Dưới rặng Trường Sơn Tây
Bây giờ dến phim H-34 phun thuốc khai hoang
http://www.youtube.com/watch?v=D228_1s5zaU
Ánh đèn pin liên-tục qua lại trong bóng đêm, thỉnh-thoảng dừng lại một tụ điểm như xoi-mói tìm kiếm những gì khác lạ nơi cặp càng bằng nhôm, với vô số vòi-phun, chi-chít nằm xen kẽ, trải dài gần 15 thước mỗi bên, cho đến tận đầu cánh. Tôi đang kiểm soát tiền phi cho một phi-vụ khai hoang, mà mục tiêu là khu rừng già nằm bao phủ trên tuyến đường sắt Trãng-Bom, Long-Khánh
Chiều hôm qua, trước khi về nhà, tôi cỡi Lambretta chạy ngang, thoáng nhìn hai chiếc Trực-Thăng trang bị giàn phun thuốc đang đậu như hai con chuồn-chuồn Voi khổng-lồ nằm xụ cánh nghỉ ngơi trên thảm cỏ của Phi-Đoàn 211.
Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn động lại trong thùng, dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
Thiếu-úy Nguyễn-Phước-Điền đang cho nổ máy chiếc 028, còn tôi cho nổ máy chiếc 494 của US Marine (trong Video, Queenbee-one, ngồi TPC bên phải, tay đang nắm handle ngoài cửa bên trên) Tôi phải nhường cho Điền chiếc mạnh hơn, vì hắn mới vừa được xác định bằng Trưởng phi-cơ, chiếc 028 là của Army, màu xám Olive vì trang bị ít phi-cụ, và chỉ có đồng-hồ phi-cụ ở một bên Trưởng phi-cơ có mà thôi, riêng chiếc của tôi thì trang bị rất nhiều phi-cụ, kể cả máy đo khoảng cách (Tacan), tất cả những trang cụ nầy đều gắn ở đằng sau đuôi, nên trọng tâm chạy về phía sau, cất cánh rất khó vì dễ bị mất năng-suất máy.
“Butterfly 2 đây 1 gọi”
“Butterfly 2 nghe 5/5”
“Chuẩn bị cất cánh”
Tôi cho Trực-thăng lăn bánh ra phi-đạo. Phi-đạo Trực-thăng hình chữ thập, chiều dài khoảng 60 thước do người Pháp xây dựng, gọi là Heliport và chỉ độc nhất cất cánh về hướng Nam mà thôi, tuy vậy nhưng cũng không an-toàn cho lắm vì có những cột Ăng-ten cao hơn 100 thước, cũng may tất cả đều có đèn đỏ trên chóp đỉnh.
May mà chỉ có đổ đầy 2 bình xăng, nhưng tôi phải dùng đến 2800 rpm (vòng phút của máy) mới ì-ạch cất cánh nổi, đi vào thực-tế chỉ phun thuốc được trong vòng 10 phút là hết với vào khoảng 4000 cân anh (lbs) Chúng tôi phải bay vòng qua ngã nhà Bè, vì phi-cơ C-123 Provider của Không-quân Hoa-kỳ cũng đang cất cánh về hướng quận Củ-Chi và cùng bay phun thuốc dọc theo hai bên bờ sông Nhà-Bè ra tận tới Vũng-Tàu. Chúng tôi, Việt-Mỹ đang hành quân trong chiến-dịch Ranch-Hand (năm 1962) mà Tổng-Thống Kennedy đã ra lệnh cho chương trình thí nghiệm thuốc khai-hoang dọc theo những tuyến đường bộ, đường xe lửa, sông ngòi và những Căn-cứ Quân-sự bị rừng già bao phủ, hầu ngăn ngừa Việt-Cộng ẩn núp phục kích hoặc chuyển quân. Phương án của War Industries Board, tổng thống Diệm và Kennedy nghe rất êm tai, có ai hiểu cho chất độc màu Da-Cam và người Mỹ mất tích là cái cớ sẽ nối liền bang giao Việt Mỹ vào gần nửa thế kỷ sau? Theo đúng trên trục lộ đồ Eurasian.
Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình thang của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh. Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng”có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá Trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc độc giã nghe hơi chõi lỗ tai? Nhưng mà sự thật là như vậy, đại tá Võ Bãm yêu cầu cáp trên (KGB/CIA) qua Mỹ giúp đỡ để không bị lạc phương hướng dưới rừng già ba lớp tàng lá).
Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mỏng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lõng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới.
Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tĩnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy; Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nửa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi”. Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương.
Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt; Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc… sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nữ” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi, khi tôi hiểu được Bà Wangari Maathai, một phụ-nữ đáng kính ở Kenya, đã được giải Nobel Hòa-Bình, Bà đã trở thành người phụ-nữ Phi-châu đầu tiên được chọn trao giải thưởng nầy. Vì đã đi đầu trong chiếc dịch trồng hàng chục triệu cây xanh tại lục địa Phi-châu; Ủy-ban trao giải Nobel đã công bố việc tuyển chọn và ca ngợi Bà Maathai về những đóng góp của Bà cho sự phát triển bền vững nền dân chủ và hòa-bình của thế giới! Bà đã vượt lên trên số ứng viên kỷ-lục 194 người để giành giải thưởng trị giá 1.36 triệu Mỹ-kim. Bà sáng lập viên một tổ chức, đa phần thành-viên là phụ-nữ, có tên “Phong trào vành đai xanh” nhằm giảm hậu quả của việc phá rừng. Việc Bà huy động được người nghèo trồng đến 30 triệu cây đã được các nước khác bắt chước; Bà nói rằng: “việc trồng cây sẽ làm chậm lại quá trình phá rừng, bảo tồn hệ sinh thái cho động vật hoang-dã” tạo ra tài nguyên và thực phẩm cho các thế hệ mai sau. Nhưng chữ tài lại liền với chữ tai một vần, vì quá học thức, quá mạnh-mẽ, quá thành-công, quá bướng-bĩnh, và quá khó để kiểm soát, nên Ông chồng của Bà đành phải ly-hôn vì sức chịu đựng có hạn.
Đã đến mục tiêu, một rừng già cây lá xanh tươi, đang phơi mình dưới ánh nắng ban mai tuơi đẹp, ngay ở giữa một con đường sắt ngoằn-ngoèo xuyên qua trên đó, chúng tôi bắt đầu giảm sức máy, bay xuống thấp vào khoảng 300 bộ, trên đường rầy xe lửa, tôi đang nhìn thấy vài toán lính đang tụ hội vào một điểm. Tôi cũng đã được biết trước một Tiểu-đoàn Bộ-binh, sẽ đóng chốt hai bên đường xe lửa để bảo vệ an-toàn khi chúng tôi phun thuốc, vì tuần trước Thiếu úy Bùi Quang Chính PĐ-213 bay xịt thuốc trên các trảng tranh trồng hoa màu, bị Việt Cộng ở dưới bắn lên lủng tàu, nên hôm nay tôi mới được có lính ở dưới để bão vệ. (Thế là VN lại một lần nữa bị Mỹ lừa đảo về chất độc màu Da Cam, chất độc gì mà có Lính ở dưới khi tôi bay xịt thuốc) Dù rằng bồi-thường là nhu cầu sống còn để Mỹ tháo bỏ hàng thặng dư như nhu cầu đi đại tiện rồi xả nước đó mà! Nếu Hà Nội làm bộ không cần bồi thường thì Mỹ sẽ xuống nước năn nỉ để thả Bom đại tiện.
“Hai đây Một…chúng ta sẽ lấy trục từ Đông sang Tây để phun thuốc… tránh bị chói ánh mặt trời, Hai phun bên trái đường xe hỏa, còn Một bên phải…Okay!”
Hai chiếc Trực-thăng đang bay vòng lại 180 độ tiếp-tục giữ cao độ 300 bộ; Tôi bật nút máy bơm, liền tức thì mùi không-khí mát-mẻ sảng khoái ban mai không còn nữa mà thay vào đó mùi thuốc hóa chất nồng-nặc khó chịu như muốn đâm thọc vào mũi chúng tôi… “Mùi tử địa”. Hai chiếc đang thi nhau phun ra những màn sương khói ám chướng, tỏa xuống để hủy diệt, tàn phá cảnh hùng-vĩ của thiên-nhiên mà tạo hóa đã dành cho để cứu rỗi muôn loài.
Chưa đầy 10 phút, đèn báo hiệu trở lại màu đỏ cho biết đã hết thuốc, phi cơ bắt đầu nhẹ dần nên tốc độ đã tăng nhanh được đôi chút, chúng tôi bắt đầu bay lên đến cao độ an-toàn, bình phi và lấy hướng 270 độ trở về lại Tân-Sơn-Nhất.
(còn tiếp)