọn cộng sản Bắc Việt . Các đơn vị của sư đoàn 320 cắt ngay đoàn xe : 3000 chiếc xe và gần như toàn bộ chiến cụ mất hết.. Người ta thấy một lữ đoàn thiết giáp bị dừng ngay trước một con sông nhỏ, nằm cả 2 ngày để chờ các toán công binh có nhiệm vụ bắc một cây cầu. Trong khi ở gần đó có một chỗ cạn qua được mà không một ai chú ý tới. Khi quân cộng sản Bắc Việt tới thì binh sĩ bỏ xe chạy hết, không chiến đấu. Không còn một cái gì nữa của sư đoàn 23 bộ binh vốn coi như bị tan rã hoàn toàn, cả quân đồn trú của Kontum và Pleiku cũng không còn gì. Có đánh nhau đâu mà đã thua rồi !

    Trước tầm mức của thảm họa, ông Thiệu vẫn đơn phương quyết định là cho rút hết 3 lữ đoàn Dù đang phòng thủ ở Huế về, để tăng cường cho Sài Gòn . Đồng thời ông hô hào là ông vẫn cho trấn giữ cố đô Huế .

    Sau cùng ông lại có một ý kiến : triệt thoái toàn bộ quân đội ra khỏi tỉnh Quảng Trị một tỉnh nằm ngay phía Nam của vĩ tuyến 17, ranh giới giữa hai Miền Nam Bắc. Và ông dùng 1 sư đoàn Thủy quân lục chiến gồm 4 lữ đoàn đó, vốn đang có trách nhiệm phòng thủ Quảng Trị, lui về thay thế cho sư đoàn Dù để phòng thủ cố đô Huế. Nhưng sư đoàn Thủy quân lục chiến đó, thay vì được dùng như một lực lượng lưu động lại bị xé nhỏ ra nằm trấn giữ ở đây đã 3 năm rồi, bất động, không có một cuộc hành quân nào hết . Hậu quả là sư đoàn đã trở nên quá nặng nề : tất cả gia đình binh sĩ được cho đến ở với sư đoàn và người ta ai cũng biết là gia đình binh sĩ của Việt Nam là cái gì rồi .

    Khi nhận được lệnh di chuyển rời khỏi vùng đang trấn giữ, cả 100 ngàn người trong một sự lộn xộn không tả được đã đi về Huế, các binh sĩ bị dân chúng tràn ngập, lẫn lộn. Cộng sản Bắc Việt vui sướng tha hồ bắn bừa vào đoàn người trên, không tiếc đạn. Chỉ có một số binh sĩ nào đó quá mệt mỏi coi như đã tự cứu được mình là về đến được bờ biển.

    Một anh trung úy đã thuật lại với tôi câu chuyện của anh ta : " ông tướng thì bay đi trước rồi, kế đó là các đại tá cũng bằng trực thăng. Bây giờ thỉ còn lại các đại úy và trung úy và các binh sĩ vốn phải lo cho gia đình họ nên không còn ai chỉ huy họ được nữa…

    Tất cả tỉnh đều chạy hết về phía Nam. Có khoảng nửa triệu người trên đường. Người ta chết vì đói, vì khát. Cướp bóc và hiếp dâm.. người nào có được khẩu súng trong tay thì dùng nó để vạch lối mà đi. Tất cả đều nhằm tiến tới Đà Nẵng .

    Người ta muốn giải thích trong các trại cộng sản cuộc chạy trốn của cả dân chúng vì họ sợ bom đạn. Mà ai có thể bỏ bom ? Người Mỹ chăng ? Không có vấn đề đó . Người Miền Nam chăng ? Cũng không, vì Không quân của họ đang trên đường tan rã rồi. Tất cả dân chúng trốn chạy vì quá sợ người Miền Bắc và Việt Cộng vì vẫn còn hình ảnh quá kinh khủng từ năm 1971 trong các cuộc tàn sát họ không một chút nương tay, trên cái gọi là “đại lộ kinh hoàng”….

    Dòng người tỵ nạn càng ngày càng đông càng lớn ra như một dòng sông bị lũ lụt, kéo theo tất cả mọi thứ trên đường đi qua. kể cả các đơn vị nào còn có ý muốn ở lại để lo phòng chống ….

    Ngày 26 tháng 3, quốc lộ 1. một quốc lộ huyết mạch chính dọc theo bờ biển bị cắt đứt. Cố đô Huế không đánh mà bị thất thủ, một thành phố đã có nhiều ngàn người chết vào năm 1968.

    Cuộc rút lui đã biến thành một cuộc tháo chạy toàn diện, mạnh ai nấy chạy. Thành phố Đà Nẵng với trên 391 ngàn dân lại có thêm nửa triệu người tỵ nạn nữa .

    Ngày 28, bọn cộng sản Bắc Việt cho người mang cờ Phật Giáo đi đầu tràn vào căn cứ. Trong một tiếng đồng hồ, người ta không thấy có một sự chiến đấu nào để chống giữ căn cứ Không quân lớn nhất vào thời người Mỹ còn ở đây. Lực lượng Không quân đã đi hết trong cơn tai biến nầy, để lại tại chỗ tất cả dụng cụ và một số phi cơ đáng kể.

    Hiện tượng hoảng sợ được thể hiện rõ nét đến cái độ mà bọn cộng sản Bắc Việt với súng đeo trên vai, đã vào chiếm các căn cứ vốn được phòng thủ thật chặt chẽ như Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, những căn cứ đã có phương tiên tiếp vận, lương thực, súng ống đạn dược và quân số đầy đủ để trấn giữ ít nhất trong thời gian một năm, dù có bị lực lượng hùng mạnh cách mấy bao vây. Và hơn thế nữa các căn cứ nầy lại do lực lượng ưu tú nhất của quân đội Miền Nam trấn giữ, như sư đoàn 1 bộ binh chẳng hạn.

    Cuộc di tản của Đà Nẵng bằng không lực Hoa Kỳ và các chuyến bay sau cùng của những chiếc phi cơ, và trực thăng đã cho thấy được những cảnh tượng thật hãi hùng . Như có những chùm người đeo các bánh xe của chiếc phi cơ đang cất cánh, những bàn tay mà người ta phải dùng đến báng súng để đập nát ra họ mới chịu buông , và những thây của trẻ nít đầy máu… Bởi vì cộng sản Bắc Việt đang bắn vào các đoàn người tỵ nạn bằng đủ mọi loại đạn kề cả đại bác… để gây thêm kinh hoàng và hỗn loạn.

    Ông Thiệu mất hết sự bình tĩnh. Ông gởi từ Sài Gòn ra Nha Trang một lữ đoàn Dù để tăng cường phòng thủ thành phố nầy, nhưng rồi ông quên khuấy đi mất trong lúc lữ đoàn nầy đang phản công rất có kết quả. Lữ đoàn vì thế mất hết phân nửa quân số. Nha Trang mất ngày 4 tháng 4

    Và lúc đó ông quyết định giữ chặt lấy Phan Rang và căn cứ lớn nhất ở đó. Ông lại mất hết một lữ đoàn Dù nữa ở đây.

    Bộ Tham Mưu Bắc Việt đầu tiên bị sửng sốt về chuyện tan rã nhanh chóng của quân đội Miền Nam nên họ thay đổi ngay ý định . Họ quyết định phải dứt điểm bằng một phát súng ân huệ cuối cùng . Họ bỏ hết kế hoạch từ trước và điều động vào Miền Nam tất cả các sư đoàn trừ bị, chỉ để lại Hà Nội một sư đoàn duy nhất. Tất cả đều đổ xô vào ngay Miền Nam.

    Phan Rang mất ngày 16 tháng 4. Phan Thiết ngày 20 tháng 4 và Hàm Tân ngày 22 tháng 4. Nhưng tại Xuân Lộc thì cộng sản bị sư đoàn 18 bộ binh chận đứng. Họ kiên trì tấn công quyết liệt để nhổ cho bằng được cái chốt nầy, vốn là lực lượng phòng thủ cuối cùng của Sài Gòn . Nhưng vô hiệu. Do đó họ quyết định phải đánh bọc sườn, đi vòng. Và lúc bấy giờ lực lượng Miền Nam mới xử dụng loại bom đạc biệt C.B.U., một loại bom hút hết dưỡng khí, làm cho lực lượng tấn công của cộng sản Bắc Việt chết hàng loạt cả ngàn người.

    Lực lượng cộng sản Bắc Việt hiện có khoảng 120,000 bộ đội chánh quy để thực hiện cuộc tấn công vào thủ đô của Miền Nam trong số nầy có một số sư đoàn chưa bao giờ tham chiến, tất cả 90 % và 95 % đều là người Việt Nam từ Miền Bắc vào.



    Nguyên nhân của cuộc bại trận nầy là do : thiếu sự chỉ huy trong quân đội và phải nói thêm là từ quân nhân cho đến dân chúng đều quá mệt mỏi với cuộc chiến kéo dài quá lâu không kết thúc mà họ phải đơn độc gánh vác một mình, không có sự hỗ trợ của đồng minh Hoa Kỳ vốn đã bỏ rơi họ, trong khi đó thì phía cộng sản Bắc Việt thì luôn luôn có sự tăng cường tiếp tay không ngừng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em .

    Trong khi quân đội đang trên con đường bị tan rã thì ông Thiệu lại biến mất. Ông trốn tránh, và người ta còn tự hỏi không biết có phải ông ta đã tự sát rồi hay sao ? Rồi bất thình lình ông lại tái xuất hiện trên truyền hình ngày 4 tháng 4 như một bóng ma. Với một giọng đơn điệu, với một gương mặt không thấy có một vẻ gì tuyệt vọng hay hoảng hốt, ông tuyên bố là ông đã quyết định giữ chặt phần lãnh thổ còn lại của nước Việt Nam, và ông còn hy vọng là một ngày nào đó ông sẽ chiếm lại các tỉnh bị mất nữa. Ông đính chánh là không có một thỏa hiệp ngầm nào giữa chính phủ của ông với kẻ thù cộng sản Miền Bắc , và cũng không có một cuộc dàn xếp nào giữa các siêu cường để dâng miền Cao Nguyên cho cộng sản . Thái độ lạ lùng của ông một lúc nào đó đã làm cho ai cũng tin . Ông tái xác nhận sự quyết tâm của ông là không bao giờ chấp nhận một chính phủ liên hiệp với cộng sản .

    Trước sự thảm bại hoàn toàn, ông từ chối không công nhận Hiệp Định Ba Lê mà ông đã ký, một Hiệp Định mà bên nào cũng vi phạm, nhất là phía Bắc Việt vì họ đã lợi dụng các điều khoản trong đó để mang toàn bộ quân đội xuống Miền Nam gồm trên 20 sư đoàn chánh quy, 600 chiến xa và hàng ngàn khẩu đại bác đủ loại.

    Nhưng cộng sản nhờ sự tuyên truyền, qua các bạn bè xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới, đã có thể tự biến họ từ những kẻ xăm lược thành những nạn nhân và viện dẫn những nguyên tắc thánh thiện của pháp lý, trong lúc họ chẳng có thực hiện bao giờ.

    Ông Thiệu bướng bỉnh trong cơn mộng du của ông ta. Ông nhắc đi nhắc lại rằng: "một ngày nào đó chúng ta sẽ chiếm lại lãnh thổ của chúng ta đã mất, dù chuyện đó có phải tốn nhiều năm nữa.”

    Ông ta giải thích về cuộc thảm bại. Dĩ nhiên là ông ta không có dự phần trong đó.Tất cả là do tinh thần chủ bại, do sự thiếu can đảm và thiếu quyết tâm của một vài cấp chỉ huy đơn vị.

    - “Những sự bất lực đó sẽ bị trừng trị nghiêm khắc và các đơn vị đã chiến đấu anh dũng sẽ được tưởng thưởng thật xứng đáng…”

    Ông vua thì không có gì, và không ai dám nói gì với vua hết.

    Và ông lại tiếp tục:

    -“Để chiến đấu, chúng ta có quân số cần thiết. Chúng ta đang tái tổ chức một số đơn vị. Chúng ta đang thành lập một số đơn vị khác lớn hơn. Chúng ta có viện trợ quân sự quan trọng .”

    Ông Thiệu luôn luôn tin vào một sự can thiệp của Hoa Kỳ và tin là Tổng Thống Ford phải giữ lời mật ước của Nixon. Ông nói:

    - “ Dân chúng Hoa Kỳ và Quốc Hội Hoa Kỳ phải thực hiện những gì cần phải làm để dân chúng Việt Nam không nghĩ rằng các người đồng minh của họ đã bỏ rơi họ.”

    Và bất thình lình ông nói toẹt ra ý nghĩ thầm kín của ông, đó là sự bí mật về sự rút lui bõ vùng Cao Nguyên Trung Phần.

    - “Với số tiền 700 triệu đô la mà chúng ta có trong hiện tại, ít hơn phân nửa số tiền dự trù mà Hoa Kỳ đã từng hứa viện trợ cho chúng ta, Miền Nam Việt Nam chỉ có thể phòng thủ một nửa lãnh thổ của họ mà thôi. Tôi hy vọng rằng trong tương lai người Mỹ sẽ phải sáng suốt hơn…”

    Thật đúng là chuyện ngã giá của những người lái buôn, nhưng được người ta nói với những người không còn tha thiết gì đến sự mua bán nữa :

    - “ Nầy mấy ông Hoa thạnh Đốn ơi ! nếu mấy ông cho tôi 1 tỷ rưỡi thì tôi giữ cho các ông cả Miền Nam Việt Nam nguyên vẹn, còn với 700 ngàn đô thì tôi chỉ có thể giữ cho mấy ông một nửa mà thôi !”

    Vào ngày chúa nhật 27 tháng 4, các tin tức đến với chúng tôi càng lúc càng xấu. Các cuộc tấn công của quân đội cộng sản Bắc Việt không gặp một sự kháng cự nào ra hồn hết. Sư đoàn 18 bộ binh giữ Xuân Lộc nay đã phải rút đi và hoàn toàn gần như tan rã. Cả sư đoàn 5 cũng vậy. Để phòng thủ Thủ Đô, chỉ còn có một sư đoàn duy nhất và vài binh đoàn Dù và vài nhóm thân binh công giáo của Hố Nai mà thôi.

    Chúng tôi biết được sự mất tích của anh Hoche và Laurent. Một trong hai người đó đã bị thương, người ta tin là anh Hoche, còn anh Laurent thì có đến giúp bạn mình ngay lúc đó, rồi mất tích luôn. Họ không về được xe của mình trong khi toán truyền hình của anh Moscardo thì đã cố rút về được dưói làn mưa đạn.

    Ngồi ở bàn bên cạnh, là những anh sen đầm đang ăn uống thật ngon. Họ mời chúng tôi tôi uống sâm banh coi như để mầng cuộc hội ngộ với chúng tôi .. Họ sống hạnh phúc quá, có sức khỏe tốt, được thấy họ ở đây là một chuyện không có gì lạ. Họ là mục tiêu mà hàng trăm cô gái Việt Nam đang nhắm vào để cưới nhau và để cho họ được rời khỏi Việt Nam.

    Còn những tin khác nữa. Quận Long Thành đang bị phào kích rất nặng.Trường thiết giáp ở đó đang bị tấn công, Người ta còn đang đánh nhau ở Trãng Bom, và quốc lộ 4 ở Miền Tây thì đã bị cắt đứt nhiều đoạn

    Chiếc phi cơ của Hàng Không Việt Nam vẫn chưa đáp xuống Tân sơn Nhứt . Viên phi công là người Đài loan có vẻ sợ.

    Tôi đi một vòng xem chợ Sài Gòn . Trái cây chất từng chồng cao ngất…tôi còn tìm được mấy quả táo.. nhưng không có gì đến từ Dalat. Không có dâu tây và không có sà lách. Tất cả đều có vẻ yên tĩnh. thanh bình ! SaiGon có nhiều mùi, mùi các hoa tươi ngọt ngào, mùi lá bạc hà xanh, trộn lẫn với mùi cá, thịt và nước dùng nấu phở….Rồi lại có tiếng cắt cụp của chú tàu bán mì….Rồi các cô gái lái xe gắn máy trang điểm như các búp bê với đôi tay đeo găng trắng, quần lụa đen ống rộng và áo khoác trắng. với thân hình thon trẻ, mũi nhỏ đẹp và mắt nhìn tận đâu đâu. Và những anh chàng cao bồi mặc quần gin, tóc để dài… Hàng trái cây thì có bưởi, cam, thơm khóm.. đủ màu sắc, Các bó rau muống xanh tươi, nằm lẩn lộn với các loại trái cây thơm ngon.. làm cho tôi thấy mến Sài Gòn quá đi thôi!

    Bầu trời mây kéo đen kịt. Chúng ta đang ở vào mùa mưa, không khí hơi nóng ẩm…

    Quốc Hội đang nhóm họp từ ban sáng.Sau mười giờ thảo luận, Quốc Hội đã bỏ phiếu cho một quyết định gồm 2 điểm: tái xác nhận sự tín nhiệm đối với Tổng Thống Trần văn Hương, và mời ông chỉ định một “nhân vật nào đó, nếu nhu cầu đòi hỏi, để thay thế Tổng Thống với nhiệm vụ đem lại hòa bình trong danh dự với đầy đủ phẩm cách và sự chuẩn y của Quốc Hội”

    Luôn luôn là kiểu cách của một ông Pétain !

    Cái “nhân vật nào đó” không ai khác hơn là ông tướng Dương văn Minh. Ngoài ông ta ra không còn có người nào khác nữa. Danh dự và phẩm cách không đặt thành vấn đề , bọn cộng sản đã ở ngay cửa thành phố rồi. Và họ đang muốn trừng trị thành phố rồi . Điều cần nhất là phải làm cho nhanh, Nhưng làm thế nào cho các ông “độc bình” nầy hiểu rõ đây?

    Các vị tướng lãnh đã báo cáo rõ tình hình rồi. Có tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng và tướng Trần văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng và ông Tổng Trấn Sài Gòn và tướng cảnh sát trưởng Nguyễn khắc Bình.

    Họ nói rằng đã mất tất cả rồi, rằng các đơn vị cuối cùng đã bị bao vây và đang tự giải tán, rằng phải thương thuyết với bất cứ giá nào, và phải càng sớm càng tốt.

    Nhưng mà Quốc Hội vừa không muốn ông tướng Minh Dương. mà cũng vừa không thể từ bỏ ông nầy được. Ông ta không phải là người của họ . Và rồi tất cả đều đua nhau thề phải trung thành với những nguyên tắc căn bản, với nền Cộng Hòa và với Hiến Pháp.

    Ông Trần văn Đôn lại một lần nữa phải can thiệp. Con người sanh đẻ ở thành phố Bordeau của nước Pháp nầy muốn giữ vai trò phát ngôn viên của nước Pháp và bênh vực đường lối chánh trị của ông Mérillon, Đại sứ Pháp, người mà ông ta đã liên lạc mật thiết từ lâu.. Và ông thuyết phục được Quốc Hội , họ bỏ phiếu thuận cho quyết nghị trao toàn quyền hành lại cho ông Dương văn Minh. Ông Trần văn Hương mệt mỏi chống gậy bước ra khỏi ghế ngồi và rời khỏi phòng họp. Mắt nhắm mắt mở ông vấp một nấc thang,,,

    Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vẫn nằm ngoài khơi, dọc theo bờ biển của Việt Nam. Có nhiều tiểu đoàn Thủy quân lục chiến nằm trên tàu , lúc nào cũng sẳn sàng đổ bộ để yểm trợ cho cuộc hành quân di tản 2000 người Mỹ và 100.000 người Việt Nam đang sẵn sàng đi theo họ.

    Nhưng quân cộng sản Bắc Việt đang ở ngay cửa ngõ của Vũng Tàu từ khi Hàm Tân bị thất thủ.

    Tôi không thấy rõ ràng lắm việc Bắc Việt chấp thuận sẽ thương thuyết với ông Dương văn Minh. Họ đã rơi hẳn mặt nạ của họ và không còn nghĩ gì tới Hiệp Định Ba Lê nữa, một Hiệp Định mà họ đã biết lợi dụng một cách tuyệt diệu để chuẩn bị cuộc tổng tấn công vào Miền Nam Việt Nam của họ. Nếu ông Minh đã nắm được quyền hành tám ngày trước, lúc mà họ chưa cảm thấy là họ đã hoàn toàn thắng trận, lúc mà lực lượng của Miền Nam Việt Nam vẫn còn giữ vững được Xuân Lộc , thì có thể cộng sản Bắc Việt chấp nhận có một cuộc dàn xếp nào đó. Nhưng đến bây giờ thì họ không thấy cấn có việc đó nữa rồi. Họ đã thấy thành phố Sài Gòn đã nằm trong tay của họ rồi. Họ chỉ còn có chiếm lấy thôi và họ sẽ không lo âu gì nữa để mà phải thương lượng hay có phép của bất cứ một người nào nữa cả.

    Ông Minh về nhà của ông ta với nghị sĩ Vũ văn Mẫu, một người nhỏ thó nhưng rất lanh lợi, tiến sĩ luật của trường đại học Ba Lê. Ông chọn người để thành lập chính phủ của mình. Giờ của ông đã điểm. Nhưng quá trễ cho ông ta, cho cả nước Việt Nam và cho cả nước Pháp.vốn rất hy vọng được đóng vai trò trung gian hòa giải xuyên qua tướng Minh.

    Vậy ông Minh là ai ? Tại sao ông phải bỏ cả cuộc đời của mình để chờ để đợi ? Ông đâu có phải là lãnh tụ của nhóm trung lập được mệnh danh là “lực lượng thứ ba” đâu ? Đây chỉ là một biểu tượng, một cây cờ được xếp lại và được cất kỹ từ lâu rồi trong kẹt tủ. Ông Minh đã là một ông Néguib, chớ chưa từng là một ông Nasser bao giờ. Người ta chỉ có xài ông thôi. Ông không mấy tha thiết với chánh quyền , ông thấy chán mau lắm và không chịu bám lấy nó. Ông bị vứt ra ngoài do một thằng nhỏ ngu si nào đó như tướng Khánh chẳng hạn. Cũng không cần tự bảo vệ, điều mà ông có thể làm được dễ dàng. Ông cũng dễ thương, thanh liêm, bất cần, nhưng ông không có một nghị lực nào. Người lên tiếng sau cùng lúc nào cũng có lý. Ông thương đất nước của ông thật, nhưng quá yếu mềm. Ông quá thận trọng; vì lười biếng , ông sợ phải nói chuyện, vì ông thật tình không biết gì để nói. Quanh ông có quá nhiều cố vấn nhưng họ chỉ lo cho phần của họ mà thôi. Ông muốn làm một ông De Gaulle, nhưng ông bao giờ cũng chỉ là môt ông Giraud mà thôi, và đó là một điều rất đáng tiếc. Ông là một Phật tử nhưng chỉ là dửng dưng thôi chớ không tin tưởng lắm. Người ta kể lại là ông đã có những sự liên lạc xã giao với Bắc Việt, nhưng ông chỉ có một người em của ông là ông Dương văn Nhựt đã phục vụ trong hàng ngũ của quân đội Bắc Việt . Về bản chất ông là một người chống cộng, nhưng theo lề lối của ông, không có gì quá mức, vì sự quá mức sẽ làm cho ông khó chịu.

    Vào hai năm 1955 và 1956, ông đứng bên cạnh ông Diệm trong tư cách hợp hiến chớ không phải vì cảm tình cá nhân.. Chính ông là người lãnh đạo quân đội chống lại các giáo phái bởi vì ông muốn chỉ có môt quân đội duy nhất ở Miền Nam Việt Nam . Là một quân nhân tốt do Pháp đào tạo nên ông bất mãn khi thấy các giáo phái được có quân đội riêng của họ. Tôi còn nhớ rõ cuộc bàn cãi giữa tôi và ông ta khi ông nói với tôi : "Thật là một điều kỳ lạ, tại sao nước Pháp lại đi ủng hộ các giáo phái . Trong nước thì chỉ nên có một quân đội mà thôi, nhiều hơn thì sẽ mất trật tự ngay. Đó là điều mà các huấn luyện viên người Pháp đã dạy tôi như thế.”

    Từ năm 1957 ông đã là một trong những tướng ba sao đầu tiên của nước Việt Nam. Trong quân đội ông là người rất bình dân vì khía cạnh tốt bụng của ông, và lòng tử tế của ông. Ông là người liêm khiết và đó là điều rất hiếm trong quân đội Miền Nam Việt Nam .

    Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ông không tham gia vào cuộc hành quân đảo chánh chống lại ông Diệm. Người ta nói là ông chờ giờ của ông.

    Ba năm sau, ông cầm đầu cuộc đảo chánh và lật đổ chế độ vì có người thúc đẩy sau lưng ông. Ông rất thương những người cùng tham gia vào việc nầy với ông, toàn là bè bạn của ông, và ông đi theo họ. Người ta bầu ông lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng và ông trở thành nguyên thủ quốc gia . Nhưng ngày 31 tháng giêng năm 1964 người ta lại lật ông xuống. Như vậy là ông chỉ nắm chánh quyền được có 2 tháng.

    Tôi đã gặp ông rất lâu trong lúc đó. Tôi đã hỏi ông :

    - “Nhưng cuối cùng, ông có ý định làm gì, và ông sẽ làm gì . “

    - Tôi cũng không biết nữa, ông trả lời không do dự.

    - Ông có muốn tiếp tục cuộc chiến đấu chống bọn cộng sản không ?

    - Dĩ nhiên là muốn, phải tiếp tục chứ. Không ai có thể chịu được là Miền Nam Việt Nam sẽ trở thành cộng sản .

    - Nhưng mà ông làm cách nào để điều khiển cuộc chiến ?

    - Tôi sẽ nói cho các sĩ quan của tôi là hãy chiến đấu tốt, và họ sẽ làm như vậy vì họ thương tôi và họ tin tôi.



    Đã gần đến giờ giới nghiêm, Tôi chầm chậm đi về khách sạn, và gặp nhiều toán người còn đi dạo mát.

    Tại khách sạn Continental, chúng tôi gặp lại ông thiếu tá, người đã chứng kiến được lúc anh Laurent và anh Hoche bị bắt. Ông không biết là hai người còn sống hay đã chết. Ông nghĩ rằng họ đã bị bắt làm tù binh. Không thể nào đi lên vùng Hố Nai được vì vùng nầy đã bị cộng sản Bắc Việt tràn ngập rồi.

    Ông cũng cho chúng tôi biết là các khẩu đại bác 130 ly của cộng sản Bắc Việt đã được bố trí sẳn sàng chỉ cách trung tâm thành phố chừng 15 cây số thôi. Tầm tác xạ của loại pháo nầy là 25 cây số. Ông ta tin rằng họ sẽ pháo vào Sài Gòn trong đêm nay. Điện nước có nguy cơ bị cắt, do đó tôi dự trù phải có một số đèn cầy.

    Trước khi đi ngủ, tôi lướt qua một lượt tin tức qua báo chí Việt Nam được dịch ra Pháp văn. Báo Tiền Tuyến chạy một bản tin trên 8 cột, tôi phải dụi mắt mãi mới đọc được :

    “ Tướng Nguyễn cao Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc mết tinh quy tụ gần 10 ngàn người: “Nước Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ đầu hàng với bọn cộng sản Bắc Việt chừng nào mà quân đội chúng ta hãy còn đây và vẫn còn sự ủng hộ của dân chúng. Lực lượng quân sự của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn mạnh và sẽ mang lại cho đất nước một nền hòa bình trong danh dự “

    Còn tờ Chính Luận thì cho biết là : “Không có thương thuyết, vì đó chỉ là một sự đầu hàng.”

    Đêm nay có lẽ sẽ dài…….

    ____________



    CHƯƠNG BỐN



    THỨ HAI, 28 THÁNG 4



    Giá đồng đô la : Giấy lớn 100 $ : từ 4500 đến 5000 đồng bạc Việt Nam. Người ta không thể tìm đâu ra vàng, hoặc các loại đá quí. Một số tiệm nữ trang và các người chuyên đổi tiền ở đường Catinat không thấy mở cửa

    *

    * *

    Sáng nay, 28 tháng 4, đối diện với các sư đoàn Bắc Việt không thấy có một đơn vị nào xứng đáng được gọi là thuộc QLVNCH hết, toàn là các toán quân lẻ tẻ còn đang chiến đấu một cách vô vọng, vì danh dự của họ , vì các anh quân nhân nầy không thể và cũng không muốn chấp nhận chế độ độc tài của người cộng sản Bắc Việt.

    Bởi vì sự kiện Miền Nam còn đó. Danh xưng Nam Việt đã có rồi từ thời Pháp thuộc. Đó là Cộng Hòa Nam Việt (nguyên tác : la République de Cochinchine), danh xưng nầy được vững mạnh luôn trong hai chục năm qua, lúc mà Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền Nam Bắc, mỗi miền tự phát triển riêng lẽ nhau trên hành tinh của mình, giữa họ lại có một sợi dây mỏng mành, cái gọi là CPLTCHMN mà người ta chỉ thấy được tại Paris mà thôi.

    Cái gọi là CPLTCHMN chỉ là một hư cấu quân sự . Theo giáo điều của cộng sản thì Miền Nam Việt Nam phải tự giải phóng cho mình với lực lượng kháng chiến cơ hữu của họ. Nhờ ân huệ của Trung Ương Đảng ở Hà Nội đã đặt tên cho hư cấu nầy là CPLTCHMN với 24 sư đoàn chánh quy Bắc Việt và một số dân quân mà 50 % được lấy từ vài vùng khác và 80% gồm toàn là dân ở Miền Bắc . Dĩ nhiên tất cả cấp chỉ huy nhỏ lớn đều là cán bộ đảng người Bắc Việt.

    Trên phương diện chánh trị, cái được gọi là Mặt Trận Quốc Gia vốn trên nguyên tắc được coi là phải tập họp hết các từng lớp dân chúng và mọi xu hướng chánh trị ở Miền Nam Việt Nam, thì chính nó cũng là một hư cấu . Ngoại trừ Nguyễn hữu Thọ ra, người ta không thấy có một người nào trong số các thành viên không phải là đảng viên cộng sản . Họ là cộng sản thực sự, không phải là thơ ký văn phòng, hay là thành viên có thế lực trong đảng, có nhiều quyền lợi, được coi như thuộc một giai cấp mới, như ở Mạc tư Khoa đâu.. Nhưng họ là cán bộ bộ đội, chỉ sống vì đảng và cho đảng trên hết, trên tất cả mọi tiện nghi, sung túc và gia đình.

    Đây là một quân đội của một đảng duy nhất, hay là cả một dân tộc trong bộ quân phục… đã chiến đấu trong 30 năm dài, và hoàn toàn được hướng dẫn nhằm vào mục đích duy nhất của cuộc chiến tranh đó.

    Một ông bạn nhà báo người Việt Nam đến giường lôi tôi thức dậy . Anh ta nói :

    - “Nếu tôi muốn biết chắc chắn là CPLTCHMN có thật, hay ít nhất là trong mấy năm qua người ta cố giữ bộ mặt của nó như một quốc gia dân chủ có thật, hay nếu chúng ta khôn ngoan muốn biết là chúng ta có hy vọng có được giấy xuất cảnh của nó hay không để sang Pháp, thì …

    - Bộ anh muốn ở lại hay sao …?

    - Dù sao thì tôi cũng sẽ ở lại. Bởi vì tôi không muốn khi đến môt trại tạm cư nào đó tôi sẽ bị người Mỹ xịt thuốc sát trùng D.D.T.vào người tôi, như những con vật hôi hám, làm như tôi có rận, chí,. hay người tôi hôi hám lắm vậy. Tôi nghe nói hình như họ đã làm như vậy ở Phi luật Tân. Đối với người Mỹ, thì chúng ta không được thơm lắm. Chúng ta có một cái mùi không chịu nổi, một cái mùi mà họ đuổi đi không được, cái mùi thất trận của họ. Tôi sẽ ở lại, mà tôi tin chắc là cái CPLTCHMN đó sẽ không còn nữa, tin chắc là bọn “bộ đội” của Hà Nội sẽ đến chiếm ở đây, tin chắc là chúng tôi sẽ bị họ cai trị, tin chắc là tôi sẽ vào trường trở lại dù là với cái tuổi nầy và sẽ bỏ nghề làm báo nầy của tôi. Vì trong chế độ cộng sản không bao giờ có một anh nhà báo được. Mà chỉ có những anh cán bộ tuyên truyền, chuyên đánh máy lại các chỉ thị hay đường lối của Ủy Ban Trung Ương đảng mà thôi. Sài Gòn sẽ tụt xuống như một tỉnh lỵ của một tỉnh vậy. Người ta đâu cần xem Sài Gòn là một hải cảng nữa đâu, vì người Mỹ rút đi đã để lại cho chúng ta một hải cảng sâu hơn, là Cam Ranh đó !

    Anh ta nhún vai:

    - ‘Muốn trở thành một người lưu vong thì da mình phải thật vàng và phải có nhiều tiền. Tôi không phải là loại người thứ nhất mà lại không bao giờ là loại người thứ hai nữa. Anh biết không, trong các tiệm thuốc Tây còn mở cửa sáng nay, tôi không tìm ra được thuốc ngủ nữa. Dân Sài Gòn đã mua hết cả rồi.

    - Chắc Anh thấy là họ ngủ chưa đủ ?

    - Họ để dành cho giấc ngủ cuối cùng đó. Trời ơi ! phải chi cái CPLTCHMN nó có thật ! Và nếu người ta ai cũng tin rằng nó có thật !”



    Cuối cùng rồi thì ông Minh cũng thành lập được Chánh Phủ của ông. Trên căn bản thì tựu trung chỉ có 2 người chính. Người thứ nhất là ông Nguyễn văn Huyền, một người Công Giáo ôn hòa, được dân chúng biết nhiều vì ông rất liêm khiết và có đạo đức vững chắc, ông nầy sẽ giữ vai trò Phó Tổng Thống của chế độ Cộng Hòa. Và người thứ hai là ông Vũ văn Mẫu, một vị thượng nghị sĩ Phật Giáo, sáng lập viên của Mặt Trận Hòa Giải Dân Tộc, tiến sĩ luật, ông nầy sẽ giữ chức vụ Thủ Tướng.

    Nhưng đã quá muộn rồi ! CPLTCHMN vừa mới cho biết từ Ba Lê (vì hình như cái Chánh Phủ nầy đang nằm ở đó) rằng :

    "Sau khi tên phản bội Nguyễn văn Thiệu ra đi rồi, thì những người thay thế cho ông ta, được biết là tập đoàn của Dương văn Minh, Nguyễn văn Huyền và Vũ văn Mẫu vẫn còn ngoan cố muốn tiếp tục chiến đấu nhằm vừa giữ lấy lãnh thổ còn lại vừa đòi hỏi một sự thương thuyết. Rõ ràng là tập đoàn nầy vẫn còn tiếp tục ngoan cố muốn kéo dài cuộc chiến với hy vọng là giữ mãi sự thống trị của Hoa Kỳ . Nhưng họ không thể dối gạt được ai đâu. Các trận đánh chỉ sẽ được chấm dứt khi nào tất cả binh sĩ của Sài Gòn phải buông súng xuống hết, và tất cả các tàu chiến của Hoa Kỳ phải rời hết khỏi vùng biển của Miền Nam Việt Nam . Hai điều kiện của chúng tôi phải được thi hành thì mới có ngừng bắn. Cho đến bây giờ thì chưa. ”

    Vẫn từ Ba Lê, CPLTCHMN nầy loan báo là “tất cả dân chúng Sài Gòn đều đồng loạt nổi dậy chống chánh quyền và binh sĩ đã vứt bỏ vũ khí của họ để đầu hàng.”

    Tôi là người đang ở tại chỗ nầy, tôi biết rõ là không có chuyện đó. Nhưng mà sự thật của tôi có giá trị gì đối với tất cả những sự tuyên truyền đang được đồng loạt tung ra ở Ba Lê, do tất cả những kẻ khờ khạo theo sự chỉ dẫn để rập khuôn theo, hoặc muốn chạy theo thị hiếu đương thời là lối nhảy đầm theo tiếng đàn của Mạc tư Khoa ?

    Chỉ có người cộng sản là lô gích mà thôi. Sự thật không có vai trò gì ở đây hết. Đó chỉ là một khái niệm của tư bản, một khái niệm của giai cấp.

    Sáng nay hình như Sài Gòn rất là yên tĩnh.

    Có những toán binh sĩ Dù đến bố trí ở trong thành phố , họ tựa lưng vào các tường, trong các vườn hoa. Không phải những binh sĩ đã thất trận , mà cũng không phải là họ tuyệt vọng. Họ di chuyển như đang tập trận, rất là bình tĩnh. Đôi khi họ cũng cười đùa và trao cho nhau những chai nước ngọt Coca Cola. Tuy nhiên họ cũng không tự dối mình khi nghĩ đến số mệnh của họ, hay nghĩ đến kết quả của trận chiến cuối cùng nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ có quyết tâm chiến đấu đến cùng và sẽ tự chôn mình dưới đống gạch vụn của thành phố Sài Gòn.

    Và những người đó còn giữ được cấp chỉ huy của họ.

    Một trong những cấp chỉ huy đó là đại tá. Ông ta có vẻ mệt mỏi, uể oải và vô vọng. Hồi năm 1971 tôi đã có ăn một cái Tết với ông nầy và một vài người bạn của ông. Lúc đó ông đã biết là ông cùng với đơn vị của mình sắp tham dự vào một cuộc hành quân từ biên giới Lào để cắt ngang đường mòn Hồ chí Minh, và ngay lúc đó ông cũng đã không bao giờ nghĩ tới kết quả đó sẽ ra sao.

    Ông ta trao cho tôi một lon bia, nó còn nóng, người ta có thể cho đó là nước đái của một con lừa nào đó . Tôi hỏi ngay ông ta :

    “Sao đây ông bạn ?

    - Chúng tôi sẽ chiến đấu và có lẽ chúng tôi là những người cuối cùng làm cái chuyện đó. Mà nên nhớ rõ là không phải vì ông Thiệu, vì ông Hương, hay vì ông Minh mà chúng tôi sẽ chết đâu nhé. Ông Thiệu đã tiêu rồi, ông Hương chỉ là một chiếc độc bình cũ, còn ông Minh là một người quá nhu nhược cứ ngồi than vãn trong góc nhà của mình, thay vì chiếm lấy chánh quyền và lật đổ ông Thiệu bằng sức mạnh của mình.

    Chúng tôi sẽ chết bởi vì chúng tôi đã tiêm nhiễm được quá nhiều thói quen xấu của sự Tự Do, tinh thần phê phán, và tính độc lập. Tôi thì đã quá già để không còn dính vào những chuyện đó nữa. Chế độ của ông Thiệu là một chế độ độc tài giả hiệu, người ta có thể nói và làm theo ý muốn của mình với điều kiện là phải tôn trọng một vài hình thức bề ngoài. Những kẻ sắp sửa vào đây sẽ cấm chúng tôi suy nghĩ theo ý của mình. Cấm đoán các cô gái, bài bạc, quán nhậu. Thay vào đó sẽ có những buổi tự phê bình và nhảy theo nhạc dân gian (sôl đó mì của Tàu Cộng)

    Những con cá lớn đã ra khơi gần hết rồi, bọn còn lại như chúng tôi gồm toàn những con cá nhỏ đều phải chịu vào rọ hết. Như ông Thiệu và 16 tấn hành lý của ông ta ! Người Mỹ đã cung cấp cho ông một phi cơ chở hàng để đưa ông sang Đài Loan, ông ta và tất cả gia đình và dĩ nhiên với tất cả chiến lợi phẩm.

    “Tại sao các anh không bắt ông ta sau khi ông ta từ chức về ở ngay trong một biệt thự của Bộ Tổng Tham Mưu và đưa ông ta ra xử bắn ?

    - Bởi vì ông ta không bao giờ ở trong biệt thự đó tại Tân sơn Nhứt . Không biết ông đã ở đâu cả. Chúng tôi không bao giờ biết gì hết. Và chuyện đưa ông ra xử bắn đó không có ích lợi gì cả, chúng ta chỉ tạo thêm sự hoảng loạn và làm cho tình hình thêm rối rắm thêm mà thôi. Bọn cộng sản đã uênh oang công bố là quân đội Miền Nam Việt Nam đã nổi dậy, chạy theo cách mạng , đã bắn các tướng lãnh, và Miền Nam Việt Nam đã đứng lên tự giải phóng mình chớ nào có bị quân đội nước ngoài xâm chiếm đâu. Như vậy là mình vô tình tuyên truyền giùm cho bọn cộng sản mà thôi. Cho nên nhờ vậy mà ông Thiệu đã thoát chết !

    “ Anh xem những binh sĩ của CPLTCHMN như là những người ngoại quốc ?

    - Làm gì có cái gọi là CPLTCHMN ? Cũng không có Việt Cộng nữa. Toàn là bộ đội chánh quy của Bắc Việt . Những người mà người ta gọi là Việt Cộng là con cái của những người từ Miền Nam tập kết ra Miền Bắc hồi năm 1954 với gia đình của họ và được sanh đẻ ở Miền Bắc . Còn bọn Việt Cộng chánh thức thì hầu như bị chết hết trong các trận tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968. Những anh còn lại thì bị các cuộc hành quân trong chiến dịch Phượng Hoàng thanh toán hết. Người ta loại họ rất nhiều . Trong hiện tại thì chỉ còn có bộ đội của Hà Nội mà thôi, họ được cả Liên Xô, Trung Cộng, Tiệp Khắc, Ba Lan Hung gia Lợi và Đông Đức giúp viện trợ, còn chúng tôi những binh sĩ sau cùng của Sài Gòn thì lại bị Hoa Kỳ bỏ rơi !

    “ Anh nghĩ gì về ông Minh Dương, người vừa được trao cho chánh quyền ?

    “Trước kia ông là một quân nhân tốt, nhưng ông ta là một người không bao giờ biết giữ được chánh quyền. Năm1963, ông ở đó được 3 tháng, nhưng ông không làm được gì hết. Năm 1964, ông trở lại chánh quyền lần nữa, nhưng lần nầy ông không còn có một tý quyền hành nào và ở đó 6 tháng để khai mạc các cuộc triển lãm chơi thôi.. Năm 1971, ông ra tranh cử với ông Thiệu, nhưng giớ chót lại rút lui, trước ngày bầu cử.

    Không biết lần nầy ông sẽ ở lại chánh quyền bao lâu ? Đến chiếu nay hay đến ngày mai ? Chúng tôi vừa nghe xong đài Hà Nội lúc nãy. Bọn cộng sản nhắc đi nhắc lại không ngớt là chúng không muốn ông Minh. Họ tố cáo ông ta là dân hiếu chiến khi ông phản đối Hoa Kỳ lúc người Mỹ ngưng ném bom ở Miền Bắc. Họ không muốn ai hết, họ chỉ muốn chiếm thành phố Sài Gòn bằng vũ lực thôi.

    Uống với tôi một lon bia nữa đi ông nhà báo ơi. Người Mỹ sản xuất bia ngon thật, nhưng họ không muốn thành lập cho chúng tôi một quân đội cho ra hồn, vì họ không thích chúng tôi , họ không hiểu chúng tôi và họ chọn cấp chỉ huy của chúng tôi không phải từ người có tài có đức mà từ những người biết nói tiếng Anh và được huấn luyện bên Mỹ . Trường hợp của cá nhân tôi, nếu tôi không xuất thân từ những quân trường bên Pháp thì tôi đã lên tướng từ lâu rồi. Và tôi cũng đã được nằm trong danh sách, tôi cũng đã có một chỗ trên phi cơ Mỹ để vọt đi rồi .

    Cách đây 4 năm, khi chúng ta gặp nhau, thì tôi đã là trung tá rồi. Tôi đâu có nghĩ không chiến đấu một ngày nào đâu ?

    Chúng tôi thật là không đáng phải thua trận nầy. Nhưng mà không tránh được sự thất bại vì chúng tôi không bao giờ biết chiến đấu lẻ loi, vì có ai dạy cho chúng tôi như vậy đâu ?”

    Mưa to quá, gần như bầu trời bị bể ra vậy.

    Tôi nhảy lên một chiếc tắc xi, một chiếc xe 4 ngựa gần hư nát hết rồi, còn ông đại tá của tôi thì bất chấp mưa gió chầm chậm đi về chiếc xe Jeep của mình, ở đó có máy truyền tin đang làm việc.

    Tất cả các tiệm buôn đều đóng cửa, tất cả quán rượu đều trống vắng, và các cô gái rảnh rỗi ra trước cửa ngồi hút thuốc phì phà chờ đón theo thông lệ một vài người khách vốn không ai đến được nữa. Đó là những cô không mấy đẹp: hình như những cô “số một”, nếu dùng đúng từ của họ, thì đã được các chàng trai người Mỹ bảo trợ cho họ đi hết rồi.

    Tôi đi lang thang trước vài quán rượu hay quán ăn của người Pháp còn chưa đóng cửa.Tiệm Ramuntcho, tiệm Valinco và l’Aterbéa. Các tiệm nầy rất là đắt khách lúc các quân nhân Mỹ còn ở đây, và cũng gặp không ít khó khăn sau khi họ rút đi hết về nước . Vì các sĩ quan Việt Nam có một cái tật xấu là sau khi ăn uống no say rồi thì lại không chịu trả tiền và các anh cảnh sát muốn bảo vệ chủ quán thì lại đòi tiền huê hồng.

    Anh Dominique, chủ tiệm Valinco, có một giọng nói đặt sệt của người dân đảo Corse làm cho người ta có cảm tưởng là anh ta cố muốn học nói tiếng đó, đã giải thích cho tôi lý do thất bại của quân đội Miền Nam theo ý của anh như sau:

    “Toàn là những người không đứng đắn. Các tướng lãnh đó, họ chỉ thích ăn chơi thôi. Họ vào đây ăn uống thoải mái, toàn là đồ mắc tiền, và vợ con họ, đào của họ thì ôi thôi hột xoàn là hột xoàn. Không thể tin được và toàn là thứ thiệt không nghen, không phải đồ giả đâu. Tiền ở đâu ra ? Nhưng đến lúc phải đánh nhau thì họ đều chuồn hết. Như thỏ vậy, đi theo phi cơ của Hoa Kỳ , bỏ lính tráng của họ lại làm sao làm !”

    Tôi gặp bà Lyne Galant, chủ tiệm bán hoa ở đường Tự Do, bà nầy đã đến vài ngày ở Sài Gòn vào tháng 12 năm 1929, vào “thời kỳ vàng son của xứ thuộc địa Nam Kỳ” như Bà đã nói, và bà từ đó không rời khỏi đây nữa . Bà đã có vé máy bay được giữ chỗ trước , và cũng đã có giấy xuất cảnh rồi và một giấy chứng nhận không thiếu thuế nữa. Rất là đầy đủ .Nhưng vào giờ chót bà già đẹp lão nầy lại quyết định ở lại .

    “Không được đâu ông bạn ơi, tôi không thể bỏ họ mà đi như vậy được đâu, không thể bỏ những người đã làm cho tôi suốt gần 30 năm dài, coi như họ đã trở thành người trong gia đình của tôi vậy. Trong những giây phút khó khăn mà chúng tôi sẽ gặp phải, tôi muốn ở lại gần bên họ. Sau đó rồi tôi hãy đi,tôi sẽ cho họ hết cái kho hàng của tôi để họ muốn làm gì thì họ làm theo ý thích của họ. Vì tôi nghĩ là những người chủ mới của thành phố Sài Gòn nầy không nỡ làm gì đối với những người bán hoa nầy đâu, nhưng mà họ cũng không thể cho những người nầy đi theo tôi !.”

    Tôi cũng được gặp ông Foynet, một chuyên viên về trang trí có bộ râu luôn luôn đươc chải chuốt và anh Dixon, một người Pháp kỳ cựu nhất chủ một văn phòng quảng cáo. Ông nầy đã gặp mọi chuyện phiền toái vì lẽ người ta cho ông là một người Mỹ với cái tên của ông ta có một âm thanh như Mỹ vậy, lại còn có nhiều người còn gọi ông là Nixon nữa mới hại. Vào năm 1945 ông đã bị người Nhật bắt một lần rồi. Tất cả họ đều nói là họ không mong muốn gì hết. Tuy nhiên họ sẽ ở lại đến cùng, cho đến lúc nào người ta đuổi họ thì họ mới đi. Bởi vì họ nói Sài Gòn là thành phố của họ.

    Ở Miền Nam Việt Nam còn có 12 ngàn người Pháp. Bức màn sắt đã rơi xuống đối với người Pháp ở Dalat, ở Đà Nẵng và ở các đồn điền cao su trên vùng Cao Nguyên. Người ta không có tin tức gì về họ, nhất là những nhà truyền giáo. Có một số bị mất tích, những người khác thì bị giữ làm tù binh.

    Những người Pháp chánh gốc thì còn lại một số ít. Thông thường thì họ là những người công chức. Phần lớn họ là giáo chức, trong một cái cộng đồng hay cà khịa với nhau. Họ chỉ trích, rình rập nhau, ganh tỵ nhau, và dòm ngó lẫn nhau. Theo sát quyền hạn của mình, họ giữ chặt quyền lợi của họ, họ đến đây chỉ vì đồng tiền, họ theo dõi giá hối đoái hằng ngày còn nhanh hơn nhân viên ngân hàng, họ là bạn hàng quen thuộc của chợ trời dù họ là người ngoại quốc đối với xứ nầy và đối xử quá tệ đối với kẻ ăn người làm của mình. Có thể xem như họ ở về phía cánh tả, ít nhất trong lối sống của họ, tất cả đều trái ngược với lối xử sự cũa người thường. Cho thấy một hình ảnh quá tồi của nước Pháp.

    Trái lại, các bác sĩ của bệnh viện Đồn Đất (Grall) đã lấy lại uy tín cho nước Pháp bằng công việc của họ, bằng sự tận tâm của họ, sự bất vụ lợi của họ, với gương mặt luôn luôn tươi cười và vui vẻ, ngược lại với tất cả những gì mà ở những người khác là nhỏ nhoi, bủn xỉn và thảm hại. Họ làm việc luôn tay, tận tụy không biết mệt, dù bị làn sóng người tỵ nạn tràn ngập, với những người bị thương, và những người bệnh. Họ chấp nhận kéo dài thêm thời gian lưu trú và phục vụ ở đây, họ bỏ hết thời gian nghỉ phép của mình, vì Miền Nam Việt Nam đang cần họ. Và họ cũng là quân nhân !

    Kế đó phải nói đến những nhà trồng tỉa. hầu hết đều làm việc trong các đồn điền cao su ở Miền Nam Việt Nam , họ biết rành đất nước nầy và nói cả tiếng Việt Nam .Họ được các xí nghiệp lớn mướn, luôn luôn đối diện với hàng ngàn khó khăn từ khi bọn cộng sản đến đóng quân ở các đồn điền. Nhưng họ vẫn chịu đựng được . Khác hẳn với những người mà tôi được biết lúc tôi đến đây mấy lần trước, họ đã bỏ hẳn thói làm sang của những người “quý phái da trắng”, vốn thường làm cho họ khó chịu. Biết rằng mình sẽ bị đuổi khỏi nơi đây, tự nhiên họ cảm thấy họ quá yêu mến đất nước nầy và những người Việt Nam mà họ đã cùng chung sống và gần gủi nhau trong những lúc khó khăn .

    Vô cùng đau khổ và không được ai ngó ngàn tới là những nhà trồng tỉa loại nhỏ, họ trồng trà và cà phê ở vùng Di Linh, chỉ sống và làm bạn với đồng bào Thượng. Bị phân tán ra vì gió thời cuộc, nhà cửa sự nghiệp tiêu tan hết vì trận tấn công Ban Mê Thuột vừa qua, như ông Mercurio, một nhân vật đã đi vào truyền thuyết, hay những người bị trói gô hai ngày vào các gốc cây, và bỏ mặc trong rừng.

    Và sau đó là những nhà truyền giáo, vốn đã có quyết định ở lại tại chỗ, nên đã cùng tham gia vào các cuộc tản cư tỵ nạn của dân chúng, đôi khi họ chết vì quá mệt mỏi, và cùng chịu cảnh bom đạn với các tín đồ của mình, hoặc phải lên rừng ở với đồng bào Thượng của mình.

    Nhân vật được biết tới trong số nầy có Đức Giám Mục Seltz, chỉ với sự có mặt và lòng can đảm của mình, ông nầy đã ngăn chận được sự di tản của thành phố Kon Tum không cho biến thành một thảm họa như cuộc di tản ở Pleiku . Người ta không có tin tức gì về những người nầy. Không biết họ đã chết, bị bắt làm tù binh hay là con tin ?

    Trong tất cả những người Pháp nầy, người ta thấy đủ hạng người hết: từ những người sống lạc loài trôi giạt đến những người rất đứng đắn, đàng hoàng. đôi khi cũng có những người khác thường như ông Mouton, một người lạc quan bất trị, đã từng bị đuổi khỏi Đà Nẵng rồi, nhưng lại bán hết tài sản bên Pháp để dựng lên một quán ăn hay quán trọ gì đó ở Vũng Tàu.

    Còn có những người lai, những người “bất hạnh giữa hai giống dân”, như một anh thường nói với tôi, những người mà Việt Nam chối bỏ không nhận là Tổ Quốc của họ nữa từ khi người Pháp rời khỏi đất nước nầy, những người mà nước Pháp chỉ thấy đẹp khi họ nhìn từ đằng xa mà thôi dù họ có tên là Dupont hay Martin cũng vậy.. Bởi vì ở đó đời sống quá khó khăn và họ nghĩ rằng bà hoàng hậu xa xôi đó chỉ có thể là một bà mẹ ghẻ mà thôi. Đông nhất là những người Việt Nam mà cha mẹ họ đã nhận được quốc tịch Pháp như một ân huệ hay một phần thưởng, có khi còn được mua cho được vui lòng là khác nữa. Họ sẽ làm gì được ở Pháp ? Họ sẽ mở ra quán ăn Việt Nam nữa để sẽ bị thua lỗ chăng ? Nhưng người ta có cho họ rời khỏi Việt Nam chăng ? Những người Bắc, những người quốc gia bị nghi ngờ đó, những người thường có tính phân biệt chủng tộc và hay cố chấp đó, họ đừng bao giờ hy vọng là quốc tịch Pháp của họ được công nhận.

    Điều rất dễ cho Tổng Thống Pháp là ông ta sẽ yêu cầu họ hãy ở lại Việt Nam để duy trì sự có mật của người Pháp ở đây. Tôi còn nhớ rõ việc gì đã xảy ra ở Hà Nội . Ở Sài Gòn tôi nghĩ là cũng sẽ như vậy thôi. Trong một vài tháng nữa, chắc chắn nước Pháp sẽ không còn gì ở đó nữa ngoại trừ một ông tổng lãnh sự. Các trường trung học sẽ bị đóng cửa như họ đã làm ở Hà Nội , cùng các bệnh viện và các cơ quan truyền giáo, cũng như các khách sạn, các tiệm ăn có mùi rượu, mùi tỏi và mùi trứng rán cà chua... Các cơ quan truyền giáo là phải bị thanh toán đầu tiên vì ý thức hệ cộng sản không thể tha thứ cho ai truyền rao đạo nào khác ngoài lý thuyết của họ, không bao giờ chấp nhận bất cứ ông thầy giảng đạo nào ngoài những ủy viên chánh trị của họ.

    Bảy ngàn người Pháp -Việt có nguy cơ sẽ trả giá đằt cho sự tự do của họ vỉ đường lối chánh trị đối ngoại đầy viễn tưởng của ông Tổng Thống Giscard d’Estaing .

    Tôi đã thấy họ, những người Pháp bị che kín mắt đứng chật cửa tòa tổng lãnh sự, trình các giấy thông hành mà hầu hết đều quá hạn, họ chỉ đòi hỏi phải được bảo đảm là chúng phải được chuyển tới tòa đại sứ Pháp, vì không bao giờ họ được tiếp ở đây cả.

    Toàn là một bọn người đau khổ ! Họ không hề biết được là các cơ quan kia được thành lập không phải để che chở cho những người Pháp cùng khổ nầy, mà chỉ để giúp cho những người trẻ năng động hay những người vô tích sự mà lại có tính hay phô trương, được hưởng những ngày vui thích ở ngoại quốc, được vui chơi phè phỡn ở các chợ phiên cho thỏa tính kiêu căng của họ đồng thời lại được cảm giác như có thi hành một nhiệm vụ chánh trị nào đó vậy.


    Chương Bốn

    Phần 2



    May quá, cuối cùng thì toán chuyên viên của tôi cũng đến được do chuyến phi cơ sắp đáp xuống Tân sơn Nhứt , và đó là chuyến phi cơ cuối cùng: anh Merlin, chuyên viên quay phim, người của toán Anderson và anh Mathurin, chuyên viên về âm thanh. Họ thuật lại cho chúng tôi biết là họ đã cố gắng thử đi CamBốt, nhưng chỗ nào họ cũng bị đuổi xuống. Những gì xảy ra ở đó người ta không muốn cho người nào được thấy hết. Ở đó bọn Khờ Me Đỏ làm chủ tình hình trong biển máu, phá hủy tất cả những gì gọi là của Tây Phương: các tủ lạnh, các xe hơi và mày điều hòa không khí , và cả các thư viện vốn có những tác phẩm vô giá. Ngay cả các bệnh viện mà họ tuyên bố là cũng không cần đến. Vì màu da của họ mà người Nga cũng bị đối xự còn tệ hại hơn người Pháp nữa. Cửa của tòa Đại sứ thì bị mở ra bằng súng không giật ba zô ca, và 7 nhà ngoại giao đang ở trong đó đều bị còng tay và dẫn hết đến tòa đại sứ Pháp, ở đây là nơi được nhốt tất cả người ngoại quốc. Ảnh hưởng của Trung Quốc rất mạnh ở đây và bọn Khờ Me Đỏ vui vẻ bắn hết những người không đồng chánh kiến.

    Trong khi hai anh Merlin và Mathurin bố trí dụng cụ thì tôi và anh Coutard đi đến toà Đại sứ Pháp dùng cơm trưa, và sau đó chúng tôi mới bắt đầu đi quay trưa nay.

    Ông Đại sứ Mérillon thò đầu ra cửa nói với chúng tôi :

    “Xin lỗi nghe, tôi còn bận phải tiếp một người bạn, chỉ vài phút thôi, Ông ta đến để từ giã tôi.”

    Đó là tướng Trần văn Đôn. Mới vừa hôm qua đây ông còn là Phó Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, người rất năng nổ hoạt động và vẫn còn nghĩ là mình nếu không ngồi được ghế của ông Minh thì ít nhất cũng là ghế Thủ Tướng. Ông đã cật lực làm việc hôm qua để đẩy ông Trần văn Hương ra khỏi ghế Tổng Thống bằng cách gọt dũa tình hình quân sự như một tấm tranh bi thảm mà những gì ông trình bày thực ra cũng còn thấp hơn thật tế quá nhiều .

    Trong những ngày gần đây, ông đã là “người hành sử trung thành” đường lối chánh trị của nước Pháp, và trong nhiều tháng qua người ta đã nói với tôi ông như là người cố vấn được tin nghe nhất ở tòa đại sứ. Ông Đôn đẹp trai, sáng giá, với điệu bộ nhẹ nhàng và thong dong nầy, đã đến đây để lấy thông hành Pháp của ông ta. Phải chăng ông đã được sinh ra ở Bordeaux ? Trong cơn vội vàng của ông ta, ông quên không báo cho đại tá chánh văn phòng của mình biết, làm cho ông nầy sẽ phải tự sát . Có thể là ông ta sẽ làm lại một cuộc đời chánh trị mới bên bờ sông Garonne không chừng. Một khi màu da của ông ta bị quên đi thì người ta có cảm tưởng mạnh là mình đã gặp được một chánh trị gia người Pháp, kiểu của đệ ngũ Cộng Hòa cũng nên.

    Ông Mérillon được tốt nghiệp cùng khóa và cùng trường Quốc gia Hành chánh E.N.A. với Tổng Thống Pháp, với một hạng cao hơn, nhưng ông không phải là dân bá nghệ. Ông thích nghề ngoại giao vì truyền thống của gia đình (cha ông là tổng lãnh sự ở Tanger), nên ông bắt đầu đi vào nghề ở La Mã. Ông là người được dành cho các cuộc thương lượng khó khăn. Lúc ở Jordanie ông nổi danh với các cuộc điều đình lần lượt với những người Palestine d’Habache để họ không cho nổ khách sạn Jordan, trong đó vốn đang cầm giữ các nhà báo làm con tin, và sau đó lại điều đình với người Bédouins của vua Hussein để họ bỏ ý định lấy tòa đại sứ Pháp làm mục tiêu. Sau hết ông lại giúp giải thoát các hành khách của những chiếc phi cơ bị bọn đặc công khủng bố bắt đi sai lộ trình.

    Nhỏ người, sốt sắng, năng nổ, rất sáng trong mọi trao đổi chuyện trò, học lực rất cao, bây giờ thì ông lại kẹt với vùng Viễn Tây, ở đó có quá nhiều ngành nghề, mà cũng có không ít một số khác bị mai một.

    Hơn nữa , là một cựu sinh viên quốc gia hành chánh, ông nói cho chúng tôi nghe ý kiến của ông về nhiệm vụ của một ông đại sứ. Ông gọi đó là “nghĩa vụ học” của nghề nghiệp. Ông nghĩ là ông nắm được một số quy luật. Nhưng ông có biết đâu rằng ông phải bị lệ thuộc vào một số lớn lệnh lạc của Ba Lê mà ở đó không ai hiểu gì về tình hình hết. Một ông cựu sinh viên bị kẹt cứng với tình trạng mộng du của người Việt Nam làm ông tự chống đỡ không nổi, bởi vì ông vốn được đào tạo trong kỷ luật, vốn biến người công chức thành một con người quá “lý thuyết”, đã học qua sách vở và ít khi so sánh được giữa những sự hiểu biết đó với thực tế ờ ngoài đới. Cái học của một sinh viên sẽ giúp phân tách tình hình rất hay nếu các yếu tố mà người ta cung cấp cho họ phải rất là chính xác, và với điều kiện là họ không bị kẹt với “con thú mà bản chất vốn thất thường, hay thay đổi” mà bất cứ người công chức tốt thế nào cũng phải ghê tởm, một con người mà tai biến lớn đôi khi có thể biến họ trở lại thành một con thú rừng. Hơn nữa ờ Sài Gòn tất cả đều không đúng, tất cả đều là ảo ảnh, còn sự thật thì là quá nhiều . mọi người đều nói dối vì họ có nhu cầu phải tin vào những sự nói dối trá của chính mình. Muốn thấy lại được chuyện đó thí phải có đươc những tin sơ khởi và phài sàn lọc cẩn thận, mà phải từ những nguồn tin đáng tin cậy, từ những đảng cộng sản đang chinh phục thế giới hay từ các đảng nhỏ ở Á Châu, suy sụp, đồi bại, đang có hằng ngàn phương án mà vẫn không quên tý nào về những tiêu lệnh mà người ta đã ban cho họ, và phải theo sát các biến cố mà không ngần ngại phải chơi tất cả các lá bài gian lận của Đông Phương một cách thích thú, và nhất là phải bất chấp hết tất cả mọi “nghĩa vụ học”.

    Là một sản phẩm hoàn toàn của ngành quan lại Pháp liệu ông J. F. Mérillon có chống lại nổi sự thử thách về ngày tàn của thành phố Sài Gòn hay không ?

    Theo tôi thì gần như đây là một loại trắc nghiệm. Trường Quốc gia Hành chánh (E.N.A.) trong khi đào tạo các nhà ngoại giao đầu thì lớn mà ruột thì không có , đã không rút ra được những đức tính tốt của họ, mà nếu thiếu thì họ phải chịu bó tay không làm gì được hết, khi đụng phải những trường hợp khó khăn: đó là cả một sự điên rồ có tính cách mạo hiểm và phù phiếm.

    Toán của chúng tôi đã giúp cho bà Lý thị Dung, một người biết nhiều thứ tiếng, giáo sư đại học và sau nầy chúng tôi mới biết bà quản lý rất nhiều việc quan trọng. Bọn cộng sản hiện đang ở cách thành phố chừng 5 cây số trên xa lộ Biên Hòa, và một trong các toán đặc công của họ đã len lỏi vào đượcTân Cảng, một giang cảng mới do người Mỹ xây dựng.

    Trong lúc anh Coutard chạy đến Tân Cảng thì tôi chạy đến kiếm ông Minh Dương để có thể phỏng vấn được ông ta. Các biến cố đã xảy ra quá nhanh đến độ tôi không thể cho ông ta vào ống kính của tôi được.

    Tại dinh Độc Lập, đang có một sự chuyển giao quyền hành với tất cả lễ nghi của loại biến cố lịch sử nầy. Với một giọng run run, ông già Trần văn Hương đứng lên đọc một bài diễn văn, sau đó rời khỏi ghế ngồi và bước xuống tam cấp, bị vấp phải một nấc thang. Ông Minh nói vài lời xong ngồi xuống ghế đó.

    Tôi trở về khách sạn Continental. Anh Coutard thuật lại cho tôi nghe là họ đã quay được cảnh các sinh viên trường sĩ quan Dalat đang ra tuyến đầu, và đó là lực lượng trừ bị cuối cùng của QLVNCH. Tôi cũng đã biết qua chuyện nầy vào năm 1940, khi tôi được gởi đi phòng thủ một cây cầu trên sông Loire cùng với các sinh viên sĩ quan khác, nhưng tôi không bao giờ phòng thủ được vì quân Đức đã đi ở phía Bắc và phía Nam của vị trí mà chúng tôi phải phòng thủ. Tôi cũng thấy sợ như các bạn tôi, nhưng chúng tôi đã có được quyết tâm chiến đấu, giống như các bạn tôi đang thi hành ở Saumur vậy.

    Anh Coutard đã hỏi một cách hơi cộc cằn để cố che dấu sự mềm yếu của mình:

    “Các anh em muốn sẽ đi đến chỗ tự sát phải không ?

    “-Phải, một anh chuẩn úy đã trả lời

    “ Tại sao vậy ? Đã thua rồi.

    “Chúng tôi không muốn cộng sản .”

    Và những anh chàng sinh viên sĩ quan trẻ của trường Dalat trong bộ quân phục mới thật đẹp, với những đôi giầy đánh xi thật bóng, đã bình tĩnh đi đến chỗ chết một ách rất oai hùng. Họ chỉ thiếu có chùm lông đà điểu trên mũ và những đôi găng tay trắng mà thôi.

    Chúng tôi đang ở trên sân thượng của khách sạn Continental, đang bối rối trước tầm rộng lớn và diễn tiến quá nhanh của sự thảm bại nầy. Vì chúng tôi là những người đã tự thấy mình quá gần gủi với những người thất trận như chúng tôi khi xưa, hơn là những người đã đánh thắng họ. Phải chăng vì chúng tôi là những người đã nếm quá nhiều vị cay đắng của sự thất trận hay phải chăng chúng tôi đã thấy một bộ mặt lo âu qua vài sự chiến thắng ?

    Bây giờ là 18 giờ 30 chiều. Cơn mưa nặng hột của vùng nhiệt đới đã rửa sạch các con đường. Dưới ánh sáng vàng nhạt của bầu trời, nhựa đường chiếu sáng lên trong khi các giọt mưa cuối cùng rơi nặng hột trên hè phố. Có những tia chớp và nghe có tiếng sấm sét ? Không , không phải, lần nầy thì rõ ràng là tiếng nổ của rốc kết, và tiếng rít của đạn đi. Có tiếng còi hụ báo động. Chúng tôi chung xuống gầm bàn trước khi biết là cuộc tấn công không nhằm vào khách sạn mà nhằm vào dinh Độc Lập. Có 3 chiếc phản lực phóng pháo cơ, tất cả đều là A.37, mang cờ Việt Nam Cộng Hòa , đã bắn vào Dinh của Tổng Thống và lúc trở ra lại bỏ bom vào sân bay Tân sơn Nhứt . Từ các nóc nhà, từ trên đường, tất cả những gì có súng đều thi nhau nhả đạn. Và do đó đã đưa đến sự hoảng loạn khắp nơi.

    Vào lúc đó chúng tôi tưởng rằng đây là một cuộc đảo chánh của tướng Nguyễn cao Kỳ , một phi vụ “tự sát” cuối cùng của các phi công của ông ta. Thấy là tất cả đều đã mất hết rồi nên họ quyết định phải phá sập dinh Độc Lập trước khi tướng Minh Dương đầu hàng vô điều kiện, đồng thời ngăn chận người Mỹ không cho họ tiếp tục cuộc di tản một cách êm đẹp.

    Nhưng sự thật lại khác hẳn.

    Cả 3 chiếc phi cơ và phi công kia đều xuất phát từ Phan Rang. Họ đã đầu hàng cộng sản . Một trong 3 phi công là trung úy Nguyễn thành Trung, người đã từng liệng bom xuống dinh Độc Lập lúc ông Thiệu còn là Tổng Thống. Anh ta được cộng sản thăng cấp đại úy. Điều nầy có nghĩa là cộng sản không còn muốn gì ở chính phủ của ông Minh Dương nữa, cũng nhhư của ông Hương hay ông Thiệu, và họ không có một ý muốn nào về chuyện thương lượng với bất cứ người nào cả. Đài phát thanh Việt Cộng không ngớt lập đi lập lại là không có vấn đề gì phải thỏa hiệp với ông Minh Dương và tập đoàn hiếu chiến của ông nầy, những kẻ chỉ ước mơ kéo dài sự thống trị của người Mỹ.

    Khi người ta muốn giết con chó đi thì người ta cho nó là có ghẻ lở !

    Ông Minh Dương và những người của ông là Vũ văn Mẫu một người Phật Giáo và ông Nguyễn văn Huyền, người Công Giáo, đã làm tất cả những gì họ có thể làm được để cố thỏa mãn “người của phía bên kia”

    Họ đã đòi người Mỹ phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam càng nhanh càng tốt và bằng mọi cách phải tăng nhanh tiến độ di tản của họ. Người ta chưa được biết là tòa đại sứ Hoa Kỳ phải đóng cửa hoàn toàn hay vẫn còn làm việc với một số nhân viên tối thiểu như Đại sứ Graham Martin đã mong muốn. Ông ta từ chối không muốn ra đi vội vã với lá cờ Mỹ cuốn trong tay, như ông bạn đồng nghiệp ở Phnom Penh.

    Những tin tức về sự tan vỡ đến với chúng tôi từ khắp nơi. Ông Minh Dương không làm sao nắm được ông Tổng Tham Mưu Trưởng tuy là ông có nhu cầu rất khẩn thiết, phải chăng vì ông muốn ra lệnh cho quân đội, cố gắng tập họp các đơn vị lại để tiếp tục chiến đấu hay là để chuẩn bị ý định cho một cuộc ngừng bắn ?

    Tướng Cao văn Viên và cả ông Phó của ông cùng đã ra đi với người Mỹ . Chỉ còn lại ông Minh nhỏ và sau đó là ông tướng Vĩnh Lộc, ông nầy đã có một tuyên bố ngon lành trên đài phát thanh Sài Gòn, đại ý :

    “Hỡi anh em binh sỉ ! Các anh đừng có hành động chạy như chuột, giống như Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”,

    Để rồi ông cũng bỏ chạy sau đó. Một chiếc phi cơ D.C.6 thuộc Hàng Không Việt Nam đã cất cánh không phép, chở đầy người tỵ nạn, đã đáp xuống phi trường ờ Phi luật Tân. Một chiếc tàu Mỹ di tản nhân viên của tòa lãnh sự Hoa Kỳ từ Cần Thơ đã bị trực thăng của Miền Nam Việt Nam tấn công trên sông. Không biết tức giận vì đã bị bỏ rơi hay chỉ đơn giãn là một hành động bắn phá ?

    Ông Minh Dương cuối cùng đã có được một vài biện pháp. Ông quyết định cho thả tù chánh trị, cho tái xuất bản 3 tờ báo mà chánh quyền trước đã cho đình bản, và cho lệnh thiết quân luật 35 giờ, từ 8 giờ tối nay cho tới 7 giờ sáng ngày mốt, để giúp cho Hoa Kỳ tiếp tục cuộc hành quân di tản. Bằng cách chấp thuận gia hạn thêm 24 tiếng đồng hồ để cho họ rời khỏi Miền Nam Việt Nam, ông chỉ là chuyển cho Mỹ một đòi hỏi của người cộng sản mà thôi.

    Một ông đại sứ tên là Dean Brown được chỉ định để phối hợp tất cả cuộc hành quân di tản. Có tất cả 5 chiếc hàng không mẫu hạm ngoài khơi Việt Nam , trong đó có chiếc Hancock và chiếc Okinawa là có loại trực thăng nặng, và 46 chiếc chiến hạm khác, từ những đơn vị nhẹ dùng để đổ bộ cho đến những chiếc được trang bị hỏa tiễn, và 37.000 quân nhân trong đó có 4000 Thủy quân lục chiến … tất cả đều trong tư thế sẵn sàng để bảo vệ cuộc hành quân di tản. Ngoài ra còn có hàng trăm chiếc phản lực cơ Phantom và các trực thăng võ trang Cobra. Cuộc hành quân mang tên là “Talon Vise”.

    Cuộc dội bom ở Tân sơn Nhứt đã phá hủy được một chiếc vận tải cơ C. 130 của Hoa Kỳ. Và chắc chắn là các đại bác của quân đội Bắc Việt đang ở trong tầm tác xạ hữu hiệu đối với phi trường, dĩ nhiên họ muốn ngăn chận phi cơ lên xuống lúc nào cũng được , khi mà họ thấy có nhu cầu, nhưng họ cũng biết là Hoa Kỳ không tha thứ bất cứ hành động nào có thể cản trở sự ra đi của người Mỹ - còn khoảng hơn 1000 -, và sự di tản của người Việt Nam mà con số ước lượng quá cao từ 70.000 đến 140.000 người .

    Dân chúng đã bắt đầu treo cờ Pháp khắp mọi nơi. Trên khách sạn Continental cũng đã phất phơ một lá cờ tam tài thật to.

    Chung quanh khách sạn các cô gái ăn sương hoạt động rất náo nhiệt. Họ phải tìm cho được một người bạn trai trước 8 giờ chiều nay. Còn 30 phút nũa là đến giờ thiết quân luật thì giá cả của mấy cô nàng tụt nhanh xuống. Còn vài phút nữa là đến giờ quy định thì người ta có thể tìm được một cô bạn gái mà không phải tốn tiền. Chiều ngày 29 tháng 4 thì có nhiều cô có thể sẽ sẵn sàng trả tiền để được nước Pháp bảo vệ và họ sẽ núp kỹ sau các bức tường chắc chắn của khách sạn. Người ta đang chờ đợi một cuộc dội bom….

    Đến 6 giờ chiều thì Hoa Kỳ tin chắc là đã có khả năng đạt được một thỏa hiệp về cuộc hành quân di tản, giữa ông Minh Dương và các đại diện của CPLTCHMN đang nằm trong trại Davis của họ ở bên trong phi trường Tân sơn Nhứt. Vì chính người Mỹ vẫn đinh ninh là ông Minh Dương lúc nào cũng có liên lạc với những người cộng sản .

    Nhưng họ hết sức sững sờ khi họ nhận thấy là không có chuyện đó. Có hai sự kiện để chứng minh: chuyện các phi cơ dưới sự điều khiển của Bắc Việt đã đến dội bom xuống Dinh Độc Lập, và sự từ chối của CPLTCHMN không chịu tiếp một phái đoàn thuộc chính phủ của ông Minh Dương do một người Công Giáo là ông Nguyễn văn Huyền hướng dẫn.. Phái đoàn nầy đã đến để yêu cầu “hòa bình”, sẳn sàng chấp nhận tất cả mọi điều kiện. Nhưng các điều kiện nầy chỉ được nêu lên ở Paris (Pháp), trong khi tại Sài Gòn thì người ta từ chối không muốn đối thoại.

    Ờ chợ Bến Thành người ta báo cho tôi biết là còn có một tiệm hút còn mở cửa. Theo luận điệu cộng sản thì bọn “thực dân” đã để lại 3 tật xấu. Đó là : thuốc phiện (sản phẩm chỉ do người cộng sản cung cấp), chuyện mua hương bán phấn (cũng chính người cộng sản đã dùng đa số bọn gái điếm đề cung cấp tin tức tình báo cho họ), và chợ đen (vốn là nơi mà mọi người kể cả cộng sản đã đến lấy hàng tiếp tế). Giữa những người làm chủ đất nước , họ không còn có gì hơn đề nói.

    Tiệm hút chỉ là một loại phòng nhỏ hẹp bằng cây, giống như một lồng nuôi chim bồ câu ở trên nóc nhà. ở đó có một vài người ốm khô như cành nho biết được , đến nằm khèo trên gối gỗ hay trên những lon đồ hộp cũ để hút bằng những điếu tre . Thật là bẩn thỉu đến thảm hại và đã quá lỗi thời rồi ! Tôi có hỏi một người, không biết là chủ hay là bồi tiêm thuốc :

    “Chuyện gì sẽ xảy ra khi bọn cộng sản tới đây ?

    Anh ta trả lời cho tôi bằng tiếp Pháp rất trôi chảy:

    “ Cho đến giờ nấy tất cả đều tốt.

    “ Chuyện gì vậy ?

    “Ông chủ ơi, tất cả mọi người đều bằng lòng. Người Pháp đã đổ bộ ở Vũng Tàu.

    Đối với anh ta, một người đã sống trong mộng ảo của chất ma túy thì mọi việc đều là bình thường. Người Mỹ đã ra đi rồi và được biết là người Việt Nam hình như không thể tự sống một mình được, lúc nào cũng phải có người lo cho họ, cùng đánh giặc với họ hay đánh thay cho họ… thì anh ta đinh ninh là người Pháp phải trở lại thôi.

    Anh ta giải thích là anh ta vốn là một cựu trung sỉ nhất của Pháp và yêu cầu tôi giúp anh ta tìm một việc làm như thông dịch viên chẳng hạn. Tôi hứa với anh ta những gì anh ta muốn vì tôi không muốn phá rầy giấc mơ của anh ta.

    Tôi vội vàng trở lại khách sạn Continental. Bất thình lình tôi có cảm tưởng là không có chuyện gì thật hết, là tôi đang thật sự sống trong mộng , ở đó lẫn lộn cả những điều bi thảm, phi lý, và kỳ cục: ông Đại sứ Pháp và “nghĩa vụ học” của ông ta, ông Minh Dương người muốn nắm lấy quyền hành chỉ để thương thảo với bọn cộng sản, nhận những quả rốc kết coi như món quà đăng quang, và ông Đại sứ Martin, người đã cố gắng trì hoãn tối đa sự ra đi của các công dân của mình bởi vì ông từ chối không công nhận sự thất trận của Hoa Kỳ và ông ta dấu mặt như một con đà điểu chui đầu vào cát.

    Tân sơn Nhứt đang cháy, Biên Hòa đã thất thủ. Có nhiều ngọn lửa soi sáng trời về đêm.

    Đúng vào lúc 10 giờ 51 đêm lệnh chánh thức được ban hành để bắt đầu cuộc hành quân di tản bằng trực thăng. Tên mật mã là “Sự Chọn Lựa Bốn” ( “Option IV” ).

    Tại Hoa Kỳ, Tổng Trưởng Quốc Phòng Schlesinger trong dịp nầy đã khen ngợi quân đội Hoa Kỳ: “Trên chiến địa các anh đã từng là kẻ chiến thắng. Các anh rời bỏ lãnh thổ nầy trong danh dự . Miền Nam Việt Nam đã không chống đở nổi với những áp lực mạnh từ bên ngoài, nhưng lực lượng Hoa Kỳ đã từng giúp cho họ một cơ may vừa phải để sống còn…”

    Về phần mình, ông Kissinger đã tuyên bố:

    “Chúng tôi vẫn giữ hy vọng là người Bắc Việt sẽ không tìm một giải pháp chỉ bằng phương tiện quân sự , họ đổi thái độ và chúng tôi chưa được biết tại sao..”

    Tất cả mọi người do đó đã trở thành điên rồ hết rồi!

    Ai sẽ là người Việt Nam cuối cùng chịu chết cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa ? cho ngôi sao vàng của cái gọi là CPLTCHMN hay cho lá cờ đỏ của Hà Nội?

    Ba triệu người đã chết trong trận chiến tranh nầy. Chết cho ai đây? Chết cho cái gì đây? Để giúp cho người ta bước tới được màn vũ điệu ba lê siêu thực tế nầy ?

    Người cộng sản đã rất ngạc nhiên về nhịp độ tiến quân và về sự chiến thắng của họ. Họ không hề có một chuẩn bị nào hết và chiếm một thành phố đông dân, thù địch và xa lạ như Sài Gòn , vốn đã làm cho họ sợ hãi. Họ thích “đập nát” (nguyên bản : casser) thành phố nầy với ý định trừng phạt nó …. Đối với những nguyên tắc đó, thành phố nầy là một biểu hiện của thói hư tật xấu và của sự hợp tác với ngoại bang.

    Người ta nói là có nhiều chuyện tàn ác xảy ra ở phía Vũng Tàu, trong các trại tỵ nạn được coi như mục tiêu của bom đạn.

    Có nhiều chiếc tàu chở đầy người chạy trốn đã bị tàu tuần của Thủy quân lục chiến chận khám. Binh sĩ đã lấy hết vàng bạc tư trang, còn hãm hiếp các cô gái nữa. Và sau đó họ làm cho tàu chìm, bắn chết những người còn sống sót đang cố lội vào bờ, tàn sát cả trẻ con.

    Có những kẻ cướp người Thái Lan xuất hiện ngoài khơi, chận bắt các tàu dân tỵ nạn và cướp hết tài sản .

    Ông Bà N. rất giàu có với nghề buôn bán âu dược, họ đã có thông hành và giấy phép xuất cảnh, lại có giữ được chỗ trên chuyến bay chót của Hàng Không Pháp rồi, nhưng lại không đi được vì con gái của họ đang thi tú tài.

    “Thế nào rồi việc sẽ đến cũng phải đến vào đêm nay thôi, một người bạn đồng nghiệp đã nói với tôi như thế, anh nầy cũng không biết gì hơn tôi.

    Phi cơ bay ầm ỉ suốt cả đêm trên không phận Sài Gòn , có khi bay thật thấp, Họ nối tiếp nhau cất cánh, người ta nghĩ như một đoàn các toa xe lửa vậy và ở dưới đất chúng tôi phải bịt tai lại.

    Thành phố thật sự đang bắt đầu hấp hối rồi. Còn bao nhiêu ngày nữa, bao nhiêu giờ nữa nó mới sẽ thật sự sẽ chết đây ???

    ---------------------------

  3. #3
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st

    CHƯƠNG NĂM




    THỨ BA 29 THÁNG TƯ



    Giá đồng mỹ kim:

    - lúc 10 giờ sáng: 1 mỹ kim giá 5000 đồng bạc Việt Nam

    - lúc 6 giờ chiều , gần sân bay Tân sơn Nhứt : 1 mỹ kim giá từ

    6000 đến 7000 đồng.



    *

    * *



    Thiết quân luật đến 36 tiếng đồng hồ để cho Hoa Kỳ di tản những người Mỹ, gần một ngàn người , và hàng chục hàng trăm ngàn người Việt Nam mà họ đã hứa là sẽ được bốc đi khỏi Việt Nam với người Mỹ.

    Chúng tôi không thể ra khỏi thành phố Sài Gòn vốn đang bị bao vây hoàn toàn, mà cũng không thể ra khỏi khách sạn được nữa, nếu chúng tôi áp dụng đúng theo lệnh thiết quân luật mà Chánh Phủ vừa ban hành. Nhưng cái Chánh Phủ nầy không thấy có mặt, vì người ta chỉ biết có vài người chánh trị gia mà thôi. Còn quân đội , những gì đang còn lại,và đang còn được đặt dưới quyền của Chánh Phủ từ thời ông Diệm cho tới giờ nầy.. vẫn không được hỏi tới. Người ta cũng không thấy bóng quân nhân nào đi kiểm soát lệnh thiết quân luật. Còn cảnh sát thì vắng bóng một cách lạ lùng.

    Cuộc chuyển giao quyền hành ngày hôm qua là một buổi trình diễn đẹp nhưng trong bóng tối. Tuy nhiên ông già dũng cảm Trần văn Hương lại vẫn có một bài diễn văn gọt dũa rất chu đáo:

    “Một trang sử đã được được lật qua, một trang sử mới sẽ được ông Dương văn Minh viết tiếp. Chẳng những Đại tướng rất cần có nhiều thiện chí mà Đại tướng cũng rất cần phải can đảm lên mới được. Khi chúng ta từ bỏ giải pháp quân sự là chúng ta đã chọn con đường của sự hòa hợp hòa giải và cuối cùng đi đến hòa bình .,……”

    Ông Hương đã xác nhận với tôi là ông biết tướng Minh không có một liên lạc nào với cái CPLTCHMN, trái với điều mà ông rêu rao. Ông không thể làm gì hơn được nữa. Nhưng Quốc Hội đã bị các tướng lãnh thức đẩy, nhất là tướng Trần văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng, được coi như phát ngôn viên của tòa đại sứ Pháp ở Quốc Hội . Ai cũng tưởng là số phận của nước Việt Nam được quyết định ở Paris vậy.

    Ông Dương văn Minh đã đáp từ lại ông Hương:

    “ Nhận lèo lái con thuyền Việt Nam trong những hoàn cảnh hiện nay thật ra không có gì là vui hết.Chánh Phủ mà tôi được giao phó phải thành lập là một Chánh Phủ hòa giải quốc gia, và tôi tin chắc rằng Chánh Phủ đó có thể nối lại sự thương thuyết với CPLTCHMN .”

    Ông cũng kêu gọi binh sĩ:

    “Các anh phải cố giữ phần lãnh thổ còn lại, cố giữ hòa bình và giữ vững tinh thần cao. Ngay khi một lệnh ngừng bắn được thiết lập, các anh phải triệt để tôn trọng. Trong những vùng mà các anh còn kiểm soát các anh phải giữ an ninh và tài sản của dân chúng, không được đào ngũ, không được bỏ vũ khí của mình, và bất cứ trong trường hợp nào các anh cũng phải tuyệt đối tuân hành theo lệnh đã ban ra. Tất cả mọi hành động vô kỷ luật đều bị trừng phạt ngay tức khắc.”

    Ông Minh thật là một người dũng cảm ! Nhưng ai sẽ trừng phạt binh sĩ đây ? Những người đào ngũ sẽ không bao giờ trở lại hàng ngũ của địch. Họ sẽ giữ lại vũ khí của họ để cướp bóc hay để tự vệ nếu cần. Đâu còn có ông tướng nào để mà chuyển lệnh ? và những ông đại tá thì đang sửa soạn hành trang. Chỉ còn có một vài đơn vị như các sinh viên sĩ quan Dalat hay Nhảy Dù là còn cấp chỉ huy, không bị rơi vào tình trạng hỗn độn chung.

    Ngày hôm qua chúng tôi thấy binh sĩ bỏ chạy mang theo vợ con, bỏ hết nón sắt và cả áo giáp, bỏ hết những gì bận tay vướng chân, chỉ còn mặc độc một chiếc áo cánh và còn mang khẩu súng mà thôi. Và sau lưng họ là cả một làn sóng người tỵ nạn đông như kiến mang hay kéo theo các bao bị lớn. Có không ít người còn băng bó, mình dính đầy máu hay đầy bùn, mặt mày nhớn nhác, mắt ngờ nghệch. Đôi lúc còn bật lên tiếng rên, nghe như tiếng rên la của một con vật. Một người trong nhóm tỵ nạn ngừng lại và lăn tròn xuống hố, đoàn người vẫn cứ đi.. Đoàn người chạy loạn, với đủ mọi loại phương tiện, từ xe bò, xe xì cút tơ, xe cam nhông, đến gồng gánh trên vai, tay xách nách mang con nhỏ, hay dắt chiếc xe đạp chở đủ mọi thứ không tưởng tượng được . Khi được hỏi tại sao họ phải bỏ nhà cửa xóm làng để chạy đi như vậy, thì họ nói họ cũng không biết gì hết và họ quá sợ.

    Họ nhắm hướng Sài Gòn mà đi, đi đến đâu họ phải tháo gở hết các rào cản đến đó để đi qua, các rào cản vốn được binh sĩ đã hấp tấp dựng lên trên xa lộ Biên Hòa. Các binh sĩ càng lúc càng ít đi, thỉnh thoảng lại bắn lên trời một tràng M.16 thay thế cho tiếng tu hít. Một phần của đoàn dân tỵ nạn được hướng dẫn vào nghĩa trang quân đội và cấm trại ở đó chung quanh các mồ mả trong số đó có vài cái mả còm mới , phần còn lại thì tiếp tục đi…

    Chiều hôm qua, người ta còn đặt mìn ở các cầu trên sông Đồng Nai, trừ có một chiếc là không có cho nổ. Thỉnh thoảng lại có một chiếc rốc kết rơi và nổ trên đồng ruộng làm tung tóe bùn sình vào đoàn dân tỵ nạn làm cho họ vừa la vừa chạy tứ tung. Một cái chân bị cắt đứt lìa phía trên đầu gối, đang nằm giữa đườngcùng với các mảnh vụn khác.

    Trong lúc đó thì tướng Minh lại tiếp tục phần diễn văn của ông :

    “Hỡi các anh em phía bên kia ! các anh cũng đã biết là tôi thật tâm muốn có một sự hòa giải. Tôi yêu cầu tất cả các tầng lớp dân chúng tôn trọng quyền sống của mọi người. Đó là tinh thần của Hiệp Định Ba Lê. Các anh đòi hỏi phải tôn trọng Hiệp Định Ba Lê và chúng tôi cũng muốn như vậy. Chúng ta phải cùng nhau ngồi lại chung một bàn để tìm một giải pháp có lợi nhất cho quốc gia và cho dân tộc. Để chấm dứt nhanh chóng sự đói rách cho dân chúng và cho binh sĩ, tôi xin đề nghị là chúng ta hãy chấm dứt ngay các cuộc giao tranh. Tôi hy vọng là các anh chấp nhận đề nghị nầy và mong rằng cuộc thương thuyết có thể được bắt đầu sau khi chính phủ được thành lập…”

    Có ngay câu trả lời, không cần chờ đợi lâu. Nhiều quả rốc kết rơi vào ngay dinh Độc Lập: Bọn Việt Cộng không muốn cả ông Minh cũng như người nào khác hết. Họ không có ý muốn thương lượng tý nào. Hiệp Định Ba Lê chỉ là một quả chanh đã vắt đến hết nước rồi chẳng vứt đi còn giữ lại làm gì ? Họ chỉ chấp nhận một cuộc đầu hàng không điều kiện mà thôi. Và còn hơn thế nữa. Họ muốn trừng phạt thành phố vì đã hai lần rồi thành phố nầy đã từ khước họ, vào năm 1945 và 1968.

    Thật là sai bét, đúng là một cung đàn lạc giọng vì một người thì điếc không muốn nghe gì hết, còn người khác thì lại đui không chịu thấy gì cả!

    Ở Ba Lê, CPLTCHMN thì đòi hỏi phải phá sập bộ máy chiến tranh của Sài Gòn , nhưng ở Sài Gòn nơi mà cái CPLTCHMN hình như không có quyền lên tiếng thì cấp chỉ huy Bắc Việt lại từ chối mọi cuộc nói chuyện và cứ thế mà rốc kết được nã liên hồi vào thành phố .

    Sài Gòn sẽ bị trừng phạt, Sài Gòn sẽ bị phá hủy, vì thành phố nầy đã có tội, vì thành phố nầy đã sống phè phởn trên chiến tranh, trong lúc người khác phải chiến đấu.

    Tướng Dương văn Minh đã nhiều lần nói với tôi là ông rất tôn sùng tướng De Gaulle về quan điểm chánh trị của ông ta. Trong hiện tại thì tướng Minh đã tuyên bố là ông muốn trở thành một De Gaulle. Khi thừa kế cho ông Trần văn Hương là một người vốn muốn làm một ông Pétain, thì tướng Minh chỉ có thể làm một công tác như thế thôi. Trong bài diễn văn của mình, ông cũng đã có giọng nói của ông thống chế già người Pháp. Các nhân vật ở Miền Nam Việt Nam nầy sao mà họ quá gần với chúng ta quá, và sự tan vỡ của họ sao mà cũng giống của chúng ta hồi năm 1940 quá !

    Tôi biết rất rõ hai nhân vật sắp vào trong chính phủ do ông Minh thành lập. Cả hai người đều đáng kính nhưng sau lưng họ là cả một quá trình hoạt động chánh trị, điều nầy Việt Cộng không bao giờ chấp nhận:

    Ông Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật khoa Pháp, là một giáo sư đại học rất sáng giá, và là Tổng Trưởng Ngoại giao thời ông Diệm. Ông là một Phật tử thuần thành nên ông xin từ chức để phản đối những sự truy hại nhằm vào các đồng đạo của ông. Sau đó ông là Đại sứ ở Luân Đôn của Chánh Phủ Dương văn Minh ,1963. Dưới thời ông Thiệu ông đắc cử Nghị sĩ, vào Thượng Nghị Viện ông không ngớt chống đối chế độ và chánh thức trở thành lãnh tụ khối đối lập. Thông minh và hoạt bát lại không thiếu tánh hài hước, trong năm qua coi như ông là “nguồn suy tư” của ông Minh, vì muốn trong bất cứ hành động nào ông Minh cũng đều tham khảo ý kiến của ông ta cả. Vì niềm tin vào đạo giáo, ông thật sự yêu hòa bình, và lãnh đạo phong trào “Các Lực lượng Hòa Giải”. . Ông sẽ là Thủ Tướng của Chánh Phủ.

    Ông Nguyễn văn Huyền lại thuộc một tôi luyện khác. ông là một người Ki Tô Giáo, trong khi là một chánh trị gia. Người ta nói là ông rất thần bí. Liêm khiết, rất nguyên tắc và cứng rắn, tôi có cảm tưởng ông là một tu sĩ đã lập gia đình nhưng lúc nào cũng hiến mình cho Chúa. Ông là một trong những người có uy tín ở Miền Nam Việt Nam , ít nhất là trong cái vũng lầy chánh trị đầy ếch nhái đang lải nhải nầy mà tướng Thiệu chỉ cần vất xuống một vài bổng lộc là im tiếng ngay. Ông thắng ứng cử viên của ông Thiệu và trở thành Chủ Tịch Thượng Viện. Ông từ nhiệm năm 1974 và bỏ luôn ghế Thượng Nghị Sĩ. Ông không thích tướng Thiệu trong cương vị Tổng Thống. Ông trách ông Thiệu là ăn hối lộ, không tôn trọng Hiến Pháp, và có nhiều thói quen xấu, đôi khi hay nóng tánh và ở Vũng Tàu đã buông mình trong các cuộc giải trí thô tục của bọn hạ sĩ quan Pháp.

    Nếu ta xem ông Vũ văn Mẫu là tư tưởng của ông Minh thì ông Nguyễn văn Huyền phải là lương tâm của ông tướng nầy. Ông là người đã tán thành Hiệp Định Genève, vì thực tế và bởi vì ông không thấy có một giải pháp nào khác hơn. Ông được đặc trách về công tác thương lượng với CPLTCHMN.

    Chưa thấy có tên của một vị Tổng Trưởng nào khác được chỉ định.

    8 giờ sáng, người thông dịch viên Lý thị Dưỡng của chúng tôi đến báo cho chúng tôi là bà biết một căn nhà có nóc bằng được dùng làm bãi đáp cho trực thăng Mỹ trong công tác di tản người tỵ nạn Việt Nam . Bà có thể cho chúng tôi vào vì nhà đó là của bà ta. Bà Dưỡng nầy thật là kỳ lạ ! Trong khi rời Miền Nam Việt Nam chúng tôi được biết bà ta là một trong những bà giàu nhất Sài Gòn , và là người đã có một ngân hàng thứ nhì của thành phố, một nhà máy với 10 ngàn nhân công và một công ty hàng hải mà tôi không muốn nhắc tới. Công ty nầy trị giá 18 tỷ đồng Việt Nam .

    Chúng tôi tới căn nhà đó. Nhà mới được xây cất, rất tân thời, cao đến 6 tầng, nằm trên một địa điểm rộng rãi và đẹp ở số 6 đường Trương Viên Hô. Chổ nầy có bóng những cây me che mát nhưng lại bị một đài kỷ niệm bằng xi măng làm mất thẩm mỹ. Đây là môt cây cột cao được xây lên để vinh danh quốc tế quân viện cho Miền Nam Việt Nam đứng trên lưng một con rùa to trong ao đầy nước, thường được các trẻ nhỏ xuống tung tăng nô đùa trong đó. Nhưng những ai biết rõ mặt trái của vấn đề đều nói rằng chính Tổng Thống Thiệu vì vấn đề phong thủy, đã cho xây cột nầy cắm sâu vào đuôi một con rồng dưới đất vốn đang đe dọa Sài Gòn.

    Chúng tôi tất cả toán truyền hình đều lên nóc của biệt thự nầy, một biệt thự hoàn toàn chỉ có nhân viên và công chức thuộc các cơ quan, phòng, sở của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở mà thôi. Trên sân thượng có một sàn sơn toàn đen dành cho các cuộc khiêu vũ, và một con sồ 23 sơn vàng: dùng làm bải đáp tạm thời cho trực thăng. Biệt thự có rào sắt chung quanh, có binh sĩ canh gát với súng ống hẳn hòi và họ chỉ mở cổng cho những người nói đúng mật khẩu. Một chiếc xe lớn màu trắng, trên nóc mui có gằn đèn pha xanh, không mở còi hụ, thả xuống 2 người; hai nhân vật nầy vừa nhảy xuống xe là chui ngay vào một phòng riêng . Một người thì to con như lực sĩ James Bond, râu không cạo gần như bị trầm uất thần kinh, khi đi ngang qua tôi anh ta trừng mắt nhìn tôi có vẻ kinh ngạc khó chịu. Các binh sĩ người Việt đang gác thấy lạ cũng nhìn chúng tôi chờ xem phản ứng.

    Các phòng trên tầng lầu thứ 6 đều có người ở. Tôi bấm chuông mà không có ai trả lời, chỉ trừ có một người lớn con có râu quai hàm, còn mặc xì líp bước ra yêu cầu để yên cho anh ta ngủ .Anh ta có vẻ không muốn đi, vì thấy ở đây đã tốt rồi. Di tản hả ? Chưa bao giờ nghe nói. Và nói xong anh ta đóng ập cửa lại. Tôi cũng đã có thì giờ thấy được một cây súng M.16 có cả băng đạn đang được dựng bên cạnh một ghế ngồi.

    Chung quanh chúng tôi, có đủ loại trực thăng bay rợp trời. Những con chuồn chuồn kỳ lạ nầy với những tiếng kêu thiệt ồn ào của cánh quạt, bay vòng vòng và sau một phút do dự, cuối cùng đáp xuống một nóc nhà, trước mặt chúng tôi, tức là tòa đại sứ Hoa Kỳ . Cà hai chiếc một lượt.

    Đến chừng nào mới đến lượt chúng tôi đây ? Đứng nấp phía sau nhà vòm chứa máy điện của thang máy, chúng tôi rình con côn trùng khổng lồ của mình như những nhà côn trùng học vậy.

    Cuối cùng nó đây rồi, do dự rồi đáp xuống với tiếng kêu phành phạch vang lên của cánh quạt . Chiếc trực thăng Iroquois quá đẹp , nó có thể chở 12 người . Đây không phải là một chiếc trực thăng của quân đội mà nó thuộc Hàng Không Hoa Kỳ, đang phục vụ cho Trung Ương Tình Báo Mỹ. Phi công là người Mỹ và anh ta chỉ đeo có một khẩu súng lục. Nhưng anh ta có 2 người lính người Phi luật Tân đi theo, có nón sắt, có mặc áo giáp chắn đạn cẩn thận và võ trang đầy đủ.

    Từ cầu thang máy đi lên là anh chàng to con mặc quần lót mà chúng tôi gặp lúc nảy. Lần nầy anh ăn mặc cẩn thận. Từ bao súng trong túi ló ra một cây súng lục và với một máy truyền tin nhỏ loại cầm tay mà anh liên lạc nói chuyện liên hồi. Rồi từ đây mới bắt đầu xuất hiện một số nhân vật khác. Tôi nghĩ là chúng tôi đang ở ngay vào thời điểm bắt đầu di tản các nhân viên của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ . Dĩ nhiên vẫn có những binh sĩ cận vệ và trong số nầy cũng có những “tay to mặt lớn” trong ngành. Đặt biệt trong số nầy có một người ăn mặc rất chửng chạc, quần ủi kỹ, áo khoác loại đắt tiền, thắt cà vạt, bình tĩnh, và nhã nhặn, kiểu giáo sư của một trường đại học lớn… Đươc các anh bạn khác nể trọng ra mặt. Trong lúc những người khác không ngó ngàng gì đến chúng tôi thì ông ta lại chịu nói chuyện. Ông chìa cho chúng tôi xem một cái túi da đựng dụng cụ rửa mặt của mình và nói :

    “Đây là tất cả những gì tôi mang theo từ một đất nước mà tôi mến yêu. Ít nhất cũng có tôi là người rời khỏi đây. Nhưng còn bao nhiêu người khác sẽ còn ở lại đây ? Một sự ra đi trong thảm họa ! Bỏ lại tất cả những người đã từng tin tưởng vào chúng tôi! Thật là tủi hổ cho Tây Phương ! Và càng tủi hổ hơn nữa cho Chánh Phủ Hoa Kỳ , nếu người ta còn có thể coi đó là một Chánh Phủ, một chính phủ đang còn có mặt ở Hoa thạnh Đốn . Trên 50.000 binh sĩ Mỹ đã nằm xuống để chúng tôi đi đến sự ra đi tủi hổ nầy!.”

    Viên phi công giải thích cho chúng tôi là anh ta sẽ mang số hành khách nầy đến một chiến hạm chở trực thăng của Hạm Đội VII đang ở ngoài khơi, và cuộc hành quân di tản nầy sẽ phải kết thúc vào 12 giờ khuya hôm nay. Và sau đó thì cộng sản sẽ bắn vào tất cả những gì còn bay trên trời.

    Như vậy là rõ ràng đã có một thỏa hiệp giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc Việt rồi !. Có thể được thương lượng từ Ba Lê, giữa lãnh đạo cấp cao của Hoa thạnh Đốn và Hà Nội .

    Viên phi công nhìn đồng hồ và hối chúng tôi :

    “Thôi , Lên đi chớ !”

    Anh ta cho chúng tôi là toán quay phim của truyền hình Mỹ và anh ta tin chắc là chúng tôi cũng chạy đi như anh ta vậy

    Bên dưới biệt thự, đã có đông đảo các “hành khách” đến, trong khi các chuyến xe lớn chuyên chở đầy người của Mỹ vẫn tiếp tục đến và tiếp tục đổ người xuống.

    Tôi đến nhìn gần hơn mới thấy được phía bên kia cổng rào , tòa dại sứ Ý đại Lợi với đầy đủ nhân viên, từ ông bà Đại sứ cả hai tuổi cũng đã khá cao, người rạm nắng. Người ta từ chối không chịu mở cổng cho họ. Rồi những nhân viên ngoại giao Nhật Bản đang ngập ngừng không biết họ phải làm gì. Và họ cứ đứng đó. Và còn tất cả một số người nữa, họ đứng gần như dán chặt vào cổng. Rồi một chiếc xe Mẹt xê dét màu đen, cửa buông màng kín cứ chạy vòng vòng tại chỗ, có các xe mô tô dẫn đường. Không biết ai đây ? Ông Tổng Trưởng nào đây ? Hay ông Chủ Tịch nào ? Cũng có thể là ông Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội của Miền Nam chăng ?

    Bên trong biệt thự, đã có một số gia đình người Việt Nam vào rồi với đầy đủ ông bà cha mẹ con cháu với vô số va ly hành lý. Và một số người Mỹ dân sự . Trên sân thượng của biết thự của bà Lý thị Dưỡng nầy đã có một sân bay trực thăng cho loại hành khách “tối quan trọng”, và dưới lầu thì đã có một trung tâm để tập trung các nhân vật ít quan trọng hơn. Một vài người Mỹ lo điều hành cuộc hành quân di tản nầy không thấy đâu hết vì bị số người quá đông nầy “nuốt” mất.

    Tôi bắt đầu hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Người Mỹ đã có lên các danh sách đầy đủ hết. Họ đã dự trù sẽ di tản một số gia đình nào đó. Nhưng họ không bao giờ nghĩ rằng một gia đình người Việt Nam không chỉ gồm có người cha người mẹ và một số con chừng hai ba đứa, mà còn phải có cả ông bà, cậu mợ chú bác, cháu… ít nhất cũng phải chừng 40 người. Và họ cũng chưa biết được là từ Chợ Lớn ra đến Sài Gòn đã có không biết bao nhiêu nơi chuyên cung cấp những danh sách giả. Tôi đã có nhiều bản danh sách giả đó trong tay, được thực hiện bằng mọi cách và được trả hằng triệu đồng. Và trong biệt thự nầy đang lẫn lộn cả những người thuộc danh sách thật và những người đã mua một chỗ trong danh sách giả. Có môt sự lộn xộn không tả xiết.


    Chương Năm - Phần Hai

    ( THỨ BA 29/4/75 )



    Bọn Mỹ không hiểu gì cả nên họ lên hết trên lầu 6 , vào phòng của họ và đóng cửa lại hết. Trên sân thượng, chiếc trực thăng cứ nằm chờ lệnh để cất cánh.

    Thế là mọi người đều nhắm vào tôi. Người ta van xin tôi, mà tôi thì chẳng làm gì được cả để có thể cứu vãn họ. Người ta cho tôi xem vé máy bay có hiệu lực cách đây những 2 ngày mà cho tới nay không có một chiếc nào đáp xuống, người ta trưng ra cho tôi xem những chứng chỉ đủ loại, từ tiếng Anh, tiếng Pháp đến cả tiếng Việt Nam . Một người trạc 50 tuổi nói với tôi :

    - “Ông ơi, tôi van ông, ông mang thằng con trai tôi đi giùm , còn chúng tôi thì không còn có gì quan trọng hết. Nhưng nó, nó cần phải tiếp tục đi học ở một nước tự do.

    “Còn ông thì sao ?

    Ông ta cúi đầu xuống nói nhỏ :

    “Danh sách của chúng tôi không phải là thứ thiệt.

    “Ông sợ gì ?

    “Tôi là giáo sư. Tôi không hề dính dáng gì đến người Mỹ bao giờ.

    Trong nhóm người nói trên, tôi thấy có đủ mọi hạng: những người đã làm giàu với bọn Mỹ này, những người đã có làm việc cho các sở Mỹ này, và có một số người khác thì đơn giản sợ bọn cộng sản người Hà Nội , những người của một hành tinh khác, có một dáng đi bồng bềnh, và những cử chỉ hành động có tính toán…..

    Bà Lý thị Dưỡng đem cho một số nước cam và ly nước. Tôi hỏi riêng bà ta :

    - “Tại sao bà lại không đi ? Chiếc trực thăng trên sân thượng nầy, tôi biết là nó sẳn sàng để đưa bà đi đó. Bà đã được ghi danh trên một danh sách đặc biệt, đúng không ? Bà đã tốt nghiệp ở một trường đại học lớn của Hoa Kỳ . Gia đình của bà một phần đã ở tại Gia nã Đại rồi, một số khác thì đang ở Pháp, hai trong số các con của bà hiện đang ở đó. Bà cũng đâu có cần gì tiền nữa đâu ? Bà nói rành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nhật, bà lại có bằng tiến sĩ về kinh tế và chánh trị. Sao vậy bà ?

    Bà phá lên cười, có vẻ như hơi khó chịu:

    “Ông sẽ làm gì khi được phỏng vấn, mà không có tôi ? Tôi đâu có bỏ ra đi khỏi quê hương của tôi như thế nầy được? Đi lẫn lộn trong số hành lý của bọn người nầy, bọn người đã nuốt những lời hứa tốt đẹp của họ để bỏ rơi chúng ta! Tôi không muốn trở thành một người “bị lưu dày”. Tôi còn thích làm việc bằng hai bàn tay của mình, mất tất cả thì mất nhưng vẫn còn ở lại ngay nhà của tôi, ở đây.

    Tôi sợ những người sấp sửa đến đây, sợ phương pháp làm việc của họ. Cái lối sống của họ sẽ không là gì cả đối với tôi. Nhưng họ cũng là những người đồng chủng tộc với tôi, là người thuộc dân tộc của tôi. Tôi vẫn ở lại đây dù cho có bị lấy hết tài sản hay gia sản của mình. Có thể là họ còn cho tôi giữ cái ghế giáo sư của tôi, có thể là họ sẽ hiểu là họ cũng cần đến những người như tôi, những người biết rành về những phương thức nhiêu khê của ngành tài chánh hiện đại. Biết đâu chừng !.”

    Tôi bước ra khỏi biệt thự. Bên kia rào, có cả một số đông những người đang chờ, không có một tiếng la khóc nào. Thỉnh thoảng chỉ có một cử chỉ nói lên sự tức giận hay sự tuyệt vọng . Có một người đứng chỗ kia, bất động, đứng riêng cách biệt khỏi đám động. Người Việt Nam to con, tóc bạc trắng, đẹp lão, mặc sơ mi trắng có thắt cà vạt, một chiếc va ly nhỏ để cạnh chân. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp rất sành:

    “Tôi đã 70 tuổi rồi, chỉ có một mình, nghèo, tứ cố vô thân… Nhưng tôi muốn đi !

    “Tại sao ?

    “Hồi thời Pháp thuộc, tôi là một người săn bắn có tiếng ở cái bán đảo nầy ông ạ. Và là chủ tịch các nhà săn bằn Đông Dương. Ông biết không , nhà săn bắn chỉ muốn sống tự do và những người sắp sửa tới đây không dung tha sự Tự Do !

    “Ông có tên trong danh sách được bốc đi không ?

    “Không . Tôi không có phương tiện, ông à. Phải trả đến hai hay ba ngàn mỹ kim lận. Tôi muốn sang Pháp, vì tất cả bạn bè của tôi đều ở bên Pháp. Tôi không biết mấy người Mỹ nầy.”

    Và dưới ánh nắng nghiệt ngã nầy ông ta kể lại cho tôi nghe hàng loạt danh sách các thú rừng mà ông đã hạ được ở Boloven, cánh đồng rừng của người Mọi, ở đó người bạn của ông là Bảo Đại, một tay thiện xạ đã thực hiện được một thành quả săn bắn đẹp nhất trên thế giới : 257 con cọp và 180 con beo gấm..

    Một cô gái trẻ lai Pháp nói với tôi :

    “Tôi muốn đi lắm nhưng phải đi với chồng tôi, người Việt Nam. Cả hai chúng tôi đều là giáo sư của Hội người Pháp. Người ta không có lo gì để cho cuộc di tản của chúng tôi hết. Do vậy chúng tôi mới đến đây. Có thể người Mỹ sẽ nhân đạo hơn. Chúng tôi nghèo, chúng tôi không tìm đâu ra hằng nghìn mỹ kim mà người ta đã đòi chúng tôi phải trả cho họ, nhưng chúng tôi muốn được sống tự do, kể cả mấy đứa con của chúng tôi . Nếu ông biết ông lãnh sự Pháp, ông hãy trao cho ông ta lá thư nầy giùm. Ông ta đã từ chối không chịu tiếp chúng tôi” .

    Hiện đã có hơn một trăm người đang tập trung trước ngôi biệt thự nầy với các túi vải hay các va ly xinh xắn của họ và các con quá khôn ngoan của họ với đôi mắt to kinh ngạc và với ngón tay cái đang ngậm trong miệng.

    Tất cả những người đang trong cơn mộng du nầy đang như từ nóc nhà của họ rơi xuống, và họ đang dụi mắt, họ vẫn không hiểu gì hết. Các chiếc trực thăng vẫn không ngớt đáp xuống và cất cánh bay đi từ bên tòa đại sứ Hoa Kỳ . Trước cổng rào đó, người Mỹ và người Việt Nam đã bỏ những chiếc xe lộng lẩy của họ, mặc cho bọn côn đồ làm thịt, tháo gỡ manh mún, và khuân đi nào là nệm xe, nào là bánh xe, hay tất cả mọi thứ nào xe không thể mang đi được.

    Con số người lên đến hàng trăm, hàng nghìn, chen chúc nhau vào sát cổng rào sắt của tòa Đại sứ , được Thủy quân lục chiến Mỹ canh giữ rất nghiêm nhặt.

    “ Họ đã hứa với chúng tôi là họ sẽ bốc chúng tôi đi, người đàn bà nầy đã vừa khóc vừa lập lại với tôi như vậy trong khi người ta đang đập bể cóp xe mẹt xê đét của bà…

    Đối với người Pháp chúng tôi , lúc trước hồi 1954 khi rời khỏi Hà Nội thì lại có một tốc độ khác. Chúng tôi có thì giờ đến từ giã tất cả những người đã nằm xuống mà chúng tôi phải để lại trong những nấm mồ đã phần nào bị gió mùa tàn phá…

    11 giờ sáng.

    Chúng tôi lái xe chạy lên Tân Cảng. Trời càng ngày càng oi bức không chịu được .

    Cả đoàn người vừa đàn ông, đàn bà và trẻ con, sình bùn dính đầy người, đang chen chúc bì bõm chui qua hàng rào kẽm gai, cố vượt qua một bãi sình lầy để vào những cái kho lớn nhất của người Mỹ mà chỉ trước đây 2 ngày những chiếc phi cơ vận tải khổng lồ đã còn cho đổ xuống một số hàng. Họ vác trên lưng nào là những bao bột gạo, thịt, những thùng nước trái cây, những hộp bơ, hộp đậu, quạt máy, máy xây trái cây, ván gổ, tôn, đủ mọi loại thượng vàng hạ cám bất cứ thứ nào lấy đi được là họ cố khuân vác đi . Có những món cần thiết mà cũng có những món không bao giờ họ cần đến như lưới sắt hay máy điều hòa không khí. Có những bà cụ răng đen, ngồi xổm để bắt đầu rao bán những món hàng mà họ vừa cướp phá đó để lấy tiền, vốn đã không còn một chút giá trị nào nữa.

    Ở một đồn cảnh sát , các cảnh sát viên không còn đeo một vũ khí nào, nhìn người ta cướp phá cho đến một lúc nào đó rồi một anh cảnh sát cũng nhảy xuống vũng bùn, nhập vào đám người đang hôi của đó … Các anh khác cũng chạy theo….

    Một người lớn tuổi tỳ người trên chiếc xe đạp của ông ta, nói với tôi :

    “Ông thấy có nhục không ông ? một nước lớn nhất trên thế giới như nước Hoa Kỳ lại đi bỏ rơi một nước nhỏ nhất thế giới, là Miền Nam Việt Nam, mà lãnh thổ bị thu hẹp lại hồi sáng nay chỉ còn là một mảnh đất: Sài Gòn . Tôi thật lấy làm xấu hổ cho họ.”

    Trên con đường cái lớn người ta vứt bừa bãi đủ loại thùng và đủ mọi thứ mảnh vụn. Thình lình có những tiếng còi hụ thật to nổi lên, và nhiều tràng súng tự động bắn chỉ thiên: quân lính Miền Nam Việt Nam đang trên đường rút về. Một dòng xe quá nhiều xe vận tải, lẫn lộn với các chiến xa, các xe cạp đất, xe ủi đất, xe thiết giáp, tất cả đều mở pha và hụ còi inh ỏi đang di chuyển nhanh về hướng Sài Gòn . Giữa đoàn xe lại có binh sĩ đi chân đất hoặc xe mô tô. Nhưng tất cả đều còn mang vũ khí cá nhân. Hơn phân nửa người trên xe là đàn bà và trẻ con. Một bà được chiếm một chỗ ngồi chểm chệ trên một chiếc xe ủi đất lớn, đang cười và kẹp một bó quần áo rách giữa hai đầu gối. Có một số xe đạp, xe gắn máy và những thùng thực phẩm được chất lẫn lộn trên các xe vận tải, và có một chiếc xe vận tải kia được thấy chở đầy heo…

    Tại Phú Thọ, giữa Tân sơn Nhứt và Chợ Lớn có một số nhà đang cháy và nổ lốp bốp như các bao diêm quẹt. Trên lề đường, rơi rớt các tấm tôn nằm ngổn ngang bên cạnh các chiếc xe xích lô máy và 3 cái thây người chết: một người lính và 2 thường dân bị trúng đạn, nhưng không một ai buồn thu nhặt … Ngày hôm sau chắc hẳn là họ vẫn còn nằm đó. Ngọn lửa cháy lan đến các cột điện thoại mà không một ai để mà dập tắt… Tất cả khu nầy rồi sẽ cháy hết chăng ? Hai bên trái phải gì cũng có nhiều tràng súng liên thanh. Ai bắn và bắn ai đây ? Và luôn luôn các chiếc trực thăng vẫn bay lượn tên vòm trời Tân sơn Nhứt để nhả đạn xưống vòng rào sân bay.

    Cướp phá, hôi của lan tràn.. Ở đây người ta đang dọn đồ từ một ngôi nhà mà một người Mỹ vừa bỏ đi, ở chỗ kia một hội thánh Tin Lành, và xa hơn chút nữa là một bệnh viện… Tất cả ..không chừa món nào, từ các chậu rửa mặt đến các quạt trần, các hộc tủ bằng gỗ, giây điện và các máy xây trái cây….

    Ở đây lại cũng có mấy anh cảnh sát chen lấn với mấy người hôi của. Có hai bà lớn tuổi đang khệ nệ khuân đi một chiếc tủ buýp phê trong khi đó có một chiếc xe vận tải chở đầy binh sĩ Dù chạy ngang qua, với đủ mọi loại súng nhưng toàn bắn chỉ thiên… Mất trật tự ư? Họ cóc cần, vì họ đang cần di chuyển nhanh đến những vị trí cuối cùng mà họ muốn cố phòng thủ. Trừ phi họ đừng đi về Vùng Châu Thổ sông Cửu Long, ở đó hiện đang còn có cả một quân đoàn đang trấn giữ và hình như đang có ý định chống giữ..

    Không còn gì là trật tự, không còn gì là luật pháp, trong tình trạng vô chính phủ. Bọn cán binh cộng sản đang ngồi chống súng xuống đất để chờ sự tan rã của Sài Gòn.. Ngày mai nầy, người ta sẽ moi ruột nhau ngoài đường chỉ vì một thùng bia. Có nhiều người đang mơ tưởng, ước mong có được một trật tự của những người từ một hành tinh khác tới, với nụ cười trên môi nhưng mặt thì lạnh như tiền……

    Bên cạnh khách sạn Continental, người ta đang hôi của từ trụ sở M.A.C.V.N., một cơ quan trung ương Viện trợ cho Miền Nam Việt Nam. Từ cửa sổ, tôi nhìn thấy 2 anh cảnh sát mặc quân phục đang kéo lê một tủ lớn dùng để đựng hồ sơ, ngay giữa đường Catinat (Tư Do)

    29 tháng 4:

    Ngày 29/4 nầy tôi đã chứng kiến được sự sụp đổ của phần còn lại của QLVNCH, và những cảnh thật sự của một sự vô vọng. Trong khi các chiếc trực thăng đang lo di tản người Mỹ và người Việt Nam, thì thành phố Sài Gòn được treo đầy cờ Pháp như một ngày lễ 14 tháng 7 vậy. Cũng đúng thôi. Thành phố nầy đã được các vị đô đốc toàn quyền Charner, Bonard và những người Pháp khác xây dựng lên từ một làng ở hai bờ sông mà đa số là dân chài người Campuchia và những người sống ngoài pháp luật. Người ta dán cờ tam tài ở trên kính xe, kẻ thì cờ nhỏ kẻ thì cờ thật to. Người ta sơn cờ tam tài trong cổng vào nhà. Không cần biết đó là người da trắng hay không da trắng, người Pháp hay không phải người Pháp, họ cứ dán và vẽ cờ tam tài tưng bừng khắp nơi. Người Việt Nam cũng làm như người của “Báo Chí Pháp”: tất cả các nhà báo, kể cả người Anh, đều phô bày huy hiệu “Báo Chí Pháp”.

    Miền Nam Việt Nam : thủ đô Ba Lê, Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing, người đã ủy quyền cho ông J.M. Mérillon, và ông Dương v Minh, Vũ văn Mẫu và Nguyễn văn Huyền đang chiếm vài văn phòng phụ trong dinh Tổng Thống, chờ lệnh của điện Élysée. Tôi có hơi thêm thắt đó, nhưng sự việc nó gần như vậy.

    Và đây là các điểm tập trung của người Pháp, nếu có xảy ra chuyện không hay: Tòa Lãnh Sự Pháp, Bệnh viện Grall (Đồn Đất), Khách sạn Continental, Trường Nữ Trung học Marie Curie, Trường Nam Trung học Saint-Exupéry (Chasseloup Laubat).

    Không thấy có Tòa Đại sứ Pháp. Nhất định là không rồi. Đó là chuyện giữa chúng mình, người ta muốn như vậy. Ở đó người ta đã có thực hiện sẵn những dự trữ lương thực và nước uống. Trong khi Tòa Đại sứ nầy đã trở thành niềm hy vọng cuối cùng, nơi tỵ nạn cuối cùng của hàng ngàn người đang bối rối, thì cửa sắt của nó được đóng kín lại: một thành trì mà mới đây người ta đã xây tường cao thêm lên, và giăng kẽm gai ngoài cửa sổ… Và ông Đại sứ thay vì đi ra ngoài để xem xét các điểm tập trung của người Pháp, có mặt ở nhiều nơi với các công dân Pháp để gây niềm tin cho họ, cùng ra mồ hôi ướt áo như họ… thì ông lại bó mình giới hạn trong nhiệm vụ của ông ta… vì nước Pháp không còn có một vai trò chánh trị nào nữa, vì chúng ta đã bị cái gọi là CPLTCHMN ru ngủ, một cái chính phủ mà sự hiện hữu chỉ thấy ngay ở tại Paris mà thôi. Ông tự chôn mình tỵ nạn đằng sau cái nghĩa vụ của mình. Trong khi ông Graham Martin thì chịu khó đi bộ một mình để tìm vật dụng cá nhân của ông ta, ở ngay dinh thự của ông ta với cơ nguy có thể bị bắn lúc nào không biết.

    Cả Sài Gòn treo cờ tam tài của nước Pháp mà ông Đại sứ của chúng tôi mới biết việc đó chỉ vì có người đã vừa nói cho ông ta nghe.

    Còn phía bên tòa Lãnh Sự cũng không hơn gì. Ông Lãnh Sự thì ngủ luôn tại văn phòng của ông ta, ngay sau những chấn song sắt của văn phòng mình. Đó là ông Friang, Tùy Viên Thương Mại, người có phận sự tập trung tất cả người Pháp lại, bởi vì người có trách nhiệm lo việc nầy đã xách va ly đi mất rồi. Ông ta đã nói với nhân viên của mình rằng “Tôi đi ra ngoài đậu chiếc xe của tôi lại” . Và ông lên một chiếc trực thăng Hoa Kỳ , bỏ lại mọi người cho kế hoạch .

    Do vậy đó là thời điểm mà ông Tổng Lãnh Sự Pháp, ông Lambroschini, người không hề ra khỏi sở làm hồi Tết Mậu Thân 1968, đã đi tìm các nhà báo dưới lằn đạn, đã sống với các thầy tu, các nhà trồng tỉa,và các người da trắng ở Dakao, biết tất cả mọi diễn tiến, trong khi ông cựu sinh viên hành chánh sáng giá của chúng ta thì hành động như một người mù. Đó cũng không phải lỗi của ông ta, Ông đã thi hành quá chu đáo những lệnh mà ông ta đã nhận được. Nhưng ở những nhà lãnh đạo sáng giá nầy thiếu sự rộng lượng quá, thiếu sự hăng say và hơi ấm của con người quá ! Nhưng dù sao thì ông Mérillon cũng đã quá thành công ở Jordanie, đến khi qua Á Châu thì ông bị nuốt chửng.

    Chúng tôi đi lên sân bay Tân sơn Nhứt để xem thiệt hại ở đó ra sao. Căn cứ Không Quân nầy hồi sáng nay đã bị pháo binh 130 ly và rốc kết bắn phá dữ quá, và hiện vẫn còn một số các cột khói đen đang bốc cao lên trời: Các kho hàng, các kho dự trữ xăng nhớt còn cháy. Nhưng các đường bay hình như không thiệt hại bao nhiêu. Nhưng việc di tản người đã không thực hiện được . Có nhiều đoàn xe dài thường thượt, nhất là các xe Mẹt xê đét màu đen với loại khách”sang trọng” đang chờ đợi trong xe. Và các bà với nón vành to trên đầu, đang chạy tới chạy lui, dắt theo trẻ con đang khóc lóc vì bọn chúng không hiểu biết gì cả. Đường sá thì bị ngựa sắt đầy kẽm gai với các anh cảnh sát viên khó tính chận cứng. Đặc biệt có một cảnh sát viên có lẽ tinh thần bị căng thẳng, móc súng ra đe dọa chúng tôi . Anh ta không muốn chúng tôi quay phim anh ta. Vài phút sau anh lên xe và cùng với cả toán chạy biến đi mất và phi trường không còn người canh gác nữa.

    Hết rồi.Tất cả các xe đều từ từ quay đầu lại. Cái bẫy cộng sản đang sập xuống với mấy ngàn người Việt Nam và người Tàu. Muốn ra khỏi Sài Gòn , chỉ còn có các trực thăng, hoặc tàu thuyền, nhưng chắc chắn là giá rất là đắt.

    Trong thành phố đang có sự xuất hiện của một nhóm người trẻ, với dáng điệu lo âu, mặc quần áo đen, mang súng M.16 và cạt bin Mỹ. Trông họ rất giống những người chạy xe gắn máy chyên cướp giật ví đeo vai và máy chụp hình. Hình như họ là lính bảo an hay dân vệ gì đó, đang phụ trách gìn giữ trật tự và an ninh. Nhưng họ là ai ? Từ đâu ra ? Gìn giữ trật tự hay tìm cách gây mất trật tự đây ?

    Chánh Phủ mới của ông Minh thất bại hoàn toàn, không bắt liên lạc được với CPLTCHMN . Ban Liên Hợp Quân Sự của Bắc Việt và CPLTCHMN đóng ở trại Davis trong phi trường Tân sơn Nhứt 2 năm nay theo qui định của Hiệp Định Ba Lê, vẫn còn ở đó, trong những dãy nhà cây, có hàng rào kẻm gai bao chung quanh. Họ vẫn còn ở đó, với quân số là 250 sĩ quan và binh sĩ Việt Cộng và 45 người Bắc Việt . Ai là người Nam, ai là người Bắc? Thật là rất khó mà biết được . Ai là người chỉ huy họ ? Có phải là đại tá Võ đông Giang, mà tên thật là gì cũng không ai biết được , một con người cao và gầy thường giữ vai trò phát ngôn viên với phái đoàn báo chí, và sẽ trở thành một người của Miền Nam ? Hay là người kia là tướng Hoàng anh Tuấn, người sẽ trở thành một người của Miền Bắc ? Cũng không phải người nào hết, mà là tướng Trần văn Trà, vì trước hết ông là một người chỉ huy cộng sản, trong lịch sử.

    Chung quanh họ là những cán binh của Miền Nam và họ sống như bị vây hãm trong các dãy nhà bằng gỗ có hầm trú ẩn bằng bê tông. Đó là tất cả những gì còn lại của cái gọi là Hiệp Định Ba Lê 1973.

    Một phái đoàn do ông Nguyễn văn Huyền, người công giáo, Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, với nhiệm vụ thương thuyết.. đến trước hàng rào kẻm gai của trại Davis. Cán bộ cộng sản không tiếp, Vì họ không còn muốn bàn cãi gì nữa: Họ chỉ nhận một sự đầu hàng vô điều kiện mà thôi.

    Ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ sẽ đi sang người đồng nghiệp láng giềng ở tòa Đại sứ Pháp bên cạnh. Để chánh thức từ giã ông nầy. Và để tặng cho ông nầy chiếc xe Ca đi lắc màu đen lộng lẫy của mình, một món quà mà ông bạn nầy phải nhận thôi. Nhưng ông thì phải ra đi, ngày mai lúc 3:30 sáng, sau khi chứng kiến thảm họa, một cách bất lực: thảm họa chánh trị của chính ông mà cũng là thảm họa của Miền Nam Việt Nam .

    Rồi cũng đến lượt ông Nguyễn Cao Kỳ, người muốn chiến đấu đến cùng, ra đi trên chiếc trực thăng riêng của ông. Cũng bực tức như ông Thiệu, nhưng ít nhất ông nầy cũng còn có thì giờ sấp xếp hành trang.

    Chúng tôi lại trở về khách sạn Continental. Đường sá có vẻ không được an ổn lắm. Đó đây vũ khí vứt đầy đường và cảnh sát thì không còn thấy đâu nữa. Không còn người nào tôn trọng giờ giấc thiết quân luật nữa. Người ta vẫn tiếp tục “sơi tái” trụ sở M.A.G.V.N. Cả đàn ông đàn bà trẻ con, cảnh sát binh sĩ, không còn phân biệt ai là ai nữa. Họ chuyên chở hàng đi bằng xe Jeep , bằng xe xích lô, hay bằng các thùng đẩy có bánh xe..

    Có những toán binh sĩ ăn mặc rách rưới, tả tơi đi qua, mắt hết thần, thường đi chân đất. Dân chúng kéo đến đập tường và cổng của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, mắt đỏ hoe vì quá mệt mỏi , trao hàng bó mỹ kim cho bọn lính Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ còn đang canh gác tại đó để xin họ ít nhất cũng cho được bước qua hàng rào của tòa Đại sứ . Nhưng bọn lính gác phải dùng đến báng súng để xua đuổi họ đi, đôi khi còn phải đập vào tay họ đang bám chặt vào cổng sắt không buông.

    Có nhiều người khác thì cố tìm cách vào Tòa Đại sứ Pháp, nhưng rồi họ cũng bị toán lính sen đầm to lớn liệng họ ra ngoài, có lúc còn phải giữ vũ khí của họ lại vì họ là lính.

    Về đêm thì chỉ còn có một nhóm người Mỹ quanh ông Đại sứ Graham Martin, chính xác hơn là 125 người để lo về an ninh, đang lần lượt bước lên các tầng lầu trên cùng , còn bọn Thủy quân lục chiến thì trấn giữ nóc nhà, súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng nhả đạn.

    Chỉ còn lại những người Việt Nam bị bỏ quên, vẫn đứng tại chỗ giữa các va ly hay ba lô hành lý của họ, trong số nầy có những người đã được hứa cho bốc đi và cũng có những người còn tin tưởng là sẽ được đi với những giấy tờ giả mà họ đã làm.

    Có một người dùng một cây xà beng chọc thẳng vào thùng xăng của chiếc xe của một ai đó đã bỏ lại, và xăng chảy ra, người đó hứng xăng vào một cái túi plát tíc lớn. Xăng chắc chắn sẽ khan hiếm. Tôi nghĩ là chúng ta không có xăng dự trữ. Và anh nầy đã biết lo xa tính trước rồi.

    Các trực thăng khổng lồ (chinook) của Đệ Thất Hạm Đội vẫn tiếp tục bay lượn rà thấp trên thành phố , mang theo đầy người .Khi trời sụp tối, họ cho bật đèn lên trong lúc các bãi bốc thì đèn đánh dấu cũng được bật lên và các ngọn đèn pha chiếu sáng để chỉ rõ bãi đáp. Do đó trên không phận ta thấy các điểm sáng di động và ta nghe được tiếng phành phạch liên hồi của các cánh quạt trực thăng.

    Trên một sân thượng của một nhà trước mặt chúng tôi có những người Việt Nam đang đốt một đống lửa với tất cả những gì họ vớ được : giấy, bàn ghế, thùng xăng. Họ sẽ nuôi dưỡng đám lửa nầy suốt đêm, hy vọng rằng một chiếc trực thăng nào đó thấy được dấu hiệu tuyệt vọng của họ sẽ đến cứu họ. Nhưng tôi nghiệp, đến sáng hôm sau lửa đã tắt ngúm mà không có một ai đến đón họ cả.

    Bà Lý thị Dưỡng của chúng tôi đến với người con trai và người vú em của bà, ngao ngán. Người ta đã cướp phá hết nhà của bà. Và đó là những người mà bà đã mướn để giữ nhà giùm bà. Con của bà cũng đã bị các quân nhân bắt giữ làm con tin và đòi tiền chuộc. Bà đã giốc hết tiền túi còn lại của bà, gần một triệu đồng để vứt vào mặt họ mới bắt được đứa con về.

    Khi mà người Mỹ, người Anh hay bất cứ anh “mũi lõ” nào (nguyên tác “long nez”) vửa rời bỏ căn nhà của mình thì người hàng xóm, vốn đang rình chờ cho họ vừa ra khỏi nhà, là họ leo qua rào, phá cửa và khuân đi hết tất cả những gì họ nắm được .

    Điện đã bị cúp, và chúng tôi ăn tối bằng nến. Các anh bồi bàn yên lặng dọn ăn còn đại bác và các tràng súng liên thanh thì càng ngày nghe càng gần. Có một viên đạn lạc lõng rơi vào đĩa của tôi. Anh Coutard, một chuyên viên về vũ khí, cầm viên đạn lên xem và cuối cùng anh nói: “M.16”.

    Chúng tôi vừa được cho biết về những cảnh não lòng đã xảy ra tại bến tàu. Hằng ngàn người đã tràn xuống các chiếc tàu chở hàng, tàu lưới cá, các chiếc ghe.. nghĩa là xuống tất cả những phương tiện nào nổi trên mặt nước. Nhưng mà con sông đã bị gài mìn. Có nhiều chiếc qua đươc , nhiều chiếc không qua được và có một số khác bị nổ tung.

    Các phi công lái trực thăng người Việt Nam tự tổ chức lấy những cuộc di tản. Họ đến tìm bốc người trên một nóc nhà nào đó. Vào một giờ đã được ấn định trước tất cả gia đình ngồi chờ trong phòng của một căn nhà, yên lặng, màn cửa sổ đóng kín xuống. Họ lên quá đông trên trực thăng đến đổi có một chiếc bị rơi trong Chợ Lớn vỉ quá tải về người cũng như về hành lý. Chiếc trực thăng đó chỉ có thể chở được chừng một phần ba từng ấy người và từng ấy hành lý mà thôi.

    Các chiếc trực thăng nầy đến quá nhiều trên chiến hạm của đệ Thất Hạm Đội. Họ quá vội vả khi đáp xuống tàu sân bay và khi hành khách xuống hết thì các chiếc trực thăng được hất ngay xuống biển.

    Gia đình các phi công của phản lực cơ đươc ưu tiên di tản trước và các phi công của chiến đấu cơ F.5 thì đáp phi cơ xuống Hạm Đội 7 sau đó, hoặc ở vịnh Subic hoặc ở Phi luật Tân. 75 chiếc khác thì đáp xuống căn cứ Không Quân Utapao,nằm về phía Nam thủ đô Băngcốc (Thái Lan) mang theo 2000 người. Không gì hơn là ta phải tự lo cho mình là hay hơn cả.

    Từ ngày 14 tháng 4 Hoa Kỳ đã bắt đầu công tác di tản nhân viên của họ và người Việt Nam nào đã có tên trong những danh sách của họ. Họ đã thiết lập một cầu không vận giữa Sài Gòn với căn cứ Clark bên Phi luật Tân, và đảo Guam bằng các phi cơ vận tải C.141 Starlifter và C.130 Hercules. Con số cần phải di tản là 130.000 người .Chỉ trong vòng một tuần lễ, đã có 30.000 người đã được di tản.

    Đứng trước tình hình quá nguy ngập, người ta đã tăng tốc độ quay vòng của các phi cơ. Từ 7500 người Mỹ, nay chỉ còn khoản 1.000, ngày thứ bảy 26 tháng 4 chỉ còn có nhân viên nào xét thấy cần thiết cho một số công tác phá hủy hay bảo vệ phi cơ lên xuống mà thôi. Hầu hết tất cả các kho đạn dược và xăng dầu đều sẽ được phá hủy bằng chất nổ.

    28.000 người Việt Nam đã được di tản trong 6 ngày. Còn lại khoảng 100.000 người nữa. Nhịp độ di tản tiếp tục trong ngày chúa nhật và thứ hai cho đến lúc phi trường bị pháo binh cộng sản nã vào chiều ngày thứ hai. Các phi cơ C.130 được lệnh ngưng đáp xuống phi trường . Nhưng đến 21 giờ, người ta được biết là phi trường vẫn còn được xử dụng vì cộng sản đã ngưng pháo kích.

    Tuy nhiên vì áp lực của các cố vấn nên Tổng Thống Ford quyết định mở ngay cuộc hành quân “Option 4”, tức là hành quân trực thăng vận, di tản nhanh với năng suất chuyên chở gấp đôi các phi cơ vận tải. Lệnh hành quân đươc ban hành hồi 22 giờ 51 phút. Phi trường Tân sơn Nhứt lại sẽ được tiếp tục xử dụng tiếp theo sau các cuộc nói chuyện bí mật giữa cộng sản và Hoa Kỳ . Ai là trung gian ? Tôi không biết là ai. Cuộc di tản phần lớn được thực hiện qua phi trường và được tiếp tục cho đến hết đêm, cho tới lúc cộng sản bắn vài quả rốc kết vào phi trường để báo hiệu là đã hết thời hạn ngưng bắn.

    Đài phát thanh Hoa Kỳ cho phổ biến câu mật mã “ Nhiệt độ đã lên đến 195 độ F.” tiếp theo sau một bài hát cổ của Hoa Kỳ là bài “Chúng tôi muốn có một Giáng Sinh Trắng” . Chính câu sau cùng của bài hát nầy có hai chữ “Ngọn gió thường xuyên” (nguyên tác :Fréquent wind). Và chúng tôi chứng kiến được “ngọn gió” nầy. Từ trên cao, các khu trục chiến đấu cơ loại Con Ma (phantom) bay cao thật cao , sẳn sàng can thiệp nếu cộng sản không tôn trọng lệnh ngừng bắn.

    Trường hợp bẻ gãy sự thỏa hiệp ngừng bắn đó sẽ gây nên một thảm họa và một cuộc leo thang mới nữa. Các hỏa tiển SAM-2 và SAM-7 của cộng sản sẽ ngăn chặn tất cả không quân xuất phát từ Hạm Đội VII không cho thực hiện được các sự trả đủa.

    Và chúng tôi đang ở dưới đất cùng 3 triệu dân chúng Sài Gòn cộng với 1 triệu người dân tản cư đang được dồn cứng ở các ngõ vào thành phố. (1)

    Các sĩ quan người Ba Lan thuộc Ban Giám Sát Ngừng Bắn của Hiệp Định Ba Lê đã rời khỏi khách sạn Majestic sau khi khách sạn nầy bị trúng 1 quả đạn pháo 130 ly cộng sản để sang hết qua khách sạn Continental và Astor. Khi họ vừa đậu xe trước khách sạn thì cảnh sát ập đến. Họ dùng báng súng đập các cửa kính và bắt đầu hôi của. Có nhiều cảnh sát khác đến bằng xe Jeep. Họ bắt bọn Ba Lan chăng ? Không . Họ tiếp tay với đồng nghiệp và chia phần chiến lợi phẩm.Trong khi mấy người Ba Lan chỉ biết đứng nhìn, không can thiệp . Mà cũng thấy không được yên tâm lắm.

    Lúc nầy có tiếng súng bắn khắp nơi.

    Cái đêm cuối cùng của thành phố Sài Gòn là một đêm dầy hỗn loạn. Chung quanh thành phố thì các kho xăng đang cháy, các kho đạn nổ. Còn các trực thăng thì trong lúc tìm bãi đáp để hạ cánh xuống các nóc nhà , họ bay lượn thấp, bật sáng các đèn pha như đôi mắt côn trùng khổng lồ đang tìm mồi vậy

    Ở tại Dinh Độc Lập, tướng Minh đang nỗ lực tìm kiếm một cách vô hy vọng để bắt liên lạc với cộng sản vốn không còn muốn dùng ông như con bài chánh trị nữa.

    Có một vài chiếc xe cứu thương đi qua, hụ còi inh ỏi. Thình lình pháo cộng sản bắt đầu nổ rền. Không , không phải bão tố gì đâu, một cơn bão nhiệt đới với sấm sét và mưa như trút về đêm ờ đây.

    Các anh hôi của cuối cùng dọn đồ lên xe xích lô và chạy đi trong mưa gió.

    Các anh tù chánh trị được thả ra và những anh tù thường phạm đã lợi dụng cơ hội nầy để trốn luôn. Họ chỉ cần cúi xuống lượm mỗi người một cây súng thôi là bọn vô lại nầy cũng coi như đã được võ trang hùng hậu rồi !

    250.000 binh sĩ đang tháo chạy. Có từ 700.000 đến 800.000 dân tản cư đang muốn tràn vào thành phố, một số đông đạo tặc đang sẵn sàng biến thành phố thành một địa ngục với những băng đảng buôn lậu và đào ngũ, cướp bóc và ma túy… với những tay súng của lực lượng đặc biệt đang đi tìm mục tiêu…

    Khách sạn có nguy cơ bị tấn công không biết lúc nào. Tôi mở tủ sắt lấy ra 5.000 mỹ kim và mấy ngàn quan Pháp mà tôi đã gởi vào trong đó. Khách sạn có thể tránh được việc cướp phá, nhưng số tiền nầy tôi không thể dấu trong phòng tôi được.

    Tôi nhìn thấy các anh binh sĩ mà tôi đã gặp mặt cách đây vài giờ trên xa lộ, lúc họ đang rút lui về Sài Gòn với toàn bộ vũ khí của họ. Lúc bấy giờ họ không có bộ mặt thiểu não của người lính thất trận. Họ cười đùa với tôi, làm nhiều dấu hiệu với tôi, họ giúp tôi trèo lên xe của họ và tôi đã cùng đi với họ trong chuyến xe tháo chạy về một nơi vô định….

    Nhưng kìa là một chiếc xe cứu thương. Cái mà tôi nhìn thấy bên trong thật là kinh khủng. Toàn những thân người bị cán nhẹp, tay chân gãy nát, máu me be bét, hình như còn sống và đang rên rỉ. Chiếc xe bị kẹt trong đoàn, không bác sĩ mà cũng không y tá…

    Và xe cứ chạy đi trong khi tiếng đại bác của cộng sản đang nổ càng ngày càng gần và trên đầu chúng tôi là các chiếc trực thăng.

    Tôi có cảm tưởng như đang sống trong cơn ác mộng mà ở đó những chuyện kỳ quái lại trộn lẫn với đau thương. Các anh binh sĩ nầy thì cười đùa còn các anh binh sĩ kia thì đang đi vào cõi chết. Cấp chỉ huy của họ (những người còn lại) thì nói với tôi là họ nhận được lệnh đến những vị trí đã không còn nữa, Trừ phi người ta không có quyết định vị trí phòng thủ là cái nhà thờ bằng gạch đỏ ở ngay đầu đường Tự Do .

    Chỉ trong vài giờ thôi, bộ mặt của những anh binh sĩ nầy đã thay đổi hẳn. Họ vừa mới nhận ra rằng họ là người thất trận. Tức giận vì bị bỏ quên, bị cấp chỉ huy bỏ rơi, họ bắn nhiều tràng súng từ các nóc nhà lên các trực thăng nào bay ngang qua. Có tiếng gầm rú của các chiến đấu cơ Con Ma vừa bay qua.

    Bài hát “Chúng tôi muốn có một Giáng Sinh Trắng” vừa hết với những nốt nhạc cuối cùng.

    Không còn một cái lệnh lạc nào nữa, không còn luật lệ nào nữa , và cũng không còn chính phủ nào nữa. Bọn cộng sản đang chờ đợi. Bọn chúng muốn trừng phạt Sài Gòn .

    Thành phố Sài Gòn không có hấp hối. Sài Gòn đã hết chất sống rồi, nó đang vỡ ra trong sự thối nát, trong các đám cháy, cướp bóc và hôi của. Những người may mắn đã trốn chạy theo các chiếc trực thăng của Hoa Kỳ rồi, các người khác thì chui rút kín. Còn những người đã trở lại phi trường Tân sơn Nhứt một cách thảm hại , những người bị lãng quên, không quen biết một ai ở đây thì đang hứng lấy rốc kết và pháo 130 ly của cộng sản. Và chúng tôi , những người chứng bất lực, vốn là những người đã từng thương mến thành phố Sài Gòn , vẫn không làm được gì cho thành phố thân yêu nầy. Sài Gòn bắt đầu chuộc tội về những cái tráng lệ huy hoàng của mình, những vô trật tự của mình, sự đam mê lợi lạc của mình, với các quán rượu đầy gái làng chơi của mình, các sòng bạc của mình, các lễ hội tưng bừng và cuồng loạn của mình, các hành động điên rồ của mình. Và cũng vì cái tính chất độc lập tốt đẹp nầy đôi khi biến cô gái điếm thành một bà hoàng….

    Vì Sài Gòn đã bị tuyên án tử hình !

    Chúng tôi vừa nghe biết đây thôi. Đài phát thanh của cái CPLTCHMN bắt nghe được từ Singapore đã tuyên bố là từ đây thành phố Sài Gòn sẽ mang tên mới là thành phố Hồ chí Minh .

    Một cái tên chết. Không thể gán cho những thành phố được.

    Các lằn đạn chiếu sáng, các rốc kết sáng ngời, cùng các đám cháy làm cho bầu trời đỏ rực lên. Sau cánh cổng sắt đóng kín của khách sạn, chúng tôi là một vài người duy nhất chứng kiến giờ phút cuối cùng nầy, giật nẩy mình vì một tràng súng vừa nổ, rất gần.

    Tướng Dương văn Minh có gởi một phái đoàn thứ hai tới trại Davis ở phi trường. Phái đoàn thứ nhất đã không được tiếp, phái đoàn thứ hai lại đơn giản mất dạng, dưới cơn mưa pháo của cộng sản . Sáng hôm sau người ta mới được biết là vì “nhân đạo” họ được đưa vào trại Davis, qua đêm tại đó trong một hầm trú ẩn bên cạnh các thành viên của 2 phái đoàn cộng sản Bắc Việt và cái gọi là CPLTCHMN trong lúc các quả rốc kết từ bên ngoài cứ tiếp tục rơi xuống căn cứ Tân sơn Nhứt gây nhiều đám cháy và nhiều thiệt hại vật chất đáng kể sau những tiếng nổ kinh hồn…. Nhưng người ta đã từ chối không có một đáp ứng nào về những đề nghị của phái đoàn.

    Tôi không có một ý định nào về lại phòng của tôi. Các quả đạn pháo 130 ly đã ngừng nổ. các quả rốc kết cũng vậy. Nhưng ô kìa, cậu bé trần truồng như nhộng kia làm gì mà tắm trong cái dường mương đầy bùn và nhớp nhúa dọc theo lề đường thế kia ? và cuối cùng lại còn trở về nhập bọn với những đứa trẻ khác đang nằm dài dọc theo bờ tường của khách sạn, như một bầy mèo hoang vậy ?

    CHÚ THÍCH :

    (1) Theo Hoa Kỳ thì 120.000 người đã được di tản từ ngày 14 tháng 4. Tuy nhiên theo ước tính của tôi thì còn lại gần một phần tư hay hơn một nửa đang bị bỏ lại. Đặc biệt là những người lẽ ra phải được di tản chiều ngày thứ ba bằng phi cơ vận tải ở phi trường.



    CHƯƠNG SÁU



    NGÀY 30/4/1075, THỨ TƯ



    Giá đồng mỹ kim: Giữa 800 và 1.000 đồng Việt Nam

    Các ngân hàng nào đóng cửa thì sẽ không còn mở cửa lại nữa; Các hiệu buôn có dịch vụ đổi ngoại tệ thì cũng đã buông rèm xuống hết (không buôn bán ngoại tệ nữa).



    *

    Chiếc trực thăng Chinook bốc ông Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin và các cộng sự viên cuối cùng của ông ta đã đáp xuống chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Blue Ridge ở cách bờ biển Vũng Tàu khoảng 30 cây số. Với vẻ mặt ngao ngán , quá mệt mỏi ông Martin từ khước tất cả mọi tuyên bố và rút kín vào phòng của mình. Nhưng dù sao ông ta cũng quên, không mang theo lá cờ Hoa Kỳ mà ông đã cẩn thận cuộn tròn cất trong một bao nhựa, giống như người đồng nghiệp của ông ở Phnom Penh.

    Là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, ông không phải là người bị lôi cuốn theo tấn thảm kịch. Một anh Thủy quân lục chiến được giao trách nhiệm về lá cờ. Nhưng ông Martin đã bỏ quên trong khung bằng bạc một tấm ảnh của ông Nixon và gia đình, có ghi hàng chữ tặng cho ông ta. Chúng tôi đã tìm thấy được tấm ảnh đó.

    8 giờ 30 phút sáng:

    Những anh binh sĩ Thủy quân lục chiến cuối cùng đã ra đi hồi 8.30 sáng. sau khi đã liệng vào thang máy một trái lựu đạn khói và sau khi đã phá hủy tất cả hệ thống điện tử dùng để đóng mở mọi cánh cửa sắt của tòa đại sứ, biến tòa Đại sứ nầy thành một pháo đài không ai vào được .

    Tổng Thống Ford đã lên tiếng tuyên bố như sau:

    “Cuộc hành quân di tản đã chấm dứt. Tôi có lời khen ngợi các quân nhân đã thực hiện tốt cuộc di tản, cũng như Đại sứ Graham Martin và nhân viên dưới quyền ông đã biết rõ những gì phải làm trong những hoàn cảnh khó khăn đó.

    Cuộc hành quân nầy đã chấm dứt một chương của lịch sử Hoa Kỳ . Tôi kêu gọi tất cả các công dân Hoa Kỳ hãy siết chặt hàng ngũ lại, hãy tránh không nên chỉ trích quá khứ, hãy cứ nhắm thẳng phía trước mà tiến tới các mục tiêu chung của chúng ta và hãy chung sức nhau mà làm việc nhắm vào các nhiệm vụ lớn còn lại mà chúng ta phải thực hiện”

    Về phần mình ông Henry Kissinger đã ước tính “đây là một sự thành công. Có 950 người Mỹ cuối cùng đã được di tản trong cuộc hành quân “Option 4” của kế hoạch “Talon Vise” cùng 5.500 người Việt Nam . Ông chỉ muốn nói chừng đó thôi, không hơn.

    Sáng hôm nay người ta chỉ còn thấy có 3 tòa đại sứ ngoại quốc còn mở cửa. Đó là các tòa đại sứ Pháp, Bỉ, và Nhật Bản, cộng thêm tòa công sứ của Thụy Sĩ.

    Đại tướng Dương văn Minh và các cộng sự viên thân cận nhất của ông ta đã đóng cửa ở luôn trong Dinh Độc Lập, không một lính gác. Thành phố Sài Gòn sẽ cháy hay không đây? ?

    Chuyện hôi của vẫn tiếp tục. Bây giờ là đến lượt tư dinh của ông Graham Martin bị dọn sạch sẽ không còn một món nào, kế đó là tòa đại sứ Anh Quốc. Các nhóm người hôi của có võ trang lần lần đi vào trung tâm thành phố .

    Nhưng ở Thương Cảng mới xảy ra nhiều chuyện bi đát. Anh chàng Coutard và nhóm quay phim đã có mặt ngay tại đó, trong lúc tôi đang đánh máy một bài mà không bao giờ đến được tòa soạn mà cũng không bao giờ được đưa lên mặt báo. Tháo chạy trong hoảng loạn kinh hồn, do các binh sĩ vừa bắn vừa tranh nhau lên chiếc tàu cuối cùng. Người ta giật các máy quây phim, các máy ảnh, hay tất cả những gì mà họ có thể nhờ đó thương lượng được dễ dàng. Hàng chùm người đeo vào mạng tàu. Đàn bà và trẻ con thì bị đè nhẹp. Chiếc xe của chúng tôi có nguy cơ bị đám đông tràn ngập. Có một anh binh sĩ sửa soạn dùng báng súng đập vào kính xe. Chỉ còn đủ thì giờ để chạy đi thôi, nếu chúng tôi không muốn mất hết cả vừa máy móc vừa phim ảnh. Và có thể bị hành hung nữa.

    Các anh Coutard, Mathurin và Merlin trở về nhập bọn với chúng tôi . Chúng tôi gập nhau trong căn phòng cũ cua anh Philippe Franchini, một điểm quan sát thật tốt mà anh Jean Pouget đang ở.

    10 giờ 15 sáng.

    Tổng Thống Dương văn Minh cho loan báo trên đài phát thanh Sài Gòn lệnh đầu hàng vô điều kiện như sau:

    “Đường lối chánh trị mà chúng tôi đang theo đuổi là sự hòa giải giữa người Việt Nam với nhau để tránh đổ máu một cách vô ích. Vì lý do đó, tôi kêu gọi tất cả binh sĩ của Việt Nam Cộng Hòa hãy ngưng ngay sự chiến đấu và hãy bình tĩnh ở yên tại chỗ.

    Tôi cũng kêu gọi những binh sĩ anh em thuộc CPLTCHMN hãy ngưng chiến đấu. Ở đây chúng tôi đang chờ gặp CPLTCHMN để cùng nhau thảo luận về buổi lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, hầu tránh được sự đổ máu vô ích trong dân chúng.”

    Tiếp theo đó là một nhật lệnh của tướng Nguyễn hữu Hạnh, thay thế tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Vĩnh Lộc, vừa mới di tản sáng nay.

    “Các anh em binh sĩ, các Trung đoàn trưởng, các chỉ huy trưởng đơn vị, lực lượng Địa phương quân, lực lượng Dân Vệ, và Nhân Dân Tự Vệ. Tôi là Tướng Nguyễn hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH Tôi kêu gọi các tướng lãnh và anh em binh sĩ mọi cấp hãy triệt để tuân theo lệnh của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa về lệnh ngừng bắn.

    Bộ Chỉ Huy quân sự của chúng ta đã sẵn sàng bắt liên lạc với Bộ Chỉ Huy quân sự của CPLTCHMN để thực hiện cuộc ngừng bắn mà không đổ máu.”

    Và thình lình, từ điểm quan sát của tôi, tôi thấy một đơn vị Dù tử đường Catinat (Tự Do) đi ngược lên, trong đội hình tác chiến, đi dọc theo hai bờ tường, súng cầm tay chỉ tới trước , trong tư thế hoàn toàn có kỷ luật. Theo lệnh của các sĩ quan họ dừng lại, núp vào các cửa tiệm, sau đó lại tiếp tục tiến tới.

    Người ta sẽ đánh nhau trong thành phố Sài Gòn chăng ? Các anh lính Dù nầy có vẻ cương quyết lắm. Đến ngang khách sạn Continental , họ rẽ về bên phải hướng về chợ Sài Gòn . Thình lình, có một cái lệnh. Họ biến mất hết hay đúng hơn họ biến dạng hết, để súng xuống tại chỗ, cả nón sắt, túi đeo lưng và ào giáp chống đạn … chỉ còn quần cụt áo thung lá, họ chạy biến đi mất hết, rất là nhanh.

    Trong thành phố, hàng ngàn binh sĩ biến thành dân chúng, họ vứt bỏ hết quân trang quân dụng, vũ khí , lựu đạn của họ, cả súng không giật và đạn dược, rồi dùng đủ mọi phương tiện, chân đất, xe đạp, xe honda v.v… chạy dọc theo đường phố, biệt thự.. Như vậy là còn gì quân đội nữa đâu ? một trong những quân đội hùng mạnh nhất , được vũ trang hùng hậu nhất của vùng Đông Nam Á Châu.

    11 giờ 30 :

    Đại tá Loan thuộc lực lượng cảnh sát , tự sát ngay tại tượng đài Thủy quân lục chiến trước Quốc Hội. Anh tự bắn vào đầu rồi ngã xuống nằm dài dưới tượng đài, chiếc mũ cát kết với nhành dương liểu màu bạc nằm trên ngực. Như một sự dàn cảnh để cho người ta chụp ảnh vậy. Từ lỗ tai bên trái của anh chảy ra một dòng máu có pha trộn chút óc lỏng. Anh còn thoi thóp thở trong khi phía trên anh có nhiều tiếng sè sè của máy quây phim và tiếng lắc cắc của máy ảnh… Sau đó thì anh tắt thở tại bệnh viện Đồn Đất (Grall).

    12 giờ 5 phút:

    Một chiếc xe jeep chạy xuống đưòng Catinat, có mang một lá cờ to của Việt Cộng , trong khi chiến xa vào chiếm Dinh Độc Lập. Một trong các chiến xa đã ủi sập cổng sắt và bắn một phát đại bác và vài tràng đại liên. Mười bốn chiếc khác chạy theo sau, pháo tháp mở toang, nghi trang đầy cành lá… Có nhiều binh sĩ mang nón cối lá, mặc quân phục xanh lá cây và mang dép râu Hồ chí Minh, võ trang súng AK-47 của Tàu Cộng, từ trên chiến xa nhảy xuống và chạy vào Dinh Độc Lập.

    Trên bao lơn đã có một lá cờ của CPLTCHMN . Thế là Sài Gòn đã bị chiếm và không bị cháy. Tối thiểu phải được như vậy.

    Và đây là bài tường thuật những giờ phút cuối cùng của thành phố Sài Gòn:

    Đúng như lời đã kể lại của ông Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền, Thủ Tướng Chánh Phủ, ông Vũ văn Mẫu, cả hai người đã cùng với Tổng Thống Dương văn Minh đều vừa là nhân chứng vừa là diễn viên.

    Và sau đây là số phận của Sài Gòn trong vài phút đồng hồ, thời gian giữa 10 giờ 30 phút và 11 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975..

    9 giờ sáng:

    Ông Dương văn Minh và 2 vị phụ tá Nguyễn văn Huyền và Vũ văn Mẫu, 3 người và chỉ có 3 người thôi, đang ở trong một phòng tiếp khách nhỏ của Dinh Độc Lập. Trên dưới khoảng 50 người đang chờ ngoài hành lang để chứng kiến buổi lễ trình diện thành phần nội các mới. Ai thấy món nào vừa ý mình thì cứ lấy thôi. Cũng vì thế mà giáo sư Vũ văn Mẫu đã dẫn theo một số thư ký của mình.

    Không còn một tia hy vọng nào để thương thuyết nữa, ngoài đường phố đã có cả một sự vô trật tự và các đơn vị đầu tiên của cộng sản đã vào thành phố Sài Gòn. Nhưng chỗ nào cũng có những ổ kháng cự , căn bản từ các đơn vị ưu tú, cố bám chặt địa thế, như tại Tân sơn Nhứt đã có một đơn vị Dù vừa mới dùng súng không giật làm nổ tung 5 chiến xa T.54 của Liên Xô.

    Cả ba người đang ngồi chờ phái đoàn trở về, phái đoàn thứ hai mà họ đã gởi đến trại Davis để tiếp xúc với cái gọi là CPLTCHMN . Thời gian trôi qua mà chẳng có ai về hết.

    Thình lình cửa vụt mở. Cả ba ông đều đứng dậy, tưởng rằng cuối cùng rồi đại diện của quân đội cộng sản cũng đến để ấn định thể thức cho sự đầu hàng. Nhưng không phải, mà đó chỉ là đại tướng Vanuxem, một người cố vấn được ông Thiệu tin nghe nhiều nhất. Ông được mời đến Sài Gòn và vừa mới đến mấy ngày trước đây thôi, mang đến cho ông Thiệu sự vững tâm do tình bạn thân giữa hai người và đã cố vấn cho ông Thiệu một số vấn đề để cố vực tình hình lên. Nhưng ông Thiệu đã trao quyền lại cho người khác, ông Vanuxem vẫn còn ở lại đây. Ông đang đi dạo lanh quanh Dinh Độc Lập vắng trống, và bước vào đây. Không có một anh lính gát nào cả, tất cả đều vắng tanh. Tướng Minh không dám mời ông đi ra. Ông Vanuxem đã từng là một cựu sĩ quan trong quân lực Việt Nam , một quân đội mà ông còn giữ mãi một sự triều mến vô hạn. Hay là ông ta tưởng là có thể mình còn được trao cho một nhiệm vụ gì đây ?

    Một điều mà không một nhà báo nào dám nghĩ tới là ông tướng Vanuxem sẽ đuơng nhiên chứng kiến những giờ phút cuối cùng của chính phủ mới nầy, cái chính phủ mà có nhiều kẻ xấu miệng đã nói rằng nó được thành lập ở Ba Lê và được ông Mérillon chủ tọa tại Sài Gòn. Nhưng chính ông Vanuxem, sáng nay lại đích thân chủ tọa dưới danh nghĩa của nước Pháp.

    Trên một góc bàn, ông Vụ văn Mẫu đang soạn gấp một bản tuyên bố kêu gọi ngừng bắn. Sau đó ông cùng tướng Dương văn Minh lên xe đến đài phát thanh, trên đường đi xe lại gặp một ông tướng về hưu đang đi tìm ông Tổng Tham Mưu Trưởng Vĩnh Lộc, người vừa rời khỏi Tổng Tham Mưu sáng nay. Còn ông Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền thì lui vào nhà nguyện để ông nguyện cầu.

    Cả 3 người đều biết rằng cộng sản đang sẵn sàng để san bằng thành phố Sài Gòn nếu các điểm kháng cự không chịu im ngay tiếng súng, mà chính bọn cộng sản cũng đang muốn như vậy. Người Miền Bắc rất sợ thành phố nầy; họ thích được thấy thành phố nầy bị tan hoang, và quỳ gối xuống để tùng phục họ.

    Tướng Vanuxem thả bộ về khách sạn của ông, vừa đi vừa nghĩ một vài hành động có tánh cách chiến lược về quân sự và về chánh trị.

    Khi hai ông Minh và Mẫu về đến Dinh Độc Lập thì họ đã thấy có mấy chiếc chiến xa ở bãi cỏ rồi. Không phải chiến xa cộng sản mà 3 người đang chờ đợi mà là 3 chiếc M.48 của QLVNCH, có mấy chàng sĩ quan trẻ vừa nhảy lên chạy vào đó. Đây là những người không muốn đầu hàng cộng sản . Họ muốn tiếp tục chiến đấu vì danh dự và cũng vì họ từ chối không nhận cộng sản Dù có bị chôn vùi dưới đống gạch vụn của thành phố Sài Gòn thì điều đó cũng không làm họ quan tâm.

    Tổng Thống Dương văn Minh phải tốn vài phút để thuyết phục họ. Các khẩu đại bác 130 ly và rốc kết 122 ly đã được bố trí chung quanh thành phố rồi. Ông Vũ văn Mẫu sau nầy đã có nói cho tôi biết là không phải hăm dọa mà là chuyện thật. Ông ta bị giữ lại trong Dinh Độc Lập với Dương văn Minh suốt 48 tiếng đồng hồ và một trong các sĩ quan Bắc Việt với cấp bậc tướng hay tá gì đó ông không biết, đã nói với ông rằng :

    “Chúng tôi đã được lệnh bắt đầu pháo vào Sài Gòn vào lúc 11 giờ trưa nếu thấy các ổ kháng cự chưa chịu ngưng tiếng súng. Thành phố được chia ra làm 30 ô vuông, mỗi ô như vậy sẽ lãnh 100 quả rốc kết và 3000 quả pháo 130 ly. Sau đó chúng tôi sẽ mở đợt xung phong vào thành phố . Chúng tôi biết là sẽ phải chiến đấu cực kỳ khó khăn trong đường phố, và còn một số đơn vị đã hạ quyết tâm kháng cự đến cùng. Chúng tôi ước tính là phải mất đến 7 ngày chiến đấu gay go, từ hôm nay 30/4 cho đến 7 tháng 5, và ngày 7 tháng 5 là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ là chúng tôi phải làm chủ thành phố Sài Gòn . Chừng đó phải chấm dứt mọi ổ kháng cự. "

    Ông Vũ văn Mẫu còn nói tiếp :

    “Ông Minh và bản thân tôi đều biết là những cuộc kháng cự đó đều vô ích, chỉ có thiệt hại cho dân chúng , có thể có từ 250.000 đến 300.000 người chết và thành phố Sài Gòn sẽ bị tan nát vì các đám cháy mà không ai ngăn chận được . Có nhiều khu nhà bằng cây ván, còn cảnh sát cũng như các nhân viên an ninh đều mất dạng hết.”

    Lợi dụng uy tín của một cựu chỉ huy và của một trong những sáng lập viên của QLVNCH, với một giọng nói thẳng thắng của một người cha đang giảng về luân lý cho mấy người con hiếu chiến của mình, tướng Minh giải thích với các sĩ quan thiết giáp trẻ mà lòng can đảm của họ làm cho ông cảm phục, rằng họ không làm gì hơn được đâu mà chỉ làm tăng thêm nổi đau khổ cho đất nước của họ mà thôi. Họ được bao nhiệu ? Phần còn lại của lữ đoàn Dù và thiết giáp nhiều nhất là 2.000 người .Mà trước mặt họ là 15 sư đoàn : trên 100.000 người cộng với các trung đoàn pháo binh, hỏa tiễn, phòng không v.v.. Và họ đang sẵn sàng chờ lệnh xung phong, chỉ với một ước mơ là tiến vào cái thành phố nầy, cái thành phố luôn luôn chống đối lại họ, luôn luôn từ khước họ, với biểu tượng của tất cả chủ nghĩa thực dân và của chủ nghĩa đế quốc. Để mà trừng phạt thành phố nầy và san bằng thành phố nầy .Nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu là chúng ta rơi đúng vào ý muốn của họ ngay.

    Các sĩ quan nầy hiểu và trở về đơn vị của họ để thuyết phục đơn vị của mình nên chấm dứt cuộc chiến đấu.. Nhưng rồi cũng có một số người chạy về Miền Tây để tiếp tục kháng chiến ở đó.

    Kẻ chiến thắng có thể tiến vào Sài Gòn được rồi….

    Nhưng ai là người đã cứu sống được thành phố Sài Gòn? Không phải Kissinger mà cũng không phải Graham Martin khi họ vận động cho ông Thiệu rời khỏi Sài Gòn . Cũng không phải ông Sauvagnargues hay ông Mérillon khi họ vận động để cho ông Trần văn Hương chịu rời khỏi ghế Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa . Mà chính là tướng Dương văn Minh. Ông ta đã cứu thành phố Sài Gòn bởi vì ông không phải là một chánh trị gia trong suốt cuộc đời binh nghiệp của ông ta , bởi vì đối với các sĩ quan trẻ ông là biểu tượng của một cái gì cao quí, của một cái gì liêm chính, một người không bao giờ hiểu nhiều về những sự tế nhị của chánh trị quốc gia hay chánh trị quốc tế, mà là một người mà trong giờ phút quyết định nầy có thể có được lòng tin của những người trẻ tuổi trên dưới 20 sẳn sàng chết cho đất nước . Bọn trẻ nầy đã khinh bỉ , và gạt ngoài tai tất cả những lời của các nhà ngoại giao hay chánh trị gia vốn chỉ ru ngủ được mấy ông già, những người vô liêm sỉ và những người chỉ chờ nước đục để thả câu.

    12 giờ 5 phút:

    Vào đúng 12 giờ 5 phút có một xe Jeep, phất phơ lá cờ giải phóng chạy xuống đường Tự Do. Các chiến xa có xe vận tải Molotova chở đầy cứng bộ đội chạy theo sau, đã vào chiếm Dinh Độc Lập. Năm chục nhân sĩ hay thơ ký đến Dinh để chứng kiến buỗi lễ ra mắt của chính phủ hay để tham gia chính phủ đều phải đứng dậy, hai tay đưa tay lên trời, dưới họng súng tiểu liên của “bộ đội”; Hai ông Dương văn Minh và Vũ văn Mẫu thì bị kè lên xe Jeep, dưới sự canh giữ sát sao của mấy anh “bộ đội”. Họ đi đến đài phát thanh có hộ tống chặt chẽ, để kêu gọi lần chót các binh sĩ nào còn chiến đấu hãy buông súng xuống. Bởi vì người ta vẫn còn đánh nhau ở Tân sơn Nhứt, ở Gia Định, chung quanh một vài trại lính, gần Tổng Nha Cảnh sát , và ngay trên đường Pasteur vẫn còn một nhóm nhỏ đang cố chống cự .

    13 giờ:

    Tất cả coi như đã chấm dứt. Ông Minh đã được đưa về lại Dinh Độc Lập và bị cầm giữ trong phòng riêng. Ông ước tính rằng ông đã làm xong nhiệm vụ của mình.

    Vài phút trước khi các chiến xa Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập, sau khi ông kêu gọi ngừng bắn và sau khi đòi hỏi binh sĩ của mình hãy buông súng xuống, thì ông có tuyên bố với một trong những nhà báo cuối cùng mà ông đã gặp. Đó là anh Arnaud của hảng A.F.P. như sau :

    “Tôi chờ đợi họ, hôm nay hay ngày mai (điều nầy chứng tỏ là ông bị cắt đứt không có một chút tin tức nào hay bất cứ một sự liên lạc nào với “những người bên kia”). Đúng vậy, tôi phải làm chuyện nầy.Tôi phải cứu sinh mạng họ, sinh mạng của những người Việt Nam , và sinh mạng của người Pháp nữa. Anh hãy nói lại với Đại sứ Pháp là anh đã gặp tôi ở đây.”

    Cuộc trao đổi chớp nhoáng nầy xảy ra giữa lúc mà các sĩ quan thiết giáp trở về đơn vị của họ và các chiến xa cộng sản tiến vào Dinh Độc Lập.

    Tất cả những người mà tôi đã phỏng vấn sau đó lúc ông Dương văn Minh đang có mặt cùng với các cộng sự viên thân cận của ông, phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền, Thủ Tướng Vũ văn Mẫu, tất cả đều xác nhận với tôi là các sĩ quan và bộ đội cộng sản đã tiến vào Dinh Độc Lập trước tiên để bắt giữ tất cả làm tù binh.. là những người Bắc Việt .

    Các thành viên của chính phủ lúc đó đang họp trong văn phòng làm việc của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa . Cái gọi là CPLTCHMN chỉ có đại diện duy nhất trong lúc đó là lá cờ lớn xanh đỏ có ngôi sao vàng ở giữa mà một anh bộ đội Bắc Việt mang lá cờ đó treo lên ở ngoài bao lơn thay thế cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa .

    Đi sau các chiến xa tiến trước tiên vào sân của Dinh Độc Lập là bộ binh trên xe vận tải của Liên Xô hay của Trung Quốc. Các xe nầy giống nhau hết và phải đến gần dòm vào đầu xe mới phân biệt được, vì xe của Trung Quốc có viết hàng chữ Tàu. Các anh “bộ đội nhảy xuống xe, súng chỉ thẳng trước mặt, xong họ ngồi xuống bải cỏ có bóng mát và nhờ cơn mưa còn ướt đất.

    Chúng tôi vào lẩn lộn với họ. Có người thì cười với chúng tôi, có người thì có vẻ như hăm dọa, có người thì để cho chúng tôi chụp ảnh, có người thì từ chối không cho. Họ chưa được tiêu lệnh nào cả nên không biết phải đối xử với chúng tôi như thế nào.

    Tôi hết sức ngạc nhiên về tuổi quá trẻ của họ, khoảng 16 hay 17, 18 tuổi, và cũng ngạc nhiên không ít về độ gầy của họ, sự mệt mỏi lộ hẳn ra trên mặt của họ và họ có một cái lối đi như phất phới trong bộ quân phục màu xanh lá cây rộng thùng thình của họ. Với cái nón cối trên đầu họ giống như những đứa trẻ trong ca đoàn nào đó vậy. Họ cười tươi lắm nhưng họ có trong tay vũ khí rất là nguy hiểm: súng AK.47 của Tàu hay súng trường Kalachnikov của Liên Xô, súng không giật với các quả đạn B.40 mang quanh thắt lưng với một xâu lựu đạn tròn.

    Cấp chỉ huy của họ đều thuộc một thế hệ khác, của lớp trên 40 tuổi, với gương mặt khắc khổ vì chiến tranh, với những vết nhăn vì năm tháng chiến đấu trong rừng. Họ mới thật sự là những người lính khắc khổ kiểu thầy tu, những cán bộ chỉ huy biết kèm và biết biến những thanh thiếu niên trẻ người non dạ nầy thành một bọn người cuồng tín.





    CHƯƠNG SÁU

    Phần 2



    Hình như là cả một thế hệ nam giới đã hoàn toàn mất hết, những người đã theo đuổi cuộc chiến chống Mỹ ác liệt, những người đã bị các trận mưa bom của pháo đài bay B.52, những người đã ngã gục vì kiệt sức trên các nẻo của con đường mòn Hồ chí Minh . Những người thuộc thế hệ đó coi như đã bị xóa sổ trên thế gian, xóa sổ trên cõi đời nầy.

    Cả một thế hệ đã bị cuộc chiến nuốt chửng ! Những kẻ may mắn còn sống sót thì được trui rèn rất nghiệt ngã, được đúc trong lò luyện kim, được nuôi dưỡng trong sự hận thù với người ngoại quốc... Đó là những người đang dẫn đám trẻ khờ dại kia vào Sài Gòn , bắt họ phải xuyên rừng, bắt họ phải chiến đấu mà không tha thứ một sự mềm yếu nào và đã nhồi nhét cho họ một thời gian ở ven rừng Cam Bốt một tôn giáo mới, một thứ tôn giáo mà giáo chủ không phải là Marx mà là Hồ chí Minh và một mục tiêu là “nướcViệt Nam vĩ đại” bao gồm toàn thể lãnh thổ của nước Đông Pháp cũ khi xưa (Đông Dương).

    Các cán bộ đó đã trở nên vô vùng quý giá, lại không được nhiều , cho nên Bộ Chỉ Huy tối cao đã phải bắt buộc họ không được liều lĩnh hy sinh đời sống của mình và họ luôn luôn được một toán phòng vệ bảo vệ thật kỹ. Họ còn được lệnh phải chạy trốn nữa, nếu họ thấy có nguy cơ bị bắt.

    Những người đó, tôi nhận ra họ được ngay với nụ cười lạ đời của họ như một cái mặt nạ đeo trên mặt vậy. Đó mới thật sự là những anh Việt Cộng chính cống (cộng sản Việt Nam), những người lính chiến giỏi nhất của Á Châu, những người mà chỉ có duy nhất hai chữ chiến tranh trong đầu, không gì khác hơn nữa. Họ có một đức tin lạnh giá của những quan tòa dị giáo; họ tin tưởng vào đường lối chánh trị lạ lùng của cộng sản Bắc Việt mà tất cả đều được ghép lại một cách tài tình : một chủ thuyết mác xít của Tây Phương rút gọn lại trong một số giáo điều , một bóng dáng của chủ nghĩa quốc gia hoang tưởng, một tình yêu tổ quốc của giống dân người Việt Nam, cũng giống như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc cuồng nhiệt của các giống dân khác, một sự thực hành về đức hạnh, và khổ hạnh như một tu sĩ…. Và đầy đủ cả tập tục, nghi thức của một đoàn hướng đạo rút ra từ những trại thiếu niên của Đô dốc Decoux, với cái khía cạnh “cách mạng quốc gia” kia: với lửa trại, với hát xướng, với vũ điệu dân gian, với những trò chơi, với sự suy tôn vị lãnh tụ già Hồ chí Minh mà cuộc đời được thật sự ví như là một vị thánh sống. Chỉ còn thiếu có chút hào quang của những hình ảnh thần thánh của già Hồ mà đi bất cứ nơi nào chúng ta cũng nghe thấy. Nhưng người ta quên mất rằng ông ta chỉ là một người cách mạng dữ tợn, không biết thương xót một ai , và không bao giờ do dự trong việc thủ tiêu tất cả những người đối lập để giữ được sự vẹn toàn cho đảng mình, cũng như trong việc bán hết các đối thủ chánh trị cho cơ quan An Ninh Pháp để cơ quan nầy thủ tiêu họ giùm cho đảng cộng sản ..

    Nhưng tinh thần mạnh nhứt thúc đẩy người dân Việt là lòng kiêu hãnh vô bờ bến mà họ dấu không được dưới một sự giả vờ nhún nhường không chịu được ngay cả với những đồng minh của họ: Liên Xô, Hung gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan, Đông Đức và nhất là Trung Cộng.

    Họ đã chiến thắng người Pháp, mà nếu như họ biết nhân nhượng một chút thì họ có thể thương lượng được dễ dàng, để sau đó họ có thể thống nhất lãnh thổ lần lần một cách êm thắm thay vì phải đánh chiếm . Họ tưởng rằng họ đã chiến thắng người Mỹ mà dưới thời của ông Johnson họ có thể thương lượng được . Nhưng trong khi đó thì người Mỹ không bao giờ muốn đeo đuổi cuộc chiến cho đến cùng và họ đã bị lương tâm của họ đầu độc họ rồi. Nhưng mà khi người ta muốn giữ trọn quyền lực với thế giới, thì người ta không cần phải bận tâm ngại ngùng về điều gì hết. Hãy coi gương người Liên Xô thì thấy rõ được điều nầy.

    Người cộng sản Việt Nam đã trở thành một dân tộc xâm lăng, chỉ cần một cái lệnh của các ông chủ đỏ là họ sẽ lăn xả hết mình vào chiến tranh và cho chuyện xâm lược ngay. Có đến 3 triệu người chết vì cái niềm tự hào đó.

    Và đây những anh “bộ đội- trẻ con” !

    Tôi đi dạo chơi chung với họ. Có nhiều người dân Sài Gòn đã bắt đầu đến gần họ, lấy làm ngạc nhiên là họ không cắn mổ gì cả, ngạc nhiên vì họ còn quá trẻ và cũng biết cười…. khi họ thoát khỏi tầm giám sát của những cấp trên khắc khổ của họ.

    Với các anh Coutard, Merlin, Mathurin và Brigide Friang, với các anh Pouget, Held và F.Debré, với Dreyfus và Caviglion, ngoại trừ một người bị kích thích vì người đó mang băng đỏ và dấu hiệu của CPLTCHMN , chúng tôi đều cảm nhận là dân chúng không được vui gì lắm, tôi có thể nói là người dân Sài Gòn có vẻ phải cam nhận chịu số phận thôi. Có một vài tiếng vổ tay lẻ tẻ và kín đáo, có một vài gói thuốc lá mà người ta chùi cho “bộ đội”, có vài câu hỏi thông thường trong dè dặt mà người ta đưa ra. Ngoài ra không có gì hơn.

    “Họ có gia đình ở Miền Nam không nhỉ ?: Đó là câu hỏi mà người ta thường nêu lên. Bằng cách nầy hay cách khác người ta muốn biết về cái CPLTCHMN kia vốn chánh thức đã tiến chiếm Sài Gòn , xin lỗi, đã “giải phóng” Sài Gòn , mà cho đến giờ nầy chẳng thấy có một người lính nào của cái Chánh Phủ đó ở đây.

    Có chớ! Có một số đơn vị Miền Nam đến vào lúc xế chiều, không nhiều lắm, nhưng cũng có võ trang, họ đến sau, họ là kháng chiến quân được bộ đội chiến thắng của Hà Nội giao cho nhiệm vụ phụ, không mấy quan trọng, nên họ phải đến sau. Hình như vì thiếu binh sĩ của CPLTCHMN nên người ta phải tạo dựng ra nhóm binh lính nầy vậy.

    Tôi đã có nói đến các anh Nhân Dân Tự Vệ mà người ta thấy có mặt trong những ngày cuối cùng . Những anh nầy lẽ ra phải lo giữ an ninh, nhưng họ lại làm ngược lại. Tôi lại thấy họ biến thành kháng chiến quân, đeo băng đỏ trên cánh tay, đi trưng dụng xe và chạy khắp các nẻo đường vắng, hốt hết bọn vô công rồi nghề, với bọn cao bồi vốn đã có nhặt được trên lề đường một vài cây súng M.16, một cây súng lục hay một súng liên thanh và cùng nhau biến thành kháng chiến quân. Những anh kháng chiến quân vào giờ thứ 25 nầy, đảng rất cần. Do đó người ta không khó tính lắm đối với vấn đề tuyển mộ họ. Bất cứ ai cũng được , càng nhiều càng tốt, trong giờ phút nầy.

    Người ta cần những người nầy để chứng minh thuyết chính thống của người cộng sản Miền Bắc, cái thuyết được mệnh danh là “giải phóng thành phố Sài Gòn”, để một ngày nào đó người ta có thể xác nhận là tất cả “nhân dân Sài Gòn” – đó là một công thức- đã đứng lên ( nổi dậy) khi thấy có các đơn vị thuộc quân đội nhân dân Miền Nam Việt Nam sắp đến . Và cũng vì lý do nầy, để cho việc gian lận nầy trở thành một sự thật, dù là có vẻ mơ hồ, người ta bèn cho phép họ vừa phóng nhanh qua các đường phố, vừa bắn chỉ thiên nhiều loạt súng và vừa nhận kèn inh ỏi.

    Sài Gòn không phải được giải phóng. Sài Gòn cũng không có nổi dậy. Sài Gòn đã bị quân đội ngoại quốc từ Miền Bắc Việt Nam đến xâm chiếm, vi phạm rõ ràng và trắng trợn tất cả những điều khoản của Hiệp Định đã được ký kết tại Ba Lê. Đó là quân đội chánh quy Bắc Việt, đặc biệt được trang bị và võ trang một phần từ Trung Quốc (đang cắn mấy ngón tay) và phần lớn từ Liên Xô (dự trù xài sau nầy để chống lại Trung Quốc), và đó mới chính là sự thật. Chúng tôi là 120 nhà báo có thể chứng minh điều nầy. Cộng sản biết rõ điều nầy. Do đó trong 2 giờ sấp tới, vào lúc đúng 14 giờ trưa người ta đã tìm được cách giam hãm hết chúng tôi ở Sài Gòn , cắt đứt hết mọi đường dây thông tin và phát thanh, cấm không cho chúng tôi gởi phim ảnh của chúng tôi ra ngoài. Họ khóa hết miệng chúng tôi lại, bắt chúng tôi phải im lặng. Để cho họ có đủ thì giờ loan tin thất thiệt đó ra thế giới bên ngoài.

    Cái gọi là quân đội thân Việt Cộng , được huấn luyện trong bưng biền với súng gỗ, mà người ta đã nhiều lần tuyên truyền nhồi nhét bắt chúng tôi phải nghe, cái quân đội đó đang diễn hành trước mặt chúng tôi . Đó là hàng hàng lớp lớp các chiến xa T.54, T.56 của Liên Xô, được trang bị hồng ngoại tuyến để tác xạ về đêm, đó là những xe bọc thép, những thám thính xa, thiết giáp xa, những pháo đội Phòng Không , những đại bác lòng dài được xe có xích kéo. Và tất cả các xe Jeep, xe truyền tin, xe ra-đa lưu động, các dàn hỏa tiển và rốc kết, các súng mọt chê nặng, và hằng ngàn xe vận tải chở đầy cứng binh sĩ võ trang toàn súng tự động loại tối tân hiện đại. Từ khắp các nẻo đường, họ tiến vào thành phố giữa những tiếng nổ của đủ loại máy xe và tiếng xích…

    Anh “bộ đội” ơi, anh đến từ đâu vậy ?, anh chui ra từ pháo tháp trên chiến xa của anh, giống như những lính chiến xa Xô Viết đang đàn áp thợ thuyền nổi dậy ở Bá Linh, ở Prague và ở Budapest năm nào ?

    - Từ Hà Nội , từ Hà Nội!!! Tôi đến từ Hà Nội , từ Hà Nội !!

    Và anh kia, người tài xế chiếc xe kéo loại nặng, đang kéo khẩu đại bác tầm xa 130 ly lòng dài , hay đang lái chiếc xe vận tải Molotova, và anh đang bố trí khẩu đại bác phòng không trên bãi cỏ Dinh Độc Lập ? Và anh nầy nữa, anh chàng nghèo khổ đi chân đất, có choàng một tấm khăn rằng quanh cổ kia, anh từ đâu tới vậy ?

    - Từ Hà Nội , từ Hà Nội ! Tôi cũng đến từ Hà Nội , từ Hà Nội!!

    Chúng tôi đi trên đại lộ nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn. Khắp nơi chỗ nào cũng có bỏ rải rác nào là xe thiết giáp với pháo tháp mở toang, nào là xe vận tải trống trơn, nào là pháo binh 105 ly… Trẻ nít lượm súng, bắn chỉ thiên hay lượm áo giáp, nón sắt mặc vào hay đeo nguyên một băng đạn liên thanh quanh người , và đùa nghịch với những trái lựu đạn như những trái banh tơ nít vậy.. Có những đứa lớn tuổi hơn lại mở nắp ca pô xe ra, gỡ lấy nào là bình điện, đồ điện v.v….Nhưng ô kìa, gần 100 ngàn binh sĩ thuộc QLVNCH của Miền Nam Việt Nam đi đâu hết vậy ? Cho đến ngày hôm qua đây các anh còn lo phòng thủ Sài Gòn kia mà ? Bây giờ thì chỉ còn thấy quân phục, đồ trang bị và vũ khí của các anh bỏ vãi ra đầy đường, trên lề đường, dưới cống rảnh? Cả 100 ngàn lính mặc quần cụt đi chân đất không một vũ khí trên mình…. đi đâu ????

    Chiếc tàu chở đầy cứng dân tỵ nạn hồi sáng nay muốn ra khơi, bây giiờ vẫn còn tại chỗ tại bến tàu. Nhưng không còn một ai trên tàu, tất cả đều biến mất hết….

    Các ông cảnh sát đều bận vì những “ủy ban” địa phương được thành lập phần lớn do bọn trẻ vừa muốn làm ra vẻ quan trọng nhưng lại hình như vừa muốn vui chơi. Chợ lớn rất là yên tịnh. Không có cờ xí, chưa có treo lên thôi. Người Tàu ở đây hay có tính thận trọng. Họ không biết phải treo cờ đỏ sao vàng của Hà Nội hay là phải treo cờ của CPLTCHMN ? Bỏ tiền ra may một lá cờ rồi lại phải nhanh chóng bỏ đi, thay vào một lá cờ khác à ? Đâu có phí tiền như vậy được .

    Chỗ nào cũng thấy vật liệu bỏ đầy cả và dân chúng kéo ra đầy đường. Một sự ồn ào khác lạ trái với một sự trống vắng và lo âu trong các khu phố đẹp của Sài Gòn.

    Ở tại Phú Thọ có một không khí của hội chợ, người ta vui đùa thật sự, và họ thở phào nhẹ nhõm. Hầu hết dân chúng đều ra đường. và người ta hôi của, người ta vận chuyển các bao gạo, bao bột mì, đồ hộp, rượu huýt ky, rượu chát, rượu sâm banh, các thùng bia và cô ca, Người ta dọn sạch các tiệm đã bỏ đi. Ủy ban địa phương với vài anh trẻ mang băng đỏ trên tay, vai đeo một cây súng M.16 có cột trên đầu miếng vải đỏ.. đang cố gắng lập lại trật tự và ngăn chặn không cho lưu đi các túi hàng từ các kho….

    Trên con đường dọc theo trường đua ngựa, có một chiến xa M.48 bị phá hủy và trước mặt nó là một chiến xa T.56 của Liên Xô. Hai chiếc bắn nhau trong tầm súng thật gần. Một cuộc đọ sức với nhau rất lạ lùng sáng nay. Hai xác chiến xa còn đang cháy. Bên trong các tử thi đã thành than.

    Và đây là các binh sĩ đi bộ vừa ló dạng, đi thành hàng dài với lối đi như bay trên đất. Những anh “bộ đội “ nầy đã được huấn luyện đi bộ 50 cây số mỗi ngày với tất cả đồ trang bị trên vai. Các anh vô sản của cuộc chiến nầy đấy . Nhưng họ vẫn không biết mệt.

    Tại Tân sơn Nhứt, các tử thi mà chúng tôi thấy hôm qua chưa được mang đi và đã bắt đầu có mùi rồi. Nhưng các đám cháy thì đã được dập tắt.

    Gần Lăng Cha Cả, một ngôi mộ của ông Pigneau de Béhaine, người đỡ đầu và là bạn của vua Gia Long, các anh lính Dù đã đánh một trận cuối cùng . Họ đánh nhau đến 11 giờ 30 cho đến khi các cấp chỉ huy của họ trở về sau khi gặp Tổng Thống Dương văn Minh ở bãi cỏ Dinh Độc Lập, và thuyết phục binh sĩ của mình…..ngưng chiến đấu. Họ đã dùng súng không giật hạ 5 chiến xa T.54 của Liên Xô, loại chiến xa hạng nặng 50 tấn, hiện còn đang cháy . Có một chiếc vừa nổ với tất cả đạn dược bên trong . Chúng tôi chỉ có đủ thì giờ ngừng xe lại mà thôi.

    Các anh lính Dù không có để lại trận địa bất cứ một thứ gì : không có người chết, người bị thương, cả vũ khí và đồ trang bị cũng không có.

    Chúng tôi thử cố vào phi trường. Nhưng “bộ đội” có súng đã gác kỷ rồi, hình như có một “cán bộ” chỉ huy là dân sự. Chúng tôi đến nói chuyện với anh ta. Nhưng với một giọng chắc nịt, anh ta từ chối bảo rằng “bọn Mỹ trước khi đi đã gài mìn tất cả các đường bay, tất cả nhà cửa, và thật là nguy hiểm cho các anh. Dân chúng Việt Nam rất là lo cho vấn đề an ninh của khách người nước ngoài của mình Anh ta nói thêm: Vậy các anh hãy trở lại vài ngày nữa đi nhé.”

    Chuyện láo khoét rõ ràng, vì 3 giờ sau đó là có một chiếc phi cơ đáp xuống đầu tiên từ Hà Nội .

    Chúng tôi quay xe về lại Sài Gòn giữa cả một làn sóng người, binh sĩ, thường dân , và những người dân tản cư chen chúc nhau đầy đường. Chúng tôi gặp 6 chiến xa Mỹ, đúng là theo đội hình tác chiến, đậu cách khoảng đều nhau theo hình răng sấu, đại bác chĩa về phía trước, do binh sĩ thiết giáp Việt Nam Cộng Hòa bỏ lại trên đường. Xe chúng tôi phải vòng qua vòng lại tránh nhiều loại chướng ngại vật trên đường : ngựa sắt kẽm gai, hàng rào cản xi măng, đá v.v.. Nếu tướng Minh không can thiệp thì giờ nầy chắc chắn vẫn còn đánh nhau dài dài ở đây và chắc chắn sẽ có nhiều đổ nát . Có một ngôi chùa đầy người trong đó. Miếng vườn và sân chùa được biến thành một trạm du khách trên 100 người. Người thì mắc võng, người thì cắm lều, và người khác nữa thì đang làm bếp…

    Dân chúng Sài Gòn hình như không cần biết gì tới sự có mặt của các anh “bộ đội” đang hoàn toàn lạc lõng giữa sự lưu thông quá lộn xộn nầy. Không một hành vi chống đối. Hình như họ đã quen với sự hiện diện của những người mới đến nầy, vốn tỏ ra quá rụt rè, quá kín đáo . Chiến cuộc vừa mới được chấm dứt vài giờ thôi mà họ đã đối xử với người ta rất bình thường, và có vẻ như chê bai cái dáng điệu ngơ ngáo, cục mịch của người ta rồi.. Cũng chỉ là những người chủ mới mà họ phải chịu khó làm quen và nếu có thể được thì cứ lợi dụng thôi. Các chú “bộ đội” tỏ ra không thích cái lối đối xử đó. Ý họ muốn là phải có những sự hoan hô, những vòng hoa tiếp đón, chớ không muốn thấy sự im lìm khinh khỉnh như thế nầy.

    Thất là lạ cho người dân Sài Gòn ! vừa quá lo sợ đó lại nhanh chóng yên tâm ! Thấy không ai bị bắt, không ai bị xử bắn, họ tìm ngay lại được sự bình thản, vô tư lự và đã tự hỏi làm sao để “xoay” bọn người mới tới nầy đây”. Có lo âu là đằng khác, vì hình như cũng không có gì để mà moi được ở bọn lính nghèo nàn đi chân đất nầy. Nhưng lần nầy thì họ đã lầm rồi. Khi mà chế độ cảnh sát hiện diện khắp mọi nơi và biến sự tố giác thành một bổn phận của mọi người đối với đất nước thì mọi đức tánh dựa trên chế độ đó sẽ thắng được mọi tật xấu.

    Chúng tôi đi ngang qua Câu lạc Bộ thể thao , một trung tâm không nhỏ của người Pháp ở Sài Gòn . Nhưng nó đã bị chiếm đóng rồi. Vào câu lạc bộ đua ngựa thì lại bị bà giữ cửa đòi chúng tôi phải xuất trình thẻ hội viên. Chúng tôi cố giải thích cho bà biết là tình thế đã thay đổi rồi, nhưng bà cũng cứ khăng khăng. Chúng tôi cứ nói đủ thứ chuyện và đi qua cửa rào và nhìn thấy trong quầy rượu tất cả nhân viên đang ngồi trước các máy khâu, đang may cờ Việt Cộng .

    Rất bình thản, một vài con ngựa đang ăn trên bãi cỏ. Bên cạnh chuồng, có một anh nài đang chải lông cho ngựa .

    Ở trường trung học Marie Curie, một tấm bảng cho biết là vì thời cuộc nên phần thi hạch miệng của đệ nhị cấp (tú tài phần 2) được dời lại ngày 3 tháng 5.

    Có một số cờ đã bắt đầu được treo lên ngoài cửa sổ.. Vì quá vội vàng nên có một số thay vì màu xanh lơ và đỏ thì lại là xanh lá cây và đỏ.

    Có nhiều xe có gắn loa chạy khắp các nẻo đường, ngừng ở ngã tư và cất tiếng lên, toàn giọng mũi, lập đi lập lại liên tục với một giọng rặt ròng của người Miền Bắc :

    “Lực lượng vũ trang của MTGPQG đã làm chủ được thành phố Sài Gòn. Hãy đừng lo sợ. Các người sẽ được đối xử đàng hoàng nếu biết giữ trật tự và kỷ luật.”

    Dưới cơn mưa tầm tã, một người đàn ông mặc quần cụt băng qua đường rất thản nhiên vừa đi vừa mỉm cười : đó là một anh lính của Việt Nam Cộng Hòa .

    Đài phát thanh Sài Gòn đã đổi thành đài phát thanh Giải Phóng. Một nữ xướng ngôn viên cho chúng tôi biết là hàng vạn dân Sài Gòn mừng rỡ đang đi ngược lên đường Tự Do (nơi chúng tôi đang ở) phất cờ và biểu ngữ. Thật sự chỉ có 3 anh cùng khổ dơ dáy nào đó và 4 anh tóc ngắn bị một anh “cán bộ” dẫn đi, vừa đi vừa nói nhăng nói cuội qua cái loa cầm tay của anh ta.

    Và xướng ngôn viên lại tiếp tục nói:

    “ Tất cả đều đoàn kết để làm một cuộc cách mạng trong thành phố Hồ chí Minh mà sự nổi dậy để đồng loạt đấu tranh chống lại bọn bù nhìn Mỹ Ngụy đã đạt được một chiến thắng hào hùng..”

    Sau đó đài phát thanh loan báo, phổ biến 10 điểm trong chương trình của CPLTCHMN với sự mong muốn được thấy dân chúng Miền Nam Việt Nam tuân hành:

    1)- Tất cả các cơ quan hiện hữu đều phải thi hành chánh sách của Chánh Phủ cách mạng . Các hệ thống hành chánh cũ dều được bải bỏ. Tất cả các đảng phái phản động và các tổ chức khác nhằm phục vụ cho đế quốc và ngụy quyền đều phải được giải tán.

    2)- Nam nữ đều được bình quyền, tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng.

    3)- Cấm mọi hoạt động nhằm gieo rắc sự chia rẽ ; Hãy đoàn kết nhằm xây dựng vùng giải phóng và làm lại cuộc đời mới.

    4)- Quyền làm việc được bảo đảm và bắt buộc cho tất cả, nhằm ủng hộ cuộc cách mạng .

    5)- Tất cả tài sản thuộc ngụy quyền đều được CPLTCHMN quản lý.

    6)- Săn sóc trẻ mồ côi và người tàn tật là bổn phận của mọi người đối với đất nước .

    7)- Khuyến khích giới nông dân để họ tăng gia sản xuất.

    8)- Các cơ sở văn hóa, các bệnh viện, trường học thuộc người nước ngoài đều phải tiếp tục hoạt động để phục vụ dân chúng. Các nhân tài có ích lợi cho việc xây dựng đất nước đều được trọng dụng.

    9)- Các quân nhân đã rời khỏi hàng ngũ địch đều được đối xử khoan hồng.

    10)- Ngoại trừ những người chống đối cách mạng sẽ bị trừng phạt, những người nước ngoài và tài sản của họ sẽ được bảo đảm.

    Trụ sở Quốc Hội ở Nhà Hát Tây đã được “các Ủy Ban Địa Phương” chiếm đóng . Các anh “bộ đội” thay thế cảnh sát. Các biểu ngữ mới thay hết các biểu ngữ cũ. Nhưng còn quá nhiều người ăn xin, các cô gái ăn sương, những trẻ đánh giày, những người giả trang những người trung gian môi giới, và trẻ con vẩn còn lảng vảng trước khách sạn Continental.

    Thiết quân luật. Chúng tôi ăn tối ở khách sạn Caravelle. Từ trên sân thượng, chúng tôi nhìn thấy kho đạn nổ và có những cột khói bốc lên về hướng Chợ Lớn.

    Sài Gòn từ đây sẽ mang tên Hồ chí Minh .Cờ giải phóng của CPLTCHMN và chỉ có một lá cờ duy nhứt nầy được treo trên khách sạn Continental. Những người chủ mới của thành phố đã buộc người ta phải bỏ lá cờ Pháp xuống.

    **


    CHƯƠNG BẢY

    NGÀY 1 THÁNG 5

    Đồng mỹ kim không còn một giá trị nào. Tất cả các ngân hàng đều đóng cửa.

    Ngày 1 tháng 5 /1975

    Nàng ngoan ngoãn đứng gần một dãy nhà thuộc bệnh viện Grall (Đồn Đất). Bên cạnh nàng là một chiếc va ly mới toanh, lưng cô nàng đeo một cái gùi của người Thượng bằng tre đan. Nàng mặc một cái áo đen dài của mấy thiếu nữ người Cao Nguyên, nhưng tóc nàng thì hơi hơi hoe và da nàng thì trắng : một thiếu nữ lai.

    Nàng được bao nhiêu tuổi ? 18 hay 20 ? Các đợt sóng người tỵ nạn đã đưa đẩy nàng đến đây, gần như không hề hấn gì tuy có đôi chút mệt mỏi, vào cái “bệnh viện-ẩn náu” nầy mà trên nóc phất phơ một lá quốc kỳ Pháp.

    Tôi phải cố đến gần cô nàng mới thấy được những giọt lệ đang chảy xuống trên má của cô. Nàng không nói gì cả, nàng không hỏi gì tôi hết, nàng không có một tiếng động nào trong khi chung quanh nàng ồn ào như ong vỡ tổ, nhóm người Việt Nam với khá nhiều ba lô của họ. Ở chính giữa là các trẻ nhỏ đang nằm ngủ, mệt mỏi. Người ta vừa cho họ biết là họ phải về nhà. Sài Gòn không có bị cháy, thành phố nầy chỉ có đổi chủ mà thôi.

    Thành phố nầy đã từng có những ông chủ người Pháp, người Nhật, và kế đó lại là người Pháp, sau đó là người Mỹ. Mỗi lần thay đổi chủ như vậy thì người dân Sài Gòn lại phải cố thích nghi với họ, bắt chước theo họ, chế giễu họ và dĩ nhiên là lợi dụng họ.

    Bây giờ là đến lượt các chú “bộ đội” của Miền Bắc, các anh lính đội nón cối bằng lá, xùng xình trong bộ quân phục màu xanh lá cây, tất cả đều được đúc trong cùng một khuôn, tất cả đều còn rất trẻ, trên mặt cố điểm một nụ cười cho có vẻ hiền dịu. Chính cái mặt nạ mang nụ cười nầy đã làm cho người dân Sài Gòn sợ.

    Tôi hỏi cô gái kia xem nàng là ai, từ đâu đến. Cô trả lời cho tôi bằng một câu hỏi khác:

    “ Châlon-sur–Marnes ở đâu vậy ông ? Tôi muốn đi đến Châlon-sur-Marnes.

    Cô là đứa con được sanh ra từ một mối tình giữa một người Pháp và một người phụ nữ Rhadé. Cha cô đã về Pháp; về sau nầy cha cô nhìn nhận cô là con. Cô đã mất hết trong sự tán loạn nầy. Chỉ còn lại một người cha nầy mà cô chưa bao giờ thấy mặt và cả một tấm hình của ông nầy cô cũng không có. Các bà sơ đã lo hết cho cô ta. Cô đã đi học và đã trở thành một phụ tá của phòng thí nghiệm trong một bệnh viện Hoa Kỳ trên vùng Cao Nguyên.

    Người ta đã cho tản cư hết tất cả nhân viên của bệnh viện nầy và đã hứa là sẽ đưa cô sang Hoa Kỳ . Để từ đó cô sẽ tìm phương tiện sang Pháp , đến Chalon-sur-Marnes. Nhưng người Mỹ đã ra đi trong hoảng loạn, bỏ cô ở lại đây.

    Tay kéo lê chiếc va ly, vai mang gùi đựng đầy quà cho người cha bên Pháp, cô đã chạy lại bệnh viện Grall, mà người ta nói là tất cả người Pháp đều đến tỵ nạn ở nơi đây. Cô tưởng mình là một người Pháp, nhưng theo giấy tờ thì cô là một người Việt Nam . Trừ phi có một phép lạ: một ông lãnh sự thích làm việc thiện hơn là khư khư với luật lệ - và đó không phải là trường hợp của Sài Gòn – cô không bao giờ được đi.

    Ở đây có tất cả người Việt Nam với giấy thông hành Pháp, và những người khác là họ đã bỏ quốc tịch Pháp hồi thời Tổng Thống Diệm để khỏi bị phiền toái. Tất cả những người mộng du nầy đã thức dậy, thấy mình đang ở một hành tinh khác mà dân ở đó toàn là người lạ : những từ sao Hỏa tới, người Hà Nội !

    Họ không hiểu gì hết. Họ bấu víu một cách vô vọng vào những gì họ đã biết và luôn luôn được biết cho tới giờ nầy , là lá quốc kỳ “tam tài” đang phất phơ trên mảnh đất vụn nầy của người Pháp.

    Một lúc sau đó tôi phỏng vấn Đại tá Fourré , bác sĩ trưởng của bệnh viện trước máy thu hình.

    Với một giọng nói cố gắng, ông nói về những ảo ảnh của mọi người :

    “Nếu nhân viên bệnh viện là người Pháp thì cũng không được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ (về mặt pháp lý, ngoại giao). Đây là lãnh thổ Việt Nam và chánh quyền mới nếu không chiếm đóng thì ít nhất cũng có thể cho các đội tuần tra tới. “

    Trong hiện tại tôi cũng không biết là chúng tôi có những cảnh sát của ông Thiệu đang bao quanh chúng tôi, và các tay cận vệ của họ đều vẫn được võ trang mạnh mẽ: đó là trung tá Phan Kim , thiếu tá Mai, những người đã hạ sát anh Léandri. Cùng có mặt với họ là người cận vệ đã bóp cò súng, người đã hiểu sai lệnh của ông Phan Kim. Các bác sĩ người Pháp đang là con tin của họ và ở trong tình trạng đó cả 5 ngày liền, các anh cảnh sát nầy đều từ chối không chịu đi ra khỏi bệnh viện. Chỉ huy trưởng của họ là tướng Nguyễn khắc Bình thì đã chạy đi rồi , không báo cho họ biết là ông ta đi, bỏ họ ở lại mặc cho số phận của họ. Và như vậy, cũng giống như hằng ngàn người khác, giống như mấy anh Đại Hàn nầy đã bị Đại sứ của họ bỏ lại, cả một ông tướng nữa, họ cũng vội vã chạy đến bệnh viện nầy. Nhưng vì người ta thiếu máu để truyền cho bệnh nhân, nên người ta buộc mỗi người ai cũng phải hiến gần một lít máu mới được vào đây. Gần như nộp thuế bằng máu vậy !

    Trong một căn phòng gần trung tâm giải phẫu, tôi đã nhìn thấy một em bé chết. Em được 3 tuổi, bị một mảnh đạn trong đầu. Người ta đắp thây của em lại bằng một cái khăn bàn; như thế là đủ rồi ! Có những người khác tay chân bị cắt cụt. Có một số có cả chân bị xích chiến xa cán nhẹp, người thì tay bị gãy lìa, còn có người thì bị phỏng nặng, cả da họ phồng lên …

    Cũng tại bệnh viện Grall, trong nhà xác, có tử thi của một ông tướng Việt Nam Cộng Hòa tự tử bằng thuốc rét nivaquine, đó là ông tướng Phú, Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật (Vùng Cao Nguyên Trung Phần). Ông đã từng là một chiến sĩ xuất sắc ở Diện Biên Phủ, và ông đã không còn như vậy nữa khi ông ta đã nhận bổng lộc của ông Thiệu như mọi người khác.

    Người ta kể lại rằng ông tướng Phú được đưa tới bệnh viện lúc ông đang hấp hối (ông ở ngay trước bệnh viện), và người ta đã cho ông đeo mặt nạ có dưỡng khí. Thình lình dưỡng khí thiếu và người ta đã rút ống dưỡng khí ra. Tự vận bằng thuốc nivaquine không thể chữa khỏi được và dù có rửa sạch bao tử hay làm bất cứ cách nào khác cũng không thể cứu được . Tướng Phú không bao giờ được cho thở dưỡng khí. Rất là vô ích thôi !

    Theo tôi biết thì đã có 12 trường hợp tự tử, từ cấp tướng đến cấp tá. Đó là không kể các cấp nhỏ hơn như đại úy và trung úy thiếu úy. Cũng như ở ngay vườn của một sĩ quan ,có môt số sĩ quan Dù, ngồi thành một vòng tròn sát cánh nhau, và người sĩ quan trẻ nhất mở chốt của một xâu lựu đạn để cùng nhau chết. Cũng như có một vị thiếu tá đến tự tử ở ngay nhà ông cậu là ông Trần văn Hương, người thay thế ông Thiệu trong chức vụ Tổng Thống. Chỉ cách có vài giờ sau khi tôi đến đó để phỏng vấn ông Hưong.

    Các anh “bộ đội” cắm trại ở ngay bãi cỏ rợp mát trước Dinh Độc Lập, và thản nhiên nhóm bếp nấu cơm như là họ đang ở trong rừng. Họ ngồi xổm trước các bếp làm bằng mấy hòn đá và nhóm lửa bằng mấy cành cây khô. Không có một tiếng động, và màn đêm buông xuống… Đó là một buổi chiều cho những anh chiến binh của Hà Nội..

    Một chiến thắng lớn về Quân sự nhưng là một thất bại về ý thức hệ. Bởi vì dân chúng không có nổi dậy như người ta đã tưởng tượng. Mặc dầu có biết bao nhiêu lời kêu gọi, cổ vũ, kể cả những lời đe dọa từ các xướng ngôn viên của đài phát thanh Hà Nội và các đài chi nhánh ở Đà Nẵng , Huế, Kontum và Pleiku, các anh em binh sĩ Miền Nam Việt Nam không có bắn cấp chỉ huy của mình, cũng như không hề quay súng của họ lại để chống Chánh Phủ “ngụy quyền” của ông Thiệu hay ông Hương, hay là Chánh Phủ hiếu chiến của ông tướng Dương văn Minh bao giờ. Trái lại, họ vẫn chiến đấu dù cấp chỉ huy của họ đã bỏ rơi họ và dù họ cảm thấy là mình đã thua.

    Một đêm cuối cùng yên lặng và thanh bình. Các anh bộ đội trải dây và gắn các loa phóng thanh.

    Tôi không thể tin là Sài Gòn đã vừa bị rơi vào tay cộng sản. Gần như một cơn ác mộng vậy. Ngày mai tôi sẽ thức dậy và coi như đã không có gì xảy ra.

    Ông Dương văn Minh sẽ nói cho tôi nghe về những giò lan của ông ta, người ta đang gởi cho ông một giống mới từ Băng Cốc.

    Tướng Vanuxem sẽ giải thích cho tôi nghe làm sao để tái chiếm Vùng Cao Nguyên Trung Phần, và linh mục Mauriceau sẽ âu yếm nói với tôi về những người Thượng, trong khi anh Philippe Franchini khẽ nói nhỏ vào tai tôi một cách khâm phục: “Tất cả đều điên hết rồi, các anh Việt Nam nầy, nhưng họ lém lắm ! Anh chưa biết được cách để họ có thể qua mặt chánh quyền mới nầy đâu..”

    Tôi giật mình thức dậy hồi 6 giờ sáng vì những tiếng ồn ào của loa phóng thanh đang cho phổ biến nhạc sol do mì của sao Hỏa Tinh thỉnh thoảng bị các tiếng hô khầu hiệu ngắt khoảng.

    Sài Gòn đã thật sự nằm trong tay của những người mặc quân phục màu xanh lá cây rồi ! Các loại nhạc cách mạng nầy là một loại nhạc được pha trộn lộn xộn như rống lên từ nhạc quân hành với nhạc thánh ca, và nhạc dân gian của Liên Xô, được xen kẽ vào các khẩu hiệu với nội dung là trật tự trong lao động và vệ sinh. Mãi đến 23 giờ đêm loại nhạc nầy mới được chấm dứt, làm cho tai của chúng tôi như bị nổ tung, và làm cho chúng tôi muốn điên lên. Còn dữ tợn hơn là tiếng nổ rền của hàng ngàn chiếc xe gắn máy của thành phố Sài Gòn trước đây nữa.

    Sự lưu thông đã giảm bớt hẳn đi, xăng dầu đã hiếm hoi rồi và hầu hết các kho xăng đã bị cháy. Chánh quyền mới (chúng tôi không biết gọi tên gì cho phải vì chúng tôi không biết chánh quyền là ai ?) đã cho đóng cửa hết các cây xăng, trừ một cây ở gần Bưu Điện Trung ương, còn đang tiếp tục hoạt động nhưng rất kín đáo.. Nhưng người ta cũng có thể tìm mua xăng với giá chợ đen, sau khi giá vọt lên tới 2000 đồng một lít thì gía hơi bình lại ở mức 1500 đồng.

    Chúng tôi mua 200 lít , dự trữ ngay trong phòng của chúng tôi và chấp nhận sự nguy hiểm là có cháy thì cháy cả khách sạn.

    Chúng tôi phải lợi dụng tình trạng còn đang lộn xộn đề đi quay hết trong và ngoài thành phố , bởi vì sự lộn xộn nầy sẽ không lâu đâu. Đó là kinh nghiệm của tôi từ Hà Nội . Cũng chỉ là những ông chủ cũ thôi nhưng họ đã già rồi, nhưng đã không yếu đâu mà còn cứng cỏi thêm ra: những xác ướp. Và họ sẽ mãi mãi làm lại những gì họ đã làm.

    Hầu hết các chế độ cộng sản đều kêu gọi trẻ trung hóa, nhưng cấp lãnh đạo luôn luôn là bọn già, như ở Bắc Việt vậy, từ thời Diện Biên Phủ đến bây giờ không thấy xuất hiện một bộ mặt mới nào, nếu tôi không muốn nói là từ năm 1945.

    Chúng tôi cố gắng chạy thử ra khỏi thành phố Sài Gòn , nhưng chúng tôi bị chận lại ở một ngã tư đường gần đến xa lộ Biên Hòa . Chúng tôi ở đó gần 2 tiếng đồng hồ, bị kẹt giữa 2 dòng người tản cư, một tốp đang từ Sài Gòn trở về quê nhà và những người dân Sài Gòn đang cố gắng trở về thành phố . Tất cả đều như lẫn lộn : xe trâu và xe vận tải của quân đội , xe cứu thương và xe xích lô máy, xe bị nhóm trẻ trưng dụng, xe bị đánh cắp, và những người dân tản cư với quần áo tả tơi.. và binh sĩ của quân đội nhân dân. Bực tức vì bị kẹt cứng trong dòng người như thế nầy khó mà ra khỏi được , người ta mới bắt đầu hiểu tại sao binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải bị thua vì bị kẹt cứng với dân tản cư từ các thành phố bị cộng sản chiếm. Chúng tôi bị kẹt trong xe như ngồi trong một cái nồi nhưng rồi cũng phải ra được , vui vẻ thôi.

    Chúng tôi cãi nhau rất hăng say : ông Tổng Thống Pháp Giscard có lý hay đã sai khi ông yêu cầu tất cả công dân Pháp hãy ở lại tại chỗ ? Ông ta không làm gì khác hơn được . Nước Pháp chúng tôi không có hạm đội , cũng không có không quân đủ để di tản 10.000 người ra khỏi Việt Nam được . Do vậy dù không muốn cũng phải có một hành động hay cử chỉ nào đó để chơi một ván bài bắt buộc . Cũng như người Mỹ, người Pháp chúng tôi bị bất ngờ trước sự bại trận nầy. Cũng như họ, chúng tôi bắt buộc phải tùy cơ ứng biến. Nhưng vì không có một phương tiện nào, chúng tôi đành phải có một vài câu tuyên bố thật kêu mà thật tình nó vô nghĩa.

    Bọn cộng sản âm thầm đột nhập vào thành phố , từng nhóm nhỏ. Và họ tản ra theo vết dầu loang. Họ cắm trại trong vườn bách thảo và trên bãi cỏ lớn phía trước Dinh Độc Lập. Họ trám vào chỗ trống mà QLVNCH và những người ra đi đã bỏ lại. Họ vào chiếm các dãy nhà và những biệt thự bỏ trống.

    Cuộc sống lần lần được hồi phục. Một vài quán rượu đã mở cửa lại. Gần 3000 gái đẹp đã đi theo bọn Mỹ. Chỉ còn lại gái hạng nhì thôi và một nhóm nhỏ nhân viên đang cố gắng làm sống lại các quán rượu, các tiệm làm tóc mà chủ nhân đã biến mất tự bao giờ. Họ cho hoạt động lại một cách êm thắm, không do lệnh của ai hết, mà chỉ theo lời khuyên của bạn bè, của cha chú… cũng như hồi họ cho đóng cửa vậy.

    Người ta yêu cầu mấy cô gái phải chấm dứt đừng mặc quần “jeans” bó sát hay áo cánh nữa, mà hãy trở lại truyền thống phong tục Việt Nam , ăn mặc đoan trang lại .

    Thật là rất lạ lùng, đảng cộng sản Việt Nam lại tỏ ra muốn trở lại những truyền thống, với những khái niệm cũ rích của Khổng phu tử về gia đình , về sự liêm khiết, về sự kính trọng quá khứ. Lao động, Gia đình , Tổ quốc, tôn sùng ông bà và tôn sùng người vĩ đại nhất là người mà thành phố Sài Gòn vừa mang tên : đó là Hồ chí Minh .

    Nhưng mà ngay bây giờ những lời khuyên đó hình như chỉ rơi vào tai những người điếc. Những người mà người ta đặt cho cái tên là cao bồi, cả trai lẩn gái, đều tiếp tục cuộc biểu diễn của họ trên xe mô tô, vừa chạy vừa trương lá cờ của CPLTCHMN và họ tưởng là họ được phép tất cả.

    Người dân Sài Gòn yên tâm lại rất nhanh chóng. Họ nghĩ một cách khờ dại rằng họ có thể “nắm” được những người mới đến cũng như họ đã làm với người Pháp và với người Mỹ. Họ dùng hết tình cảm của mình để đánh giá những người nầy, theo suy diễn của mình để thử đo phản ứng của người ta mà họ hình dung cũng giống như họ vậy . Nhưng mà đây là những người từ một “xứ lạ” đến, và họ thuộc về một loài người khác , với một nhân tính khác !

    Một thí dụ: người dân Sài Gòn đi xuyên qua một hàng "Bộ đội” để xem cái gì sẽ xảy ra. Không có gì xảy ra cả. Và thế là họ khẳng định là các anh nông dân trẻ, nhà quê nầy là những người tử tế có thể dễ chơi được lắm. Thật là bé cái lầm! Vì các chú “bô đội” nầy đã nhận được tiêu lệnh là phải tỏ ra tử tế, khoan dung. Ngày hôm kia, nếu họ nhận được lệnh là phải tàn sát 100.000 người dân của thành phố thì họ cũng đã làm đúng như vậy mà thôi. Thái độ của họ sẽ thay đổi ngay khi đã đến đúng thời điểm của hình phạt , đó là thời điểm phải chuyển đổi một thành phố của tư bản chủ nghĩa thành một thành phố của xã hội chủ nghĩa .

    Trật tự và vệ sinh đã bắt đầu ngự trị rồi. Sau những ngày chiến đấu điên cuồng, hôi của và cháy nhà, sau khi cộng sản chiếm xong thành phố , thì Sài Gòn trong cơn mộng du vừa tỉnh dậy, dụi mắt nhìn ra mới thấy được hằng ngàn chú nhỏ thùng thình trong bộ quân phục xanh lá cây, đội nón cối, đi dép râu làm bằng lốp xe cũ. Họ rất gầy, nhưng tươi cười, và họ đi trên đường phố nắm tay nhau như để an tâm trước cảnh lưu thông hỗn loạn, vô chánh phủ nầy, bất chấp tất cả luật lệ; không một ai nghĩ tới các đám cháy và không còn một anh cảnh sát nào hết. Các xe molotova của quân đội nhân dân có một xu hướng tai hại là cứ chạy bên trái của họ (có lẻ vì niềm tin chánh trị ) hay cứ chạy giữa đường (họ không phải đã chiến thắng sao ?). Đã có nhiều lúc chúng tôi suýt phải bị tai nạn vì mấy chiếc vận tải nầy.

    Các chú “bộ đội” quyến luyến đặc biệt khu chợ trời vì ở đó có đủ thứ hàng “của đời sống theo lối Mỹ”, hay “sản xuất tại Nhật”, có trái cây đánh cắp từ căn cứ và chợ của quân đội Mỹ, có máy thâu thanh, có máy thâu băng, máy ảnh, hay cả ngàn vật dụng mới lạ chuyên gây thêm khó khăn cho đời sống của con người . Tin tưởng ở bề ngoài ngoan ngoãn thơ ngây, rụt rè của đám bộ đội nầy, các bà bán hàng ngồi chễm chệ như các con gà mái giữa hàng hóa của họ và bắt đầu đem hộp tiền ra buôn bán trở lại. Mấy chú bộ đội từ bưng biền ra thành bị lóe mắt giữa một ngàn lẻ một món hàng của ông hoàng Ali Baba, tranh nhau mua nào là đồng hồ, nào là máy thu thanh và các cây bút máy hạng nhì hay hạng ba bằng tiền cụ Hồ mà giá trị càng xuống khi mà người dân Sài Gòn ngày càng thấy yên tâm trở lại.

    Chúng tôi hỏi họ. Các chú nhỏ trả lời dễ dàng, còn các anh có tuổi thì ít khi lắm, các anh cán bộ mà sự thận trọng đã trở thành bản tính thứ hai của họ rồi. Trong 5 người thì đã có 4 người từ ngoài Bắc vào. Họ rất là sung sướng vì đã thắng trận, nhưng thấy mọi thứ ở đây đều quá ồn ào, cái gì cũng quá đắt và hơi thất vọng vì họ nghĩ lẽ ra người ta phải tiếp đón họ niềm nở hơn mới phải.

    Cán bộ thì nói : “Chúng tôi phải sấp xếp lại cho có trật tự mới được” các người nầy không chịu hiểu chúng tôi là những người cách mạng Việt Nam chớ không phải là kẻ chiếm đóng, hay những người được mời , những khách du lịch..”

    Mặt anh ta cau lại nhưng rồi lại giải thích:

    “Nhưng rồi đây chúng tôi sẽ giúp họ có một cái nhìn mọi việc đúng đắn hơn , và cởi bỏ hết mọi thói hư tật xấu mà chủ nghĩa thực dân đã để lại cho họ như là : sự dơ bẩn, tính bất lương gian dối, tính ích kỷ, lối sống tha hóa ham tiền, và ăn hối lộ…”

    Tất cả các báo chí đều không được phát hành, kể cả tờ “Tin Tức Viễn Đông” ( Courrier d’Extrême Orient). Chỉ duy nhất có một tờ Sài Gòn Giải Phóng, mà tất cả các tít lớn đều chạy bằng chữ đỏ. Hình của Chủ Tịch Hồ chí Minh chiếm hết nửa trang đầu. Người ta đưa ra một diễn dịch quá chính thống, hoàn toàn giả tạo về sự việc tiến chiếm Sài Gòn.

    Người ta không biết được cái gì đang xảy ra, ai là chánh quyền , ai chỉ huy, ngay như ông tướng nào đã chiếm được Sài Gòn cũng không ai biết. Tôi đã quên những kiến thức sơ đẳng của học thuyết Mác xít mà người ta đã cố gắng nhồi nhét cho tôi ở Hà Nội rồi. À đúng rồi, ông tướng đó chỉ có thể là Nhân Dân !

    Còn những anh em binh sĩ thuộc quân đội cũ thì sẽ ra sao đây ? -một con số gần 500.000- và tất cả các công chức thuộc chánh quyền cũ nữa ? Có những phi công lái trực thăng và những chuyên viên ngành truyền tin, ít nhất những người đã được biết, thì đã được cho vào “quân đội nhân dân” còn đang thiếu người . Đài phát thanh đã loan báo là kể từ đây các phương tiện sản xuất sẽ là tài sản của nhân dân và nhân dân phải có trách nhiệm. Chưa có một lần nào mà danh từ quốc hữu hóa được dùng đến. Kết quả của sự thuyết giáo đó đôi khi thật là buồn cười. Do đó, ngay tại khách sạn Continental, có vài anh cán bộ đã cho tập hợp tất cả mấy anh bồi lại để nói cho họ biết là : " thời kỳ thực dân đã cáo chung rồi. Bây giờ chánh quyền là nhân dân . Kể từ nay các anh là chủ tập thể của khách sạn nầy, các anh phải lo điều hành nó. Các anh phải chọn lựa ra một ông giám đốc đi.” Các anh bồi vỗ tay, vui sướng, và bàn tính với nhau rồi một người đại diện tuyên bố : Chúng tôi đã quyết định là chọn ông Philippe Franchini làm giám đốc”. Ông Franchini là giám đốc khách sạn Continental và đã đi nghỉ phép bên Pháp 3 tuần lễ nay rồi. Các anh cán bộ rất chán nản nghiêm trọng lắc đầu. Mấy người nầy cần phải được cải tạo mới được Câu trả lời đúng nhất phải là thế này:

    “ Chúng tôi rất hãnh diện được sự tin cậy của các ông đối với chúng tôi . Và chúng tôi xin khẩn khoản yêu cầu Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn- GiaĐịnh vui lòng chỉ định giùm chúng tôi một ông giám đốc”

    Ông giám đốc nầy đã có mặt tại chỗ rồi và sẳn sàng nhảy ra ngay thôi !

    Đài Phát Thanh Giải Phóng đã loan báo những lời tuyên bố rất là mâu thuẫn với nhau

    Thí dụ như: " Đường lối chánh trị đối ngoại mà chế độ mới sẽ áp dụng là : Hòa bình và không liên kết, và chế độ sẳn sàng đón nhận mọi sự giúp đỡ về kỹ thuật và kinh tế của bất cứ quốc gia nào miễn là sự giúp đở đó không có điều kiện chánh trị kèm theo; Đời sống và tài sản của những người thuộc quốc tịch nước ngoài sẽ được bảo vệ.”

    Nhưng cùng lúc đó, người ta cho ra một sắc lệnh cho phép Chánh Phủ mới quản lý tất cả tài sản mà nhân dân Việt Nam bị cướp giật. (nhưng cái gọi là Chánh Phủ mới hay chánh quyền mới đó hiện ở đâu ? nó là ai ? phải Ủy Ban Quân Quản hay không ? hay cái CPLTCHMN ? hay Ủy Ban Trung Ương ở Hà Nội?)

    Đất đai mà các nhà trồng tỉa cây cao su đang khai thác có phải là đã cướp giật của nhân dân Việt Nam hay không ? Và hãng sản xuất rượu Bia (Brasseries d’Indochine) và những nhà máy mà hãng đã xây cất thì sao ?

    Tôi sang gặp tướng Dương văn Minh. Ông ấy vẫn chưa về nhà. Đàn cá đang bơi trong hồ. Đó là những con cá chép to lớn của vùng nhiệt đới mà người ta đã nhúng vào màu đỏ và màu xanh lá cây. Các giò lan vẫn được treo trong những chậu . Anh tài xế giải thích cho chúng tôi là anh ta được một cú điện thoại của bà đại tướng cho anh biết là họ vẫn được đối xử tử tế và không bao lâu nữa sẽ về nhà.

    Ngày 3 tháng 5:

    Chúng tôi chạy đi lên Hố Nai, vùng đất gần Biên Hòa , nơi định cư của những người công giáo Bắc Việt sau khi họ bỏ chạy vào Nam, chạy trốn theo các cha xứ, mang theo chuông của các nhà thờ của họ. Chính ở đây các nhân dân tự vệ trong làng đã chiến đấu tới cùng, và tiếp tục chiến đấu sau khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút ra khỏi đây. Chính trong một của những pha chiến đấu ác liệt nầy mà anh Christian Hoche của tờ Figaro và anh Michel Laurent của tờ Gamma đã bị mất tích.

    Dọc theo đường, nhà thờ nào cũng nguy nga đồ sộ mà không đúng kiểu cách, cố bắt chước kiểu nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, cũng gạch đỏ, cũng mái kẽm, hay có nơi mái kiểu vừa công giáo vừa phật giáo . Có một lầu chuông của một cái nhà thờ bị thiệt hại nặng vì miểng trái phá, chắc ở đây chạm súng nặng lắm. Tôi cho xe ngừng lại, bước xuống xe và dẫn theo anh thông dịch viên tôi xin gặp cha xứ. Một người đàn bà khoảng 40 tuổi dắt chúng tôi đến gặp cha. Tôi hỏi bà:

    “Ở đây ra sao bà ?

    Bà cuối đầu xuống trả lời:

    “Con trai tôi và 17 đứa bạn của nó bị xử bắn. Tôi vừa chôn cất chúng nó xong trở về đây.

    - Chuyện gì đã xảy ra?

    - Chúng nó là nhân dân tự vệ. Bọn nó chiến đấu đến cùng , leo lên lầu chuông bắn xuống. Và người ta xử tử chúng nó .”

    Ông cha xứ ngồi trên một băng gỗ, bất động, hai tay tréo lại đặt trên áo dòng. Gian phòng hơi rộng, có lẽ đây là một phòng họp. Hình các thánh được treo trên tường, cả tượng của Đức Mẹ Đồng Trinh..

    Cha xứ khoảng 50 tuổi hay 60 gì đó. Ông đến đây từ xứ Phát Diệm với con chiên cùa ông.

    Tôi hỏi ông nhưng ông nhờ thông dịch viên nói lại vì ông nói ông không biết tiếng Pháp. Người giữ ông ngồi riêng, góc bên kia, tay chống lên cây súng, anh ta không phải là lính chánh quy, mà anh mặc quần áo đen của thân binh.

    -“ Tất cả đều tốt hết phải không cha ?

    - Ờ, cũng được .

    Tôi nhấn mạnh: Bình thường rồi chứ ?

    - Phải

    - Tôi có thể phỏng vấn Cha được chứ ? Có quay phim.

    - Không được đâu, không thể được đâu.

    Nhưng vừa khi đó người gác không biết vì lẽ gì, lại bước ra ngoài, để xem việc gì đó đã xảy ra bên ngoài. Cha liền nói bằng tiếng Pháp rất trôi chảy :

    - “Trường hợp của chúng tôi thật là rất khó khăn. Tai họa chụp vào đầu chúng tôi Anh hãy nói với các bạn người Pháp của chúng tôi là hãy cầu nguyện cho chúng tôi :chúng tôi rất cần. Giã biệt.”

    Tôi đi ra ngoài. Toán quay phim của chúng tôi đang gặp một vài khó khăn. Có nhiều người có võ trang và đang có vẻ khá bất bình đã chận xe chúng tôi lại. Bà đi với chúng tôi giải thích với họ chúng tôi là người Pháp - điều mà họ không cần biết- và chúng tôi không có ý định quay phim, nhưng vì chúng tôi từ Biên Hòa về, đi lạc đường. Chúng tôi chuồn nhanh, không hỏi gì thêm hết.

    Nếu anh Hoche và anh Laurent mà gặp phải những kẻ hăng say như quỷ ám nầy thì tôi nghĩ tội nghiệp cho họ quá.

    Trên con đường đi về, chúng tôi được cho chứng kiến một vài cảnh làm chúng tôi rợn cả người, lạnh cả xuơng sống ! Chúng tôi đi qua mấy người tù tay bị trói gô mà mấy anh “áo đen” nầy dùng mũi súng liên thanh của họ đẩy người ta đi tới. Tới chỗ chết hay là tới nhà tù đây ?

    Chúng tôi nghe tiếng rú lên của một người đàn bà đang bị người ta bắt và tôi còn thấy được hình ảnh của chị ta đang vùng vẫy tóc xõa ra hết và cố chạy thoát khỏi bọn lính đang lôi chị ra khỏi nhà.

    Ở Sài Gòn thì mọi chuyện còn khá tử tế, còn ở đây thì không .

    Biên Hòa: có nhiều biểu ngữ và nhiều loa phóng thanh, có một nhóm người đang chăm chú lo về công tác thông tin của họ, những “cán bộ” đang cố gằng hò hét trong loa phóng thanh để nói về cuộc cách mạng cho đám trẻ, mũi dài ra, mặt lộ vẻ hối hận, đeo băng tay đỏ, đang kéo lê chân đi diễn hành. Thật chẳng vui vẻ chút nào !

    Khi về đến khách sạn, chúng tôi được biết là người ta vừa tìm thấy hai ngôi mộ của anh Hoche và Laurent trên con đường đi Xuân Lộc . Hai anh được những người dân quê chôn cất. Người ta đã khui một ngôi mộ lên : Thật có anh Laurent nằm trong đó. Khỏi cấn phải nói gì thêm. Đó là ý nghĩ của ông lãnh sự, người đã phải gặp đủ mọi loại khó khăn mới đến được tận nơi . Những anh bạn xấu số ! Tôi nhớ tới anh Hoche, nhớ tóc nâu của anh ta, dợn sóng và nhất là nụ cười của anh, và nhớ tới anh Laurent với những điếu xi gà mà anh vừa ăn sáng vừa hút.. Họ đã ở trong khu ngay lúc mà các nhân dân tự vệ công giáo đang chiến đấu với quân đội chánh quy cộng sản Bắc Việt. Có thể cộng sản đã tưởng lầm họ là nhân dân tự vệ công giáo ? Hay họ bị cộng sản hạ sát vì họ là người da trắng, là nhà báo ?

    Các chú “bộ đội” đã kiểm xét trong tất cả các dãy nhà của tòa Đại sứ Pháp, bất chấp mọi luật lệ quốc tế. Ông Đại sứ không có một lời chống đối không như đồng nghiệp người Bỉ của ông ta . Với sự từ chối của ông Đại sứ Bỉ, “bộ đội” phải bỏ cuộc khám xét. Đây là lệnh từ Paris ? hay là sự mềm yếu khó hiểu của người đại diện của chúng tôi ? hay là một sự chấm dứt của vài thủ tục ngoại giao đã bị bỏ xó ?

    Chúng tôi đến thăm trường trung học Marie Curie, nơi đang có cuộc thi sát hạch tú tài . Một em gái rất cảm động rút một tờ giấy. Em muốn đề tài nầy ? Đó là lịch sử của nước Tàu, một nước láng giềng lớn nhất và mạnh nhất đang ảnh hưởng mạnh tới tiến trình hình thành một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo kiểu sô viết.

    Em sẽ đậu, em rất cảm động, nhưng ít nhất em cũng nên biết là mảnh bằng nầy không giúp em được gì hết, vì nó sẽ không có một chút giá trị nào cũng như những gì xuất xứ từ phương Tây.

    Ở ban Khoa Học, có nhiều cô sinh viên cầm nắm lá dừa trong tay làm bộ quét các đường đi. Một cô trong đám nầy nói:

    - “Tôi xin ông có chụp hình tôi thì hãy chụp từ phía sau lưng. Đừng cho các bạn tôi ở Paris nhận ra tôi.”

    Ông chủ nhiệm khoa nầy , giáo sư Trung Ngam, đề nghị tôi gập ông hiệu trưởng mới, vừa từ Hà Nội đến. Đó là một anh “bộ đội” như những người khác : cũng nón cối, cũng quân phục xanh lá cây, cũng mang dép râu, nhưng có đeo túi dết bên hông, với nụ cười khiêm tốn. Mà đôi mắt thì sáng ngời đầy kiêu căng.

    Ông giáo sư trưởng phân khoa thông dịch lại mấy câu hỏi của tôi và những câu trả lời của vị đồng nghiệp người Miền Bắc của ông. Ông nầy tên là Hao, là một nhà hóa-sinh học, đã được đi học bên Tàu.

    “Vâng, còn nhiều giáo sư nữa sấp từ Hà Nội đến đây. Có thể chu kỳ học sẽ được thay đổi để phù hợp với nhu cầu thật tế của đất nước .”

    Phía trên của giáo sư Hao có treo một tấm biểu ngữ lớn “Không gì quí hơn Độc Lập và Tự Do”

    Người ta mời chúng tôi đến quan sát các sinh viên trong nếp sinh hoạt mới của họ. Họ ngồi hay đứng thành từng vòng tròn lớn và vừa vỗ tay nhịp mạnh theo nhạc yêu nước, vừa lập lại các khẩu hiệu, hay chơi trò đuổi bắt chấp chữ , người ta gọi đó là “sinh hoạt văn hóa”….

    Các sinh viên đến ghi tên học, được chia ra thành từng nhóm. Nhóm thì lo về điều hành lưu thông, nhóm thì lo quét dọn sạch sẽ một khu vực nào đó, nhóm thì lo về trật tự trong trường đại học.

    Khoa Luật và Văn chương thì bị đóng cửa vĩnh viễn. Người ta cho các phân khoa đó là vô ích. Thay vào đó là phân khoa thông dịch. Ở phân khoa nầy người ta sẽ dạy tiếng Nga, tiếng Tàu và tiếng Anh. Ở ban Y Khoa thì tiếng Pháp bị cấm, và các sinh viên bác sĩ nội trú đang bị bối rối khi phải thực hiện các phiếu ghi bệnh bằng tiếng Việt, mà thông thường phải ghi bằng tiếng Pháp.

    Còn có nhiều sinh viên khác phải mang theo loa phóng thanh, đi với “cán bộ” để hô hào phản đối văn hóa và nhạc “của nước ngoài”, tức là theo Tây Phương. Họ còn mặc quần “Jeans” bó sát và mang giầy bốt theo kiểu cao bồi Texas, trong khi trên các vỉa hè, người ta đã bày bán dép râu làm bằng lốp xe cũ và quần áo pi ja ma đen rồi.

    Người ta cho đốt một số tạp chí “khiêu dâm” như Play Boy. Loại nầy cháy cũng khó lắm vì chúng được in trên giấy láng. Nghe đồn rằng người ta sẽ cho đốt hết tất cả các cuốn sách nào không được viết bằng tiếng Việt, và tác giả không phải là người Việt Nam .

    Các cuốn sách tiếng Pháp của chúng tôi rồi sẽ bị đốt cháy cùng với sách của ông Hemingway và của Steinbeck. Và có người đã đề nghị với chúng tôi bán hạ giá các loại sách nầy ngay trên sân thượng của khách sạn Continental.

    Về sau nầy, lâu lắm về sau, Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn Gia Định mới đính chánh lại, sau khi hàng chục ngàn cuốn sách, hình ảnh và phim đã bị thiêu hủy.

    -“Ủy Ban chỉ cho lệnh ngăn chặn mọi cuộc mua bán sách đồi trụy và phản động”

    Và luôn luôn có tiếng ồn ào của một chợ phiên hạng bét, của nhạc thánh ca với nhạc nhân gian xô viết.

    Khách sạn Continental bị một số người nhỏ thó mặc quân phục xanh lá cây tràn ngập. Họ đến từ Hà Nội và vào chiếm hết cả một tầng lầu. Đây là những người hơi đặc biệt, những nhân viên của Kho bạc, một loại người làm được mọi việc, chuyên nhúng tay vào bất cứ chuyện công hay chuyện tư, những ông cuồng tín về công tác kiểm kê.. Tuổi trung bình: khoảng 40.

    Giống như trong tiểu thuyết của ông Kafka, tất cả các công ty ở Sài Gòn đều được phân loại và được xếp vào một số danh mục được đánh dấu bằng chữ K :

    K1 : là các sở trồng tỉa; K2: thuế vụ và tài chánh; K3: ngân hàng; K4: ngoại thương;

    K5: kỹ nghệ máy móc; K6: Chuyên chở; K7 :Công chánh; K8: Xăng dầu;

    K9: Kỹ nghệ nặng; K10: Nông nghiệp…..

    Và người ta hỏi nhau : “Anh ở K mấy đó? Mấy con “ếch” ở trong K của anh có đến gặp anh hay không ?Anh ở K5 bởi vì anh điều khiển một nhà máy, mà anh ở trong K8 là vì ngoài sân của nhà máy anh có một cây xăng. Ráng mà ở trong K8 nghe, hình như ở đó khá hơn.”

    Thái độ lạ lùng của mấy người dân sao Hỏa từ Hà Nội vào làm cho đôi khi người ta nghĩ tới thái độ của bọn người chuyên môn làm cái gì ngược đời hết. Để miễn trách cho họ, chúng ta phải công nhận là họ hoàn toàn bất ngờ, không được chuẩn bị trước về một chiến thắng như vậy, và chuyện ứng biến không phải là chuyện của các ông Mác xít trong phạm vi văn phòng.

    Và vì thế mà tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa và ngân khoản của các xí nghiệp lớn đều bị niêm phong, vì thế mà không ai có thể trả lương được cho thợ thầy hết.

    Đầu tiên chúng tôi tưởng rẳng đây là một quỷ kế để bắt buộc những người thặng dư của thành phố phải trở về đồng quê của mình. Một loại hành động như ở Phnom Penh, nhưng nhẹ nhàng hơn. Người ta làm cạn nguồn tài chánh để đi đến một sự tiết kiệm lương thực.

    Thật sự không có gì cả. Các ngân hàng ở Sài Gòn đều xài máy điện toán IBM và không có một người dân sao Hỏa nào biết cho máy chạy đừng nói chi biết dùng. Trừ phi các máy nầy đã bị phá.

    Người ta đã cho vào Sài Gòn tất cả những kế toán viên dùng được . Những người nầy sao chép được chính xác các phiếu có đục lỗ của sổ kế toán lớn, như người ta đã làm hồi thời của Ngân Hàng Đông Dương vậy. Công việc nầy đòi hỏi phải làm cả tháng, rồi sau đó người ta mới cho mở cửa lại vì không có vấn đề đổi tiền. Nhưng vì không một người nào được lãnh lương, nên chuyện trộm cắp càng ngày càng nhiều lên. Tôi cũng là nạn nhân bị trộm ngay trong phòng của tôi. Các cựu binh sĩ thuộc quân đội cũ của Việt Nam Cộng Hòa không còn có gì để nuôi sống họ. Có xử bắn vài tên trộm tại nghĩa trang Pháp ở Tân sơn Nhứt trước mặt gia đình họ và cả ngàn người xem cũng không đi đến đâu hết.

    Một anh lính Thủy quân lục chiến đã tự thiêu trước tượng đài chiến sĩ đã bị phá sập, tay còn nắm một mẫu giấy có ghi hàng chữ : “Tôi đói”.

    Chúng tôi cả trăm nhà báo chen chúc nhau ở trong 3 khách sạn và tìm kiếm một cách vô vọng xem cái CPLTCHMN nó đang ở đâu. Nhưng người ta không ngớt nói tới nó, mà nó không bao giờ xuất hiện.

    Chỉ có Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài Gòn Gia Định là có mặt, do tướng Trần văn Trà chỉ huy, một ông già khó chơi đã từng chiến đấu từ năm 1945. Ngoài ra không còn có ai nữa hết.

    Nguyễn hữu Thọ ? Bà Nguyễn thị Bình ? Không biết.

    Ngày 7 tháng 5 :

    Tướng Trà họp báo tại Dinh Độc Lập, nơi ông đang ở. Ông cho chúng tôi biết là Sài Gòn vốn là sào huyệt của chủ nghĩa thực dân từ 117 năm nay mới được giải phóng. Ông xác nhận rất nhiều lần trước mọi người chúng tôi là những nhân chứng của sự việc, rằng thành phố Sài Gòn đã tự giải phóng mình và để tưởng thưởng thành phố nầy , kể từ nay thành phố sẽ mang tên Hồ chí Minh.

    Thật là một chuyện buồn cười ? Ngay tại Hà Nội vào năm 1962, để phản đối chuyện tham nhũng ở Sài Gòn do quân nhân Mỹ mang vào, người ta đã quyết định là thành phố nầy phải được đổi tên và sẽ mang tên Hồ chí Minh . Nhưng mà ông lãnh tụ cộng sản già nầy, khác hẳn Staline hay là Tito, lại không thích tôn sùng cá nhân. Ông đã ngăn cản không cho công khai hóa một quyết định như thế, vốn sẽ làm trò cười cho cả thiên hạ khắp thế giới trong thời kỳ đó.

    Ngày 7 tháng 5, một tuần lễ sau khi đánh chiếm được Sài Gòn tướng Trà không chút do dự lên án Hoa Kỳ là đã vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris, và tôi nghĩ đây là lần thứ 600 rồi chớ không ít. Còn có những tàu chiến ở ngoài khơi, trong vùng biển của nước Việt Nam . Ông ta xác nhận là từ các mỏm núi Lạng Sơn đến mũi Cà Mau không còn một người Việt Nam nào mà không được giải phóng khỏi bọn đế quốc Mỹ và bọn ngụy quyền Việt Nam phản động. Ông nói thêm:

    “Chỉ có bọn đế quốc Hoa Kỳ là chiến bại, và toàn thể nhân dân Việt Nam ta đã chiến thắng. Do vậy tất cả người nào mà trong huyết quản còn dòng máu Việt Nam thì có quyền hãnh diện về chiến thắng nầy.”


    CHƯƠNG BẢY

    PHẦN HAI



    Ông này trông thật là quyến rũ. Mặt vuông, rắn rỏi, tóc hoa râm cắt ngắn và mang kính gọng đồi mồi. Ông ta người gốc miền Trung, ở vùng Qui Nhơn. Ông đã từng tham gia chống Pháp từ năm 1945, đã từng là phụ tá của tướng Nguyễn Bình, người chỉ huy mặt trận kháng chiến ở Nam Bộ. Là một đảng viên cộng sản chính thống, hơn cả chỉ huy trưởng của mình, ông về lại Hà Nội vào năm 1954 và âm thầm giữ những chức vụ ngày càng quan trọng hơn. Trong hiện tại ông được xếp vào hàng thứ ba trong hệ thống quân ủy trung ương đảng. Ở Tân sơn Nhứt ông là người đại diện cho CPLTCHMN . Nhưng trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến ông đã biến mất. Người ta đã xác nhận với tôi là ông đã bí mật nằm đâu đó tại Sài Gòn hoặc là ông đã trở về với quân đội cộng sản Miền Bắc (1)

    Chính ông mới là người chủ, người duy nhất là người chủ và vẫn còn là người chủ trong một thời gian lâu dài nữa. Khi một người của chúng tôi hỏi ông chừng nào Ủy Ban Quân Quản mới bàn giao cho một Chánh Phủ dân sự, cái được gọi là CPLTCHMN, thì ông nhận chìm ngay vấn đề:
    “Chúng tôi muốn chuyển giao quyền hành càng sớm càng tốt. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không thể xác nhận với ông một cách chắc chắn là ngày nào được .”

    Chúng tôi không thấy thêm được gì cả, nhưng ít nhất chúng tôi cũng thấy được ông nầy đích thực là một người bộ đội cách mạng , một người quân nhân không bao giờ biết phân biệt giữa Miền Bắc và Miền Nam - chỉ biết có một quốc gia duy nhất , và ông không hiểu tại sao chúng tôi lại quá khăng khăng đòi hỏi sự có mặt của CPLTCHMN đó, một Chánh Phủ mà thời gian và nhu cầu phải có mặt của nó đã qua rồi, tốt nhất là nó phải được xếp vào kho dụng cụ mà thôi.

    Cái trò hề đó đã chấm dứt. Người ta đâu có cần đến nó nữa, cả ông Nguyễn hữu Thọ và bà Nguyễn thị Bình cũng vậy thôi .

    Mỗi buổi sáng vào lúc 6 giờ, dân chúng Sài Gòn được gọi thức dậy bằng vài bản nhạc quân hành và học được những quyết định của Ban Quân Quản qua lời đọc ngọt ngào đầu lưỡi của cô xướng ngôn viên. Do vậy mà các anh em quân nhân thuộc quân đội cũ mà cộng sản gọi là “ngụy quân”, được “mời” đến “đăng ký” ở các văn phòng đặc biệt được thành lập để họ trình diện theo từng cấp bậc hay từng loại : binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan , sĩ quan cấp tá và tướng lãnh.

    “Các ông giám đốc công ty, xí nghiệp nước ngoài phải nộp ngay trong vòng 48 tiếng đồng hồ một bản thống kê tất cả tài sản của công ty… Các nhân viên ngoại giao và các nhà báo ngoại quốc được mời đến ghi danh ở một tiểu ban của Ban Quân Quản tại Bộ Ngoại Giao cũ. Sự chọn lựa màu sắc cho áo quần hoặc tóc để dài, sơn móng tay ..v.v..là tùy thuộc theo sự tự do cá nhân của mỗi người . Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thành phố được giải phóng, chúng ta phải biết cởi bỏ những tàn tích xấu xa của tư bản Mỹ và tất cả những gì thuộc về một chế độ đã biến chúng ta thành một dân tộc mất gốc. Chánh Phủ sẽ hướng dẫn dân chúng để biến Sài Gòn thành một thành phố tiên tiến, văn minh, có sức mạnh và vui vẻ…”

    Tất cả mọi người đều phải đi làm việc lại… Nếu việc làm đó không còn có thể làm được thì phải làm “giống như thật” vậy .

    Không có một phi cơ dân sự nào đáp xuống Tân sơn Nhứt nữa, nhưng tất cả các văn phòng đại diện các hãng Hàng Không đều phải mở cửa làm việc lại, (làm “giống như thật”). Sát bên cạnh khách sạn của chúng tôi là hãng Hàng Không Tân Gia Ba. Khi thấy tôi bước vào tất cả các cô đều cố gắng làm ra vẻ bận rộn . Tôi hỏi :

    - “ Mở cửa à ?

    - Hẳn là như vậy rồi thưa ông, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa và từ 15 giờ đến 19 giờ chiều. .một cô trả lời.

    - Cô có thể cho tôi một vé đi Hong Kong được không ?

    - Được chớ, có ngay, thưa ông,

    - Sau một phút yên lặng, cô nầy lại nói tiếp :

    - Nhưng xin cho chúng tôi biết xem ông trả bằng tiền đồng (Việt Nam) hay bằng ngoại tệ

    Nói xong cô bụm miệng cười và nói tiếp :

    - Và không có chuyến máy bay nào nữa cả, thưa ông.

    - Chừng nào sẽ có ?

    - Hai tháng nữa, ba tháng không chừng, hay có thể là sẽ không có nữa. Không ai biết được.

    - Vậy mấy cô làm gì ở đây ?

    - “Làm giống như thật”, thưa ông.

    Ông đại tướng Minh cho tôi một cái hẹn : 3 giờ chiều. để tôi được phỏng vấn ông. Tôi dẫn toán làm việc của tôi đến. Chúng tôi đứng đợi trước cổng sau dinh của ông, và nhờ đó mới giúp chúng tôi chứng kiến được cái cảnh phá hủy một kho tàng phim ảnh của đại tướng nầy. Tất cả phim kỷ niệm của ông, tất cả các cuộc phỏng vấn, tất cả các cuộn băng tin tức tài liệu mà ông đã cẩn thận lưu giữ từ trước đến nay đều được phá hủy dưới con mắt giám sát khắc nghiệt của một “cán bộ” hình như có phận sự chuyên là về sức khỏe, tinh thần, và cải tạo cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa . …

    Ông tướng Minh không tiếp chúng tôi được .Và ông cũng không tiếp bất cứ người nào khác nữa.. Người bạn thân nhất và là người phó của ông là Phó Tổng Thống Vũ văn Mẫu, đã cho chúng tôi biết là ngay như điện thoại của ông cũng đã bị cắt đứt và “người ta khuyên ông không nên gặp bất cứ một nhà báo nào cả “

    Ông chỉ còn là một nhân chứng “trở ngại” của các diễn biến sau cùng . Người ta phải cho ông học một lập luận mới về các sự việc như thế nào đó để ông cứ thế mà trả bài trước một ống kính truyền hình Liên Xô trong một tuần lễ nữa.

    Chúng tôi phải đến thăm cựu Tổng Thống Trần văn Hương, người đã thay thế ông Thiệu và bàn giao lại cho ông Minh, trước khi chánh quyền mới tích cực lo lắng cho ông ta.

    Ông tiếp chúng tôi vào giờ nghỉ trưa, rất sung sướng về cuộc viếng thăm nầy. Người ta đã quên ông trong cái xó nầy của riêng ông. Ông ra gặp chúng tôi bước thấp bước cao. Ông gần như không thấy đường và nói với chúng tôi một cách trang nghiêm đầy phẩm cách, chỉ cho chúng tôi xem thư viện nhỏ bé của ông với toàn những tác phẩm tiếng Pháp.

    “ Tôi rất mến sách, nhưng tôi không thể đọc được chúng nữa rồi. Tôi yêu hoa, nhưng tôi cũng không thể ngắm chúng nữa rồi. Giống như đất nước của tôi, tôi đã đi vào bóng đêm mất rồi.”

    Ông tiến sĩ luật nổi tiếng Vũ văn Mẫu không biết tý gì về tương lai, ngoại trừ chuyện không còn có khoa luật và luật sư nữa. Ông ta còn nuôi hy vọng được chế độ mới chiếu cố, nhưng làm gì có chế độ mới, chỉ có độc một Ban Quân Quản, vốn chẳng cần biết gì đến ông cả .

    Không bao giờ lại có quá nhiều chuyện trôm cắp và cướp giật có vũ khí như thế nầy. Nguyên nhân thì có quá nhiều :

    - Các tù nhân hình sự cũng được thả ra như các tù nhân chánh trị ;

    - Binh sĩ không có gì để sống và để nuôi sống con gia đình cái của họ.

    - Các thành viên thuộc lực lượng đặc biệt, vì không được xem là binh sĩ chánh quy mà được liệt vào hạng lính đánh thuê, đều biết rằng nếu họ đi trình diện thì họ sẽ được đối xử như “băng đảng”, và có thể bị mất mạng như chơi. Con số người nầy lên đến 5000.

    - Các anh “chiêu hồi”, những người đào ngũ của quân đội nhân dân, đều phải trở về đơn vị cũ của mình, ở đó cấp chỉ huy và bạn đồng ngũ đang chờ đón họ.

    Các anh chiêu hồi nầy và các binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt đều sống ngoài lề xã hội Họ còn giữ vũ khí và đêm đêm họ giết chóc. Người ta tìm thấy các anh “bộ đội” bị `ám sát, thường thì bằng dao găm, do những tay nhà nghề : lưỡi dao đưa ngay vào thận.

    Một đêm nọ, đã có một trận chiến thật sự xảy ra giữa “bộ đội” và cựu binh sĩ quân đội cũ từ trên nóc nhà bắn xuống. Ngày hôm sau, tất cả các đội tuần tiểu đều được tăng cường, mỗi đội đều có mang theo máy truyền tin cầm tay.

    Nguyên nhân sâu xa của những chuyện lộn xộn nầy là do tính phi lý , quan liêu của các viên chức chủ nhân mới của thành phố Sài Gòn. Các ngân hàng vẫn còn đóng cửa, thợ thuyền không được lãnh lương và các cựu binh sĩ bị bỏ rơi theo số phận của họ. Chỉ có các công chức thì được lãnh mỗi ngày 600 gram gạo và 600 đồng, tương đương với 2 quan Pháp. Một viên cựu sĩ quan nói với tôi :

    “Kiểm kê tôi à ? Không bao giờ. Đó là tự mình đút mũi vào bẫy chuột !

    Nhưng hầu hết các bạn ông ta đều tự đi ghi danh. Tôi hỏi một vị đại tá vừa mới đi ghi danh xong:

    - Thế nào ? Ghi danh ra làm sao ?

    - Cũng tốt thôi, họ nói với tôi là cứ về nhà đi, đừng đi đâu và chờ đó.

    - Cái gì ?

    Có thể là một lúc nào đó họ cần đến chúng tôi để đi xâm chiếm nước Lào. nước Cam Bốt hay Thái Lan gì đó. Ở cấp cao hơn , ở Hà Nội họ là những người có đầu óc lớn lắm !

    Hình hư họ quên là Trung Quốc vẫn còn đó và họ không ngớt khiêu khích người ta.

    Chợ đen vẫn tiếp tục thạnh hành, nhưng nguồn cung cấp gần như cạn lần và đồng bạc trở nên khan hiếm.

    Gọng kềm đang xiết lại chung quanh thành phố, một cách êm thắm. Dân chúng đi đạo Gia Tô đang gặp phiền phức. Dĩ nhiên là họ không cấm đạo giáo nào. Ngày chúa nhật nhà thờ vẫn đầy tín đồ. Nhưng những người biểu tình đã tràn ngập Tòa Khâm sứ để buộc ông Khâm sứ Đức Ông Lemaitre phải ra đi, vì ông bị cáo buộc là đã ủng hộ ông Thiệu. Đó là do các tín đồ công giáo tiến bộ chủ động. Một trong những người nầy đã giật lá cờ của tòa thánh Vatican xuống để treo lá cờ của Việt Cộng lên. Quân đội đã đến can thiệp và đưa tấn hài kịch lên đến độ phải bắn chỉ thiên và bắt một số người biểu tình để rồi họ thả ra ngay sau đó. Nhưng rồi Đức Khâm sứ cũng bị trục xuất. Người ta tìm một cái cớ, và họ đã tìm ra. đó là : sự hiện diện của ông đã làm xáo trộn trật tự công cộng.

    Một tin vui : anh Christian Hoche vẫn còn sống, nhưng anh Michel Laurent thì đã chết, anh Jean Pouget đã khui ngôi mộ thứ hai, một điều mà ông Lãnh Sự đã bỏ qua đi vì quá gấp gáp hay vì công việc đó không vui vẻ tý nào cả. Thây người chết là một anh lính tự vệ công giáo, không phải thây của anh Hoche. Anh Pouget lại đi tiếp với một nhà trồng tỉa khác trong vùng Xuân Lộc là ông Patrick, người có 3 lợi điểm là thích mạo hiểm, nói rành tiếng Việt Nam và có một giấy thông hành để trở lại sở cao su của mình. Từ làng nầy sang làng khác, hỏi hết người nầy đến người kia, hai người đã theo dấu được con đường dài và khó khăn của người bị thương. Họ tìm gặp anh ta ở một bệnh xá dã chiến và được những người Việt Cộng kháng chiến quân Miền Nam săn sóc chu đáo. Dù sao anh cũng vẫn còn sống.

    Khi xe của họ bị nằm dưới lằn đạn của cộng sản thì anh Hoche và Laurent núp trong một cái hố bên đường. Lợi dụng một lúc tạm ngưng tiếng súng, hai anh đi ra khỏi chỗ trú ẩn

    và đưa tay lên, nhưng người ta vẫn bắn họ. Đừng quên là lệnh ban ra là phải giết hết bọn dân vệ công giáo và họ có thể bị xem là hai người trong số dân vệ nầy. Một viên đạn xuyên qua đùi của anh Hoche mà không trúng xương hay đường gân chính, một viên khác trúng quai hàm mà không gãy xương hàm. Thật là một phép lạ ! Nhưng anh Michel Laurent thì bị một tràng vào lưng ngã quỵ, anh ta hấp hối vài phút rồi chết luôn. Khi Việt Cộng đến xem kết quả thì anh Hoche đứng dậy và họ dẫn anh ta đi.

    Anh thuật lại cho chúng tôi nghe về câu chuyện phiêu lưu của anh lúc anh trở lại phòng của anh ở khách sạn Continental. Chúng tôi đã dọn xong đồ đạc của anh để sẵn sàng gởi về cho cha mẹ anh ta rồi. Anh đoan chắc là nếu anh đã bị thương nặng và không thể đi được thì chắc họ đã bắn anh chết luôn rồi. Người ta đã dẫn anh đi 40 cây số trong rừng, tay bị trói lại, bước đi loạng choạng, mặt mũi đầy máu với một cái đùi được băng bó sơ sài. Một vài anh tù binh Miền Nam Việt Nam cố gắng giúp đỡ anh. Anh biết là nếu anh quá yếu ngừng lại là anh có quyền nhận ngay một viên đạn vào ót rồi.

    Cùng với những người giữ anh, anh đi xuyên qua một sư đoàn Bắc Việt đóng rải rác trong vườn cao su với vũ khí hùng hậu, với các khẩu pháo nặng, các chiến xa và hỏa tiễn. Các bộ đội tưởng anh là người Mỹ đã đánh anh bằng nắm tay, bằng báng súng và nhổ cả nước miếng vào anh nữa.

    Cuối cùng anh đến được một bệnh viện dã chiến của kháng chiến quân Miền Nam Việt Nam. Những người nầy đã tỏ ra hiểu biết, gần như thân thiện hơn. Thái độ của họ khác hẳn thái độ của các đồng chí Miền Bắc của họ luôn bộc lộ ra một sự cuồng tín thảm hại với một tinh thần bài ngoại được nuôi dưỡng thật cẩn thận. Anh Hoche có cảm tưởng là họ bị tách riêng ra. Một người y tá đã gắp viên đạn ra cho anh mà không có thuốc mê và đã khâu lại vết thương trên cầm rất là khéo. Anh nằm ở bệnh viện nầy một tuần lễ cho đến khi anh Pouget đến tìm gập anh. Ở đây anh biết được là Sài Gòn đã bị chiếm. Tại buổi lễ cầu nguyện cho anh Laurent trong nhà nguyện của bệnh viện Grall, anh khóc sướt mướt.

    Anh bạn Laurent là nhà báo cuối cùng trong danh sách nhà báo bị chết ở Đông Dương, một danh sách rất dài có hằng trăm người. Trong số nầy có nhiều anh bạn vừa cười đùa trong một buổi sáng nào đó trước khi ra đi, nhưng rồi thường thường người ta không còn nghe thấy gì về anh nữa. Vĩnh biệt anh Laurent, vĩnh biệt anh Péraud, vĩnh biệt anh Kovacs ……

    Có tin đồn là anh em nhà báo không được quyền đi ra khỏi Sài Gòn nữa, nhưng vì chưa thấy có một quyết định nào chánh thức được ban hành, nên chúng tôi làm như không biết gì hết, và chúng tôi đi về miền Tây, xuống Mỹ Tho, vào một buổi sáng đẹp trời nào đó thường có được giữa hai cơn mưa lớn trong mùa mưa gió ở đây.

    Ngay sau khi chúng tôi vừa ra khỏi thành phố Sài Gòn chừng 10 hay 15 cây số gì đó thì chúng tôi để ý thấy có các pháo đội 105 ly của Mỹ được bỏ nằm ở vị trí và trong tư thế tác xạ, các chiến xa nằm cả hàng dài và các xe thiết giáp trống trơn không có một dấu vết chiến đấu nào. Và cả một chiếc trực thăng còn nguyên vẹn đang nằm ở giữa ruộng, vì hết xăng, có cả một ông tướng trên đó. Trái lại không thấy có trang thiết bị, không có một vũ khí cá nhân nào. Hình như là khi nghe lệnh ngừng bắn, các binh sĩ Miền Nam đã bỏ lại hết tất cả trang thiết bị và vũ khí nặng và chạy mất hết vào đồng ruộng với vũ khí cá nhân của họ.

    Trong vùng nầy tướng Nguyễn khoa Nam đã đạt được nhiều thành quả bằng cách xử dụng lực lượng địa phương quân để giữ chặt lãnh thổ, để ông dùng lực lượng chánh quy hành quân lưu động. Điều nầy lẽ ra các quân đoàn trưởng phải biết thực hiện nhưng họ không ai làm hết , trừ tướng Nam. Nhờ đó ông đã bẻ gãy cuộc tấn công của cộng sản , nhưng khi ông hiểu được là chiến cuộc đã chấm dứt thì ông đã tự sát, không thể sống được với sự thất trận nầy mà ông không phải là người chịu trách nhiệm.

    Có vài nút chặn dọc theo đường. Một cô gái còn rất trẻ ăn mặc đúng theo truyền thống quân đội, lại trang trí khẩu súng của mình với 3 chiếc nơ đỏ như một món đồ chơi, ghi một cách nghiêm túc số xe của chúng tôi trên cuốn sổ tay của cô.

    Tôi hỏi cô :

    - Cô gia nhập quân đội nhân dân đã lâu chưa cô ?

    - Hai ngày . (Sài Gòn đã bị chiếm cách đây 2 tuần)

    Cô để chúng tôi chụp hình cô một cách vui vẻ.! Cuôc chiến hình như không đả động gì đến phần đất nầy của Miền Nam Việt Nam, nó chỉ đi qua bên cạnh. Không thấy có “bộ đội” hay có ít thôi. Chỉ có vài anh “tự vệ” (dân quân cộng sản địa phương) trang bị với vũ khí tịch thu . Đó là những người dân Miền Nam chớ không phải những quân “xăm lăng”. Nhìn qua là biết ngay, vì cái lối xử sự của họ. Họ hòa mình thân mật với đám đông và không giống với những “người khác”, họ không đứng riêng lẻ.

    Mỹ Tho, không có gì thay đổi , ngoài mấy tấm biểu ngữ. Các anh “Bắc Việt” chưa xuống đến tỉnh này và các loa phóng thanh còn chưa lên tiếng. Dòng sông Cửu Long mang nhiều phù sa và từng cụm cây lục bình… Chúng tôi qua phà và sang tỉnh Bến Tre. Thật là ồn ào vui vẻ. Các em nhỏ đến mời chúng tôi hủ tiếu, cua rang, bánh ngọt, đậu hũ và trái cây đủ loại. Có những giỏ nhốt gà để trên mui của một chiếc xe đò, những chú heo con đen bị trói gô như đòn chả đang kêu la …

    Ở Bến Tre chúng tôi thuê một chiếc tàu nhỏ đưa chúng tôi đến cù lao của ông Đạo Dừa. Nhân vật nầy thật là lạ lùng, ông vốn là một công chức nhỏ của Pháp hồi còn thiếu thời, nửa bịp nửa duy tâm, đã có quyết định phải hòa hợp Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, hòa hợp giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam . Ông đã biến cải hòn đảo nhỏ của ông thành một công viên của chị Hằng. Chỗ nào cũng có những tượng của Đức Mẹ Đồng Trinh xanh và những tượng của Đức Phật vàng ánh, những thập tự giá và những con rồng đầy màu sắc. Và cả hai bên đều phân biệt bằng một con đường đi, một bên tượng trưng cho Hà Nội và bên kia tượng trưng cho Sài Gòn . Khi thì ông ở bên nầy, khi thì bên kia lúc nào cũng mong cho hòa bình sẽ đến. Nhưng vì lâu quá mà không thấy hòa bình đến, ông phải đi vào giường nằm ngủ, chỉ khi nào có khách đến thăm thì ông mới ra võng nằm.

    Ông đã biến hòn đảo của ông thành một nơi trú ẩn của các quân nhân đào ngũ người Mỹ lẫn người Miền Nam (chính vì muốn gặp số người Mỹ nầy mà chúng tôi mới đến đây). Ông được một số cơ quan mật vụ che chở, được Chánh Phủ của ông Thiệu lờ đi, ông lại nhận được tiền từ khắp mọi người , mua sắm cho các vị tăng của ông các loại máy hình tối tân như Canon và Nikon…, ở nơi ông cái gì cũng khác lạ hết.

    Ông ta đã biến mất dạng, hình như không chống nổi với ý muốn bay lên trời trên một chiếc trực thăng Hoa Kỳ (2), và để lại tại chỗ cô cháu gái để quản lý cái cộng đồng nầy. Cô nầy đã tập trung những ai còn lại để cho đọc kinh thánh, hát thánh ca cho Đức Mẹ và cho tụng kinh Phật có gõ mõ và đánh chuông.

    Chúng tôi đi tham quan hết ở đây, không có dấu vết nào của lính đào ngũ. Hai anh dân quân có vũ trang vẫn đứng canh chừng chúng tôi từ đàng xa.

    Ông Đạo Dừa không bao giờ cho phép bất cứ một anh binh sĩ Miền Nam nào có mang vũ khí được đặt chân lên hòn đảo của ông; và có một lần duy nhất đã xảy ra như vậy, ông đã gào to lên cho tới Hoa thạnh Đốn và Đông Kinh cũng còn nghe.

    Chúng tôi trở lại Mỹ Tho. Chúng tôi quyết định đi luôn đến Gò Công. Sung túc và thanh bình. Mùa lúa năm nay rất trúng. Có nhiều bao lúa được chất cao lên bên vệ đường và các nhà máy xay chạy liên hồi.Một anh nông dân (nguyên tác: "nha-qué) đang cày ruộng với con trâu của mình, vừa cày vừa lên tiếng vỗ về nó.

    Thình lình có tiếng đại bác, nhiều tiếng đại bác bị ngắt khoảng, không phải tiếng tác xạ của cả pháo đội . Xa xa có một đám cháy trong làng. Người ta còn đánh nhau hai tuần nay sau khi Sài Gòn đã bị chiếm. Sau nầy tôi mới được biết là trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long nầy, còn có nhiều khu kháng cự nhỏ mà người ta phải dùng tới đại bác để dập tắt.

    Những phần tử còn sót lại của một lữ đoàn Dù khoảng 2000 người đã chạy về Đồng Tháp, một số chạy về biên giới Cam Bốt. Một sĩ quan của đơn vị nầy ở Sài Gòn đã về vùng Châu Thổ để tìm các bè bạn đã không chịu ra ghi danh, ông ta gặp một trong những người bạn của tôi và có hỏi rằng : “Làm sao các anh sống được nếu không được tiếp liệu từ bên ngoài ? Đừng có mong gì ở bọn Hoa Kỳ , còn dân chúng thì trung lập như trong quá khứ, vậy thì ai lo cho các anh đây ?

    - Người Tàu, Và vì thế mà chúng tôi “đi” về hướng biên giới Cam Bốt. Vì chúng tôi sẽ nhận tiếp liệu xuyên qua Cam Bốt. anh ấy trả lời.

    Nếu tất cả đều bắt đầu làm lại ? và nếu chúng tôi coi như đang ở giai đoạn đầu của chiến tranh thứ ba của Việt Nam?

    Phà của Gò công (phà Chợ Gạo) chỉ hoạt động khi nào chiếc phà chạy được và con đường đến Gò công rất xấu, mà cũng có thể đã bị cắt đứt nữa không chừng, người ta nói với chúng tôi như vậy.

    Trở về Mỹ Tho. Trước khi đến Mỹ Tho, chúng tôi bị một toán dân quân chận lại, toán nầy được biết là đang đi tìm chúng tôi . Họ đưa chúng tôi vào Ủy Ban Hành chánh Quân sự tỉnh. Người có trách nhiệm thật là nhã nhặn đã tiếp chúng tôi, xem thật cẩn thận giấy tờ của chúng tôi, mời chúng tôi uống trà và giảng bài cho chúng tôi .

    Chúng tôi đã sai trái vì thật sự không biết. Lẽ ra chúng tôi phải xin phép Ủy Ban Quân

    quản Sài Gòn Gia Định trước khi chúng tôi đi Mỹ Tho. Ủy Ban Quân Quản sẽ báo cho Ủy Ban ở Mỹ Tho biết để ở đây biết và lo vấn đề an ninh cho chúng tôi . (như vậy là có vấn đề nguy hiểm khi đi dạo trong tỉnh ?)

    Ông ta lo lắng không biết chúng tôi đã quay phim những gì ?

    - Những con trâu đang cày ruộng.

    - Tại sao là những con trâu ?

    - Để cho thấy là đã có thanh bình ở đồng quê.

    -Tại sao các ông lại quan tâm đến hình ảnh lạc hậu của Việt Nam ? Tại sao các ông không quay những máy cày ?

    - Bởi vì tất cả máy cày đều có nhãn hiệu của Hoa Kỳ .

    Cuối cùng người ta thả chúng tôi đi. Chúng tôi về Sài Gòn yên ổn. Nhưng trong phòng khách của khách sạn có một tấm bảng lớn sau khi chúng tôi ra đi :

    “Các nhà báo nước ngoài không được phép đi ra khỏi châu vi Sài Gòn – Gia Định”

    Ngày 15 tháng 5.

    Ngày sinh nhật của Hồ chí Minh (sinh năm 1890, đến giờ nầy ông được 85 tuổi), tôi được chứng kiến một cuộc duyệt binh mừng chiến thắng. Tôi đã thấy chạy qua khán đài, các chiến xa nặng T.54 và T.56 của Liên Xô được trang bị máy nhắm có hồng ngoại tuyến, tốt nhất trong loại nầy, các chiến xa lội nước PT.74, các pháo đội 130 ly và các dàn rốc kết 122 ly vốn được dùng để bắn nát thành phố Sài Gòn, các hỏa tiễn SAM và một hàng vô tận các xe vận tải của Trung Quốc chở đầy các anh “bộ đội” đeo toàn găng trắng đứng thẳng ở thế nghiêm không chê được , tất cả đều còn rất trẻ, nghiêm trang và tươi cười. Đi trước các xe bộ đội là các đơn vị kháng chiến mặc quân phục đen, võ trang đủ thứ vũ khí hỗn tạp. Một số là người Miền Nam không bao giờ quá 30 %.

    Cuối cùng chúng tôi cũng gặp được cái gọi là CPLTCHMN được xếp cho ngồi ở khán đài danh dự : bác Thọ, bác Phát và bà Nguyễn thị Bình thân yêu, một nhân vật quan trọng ở Ba Lê nhưng ở đây chỉ ở hàng thứ 11 . Tại Sài Gòn người ta chẳng những không cho bà được ở một biệt thự mà lại cho bà ở một khách sạn hạng nhì, khách sạn Miramar, phòng số 312. Tôi đã kiểm tra. Các nhân vật quan trọng của CPLTCHMN được các tướng lãnh Bắc Việt ngồi bao vây, ngực đeo đầy huy chương, đeo cầu vai đỏ chói kiểu Liên Xô. Phải tự hỏi xem cái CPLTCHMN nầy có phải đã trở thành một hư cấu, một miếng mồi từ dạo Tết Mậu Thân mà các phần tử ưu tú và các cán bộ đều bị tàn sát trong Sài Gòn khi họ muốn chiếm lấy một thành phố nhưng không xong. Ngoài mấy hàng khán giả tập trung trước khán đài bên cạnh ban quân nhạc, vẫy hình Hồ chí Minh và vỗ tay, còn thì hầu hết các phái đoàn ngồi trên lề đường đã ngủ gục hết phân nửa. Người ta đã dạy cho họ vui chơi suốt cả đêm rồi, nên giờ nầy họ còn chưa tỉnh hẳn. Với thời gian chắc họ sẽ học được hơn.

    Tôi đã từng biết là ở Hà Nội có một quân đội không hề phô trương huy chương hay cấp bậc, và được trang bị rất là ít nhưng lại được tôi luyện một cách khác. Mỗi binh sĩ phải vừa là một cán bộ tuyên truyền, một người có trách nhiệm chánh trị vừa là một nhân viên tình báo. Với một cuốn sổ cầm tay, họ đi thẳng tới chúng ta để phỏng vấn, hỏi xem chúng ta nghĩ gì về chuyện này hay về chuyện nọ.

    Quân đội của Hà Nội với toàn là lính trẻ - con mà người ta không có thì giờ để huấn luyện, nên đã tự xem thường mình.

    Thấy dân chúng không vui vẻ hồ hởi gì cho lắm, người ta đã hủy bỏ các cuộc lễ vui cho ngày thứ hai và cả ngày thứ ba như đã được thông báo từ trước. Chỉ riêng các tiệm buôn là vẫn phải đóng cửa mà thôi.

    Và sau đây là đến lượt các anh nhà báo ở khách sạn Continental, cả một sự hỗn độn về những chuyện buồn cười, vô tổ chức, cãi vã , đến chẻ sợi tóc làm tư và những đề nghị không bao giờ được đa số đồng ý . Tất cả những máy điện báo cũng như các sự liên lạc vô tuyến đều bị cắt đứt. Không có một phi cơ nào nữa. Các hộp phim và các cuốn phim được chồng chất lên nhau một cách vô ích, để rồi hết hạn một cách nhanh chóng. Các hình ảnh nầy đã nói lên sự thật : là Sài Gòn đã bị chiếm chớ không bao giờ được giải phóng !

    Còn những “người khác” thì họ mong muốn gì đây ? Họ có thể tung ra thị trường quảng cáo của họ, những cuốn phim của họ do những toán của phương Đông quay nguội, sau khi cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam đã kết thúc ?.

    Vì chúng tôi đến đây quá muộn, và vì người ta đã quên là có một thành phố đã chết rồi, và thành phố đó đã mang môt cái tên rất đẹp, Sài Gòn?

    Sau khi đã cấm chúng tôi đi ra khỏi thành phố , kể từ sáng nay người ta lại không cho phép chúng tôi chụp ảnh nữa. Hai anh quay phim người Nhật đã được đưa đến bót, tay bị còng vì họ đã dám quay phim đường Tự Do, điều nấy cũng không ngăn chận được một anh bạn đồng nghiệp từ Hà Nội mới đến, đã viết cho chúng tôi rằng chúng tôi được phép làm việc như chúng tôi muốn. Anh ta có phải trả tiền cho tờ giấy chiếu khán của anh ta hay không đây ? Thật là thế giới của những người Shaddocks, ở đó làm cái gì cũng ngược ngạo hết.

    Có một số phóng viên của các “nước anh em”, Liên Xô, Hung gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của AFP đã từ Hà Nội đến đây để dự cuộc diễn hành ăn mừng chiến thằng. Để giữ cái hư cấu CPLTCHMN độc lập với Miền Bắc Việt Nam, người ta đã long trọng cấp cho họ một giấy chiếu khán nhập cảnh vào Miền Nam Việt Nam . Nhưng vì ở Tân sơn Nhứt không có ma nào để đóng dấu vào giấy thông hành của họ, người ta phải cho hai viên chức thuộc sở Nhập Cư cùng đi với các phóng viên trên cùng chiếc phi cơ đó để họ nhảy vào các văn phòng nhập cư trống vắng của Tân sơn Nhứt và đóng dấu lần thứ hai vào chiếu khán, điều mà họ đã làm rồi ở sân bay Gia Lâm, Hà Nội .

    Với tất cả sự khéo léo của mình, Sài Gòn tự tính toán và tự giữ mình nếu được, đối với những kẻ xăm lăng vốn muốn biến thành phố nầy thành một thành phố khác , đẹp , tẻ nhạt, nghiêm trang, buồn tẻ, một thành phố thật sự cộng sản, ở đó chỉ có trật tự và kỷ luật và hệ quả của nó là: sự tố giác.

    Trong cuộc đấu tranh nầy, giữa thói hư tật xấu có thể tha thứ được với cái đức hạnh không sao giữ nổi, người dân Sài Gòn đã tỏ ra có một tinh thần sáng tạo thật đáng làm cho tôi phải ngạc nhiên. Và cứ như thế là họ sáng chế ra những đám chôn cất giả. Có nhiều gia đình sợ bị trả thù vì có một vài người trong gia đình đã trốn đi với Mỹ. Và họ bèn phao tin là những người đó vẫn còn ở nhà, nhưng vì không chịu nổi cái nhục thất trận nên đã tự tử. Người ta tiến hành chôn cất họ với tất cả sự long trọng mong muốn với chiếc hòm trống không và mọi người đều để tang.

    Người ta cố gắng hủ hóa các “bộ đội”, những người mà mỗi gia đình phải nuôi ăn nuôi ở. Người ta cho họ uống rượu, điều mà họ không quen, rồi người ta vuốt ve mua chuộc họ, rồi người ta giới thiệu cho họ người cháu gái hay con gái trong nhà, coi như đang có nhiều điều bất hạnh, nhưng thật ra đó chỉ là người tớ gái hay một gái ăn sương nào đó mà người ta thuê để làm việc nầy. Anh “bộ đội” nhẹ dạ nghe theo, phản lại nguyên tắc đạo đức, ăn nằm với cô gái nọ và rồi đi tới phạm tội: ăn cắp vài tít xăng trong xe của quân đội nhân dân, giúp cho con trai của gia đình kia và hôn thê của anh ta dùng xe Honda chạy rong chơi.

    Nhưng, trước mắt, các anh mặc quân phục xanh củng cố tổ chức lại, vô hiệu hóa mọi trò xảo trá kia vốn chỉ thực hiện được ở chế độ độc tài thối nát trước kia mà thôi.

    Người ta dạy các em nhỏ hát “Đêm qua em mơ thấy Bác Hồ…… cho chúng em khăn quàng đỏ ” để rồi nhân đó người ta dạy các em sự tố giác.

    “Nầy các em, các em là người Miền Nam Việt Nam, các em phải hết sức cảnh giác. Cũng như các cha anh của mình, các em phải có bổn phận vạch mặt thiểu số những người đồng lõa của chế độ cũ đang âm mưu phản lại cách mạng…. “

    Như một đàn cá, dân chúng Sài Gòn đâm đầu vào lưới rọ ngày càng được người ta siết chặt quanh họ.

    Phía trên đường Tự Do. một cô gái trẻ đẹp đi xe gắn máy, mang găng tay trắng , rất chững chạc trong chiếc áo dài sáng rỡ, ngừng xe lại trước mặt tôi và hỏi :

    - Ông ơi, ông có phải là người Pháp không ?

    - Phải,

    - Ông lập gia đình chưa ?

    - Tôi đã có gia đình rồi.

    -Tiếc quá ! thật là đáng tiếc, Lẽ ra ông phải cưới tôi và tôi sẽ được đi ra khỏi nước Việt Nam nầy. Nhưng mà có lẽ ông cũng có một người bạn nào đó chưa lập gia đình ? Gia đình tôi ở bên Pháp và cha mẹ tôi chắc chắn sẽ mang ơn ông nhiều lắm… Bởi vì… bởi vì… tôi phải đi khỏi đây.

    - !!!!!!!!!

    CHÚ THÍCH:

    (1) Ông đã được Phái đoàn Hoa Kỳ trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên Trung Ương

    cho tháp tùng Phái đoàn Quân sự Bắc Việt trên chuyến phi cơ đưa phái đoàn nầy về Hà Nội vì đã mãn nhiệm, sau 3 tháng ở trại Davis, Tân sơn Nhứt đúng theo nghị định thư về Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên, trong Hiệp Định Ba Lê 1973. Từ đó ông trở lại Lộc Ninh, được coi là thủ đô của cái gọi là CPLTCHMN .

    (2) Ông Đạo Dừa không có đi Mỹ và ông đã bị cộng sản bắt. Vào khoảng tháng 9 năm 1987, lúc hai anh em chúng tôi đi xe Honda vào Mỹ Tho thì chính mắt tôi (người dịch cuốn sách nầy) phải , chính mắt tôi đã thấy công an ở Trung Lương (Mỹ Tho) liệng ông xuống từ một lô cốt cao khoảng 10 thước làm cho ông chết ngay tức khắc. Cũng có thể là họ đã tra tấn ông đến chết rồi liệng xác xuống từ lô cốt đó không chừng. Nhưng chúng tôi không dám dứng lâu ở đó vì sợ vạ lây.

    **

    Xin xem tiếp chương VIII, chương cuối cùng :

    “Ngày 29 tháng 5 : Xin giã biệt với Sài Gòn”

    54 và âm thầm giữ những chức vụ ngày càng quan trọng hơn. Trong hiện tại ông được xếp vào hàng thứ ba trong hệ thống quân ủy trung ương đảng. Ở Tân sơn Nhứt ông là người đại diện cho CPLTCHMN . Nhưng trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến ông đã biến mất. Người ta đã xác nhận với tôi là ông đã bí mật nằm đâu đó tại Sài Gòn hoặc là ông đã trở về với quân đội cộng sản Miền Bắc (1)

    Chính ông mới là người chủ, người duy nhất là người chủ và vẫn còn là người chủ trong một thời gian lâu dài nữa. Khi một người của chúng tôi hỏi ông chừng nào Ủy Ban Quân Quản mới bàn giao cho một Chánh Phủ dân sự, cái được gọi là CPLTCHMN, thì ông nhận chìm ngay vấn đề:
    “Chúng tôi muốn chuyển giao quyền hành càng sớm càng tốt. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không thể xác nhận với ông một cách chắc chắn là ngày nào được .”

    Chúng tôi không thấy thêm được gì cả, nhưng ít nhất chúng tôi cũng thấy được ông nầy đích thực là một người bộ đội cách mạng , một người quân nhân không bao giờ biết phân biệt giữa Miền Bắc và Miền Nam - chỉ biết có một quốc gia duy nhất , và ông không hiểu tại sao chúng tôi lại quá khăng khăng đòi hỏi sự có mặt của CPLTCHMN đó, một Chánh Phủ mà thời gian và nhu cầu phải có mặt của nó đã qua rồi, tốt nhất là nó phải được xếp vào kho dụng cụ mà thôi.

    Cái trò hề đó đã chấm dứt. Người ta đâu có cần đến nó nữa, cả ông Nguyễn hữu Thọ và bà Nguyễn thị Bình cũng vậy thôi .

    Mỗi buổi sáng vào lúc 6 giờ, dân chúng Sài Gòn được gọi thức dậy bằng vài bản nhạc quân hành và học được những quyết định của Ban Quân Quản qua lời đọc ngọt ngào đầu lưỡi của cô xướng ngôn viên. Do vậy mà các anh em quân nhân thuộc quân đội cũ mà cộng sản gọi là “ngụy quân”, được “mời” đến “đăng ký” ở các văn phòng đặc biệt được thành lập để họ trình diện theo từng cấp bậc hay từng loại : binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan , sĩ quan cấp tá và tướng lãnh.

    “Các ông giám đốc công ty, xí nghiệp nước ngoài phải nộp ngay trong vòng 48 tiếng đồng hồ một bản thống kê tất cả tài sản của công ty… Các nhân viên ngoại giao và các nhà báo ngoại quốc được mời đến ghi danh ở một tiểu ban của Ban Quân Quản tại Bộ Ngoại Giao cũ. Sự chọn lựa màu sắc cho áo quần hoặc tóc để dài, sơn móng tay ..v.v..là tùy thuộc theo sự tự do cá nhân của mỗi người . Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thành phố được giải phóng, chúng ta phải biết cởi bỏ những tàn tích xấu xa của tư bản Mỹ và tất cả những gì thuộc về một chế độ đã biến chúng ta thành một dân tộc mất gốc. Chánh Phủ sẽ hướng dẫn dân chúng để biến Sài Gòn thành một thành phố tiên tiến, văn minh, có sức mạnh và vui vẻ…”

    Tất cả mọi người đều phải đi làm việc lại… Nếu việc làm đó không còn có thể làm được thì phải làm “giống như thật” vậy .

    Không có một phi cơ dân sự nào đáp xuống Tân sơn Nhứt nữa, nhưng tất cả các văn phòng đại diện các hãng Hàng Không đều phải mở cửa làm việc lại, (làm “giống như thật”). Sát bên cạnh khách sạn của chúng tôi là hãng Hàng Không Tân Gia Ba. Khi thấy tôi bước vào tất cả các cô đều cố gắng làm ra vẻ bận rộn . Tôi hỏi :

    - “ Mở cửa à ?

    - Hẳn là như vậy rồi thưa ông, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa và từ 15 giờ đến 19 giờ chiều. .một cô trả lời.

    - Cô có thể cho tôi một vé đi Hong Kong được không ?

    - Được chớ, có ngay, thưa ông,

    - Sau một phút yên lặng, cô nầy lại nói tiếp :

    - Nhưng xin cho chúng tôi biết xem ông trả bằng tiền đồng (Việt Nam) hay bằng ngoại tệ

    Nói xong cô bụm miệng cười và nói tiếp :

    - Và không có chuyến máy bay nào nữa cả, thưa ông.

    - Chừng nào sẽ có ?

    - Hai tháng nữa, ba tháng không chừng, hay có thể là sẽ không có nữa. Không ai biết được.

    - Vậy mấy cô làm gì ở đây ?

    - “Làm giống như thật”, thưa ông.

    Ông đại tướng Minh cho tôi một cái hẹn : 3 giờ chiều. để tôi được phỏng vấn ông. Tôi dẫn toán làm việc của tôi đến. Chúng tôi đứng đợi trước cổng sau dinh của ông, và nhờ đó mới giúp chúng tôi chứng kiến được cái cảnh phá hủy một kho tàng phim ảnh của đại tướng nầy. Tất cả phim kỷ niệm của ông, tất cả các cuộc phỏng vấn, tất cả các cuộn băng tin tức tài liệu mà ông đã cẩn thận lưu giữ từ trước đến nay đều được phá hủy dưới con mắt giám sát khắc nghiệt của một “cán bộ” hình như có phận sự chuyên là về sức khỏe, tinh thần, và cải tạo cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa . …

    Ông tướng Minh không tiếp chúng tôi được .Và ông cũng không tiếp bất cứ người nào khác nữa.. Người bạn thân nhất và là người phó của ông là Phó Tổng Thống Vũ văn Mẫu, đã cho chúng tôi biết là ngay như điện thoại của ông cũng đã bị cắt đứt và “người ta khuyên ông không nên gặp bất cứ một nhà báo nào cả “

    Ông chỉ còn là một nhân chứng “trở ngại” của các diễn biến sau cùng . Người ta phải cho ông học một lập luận mới về các sự việc như thế nào đó để ông cứ thế mà trả bài trước một ống kính truyền hình Liên Xô trong một tuần lễ nữa.

    Chúng tôi phải đến thăm cựu Tổng Thống Trần văn Hương, người đã thay thế ông Thiệu và bàn giao lại cho ông Minh, trước khi chánh quyền mới tích cực lo lắng cho ông ta.

    Ông tiếp chúng tôi vào giờ nghỉ trưa, rất sung sướng về cuộc viếng thăm nầy. Người ta đã quên ông trong cái xó nầy của riêng ông. Ông ra gặp chúng tôi bước thấp bước cao. Ông gần như không thấy đường và nói với chúng tôi một cách trang nghiêm đầy phẩm cách, chỉ cho chúng tôi xem thư viện nhỏ bé của ông với toàn những tác phẩm tiếng Pháp.

    “ Tôi rất mến sách, nhưng tôi không thể đọc được chúng nữa rồi. Tôi yêu hoa, nhưng tôi cũng không thể ngắm chúng nữa rồi. Giống như đất nước của tôi, tôi đã đi vào bóng đêm mất rồi.”

    Ông tiến sĩ luật nổi tiếng Vũ văn Mẫu không biết tý gì về tương lai, ngoại trừ chuyện không còn có khoa luật và luật sư nữa. Ông ta còn nuôi hy vọng được chế độ mới chiếu cố, nhưng làm gì có chế độ mới, chỉ có độc một Ban Quân Quản, vốn chẳng cần biết gì đến ông cả .

    Không bao giờ lại có quá nhiều chuyện trôm cắp và cướp giật có vũ khí như thế nầy. Nguyên nhân thì có quá nhiều :

    - Các tù nhân hình sự cũng được thả ra như các tù nhân chánh trị ;

    - Binh sĩ không có gì để sống và để nuôi sống con gia đình cái của họ.

    - Các thành viên thuộc lực lượng đặc biệt, vì không được xem là binh sĩ chánh quy mà được liệt vào hạng lính đánh thuê, đều biết rằng nếu họ đi trình diện thì họ sẽ được đối xử như “băng đảng”, và có thể bị mất mạng như chơi. Con số người nầy lên đến 5000.

    - Các anh “chiêu hồi”, những người đào ngũ của quân đội nhân dân, đều phải trở về đơn vị cũ của mình, ở đó cấp chỉ huy và bạn đồng ngũ đang chờ đón họ.

    Các anh chiêu hồi nầy và các binh sĩ thuộc lực lượng đặc biệt đều sống ngoài lề xã hội Họ còn giữ vũ khí và đêm đêm họ giết chóc. Người ta tìm thấy các anh “bộ đội” bị `ám sát, thường thì bằng dao găm, do những tay nhà nghề : lưỡi dao đưa ngay vào thận.

    Một đêm nọ, đã có một trận chiến thật sự xảy ra giữa “bộ đội” và cựu binh sĩ quân đội cũ từ trên nóc nhà bắn xuống. Ngày hôm sau, tất cả các đội tuần tiểu đều được tăng cường, mỗi đội đều có mang theo máy truyền tin cầm tay.

    Nguyên nhân sâu xa của những chuyện lộn xộn nầy là do tính phi lý , quan liêu của các viên chức chủ nhân mới của thành phố Sài Gòn. Các ngân hàng vẫn còn đóng cửa, thợ thuyền không được lãnh lương và các cựu binh sĩ bị bỏ rơi theo số phận của họ. Chỉ có các công chức thì được lãnh mỗi ngày 600 gram gạo và 600 đồng, tương đương với 2 quan Pháp. Một viên cựu sĩ quan nói với tôi :

    “Kiểm kê tôi à ? Không bao giờ. Đó là tự mình đút mũi vào bẫy chuột !

    Nhưng hầu hết các bạn ông ta đều tự đi ghi danh. Tôi hỏi một vị đại tá vừa mới đi ghi danh xong:

    - Thế nào ? Ghi danh ra làm sao ?

    - Cũng tốt thôi, họ nói với tôi là cứ về nhà đi, đừng đi đâu và chờ đó.

    - Cái gì ?

    Có thể là một lúc nào đó họ cần đến chúng tôi để đi xâm chiếm nước Lào. nước Cam Bốt hay Thái Lan gì đó. Ở cấp cao hơn , ở Hà Nội họ là những người có đầu óc lớn lắm !

    Hình hư họ quên là Trung Quốc vẫn còn đó và họ không ngớt khiêu khích người ta.

    Chợ đen vẫn tiếp tục thạnh hành, nhưng nguồn cung cấp gần như cạn lần và đồng bạc trở nên khan hiếm.

    Gọng kềm đang xiết lại chung quanh thành phố, một cách êm thắm. Dân chúng đi đạo Gia Tô đang gặp phiền phức. Dĩ nhiên là họ không cấm đạo giáo nào. Ngày chúa nhật nhà thờ vẫn đầy tín đồ. Nhưng những người biểu tình đã tràn ngập Tòa Khâm sứ để buộc ông Khâm sứ Đức Ông Lemaitre phải ra đi, vì ông bị cáo buộc là đã ủng hộ ông Thiệu. Đó là do các tín đồ công giáo tiến bộ chủ động. Một trong những người nầy đã giật lá cờ của tòa thánh Vatican xuống để treo lá cờ của Việt Cộng lên. Quân đội đã đến can thiệp và đưa tấn hài kịch lên đến độ phải bắn chỉ thiên và bắt một số người biểu tình để rồi họ thả ra ngay sau đó. Nhưng rồi Đức Khâm sứ cũng bị trục xuất. Người ta tìm một cái cớ, và họ đã tìm ra. đó là : sự hiện diện của ông đã làm xáo trộn trật tự công cộng.

    Một tin vui : anh Christian Hoche vẫn còn sống, nhưng anh Michel Laurent thì đã chết, anh Jean Pouget đã khui ngôi mộ thứ hai, một điều mà ông Lãnh Sự đã bỏ qua đi vì quá gấp gáp hay vì công việc đó không vui vẻ tý nào cả. Thây người chết là một anh lính tự vệ công giáo, không phải thây của anh Hoche. Anh Pouget lại đi tiếp với một nhà trồng tỉa khác trong vùng Xuân Lộc là ông Patrick, người có 3 lợi điểm là thích mạo hiểm, nói rành tiếng Việt Nam và có một giấy thông hành để trở lại sở cao su của mình. Từ làng nầy sang làng khác, hỏi hết người nầy đến người kia, hai người đã theo dấu được con đường dài và khó khăn của người bị thương. Họ tìm gặp anh ta ở một bệnh xá dã chiến và được những người Việt Cộng kháng chiến quân Miền Nam săn sóc chu đáo. Dù sao anh cũng vẫn còn sống.

    Khi xe của họ bị nằm dưới lằn đạn của cộng sản thì anh Hoche và Laurent núp trong một cái hố bên đường. Lợi dụng một lúc tạm ngưng tiếng súng, hai anh đi ra khỏi chỗ trú ẩn

    và đưa tay lên, nhưng người ta vẫn bắn họ. Đừng quên là lệnh ban ra là phải giết hết bọn dân vệ công giáo và họ có thể bị xem là hai người trong số dân vệ nầy. Một viên đạn xuyên qua đùi của anh Hoche mà không trúng xương hay đường gân chính, một viên khác trúng quai hàm mà không gãy xương hàm. Thật là một phép lạ ! Nhưng anh Michel Laurent thì bị một tràng vào lưng ngã quỵ, anh ta hấp hối vài phút rồi chết luôn. Khi Việt Cộng đến xem kết quả thì anh Hoche đứng dậy và họ dẫn anh ta đi.

    Anh thuật lại cho chúng tôi nghe về câu chuyện phiêu lưu của anh lúc anh trở lại phòng của anh ở khách sạn Continental. Chúng tôi đã dọn xong đồ đạc của anh để sẵn sàng gởi về cho cha mẹ anh ta rồi. Anh đoan chắc là nếu anh đã bị thương nặng và không thể đi được thì chắc họ đã bắn anh chết luôn rồi. Người ta đã dẫn anh đi 40 cây số trong rừng, tay bị trói lại, bước đi loạng choạng, mặt mũi đầy máu với một cái đùi được băng bó sơ sài. Một vài anh tù binh Miền Nam Việt Nam cố gắng giúp đỡ anh. Anh biết là nếu anh quá yếu ngừng lại là anh có quyền nhận ngay một viên đạn vào ót rồi.

    Cùng với những người giữ anh, anh đi xuyên qua một sư đoàn Bắc Việt đóng rải rác trong vườn cao su với vũ khí hùng hậu, với các khẩu pháo nặng, các chiến xa và hỏa tiễn. Các bộ đội tưởng anh là người Mỹ đã đánh anh bằng nắm tay, bằng báng súng và nhổ cả nước miếng vào anh nữa.

    Cuối cùng anh đến được một bệnh viện dã chiến của kháng chiến quân Miền Nam Việt Nam. Những người nầy đã tỏ ra hiểu biết, gần như thân thiện hơn. Thái độ của họ khác hẳn thái độ của các đồng chí Miền Bắc của họ luôn bộc lộ ra một sự cuồng tín thảm hại với một tinh thần bài ngoại được nuôi dưỡng thật cẩn thận. Anh Hoche có cảm tưởng là họ bị tách riêng ra. Một người y tá đã gắp viên đạn ra cho anh mà không có thuốc mê và đã khâu lại vết thương trên cầm rất là khéo. Anh nằm ở bệnh viện nầy một tuần lễ cho đến khi anh Pouget đến tìm gập anh. Ở đây anh biết được là Sài Gòn đã bị chiếm. Tại buổi lễ cầu nguyện cho anh Laurent trong nhà nguyện của bệnh viện Grall, anh khóc sướt mướt.

    Anh bạn Laurent là nhà báo cuối cùng trong danh sách nhà báo bị chết ở Đông Dương, một danh sách rất dài có hằng trăm người. Trong số nầy có nhiều anh bạn vừa cười đùa trong một buổi sáng nào đó trước khi ra đi, nhưng rồi thường thường người ta không còn nghe thấy gì về anh nữa. Vĩnh biệt anh Laurent, vĩnh biệt anh Péraud, vĩnh biệt anh Kovacs ……

    Có tin đồn là anh em nhà báo không được quyền đi ra khỏi Sài Gòn nữa, nhưng vì chưa thấy có một quyết định nào chánh thức được ban hành, nên chúng tôi làm như không biết gì hết, và chúng tôi đi về miền Tây, xuống Mỹ Tho, vào một buổi sáng đẹp trời nào đó thường có được giữa hai cơn mưa lớn trong mùa mưa gió ở đây.

    Ngay sau khi chúng tôi vừa ra khỏi thành phố Sài Gòn chừng 10 hay 15 cây số gì đó thì chúng tôi để ý thấy có các pháo đội 105 ly của Mỹ được bỏ nằm ở vị trí và trong tư thế tác xạ, các chiến xa nằm cả hàng dài và các xe thiết giáp trống trơn không có một dấu vết chiến đấu nào. Và cả một chiếc trực thăng còn nguyên vẹn đang nằm ở giữa ruộng, vì hết xăng, có cả một ông tướng trên đó. Trái lại không thấy có trang thiết bị, không có một vũ khí cá nhân nào. Hình như là khi nghe lệnh ngừng bắn, các binh sĩ Miền Nam đã bỏ lại hết tất cả trang thiết bị và vũ khí nặng và chạy mất hết vào đồng ruộng với vũ khí cá nhân của họ.

    Trong vùng nầy tướng Nguyễn khoa Nam đã đạt được nhiều thành quả bằng cách xử dụng lực lượng địa phương quân để giữ chặt lãnh thổ, để ông dùng lực lượng chánh quy hành quân lưu động. Điều nầy lẽ ra các quân đoàn trưởng phải biết thực hiện nhưng họ không ai làm hết , trừ tướng Nam. Nhờ đó ông đã bẻ gãy cuộc tấn công của cộng sản , nhưng khi ông hiểu được là chiến cuộc đã chấm dứt thì ông đã tự sát, không thể sống được với sự thất trận nầy mà ông không phải là người chịu trách nhiệm.

    Có vài nút chặn dọc theo đường. Một cô gái còn rất trẻ ăn mặc đúng theo truyền thống quân đội, lại trang trí khẩu súng của mình với 3 chiếc nơ đỏ như một món đồ chơi, ghi một cách nghiêm túc số xe của chúng tôi trên cuốn sổ tay của cô.

    Tôi hỏi cô :

    - Cô gia nhập quân đội nhân dân đã lâu chưa cô ?

    - Hai ngày . (Sài Gòn đã bị chiếm cách đây 2 tuần)

    Cô để chúng tôi chụp hình cô một cách vui vẻ.! Cuôc chiến hình như không đả động gì đến phần đất nầy của Miền Nam Việt Nam, nó chỉ đi qua bên cạnh. Không thấy có “bộ đội” hay có ít thôi. Chỉ có vài anh “tự vệ” (dân quân cộng sản địa phương) trang bị với vũ khí tịch thu . Đó là những người dân Miền Nam chớ không phải những quân “xăm lăng”. Nhìn qua là biết ngay, vì cái lối xử sự của họ. Họ hòa mình thân mật với đám đông và không giống với những “người khác”, họ không đứng riêng lẻ.

    Mỹ Tho, không có gì thay đổi , ngoài mấy tấm biểu ngữ. Các anh “Bắc Việt” chưa xuống đến tỉnh này và các loa phóng thanh còn chưa lên tiếng. Dòng sông Cửu Long mang nhiều phù sa và từng cụm cây lục bình… Chúng tôi qua phà và sang tỉnh Bến Tre. Thật là ồn ào vui vẻ. Các em nhỏ đến mời chúng tôi hủ tiếu, cua rang, bánh ngọt, đậu hũ và trái cây đủ loại. Có những giỏ nhốt gà để trên mui của một chiếc xe đò, những chú heo con đen bị trói gô như đòn chả đang kêu la …

    Ở Bến Tre chúng tôi thuê một chiếc tàu nhỏ đưa chúng tôi đến cù lao của ông Đạo Dừa. Nhân vật nầy thật là lạ lùng, ông vốn là một công chức nhỏ của Pháp hồi còn thiếu thời, nửa bịp nửa duy tâm, đã có quyết định phải hòa hợp Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, hòa hợp giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam . Ông đã biến cải hòn đảo nhỏ của ông thành một công viên của chị Hằng. Chỗ nào cũng có những tượng của Đức Mẹ Đồng Trinh xanh và những tượng của Đức Phật vàng ánh, những thập tự giá và những con rồng đầy màu sắc. Và cả hai bên đều phân biệt bằng một con đường đi, một bên tượng trưng cho Hà Nội và bên kia tượng trưng cho Sài Gòn . Khi thì ông ở bên nầy, khi thì bên kia lúc nào cũng mong cho hòa bình sẽ đến. Nhưng vì lâu quá mà không thấy hòa bình đến, ông phải đi vào giường nằm ngủ, chỉ khi nào có khách đến thăm thì ông mới ra võng nằm.

    Ông đã biến hòn đảo của ông thành một nơi trú ẩn của các quân nhân đào ngũ người Mỹ lẫn người Miền Nam (chính vì muốn gặp số người Mỹ nầy mà chúng tôi mới đến đây). Ông được một số cơ quan mật vụ che chở, được Chánh Phủ của ông Thiệu lờ đi, ông lại nhận được tiền từ khắp mọi người , mua sắm cho các vị tăng của ông các loại máy hình tối tân như Canon và Nikon…, ở nơi ông cái gì cũng khác lạ hết.

    Ông ta đã biến mất dạng, hình như không chống nổi với ý muốn bay lên trời trên một chiếc trực thăng Hoa Kỳ (2), và để lại tại chỗ cô cháu gái để quản lý cái cộng đồng nầy. Cô nầy đã tập trung những ai còn lại để cho đọc kinh thánh, hát thánh ca cho Đức Mẹ và cho tụng kinh Phật có gõ mõ và đánh chuông.

    Chúng tôi đi tham quan hết ở đây, không có dấu vết nào của lính đào ngũ. Hai anh dân quân có vũ trang vẫn đứng canh chừng chúng tôi từ đàng xa.

    Ông Đạo Dừa không bao giờ cho phép bất cứ một anh binh sĩ Miền Nam nào có mang vũ khí được đặt chân lên hòn đảo của ông; và có một lần duy nhất đã xảy ra như vậy, ông đã gào to lên cho tới Hoa thạnh Đốn và Đông Kinh cũng còn nghe.

    Chúng tôi trở lại Mỹ Tho. Chúng tôi quyết định đi luôn đến Gò Công. Sung túc và thanh bình. Mùa lúa năm nay rất trúng. Có nhiều bao lúa được chất cao lên bên vệ đường và các nhà máy xay chạy liên hồi.Một anh nông dân (nguyên tác: "nha-qué) đang cày ruộng với con trâu của mình, vừa cày vừa lên tiếng vỗ về nó.

    Thình lình có tiếng đại bác, nhiều tiếng đại bác bị ngắt khoảng, không phải tiếng tác xạ của cả pháo đội . Xa xa có một đám cháy trong làng. Người ta còn đánh nhau hai tuần nay sau khi Sài Gòn đã bị chiếm. Sau nầy tôi mới được biết là trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long nầy, còn có nhiều khu kháng cự nhỏ mà người ta phải dùng tới đại bác để dập tắt.

    Những phần tử còn sót lại của một lữ đoàn Dù khoảng 2000 người đã chạy về Đồng Tháp, một số chạy về biên giới Cam Bốt. Một sĩ quan của đơn vị nầy ở Sài Gòn đã về vùng Châu Thổ để tìm các bè bạn đã không chịu ra ghi danh, ông ta gặp một trong những người bạn của tôi và có hỏi rằng : “Làm sao các anh sống được nếu không được tiếp liệu từ bên ngoài ? Đừng có mong gì ở bọn Hoa Kỳ , còn dân chúng thì trung lập như trong quá khứ, vậy thì ai lo cho các anh đây ?

    - Người Tàu, Và vì thế mà chúng tôi “đi” về hướng biên giới Cam Bốt. Vì chúng tôi sẽ nhận tiếp liệu xuyên qua Cam Bốt. anh ấy trả lời.

    Nếu tất cả đều bắt đầu làm lại ? và nếu chúng tôi coi như đang ở giai đoạn đầu của chiến tranh thứ ba của Việt Nam?

    Phà của Gò công (phà Chợ Gạo) chỉ hoạt động khi nào chiếc phà chạy được và con đường đến Gò công rất xấu, mà cũng có thể đã bị cắt đứt nữa không chừng, người ta nói với chúng tôi như vậy.

    Trở về Mỹ Tho. Trước khi đến Mỹ Tho, chúng tôi bị một toán dân quân chận lại, toán nầy được biết là đang đi tìm chúng tôi . Họ đưa chúng tôi vào Ủy Ban Hành chánh Quân sự tỉnh. Người có trách nhiệm thật là nhã nhặn đã tiếp chúng tôi, xem thật cẩn thận giấy tờ của chúng tôi, mời chúng tôi uống trà và giảng bài cho chúng tôi .

    Chúng tôi đã sai trái vì thật sự không biết. Lẽ ra chúng tôi phải xin phép Ủy Ban Quân

    quản Sài Gòn Gia Định trước khi chúng tôi đi Mỹ Tho. Ủy Ban Quân Quản sẽ báo cho Ủy Ban ở Mỹ Tho biết để ở đây biết và lo vấn đề an ninh cho chúng tôi . (như vậy là có vấn đề nguy hiểm khi đi dạo trong tỉnh ?)

    Ông ta lo lắng không biết chúng tôi đã quay phim những gì ?

    - Những con trâu đang cày ruộng.

    - Tại sao là những con trâu ?

    - Để cho thấy là đã có thanh bình ở đồng quê.

    -Tại sao các ông lại quan tâm đến hình ảnh lạc hậu của Việt Nam ? Tại sao các ông không quay những máy cày ?

    - Bởi vì tất cả máy cày đều có nhãn hiệu của Hoa Kỳ .

    Cuối cùng người ta thả chúng tôi đi. Chúng tôi về Sài Gòn yên ổn. Nhưng trong phòng khách của khách sạn có một tấm bảng lớn sau khi chúng tôi ra đi :

    “Các nhà báo nước ngoài không được phép đi ra khỏi châu vi Sài Gòn – Gia Định”

    Ngày 15 tháng 5.

    Ngày sinh nhật của Hồ chí Minh (sinh năm 1890, đến giờ nầy ông được 85 tuổi), tôi được chứng kiến một cuộc duyệt binh mừng chiến thắng. Tôi đã thấy chạy qua khán đài, các chiến xa nặng T.54 và T.56 của Liên Xô được trang bị máy nhắm có hồng ngoại tuyến, tốt nhất trong loại nầy, các chiến xa lội nước PT.74, các pháo đội 130 ly và các dàn rốc kết 122 ly vốn được dùng để bắn nát thành phố Sài Gòn, các hỏa tiễn SAM và một hàng vô tận các xe vận tải của Trung Quốc chở đầy các anh “bộ đội” đeo toàn găng trắng đứng thẳng ở thế nghiêm không chê được , tất cả đều còn rất trẻ, nghiêm trang và tươi cười. Đi trước các xe bộ đội là các đơn vị kháng chiến mặc quân phục đen, võ trang đủ thứ vũ khí hỗn tạp. Một số là người Miền Nam không bao giờ quá 30 %.

    Cuối cùng chúng tôi cũng gặp được cái gọi là CPLTCHMN được xếp cho ngồi ở khán đài danh dự : bác Thọ, bác Phát và bà Nguyễn thị Bình thân yêu, một nhân vật quan trọng ở Ba Lê nhưng ở đây chỉ ở hàng thứ 11 . Tại Sài Gòn người ta chẳng những không cho bà được ở một biệt thự mà lại cho bà ở một khách sạn hạng nhì, khách sạn Miramar, phòng số 312. Tôi đã kiểm tra. Các nhân vật quan trọng của CPLTCHMN được các tướng lãnh Bắc Việt ngồi bao vây, ngực đeo đầy huy chương, đeo cầu vai đỏ chói kiểu Liên Xô. Phải tự hỏi xem cái CPLTCHMN nầy có phải đã trở thành một hư cấu, một miếng mồi từ dạo Tết Mậu Thân mà các phần tử ưu tú và các cán bộ đều bị tàn sát trong Sài Gòn khi họ muốn chiếm lấy một thành phố nhưng không xong. Ngoài mấy hàng khán giả tập trung trước khán đài bên cạnh ban quân nhạc, vẫy hình Hồ chí Minh và vỗ tay, còn thì hầu hết các phái đoàn ngồi trên lề đường đã ngủ gục hết phân nửa. Người ta đã dạy cho họ vui chơi suốt cả đêm rồi, nên giờ nầy họ còn chưa tỉnh hẳn. Với thời gian chắc họ sẽ học được hơn.

    Tôi đã từng biết là ở Hà Nội có một quân đội không hề phô trương huy chương hay cấp bậc, và được trang bị rất là ít nhưng lại được tôi luyện một cách khác. Mỗi binh sĩ phải vừa là một cán bộ tuyên truyền, một người có trách nhiệm chánh trị vừa là một nhân viên tình báo. Với một cuốn sổ cầm tay, họ đi thẳng tới chúng ta để phỏng vấn, hỏi xem chúng ta nghĩ gì về chuyện này hay về chuyện nọ.

    Quân đội của Hà Nội với toàn là lính trẻ - con mà người ta không có thì giờ để huấn luyện, nên đã tự xem thường mình.

    Thấy dân chúng không vui vẻ hồ hởi gì cho lắm, người ta đã hủy bỏ các cuộc lễ vui cho ngày thứ hai và cả ngày thứ ba như đã được thông báo từ trước. Chỉ riêng các tiệm buôn là vẫn phải đóng cửa mà thôi.

    Và sau đây là đến lượt các anh nhà báo ở khách sạn Continental, cả một sự hỗn độn về những chuyện buồn cười, vô tổ chức, cãi vã , đến chẻ sợi tóc làm tư và những đề nghị không bao giờ được đa số đồng ý . Tất cả những máy điện báo cũng như các sự liên lạc vô tuyến đều bị cắt đứt. Không có một phi cơ nào nữa. Các hộp phim và các cuốn phim được chồng chất lên nhau một cách vô ích, để rồi hết hạn một cách nhanh chóng. Các hình ảnh nầy đã nói lên sự thật : là Sài Gòn đã bị chiếm chớ không bao giờ được giải phóng !

    Còn những “người khác” thì họ mong muốn gì đây ? Họ có thể tung ra thị trường quảng cáo của họ, những cuốn phim của họ do những toán của phương Đông quay nguội, sau khi cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam đã kết thúc ?.

    Vì chúng tôi đến đây quá muộn, và vì người ta đã quên là có một thành phố đã chết rồi, và thành phố đó đã mang môt cái tên rất đẹp, Sài Gòn?

    Sau khi đã cấm chúng tôi đi ra khỏi thành phố , kể từ sáng nay người ta lại không cho phép chúng tôi chụp ảnh nữa. Hai anh quay phim người Nhật đã được đưa đến bót, tay bị còng vì họ đã dám quay phim đường Tự Do, điều nấy cũng không ngăn chận được một anh bạn đồng nghiệp từ Hà Nội mới đến, đã viết cho chúng tôi rằng chúng tôi được phép làm việc như chúng tôi muốn. Anh ta có phải trả tiền cho tờ giấy chiếu khán của anh ta hay không đây ? Thật là thế giới của những người Shaddocks, ở đó làm cái gì cũng ngược ngạo hết.

    Có một số phóng viên của các “nước anh em”, Liên Xô, Hung gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của AFP đã từ Hà Nội đến đây để dự cuộc diễn hành ăn mừng chiến thằng. Để giữ cái hư cấu CPLTCHMN độc lập với Miền Bắc Việt Nam, người ta đã long trọng cấp cho họ một giấy chiếu khán nhập cảnh vào Miền Nam Việt Nam . Nhưng vì ở Tân sơn Nhứt không có ma nào để đóng dấu vào giấy thông hành của họ, người ta phải cho hai viên chức thuộc sở Nhập Cư cùng đi với các phóng viên trên cùng chiếc phi cơ đó để họ nhảy vào các văn phòng nhập cư trống vắng của Tân sơn Nhứt và đóng dấu lần thứ hai vào chiếu khán, điều mà họ đã làm rồi ở sân bay Gia Lâm, Hà Nội .

    Với tất cả sự khéo léo của mình, Sài Gòn tự tính toán và tự giữ mình nếu được, đối với những kẻ xăm lăng vốn muốn biến thành phố nầy thành một thành phố khác , đẹp , tẻ nhạt, nghiêm trang, buồn tẻ, một thành phố thật sự cộng sản, ở đó chỉ có trật tự và kỷ luật và hệ quả của nó là: sự tố giác.

    Trong cuộc đấu tranh nầy, giữa thói hư tật xấu có thể tha thứ được với cái đức hạnh không sao giữ nổi, người dân Sài Gòn đã tỏ ra có một tinh thần sáng tạo thật đáng làm cho tôi phải ngạc nhiên. Và cứ như thế là họ sáng chế ra những đám chôn cất giả. Có nhiều gia đình sợ bị trả thù vì có một vài người trong gia đình đã trốn đi với Mỹ. Và họ bèn phao tin là những người đó vẫn còn ở nhà, nhưng vì không chịu nổi cái nhục thất trận nên đã tự tử. Người ta tiến hành chôn cất họ với tất cả sự long trọng mong muốn với chiếc hòm trống không và mọi người đều để tang.

    Người ta cố gắng hủ hóa các “bộ đội”, những người mà mỗi gia đình phải nuôi ăn nuôi ở. Người ta cho họ uống rượu, điều mà họ không quen, rồi người ta vuốt ve mua chuộc họ, rồi người ta giới thiệu cho họ người cháu gái hay con gái trong nhà, coi như đang có nh
    --------------------



    CHƯƠNG VIII



    29 THÁNG NĂM : GIÃ BIỆT VỚI SÀI GÒN





    Hỏng bét hết rồi ! Tại chợ Bến Thành, một tên trộm bị bắt tại trận đã bị xử bắn và thi thể được để nguyên tại chỗ. Một tên cướp giật khác chạy xe xích lô máy đã giật một máy chụp ảnh đã bị bắn một phát súng chết nằm dài tại hiện trường.

    Tuần tiễu, xét nhà hằng đêm.. Bắt bớ.. mất tích.

    Các buổi tuyên truyền liên tục cho giới trẻ và người già kéo dài vô tận… Bởi vì không phải chỉ có nghe không mà thôi, còn phải trả bài hay lập lại giáo lý nữa. Tâm trạng vui vẻ được nhận thấy ở chỗ thiếu ngủ và lời lẽ tuyên truyền quá trẻ con .

    Khoảng 10 giờ đêm, ở khách sạn, tất cả các cô gái đang ở trong phòng những anh nhà báo nhận được lệnh phải đi xuống. Sau đó thì người ta không còn tin tức gì về họ nữa. Họ được đưa đi nhốt trong một trại để học tập về đạo đức.

    Cuối cùng , một đoàn xe chở các nhà báo được tổ chức, danh sách được dán trên bảng đen trước Bộ Ngoại Giao, nơi mà chúng tôi đã được kiểm kê. Chuyến xe đầu khởi hành lúc 11 giờ, giờ Đông Dương. Tôi không có trong chuyến đó. Chuyến ra đi thật là thảm hại. Các anh “bộ đội” quá bồn chồn đến căng thẳng, lo đuổi trẻ nít và người ăn xin và ra chận hết con đường.

    Lý do : người ta đã khám phá được vũ khí ở nhà của người Mỹ.

    Người ta cần loại bỏ bọn nhà báo. Dụng cụ của họ đã mất hết giá trị và bây giờ họ có nguy cơ là những nhân chứng của công tác nắm lại tình hình ở đây một cách khó khăn.

    Nhưng chuyến đi đầu tiên chỉ là một hành động giả. Các anh bạn tôi trở lại vào buổi chiều, tức giận ghê lắm. Sân bay Vạn Tượng bên Lào, nơi họ phải đáp xuống, không xử dụng được vì đang bị gió mùa thổi mạnh. Ngày hôm sau họ lại đi thật sớm. Khám xét hành lý thật cẩn thận nhưng rồi tất cả các cuốn phim cũng đều được qua trót lọt hết.

    Tôi đi chuyến thứ nhì. Trước ngày tôi ra đi, ngày 25 tháng 5, người ta ra lệnh trục xuất tôi. Vào lúc 10:30 tối, trong văn phòng của người mà chúng tôi thân mật gọi là cha Lợi, giám đốc khách sạn , tôi bị đưa ra trước một cái gọi là tòa án nhỏ, không là cái gì cả. Ba nhân vật mặc quân phục, súng đeo ngang hông đứng dậy đọc bản án của tôi :

    “Ủy Ban An Ninh Sài Gòn – Gia Định ra lệnh cho ông Lartéguy ngày mai phải lên phi cơ đầu tiên đi từ Tân sơn Nhứt . Lý do : có thái độ chống đối chế độ mới”

    Chế độ trước của ông Thiệu đã cho tôi vào sổ bìa đen rồi và tôi phải dùng một cái tên khác mới đến đây được .

    Tôi bắt tay ba ông tòa của tôi dưới con mắt tò mò đầy ngạc nhiên của anh thông dịch viên, vốn là một nhân viên trong khách sạn, vì anh không hiểu gì hết về lối hành xử của tôi. Lẽ ra tôi phải giải thích cho anh ta biết rằng ở bên Pháp, một thành viên của gia đình phải hoan nghênh mấy anh đạo tỳ khi họ làm xong nhiệm vụ của họ. Sài Gòn há không phải là gia đình của tôi hay sao ?

    Ngày hôm sau cha Lợi cho tôi biết là khách sạn Continental vừa được “giao cho nhân dân quản lý”, và một ông giám đốc mới vừa đến đó từ Miền Bắc. Cả hai chúng tôi đều buồn ! Tôi muốn ôm ông cha Lợi quá đi, nhưng tôi không dám. Ông Lợi là một nhân vật rất xứng đáng, rất là thích hợp.

    Ngày hôm sau, trên phi trường, người ta cố chiếm đoạt những cuốn phim mà tôi và anh Raoul Coutard mang theo. Các tài liệu nầy được cứu đúng lúc, và chúng đang nằm ở Ba Lê.

    Người ta trục xuất tôi khỏi một thành phố đã mang tên Hồ chí Minh, ở đó các trẻ nhỏ hát những bài hát dân tộc và đang học cách tố giác cha mẹ chúng. Tôi không làm sao được .

    Nhưng thành phố mang tên Sài Gòn vẫn còn ở trong tôi.

    Tôi đã đến đây lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã trải qua thời kỳ thương ghét thành phố nầy trong hai mươi lăm năm. Đó là một cô gái thiêng liêng, vô lại, rất nhạy cảm và tham lam, chỉ ham muốn gia vị và dầu thơm nặng mùi, hết đi với người nầy lại đi với người khác nhưng không bao giờ ở với ai hết. Một thành phố tự do nhưng bây giờ thì đã hết rồi!

    Một tấm màn đen đã phủ xuống thành phố nầy rồi và phủ luôn xuống cả cuộc đời 25 năm của tôi, đời lính, đời nhà báo và đời văn sĩ nữa……

    Một lần cuối cùng tôi bay trên không phận thành phố, trên chiếc phi cơ của hãng Aéroflot đưa tôi đến Vạn Tượng. Anh Raoul Coutard thúc tôi một phát bằng cùi chõ : Hãy xem kìa” anh nói. Cũng như tôi, anh cũng rầu rầu đến chết được ! Anh đã có mối liên lạc với thành phố Sài Gòn lâu hơn tôi : 30 năm.

    Xin giã biệt với Sài Gòn . Sài Gòn ơi !!!!!



    Jean Lartéguy

Similar Threads

  1. Người Sài Gòn .
    By loibangTQLC in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-13-2010, 12:41 AM
  2. Sài Gòn ơi !
    By loibangTQLC in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-05-2009, 06:25 PM
  3. Sài Gòn Vĩnh Biệt - Doanh Doanh
    By chimtroi in forum Chuyện 30.4
    Trả lời: 2
    Bài mới nhất : 04-21-2009, 12:37 AM
  4. Nhớ sài gòn
    By PS khoá 72G in forum Vườn Thơ
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 01-06-2009, 03:58 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •