Lại khai báo.
Toàn bộ những bản khai báo của từng người phải đóng lại thành tập. Chúng bảo bên ngoài phải ghi “Cuộc Đời Tôi”. Tập khai báo dày hay mỏng là tùy theo từng người viết, nhưng dưới 200 trang là bị chúng nó mắng nhiếc, hay ít ra cũng lời nặng tiếng nhẹ vì cho rằng chưa thành thật khai báo.
Khai báo bản thân xong tưởng là yên thân, nhưng đâu dễ dàng vậy. Vì đám Công An từ Hà Nội lại xuống hướng dẫn khai báo tập thể. Nói cho đúng là “tập thể khai báo về những Tướng Lãnh của mình”. Nói theo ngôn ngữ giang hồ là chúng nó bắt chúng tôi “bề hội đồng” Tướng Lãnh của mình đó. Tất cả tù chính trị cấp Đại Tá từ Yên Bái xuống đây, chúng nó bảo chia thành 3 nhóm: Nhóm Quân Khu 1 + 2. Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương. Và nhóm Quân Khu 4. Chúng nó hướng dẫn chọn như thế này: Không căn cứ vào thời gian sau cùng phục vụ ở đâu, mà căn cứ vào những vị Tướng Lãnh từng là cấp chỉ huy của mình để chọn nhóm. Thật ra anh em chúng tôi ráp lại theo nhóm là do ý thích, vì đã là Đại Tá thì không dưới quyền vị này cũng dưới quyền vị khác. Do đó việc tham gia vào nhóm là do chúng tôi thỏa thuận với nhau chớ chúng nó có biết gì đâu.
Tôi chọn vào nhóm Quân Khu 4, dù rằng thời gian tôi phục vụ ở Bộ Tổng Tham Mưu lâu hơn các nơi khác. Mỗi người chọn những vị Tướng mà mình đã phục vụ hoặc mình biết, cuối cùng là trong nhóm Quân Khu 4 chúng tôi lọc ra danh sách 18 vị Tướng. Anh Bùi Văn Sảnh được anh em trong nhóm bầu làm Trưởng Nhóm. Đến phần Thư Ký thì tôi tình nguyện và được tất cả các anh đồng ý. Khi tên cán bộ ra khỏi phòng, tôi trình bày ý kiến:
“Thưa các anh, tôi có quan niệm như thế này . Thư Ký là ghi chép phần nhận xét và thảo luận của các anh, nhưng tôi xin phép tóm tắt theo hướng đưa đến kết luận những vị Tướng Lãnh chúng ta có kiến thức tổng quát, có khả năng lãnh đạo chỉ huy, và có lòng nhân đạo. Cho dẫu mỗi vị đều có những khuyết điểm, mà thật ra đã là con người thì ai cũng có điểm tốt lẫn điểm không tốt, nay có nhìn như thế nào đi nữa thì cuộc chiến cũng tàn rồi, nhưng không phải vì vậy mà chúng ta nhận chìm các vị mà một thời chúng ta phục vụ dưới quyền, hay ít nhất những vị ấy cũng là Tướng Lãnh của quân đội mà chúng ta từng phục vụ. Nói cho cùng, nếu các vị Tướng lãnh của chúng ta dở thì chúng ta đã không thể chiến thắng trong cuộc phản công Tết Mậu Thân đầu năm 1968 và trận chiến Mùa Hè 1972. Tôi phải trình bày ý kiến với các anh trước và mong được các anh cho biết ý kiến trước khi chúng ta bắt đầu”.
Chẳng những ý kiến của tôi được tất cả anh em đồng ý, mà nhiều anh còn bắt tay tôi như lời khuyến khích ý kiến đó nữa. Tôi mời anh Nguyễn Tài Lâm phụ tôi phần ghi chép ý kiến và thảo luận của các anh.
Anh em đồng ý 9 khung để thể hiện nhận xét của từng vị Tướng Lãnh, như:
(1) Kiến thức tổng quát.
(2) Kiến thức tham mưu.
(3) Kiến thức chỉ huy.
(4) Kiến thức huấn luyện.
(5) Tính khí.
(6) Nhân cách.
(7) Phong cách.
(8) Uy tín lãnh đạo.
(9) Sở thích.
Cứ xong trang giấy nào thì anh Lâm đưa tôi trang ấy để tôi viết sạch lại. Tôi vừa diễn đạt thành văn vừa nghe để bổ túc thêm phần ghi chép của anh Lâm.
Sau hai ngày khai báo tập thể, anh Sảnh nhờ hai anh giả vờ sang hai nhóm kia thăm bạn để xem quan niệm khai báo của các anh ấy thế nào, để còn học hỏi nếu cần. Nhóm chúng tôi ghi nhận như sau: Nhóm Quân Khu 1 + 2 có quan niệm như chúng tôi, còn Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương khá nặng lời. Anh Trần Ngọc Thống trong nhóm này nói với tôi rằng:
“… Nhiều anh làm cho tôi có cảm tưởng các anh ấy buộc tội các ông Tướng vậy …”
Chuyển trại.
Nhưng không phải chúng tôi tại đây chuyển trại mà là các anh từ các trại ở Sơn La, Bắc Thái, và các trại còn lại ở Hoàng Liên Sơn, ào ào chuyển về trại tập trung Nam Hà này quá nhiều. Trại Nam Hà này có 18 buồng giam với gần 1.000 tù chính trị lẫn tù hình sự, nay tăng lên đến hơn 1.500 người. Tất cả các buồng giam từ 60 người, nay dồn ép lại để tăng lên hơn 100 người, như buồng giam chúng tôi đang từ 65 người tăng lên thành 101 người. Sàn gác bên trên được nới thêm đến mức 60 người trên sàn gác chỉ còn hai khoảng trống đủ cho hai người lên hay xuống cùng một lúc. Mỗi sáng cũng như mỗi tối, chúng tôi phải mất khoảng 10 đến 15 phút mới lên hay xuống xong. Thế là “cái cõi không gian bé tí” của mỗi người chúng tôi, một lần nữa lại thu hẹp từ 70 phân tây (0.7m) xuống còn 50 phân tây (0.5m). Chỗ nằm hiện nay còn chật hơn chỗ nằm ở “ngưu ốc” (chuồng trâu) trên Yên Bái nữa! Nếu như sàn gác này bị hỏa hoạn hay một sự kiện gì đó gây hoảng loạn chẳng hạn, anh em tù chính trị chúng tôi sẽ bị lửa thiêu không phải là ít! Ngay cả lượng dưỡng khí cũng là một vấn đề đối với chúng tôi, vì chỉ còn trông cậy vào lượng dưỡng khí qua các cửa sổ thôi. Nghĩ đến đây là ghê rợn rùng mình! Nhưng mọi người im lặng, và chấp nhận, bởi không có cách nào khác!
Hầu hết chúng tôi không ai giăng mùng. Tuy thời tiết vào thu nhưng “cái nóng nung người nóng nóng ghê” còn đó, bầy muỗi vo ve còn đó, bầy rệp mà con nào con nấy bằng đầu đủa ăn vẫn còn đó. Để chống lại cái nóng khi ngủ, tôi mặc bộ bà ba do trại phát. Chỉ một lúc là bộ đồ đẫm mồ hôi, và từ lúc ấy tôi cảm thấy mát mẽ dẫn vào giấc ngủ nhanh hơn. Muỗi với rệp, vừa là bạn vừa là thù của chúng tôi. Tôi nói “bạn” vì lúc nào chúng nó cũng quanh quẩn với chúng tôi, tôi nói “thù” vì lúc nào chúng nó cũng hút máu chúng tôi. Mỗi sáng phải ra giếng giặt bộ bà ba vừa đẫm mồ hôi vừa đầy máu muỗi máu rệp, nhưng là “giặt chay” tức là giặt áo quần không xà bông.
Dần dần chúng tôi mới hiểu được nguyên nhân chuyển trại ào ạt từ các trại gần biên giới, là do tình hình căng thẳng giữa cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa, sau khi lãnh đạo cộng sản Việt Nam ký hiệp ước hỗ tương với Liên Bang Sô Viết, và cộng sản Việt Nam xua quân đánh chiếm nước Cam Bốt cộng sản, đàn em của Trung Hoa cộng sản.
Tình trạng ngột ngạt đó kéo dài gần hai tháng, họ mới chuyển bớt một số tù chính trị chúng tôi đến các trại khác cũng thuộc trại tập trung Nam Hà. Cũng lúc ấy, anh em chúng tôi trong buồng giam 15 và 16, được chuyển lên buồng giam số 1 và số 2 để chuẩn bị lao động. Hai buồng này thoáng hơn, nói chung là dễ chịu hơn ở buồng 15 với 16 quá ẩm thấp. Đội 29 chúng tôi đổi thành Đội 2
Trồng nấm mèo.
Sau gần 6 tháng “khai báo”, tất cả chúng tôi bắt đầu đi lao động. Đội 2 chúng tôi phụ trách trồng nấm mèo. Nhà trồng nấm ngay bên ngoài cổng trại do Trung Úy Công An tên Xoa phụ trách. Dưới quyền hắn có hai nữ Công An tên Nga và tên Kim phụ tá. Lúc ấy quản giáo Đội chúng tôi là “Thắng mặt đỏ”, vì mặt của hắn lúc nào cũng đỏ như say rượu. Sau khi tên Thắng giao chúng tôi cho tên Xoa thì tên Xoa mở lớp cấp tốc dạy chúng tôi khoảng một tiếng đồng hồ, đại để như thế này:
“Cây trồng nấm do các Đội khác cung cấp. Các anh cưa từng khúc dài 1.2 thước, đục lỗ tròn theo kích thước của cái đục, sâu từ một phân tây đến một phân rưởi, cho “meo” vào và dùng nhựa thông bít lỗ tròn lại. Đem vào nhà nấm, gác những đầu cây chụm vào nhau tạo thành hình nón. Mỗi ngày tưới hai lần. Khi nấm đến tuổi thì thu hoạch, đem phơi khô, cho vào bao, vậy là xong một chu kỳ trồng cấy nấm”.
Ngày đầu tiên, sau khi “dự lớp học cấp tốc”, hắn bảo chúng tôi đi làm: Tôi hỏi:
“Báo cáo cán bộ. Căn cứ theo hướng dẫn của cán bộ, tôi đã tổ chức Đội thành các nhóm công tác xong”.
“Xong thì anh lãnh dụng cụ mà làm, chứ đứng đó báo cáo không à?” Hắn bắt đầu gay gắt với chúng tôi. Tên Xoa này lúc nào cũng cau có.
Tôi hơi tức, vì trông cái mặt của hắn, cộng với cái kiểu cách nói chuyện, quả là khó ưa:
“Dụng cụ ở đâu cán bộ?”
Hắn gay gắt thật: “Dụng cụ trong túi tôi đây”.
Tôi quay lưng ra ngoài mà không nói gì với hắn.
Hắn tức: “Anh đi đâu đó?”
“Tôi không biết dụng cụ ở đâu mới hỏi cán bộ, mà cán bộ trả lời như vậy tôi đứng đó làm gì”.
“Anh không lãnh dụng cụ à?”
“Cán bộ không hướng dẫn, tôi biết đâu mà lãnh”.
“Anh có muốn tôi trả các anh vào trại không?”
“Báo cáo cán bộ. Với chúng tôi, không có vấn đề muốn hay không muốn”.
Hắn lừ lừ nhìn tôi một lúc, rồi gay gắt thêm:
“Cô Nga, cô dắt anh ta lên kho lãnh dụng cụ”.
Con bé công An trả lời nhỏ nhẹ:
“Dạ dụng cụ em còn giữ trong kho nhà nấm anh ạ!”
“Cô cho chúng nó mượn đi”.
Con bé này độ 20 tuổi, vừa đi vừa nói với tôi:
“Anh cãi với ông Xoa chi vậy?”
“Mới vô câu đầu là tôi không có cảm tình rồi cán bộ. Cách nói chuyện của ổng, cán bộ có chấp nhận không?”
“Ông Xoa nóng tính lắm. Anh chống lại ông ấy không có lợi cho anh đâu”.
“Cám ơn cán bộ. Tôi biết tính ông Xoa trong thời gian ổng làm trực trại, nhưng tôi cũng biết sử dụng cái đầu của tôi đến mức cần thiết chớ. Chúng tôi là tù chính trị chớ đâu phải tù hình sự. Thôi, cán bộ đừng nói chuyện đó nữa”.
Lãnh dụng cụ và phân phối cho các Tổ xong, tôi vào phụ với anh Ngô Văn Huế (Đại Tá Công Binh). Anh Huế nói:
“Thằng cha này khó ưa lắm, nhưng anh cũng nên cẩn thận vì thằng nào cũng có quyền phạt giam mình hết”.
“Cám ơn Anh. Tôi thận trọng trong mọi trường hợp chớ không riêng gì với hắn. Sự thận trọng của tôi có nghĩa là tôi biết chống lại tụi nó đến mức nào phải dừng lại để tránh bị phạt giam”.
“Hồi nảy con Nga nó rù rì với anh cái gì vậy?”
“Nó có ý khuyên tôi không nên cãi với thằng cha Xoa. Cãi với hắn là không có lợi cho tôi. Ở vị trí của con bé đó nó thấy như thế, nhưng tôi thì khác. Tôi cho là có lợi cho mình, vì ít ra mình cũng cho nó thấy anh em mình không phải dễ nạt nộ như tù hình sự đâu anh”.
Ngoại trừ các tổ trong nhà nấm, còn có tổ gồm 6 anh đẩy xe cải tiến lấy phân dê ở chuồng dê trên đường ra chợ Ba Sao, hằng ngày đều đi ngang nhà thăm nuôi do Đội anh em Cảnh Sát phụ trách xây cất. “Cứt dê” đem về đổ xuống hầm nhưng không biết họ sử dụng làm gì. Họ giao chúng tôi buổi sáng hai chuyến và buổi chiều một chuyến. Trong tổ này có anh Nguyễn Kim Tây và anh Trần Bá Thành (cả hai là Đại Tá) hay tếu lắm, nhất là anh Tây. Cứ mỗi chuyến đẩy xe cải tiến “cứt dê” về, thể nào cũng có chuyện vui gì đó kể lại cho anh em nghe, đôi khi cười bò lăn trong nhà nấm. Anh gọi chuồng dê là “chuồng thầy”, và cứt dê là “cứt thầy”.
Tôi không rõ công việc sản xuất nấm này từ lúc nào, nhưng kết quả là “nấm không quyết tâm mọc nhiều, mà những cái nấm mọc ra lại không quyết tâm phát triển”, nên những cái nấm vừa ít lại vừa nhỏ. Có thể vì vậy mà nhà nấm này bị dẹp bỏ sau mấy tháng “sản xuất”.
Chuyển lúa.
Sau khi cơ sở sản xuất nấm mèo đóng cửa, Đội chúng tôi phụ trách chuyển lúa từ dưới cánh đồng chiêm lên sân phơi gần khu vực cơ sở chánh của trại. Lúc ấy Công An quản giáo Đội chúng tôi tên Kiện, bảo chúng tôi chia làm hai toán: Một toán chuyển lúa vừa cắt xong từ cánh đồng ngập nước lên lưng chừng triền đồi, và một toán chuyển tiếp từ đó lên đến sân phơi. Đây là núi đá, nên triền dốc toàn là đá tảng rất ư là lổm chổm khó đi. Tôi trong toán thứ nhì. Trong lúc ngồi tại chỗ chờ toán thứ nhất chuyển lên để chúng tôi chuyển tiếp, tên Trung Úy Công An mà anh em chúng tôi gắn cho hắn cái biệt danh “Trung Úy gà” từ trên sân phơi xuống. Vì hắn ăn cắp gà ở khu gia đình của đám Công An cai tù, nên anh em chúng tôi gắn cho hắn cái biệt danh ấy. Hắn đứng trước mặt tôi với giọng kênh kiệu:
“Tại sao anh ngồi đây?”
“Báo cáo cán bộ, chúng tôi chờ toán dưới đồng mang lúa lên”.
“Tại sao anh không xuống dưới mà mang lên?”
“Chúng tôi đã phân công rồi cán bộ”.
“Ai phân công cho anh?”
“Cán bộ quản giáo Đội tôi”.
Hắn càng gắt giọng: “Cán bộ nào?”
“Cán bộ Kiện”. Tôi cứ từ từ trả lời.
“Cán bộ Kiện ở đâu?
“Cán bộ Kiện ở dưới đồng”.
“Anh xuống đồng với tôi”.
“Không được cán bộ, tôi phải ở đây vì tôi phụ trách toán chuyển tiếp từ đây lên trên sân phơi”.
Hắn càng thêm tức khi mấy bạn tù trẻ ngồi gần đó cũng chờ chuyển tiếp bên Đội của các bạn ấy, nói bâng quơ:
“Đẹp. Đẹp lắm”.
Hắn ra lệnh như quát: “Đứng lên. Đi với tôi”.
Tôi đứng lên, nhưng không phải đi theo hắn, mà là nhận bó lúa do toán dưới đồng vừa lên đến, và quay lưng đi. Hắn lại quát:
“Anh đi với tôi xuống gặp cán bộ Kiện”.
Thấy hắn giận dữ, tôi ra vẻ dịu xuống:
“Báo cáo cán bộ, cán bộ Kiện phân công cho tôi, chừng nào cán bộ Kiện bảo tôi đi thì tôi đi”. Nói xong, tôi vác bó lúa cùng các bạn leo dốc.
Buổi chiều, quay về trại và trong khi ngồi chờ “điểm số” vào buồng giam, tôi nghe tiếng một bạn ngồi gần cuối hàng:
“Hôm nay thằng cha Hoa cho thằng “Trung Úy gà” đo ván quá nặng. Kể ra “chả” liều mạng thiệt, nó nhốt chả như chơi”.
Sau “trận” đó, Đội 2 chúng tôi “bị” chuyển đến đầu đằng kia vẫn là chuyển lúa, nhưng triền dốc đá ở đây khó đi hơn nhiều vì dốc vừa cao vừa lổm chổm. Cùng là một cánh đồng nhưng có hai lối đi vận chuyển những bó lúa. “Cánh đồng chiêm” khi lúa chín lại là lúc chìm sâu dưới mặt nước mà lần đầu tiên tôi trông thấy. Các bạn cắt lúa phải ngâm mình dưới nước, có nơi phải lặn xuống mới cắt được.
Nhìn chung, Đội “trầm mình” cắt lúa ướt mem, mà Đội vận chuyển lúa cũng ướt mem nếu vác. Vác thì tương đối dễ đi, còn khiêng thì không bị ướt nhưng rất khó đi vì dốc cao. Tôi với anh Nguyễn Kim Tây cùng một khiêng hai bó. Tôi thấp nên đằng trước cái khiêng. Trưa nắng và oi bức, thấm mệt, trong một bước không vững, tôi ngã người tới trước và chân phải vấp vào cạnh tảng đá, ngón chân cái bị tróc móng đến hơn phân nửa khỏi phần thịt. Máu ra nhiều và đau “thấy trời xanh”! Vì đau quá nhưng không khóc cũng không than, chỉ có cách nhìn lên trời mà cắn răng nhăn mặt! Anh Tây dìu tôi lên đầu dốc, lại trở xuống đồng báo cáo với cán bộ Kiện cho tôi về bệnh xá trại.
Trong bệnh xá, ngoại trừ một bác sĩ Công An, còn lại là bác sĩ quân y cùng là tù chính trị. Bác sĩ Diễn, bác sĩ Nhâm, bác sĩ Cảnh, bác sĩ Phong, và bác sĩ Trương Văn Quýnh là trưởng nhóm. Bác sĩ Trương Văn Quýnh có những năm làm Giám Đốc Bệnh Viện Sài Gòn, chuyên về cấp cứu. Bác sĩ Quýnh cho biết phải vài ngày mới rút móng được, vì rút bây giờ tôi sẽ không chịu nỗi. Mỗi ngày tôi phải khai bệnh xin nghỉ. Đêm ngủ phải treo chân lên cao ngang đầu gối mới ngủ được. Hôm rút móng chân, bác sĩ Cảnh (Trung Tá, Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ) vừa cười vừa nói như giúp tôi quên bớt cơn đau nhức:
“Hôm nay có dịp “làm thịt” ông anh đây. Ông anh nằm yên. Vì không có thuốc tê, anh Phong (bác sĩ Mã Thạch Truy Phong) sẽ châm cứu gây tê cho ông anh, rút móng xong vài hôm là xuống đồng vác lúa nữa”.
Bác sĩ Phong châm cứu cả hai chân đến 14 cây kim, tôi nghe như có dòng điện li ti từ đầu cây kim này nối đến đầu cây kim kia, khi bác sĩ Phong và bác sĩ Diễn rung nhè nhẹ những cây kim để kích thích gây tê. Cùng lúc, bác sĩ Cảnh cầm kềm rút móng chân tôi. Sau cái đau thấy mấy chục ông Trời đang lơ lửng trên trần nhà, tôi ngồi dậy nhìn ngón chân. Trời đất ơi! Cái móng còn nguyên.
Bác sĩ Cảnh không đùa như lúc nảy nữa mà nói yếu xìu:
“Cứng quá, rút chưa được. Anh chịu khó nằm xuống đi”.
“Khoan anh Cảnh. Tôi đau lắm. Tôi cần điều hòa nhịp thở một lúc rồi anh tiếp tục. Châm cứu không ăn thua anh ơi!”
Tôi nằm xuống. Anh Trần Xuân Đức đè hai tay tôi xuống giường vì sợ tôi ngồi dậy.
“Anh đừng đè tôi, đau thì đau nhưng tôi chịu được”.
Không thể tưởng tượng nỗi với mức độ đau nhức khi anh Cảnh rút móng chân tôi! Chừng như toàn bộ khả năng chống đỡ của tôi đều tập trung vào sức chịu đựng khi móng chân đi theo cái kềm trong tay bác sĩ Cảnh bức ra khỏi ngón chân. Người tôi yếu hẳn trong những phút sau đó, mãi đến khi điều hòa được hơi thở, tôi mới để bác sĩ Cảnh rửa ngón chân, nơi mà cái móng phủ bên trên không còn nữa. Mỗi khi miếng bông gòn lướt trên lớp thịt bầy nhầy với máu đỏ bùn đen, đau và xót kinh khủng! Sau đó, với dáng đi “chấm phết”, tôi từng bước về buồng giam.
Đi lao động mới có nước sôi ăn mì gói, chớ nằm buồng giam chỉ bẻ từng mẫu mì gói ăn sống, rồi uống nước vào cho nó nở ra thôi. Còn khẩu phần bo-bo chỉ dậm thêm chút ít, chớ ăn hết chén càng khổ khi đi cầu. Hai ngày sau, tôi đến bệnh xá thay băng, và từ đó không được nghỉ nữa mặc dầu vẫn còn đau, và vẫn đi “chấm phết”. Khi nghỉ bệnh, chúng nó căn cứ theo thời gian chớ không căn cứ vào bệnh trạng của tù chính trị. Nhân đạo của cộng sản như vậy đó!
Cuốc đất thay trâu cày.
Sau Tết, Đội chúng tôi và 9 Đội nữa được lệnh xuống cánh đồng chiêm cuốc đất làm ruộng. Khi gặt lúa vụ chiêm, anh em chúng tôi trầm mình dưới nước, mấy tháng sau thì mặt đất của cánh đồng ngập nước này trở thành nứt nẻ vì nắng hạn. Những con cá con ếch con nhái “thân tàn ma dại” trong những đường nứt. Hầu hết khi cuốc đất lên, chúng nó chỉ còn là những bộ xương bao bọc lớp da bên ngoài, hoàn toàn không giúp ích gì cho những cái bao tử của chúng tôi. Nếu nhìn cánh đồng như một bức tường đá tảng, thì những đường nứt tựa như những mạch hồ nối những tảng đá liền với nhau mà có thời gian tôi “làm thợ hồ” xây bức tường buồng giam vậy. Trông cũng hay hay. Đó là cách nhìn ít nhiều lãng mạn. Nhưng nếu nhìn theo góc độ dân tộc thì rất tội nghiệp cho người dân xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nơi đây, mấy chục năm qua rất ư là khốn khổ!
Gần 200 tù chính trị chúng tôi toàn sĩ quan viên chức với đảng phái chính trị, khom lưng cuốc ruộng thay trâu cày. Cán bộ Kiện, quản giáo Đội, gọi tôi:
“Anh cử một anh nấu nước, một anh lấy củi, và một anh sửa cuốc cho Đội. Anh cử một anh đến nấu nước cho cán bộ. Mỗi anh còn lại giao chỉ tiêu 100m2 mỗi ngày lao động”.
“Báo cáo cán bộ, chỉ tiêu 100m2 là cao lắm, tôi lo là chúng tôi không thể cuốc nỗi. Tôi đề nghị để chúng tôi cuốc thử vài ngày rồi cán bộ ấn định chỉ tiêu. Về người nấu nước, tôi nghĩ là chúng tôi nấu nước chung rồi pha trà đem đến cán bộ, đỡ tốn một lao động”.
“Anh có biết đề nghị của anh mang tính chống đối không. Đây là chỉ tiêu chung chứ không phải riêng Đội anh. Tôi nói cho anh biết, nếu đề nghị của anh đến tai ông Huy (Đại Úy Trại Trưởng) là có vấn đề đấy. Còn nấu nước phải nấu tại đây (tại lều của hắn)”.
Tôi trở lại Đội tường thuật cho các bạn. Anh Cao Văn Phước “tình nguyện” sửa cuốc. Về chỉ tiêu cuốc đất và người nấu nước:
“Ý kiến của tôi là tùy theo sức mà cuốc rồi tôi liệu cách đối phó với hắn. Về người nấu nước tại lều của hắn, chúng ta lớn tuổi rồi, tôi không muốn bất cứ anh nào trong số chúng ta đến đó nấu cho hắn uống, nhưng hắn có vẻ gay gắt khi đòi hỏi phải có một người làm công việc đó”.
Anh Phước nói: “Anh Hoa, tụi nó ngoắc anh kìa”.
Tôi chưa đi thì tên võ trang dùng hai bàn tay chụm lại làm loa nói lớn:
“Được rồi, các anh cứ nấu nước pha trà mang đến đây”.
Tôi nói với các bạn:
“Vậy là chúng nó đồng ý đề nghị của tôi rồi. Thà là mình tốn một ít trà để khỏi phải nấu riêng cho chúng nó hơn là để nó sử dụng mình như tù hình sự. Mỗi buổi mình cho chúng nó một “lon guigoze” trà pha đặc một chút. Trà thì tôi cung cấp được, còn cái lon bạn nào có thể cho mượn được?”
Anh Cao Văn Phước đồng ý cho mượn. Đến ngày thứ ba, tên quản giáo Kiện và tên Thắng, lại bắt Đội cử người luân phiên đến lều của nó nấu nước. Cuối cùng, chúng tôi đành phải đồng ý mỗi ngày luân phiên một anh. Đến đây cũng chưa ổn, vì hai ngày sau đó là phiên anh Đặng Văn Hậu, chúng nó bắt buộc anh Hậu hằng ngày đến lều của nó mà nấu chớ không luân phiên nữa. Buổi chiều, anh Hậu thuật lại cả Đội nghe:
“Thằng Thắng với thắng Kiện không chấp nhận luân phiên nữa, chúng nó bảo tớ phải nấu nước cho bọn nó. Nó nói thằng cha Hoa miệng rất ngọt, ăn nói nhẹ nhàng, ra lệnh gì cũng nghe nhưng bụng chứa đầy dao găm. Tớ mà nghe thằng cha Hoa là rục xương trong tù. Thằng Thắng nó ghìm thằng cha Hoa dữ lắm”.
“Thế Hậu trả lời hắn ra sao?” Tôi hỏi.
“Tớ bảo việc này do Đội quyết định. Thằng Thắng nói nếu nó bắt tớ làm thì tớ có làm không? Tớ trả lời: Cán bộ bắt buộc thì tôi phải làm, nhưng tôi buồn lắm!”
Cuối cùng chúng tôi quyết định vẫn cứ luân phiên, nhưng vẫn cung cấp trà với thuốc điếu quấn cho chúng nó mỗi ngày 20 điếu. Nghĩa là thêm một chút “hối lộ”, cũng có thể nhờ đó mà tên quản giáo giảm “chỉ tiêu” cuốc đất mỗi người/ngày 70m2, tức giảm được 30m2. Chúng tôi là tù chính trị chớ không phải tù hình sự mà chúng nó sai khiến quá mức. Chúng tôi luôn tùy cơ ứng biến. Tôi nghĩ, chúng nó không dám mạnh tay vì đây là việc riêng cho chúng nó. Mà nói cho cùng, nếu Ban Giám Thị có gọi tôi sỉ vả mắng chửi, tôi sẽ giải thích được, trừ khi chúng nó cột tôi vào cái tội gì khác để trừng phạt tôi. Nhưng rồi không việc gì xảy ra khi chúng tôi áp dụng luân phiên.
Thời tên Phụ làm quản giáo, hắn hỏi tôi:
“Tôi và cán bộ võ trang sẽ lãnh phần ăn trưa còn sống đem xuống đồng, anh cử người nấu cho chúng tôi được không?”
Tôi trả lời:
“Cán bộ ra lệnh cho chúng tôi khiêng phân người hay khiêng nước tiểu, chúng tôi thi hành ngay. Nhưng nấu ăn cho cán bộ thì chúng tôi không thể làm được. Chúng tôi là những người tù chính trị, lại lớn tuổi, thậm chí là già yếu, tôi nghĩ là cán bộ cũng thông cảm với tôi về câu trả lời này”.
Hắn làm thinh. Thật ra trước khi trả lời hắn, tôi nghĩ ngay đến “cái lực” trong tay chúng tôi, nếu như hắn mạnh tay thì chúng tôi “ngưng viện trợ” thuốc hút và thuốc uống, đó là hai thứ mà hắn rất cần chúng tôi.
Hạn hán ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu nước của chúng tôi. Quí vị quí bạn thử hình dung, từ ngoài cổng vào bên trong trại, ngay bên phải có một cái giếng rất lớn nhưng rất cạn. Đường kính khoảng 10 thước, nhưng sâu chỉ hơn 2 thước thôi, vì vậy mà gọi nó là giếng cũng không đúng hẳn. Hằng ngày sau khi lao động về dù mùa hạ oi nồng hay mùa đông lạnh buốt, chúng tôi đều trần trụi đứng tắm nơi đây. Nhưng bây giờ đang là mùa đông, cái gọi là giếng đó hoàn toàn khô cằn, trơ lại cái đáy giếng đất và đá. Một chút may mắn là có bốn cái lỗ mội rỉ ra từng rỉ nước. Chúng tôi khoét bốn lỗ mội đó sâu chừng một gang tay và rộng cũng chừng ấy, để trữ nước. Mỗi sáng dậy, khi cửa buồng giam vừa mở là hầu như mọi người xách cái lon guigoze và cái muỗng ăn cơm chạy ra giếng, tuột xuống ngồi xếp hàng chờ múc nhẹ từng muỗng nước cho vào lon đem về buồng giam rửa mặt. Phải nhẹ nhàng để tránh nước bùn từ bên dưới trồi lên làm đục “ao nước” nhỏ nhất thế giới, nhưng hết sức cần thiết cho anh em chúng tôi trong mấy buồng giam lân cận. Hằng ngày khi lao động bất cứ ở vùng nào, chúng tôi tìm những vũng nước, lạch nước, cho dẫu nước phèn mà vàng cách mấy cũng ráng tắm giặt. Mỗi người chỉ vài lon là xong. Tôi chỉ nói “tắm giặt xong” chớ không dám nói “tắm sạch giặt sạch” nghe quí vị quí bạn. Nếu không tắm giặt ở đây thì không thể nào giải quyết được nhu cầu này ở đâu cả. Điều đặc biệt là không có sự xích mích va chạm nào giữa anh em chúng tôi về vấn đề nước cả.
Vợ tôi đến thăm.
Từ đầu năm 1979, Bộ Công An cho gia đình tù chính trị đến thăm nuôi, kèm theo điều kiện là phải được các cơ quan địa phương cho đi, và tù chính trị không bị những hình thức kỷ luật tại trại. Vậy là cái lệnh này đã dẫn đến việc xây cất nhà thăm nuôi cách cổng trại hơn cây số.
Trung tuần tháng 05/1979, vợ tôi và con trai út chúng tôi 8 tuổi từ Sài Gòn ra thăm tôi. Hôm đó là chiều thứ bảy, anh Phạm Văn Thường (Đại Tá Tiếp Vận) tạt vào buồng giam báo tin cho tôi:
“Hoa ơi! Bà Xã của anh đang ở ngoài nhà thăm nuôi đấy. Ngày mai anh sẽ gặp”.
“Sao anh biết?” Tôi hỏi lại một cách vội vàng.
“Chiều nay tôi ra gặp vợ tôi và vừa vào tới. Bà Xã anh gởi cho anh 10 cái trứng luộc”.
Trao xong là ảnh ra ngoài để mang quà về buồng giam vì sắp đến giờ khóa cửa buồng giam.
Tôi bưng cái thau nhựa có 10 cái trứng bên trong với thái độ có vẻ lúng túng, trong khi các bạn ngồi chờ điểm số vào buồng giam. Anh Trần Văn Lễ nói:
“Thằng cha Hoa mất hồn rồi, giống như tôi hồi đầu năm vậy”.
Đêm đó quả thật tôi không ngủ được, và tôi tin vợ và con tôi cũng không ngủ được. Vì quá bất ngờ nên các bạn thấy tôi lúng túng, chớ được tin báo trước thì không đến nỗi “mất hồn” như anh Lễ nói đâu quí vị quí bạn à!
Sáng hôm sau, Công An cai tù phụ trách hướng dẫn thăm nuôi tên Quan, vào trại gọi tôi ra thăm gặp gia đình. Hắn đưa cái chìa khóa cho tôi:
“Anh mở khóa lấy cái xe cải tiến kéo theo chở quà”.
Nếu quí vị quí bạn hình dung được sự hăng hái của người tù chính trị lần đầu tiên được gia đình đến thăm như thế nào, thì tâm trạng của tôi cũng y như vậy. Nhưng mà cái khung xe bằng kim khí nó nặng quá trời, nhất là khi kéo lên cái dốc khá cao và khá dài. Phải qua khỏi đầu dốc mới đến nhà thăm nuôi. Tôi mặc quần áo tù màu xanh do trại phát, kiểu như bộ bà-ba trong Nam nhưng lại có cái cổ cao. Khi đến đầu dốc:
“Báo cáo cán bộ. Ngừng lại nghỉ chân một lúc cán bộ, vì lần đầu gặp gia đình mà mặt mày xanh lè xanh lét thì thất sách lắm cán bộ”.
“Dừng thì dừng. Nhưng anh nói thất sách là thế nào?”
“ Cán bộ nghĩ xem, sau bốn năm vợ chồng mới gặp lại nhau mà tôi cứ đứng thở hì hà hì hục thì vợ tôi xúc động lắm, trong khi tôi không đau yếu bệnh hoạn mà chỉ kéo cái xe vừa nặng vừa lên dốc nữa”.
“Được. Tôi thông cảm rồi. Anh cứ ngồi nghỉ, khỏe lại hãy đi”.
Mùa hè trên đất Bắc, mới sáng sớm mà nóng chẳng khác cái nóng ban trưa ở Sài Gòn, chiếc xe và cái dốc làm cho cái áo tôi đẫm mồ hôi. Tôi vừa quạt vừa đi tới đi lui trong khi hắn ngồi trên mỏm đá nhìn tôi, không hiểu hắn sợ tôi trốn hay hắn thấy dáng điệu của tôi có cái gì khác thường chăng?
Vừa để cái xe ngay bậc thềm, vợ tôi với đứa con trai út chúng tôi bước ra. Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt, nhưng tôi không dám hôn, vì tên “Thắng chuột” phụ trách nhà thăm nuôi chầm chập nhìn chúng tôi.
Tôi không dám hôn vì nhớ đến chuyện anh bạn tù trẻ vừa được vợ đến thăm tuần trước. Sau khi chú ấy gặp vợ một lúc thì “Thắng chuột” bảo chia tay rồi vào trại. Vợ chú ấy tiễn chồng bằng cách cùng chồng đẩy xe cải tiến một đoạn đường. Đến đầu dốc xuống, dừng xe cải tiến lại, anh tù trẻ bước vòng ra sau xe, ôm vợ hôn lia lịa. Tên “Thắng chuột” lúc ấy cùng vào trại, trông thấy, hắn la to:
“Ơ! Ơ! Cái anh này làm gì kỳ thế? Buông ra nhanh”.
“Tôi hôn vợ tôi chớ làm gì mà cán bộ la om sòm”.
“Nắm tay được rồi, ai lại hôn kỳ vậy”.
Anh tù trẻ hơi tức: “Bộ cán bộ chưa từng hôn vợ hả?”
Hắn quát: “Đi vào. Không có lý sự nữa”.
Vì vậy mà tôi chỉ nắm tay và nhìn vào đôi mắt vợ tôi. Buông tay vợ tôi ra, ngồi xuống, ôm chặt con tôi vào lòng. Một lúc, nó từ từ gở tay tôi ra, có vẻ như nó “mắc cở” thì phải. Vì lúc tôi vào tù nó mới 4 tuổi nên không nhớ được nhiều về tôi chăng?
Thắng chuột nói: “Anh chị vào đây”.
Hắn ngồi vào cái bàn sát tường bên kia, vợ chồng tôi và đứa con ngồi trên cái băng sát tường bên này, đối diện nhau trong gian phòng nhỏ xíu. Hắn bắt đầu “giảng bài” y như băng cát xét phát ra vậy :
“Anh chị biết là đảng với nhà nước rất khoan hồng nhân đạo, cho gia đình mấy anh gặp nhau. Vậy, thứ nhất, khi thăm gặp ở đây, anh chị phải chấp hành nội qui cho tốt, nếu vi phạm là bị cắt ngay, và có thể bị cấm thăm trong nhiều lần sau này. Thứ hai, khi về địa phương, chị phải nói cho nhiều người biết về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng với nhà nước đối với ngụy quân ngụy quyền. Thứ ba, anh phải luôn luôn chấp hành tốt nội qui của trại, và quyết tâm học tập cải tạo tiến bộ để sớm được khoan hồng về với gia đình. Anh chị nghe rõ chưa?”
“Báo cáo cán bộ. Nghe rõ”.
“Anh chị ra ngoài xem bản nội qui dán ở cửa, sau đó vào đây trao đổi chuyện gia đình trong vòng 2 tiếng đồng hồ”.
Tôi ôm con tôi và hôn bé lia lịa, nhưng con tôi “mắc cở” thật. Gian phòng nhỏ xíu chúng tôi ngồi đang quét dọn nên bụi mịt mù, chúng tôi sang gian phòng nhỏ bên cạnh, chỉ có bộ ván chớ không có bàn ghế gì cả. Chúng tôi ngồi sát vào nhau, và bên cạnh là một gia đình người bạn. Ngay bên ngoài, hai tên Công An đi qua đi lại như để chứng tỏ lúc nào cũng có hắn theo dõi chúng tôi. Tôi nói khẽ:
“Em vẫn đẹp như trước tuy vất vả trong mấy năm trời”.
Lời khen của tôi còn bao hàm lời khen vợ tôi đã vượt biết bao khó khăn gian khổ lo cho các con, và lo cho gia đình chúng tôi.
Vợ tôi ngã đầu vào vai chồng:
“Anh không ốm (gầy) như Em nghĩ nên Em mừng lắm. Em cứ tưởng là Anh ốm lắm. Ráng giữ sức khỏe nghe Anh…”
Lần lượt vợ tôi thuật mọi diễn biến về bà con thân quyến trong thời gian qua, điểm chánh là các con chúng tôi:
“Tuần rồi, bốn con đã đi trên một chuyến tàu dưới dạng người Việt gốc Hoa hồi hương, ra hải phận quốc tế chờ tàu biển chở đến nước thứ ba, nay thì Em nhẹ cả người. Còn Nghĩa, chờ con lớn một chút hãy tính nghe Anh. Con còn nhỏ quá Em hổng dám cho đi. Anh đừng lo chuyện nhà, dẫu sao những năm gian khổ đã qua mà Em cố gắng quán xuyến được, nay Em tin là Em vẫn vượt qua được thôi. Em nhắc lại là Anh phải giữ gìn sức khỏe. Chừng nào Anh về thì chưa biết, nhưng Anh phải hứa với Em là Anh phải giữ sức khỏe nghe Anh”.
“Anh hứa với Em. Em còn tiền để chi dùng ở nhà không?”
“Em còn chút ít Anh à! Lúc Anh bị giam ở Biên Hòa, Em mất mấy lượng (vàng). Khi Anh ra Yên Bái, Em mất mấy lượng nữa vì tin vào chị N. V. M. Chỉ nói có bà con làm tướng cộng sản sắp trở ra Bắc, nên Em với chị Chí (Nguyễn Thành Chí) gom góp gởi cho Chỉ, nhờ mang ra Bắc đưa lại Anh với anh Chí. Tụi Em có trả tiền công chớ có phải nhờ không đâu. Gởi đi rồi, trông hoài không thấy Anh với anh Chí nói gì trong thư. Cuối cùng, Em với chị Chí tìm hiểu mới biết chị M. chẳng có tình bè bạn gì cả, mà Chỉ gạt để lấy vàng của tụi Em thôi. Đâu có thưa ai được Anh, chỉ có cách là tụi Em không bao giờ nhìn mặt chị đó nữa”.
Ngưng một lúc, vợ tôi thuật tiếp:
“Miếng vườn thì tụi nó tịch thu sau khi Anh vào tù. Căn nhà Ba Má đang ở (Vĩnh Long) bị chúng nó lấy sau đó với lý do là cha mẹ của Đại Tá ngụy. Ba Má phải về Nha Mân cất căn nhà nhỏ trên đất của Cô Bảy mà Em đâu dám nói trong thư. Sang cái chuyện đi xe bò đến thăm Anh. Anh biết không, chị Thường (Phạm Văn Thường) với chị Lục (Lê Đình Lục) nhờ Cô của anh Thường dẫn từ Sài Gòn ra Nam Định ở nhờ nhà cô anh Thường. Sáng hôm qua, Cô anh Thường mướn xe bò chở người lẫn chở đồ từ Nam Định lên Phủ Lý, rồi vô đây. Trời đất ơi! Những đoạn đường dốc, tụi Em phải xuống đẩy phụ con bò. Nắng nóng quá, con vừa mệt vừa khát nước lại vừa đói mà đâu có cơm nước gì cho con. Mới đi lần đầu nên tụi Em có biết gì đâu mà chuẩn bị. Em cho con ăn mì gói sống. Con muốn uống nước đá mà cái xứ này trông giống nhà quê quá, có ai bán nước đá đâu Anh. Đi từ sáng sớm mà chiều tối mới tới đây. Đêm hôm đông người quá, muỗi thì nhiều mà họ không đủ mùng cho mượn. Cũng may là có ông già người Bắc, thấy con bị muỗi cắn giật mình hoài, ổng mới kêu con vào mùng ngủ chung với ổng. Từ lúc đó con mới ngủ được đến sáng! Em cực đành rồi, thấy con cực quá Em muốn khóc!”
Rồi vợ tôi khóc thật! Tôi cũng ứa nước mắt từ lúc nào ..!
“Em gan lắm, chớ Anh ở nhà chưa chắc Anh dám cho các Con cùng ra biển một lần đâu. Nay thì mọi việc suông sẻ. Tương lai các con bao giờ cũng là hạnh phúc của mình. Đó là quan niệm mà chúng mình xây dựng từ lúc cưới nhau. Giờ thì mình trông tin ngày nào các con đến Mỹ, ngày đó xem như các con chúng mình bắt đầu vào đường xây dựng tương lai rồi Em. Mong là các con bình an đến nơi đến chốn”.
Tôi hôn phớt trên mái tóc vợ tôi, trong khi chúng tôi nắm chặt tay nhau. Tiếng của “Thắng chuột” đứng ở cửa nghe mà phát ghét:
“Anh Hoa mang quà ra xe vào trại. Hết giờ rồi”.
Tôi quẳng bao quà lên xe cải tiến, quay lại vợ tôi rồi cùng nắm chặt tay nhau và cùng nhìn thẳng vào ánh mắt của nhau, như chuyển gởi vào đó tất cả tâm tình giống như lúc chúng tôi cùng “giở mâm trầu” sau khi làm lễ cưới ngày 5 tháng 3 năm 1958 vậy. Xoay qua ôm con tôi vào lòng, hôn lên má của bé trước khi ra cửa, vào trại.
Đến đầu dốc xuống, tôi dừng lại, quay nhìn vợ con tôi vẫn đứng ở bậc thềm nhìn tôi. Có lẽ thông cảm tôi nên cán bộ Quan không nói năng gì khi tôi dừng lại. Lượt vào trại cứ thong thả ghì xe xuống dốc, nên không mệt như lượt ra mặc dù bao quà cũng đến mấy chục kí lô. Ngay trước cổng là nhà trực trại. Nơi đây có cái bàn dài để Công An trực trại khám xét quà bánh mà tù nhân nhận của gia đình từ nhà thăm nuôi, hoặc những gói bưu kiện nhận từ nhà bưu điện bé xíu ở Ba Sao mang vào. Từng món một, bao, túi, lon, hũ, lần lượt mở toang ra. Chúng nó cho chiếc đủa vào ống kem đánh răng rồi ngoáy ngoáy tìm cái gì đó hổng biết, hai cục xà bông đều bị cắt làm hai làm ba, đường cát thì chúng nó trút từ túi này sang túi khác, từng gói mì bị cắt ra, từng túi cơm sấy khô bị họ lắc qua lắc lại đến khi trông thấy toàn bộ bên trong, mấy con cá khô cũng được chiếu cố đặc biệt bằng cách cho cái muỗng vào miệng cá khô và nong ra xem có cái gì bên trong không. Không tìm thấy bất cứ thứ gì để chúng nó qui vào tội vi phạm nội qui để tịch thu, lúc đó mới cho vào trại. Anh Ngô Văn Huế vác giùm bao quà trong khi tôi đẩy xe cải tiến đem trả.
Vào buồng giam, việc đầu tiên là tôi bày tất cả mấy chục cái bánh dầy và chả lụa đã được vợ tôi xắc sẳn, mời tất cả các bạn trong Đội 2 chúng tôi cùng ăn, gọi là góp vui với tôi. Anh Trần bá Thành vừa cười vừa hỏi:
“Ê! Tiệc này gọi là gì vậy mấy cha?”
Một bạn đưa ý kiến: “Thì gọi là “hiền thê tân đáo” được không?”
Thế là một tràng pháo tay thể hiện sự đồng tình với câu gợi ý của anh bạn nào đó. Trong tình trạng thiếu ăn triền miên, bỗng dưng có bữa ăn được xem là thịnh soạn, tất cả chúng tôi rất tự nhiên và vui vẻ. Bữa cơm chiều hôm ấy, tôi + anh Lâm + anh Phước (chúng tôi ăn cơm chung từ lâu), có cơm trắng với con gà luộc, phải công nhận rằng, đây là bữa ăn ngon nhất với tất cả hương vị từ gia đình, cộng với hương vị của thức ăn kể từ ngày vào trại tập trung đến nay. Cái giá trị về tinh thần lẫn vật chất của bữa ăn này đối với tôi, còn cao hơn cái giá trị của bữa ăn cơm vắt với hai con mắm sặc sống hồi tháng 07/1955 nữa quí vị quí bạn à!
Ngày ấy, tôi là Thiếu Úy, Trung Đội Trưởng/Đại Đội 3/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân. Tiểu Đoàn chúng tôi đang trong cuộc hành quân vùng giữa Lai Vung với Sa Đéc. Rời Sa Đéc lúc nửa đêm, và xuất phát hành quân khi làng quê còn chìm sâu trong giấc ngủ. Lúc mặt trời lên cao, Đại Đội 3 chúng tôi bị tấn công từ trong bờ vườn. Đại Đội 2 từ cánh phải đánh bên hông của địch, phá tan cuộc phục kích. Nói thì đơn giản như vậy, nhưng thật sự chúng tôi phải quần nhau với địch đến khoảng 5 giờ chiều chiến trường mới kết thúc. Sau khi tản thương xong (bốn quân nhân), cả Tiểu Đoàn đều đói chớ không riêng gì chúng tôi, vì từ giữa đêm đến lúc ấy có ăn uống gì đâu. Với hai con mắm sặc sống và hai vắt cơm bắt đầu nhơn nhớt vì bị bịt kín gần như cả ngày. Thế nhưng tôi ăn ngon như chưa bao giờ ngon đến như vậy. Xét cho cùng, bữa cơm chiều hôm nay ngon hơn nhiều, vì ngoài phẩm chất của thức ăn còn ẩn chứa hương vị thân thương của gia đình nữa.
Trước giờ buồng giam đóng cửa, tôi với anh Trần Văn Lễ -bạn rất thân- ngồi sát góc tường khuôn viên buồng giam tâm sự:
“Cho đến bây giờ là đoạn cuối, chớ đoạn đầu thì vợ con mình gian nan lắm. Vợ tôi kể cho nghe là sau khi tụi mình vô “hộp” (ý nói vào tù), cái đám cộng sản nó thường xuyên hằn học với gia đình sĩ quan tụi mình, nhất là cái đám Công An trong cư xá chúng tôi. Nay đe dọa tịch thu nhà, mai đe dọa đuổi đi khu kinh tế mới, mốt đe dọa về quê sinh sống. Nói chung là bài bản của chúng nó khủng bố tinh thần gia đình mình, để đoạt mục đích là chiếm nhà mình làm tài sản của chúng nó. Thấy đe dọa chưa làm vợ con mình nao núng, thằng Công An khu vực tên Đó mà chúng nó thường gọi là “Tư Đó”, sỉ nhục gia đình sĩ quan mình bằng cách bắt vợ tôi cùng với mấy chị bạn trong cư xá, đến làm cỏ sân nhà của tướng cộng sản Trần Văn Danh ngay sau lưng nhà tôi. Căn nhà này là của cựu Trung Tướng Phạm Quốc Thuần đã di tản, hắn vào chiếm ngụ. Trong số các chị có chị Vân là bạo miệng hơn hết. Lần thứ hai đến đây làm cỏ dưới cơn mựa lất phất, đứng trên sân ngập nước, chị Vân lớn tiếng:
“Thiếu Tướng ơi! Ra coi mấy bà vợ sĩ quan ngụy làm cỏ nè Thiếu Tướng”.
“Mãi một lúc sau, mới có người ra cho về. Từ đó, không còn cái cảnh bắt vợ tôi với mấy chị trong cư xá làm cỏ cho các nhà cán bộ của chúng nó nữa”.
Anh Lễ thuật về gia đình ảnh:
“Ở khu tụi tôi không có cái cảnh bắt đi làm cỏ như trong cư xá Bắc Hải của anh, nhưng ngày này sang ngày khác, tụi Công An cứ bắt đến Phường để nghe chúng nó nhai đi nhai lại cái điều mà chúng nó gọi là khoan hồng nhân đạo, vợ tôi nghe nói riết có hôm “bả” muốn chửi nó luôn nhưng kịp bịt miệng lại, nếu không thì chưa biết chuyện gì xảy ra nữa”.
Anh Lễ ngưng, tôi thuật tiếp:
“Đầu năm 1978, tụi nó kéo đến nhà tôi 11 đứa mà vợ tôi nói cái đám đó giống như trong rừng mới ra vậy. Trong số đó có hai phụ nữ. Tụi nó chiếm nhà tôi suốt một tuần, nhốt vợ với năm con tôi trong một gian phòng, rồi chúng bới móc lục soát đập phá những chỗ nghi ngờ cất giấu vũ khí tài liệu, và có thể chúng nó tìm kiếm tài sản nữa. Trong tình cảnh đó, bà con lối xóm nấu thức mang đến tiếp tế cho vợ con tôi. Thật là cảm động! Tất cả hồ sơ giấy tờ, nhất là những tập viết tay mà tôi ghi chép những sự kiện xảy ra trong các cuộc đảo chánh còn lại, bị tụi nó xé tung rồi liệng đầy nhà. Cũng may là cái đám cộng sản đần độn này không biết giá trị của những tập đó, nên vợ tôi gom góp lại rồi cho vào bao cất giữ. Còn toàn bộ hơn 1.500 cuốn sách về kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học, và tôn giáo mà tôi đóng bìa cứng hẳn hòi, tụi nó ôm đi bán ngay trong cư xá chúng tôi chớ đâu xa. Rõ ràng là cái tụi trấn lột chớ chính trị chính em gì đâu.
Chuyện kế tiếp là con trai lớn chúng tôi là Phạm Bá Trung. Năm 1975, Trung học lớp 11 (học sớm 1 năm). Với tuổi 16 so với các bạn, Trung rất giỏi về điện tử nhất là sửa máy thu thanh, vì năm 1972 con tôi theo học lớp điện tử trong trường trung học La San tại Cần Thơ. Khi tôi vào trại tập trung, con tôi mua cái máy vô tuyến liên lạc tầm xa do những người lấy trong các đơn vị quân đội đem ra bán, với dự định tháo những cơ phận dùng sửa máy thu thanh, vì bà con hàng xóm thường nhờ con tôi sửa máy. Chưa kịp tháo tung ra thì một toán Công An đến trước nhà, thật ra vợ tôi không hiểu chúng nó đến vì chuyện gì, nhưng vợ tôi tìm cách giữ chúng nó ở cửa trước để con tôi trên lầu tháo tung cái máy rồi cho vào bao. Khi vợ tôi cho chúng nó vào trong nhà thì không còn gì để gọi là cái máy nữa. Nhưng đó lại là cái tội mà hai con trai chúng tôi Phạm Bá Trung với Phạm Bá Tín bị bắt. Vợ tôi “chạy” đầu trên xóm dưới chỉ đem được con trai nhỏ ra khỏi nhà giam Quận 10, còn con trai lớn chúng tôi (19 tuổi) bị chúng nó đưa lên trại tù ở Bà Rá mà chúng nó gọi là “trại lao động”. Bị giam gần một năm trong trại tù đó, vợ tôi chạy tiền và chính chúng nó tổ chức cho con tôi trốn trại, Vợ tôi đón nó ở đoạn đường giữa Bà Rá với Đồng Xoài đưa thẳng về Vĩnh Long “tị nạn” bên Ngoại. Đến khi mua được bốn cái giấy chứng nhận “người Việt gốc Hoa”, cả bốn anh em nó lên tàu rời Việt Nam ngày 14/05/1979) rồi Lễ. Vợ tôi ghi tên (cộng sản gọi là đăng ký) ở Sở Công An tỉnh Vĩnh Long cho tụi nó đi theo diện người Việt gốc Hoa hồi hương. Mỗi đứa phải tốn đến 7 lượng vàng lận. Trước đó, phải tìm mua cái giấy chứng minh người Việt gốc Hoa với giá 300 đồng (Việt Nam) cho mỗi đứa nữa”.
Anh Lễ vừa cười vừa bắt tay tôi:
“Mừng anh nghe. Mấy đứa nhỏ thoát được là tụi mình khỏe rồi. Tương lai của tụi nhỏ chính là cuộc sống của tụi mình bây giờ. Bà Xã anh hay thiệt. Tụi mình tính sai nước cờ mà mấy “Bả” ở nhà gian khổ quá!
“Tôi nói thiệt anh nghe nhe. Đặt hoàn cảnh ngược lại, nếu tụi mình ở nhà chưa chắc dám cho các con ra biển, vì sống với cộng sản mà tụi mình cứ méo mó cái nghề tham mưu, làm gì cũng tính toán chi li mới bắt tay vào việc, còn mấy “Bả” cứ làm đại vậy mà nhiều cơ hội thành công hơn mình Lễ à! Có thể nói rằng, cộng sản cai trị theo cái luật rừng, nhưng nếu ai xài luật rừng hơn nó thì được việc”.
Tiếng kẻng đóng cửa buồng giam vang lên, cắt ngang dòng tâm sự dài ngoằng của chúng tôi, rồi hai đứa cùng vào chỗ xếp hàng với các bạn.
Đêm hôm trước khó ngủ vì mong đến sáng để gặp vợ con. Gặp xong rồi, đêm nay cũng không dễ gì yên giấc, cứ chập chờn khi hình dung vợ con tôi vất vả trên xe lửa bảy mươi hai (72) tiếng đồng hồ với khoảng cách 1.736 cây số, thêm mười (10) tiếng đồng hồ ngồi xe bò dưới cái nắng của mùa hè oi bức trên đất Bắc. Đêm ngủ không mùng mà muỗi thì nhiều vô kể, để chỉ được gặp chồng gặp cha vỏn vẹn hai (2) tiếng đồng hồ, rồi lại chịu đựng lượt về cũng vất vả tương tự thời gian lượt đi! Điều gì đã giúp vợ tôi vượt lên trên những gian khổ ấy? Đó là tình yêu chồng và tình thương con!
Trở lại chuyện trong trại. Một số Công An bày ra cái vụ bán phở cho tù để có thêm tí tiền bỏ túi. Anh nào có tiền gởi trại, ghi tên mua phở họ sẽ căn cứ vào đó mà trừ dần. Mỗi buồng giam mua bao nhiêu cũng được, cứ 10 tô họ đựng trong một chậu thau bưng vào buồng chia lại. Ngày chủ nhật tuần sau đó, tôi mời các bạn ăn phở vì vợ tôi có gởi cho tôi 200 đồng. Hôm ấy tôi trả tất cả là 82 đồng. Không phải tôi mời đến 82 bạn đâu mà có bạn ăn đến 5 tô lận. Năm tô không có nghĩa là nhiều, vì một tô chỉ bằng cái chén trung bình thôi quí vị quí bạn à! Chỉ riêng nhóm chúng tôi có 3 người mà “tiêu thụ” đến 20 tô một cách nhẹ nhàng. Một phần vì sau bốn năm mới cảm nhận được “chút hương vị phở”, và phần khác là được “no bụng bởi phở”. Tôi nói “chút hương vị phở”, vì nó được gọi là phở chớ thật sự nó có đúng nghĩa là phở đâu. Thôi thì trong hoàn cảnh này, cứ gọi nó là phở để cái bao tử cảm thấy “dễ chịu” trong chút thời gian ngắn ngủi!
Cộng sản nuôi tù.
Trại tập trung này thường xuyên là ăn độn, nhưng độn theo lương thực thì từng đợt vài ba tuần hay vài ba tháng. Chẳng hạn như bo-bo thì thời gian dài hơn, khoai mì xắc từng cọng phơi khô thì vài tuần, khoai tây tươi nguyên củ thì theo mùa, bột mì luộc thì tùy theo viện trợ từ ngoại quốc. Nói là độn nhưng thật sự ăn 100% chớ không phải một phần gạo một phần độn đâu. Bo-bo là thức ăn dành cho ngựa ngoại quốc, cọng khoai mì phơi khô là thức ăn dành cho heo trong nước, nếu nói cho văn chương một chút gọi là thức ăn dành cho gia súc. Vì là thức ăn dành cho những động vật không phải con người, nên người ta không cần giữ vệ sinh từ lúc sản xuất, tồn trữ, chuyển vận, đến cung cấp cho bếp trại. Nghĩa là trong tình trạng không sạch sẽ chút nào, vì khi đổ ra sân người ta dùng bàn cào hay chổi để trải ra phơi hay gom lại cho vào bao. Hãy hình dung bữa ăn với cọng khoai mì khô đã nấu chín. Mỗi khẩu phần từ 10 đến 12 cọng, nhỏ thì bằng ngón tay út còn lớn thì bằng ngón tay cái, và dài nhất cũng khoảng 12 phân tây (0.12 thước). Bên cạnh những cọng khoai mì nhơn nhớt, là muỗng nước muối với khoảng mười cọng rau mùa hè (rau muống) hay rau mùa đông (bắp cải, su hào). Đấy là một phần ăn.
Trong số những thứ lương thực thay gạo đó, bo-bo là tai hại nhất, vì cái võ lụa của nó không tiêu được, nên nó phải “cào” những gì vướng mắc trên đường đi từ cái bao tử ra đến cái thùng gỗ đựng nó, chờ khiêng xuống khu vực trồng rau để “chăm bón”. Cuối cùng, nó lại quay vòng trở vào bao tử chúng tôi dưới dạng rauCó bạn dùng cây tăm xỉa răng, ghim từng hột bo bo cho vào miệng. Cách ăn này vừa nhai thật kỷ, vừa đánh lừa cái bao tử làm cho “nó” tưởng là được ăn nhiều!
Năm 1978-1979, tôi với anh Nguyễn Tài Lâm ăn chung. Tuy bo-bo “nó hung hăng” như vậy, nhưng hai chúng tôi cứ trông đến ngày thứ bảy nhờ anh Sét -em rể anh Lâm- ở buồng giam khác, mua giùm một phần bo-bo với giá một đồng. Hai đứa chia nhau mỗi người một nửa, giúp cái bao tử đỡ phần lỏng lẽo! Theo lời anh Sét thì anh bạn muốn có một phần bo-bo bán cho chúng tôi, mỗi chiều anh ấy để lại một muỗng. Ngày thứ hai để lại hai muỗng từ phần bo-bo mới lãnh và gộp muỗng bo-bo của ngày thứ nhất vào phần ăn lúc ấy. Ngày thứ ba để lại ba muỗng và gộp hai muỗng của ngày thứ hai vào phần ăn lúc ấy. Và cứ như thế cho đến ngày thứ bảy là đủ một phần, anh ấy bán cho chúng tôi lấy tiền lén gởi mua thuốc lào hút.
Bây giờ quí vị quí bạn hãy hình dung thời gian tại trại tập trung Nam Hà vào chiều Ba Mươi Tết Nguyên Đán đầu năm 1979. Nhà bếp phát cho mỗi người tù chúng tôi một cái bánh chưn, mỗi cạnh 15 phân tây kể cả lớp lá dông thật dày bên ngoài. Tôi với anh Lâm phác thảo “kế hoạch” ăn hai cái bánh chưn đó. Chiều Ba Mươi ăn cái bánh của tôi, và sáng Mồng Một ăn cái bánh chưn của anh Lâm. Chúng tôi nhẹ nhàng cắt dây, rồi từ từ gở từng miếng lá nhỏ cứ như sợ nó văng mất từng hột nếp hay miếng thịt nho nhỏ bên trong ấy, và … trời đất ơi, một nửa cái bánh còn nguyên hột nếp! Nếu có bạn nào trông thấy hai cái mặt chúng tôi lúc ấy, cũng không thể nào tưởng tượng cái bao tử của chúng tôi nó thất vọng đến như vậy! Và trong cái hoàn cảnh cần có thức ăn gì đó giúp cái bao tử bớt kêu ca, chúng tôi quyết định sống chín như nhau. Thế là sau khi cắt làm hai, mỗi đứa có một nửa sống với một nửa chín.
Theo “kế hoạch” thì sáng Mồng Một mới ăn cái bánh chưn của anh Lâm, nhưng chúng tôi không thể thực hiện được vì thức đêm chờ Giờ Giao Thừa mà bụng thì đói! Thôi thì mang cái bánh ra, lại từ từ cắt làm hai vẫn là nửa chín nửa sống, nhưng cứ xem như cái bánh có đủ phẩm chất của nó thì y như rằng nó vẫn cứ ngon miệng lúc đêm khuya! Sáng Mồng Một có gì ăn đâu. Bữa ăn trưa, tù chính trị được ăn cơm bằng gạo hẳn hòi, nhưng đây là bữa ăn duy nhất để rồi sau đó vẫn là bo-bo. Chiều Mồng Một Tết, một bạn trẻ ngay trong buồng giam chúng tôi, mang cái bánh duy nhất của anh ta bán cho chúng tôi giá 1 đồng rưỡi. Tôi với anh Lâm, mỗi đứa có thêm nửa cái bánh chưn, trong khi anh bạn trẻ có thêm thuốc lào hút. Không biết có nên nói là “hai bên cùng có lợi” hay không, vì xem ra sự thể chẳng hay ho gì!
Thật lòng mà thưa với quí vị quí bạn rằng, cái bánh chưn thứ 3 này cho tôi cảm nhận chút hạnh phúc! Nếu quí vị hỏi tôi: “Tại sao là một chút hạnh phúc?” Tôi xin trả lời:
“Thứ nhất, vì chiều hôm qua và hôm nay, chúng tôi mới được ăn cơm thật sự cộng với cái bánh chưn cho dẫu là cái bánh chưn vừa sống lại vừa chín. Đó là hạnh phúc của người tù chính trị, vì đã lâu lắm rồi anh em chúng tôi mới trông thấy những hột gạo hột nếp như vậy từ cái bếp của trại tù này. Thứ hai, chỉ một chút thôi, vì từ ngày mai -Mồng Hai Tết- cái hạnh phúc đó sẽ tan biến theo chén bo bo lưng lững mỗi lúc chia khẩu phần! Cái hạnh phúc của chúng tôi nó mong manh như vậy đó!
Đến muối hột ở trại này cũng thuộc vào loại thực phẩm quí nữa! Bởi vì họ chỉ cho ăn toàn nước muối, rất ư là khó nuốt. Trong Đội nhà bếp mà tù chính trị chúng tôi đã thay thế tù hình sự, có anh Mẫn. Trong năm 1962-1963, anh Mẫn cùng làm trong văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân với tôi. Sáng Mồng Một Tết năm 1979, anh Mẫn đến buồng giam khều tôi:
“Anh xuống đây với em một chút”.
Tôi nghĩ có thể anh ấy có tin tức gì liên quan đến tù chính trị nên thận trọng như vậy. Tôi theo sau anh Mẫn vào hành lang nhỏ hẹp của buồng giam 15 và 16. Đến giữa hành lang anh dừng lại, cho tay vào bên trong áo moi ra một gói bằng nắm tay nhét vội vào tay tôi:
“Anh cất gói muối này để dành ăn. Muối hột đó. Em đi nghe”.
“Cám ơn anh rất nhiều nghe Mẫn”.
Tặng xong là Anh nhanh chân về nhà bếp vì sợ có người trông thấy, vì khoảng thời gian ấy nếu bị “cai tù” bắt là họ phạt biệt giam.
Âm thanh ba tiếng “muối hột đó” đủ nói lên “giá trị” của hột muối đối với chúng tôi như thế nào rồi . Bởi, ngoài cái chất mặn của nó ra, tôi nghĩ là quí vị quí bạn không cảm nhận điều gì khác, nhưng với chúng tôi thì âm thanh đó gợi lên sự thèm khát cái chất mặn lạ kỳ của hột muối. Và tôi không thể tưởng tượng được khi cho một hột muối vào miệng tôi cảm nhận nó ngọt vô cùng! Tôi đang mơ màng thưởng thức “chất ngọt của hột muối”, có tiếng anh Lâm:
“Này, ông làm gì mà vui thế?”
Tôi giật mình. Hơi ngượng, vì “bị bắt gặp” thái độ sung sướng một cách kỳ lạ, nhưng tỉnh lại ngay:
“Anh có tin là tôi đang sung sướng vì được ăn một hột muối không”?
“Tôi cũng tù như ông mà”.
Câu trả lời mang theo âm hưởng một lời than ngắn ngủi của anh Lâm. Vậy là quí vị quí bạn cảm nhận được mức độ thèm khát “muối hột” của chúng tôi như thế nào rồi chớ!
Ở những cái “xóm nhà lá” trong xã hội lớn, người ta thường bày tỏ tinh thần tương trợ lẫn nhau khi trái gió trở trời, qua câu nói “hột muối cắn làm hai” được hiểu theo nghĩa bóng hơn là nghĩa đen. Nhưng trong xã hội nhỏ của nhà tù, hột muối không chỉ cắn làm hai mà là làm ba làm bốn hoàn toàn theo nghĩa đen của nó. Sự chia xẻ nhỏ nhoi mà anh Mẫn dành cho tôi là một trong những cách biểu hiện rõ nét về ý nghĩa “hột muối cắn làm hai”, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng!
Thưa quí vị quí bạn, bo-bo mà chang nước muối vào thật vô duyên, nhưng ăn với muối hột thì dễ ăn hơn. Tôi nói “dễ ăn” là so sánh khi ăn nó với nước muối, chớ tôi không nói nó thân thiện với cái bao tử khi nó vào đó.
Sau đợt ăn những cọng khoai mì phơi khô là khoai tây tươi. Cũng là ăn 100% chớ không phải độn với gạo. Từng xe vận tải Molotova chở khoai tây vào trại, thứ khoai tây hạng bét vì củ nào lớn nhất cũng chỉ bằng cườm tay trẻ con vài tuổi là cùng. Mỗi khẩu phần diễn biến từ 12 đến 16 củ còn nguyên võ. Anh nào có bơ thực vật hoặc đường hay sữa do gia đình gởi qua đường bưu điện 3 tháng 1 gói 5 kí lô, sau khi lột võ một cách cẩn thận để tránh chất bột bị mất tí ti vì dính theo võ, rồi cho chút bơ hay sữa hoặc đường vào củ khoai, vừa ăn vừa cảm nhận niềm thương nỗi nhớ mà người Vợ từ ngàn dặm xa xôi đã âm thầm “gói ghém tâm hồn của Nàng chung trong những gói đường, hộp bơ, hộp sữa …” gởi đến người Chồng trong trại tập trung!
Vì thiếu ăn, một số bạn trong số chúng tôi những khi cuốc đất hay làm gì dưới cánh đồng, bất cứ con gì nhúc nhích cũng ăn được cả. Từ con cua, con cá, con nhái, con luơn, cào cào châu chấu, ..v..v.., cứ bắt bỏ vào bếp lửa, một lúc khều ra phủi tro phủi bụi là cho vào miệng. Thậm chí, ngay cả con trùn cũng ăn nữa! “Con trùn hổ” lớn bằng ngón tay út, dưới nắng trưa làm ánh lên những màu sắc trên lớp da nhơn nhớt của nó, rạch một đường theo chiều dài con trùn, cạo bỏ tất cả bên trong chỉ còn lại lớp da bầy nhầy đem rửa sạch phơi khô, cho vào bếp nướng. Các bạn ấy gọi là “long đất nướng” và xem chừng ăn ngon lắm! Trong “bản ghi nhớ” của tôi có ghi tên các bạn ấy, nhưng tôi nghĩ không nên ghi vào đây vì hoàn cảnh thiếu ăn!
Theo qui định mà tên Công An “quản giáo” Đội nhà bếp cho biết, “tiêu chuẩn mỗi người tù là 15 kí lô gạo một tháng”, nhưng khi họ cho tù ăn những thứ không phải gạo thì họ vẫn tính theo trọng lượng của gạo mà thật ra cũng chính họ cho biết, cứ 2.5 kí lô khoai mì hay khoai tây mới bằng 1 kí lô gạo. Chúng tôi đâu có kêu với ai được, bởi vì họ chia chác với nhau và cùng che chắn cho nhau mà!
Họ cấm tuyệt đối về nấu nướng. Nếu bị bắt, có thể bị họ đưa vào khu biệt giam trong trại Nam Hà B mà chung quanh toàn núi rừng bao bọc. Nếu bị biệt giam thì khẩu phần hằng ngày giảm xuống còn một nửa, khi hết hạn biệt giam sẽ bị cấm thăm nuôi và có thể họ cấm luôn nhận quà thông thường là từ 3 đến 6 tháng. Cứ mỗi 3 tháng vợ tôi gởi cho 1 gói quà mà những món chánh là bơ thực vật, đường cát, sữa bột, và lạp xưởng.
Tôi kể quí vị quí bạn nghe về cách tôi nướng lạp xưởng và sử dụng lon sữa bột. Mỗi lần nướng một cái lạp xưởng, tôi dùng chiếc đủa lùa vào trong để dễ cầm và dùng 3 tờ giấy báo kích thước của tạp chí, cuộn lại theo chiều dài, mượn cái quẹt máy (bật lửa) cho vào túi. Ra cửa buồng giam, nhìn qua nhìn lại không thấy tên Công An nào là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra đằng sau buồng giam và chui vào cầu tiêu. Bật lửa, châm vào giấy. Tay cầm tờ giấy đang cháy để phía dưới chiếc đủa lạp xưởng. “Năng lượng” của 3 tờ giấy đủ chín cái lạp xưởng, thế là tôi có bữa ăn ngon miệng và cơ thế tiếp nhận được một lượng ca-lô-ri nhỏ nhoi mà cơ thể rất cần.
Có lần vợ tôi gởi cho một xâu lạp xưởng 12 cặp, phải cho vào hai cái lon guigoze để dành ăn, nhưng nó dài quá phải cắt một đoạn mới đậy nắp được. Tôi với anh Cao Văn Phước (Đại Tá Cục Quân Vận) muốn ăn nhưng không biết là nó chín hay sống, vì thư vợ tôi còn bị Công An trực trại giữ để kiểm soát. Lúc ấy chúng tôi bị nhốt vào buồng giam rồi đâu làm sao nướng được. Hai đứa tôi cứ ngắm nghía suy già đoán non, lúc thì đã hấp rồi lúc thì chưa. Cuối cùng chúng tôi xem như nó đã chín rồi và cứ thế mà ăn hết 24 đoạn cắt ngắn đó. Ngày hôm sau nhóm trực trại trả thư. Xem thư mới biết là lạp xưởng sống, thế nhưng cái bụng cũng hiền lành không gây khó khăn hay hoạnh hẹ gì tôi, mặc dù nó “bị bắt buộc” phải tiếp nhận và thanh toán hơn mười khúc lạp xưởng sống! Kể cũng lạ.
Đến hộp sữa bột. Đó là sữa bột sản xuất từ Liên Xô, chung quanh bằng giấy cứng, màu vàng, cái nắp của nó là miếng kim khí mỏng cũng màu vàng, chỉ bằng một phần ba đường kính cái hộp, vì mặt trên có miếng kim khí mỏng khác phủ kín hai phần ba miệng hộp. Tôi nhìn cái hộp và nghĩ rằng có thể sử dụng được nó dù chưa biết sử dụng vào việc gì. Thế là tôi “nghiên cứu” cái hộp mà “cái lợi” trên miệng sẽ che kín cái gì đó có thể giấu bên trong. Mãi một lúc là tôi biết cách sử dụng nó. Đó là viết thư, quấn một vòng tròn cho nhỏ lại rồi lùa vào trong hộp, ém dần cho những trang thư sát vào vách hộp. Nghĩ được là thực hiện được. Sau khi nhận thấy những trang thư nằm “kín đáo” bên trong, tôi cho sữa bột vào hộp, đậy nắp cẩn thận, trông không khác những cái hộp sữa mang từ nhà thăm nuôi vào trại. Tôi phải trả 2 đồng Việt Nam cộng sản cho chú tù hình sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi, đem ra gởi cho mấy chị bạn của vợ tôi đến thăm chồng nhờ mang về Sài Gòn trao lại vợ tôi. Có khi gởi cho anh bạn ra nhà thăm nuôi gặp vợ và gởi chị ấy mang về giùm. Có lần bị hạch hỏi trước khi họ hướng dẫn ra nhà thăm nuôi, anh bạn trả lời là đem sữa ra đó uống. Thế là thoát.
“Họ tuyệt đối cấm nấu” nhưng chúng tôi “không tuyệt đối tuân hành”, nghĩa là chúng tôi vẫn nấu, và đây là cách nấu. Nói cho đúng là nấu nước pha trà, pha cà phê, chớ chưa cả gan đến mức nấu cơm nấu cháo trong buồng giam. Sữa bột guigoze sản xuất từ Hòa Lan đựng trong cái lon bằng nhôm, mỏng nhưng rất cứng, đem cắt làm hai: Phần dưới làm nồi nấu, phần trên làm lò nấu. Phần trên phải đục một hàng lỗ để có không khí vào và năng lượng là cây đèn cầy (đèn sáp). Thường là xin người nhà cho đèn cầy loại lớn, cắt ra từng đoạn vừa với độ cao của “cái lò” mini, loại này cung cấp năng lượng nhiều hơn.
Trường hợp không còn đèn cầy thì dùng củi thay thế. Củi là những cây dại chết khô cở như chiếc đủa ăn. Trước khi từ chỗ lao động trở về, lượm những cây dại chết khô đó, bẻ từng đoạn dài chừng gang tay, dùng giây cột quanh hai bắp chân, ghim những que củi vào đó và mang về trại. Nếu bị Công An trực trại xét thấy, họ giật ném bên ngoài kèm theo những lời chửi mắng. “Lời chửi của chúng nó như nước đổ lá môn” thôi mà.
Cái bình trà rất nhỏ và uống trà thật đặc, chỉ cần một vài hớp cũng đủ thấm giọng cả đêm, nhất là đêm đông. Nếu không quen uống trà đậm kiểu này mà uống vào buổi tối, có khi cả đêm không ngủ được. Nhưng nếu không uống trà đặc như thế này thì đâu có đủ nước pha trà loảng cho nhiều người uống. Không biết có phải đây là “cái khó ló cái khôn” hay không, nhưng có điều là thích hợp với hoàn cảnh.
Đến cái cảnh đổi áo quần lấy thức ăn mà tôi là trường hợp điển hình. Công An “cai tù” thừa biết tù chính trị chúng tôi có nhiều áo quần dân sự bằng hàng vải ngoại quốc rất tốt, trong khi chúng tôi rất cần chất bột, chất béo, chất ngọt. Thế là đám “cai tù đực lẫn cái” bắt đầu cho “nhập cổng bất hợp pháp” các món hàng sữa đặc có đường, sữa bột, đường cát, để gạ chúng tôi đổi lấy áo quần, rồi “xuất cổng” cũng bất hợp pháp mang lên Hà Nội bán. Cái nghề “khốn nạn” này đã giúp họ phát lên khá nhanh, bởi vì như cái quần tây của tôi bằng vài nhập cảng từ Australia chỉ đổi được có 1 hộp sữa đặc và 1 kí lô sữa bột. Lần khác một cái quần tây chỉ đổi được 1 hộp sữa đặc và thêm 1 đồng bạc. Chính cái tình trạng thiếu ăn này, không chừng tù chính trị chúng tôi dần dần đến chỗ không còn cái áo cái quần dân sự nào cả!
Một hôm, khi đổi được hộp sữa đặc trong tay và khi âm thanh ống khóa cửa buồng giam crắc một tiếng, tôi khui hộp sữa đặc, mời anh Bùi Quang Hiền với anh Cao Văn Phước nằm cạnh tôi, cả 3 chúng tôi luân phiên “tu” một lúc là hết sạch. Thoạt nghe có vẻ ly kỳ rồi, nhưng chưa thấm thía gì so với anh bạn trẻ Nguyễn Kim Tiếng (Thiếu Úy Cảnh Sát đặc biệt). Sau giờ lam lũ dưới cánh đồng ngập nước, về đến cổng chờ kiểm soát mới được vào trại. Cả Đội ngồi chồm hổm, đám Công An trực trại lục soát từng người từ trước ra sau. Anh Tiếng có mua hộp sữa đặc đang giấu trong người, khi thấy khó thoát khỏi vì chúng nó xét kỷ quá, anh ta bèn moi cục đá ngay chỗ ngồi rồi ngoáy mãi cũng được hai lỗ trên miệng hộp, thế là anh “tu” hết sữa và liệng cái hộp vào sát vách trại, lúc ấy tên Công An xét đến anh:
“Cái hộp này của ai?” Hắn quát với vẻ tức tối.
Ai dại gì mà lên tiếng. Hắn lại quát gay gắt hơn:
“Tôi hỏi cái hộp này của ai ném ra đây?”
Còn 3 Đội “xếp hàng như bầy vịt” đều nhìn vào cổng trại, cứ như không nghe không thấy không biết việc gì kể cả lời quát của hắn. Hắn càu nhàu một lúc mới cho vào.
Những Đội làm ruộng dưới đầm lầy mà họ gọi là “vụ chiêm”, thường có những toán trẻ con lẫn người lớn, lén lút giấu gói đường với vài hộp sữa trong người rồi giả dạng như đi bắt cá để đến gần chúng tôi bán vài món lặt vặt ấy. Do vậy mà anh Tiếng mới có hộp sữa trong người, và thật tài tình khi “tu” trọn hộp sữa trong nháy mắt.
Cầu cơ.
Nhóm anh em chúng tôi gồm các anh Cao Văn Phước, Ngô Văn Huế, Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, Phạm Duy Khang, anh Đàm Quang Yêu, và tôi, bắt đầu chơi “cơ” sau khi vào buồng giam, thường gọi là “cầu cơ”. Thỉnh thoảng có thêm anh Nguyễn Kỳ Nguyện và anh Đặng Văn Hậu. “Cầu cơ” cần có cái bàn và con cơ. “Cơ” phải là mảnh ván hòm (quan tài) lấy từ cái huyệt mà thân nhân họ đã hốt cốt mới “linh thiêng”. Một hôm anh Khang trong nhóm đào ao nuôi cá dưới đồng, lượm được một mảnh ván mà anh nghĩ là “ván hòm”, đem về cắt gọt theo hình dáng cái cơ. “Bàn cơ” là mảnh giấy có viết đủ các mẫu tự Việt Nam, một hàng số từ 0 đến 9. Ngoài ra còn viết nguyên chữ đúng/sai, có/không, tốt/xấu để đỡ phải ráp các mẫu tự. Chúng tôi dùng hai cái mền treo lên để tạo thành cái phòng kín, tránh sự rình rập của đám Công An tuần tiểu từ cửa sổ nhìn vào. Chúng nó bắt gặp cũng phiền phức lắm.
Hôm đầu tiên, anh Khang “ngồi cơ”, anh Yêu khấn vái gọi hồn. Đại khái thì anh giới thiệu với hồn ma hồn quỷ rằng:
“Chúng tôi là tù chính trị miền Nam, bị giam tại trại tập trung Nam Hà này, xin thỉnh hồn các vị khuất mặt khuất mày nào đi ngang đây, vui lòng nhập cơ để chúng tôi nhờ giúp đỡ độ trì”.
Anh Phước khều tôi: “Ê! Cơ chạy rồi kìa”.
Nhưng cơ lại ngừng. Một lúc sau thì cơ chạy lại, tức là có hồn nào đó nhập vô rồi. Anh Yêu lại lâm râm khấn vái:
“Vị khuất mặt khuất mày nào đã nhập vô cơ xin nhập luôn chớ đừng ngập ngừng, để anh em chúng tôi hỏi đôi điều”.
Tôi phụ trách ráp các mẫu tự mà cơ chỉ vào, và có câu sau đây:
“Tôi tên Thọ, Tiểu Thần phụ trách khu này. Trước kia tôi là công nhân nhà máy dệt Nam Định, chết vì không có thuốc trị dạ dày (bao tử). Hiện tôi còn một vợ và bốn con ở tại Nam Định” (có cho số nhà và tên đường).
“Chúng tôi có thể nhờ ông Thọ cho biết tin tức gia đình ở Sài Gòn được không?”
“Được. Nhưng chờ tôi xin phép Thổ Thần trước”.
Cơ ngưng chạy. Trong tích tắc thì chạy lại, nhưng là hồn khác:
“Tôi tên Ban, tù hình sự, đã chết vì đói tại Trại Mễ ở Phủ Lý. Hiện tôi là “ma đói”. Các ông có gì cho tôi ăn không”.
Tôi lấy cái bánh ngọt và tách nước trà để lên bàn cơ, anh Đàm Quang Yêu mời:
“Chúng tôi mời ma đói ăn bánh uống nước”.
Cơ chạy tới đụng nhẹ vào cái bánh rồi đến chạm vào tách nước, cơ lui lại vị trí chờ. Trong lúc anh Yêu hỏi thêm thì cơ chạy vội vào các mẫu tự, tôi ráp lại:
“Xin phép các ông tôi đi, vì ông Tiểu Thần vừa đến ngoài cửa. Ông ấy bắt gặp là tôi bị phạt”.
Trong chớp mắt cơ chạy lại, đó là ông Tiểu Thần:
“Tôi được phép rồi, các ông cần gì thì nói”.
Tôi hỏi trước: “Tôi tên là Hoa …”
Cơ cắt ngang bằng cách chạy vào các mẫu tự:
“Tôi biết tên ông rồi vì tôi nghe các ông bên cạnh gọi tên ông. Ông nói tiếp”.
“… Tôi có bốn đứa con đi ngoại quốc bằng tàu đã hai tháng nay mà tôi chưa có tin tức. Ông Thọ có thể vào Sài Gòn, đến nhà X12 cư xá Bắc Hải, Phường 25 Quận 10, xem giùm tình trạng ở nhà tôi và cho tôi biết tin tức được không?”
“Được. Ông Hoa chờ một chút”.
Khoảng 30 giây sau, cơ chạy lại:
“Không phải như ông nói đâu. Hiện ở nhà ông có bốn đứa con, còn một đứa nữa thì ông Thổ Thần tại đó nói nó đi rồi nhưng chưa đến nơi”.
“Cám ơn Ông Thọ”.
Anh Yêu hỏi: “Làm sao mà ông đi mau vậy?”
“Tôi chỉ là luồng khói nhỏ, thoắt đây thoắt kia, nhưng phải có phép của Thổ Thần mới đi được như vậy. Bây giờ tôi bận, tôi phải đi ngay. Chào các ông”.
Thật lòng mà nói, tôi không tin vào cơ, nhưng những lời của hồn từ bên kia thế giới xưng là Tiểu Thần đã nói trên bàn cơ vừa rồi làm tôi suy nghĩ mãi: “Tin hay không tin?” Thôi thì chờ tin từ vợ tôi mới đánh giá lời cơ đêm nay.
Tuần lễ sau, chiều thứ bảy, anh Lễ từ nhà thăm nuôi trở vào, đưa cho tôi gói quà của vợ tôi gởi. Vội vàng mở ra, việc đầu tiên là xem thư mà tôi tin là thể nào cũng có trong hộp sữa bột mà chúng tôi dùng để thư bên trong. Và y như rằng, có bốn trang thư bằng giấy “pelure” mỏng. Xem xong, tôi ngẩn ngơ! Vì trong thư có hai chuyện rất buồn: Chuyện thứ nhất. Khi vợ tôi xin giấy phép ở Phường để ra Bắc thăm tôi hồi tháng 05/1979 thì họ không cấp, vợ tôi nhờ người bạn mua cái giấy phép ở Phường khác. Khi vợ và con tôi từ Nam Định trở về Sài Gòn thì nhà chúng tôi bị niêm phong, với dòng chữ “nhà vắng chủ”. Vợ tôi gục đầu vào cửa nhà vì quá uất ức! Đêm đó, vợ con tôi ngủ bên ngoài cửa nhà. Hôm sau, vợ tôi đến nhờ chị bạn (Chị D.V.D.) có người thân làm trong tòa án cộng sản can thiệp. Cuối cùng, đám Công An Quận 10 phải gở niêm phong. Dĩ nhiên sự “giúp đỡ” đó theo phương thức “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đến chuyện thứ hai. Bốn con chúng tôi tưởng đã đi được rồi, nhưng chỉ mấy ngày sau khi tàu rời Vĩnh Long (14/05/1979) là quay về bến. Lý do mà Sở Công An thông báo vì thời tiết xấu nên tàu quay về, nhưng họ không nói bao giờ thì đi, cũng không nói gì đến số vàng mà họ đã nhận của những người có giấy tờ “người Việt gốc Hoa ghi danh hồi hương”. Từ đó đến nay đã hơn hai tháng, họ vẫn hoàn toàn im lặng, có ai đến hỏi thì họ trả lời vắn tắt: “Chưa có lệnh cấp trên”. Mọi người biết mình bị Công An cộng sản trấn lột nhưng đâu thể làm gì họ được.
Sau khi quay về, đứa con trai lớn chúng tôi vẫn phải “tị nạn” ở quê Ngoại vì trước đó đã trốn trại lao động.
Vậy thì lời cơ hoàn toàn đúng nhưng tự thâm tâm tôi vẫn chưa thể tin được, vì từ trước đến giờ tôi không tin vào tướng số tử vi, huống hồ gì lời của “hồn ma bóng quế” từ thế giới vô hình nói về những sự kiện trong thế giới hữu hình.
Về Công An tổ chức vượt biển, xin mở ngoặc. Năm 2004, trên trang báo Dân Vận của đảng bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Germany, có bài viết về tội ác của cộng sản Việt Nam, trong đó có đoạn nói đến vấn đề vượt biển do Công An tổ chức. Xin trích một đoạn:
“Theo tin tức tiết lộ từ Bộ Công An, chánh phủ cho phép các Sở Công An tổ chức những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Hoa từ tháng 11 năm 1978 với mục đích, vừa đẩy thành phần đó ra khỏi Việt Nam, vừa thu được 7 lượng vàng của mỗi người để bổ sung ngân sách nhà nước. Hành động như vậy, Việt Nam không mang tiếng trục xuất một thành phần tai mắt của Trung Hoa cộng sản, vì lúc ấy bang giao giữa hai nước cộng sản này đang căng thẳng. Về số vàng thu được từ năm 1978 đến 1982 lên đến 700.000 lượng, nhưng có thật sự vào ngân sách nhà nước hay vào túi riêng của những người quyền thế, chỉ có họ với Trời mới biết thôi. Vàng thì họ thu khi ghi danh, còn bao nhiêu người thoát khỏi Việt Nam thì không ai biết. Nguồn tin cũng cho biết, trung ương của họ ra lệnh thu mỗi người 3 lượng vàng chớ không phải 7”. Đóng ngoặc.
Tôi gởi hộp sữa bột về lại Sài Gòn với những trang thư bên trong: “(1) An ủi vợ con tôi nên xem đó là bài học kinh nghiệm mà bài học nào cũng có cái giá phải trả. Có điều là giá đó thuộc loại trấn lột. (2) Giữ vững ý định tiếp tục đưa các con ra khỏi Việt Nam khi thấy có thể, vì không thể để các con sống với cộng sản. (3) Nên chia ra từng một hoặc hai đứa mà đi, để tránh trường hợp tất cả bị tai nạn cùng lúc. Và (4) Có thể nhờ các em trợ giúp tài chánh cho con đi”.
Rồi những đêm sau đó, nhóm chúng tôi tiếp tục chơi cơ. Anh nào cũng nhờ ông Tiểu Thần vào Sài Gòn xem giùm tin tức gia đình. Một đêm, anh Yêu khấn thật lâu cơ mới chạy. Sau một lúc hỏi đáp, mới biết là ông Tiểu Thần bận nên “ma đói” vào cơ:
“Hôm nay tôi ở đây được lâu, các ông có hỏi gì tôi không?”
Theo lời anh Yêu, không phải ai ngồi cơ cũng có hồn nhập vào đâu mà phải như thế nào đó thường gọi là “cơ duyên”. Không biết đúng hay không nhưng rõ ràng là anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) ngồi cơ thì nhiều hồn nhập vào cơ. Tôi có thử một lần nhưng phải nửa tiếng đồng hồ mới có hồn nhập vào cơ, lại là hồn ma thôi. Khi hồn nhập vào cơ thì tôi không thể giữ lại. Tôi muốn thử cho biết bằng cách tôi cố ấn mạnh ngón tay giữa để giữ cơ lại, nhưng cứ như có người đẩy cơ đi. Hai lần tôi cố tình kềm cơ lại nhưng không thể được. Vì vậy mà tôi tin là có hồn nhập vào cơ, nhưng vẫn chưa tin hẳn vào lời cơ.
Anh Khang nói:
“Nào, bạn lên nhà ông Xuyên (trại trưởng) xem tụi nó làm gì trên đó mà đèn sáng choang vậy”.
“Không được ông Khang ơi. Tụi nó gác dữ lắm, nó không cho tôi vào”.
“Lính cộng sản gác, ăn thua gì bạn mà bạn sợ”.
“Tôi nói lính của ông Tiểu Thần gác, chớ tôi đâu có nói lính của ông Xuyên”.
“Vậy thì anh xuống nhà bếp xem mai chúng nó cho chúng tôi ăn gì?”
“Ngày mai các ông ăn bột mì luộc, vì trong kho chỉ có bột mì thôi”.
“Hừm. Sao không coi luôn thức ăn?”
“Tôi thấy chỉ có bột mì với muối, ngoài ra không có gì khác nữa”.
Trong khi chưa có câu hỏi gì thêm thì cơ chạy vòng vòng, đột nhiên cơ hỏi:
“Mấy ông có quen với phụ nữ ở đây sao?”
“Phụ nữ ở đâu mà quen? Chúng tôi là tù chính trị trong Nam ra đây, đâu có quen với ai”.
“Tôi thấy có hai cô đang ngồi phía trước kìa”.
“Bạn ra hỏi giùm hai cô ấy là ai vậy? Và muốn gặp ai?”
“Không xong rồi. Ông Tiểu Thần đang đến, hai cô đó đứng dậy đi rồi. Thôi, tôi đi nghe”.
Ngay sau đó ông Tiểu Thần nhập cơ, và anh Khang hỏi:
“Ông Thọ có biết có người Mỹ nào chết trong trại này không?”
“Có. Tôi biết có hai người”.
“Ông Thọ có thể cho biết vài chi tiết về hai người Mỹ đó không?”
“Không. Tôi chỉ biết hai người đó là sĩ quan”.
“Ông Thọ có thể mời họ đến đây được không?”
“Được. Ông chờ tôi”.
Sau đó cơ chạy lại, nhưng lúc ấy tôi phải chui vào mùng vì tôi bắt đầu bị cúm, rất khó chịu. Sáng sớm hôm sau, anh Khang thuật tóm tắt như sau:
“Hai sĩ quan Mỹ, một là Thiếu Tá và một là Đại Úy. Cả hai chết tại buồng giam số 1 này. Mồ của hai anh ấy ở sườn núi phía Tây cách trại khoảng 500m đường chim bay. Anh Thiếu Tá ở tiểu bang California, có cho địa chỉ đầy đủ kể cả zipcode. Anh Đại Úy đang buồn vì vợ anh đã có chồng khác, hai con gái của anh được tòa giao cho mẹ anh nuôi, vì vậy mà anh không muốn cho ai biết địa chỉ. Cả hai sĩ quan này đều biết hút thuốc lào, và chết vì kiệt sức do không đủ dinh dưỡng. Sở dĩ hai anh biết tiếng Việt, vì khi vào thế giới vô hình tại Việt Nam bắt buộc phải học, và hai anh trả lời những câu hỏi cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ”
Dần dần chỉ còn lại các anh Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, với anh Phạm Duy Khang tiếp tục chơi cơ một thời gian khá lâu sau đó. Có anh hỏi những vấn đề chiến lược chiến thuật, về tương lai của Việt Nam, và “những vị” trả lời có “vị” xưng là Bà Chúa Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần, có khi là vị thần này vị thánh kia, ..v..v…
Riêng tôi thì ngưng sau hai tuần tham gia, vì cảm thấy gai gai trong người làm sao á! Tôi không giải thích được,nhưng rõ ràng có vài đêm trong giấc ngủ cứ như có ai đó đến nói chuyện với tôi, vì phát âm không rõ nên tôi không hiểu họ nói gì. Với lại tôi nghĩ rằng: “Chuyện người ở thế giới vô hình nhập vào cơ của thế giới hữu hình là có thật, và trả lời những câu hỏi ngay trong cuộc sống là tin được, nhưng về những câu hỏi có tính cách quan trọng dài lâu trong tương lai, khó mà chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cơ cung cấp chính xác về chiến lược chiến thuật ở cấp bậc quốc gia quốc tế, thì ông Tổng Thống chỉ có việc rao truyền trên toàn quốc để tìm mời người “có cơ duyên cao nhất” vào Phủ Tổng Thống ngồi cơ, cầm chắc là Tổng Thống sẽ thành công xuất sắc trên mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia, mà không cần đến năm bảy bộ tham mưu đồ sộ với máy móc tinh vi, lúc ấy ngân sách quốc gia lúc nào cũng thặng dư . Vậy là “dân giàu nước mạnh” rồi. Suy cho cùng, nếu sự thể diễn ra như vậy, hà tất phải tốn công tốn của chọn bầu vị Tổng Thống.
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có đức tin riêng, nhưng mỗi người có cách riêng của mình khi nhìn về đức tin, trông chờ sự hiện hữu của đức tin.
Vá đường.
Tháng 05/1980, vừa ra khỏi cổng trại thì tên võ trang bảo dừng lại:
“Anh Hoa. Anh cử người đến kho lãnh dụng cụ đi sửa đường. Từ hôm nay, Đội phụ trách sửa đoạn đường từ nhà thăm nuôi ra đến nhà máy xi măng”.
“Cán bộ có cho xuống đồng mang dụng cụ về trả kho không?”
“Không cần. Cán bộ Vượng (quản giáo) bảo các anh cứ bỏ dưới đó, để nhân viên kho đi tìm mang về”.
Tôi theo tên võ trang đến kho, hắn bảo tôi:
“Anh vào lãnh dụng cụ đi”.
Tôi vào kho, vừa nói mượn dụng cụ là tên giữ kho quát:
“Các anh phải mang số dụng cụ dưới đồng về trả mới được lãnh dụng cụ mới”.
Tên võ trang bước vào:
“Đồng chí cho Đội mượn đi, đồng chí Vượng nói sẽ trả sau, vì hôm nay phải sửa đường gấp, chậm trễ là có vấn đề đấy”.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mượn được dụng dụ cần thiết. Một bên đường là sườn núi với rất nhiều đá dăm, nên chúng tôi không phải khiêng đá từ xa đến, còn bên kia là triền đồi xuống cánh đồng chiêm. Qua khỏi nhà thăm nuôi, tên quản giáo bảo Đội dừng lại, hắn hỏi tôi:
“Anh muốn Đội bắt đầu từ nhà máy xi măng vào, hay từ đây ra?”
“Báo cáo cán bộ. Tôi nghĩ là nên bắt đầu từ đây ra, vì đoạn này nhiều lỗ trũng mình sửa là thấy kết quả ngay”.
Tôi nêu ý kiến như vậy vì trước mắt, anh em chúng tôi có cơ hội gặp những gia đình bạn bè có thể hỏi thăm tin tức. Thể nào hắn cũng ngăn cấm, nhưng thể nào chúng tôi cũng có cách qua mặt hắn.
“Được. Anh cho Đội bắt đầu từ đây, nhưng nếu anh nào lén phén chui vào nhà thăm nuôi là anh trách nhiệm. Tôi nói trước để mà tránh, tôi mà nổi điên lên khi bắt gặp anh nào vào nhà thăm nuôi thì mấy anh cũng chẳng ra gì đâu. Nghe chưa?”.
Hắn muốn nói là hắn sẽ chửi chúng tôi đó. Tên Vượng này nóng tánh và thô lổ nữa, nhưng nghe chừng “bịt miệng” hắn cũng không khó.
“Vâng. Nhưng tôi xin cán bộ, khi giao trách nhiệm cho chúng tôi cán bộ đừng bảo phải làm thế này thế khác, hãy để chúng tôi làm theo cách của chúng tôi. Trước khi về tôi sẽ báo cáo và cán bộ kiểm soát công tác tại chỗ”.
Hắn im lặng một lúc:“Cứ làm đi”.
Nói xong, hắn lầm lủi vào dãy nhà dành cho tổ Công An điều hành và canh giữ nhà thăm nuôi.
Chúng tôi chọn địa điểm nấu nước và ngồi nghỉ giải lao chỉ cách nhà thăm nuôi khoảng 50 thước về phía ra Ba Sao. Trong nhà thăm nuôi khá đông thân nhân của tù chính trị chúng tôi, trẻ con cũng khá nhiều. Có lẽ tôi cần giải thích một chút về nấu nước. Mỗi Đội trên dưới 20 người được cử một người phụ trách nấu nước cho Đội uống. Họ phát hai cái thùng loại 20 lít và một đòn gánh. Đội chúng tôi có anh Nguyễn Kỳ Nguyện phụ trách nấu nước. Nước thì anh Nguyện tự tìm chỗ lấy và gánh về, còn củi thì anh Nguyễn Xuân Hường phụ trách lên núi kiếm mang xuống cho anh Nguyện. Một số trong số anh em chúng tôi được gia đình tiếp tế gạo, nên cho nhúm gạo và nước vào lon guigoze có cái quai móc, đem móc vào chung quanh miệng thùng nước, nhờ sức nóng của lửa do anh Nguyện cố tình cho lửa thoát nhiều ra chung quanh, giúp chúng tôi có lon guigoze cơm ngon miệng bụng no.
Tôi với anh Nguyễn Kim Tây trong một toán. Khi tên võ trang vào nhà thăm nuôi ngồi nhìn ra, tôi đứng sát anh Tây:
“Tây ơi! Thư mới nhất của vợ “ta” cho biết trong tháng này Ba “ta” sẽ ra thăm. Vì vậy mà “ta” hy vọng gặp Ba mình trong lúc tụi mình sửa đường”.
“Nhà ngươi” nhìn vô nhà thăm nuôi chưa?”
“Có nhìn nhưng không thấy, kể cả người quen”.
Tôi với anh Tây khi nói chuyện với nhau, thường dùng “ta” hay “nhà ngươi” để chỉ ngôi thứ nhất với ngôi thứ hai của chúng tôi. Trong lúc giải lao, tôi thuật lại lời của tên Vượng cấm vào nhà thăm nuôi, và có ý kiến:
“Tôi nghĩ, nếu bạn nào muốn liên lạc với các chị trong nhà thăm nuôi, nên nhắn ra phía cầu vệ sinh. Nếu hắn có thấy thì nói là mình đi tiêu đi tiểu gì đó cho khớp với nhau. Dần dần tôi sẽ cố gắng thử xem có “bịt miệng” hắn được không rồi mình liệu cách”.
“Bịt miệng” có nghĩa là mua chuộc hắn bằng cà phê thuốc lá, thậm chí là chút ít tiền cuối tuần cho hắn đi xe về nhà.
Mùa hè trên đất Bắc nóng và oi bức lắm, không như cái nóng hiền hòa của miền Nam. Càng nóng chúng tôi càng mặc quần áo dài tay để giữ mồ hôi bên trong làm giảm sức nóng từ bên ngoài. Lại còn cái khăn lông nhỏ thấm nước phủ lên đầu trước khi đội nón, chốc chốc kéo xuống lau mặt cho mát.
Cứ như thường lệ, mỗi khi đến chỗ làm chúng tôi được nghỉ 10 phút để thu xếp đồ đạc cá nhân cũng như dụng cụ đi làm. Ba ngày sau đó, trong lúc nghỉ ngơi chuẩn bị mang vác dụng cụ đào đất vá đường, tôi liếc nhìn vào nhà thăm nuôi xem có Ba tôi không. Bỗng, tôi rất đổi ngạc nhiên, dụi mắt, nhìn lại. Rõ ràng là vợ tôi ngồi dựa cột ở hàng hiên … nhìn tôi. Tay trái giở nón lên để thấy rõ và tay phải tôi chỉ vào tôi. Vợ tôi liền đứng dậy, cũng dùng tay chỉ vào vợ tôi. Vậy là chúng tôi nhận nhau rồi. Tôi khều anh Tây:
“Tây ơi, Tây”.
Vừa gọi, tôi vừa ngoắc anh Tây đang ngồi uống nước chỗ anh Nguyện, vì còn mấy phút nữa mới bắt đầu lao động. Anh Tây đi nhanh lại:
“Bác đến hả nhà ngươi?”
“Đến rồi. Nhưng không phải Ba ta, mà là vợ ta”.
“Chị đâu?”
“Vợ ta mặc đồ tây kiểu đồ bộ, màu nâu, đứng dựa cột thứ ba từ bên phải qua trái đó. Nhà ngươi thấy chưa?”.
“Ta thấy rồi. Có phải Chị hơi ốm một chút không?
“Đúng. Hơi ốm so với giữa năm ngoái. Nhà người đứng đây với anh em giùm ta, ta kiếm thằng Vượng nhờ nó xin thằng Thụ -phụ trách nhà thăm nuôi- cho ta gặp mấy phút được không?”
“Nhà ngươi đi đi. Hình như nó đang ngồi trong chòi của hình sự kìa”.
Đúng là hắn ngồi trong đó. Tôi bước vào:
“Chào cán bộ. Vợ tôi từ Sài Gòn ra thăm, đang có mặt trong nhà thăm nuôi. Cán bộ có thể giúp cho tôi gặp vợ tôi trong chốc lát được không?”
“Không được. Ông Thụ không cho đâu. Để mai gặp luôn”.
“Báo cáo cán bộ, nếu vậy thì có gì phải nói đâu. Sẳn Đội đang lao động ở đây, tôi nghĩ là cán bộ có thể giúp tôi được, chớ chờ mai thì bình thường thôi. Cán bộ gắng giúp tôi trong 10 phút thôi mà”.
“Anh lộn xộn quá. Để tôi vào gặp ông Thụ xem sao”.
Một lúc sao, hắn ngoắc tôi vào và nói với con Kim:
“Đồng chí Kim (cô này năm ngoái làm ở nhà trồng nấm), cho anh này gặp vợ trong 10 phút. Tôi xin ông Thụ rồi”.
“Được”. Cô ta xoay qua tôi: “Anh vào trong”.
Hai cái bàn dài đông nghẹt người. Cô ta đưa tôi cái ghế của cô ta:
“Đưa ghế này vợ anh ngồi, còn anh ngồi tạm cạnh vợ anh. Anh chị nói chuyện nhanh lên, chỉ 10 phút thôi. Các ông trong trại ra trông thấy là phiền lắm”.
“Cám ơn cán bộ”.
Vợ tôi vào chuyện ngay:
“Hai bên gia đình đều mạnh. Còn chuyện các con vượt biển dưới dạng người Việt gốc Hoa, khi tàu rời Vĩnh Long chưa được một ngày thì tàu quay lại, họ nói là biển động không đi được. Rồi từ đó, mỗi khi có người đến hỏi thì họ trả lời là chưa biết chừng nào mới khởi hành được. Khi hỏi đến số vàng đã đóng thì họ nói đó là chuyện của cấp trên chớ họ không biết, mặc dù vàng thì nộp cho họ. Vậy là chúng nó trấn lột, chỉ kể trong chuyến đó cũng đến cả ngàn lượng vàng chớ ít đâu Anh. Thôi thì các con còn đủ là được rồi. Em đưa các con về Sài Gòn, riêng con Trung vì trước đó đã trốn trại tù nên ở lại Vĩnh Long lánh mặt tụi Công An khu vực trong cư xá mình. Bây giờ thì con Trung với Tín đã đến Thái Lan rồi Anh”.
“Em được điện tín hay thư của hai con chưa?”
“Có thư của hai con rồi. Hai con vượt biển từ Cà Mau và trốn đi chớ không phải như lần đi năm ngoái. Lần thăm Anh năm ngoái trở về, nhà mình bị tụi nó niêm phong, nó đòi tịch thu. Em liều mạng với tụi nói, cuối cùng nó mới chịu trả. Lúc nào tụi nó cũng chực lấy nhà mình, cũng như nhà của các bạn trong cư xá Bắc Hải mình. Chúng nó toàn cái bọn ăn cướp cả”.
“Em giỏi lắm”.
(Trong hình là Phạm Bá Trung & Phạm Bá Tín đang leo qua tàu biển)
“À, có con gái với út Nghĩa theo Em thăm Anh nữa. Hai con với các bạn nó đi tắm rồi, chắc cũng sắp về. Con Hùng đang ở Vũng Tàu, lúc nào đi được là con sẽ đi với thằng Thành con anh Có (Đại Tá Nguyễn Hữu Có) và mấy bạn nữa. Khi nào có tin, Em nhắn cho Anh hay”.
“Hùng gan quá hả Em, dám đi một mình. Có thằng Thành cũng đỡ đần nhau được. À! Em có mang cho Anh hai chiếc nhẫn không?”
“Có. Nhưng bây giờ không tiện lấy ra, vì Em để người. Ngày mai Em đưa Anh. Bây giờ Anh có thể đem con gà luộc này vào trại được không? Em để trong bao ni-lông rồi”.
Tôi quay sang cô Kim:
“Báo cáo cán bộ, tôi có thể mang cái túi có đựng con gà luộc ra khỏi đây không cán bộ? Cán bộ có thể xem trước, chỉ có con gà luộc thôi”.
“Anh đưa tôi xem….. Được, Anh mang ra khỏi đây, nhưng khi vào trại đừng để mấy ông trực trại trông thấy là phiền phức lắm”.
“Cám ơn cán bộ. Giới thiệu với cán bộ, đây là vợ tôi, còn hai con tôi đi tắm rồi”.
“Tôi biết rồi. Con gái của Anh Chị xinh lắm”.
“Vợ chồng tôi chỉ có mỗi đứa con gái, còn lại đều là trai, nên cưng lắm”.
“Thôi. Anh ra Đội đi. Quá 10 phút rồi. Mai thăm chánh thức, tôi để ngồi nói chuyện lâu hơn”.
Ra đến hàng hiên, vợ tôi chỉ phía dưới dốc:
“Tụi nhỏ đi tắm về kìa Anh. Con gái đi tận cùng bên phải đó”.
“Con gái mình cao lớn quá hả Em”
“Càng lớn, con gái càng xinh. Mấy chị bạn đều khen con mình”.
Thằng quản giáo Vượng gọi tôi sang bên kia đường, trong lúc hai con tôi đi ngang tôi nhưng là bên này đường. Tôi với hai con tôi chỉ cách nhau mấy thước tây mà chỉ được nhìn nhau qua ánh mắt, chớ không được hôn lên trán con gái, hay ít nhất cũng vuốt được mái tóc dài của con gái tôi mà tôi thường ao ước! Ngày trước, tôi thường khuyến khích con gái tôi để mái tóc dài như Mẹ nó lúc còn đi học. Tên Vượng hỏi:
“Anh nói gì mà lâu thế?”
“Báo cáo cán bộ. Vợ chồng hằng năm trời gặp nhau chỉ 10 phút đồng hồ, vợ tôi mới kể cho tôi nghe về sức khỏe và cuộc sống của hai bên gia đình chúng tôi là hết giờ rồi, còn nói gì nữa đâu cán bộ”.
Tôi trở lại Đội, cùng anh Tây đứng nhìn vợ con tôi vẫn đứng ở hàng hiên nhà thăm nuôi. Tôi gởi cái túi ni-lông cho anh Nguyện, để chốc nữa cho vào cái thùng (nấu nước) mang vào trại. Anh Tây nói:
“Con gái nhà ngươi phúc hậu lắm”.
Sau giờ buồng giam bị khóa cửa, cũng có nghĩa là “giờ tự do” bắt đầu. Tôi thực hiện ý định cất giấu hai chiếc nhẫn khi vợ tôi đưa tôi ở nhà thăm nuôi để mang vào trại, vì hai chiếc này trong ý định táo bạo của một số anh em chúng tôi sẽ chung góp để mua máy thu thanh đưa vào trại theo dõi tin tức trên làn sóng đài phát thanh BBC Luân Đôn. Dạo này tụi nó cho chúng tôi mặc quần tây áo sơ-mi mỗi khi được phép thăm nuôi, vì mặc đồ trại trông thảm hại lắm. Thế là tôi moi cái túi quần bên trái ra, tháo một đoạn chỉ tận cùng phía dưới túi và sát cạnh trước, đủ cho chiếc nhẫn lọt xuống cái túi nhỏ xíu nối dài đến gần đầu gối. Tôi dự trù 2 chiếc nhẫn sẽ xuống nằm yên ở đó. Vì thông thường đám trực trại khi khám xét người, bọn chúng vuốt hai bên túi quần, nhất là túi quần bên phải xuống đến hết cái túi thôi, vì vậy mà tôi hi vọng 2 chiếc nhẫn sẽ qua được những đôi mắt cú vọ với những bàn tay nhám nhúa của đám trực trại. Anh Hậu ngồi bên trông thấy là hiểu ngay:
“Này, cậu nghiên cứu bao giờ mà có sáng kiến hay thế?”
“Qua nhiều lần nhập trại, mình quan sát cách khám xét của tụi nó, nhất là xét mấy bạn thăm nuôi vào trại. Trong đám trực trại thì thằng Thịnh khuỳnh là hắc ám nhất. Nó mằn từ lưng quần xuống tận .. “dế” nữa nghe. Hai hôm trước, trong khi chờ xuất trại không biết Hậu có thấy không, thằng Thịnh nó mằn cái chỗ.. í .. của một anh nào đó ra gặp người nhà, ảnh nhột quá nên nhảy dựng lên làm anh em ngồi chờ xuất trại cười quá trời”.
“Anh hổng hay nó mằn ra cái thư à?”
“Không. Mà ai vậy?”
“Anh nào đó ở buồng (giam) 15. Nó mằn ra cái thư giấu trong quần lót, nó đuổi vô luôn. Sau đó phải làm bản kiểm điểm nó mới cho ra gặp người nhà”.
“Mình chuẩn bị bửu bối này, nhưng mình sẽ tùy cơ ứng biến lúc mình ra cửa để vào trại, có thể trong tích tắc mình chuyền sang các bạn mang vào trại giùm”.
“Theo tôi thì cách đó là ổn nhất, chứ bạn mà lọt vô tay thằng Thịnh khuỳnh nó hành bạn là cái chắc”.
“Sáng mai, lúc nào Hậu cũng liếc mắt nhìn vào hàng hiên nhà thăm nuôi, sẳn sàng để khi mình ra cửa là tùy cơ ứng biến à nghe”.
“Lúc Đội làm ở nhà nấm, con Kim thường hay rù rì với bạn, hi vọng nó không hại bạn đâu”.
“Cái con khỉ. Nó là “cộng sản cái” chớ có phải nó là con gái bình thường đâu. Đã là cộng sản thì “đực cái” cũng vậy thôi. Chúng nó là chúng nó, chúng mình là chúng mình, đừng nói lôi thôi, Hậu phải cứu bồ đó”.
Sáng hôm nay nhà thăm nuôi đông người lắm. Vợ chồng tôi ngồi đối diện nhau, hai con chúng tôi ngồi cạnh tôi, con gái bên phải và con trai bên trái tôi. Con Kim ngồi đầu bàn, nó nói khẻ:
“Anh cho con gái anh sang ngồi với chị, chứ các ông trong trại ra trông thấy là căng lắm”.
Ngay khi vào chuyện, vợ tôi vờ khòm xuống gầm bàn lượm cái khăn mà vợ tôi cố tình làm rơi xuống, rồi nhanh chóng chuyền vào tay tôi hai chiếc nhẫn bọc trong miếng giấy mỏng. Tôi đứng dậy sửa lại thế ngồi của đứa con trai, nhưng thật ra là tôi cho hai chiếc nhẫn vào túi quần bên trái, và nó xuống thẳng cái đáy túi nhỏ như tôi muốn. Xong, ngồi lại một cách tự nhiên:
“Em à! Anh muốn Em đưa các con còn lại cùng vượt biển với Em. Em nghĩ sao?”
“Còn Anh?”
“Không sao đâu Em. Anh đã sống được 5 năm qua mà lại là 5 năm đầu rất gian khổ, nên Anh có đủ nghị lực chịu đựng rồi. Nghị lực vững vàng, với lại sức khỏe của Anh tốt. Mỗi sáng Anh đều tập thể dục đều đặn nữa Em”.
“Họ cho mấy anh ra ngoài tập hả?”
“Nó nhốt tụi anh kỹ lắm, làm gì có chuyện đó. Anh tập chạy và những động tác tay chân thì bên ngoài mùng, nhưng tập những động tác khác thì trong thế ngồi thiền ngay trong mùng”.
“Em với các con đi hết, đâu có ai lo cho Anh. Không được đâu”. Nói đến đó là vợ tôi rơm rớm nước mắt, rồi tiếp:
“Lúc đó Em còn khổ hơn ở đây nữa. Không được đâu Anh”.
“Em hãy tập trung lo cho các con có cơ hội xây dựng tương lai, chớ để các con sống mà không có tương lai thì mình làm sao sống được Em”.
“Để Em tính lại rồi cho Anh biết”.
“Em nhớ là chúng mình đồng ý với nhau, tương lai các con là hạnh phúc của chúng mình mà Em”.
“Em sẽ viết thư ra Anh sau”.
Chưa nói được bao nhiêu thì hết giờ. Tiếng con Kim:
“Các anh nhanh lên, hết giờ rồi, để đợt hai còn ra cho kịp”.
Tôi vói kéo tay con gái tôi sang đứng cạnh tôi. Tôi vuốt mái tóc mượt mà của con gái tôi đến mấy lần:
“Con gái cao bằng Ba rồi. Cuối tháng 5 này con gái của Ba tròn 19 tuổi hén. Chúc mừng con gái nghe”.
Tôi nắm chặt tay vợ tôi và con gái tôi, từng bước ra cửa. Tôi vòng tay ôm chặt vợ con tôi trong giây lát, rồi bước nhanh ra chỗ các bạn tôi đang ngồi giải lao, cho tay vào túi quần bên trái giật nhẹ cái túi nhỏ có hai chiếc nhẫn bên trong, buông thỏng cái túi theo ống quần rớt xuống đất cạnh anh Nguyện. Anh Nguyện lượm chuyền liên tiếp sang hai bạn khác, trong khi tôi bước đi ngay vì có vẻ như con Kim trông thấy. Phải chuyền như vậy đề phòng nếu con Kim đến xét chẳng thấy gì hết.
Tôi và các bạn đẩy xe cải tiến theo con Kim vào trại. Đến đầu dốc xuống, nó đi sát tôi:
“Anh đứng chỗ Đội anh làm gì vậy?”
“Có gì đâu cán bộ. Các bạn tôi trêu tôi nên tôi đáp lễ thôi”.
“Anh có mang tiền hay vàng vào trại phải cẩn thận. Tôi biết là hôm nay ông Thịnh kiểm tra anh. Tôi nghe ông Thịnh nói nếu bắt được anh là anh bị phạt cấm thăm nuôi đó”.
“Không. Tôi chẳng mang gì mà nội qui cấm đâu. Cám ơn cán bộ”.
Đúng là Thịnh “khuỳnh” đang nhắm vào tôi. Trong khi “Thịnh khuỳnh” lục soát toàn bộ quà cáp của tôi, thằng “Thắng chuột” phụ trách an ninh (trước đây phụ trách nhà thăm nuôi) hỏi tôi với cái giọng khá gay gắt kèm theo nụ cười đểu của hắn:
“Hôm qua anh gặp vợ anh rồi, phải không?”
“Không cán bộ. Chúng tôi chỉ đứng nhìn nhau thôi”.
“Tôi nói là anh có gặp”.
“Đó là cán bộ nói thôi”.
“Anh có muốn gặp vợ anh thêm không?”
“Báo cáo cán bộ, đâu có người tù nào trả lời “không” với câu hỏi của cán bộ”.
“Được. Anh sẽ không gặp thêm”.
Tôi xuống giọng một chút nhưng cũng có phần thách thức:
“Vâng. Tùy cán bộ”.
Hắn chắp tay sau mông theo tôi vào tận buồng giam, xem tôi sắp xếp thức ăn với đồ dùng, mặc dù chính hắn với Thịnh khuỳnh lục soát trước nhà trực trại rồi. Món nào nó cũng cầm lên ngắm nghía rồi mằn tới mằn lui, miệng hỏi đủ thứ:
“Gói này là gói gì?”
“Lạp xưởng đó cán bộ”.
“Bao nhiêu tiền vậy?”
“Tôi không biết”.
“Vợ anh không nói với anh à?”
“Nói để làm gì cán bộ”.
“Tiền đâu vợ anh mua?”
“Tiền của chúng tôi”.
“Anh ăn bao lâu thì hết?”
“Có thể ngày mai, ngày mốt, tùy theo tôi mời các bạn tôi cùng ăn”.
“Anh tốt vậy à?”
“Tôi chẳng tốt lành gì đâu. Anh em chúng tôi thường mời lẫn nhau mỗi khi có quà từ gia đình. Bạn tôi mời tôi, bây giờ tôi mời bạn tôi cùng ăn”.
Cứ thế mà nó hỏi đến phát tức, nhưng nhất định tôi không tức. Vì cái kiểu nó chọc cho mình tức để rồi sơ ý trong lời nói là chúng nó hoạnh hẹ, thậm chí mắng chửi nữa.
Sáng hôm sau, đã quá giờ lao động mà cả trại im ỉm, tất cả các buồng giam vẫn khóa chặt. Theo kinh nghiệm những lần tương tự như vậy trước đây, nếu không có người trốn trại, thì tất cả tù chúng tôi cũng bị lục soát mọi thứ để chúng nó kiếm tiền hay những thứ mà chúng nó cho là vi phạm nội qui để tịch thu, hoặc luân chuyển tù hay luân chuyển buồng giam, vì chúng sợ lâu ngày chúng tôi móc nối nhau rồi chống đối chúng nó.
Trong lúc chúng tôi nhốn nháo vì không biết nguyên nhân, thằng “Chi mụn”, quản giáo buồng giam chúng tôi, mở cửa gọi tôi ra “cái chuồng cu” mà thường ngày đám trực trại đứng trong đó kiểm soát xuất trại lao động. Hắn đứng trong, tôi đứng ngoài:
“Chị đến phải không?”
“Vâng. Vợ con tôi đến thăm tôi hôm qua, cán bộ”.
“Anh có muốn thăm nữa không?”
“Có chớ cán bộ”.
“Anh làm bản kiểm điểm rồi Ban Giám Thị xét sau”.
“Tôi không vi phạm nội qui, tại sao tôi phải làm kiểm điểm?”
“Anh đừng vờ vịt nữa”.
“Tôi hoàn toàn không hiểu gì cả”.
“Anh biết anh D. bị mấy anh đánh không?”
“Có. Tôi có biết, vì anh ấy bị đánh ngay trong khuôn viên buồng giam chúng tôi, nhưng sao lại dính dáng đến tôi?”
Hắn đứng im, nhìn ra cổng. Một lúc, hắn quay lại và gắt giọng:
“Anh vào buồng”.
Tôi ráng hỏi thêm:
“Liệu tôi có được ra gặp vợ con tôi lần nữa không, cán bộ?”
Hắn nạt tôi: “Anh vào buồng ngay”.
Chỉ mấy phút sau, Thắng chuột vào buồng giam hỏi tôi:
“Anh đã làm kiểm điểm chưa?”
“Báo cáo cán bộ, tôi không sai phạm gì, tại sao tôi phải làm kiểm điểm?”
“Cán bộ Chi có nói gì với anh chưa?”
“Có. Nhưng tôi hỏi tại sao thì cán bộ Chi không nói mà lại bỏ đi nên tôi không hiểu gì hết”.
Chẳng biết sao bỗng dưng hắn xuống giọng:
“Ít ra anh cũng phải làm đơn Ban Giám Thị mới xét chứ”.
“Vâng, tôi làm ngay. Thật ra thì thủ tục này tôi chưa từng biết”.
Đến quá trưa hôm ấy, con Kim theo thằng Lực trực trại vào buồng giam, dắt tôi ra nhà thăm nuôi:
“Anh được gặp vợ con anh trong một tiếng đồng hồ. Anh biết tại sao anh bị mấy ông ấy phạt không?”
“Không. Cán bộ có biết tại sao không?”
“Có phải anh chủ mưu đánh anh D. không?”
“Không. Hoàn toàn không. Lúc anh D. bị đánh thì tôi đang trong buồng giam, nghe ồn ào tôi chạy ra mới biết có người đánh anh D. Thế thôi”.
“Anh bị qui trách chủ mưu đánh anh D. vì có lần anh trông thấy anh D. báo cáo hành động của anh với cán bộ an ninh. Thôi, bỏ qua chuyện đó”.
“Cán bộ có biết tại sao hôm nay không mở cửa xuất trại lao động không”.
“Có hai anh trốn trại đó”.
Ra đến nhà thăm nuôi, cô ta nói:
“ Anh vô gặp vợ con anh. Nhanh lên”.
Vợ tôi nói ngay:
“Chiều tối hôm qua, có hai thằng Công An nó bảo Em dặn dò Anh phải bỏ cái thói ngang tàng bướng bỉnh mà lo học tập tốt để có ngày về. Em ức quá, Em nói mấy anh không cho chồng tôi ra làm sao tôi nói cho chồng tôi biết. Tôi biết tính chồng tôi không phải là người ngang tàng với bất cứ ai. Em nói càng lúc càng lớn tiếng, chẳng ngờ hai đứa nó bỏ đi hà Anh”.
“Tụi nó ghìm Anh, cho là Anh tổ chức đánh anh D. vì con nhỏ Công An này (tôi len lén chỉ con Kim) nói với Anh, tụi an ninh với tụi trực buồng giam quả quyết là Anh, vì có lần Anh thấy anh D. viết báo cáo tố cáo Anh dính líu đến những vụ lộn xộn trong trại. Sáng nay hai thằng Công An luân phiên hạch hỏi Anh đủ điều. Có thể là hai thằng nói chuyện với Em chiều qua cũng là hai thằng nạt nộ Anh sáng nay chăng”.
“Anh nói anh D. bị đánh là gì vậy?”
“Chuyện dài dòng lắm, bỏ qua đi Em. Mình chỉ còn hơn nửa tiếng đồng hồ để nói chuyện của mình”.
Vợ tôi tiếp tục kể chuyện về Ba Má chúng tôi bị chúng nó cướp nhà, cướp vườn, nhiều bạn bè trong cư xá cũng trong tình trạng như vậy. Vợ tôi hứa sẽ cố gắng đưa hai con còn lại vượt biển, riêng vợ tôi có đi hay không còn phải suy nghĩ lại. Thoáng một cái, vừa hơn một tiếng đồng hồ:
“Anh Hoa, thu xếp vào trại”.
Thật ra con bé Công An này nó không chanh chua đanh đá như mấy con bé trước đây phụ trách hướng dẫn tù thăm gặp gia đình, nhưng nó rất sợ đám Công An trực trại với đám an ninh nên nó canh chừng giờ giấc kỷ lắm. Tôi nắm tay vợ tôi thật chặt, hôn mái tóc con gái tôi và hôn thằng trai út lia lịa. Tâm hồn tôi rất thanh thản, vợ tôi quản trị gia đình vững vàng, nhất là có kinh nghiệm đối phó với đám Công An Phường, Công An Quận, trong khi hai con trai lớn đã đến trại tạm trú Thái Lan, con trai thứ ba đang sẳn sàng vượt biển, và hai con còn lại sẽ đi tiếp.
Trước khi vào đến nhà trực trại là một sân trống trước khu nhà dành cho Công An “cai tù” ở, khi đi ngang tôi thấy hai anh trốn trại bị bắt lại đang nằm co quắp vì tay chân bị trói, trong khi con chó đi vòng vòng gầm gừ như sẳn sàng cắn xé hai anh! Nhìn kỷ, áo quần hai anh tả tơi, nhưng không rõ là hai anh đã bị chó cắn hay tả tơi lúc trốn trại? Bọn Công An cai tù chuyên nghiệp này dã man lắm, chúng nó cột hai anh rồi cho chó canh giữ trong khi một nhóm chúng nó ngồi trong nhà uống nước nhìn ra cười toe toét! Đến tối tôi mới biết hai anh ấy bỏ trốn vào chiều qua khi từ dưới đồng leo dốc về trại. Không biết vì sao mà cả đêm hai anh chưa băng qua được cánh đồng chiêm nên ẩn trú trong núi đá ngay bên ngoài trại, để rồi chúng nó dùng chó lùng bắt.
Ngay tối hôm đó, anh Lê Minh Chúc, tù chính trị duy nhất phụ trách phiên dịch các sách Anh ngữ do tụi cộng sản ở Bộ Quốc Phòng đưa, nên anh được thăm gặp vợ anh lâu hơn mọi người khác. Sau khi từ nhà thăm nuôi trở về buồng giam, anh nói với tôi:
“Khi cán bộ Chi dẫn tôi ra nhà thăm nuôi, nó nói với tôi là Ban Giám Thị quả quyết anh tổ chức đánh anh D nhưng vì chưa có bằng cớ nên trại chưa kỷ luật anh. Giữa anh em, tôi nói để anh đề phòng”.
“Cám ơn anh. Hồi sáng này, thằng Thắng chuột với thằng Chi mụn quay tôi quá trời, cũng cái vụ ấy”.
Chuyển tiền vào trại.
(... xem tiếp phần sau)