ADIEU à SAIGON
Tác giả: Jean Lartéguy
Chuyển ngữ: Dương hiếu Nghĩa

===========

LỜI GIỚI THIỆU TÁC GIẢ



Phóng viên có tầm vóc, nhà báo, tác giả kịch nghệ, tiểu thuyết... v.v.. Jean Lartéguy thông báo ngay là trong cuốn sách nầy, được thảo trong một phòng ngủ ở khách sạn Continental tại Sài Gòn, ông đã mô tả những giờ cuối cùng của sự đầu hàng của Miền Nam Việt Nam và một cuốn sách kế tiếp së nói về cơn hấp hối của thành phố Sài Gòn .

Trên thật tế, mặc dầu là anh đã nói như vậy nhưng thật sự đây là cơn hấp hối của thủ đô Sài Gòn mà Jean Lartéguy mô tả với tài năng thường ngày của mình. Từ khi Bắc Việt bắt đầu tấn công Miền Nam Việt Nam , quân lực Miền Nam với 270.000 người đã chống với 230.000 quân Bắc Việt và quân Việt Cộng (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) . Quân số ngang ngửa nhau,và Miền Nam Việt Nam cũng có thể dành được chiến thắng, nếu ở Sài Gòn có một Bộ Tham Mưu có đầy đủ chiến lược. Tác giả biết rõ về các giai đoạn của tấn thảm kịch ở Đông Dương đã lên án một cách không vừa lòng những người có trách nhiệm của Miền Nam . Để đối lại với sự tham nhũng của các tướng lãnh và sự thiếu ý thức của binh sĩ Miền Nam Việt Nam , phía Bắc Việt có sự dũng cảm của các cấp cán bộ và sự tận dụng các binh sĩ. Không có gì lạ hết, vì thế mà chỉ trong hai tháng, gần như không có đánh nhau, quân lực Miền Nam Việt Nam bị tan rã. Như thế, bây giờ Sài Gòn được gọi là thành phố Hồ chí Minh: một giai đoạn mà nhiều người ở Âu Châu đã coi. như một chiến thắng. Trong quyển sách nầy Jean Lartéguy cũng cho chúng ta thấy tại sao Sài Gòn không bị đốt cháy.

_________________________________



LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ

Bức màn tre vừa được thả xuống Sài Gòn và xuống 25 năm cuộc đời của tôi.

Tôi đặt chân lên Sài Gòn lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã qua Việt Nam trên con tàu Marseillaise, một chiếc tàu sơn toàn trắng, trên đó các sĩ quan trẻ đều quyết tâm đi tìm cái chết . Chúng tôi đã phung phí lương của mình trong các quán rượu thượng hạng để làm cho các cô gái lai xinh đẹp để ý đến mình, các bà vợ của các nhà trồng tỉa hay công chức đang đi trở về với chồng trong cái thiên đường ngoại quốc nầy.

Tôi bị đuổi đi cũng từ Sài Gòn ngày 28 tháng 5 năm 1975. Một sự liên lạc thật là sôi động ! Giặc giáo phái suýt làm tôi mất mạng, chuyện sát hại ông Diệm, chuyện đổ bộ ồ ạt của quân lính Mỹ, các cuộc đảo chánh leo thang, tướng Khánh với bộ râu dưới cằm và một cái đầu rỗng tuếch, Nguyễn cao Kỳ với quân phục phi công sáng chói, ông Thiệu khó mà thấy được mặt và ông Minh "lớn" lúc nào cũng im lặng bởi vì ông không có gì để mà nói, nhưng chơi quần vợt rất sành và trồng nhiều giống lan.

Người ta "vứt" tôi ra khỏi thành phố nầy, một thành phố đã không còn mang tên là Sài Gòn nữa, mà là thành phố Hồ chí Minh, một thành phố của "bác Hồ", một thành phố mà càng ngày càng trở nên xa lạ với tôi quá ; tôi còn gì để làm ở đó nữa.



Còn thành phố kia, thành phố mà tôi thương mến, nó đã chết rồi khi các chiến xa Liên Xô với các xa đội Bắc Việt đã ủi sập hàng rào của Dinh Độc Lập mà không cần đòi hỏi người ta cũng së mở ra cho họ vào...

Ba người dân của sao Hỏa từ Hà Nội vào, nhỏ con, mặc quân phục màu xanh lá cây, đội nón cối, đeo súng lục lủng lẳng bên hông, đã tống đạt dưới hình thức một bản án, lệnh trục xuất tôi "vì những bài viết của tôi". Họ không biết là tôi đã quyết định lên phi cơ ngay ngày hôm sau, và họ cũng không biết là tôi cũng không vui vẻ gì để kéo dài thêm thì giờ ở bên cạnh một thành phố đã chết.

Đó không phải là một cuốn sách .Nó chỉ là một bản thảo. bản thảo đó , có thể rồi tôi cũng së viết, một ngày nào đó thôi. Chỉ là chuyện giã biệt Sài Gòn của tôi. Và cũng là lịch sử của 5 ngày hấp hối của Sài Gòn và câu chuyện kể về cái chết của thành phố nầy. Nhưng đó không có gì khác hơn là những ghi vội thảo nhanh trên giấy trong phòng ngủ của tôi ở khách sạn Continental mà thôi!



Jean Lartéguy


CHƯƠNG MỘT



25 THÁNG TƯ 1975



Tỷ giá của đồng bạc Việt Nam: 3500 đồng ăn 1 mỹ kim



Cuối cùng rồi tôi cũng đến được Sài Gòn . Không có dễ gì đến được Sài Gòn và đến phút cuối cùng tôi vẫn tưởng rầng tôi sẽ bị duổi ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất .

Vài ngày trước đó, tôi đã xin một chiếu khán ở tòa Lãnh sự của Miền Nam Việt Nam . Tôi và anh Raoul Coutard (1) phải thực hiện một cuốn phim về sự thất thủ của Sài Gòn . Tôi có một bức thơ giới thiệu rất tốt của đài truyền hình Pháp và tôi đến trình diện ở tòa Lãnh Sự với cái tên thật của tôi, chớ không phải dưới cái tên L'Artéguy, một cái tên giả mà tôi đã tự đặt ra để xuất bản một vài bài báo mà không phải bị bắt buộc phải xin một "giấy phép" với cấp trên của tôi. Lúc bấy giờ tôi còn là một sĩ quan trong Quân đội .

Anh Coutard thì được giấy chiếu khán, còn tôi thì bị từ chối.

Đúng là tôi bị đập một lần nữa. Cả hai tên của tôi đều nằm trong sổ bìa đen ! Một hồ sơ thật đầy đủ làm tên tôi nổi bật lên. tôi bị cấm thời ông Diệm cũng như thời ông Khánh, và thời ông Thiệu lúc đầu. Nhưng, lợi dụng sự cạnh tranh của những người nầy và người khác, và những sự thay đổi chánh quyền , tôi thường len lỏi được dưới mọi thời...

Nhưng lần nầy thì vô phương. ông Thiệu có một đội ngũ cảnh sát khá giỏi và không tha thứ tôi đã viết về chế độ của ông ta , về cá nhân ông ta với một vài sự thật không mấy vui .

Tôi xin kể :

" Ông Thiệu là một giáo dân, người tế nhị và hay suy nghĩ, lại có tánh quá đa nghi đến độ mà ông không tin một ai hết, theo lời người ta kể lại, kể cả hình bóng của ông khi ông thấy nó trong gương. Nếu cứ tiếp tục như thế mãi ắt có ngày ông kêu người ta bắt giữ chính cái hình bóng của ông !..."

" Nước Việt Nam cứ mỗi ngày mỗi giống nước Tàu thời Quốc Dân Đảng trước thời Mao trạch Đông. Sài Gòn là Thượng Hải nhưng thành công hơn... Cảnh sát trưởng Gia Định đã mua cái ghế đó với giá mười triệu đồng, quận trưởng Tân Bình với giá hai chục triệu đồng. Còn quận 5 ở Chợ Lớn thì chỗ đó lúc nào cũng đấu giá. Khi tôi rời khỏi Việt Nam thì là hai mươi lăm triệu."

Tùy viên báo chí của tòa đại sứ không chịu tiếp tôi, ông nầy tên là Nghĩa, có họ hàng với một ông cũng tên Nghĩa nào đó , là một người có quyền thế lớn trong chính phủ của ông Thiệu

Ông dùng điện thoại trong tòa lãnh sự để nhắc tôi :

- "Tôi rất tiếc, nhưng ông có tên trong sổ bìa đen. Tôi phải gởi một điện tín về Sài Gòn để xin chỉ thị của Chánh Phủ ."

Tôi cự anh ta:

- "Chánh Phủ nào ? Ông Thiệu đã xuống rồi và ông tướng Minh sẽ thay thế ông Thiệu, Và chắc ông biết ông Dương văn Minh quá nhiều chớ ? ông ta là một trong những người bạn của tôi đó. Vậy ai sẽ trả lời điện tín của anh ? Không có còn Chánh Phủ nào đâu, Sài Gòn sẽ mất trong vài ngày nữa thôi, tôi phải có mặt ở đó để chứng kiến xem cái gì sẽ xảy ra, bên cạnh của anh Coutard.

Tôi thương đất nước nầy và thành phố Sài Gòn , và tôi hằng ước mong Miền Nam Việt Nam phải chiến thắng, do đó không có gì ngăn cản tôi nhìn thấy được vì chế độ đã bị ung thối nên mới dẫn đến sự mất nước . "

Ông tùy viên Nghĩa hơi bối rối, và xin lỗi tôi là đã không giúp gì hơn được cho tôi. Tôi phải chờ phép của một Chánh Phủ đã không còn trên thực tế, và của một ông Tổng trưởng đã chuồn đi rồi.

Ông Thiệu thì đang sửa soạn hành lý, đóng thùng của cải ... còn ông già Hương dũng cảm người thay thế ông Thiệu thì lại điếc.. Người ta thấy ông trả lời điện thoại một cách khó khăn. Và ông lại quá cận thị nữa, người ta thấy ông đọc một công điện cũng khó khăn nữa. Tôi nhớ lại ông Hương như là một người dũng cảm nhưng hoàn toàn không có hữu hiệu. Đúng là một chiếc độc bình..

Ngày mai là ngày có chuyến bay, mà có thể đây là chuyến bay cuối cùng đáp xuống được phi trường Tân Sơn Nhất Do vậy tôi phải liều.Tôi lấy vé đi Hong Kong, vì biết rằng chuyến bay của hãng Air France không đi xa hơn Sài Gòn , ở đó phi cơ sẽ rước đầy ấp các người tỵ nạn Pháp, Việt và Mỹ. Tôi sẽ xin một chiếu khán quá cảnh tại chỗ, và trong cảnh hỗn loạn có anh cảnh sát nào lanh mắt nhìn ra được tôi? Tất cả những người Pháp đều có quyền có một chiếu khán quá cảnh 7 ngày, trừ phi người đó có tên trong sổ bìa đen.

Ngày 24 tháng 4, chuyến bay của chúng tôi, chiếc phản lực Jumbo gần như trống.. Trong số hành khách ít ỏi nầy, có ông Paul d'Ornano, một người dân Corse, thượng nghị sĩ của cộng đồng người Pháp ở Viễn Đông, ông ta mang theo cho các cử tri của ông một công điện của Tổng Thống Pháp để yêu cầu họ hãy ở lại tại chỗ và đồng thời cũng đem theo 4 người nữ y tá của hãng Hàng Không Air France đang trong thời kỳ nghỉ phép, để họ đến săn sóc giùm những người tỵ nạn. Những người nữ tốt bụng. Có một không khí "đời tàn" trong chiếc phi cơ rộng lớn nầy. Chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ , những người không biết nhau nhưng chúng tôi cảm thấy thật gần nhau . Chúng tôi muốn ôm nhau từng người một. Riêng tôi, lúc nào cũng thấy lo ngại, tự nhủ thầm : Liệu tôi có thể qua được hay lại bị đuổi đi như một người không lương thiện? Nếu họ giữ tôi lại phi trường, thì tôi sẽ cố tìm cách để chuồn đi... chỉ cần bỏ ra một số mỹ kim thôi.

Đến Sài Gòn rồi. Tim tôi càng đập mạnh. Cũng thật may mắn, khi tôi bước xuống khỏi phi cơ, tôi gập ngay ông Lãnh sự Pháp, ông M.de Beauvais, một người mà tôi đã quen ở Lào. Ông ta đến đón ông Thượng Nghị Sĩ Paul d'Ormano và ông Morgan một anh Pháp lai rất tế nhị, quen thuộc với tất cả các đường dây và với tất cả các mưu mô thủ đoạn. Morgan lấy tờ thông hành của tôi và lo mọi thủ tục cho tôi. Tôi thấy ông ta nói chuyện với anh cảnh sát, dĩ nhiên là không biết nói chuyện gì , trong khi anh cảnh sát đóng mộc vào tờ thông hành của tôi như một cái máy . Thế là tôi đã có một chiếu khán quá cảnh. Anh ta không nhìn tý nào vào giấy tờ của anh ta. Cái anh chàng Morgan nầy phải là một người chơi xì phé có hạng lắm, hay là một nhà ảo thuật cừ khôi. đang chơi trò ảo thuật..



Bây giờ là tôi đang ở Sài Gòn . Một cảm giác tuyệt vời. Thành phố mà tôi gặp lại không có một chút gì thay đổi, từ lúc tôi còn ở đây lần cuối cùng vào năm 1971. Cũng một dòng vô trật tự của xe gắn máy và của xe 4 ngựa cũ kỹ như những cái xoong còn chạy bằng dầu, cũng những mùi xăng và mùi hôi thúi như thuở nào. Những chiếc xe Jeep và những quân xa chở nhiều dân tỵ nạn hơn là binh sĩ và những vật dụng hỗn tạp không một chút liên quan nào đến cuộc chiến. Cảnh sát thì dửng dưng đối với sự lưu thông hỗn loạn nầy, vốn là hình ảnh của đất nước nầy. Mỗi người cứ làm theo ý của mình.

Theo báo chí của Pháp và của Hoa Kỳ thì tình hình bi thảm lắm. Người ta bíết là Bắc Việt chỉ còn cách Sài Gòn có 25 cây số mà thôi. Ở Xuân Lộc đang có một cuộc chiến rất là gay go , người ta phải xử dụng đến loại bom hút dưỡng khí CBU gây tử thương hằng ngàn người mà không sao cản nổi sức tiến của quân cộng sản .Tất cả đều nát hết. Các thành phố ở về phía Bắc đã mất rồi :Đà Nẵng thì bị thất thủ sau Huế, còn các tỉnh miền Duyên Hải về phía Bắc của Nam Việt thì bị thất thủ tỉnh nầy đến tỉnh khác, như sung rụng vậy. Tôi đến một thành phố yên tĩnh vốn đang tiếp tục chăm lo việc buôn bán như thường lệ, một thành phố có vẻ thật sự bất cần, dửng dưng trước mọi sự..... Cả một sự ngơ ngác ! Các anh cảnh sát hình như chỉ dễ dãi hơn với các anh tài xế tắc xi và không thấy họ lấy thuế giữa phi trường và thành phố nữa để có thêm tý tiền vào lương của họ.

Tôi thấy khách sạn Continental không có gì thay đổi, và ông Lợi, ông già giám đốc, vẫn tươi cười và vẫn mập như ông Phật Di Lặc. Ông siết mạnh tay tôi thật nồng ấm.

Các tiệm buôn cũng như các quán nhậu có gái ở đường Tự Do vẫn mở cửa. Cuộc sống vẫn tiếp tục. Các anh bồi phòng thì cười ngất khi thấy mặt tôi. Tôi không biết tại sao, tôi thường tạo niềm vui cho các anh bồi phòng của khách sạn Continental nầy, bởi vì thường thì tình trạng của tôi rất là bất bình thường, người ta hay tìm tôi để trục xuất tôi, và sau đó lại dẫn tôi trở lại hay là người ta quên tôi luôn không chừng. Tôi là một trong những trò vui của khách sạn.Các anh bồi phòng nầy được coi như một nguồn tin tức. Ngồi xổm ở cuối hành lang, theo dõi được tất cả, họ rất là lanh lợi và giúp đỡ mọi người . Coi như họ là thành viên của gia đình tôi ở Sài Gòn vậy.

Tôi chiếm một phòng rộng lớn mà tôi đã từng ở lúc trước, có quạt máy ở trên trần, có vòi nước gương sen trong phòng tắm, nhưng cũng co một vài con gián.. Ngày thứ hai thì tôi lo hợp pháp hóa tình trạng của tôi và lo đổi chiếu khán quá cảnh của tôi thành chiếu khán cư trú. Tôi không nhờ tòa đại sứ hay tòa lãnh sự Pháp, mà tôi trả tiền cho anh gát cổng để anh đi phân phối vài ngàn đồng cho những tay cảnh sát. Tất cả mọi người đều có phần của mình.

Ở Việt Nam, người ta phải biết là nên tránh giao dịch với những công chức quan trọng mà phải giao cho những người nho nhỏ ở bên cạnh họ vì những người nầy biết cách dàn xếp mọi việc mà không một chút ồn ào.

Tình hình các biến cố quá dồn dập đến độ tôi không còn kịp xin chiếu khán nữa.

Tôi đi một vòng lần đầu tiên ra thành phố. Coi như tôi đi đổi gió. Tôi bắt đầu hỏi về tỷ giá của đồng bạc, một hàn thử biểu không sai lầm được ở Sài Gòn nầy.. Tỷ giá nầy chẳng những được lối chơi ngông của giới nhà báo chúng tôi ấn định bằng cách loan tin tức thật hay giả, mà thường thì do người Tàu và người Mã lai, vốn đứng đắn biết cách đánh giá đúng tình hình. Tỷ giá bây giờ là 3.500 đồng ăn một mỹ kim, nhưng phải lên đến 4000 đồng cho giấy 100 mỹ kim, trong lúc giá chánh thức chỉ có 755 đồng cho một mỹ kim. Tôi kết luận ngay là có nhiều người theo sát thời cuộc đã quá lo ngại về tình hình nên đã sửa soạn cuốn gói.

Tôi thử điện thoại đến một số bạn bè, một số nhân vật trong hai chính phủ cũ và mới, nghị sĩ hay tướng lãnh, chủ báo hay một vài nhà báo thường. Tôi chỉ nghe được lời của người giúp việc: " ông đi khỏi rồi" hoặc "ông, .. bà... không có ở nhà", hoặc "có thể ông tôi sẽ về lại ngày mai". Đôi khi tôi còn nghe tiếng cười hô hố trong điện thoại "Ông... đã đi lâu rồi, đi nghỉ hè ..Hi Hi.."

Tôi lần theo dấu của vài người bạn người Trung Hoa. Cũng y như vậy thôi. Không có người nào ở đầu dây. Một số người Việt Nam và Trung Hoa đã chạy đi rồi, trong số những người có chút địa vị quan trọng hay giàu có . Chỉ còn lại những con cá nhỏ hay là những kẻ vô tư lự - những người lê dương không biết sợ là gì - hay những người chưa tìm được dường dây có thể đưa họ rời khỏi thành phố vốn không biết thất thủ lúc nào... Tôi trở về phòng và các kỷ niệm cũ tuần tự ùn ùn kéo đến với tôi...



*

* *



Cách đây 25 năm, tôi đi dạo trên đường Tự Do. Người ta ngồi uống rượu cỏ nhác-sô đa hay Pernod trên sân thượng, lúc bấy giờ chưa có huýt ky. Sài Gòn không có vẻ gì là một thủ đô cả, nó là một loại thành phố pha trộn giữa một thành phố của Miền Nam và một thành phố thuộc địa với những mái hiên lớn, với những cửa sổ mở rộng và các anh bồi bàn mặc toàn trắng. Có một không khí vừa hấp dẫn vừa khó chịu đối với những người mới tới đây. Trong lúc các binh sĩ đang chết ở ngoài Miền Bắc thì người dân ở đây lo làm tiền, và nhóm dân Corse thì lo buôn bán ngoại tệ, lo mở sòng bạc và nhà thổ, đi lễ nhà thờ, làm việc từ thiện và đôi khi mướn bọn giết người để thanh toán nhau... Tôi được mời lên chơi ở một đồn điền cao su ở Lộc Ninh, thuộc nhóm công ty Đất Đỏ. Đời sống của các chủ đồn điền cao su ở đây thật như "ông hoàng", người Anh đã nói như vậy.

Người ta bắt đầu cạo mủ cao su từ sáng sớm tinh sương. 11 giờ trưa thì hồ bơi được dành cho phu nhân của các phụ tá và giám đốc đồn điền. Rồi thì nghỉ trưa. Chiều thì vào câu lạc bộ, mặc toàn trắng và áo dài."Muốn tới đâu thì tới" ! Với sự nguy hiểm đang rình rập. Thật là rất hấp dẫn, khiêu vũ bừa bãi. Nhưng bừa bãi ở đây đôi khi cũng là cái chết. Vùng nầy coi như đã thối từ lâu rồi và có những toán Việt Minh từ năm 1950 đã bắt đầu kiểm soát vùng đồn điền cao su mà ở đây chuyện cũng dễ dàng quá vì đại đa số nhân công và nhân viên đều từ Miền Bắc tới.

Câu lạc bộ vườn cao su Lộc Ninh đã bị tấn công sau khi tôi rời khỏi nơi đó và cuộc chơi đã chấm dứt bằng một cuộc tàn sát. Máu me be bét đầy cả các áo vét trắng và các áo dài dạ hội. Tôi đã bị các kiều dân Pháp nầy quyến rũ, họ rất can đảm, không lo nghĩ gì hết, và quá đua đòi làm sang khi sống chung với người dân Việt Nam ở đây, mà họ không muốn biết là ai hết. Người dân ở Miền Nam rất tế nhị và rất hoạt bát, họ có thể lấy cắp của bạn một cách rất là vui vẻ, vừa rất trung thành vừa vẫn không trung thành , tận tình với bạn mà vẫn giữ tính độc lập của họ, ngạo nghễ và hơi kỳ lạ. Cái đẹp bí ẩn của thành phố Sài Gòn nằm ở chỗ có sự pha trộn của người dân da trắng hạng sang ở các dường phố đầy bóng mát chung quanh nhà thờ lớn, của người dân da trắng bình dân hơn ở vùng Dakao những người sẵn sàng tham gia mọi biến cố dù là biến cố nguy hiểm nhứt, của những người lai có chân cả mọi phía, những người đang nắm giữ lực lượng cảnh sát công an, của các công chức người Việt Nam ôm cứng các công thức hành chánh lúc nào cũng viết chữ thật đẹp như các thầy dòng ở các trường đạo. Chung quanh họ là dân chúng lúc nào cũng lăng xăng , đông đảo, hiếu kỳ và vui tính. Còn phải kể thêm những người Tàu tinh tế mà bụng lúc nào cũng no tròn cũng như tài sản và sự nghiệp của họ.. Lại có tiếng cắt cụp của những xe mỳ bán dạo, và các hộp đêm có tên là Xóm nhà lá..... Đồng bạc trị giá chánh thức là 17 quan Pháp. Ở Câu lạc bộ thể thao, các cô gái nằm hứng nắng trên bờ hồ tắm . Có những sĩ quan trẻ đến tán tỉnh họ, các sĩ quan nầy về nghỉ phép ngắn hạn ở đây trước khi trở về chiến đấu ở đồng bằng Bắc Việt hay trong rừng núi miền Thượng Du . Họ nói cho các cô nàng nghe về những người thuộc dân tộc thiểu số mà họ chiêu mộ vào thân binh như những người Nùng, người Thổ, người Mường hay người Thái trắng...

Vẫn có một vài bà hoàng ở Sài Gòn . Họ đã về già như tôi rồi, nhưng họ vẫn còn giữ một vài nét vinh quang, dù giờ đây họ đã nghèo..Và tôi chắc chắn rằng họ đã khóc nhiều khi họ biết rằng thành phố Sài Gòn của họ sắp chết..

Ngày xưa Sài Gòn là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Chánh thức thì Hoàng đế Bảo Đại trị vì ở đây, nhưng chỉ là một hư cấu mà mọi người đều vui vẻ hòa thuận với nhau thôi. Ông ở trên Dà Lạt, thường đi săn cọp, uống rượu và đi tán gái. Còn người Pháp thì mới thật sự là những người cai trị Đông Dương nầy và các binh sĩ thuộc đạo quân viễn chinh Pháp thì lo đánh giặc, nhất là ở Bắc Việt . Về sau, tôi đi ra Hà Nội để biết thành phố nầy và bởi vì tôi lúc đó còn trẻ và cũng còn thích nghe tiếng súng, nên tôi có ý thích Hà Nội hơn là Sài Gòn . Giữa Hà Nội và Sài Gòn lúc nào cũng có một sự cạnh tranh. Hà Nội duyên dáng hơn và ít quyến rũ hơn Sài Gòn . Đây mới thật sự là một thành phố có lịch sử, có nhiều công trình cổ xưa hơn hai thế kỷ trong lúc Sài Gòn thì không có gì cả.

Hà Nội có những ngôi đền cổ như chùa Quạ, được xây cất cách xa bờ biển, bên cạnh hai cái hồ nơi được phản chiếu những cái miếu. Thành phố Hà Nội có vẻ khắc khổ, ở đây có mùa đông lạnh lẽo. Các cửa sổ đều có kính, và có khi người ta còn phải đốt lửa trong các lò sưởi...

Người dân Miền Bắc phải chiến đấu cả với thời tiết, khí hậu, sự nghèo đói (đồng bằng Bắc Việt là một nơi có dân số đông đúc nhất thế giới), và cả với nạn lũ lụt của sông Hồng, nên họ rất cứng rắn và ít cười đùa. Người của họ thấp bé và có gương mặt trẹt. Họ rất dễ bị cuồng tín, quyết tâm đấu tranh đến kỳ cùng, nên họ không có được lối sống quá đáng và cá nhân chủ nghĩa không chữa được của người dân Miền Nam ..

Họ được sanh ra cho những cuộc phiêu lưu lớn, tập thể, để xâm chiếm, cho chiến tranh. Họ thích những chế độ ở đó người ta cùng đi đều bước, trong khi ở Sài Gòn thì như gái điếm của Á Châu. Người ta khiêu vũ với bất cứ loại nhạc nào. Người ta có thể ví họ như những nhà tiên tri của thành phố Jérusalem, một thành phố mở rộng tay cho tất cả những ai qua đường.. Một cô gái nhưng trong tinh thần hoàn toàn tự do của những người bán thân, mà không theo ai bao giờ.

Sài Gòn quyến rũ tôi mà cũng đôi khi làm tôi bực tức. Hà Nội là thủ đô của chiến tranh mà Sài Gòn hình như không cần lo nghĩ tới.. Người ta lo làm tiền bằng mọi cách, người ta đi ra ngoài chơi, khiêu vũ, tán gái.. người ta dám thua cả một nắm giấy bạc trong các sòng bài ở Đại Thế giới , nơi mà luôn có sự gian lận, để rồi sau đó vào tiệm hút bàn luận về cuộc đời, sống và chết....đôi khi bàn luận về Chúa trong khi uống trà hay hút một điếu thuốc phiện để tỏ ra mình sành đời.

Sài Gòn tự đứng ngoài chiến tranh . Người ta có thể nói Hà Nội là thủ đô của chiến tranh còn Sài Gòn là thủ đô của đồng bạc. (Cái không khí đó tôi vẫn còn thấy vào tháng 4 / 75, trong lúc chiến tranh đã đến gần vùng ngoại ô của thành phố rồi, nhưng Sài Gòn vẫn tiếp tục sống vô tư lự. )

Tôi trở lại Việt Nam vào năm 1952, lần nầy thì tôi ở lại hơi lâu. Tôi đã phải theo dõi cuộc chiến ở Đông Dương cho tờ Paris-Press. Tôi ở lại Sài Gòn vài tuần lễ và ở đó tôi đã lấy lại được các thói quen của tôi. Trái với người ta đã tưởng, các nhà báo thường hay quanh quẩn ở nhà.

Chúng tôi gập nhau tất cả cùng ở một nơi và vào những giờ nhất định. Chúng tôi ở khách sạn Continental là trung tâm điểm báo chí của Sài Gòn . Người vừa mới tới thì đến đó để bắt mạch Đông Dương , dù anh từ Ba Lê, Nhiêu Do, hay từ Luân Đôn, La Mã hay Bonn . Ngoài Continental ra cũng có một vài quán rượu ở đó người ta cho chúng tôi thiếu chịu. Cũng như tiệm Amiral của ông Paul Boyer, người biệt kích đã cùng tôi chiến đấu ở Viễn Đông . Và còn một vài nơi nữa nhỏ hơn nhưng có quá nhiều ruồi. Rồi người ta đến lượm lặt vài giòng tin tức ở tòa soạn báo Đông Dương - Đông Nam Á Châu, một tờ báo được Chánh Phủ trợ cấp- hoặc ở đài phát thanh. Quân đội thì chuyên chở chúng tôi không mất tiền, còn câu lạc bộ của các đơn vị thì luôn luôn mở rộng cửa đón chúng tôi . Người ta kiểm duyệt các điện tín của chúng tôi . Nhưng sau những cuộc mặc cả lăng nhăng với những người kiểm duyệt, cuối cùng rồi thì chúng tôi cũng gởi đi được gần như những gì đã xảy ra. Nhưng tôi còn muốn biết thêm Hà Nội nữa.

Khi tôi vừa đến thủ đô Miền Bắc tôi bị quyến rũ ngay. Buổi sáng sớm nầy ở bên bờ hồ nhỏ với ngôi chùa nhỏ ở giữa hồ và chiếc cầu vòng cung dường như làm bằng sơn mài đỏ... Người ta ngửi thấy mùi chiến tranh ở đây. Người ta nhảy vào thảm kịch. Hai dân tộc, hai nền văn minh, hai hệ thống chánh trị đụng độ với nhau, và nếu chúng tôi có binh sĩ thiện chiến thì ngọn gió của lịch sử than ôi đâu có thổi về hướng mình.

Trái lại ở Sài Gòn dường như người ta không biết sự đối đầu nầy. Đó là một sự pha trộn hổn hợp giữa dân lai và người Việt Nam thân Pháp, những chánh trị gia , mặc dầu bị bịt mắt, vẫn là những người Pháp xã hội cấp tiến. Hà Nội thì không . Các vị trí chiến đấu rất là chắc chắn được đào kỹ.

Tôi đã ở Hà Nội vài tuần. Tôi đã theo dõi một số cuộc hành quân, như trận Na San, gần giống như trận Điện biên Phủ, nhưng thành công. Tôi đã chứng kiến một sự tan rã của người Pháp trong xứ Thái và đã sống ở Lai Châu, trên đèo Claceau vào những giờ sau cùng trong vùng nầy, một trong những vùng mà tôi cho là đẹp nhất trên thế giới. Tướng Salan đã thay cho tướng De Lattre vừa mới qua đời. Người ta gọi ông tướng nầy là "quan liêu", khác hẳn với người mà ông vừa thay thế. Không như những người tiền nhiệm của mình, ông đã tránh không làm những điều quá vinh quang mà dại dột, là không làm gì hết.

Khi tôi không đi theo một đơn vị nào đó trong cuộc hành quân thì tôi sống trong trại báo chí. Rất là ít tốn kém, số tiền mà tờ Paris-Press trả cho tôi chỉ giúp tôi vừa đủ sống. Trong khi ngoài mặt trận thì lương thực tác chiến không phải tốn xu nào. Còn ở Sài Gòn thì là tôi nghỉ ngơi., thư giản... Khác hẳn với một số lớn bạn đồng nghiệp của tôi, tôi không về Sài Gòn thường. Lúc nầy tôi rất là nguyên tắc trên phương diện tôn giáo. Tôi vừa trút bỏ bộ quân phục, và Sài Gòn dưới con mắt của tôi là một thành phố của tội lỗi và của đời sống dễ dãi. Tôi trách nhất thủ đô Miền Nam vì ở đây không ai quan tâm đến chiến cuộc cũng như sự thắng thua lúc đó. Mối tình của tôi được đặt ở Hà Nội nhưng điều nầy không cấm cản tôi thỉnh thoảng phải về Sài Gòn với người bạn gái lai đẹp đẽ của tôi.

Tôi ở Đông Dương cho đến năm 1954, vào cái năm thất trận Điện biên Phủ, thỉnh thoảng cũng có đi qua Lào, Cam Bốt, Thái Lan, Hong Kong, hay Nhật Bổn và cũng có về lại Pháp một vài chuyến. Tôi nghe được tin thất trận của chúng tôi ở Việt Trì, nơi mà các tiểu đoàn của Võ nguyên Giáp đã đe dọa từ lâu. Sự thất trận nầy đã là một hồi chuông báo tử cho Hà Nội . Tôi vẫn nhớ rõ là ở Sài Gòn không khí lúc bấy giờ rất đỗi lạ lùng, cũng giống như vào những ngày cuối tháng 4 năm 75 vậy. Người ta tổ chức những buổi lễ cầu nguyện ở nhà thờ, người ta phải làm như vậy vì có những trận có đến mấy ngàn người hy sinh. Nhưng rồi người ta cũng không tin. Tất cả họ cho là là bề ngoài, không đúng sự thật. Chúng tôi phải thú thật rằng ở Sài Gòn thì người ta bất cần biết gì hết trong lúc ở Hà Nội thì là một thảm kịch. Hà Nội thì tang tóc còn Sài Gòn thì vừa ngoe nguẩy sau đám táng vừa lẩm bẩm : "Chuyện xảy ra ở ngoài kia, giữa người Miền Bắc và người Pháp. Với chúng ta , cũng dễ giàn xếp thôi . "

Chuyện đã dễ giàn xếp thực vì Hiệp Định Genève dự trù sẽ tách rời Miền Bắc và Miền Nam , một sự ly dị giữa Hà Nội và Sài Gòn . Hiệp Định cũng dự trù phải có tổng tuyển cử, một chuyện không bao giờ xảy ra bởi vì không ai muốn hết. Đối với người Việt Nam , cũng như đối với người Á Đông, thế giới của hình thức, của bề ngoài hoàn toàn khác hẳn với thế giới hiện thực. Vấn đề tổng tuyển cử "dân chủ" thuộc về thế giới của bề ngoài, là trò giả hiệu. Người ta chỉ thi hành một bên nầy cũng như phía bên kia mà thôi. Cho nên tổng tuyển cử chỉ là một hình thức mà thôi không hơn không kém.

Trong thời gian chiến trận Điện biên Phủ , vào một lúc nào đó, tình hình quân sự (không phải chánh trị) có thể bị đảo ngược nếu người Mỹ chấp nhận can thiệp vào với lực lượng không quân của họ. Và như thế thì họ sẽ không bị thảm bại hai chục năm sau, và người ta có thể thương lượng với những điều kiện khá vẻ vang hơn. Chính từ Điện biên Phủ nầy mà người Mỹ đã bắt đầu chuốc lấy sự bại trận trong cuộc chiến tranh nầy, vì họ không hiểu được rằng sự thất trận của nước Pháp chính là sự thất trận của Tây Phương.. Chúng tôi đã mất mặt một lần rồi khi chúng tôi đã phải nghiêng mình trước những đòi hỏi của người Nhật. Chúng ta , những người mũi lõ (mũi cao) - ở Á Châu, người ta thường gọi tất cả những người da trắng như vậy - chúng ta phải giữ sự đoàn kết chặt chẽ với nhau. Người Mỹ trái lại, họ tưởng rằng với Điện biên Phủ, họ đã chiến thắng được những người thực dân Pháp.

Chúng tôi không phải ở trong thời kỳ đó nữa. Chúng tôi tìm kiếm một cách vô vọng một chiến thắng tưởng tượng để được thương lượng trong những điều kiện vẻ vang.

Các tướng De Lattre, Salan và Navarre đã có nhận được lệnh là thương lượng, một khi tình hình quân sự đã được phục hồi. Chúng tôi đánh nhau trong những năm dài ở Đông Dương để vãn hồi hòa bình và đưa chúng tôi ra khỏi hoàn cảnh khó xử nấy.

Nhưng bọn Việt Minh không cho chúng tôi thi hành điều nầy một cách dễ dàng. Họ nhất quyết phải đạt cho bằng được một chiến thắng quân sự , bởi vì người da trắng phải mất mặt hẳn mới được . Họ chết bao nhiêu cũng không cần. Người cộng sản Việt Nam thích chiến tranh hơn là hòa bình. Họ không có khả năng chờ đợi một năm, hai năm để trở thành người chủ của đất nước nầy mà không có bắn được một tiếng súng. Họ đã võ trang cho cả nước để nung nấu hoàn toàn chiến tranh mà không cần biết gì đến quốc gia dân tộc. Kể cả lẩn tránh một số bài toán mà nền hòa bình đã đặt ra, những bài toán không giải quyết được như sinh kế của cả Miền Bắc Việt Nam.

Chúng tôi bị thua ở Điện biên Phủ trong những điều kiện thật là khó khăn, mặc dù có lương tri. Chúng tôi đã tạo ra một căn cứ ngay trong miền núi, xa hẳn các căn cứ khác và các phi trường của mình. Vả lại chúng tôi thiếu phi cơ. Chúng tôi tập trung quá nhiều lỗi lầm chiến lược cũng như chiến thuật. Nhưng chúng tôi vẫn giữ được , thường nhờ người Miền Nam Việt Nam đã không bỏ chúng tôi . Đây chỉ là một cuộc thất trận chớ không phải một thảm họa. Bọn Việt Minh cũng hiểu như vậy bởi vì chúng chấp nhận thương lượng với chúng tôi ở Genève. (lúc bấy giờ người ta gọi cộng sản Miền Bắc là Việt Minh ) Sự ra đi của người Pháp khỏi Miền Bắc được tiến hành trong danh dự. Nhưng rồi sau đó chúng tôi đã lại phải rút đi ra khỏi Miền Nam vì người Mỹ đã muốn thay chân chúng tôi một cách quá gấp.

Tôi đã mất Hà Nội , nhưng tôi vẫn còn Sài Gòn .

Và không khí ở Sài Gòn thật là lạ lùng. Một triệu người di cư người công giáo đã đến từ Miền Bắc đã định cư ngay cửa ngỏ của thủ đô của Miền Nam Việt Nam .Một người công giáo nhiệt tâm, có cả tinh thần quan lại lẫn thầy tu xuất, ông Ngô dình Diệm , được người Pháp chúng tôi đưa lên nắm chánh quyền dưới áp lực "thân tình" của Hoa Kỳ và của Giám Mục Spellmann.

Cao Ủy Pháp lúc bấy giờ là tướng Ely. Một cái đầu thông minh như người Hy Lạp, một tín đồ ngoan đạo Tin Lành thuộc dòng quý tộc, trong túi đầy ấp những nguyên tắc, mê say luật lệ và công lý.. nhưng không biết tý gì về đất nước nầy, một đất nước mà công lý bị lẫn lộn với quyền lực, và luật lệ bị lẫn lộn với sự tế nhị.

Ông thú thật trong Hồi Ký của ông về sự thiếu khả năng của ông. Ông yểm trợ hết mình lá bài Ngô đình Diệm, trong khi các vị khách lớn tuổi của Đông Dương, tất cả những người Pháp đã biến thành dân Á Châu, những người đã từng quỳ gối trước các giáo phái và các cơ quan mật vụ, đều đặt hết tín nhiệm vào ông Bảo Đại và vài vị tướng lãnh trẻ đang ủng hộ chúng ta . Vì họ biết rõ rằng ông Diệm là người của Hoa Kỳ , ông ta sẽ đuổi hết người Pháp đi và mạnh miệng tuyên bố là ông ta không chấp nhận Hiệp Định Genève. Do đó ông ta chỉ cần không thi hành Hiệp Định đó, là sẽ cung cấp cho quân thù một cái cớ rất có giá trị trên bình diện chánh trị quốc tế, để gây lại chiến tranh .

Một số người Pháp thì ủng hộ các giáo phái, số khác thì ủng hộ ông Diệm.

Ở đây tôi không đi sâu vào chi tiết về cuộc chiến nầy vì ở đó cái ý nghĩa cao đẹp của nó dôi khi lẫn lộn với một cái gì bẩn thỉu. Ở đây đã có 3 giáo phái, hai thuộc về tôn giáo. Đó là giáo phái Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh, và giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Châu đốc. Còn phái thứ ba là Bình Xuyên, một tổ chức hổn tạp gồm bọn bất lương, bọn cướp bóc đường sông và biến thành những kẻ tống tiến. Trưởng phái nầy là Bảy Viễn, người làm tất cả mọi việc cho Bảo Đại, vì ông nầy cho phép y mở các sòng bạc ở Chợ Lớn, cũng như các tiệm hút thuốc phiện và cả các ổ điếm. Bảy Viễn cũng còn cho mở một nhà thổ khổng lồ gọi là Bình Khang, chứa gần ba ngàn gái điếm ngay gần một công viên. Thật là kinh khủng. Sự hủ hóa nầy đã lên đến tuyệt đỉnh, đi tới chổ quá loạn. Sự đồi bại nầy ở tầm tay của mọi người với bất cứ giá nào. Tất cả đều được thực hiện với sự tăng cường tối đa bằng đèn nê-ông trong sự căm ghét của người Việt Nam . Mỗi cô hay mỗi nhóm đều có phòng riêng với phòng ngủ và phòng khách sang trọng. Người ta có thể chọn lựa từ cô gái Cam Bốt 12 tuổi đến cô gái Tàu lớn hơn và đẹp của Hải Nàm, dĩ nhiên cũng còn có các cô gái Thái và Việt Nam ẻo lả nữa.. Đồng thời Bảo Đại cũng giao cho Bình Xuyên ngành cảnh sát , công an (vì ông ta cần có tiền). Tướng cướp giờ là chỉ huy trưởng cảnh sát ! !

Dựa vào Quân đội quốc gia , và ngân khoản dồi dào do Mỹ cung cấp, xử dụng vừa tiền vừa súng liên thanh , ông Diệm thanh toán cả 3 giáo phái nói trên. Trước hết là Bình Xuyên. Phải trục xuất hết bọn công an đang nằm ngay đầu đường Catinat (sau đổi thành đường Tự Do) và cả trong Chợ Lớn mà họ đang giữ chặt. Tôi còn nhớ rõ các trận đánh trên đường phố, tiếng súng ở khắp nơi cũng như các đám cháy ở một vài khu vực dân cư trong thành phố..Tôi nghe tiếng súng bắn, tiếng đạn reo ở trên sân thượng của khách sạn Continental, ở chợ Bến Thành, và sau đó tôi thấy tôi đang nằm trong một cái rãnh bên lề đường, nằm giữa hai lằng đạn của hai bên... nhưng rồi thì các trận đánh được gom về một chỗ : người ta đánh nhau trong một khu vực có nhà cửa và xa xa một đỗi, có người đang ngồi bình thản bên ly rượu huýt-ky hay cỏ nhác sô đa trên sân thượng của nhà hàng Brodard hay Pagoda...

Riêng những anh lính chửa lửa thì khỏi nói. Không thấy một anh nào có mặt, ngay như đang có đám cháy trong một khu nào đó ở Sài Gòn , vì rất là nguy hiểm, dại gì ! Chiến cuộc và thanh bình lẫn lộn nhau trong một vũ điệu hết sức phi lý, giữa cáí sống và cái chết, giữa nụ cười và nước mắt.... Một nhà báo già, bà Anne de Buchepot của Orléans người ốm yếu da đen , một giống ngựa đua gầy xấu, cỡi xe đạp đi giữa chiến trận, yên lặng và thản nhiên với nguy hiểm vai đeo máy hình lủng lẳng phất qua phất lại bên trái bên phải. Bà ta bị trúng một phát ngay giữa trán và té xuống chết ngay một cách êm thắm. Bà nằm chết giữa đường, không một ai ngó ngàng tới suốt cả buổi chiều ở đó... Chúng tôi phải đậu tiền lại để chôn cất Bà...

Các cuộc đánh nhau trên đường phố chấm dứt sau khi bọn công an của Bảy Viễn đầu hàng và sau khi tổng hành dinh của Bảy Viễn bên kia cầu chử Y bị các binh sĩ Dù của Đổ cao Trí chiếm giữ. Có vài ngàn người chết. Bảo Đại bị hạ bệ và khi tôi đi qua tòa Đô sảnh, đầu tôi bị trúng một tấm ảnh của ông ta do ai đó liệng xuống từ cửa sổ. Qua việc triệt tiêu các giáo phái, ông Diệm đã thắng ông Bảo Đại, và ông sẽ dựng lên ở Miền Nam Việt Nam một chế độ kiểu hơi độc đáo, một đảng duy nhất, đảng Cần Lao, pha trộn giữa cá nhân chủ nghĩa, thiên chúa giáo với quan lại và quốc gia chủ nghĩa cố chấp. Trên thực tế, một giáo phái khác đang nắm chánh quyền, giáo phái của người Thiên Chúa Giáo Miền Bắc mà chỉ huy và cán bộ là các quan lại của Miền Trung

Tôi đã theo dõi rất sát những giai đoạn khác nhau của cuộc chiến nầy. Tôi đã có đi tuần tiễu với Bình Xuyên, với Phật Giáo Hòa Hảo và với bạn tôi là đại tá Le Roy, chỉ huy lực lượng công giáo ở Bến Tre, người đứng về phía các giáo phái nầy. Đã đến lúc tôi phải cuốn gói để về Pháp. Tôi đã có viết một quyển tiểu thuyết với tựa đề là "Các linh hồn phiêu lãng" mà sau nầy cộng với chuyện mất Hà Nội sẽ trở thành quyển "Họa Da Vàng"



*****************

( Xin xem tiếp Phần 2)



Chú thích:

(1) Raoul Coutard, 30 năm ở Đông Dương , Tình nguyện vào Quân đội năm 1945, sau đó là nhiếp ảnh viên của S.C.A. Trở thành chuyên viên điện ảnh, đã chế ra kiểu hình Godard khi anh là Giám đốc phim ảnh. Đã cùng anh Schoendorffer thực hiện cuốn phim " Trung đội 317" ở Hòa Bình, Việt Nam mà anh hằng yêu mến, phim được giải ở Hội Điện Ảnh Cannes.


--------------------------------------------------------------------------------




CHƯƠNG MỘT (phần 2)



Hiện tôi đang đi về Pháp. Miền Nam Việt Nam chánh thức thì không có cấm tôi, nhưng tốt hơn là tự tôi phải làm cho người ta quên tôi đi. Đã hai lần tôi đã sống ở Hà Nội , buông mình theo thú vui của duy vật biện chứng và của tự phê bình. Tôi hoàn toàn không có chích ngừa chống thuyết mác xít hẹp hòi đó và những thói quen bảo trợ của họ. Nhưng nó rất là hữu hiệu trên bình diện quân sự .

Vào năm 1960, tôi nộp đơn xin chiếu khán vào Miền Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ chế độ của ông Diệm rất là vững vàng. Đó là chế độ của một gia đình và của những người ủng hộ ông ta. Còn về lý thuyết của đảng Cần Lao (đảng duy nhất), nó chỉ là một sự pha trộn hổn hợp đủ mọi ý kiến mâu thuẩn nhau, nhưng dường như khá thích hợp với các bộ óc Việt Nam nào thích mọi hình thức hồ lốn.

Phe nầy, ngoài Giám mục Ngô đình Thục, còn có ông Ngô đình Cẩn mà người ta gọi là người điên đẩm máu ở Hué, và một người nữa khá đẹp, bà Nhu, vợ của ông Ngô đình Nhu, người thảo chương trình và là người trí thức trong gia đình . Bà Nhu đã nhanh chóng nổi tiếng bằng những sự phóng đãng ái tình, bằng những lời nói đanh đá của bà, bằng sắc đẹp và sự cứng rắn của bà..

Người ta cho tôi một giấy chiếu khán về Miền Nam Việt Nam đồng thời cho tôi hiểu rõ là tôi chỉ là người được "dung thứ" thôi.

Tôi thật tình đã có thành tích không tốt. Tôi hình như đã là bạn của các giáo phái. Tôi chỉ là người bị quyến rũ trên khía cạnh thơ mộng của họ mà thôi. Trên bình diện quốc gia , các giáo phái nầy chỉ là một thứ dị giáo và phải được kiểm soát nếu không muốn nói là phải bị dẹp đi, và không có quyền có Quân đội riêng .(2)

Người ta cho phép tôi đi du lịch có hướng dẫn, nghĩa là phải cùng đi với phái đoàn báo chí của thế giới thứ ba vốn chưa bao giờ đặt chân lên đất nước Việt Nam . Trung Quốc thường dùng phương thức nầy. Với tôi thì những anh Ấn Độ, Phi Luật Tân, và Phi Châu do người ta cho đi dạo chơi không mất tiền thì họ rất là vui vẻ, sẵn sàng đớp hết mọi thứ ruồi , cả tin tất cả những gì mà người ta kể cho họ nghe.

Trong những người hướng dẫn viên, những "nhân viên tuyên truyền và quảng cáo" tôi tìm thấy một vài người quen cũ.. Trong số đó, một người ranh mãnh tánh vui vẽ vốn đã cùng tôi trước kia có đến một vài nơi không được sạch sẽ , nhưng bây giờ thì anh ta đã có vẻ là người có đức hạnh rồi. . Đó là cái mốt của Sài Gòn lúc bấy giờ.. Người ta đã là người có đạo đức, người ta truyền bá lời tán tụng đạo đức cho người Mỹ những điển hình về đạo hạnh và vô tư . Tất cả đều do lỗi của người Pháp hết vì họ đã sống không được tốt. Vì tôi là người Pháp độc nhất trong đoàn, người ta xin tôi diễn thử trò ngây thơ. Tôi buồn quá. Đôi khi tôi dằn tánh nóng không được , nhất là khi một cô gái Cần Lao mà tôi đã biết quá rõ lại dở trò đạo đức trách móc tôi đã quá mềm yếu trước những cô gái Việt Nam.

Hai lần học tập ở Hà Nội chung với bọn người cách mạng đã giúp tôi làm quen với tánh xấu của mình. Miền Nam bây giờ đã giống Miền Bắc . Sự tuyên truyền đã chú ý đến sự lấy lòng hơn và đã bớt năng động.

Tôi lang thang với đoàn du lịch của tôi, rất là ngoan ngoãn, nghe những lời tán tụng khen ông Diệm, lúc đi thăm viếng một vài công trình của chế độ. Tôi tự nhủ thầm: "Làm sao mình bỏ đi được khỏi bọn nầy khi mà họ cứ gật đầu mãi như cái máy để luôn luôn tỏ ý tán thưởng" Cuối cùng cơ hội mong muốn đã đến với tôi. tại sân bay Đà Nẵng , tôi gập lại người quen cũ : Tôn thất Đính. Tôi biết ông hồi ông còn là đại úy Dù, la cà với máy móc hoàn toàn kiểu như người Pháp, can đảm nhưng hơi gàn. Bây giờ ông là tướng. Ông nhào ngay lại tôi khi thấy tôi đứng riêng một mình và la lên :

- "Mầy làm gì ở đây ?"mầy không hay biết gì sao ?"

- Biết chuyện gì ?

- - Trời ơi, Bọn Bắc Việt vừa mới tấn công ở phía Bắc đây."

- Thật vậy sao ?

- Đúng vậy

- Làm sao mình đi đến đó xem.

- Tao đưa mầy đi "

Không ai biết và cũng không ai thấy, tôi đi ngay khỏi các hướng dẫn viên và leo lên máy bay của Tôn thất Đính.Tôi đến ngay trận địa. Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai đã vừa bắt đầu. Ở phía Quảng Trị. gần biên giới. Người Mỹ đang khởi công làm một con đường chiến lược dọc theo vĩ tuyến 17, để đánh dấu biên giới. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã tấn công công trường và bãi để dụng cụ. Không phải du kích mà là quân chánh quy thuộc sư đoàn 308 hay là sư đoàn 315 gì đó.

Tôi chứng kiến được khi chiến trận chấm dứt. Quân tấn công đã gây nhiều thiệt hại nhưng cũng bị đẩy lui. Có hằng trăm tử thương còn nằm ngay trên trận địa.

Trong lúc đó người ta tìm tôi khắp nơi . Cuối cùng em ông Diệm là ông Nhu, người đặc trách về tuyên truyền, về cảnh sát và nhiều chuyện khác nữa, đã tìm thấy tôi xen vào một lần nữa, vào những chuyện không liên quan gì đến cá nhân mình. Nói cách khác, đang làm công việc của báo chí chớ không phải của một người khách du lịch.. Người ta nhốt tôi vào một cái chòi lá với hai người lính gác ngay trước cửa và tôi bị nằm mọt xác trong hai ngày tại đó cho đến lúc họ chuyển tôi về Sài Gòn .

Tôi thấy mình đang ở cái thế giới thiên đường của ông Nhu. Văn phòng của ông là một loại phòng thu thanh có ống nói và máy thu âm được dấu kỹ. Ông ta chưa hút thuốc phiện nhưng rồi cũng sẽ hút thôi. Ông ta bắt đầu cự nự tôi, nói rằng tôi đã phản bội một lần nữa với sự tin cậy của dân chúng Việt Nam , và tôi đáng bị phạt nặng về sự trốn đi của tôi.. Người ta luôn luôn có chìu hướng đối xử với những nhà báo như một đứa trẻ mà người ta bắt gặp đang trộm kẹo mứt trong tủ. Nhưng hình phạt đôi khi cũng có thể là cái chết, giống như trường hợp anh Paul Léandri của AFP hồi tháng 3 năm 1975 trong các địa điểm cảnh sát của ông Thiệu.

Cũng may thay cho tôi., Ngô đình Nhu không phải là một người ngu như đại tá Phan Kim người đã giãi quyết anh Léandri. Ông ta để cho tôi trình bày lý lẽ của tôi. Tôi giải thích với ông ta rằng :

- " đây là lần đầu tiên, Miền Nam Việt Nam có quyền làm như thế. Bọn Hà Nội đã tấn công bằng các đơn vị ở cấp sư đoàn, vi phạm công khai Hiệp Định Genève. Thật là một điều quá bất ngờ , ngẫu nhiên mà một nhà báo Tây Phương, một người không thuận lợi cho chế độ lắm lại chứng kiến được chiến trận và thấy được xác chết của bộ đội Bắc Việt trong quân phục chánh quy. Và thay vì khen ông ta và giúp anh

ta có đủ sự dễ dãi để anh ta viết bài thì lại bỏ tù anh ta "

Ông Nhu, thay vì trục xuất tôi, lại dẫn thẳng tôi đến một buổi tiếp tân ở Dinh Độc Lập, ở đó tôi gặp tất cả gia đình họ Ngô và cả triều thần của gia đình nầy : Bà Nhu đã cười với tôi giống như là nhăn mặt với tôi vậy, Tổng Thống Ngô đình Diệm thì nghe tôi nói , mắt nhắm mắt mở hay là làm bộ như thế không biết. Người ta cho tôi một ly nước cam, người ta ca ngợi tôi với lòng khoan dung của Tổng Thống đối với những chuyện kỳ lạ kiểu của tôi. Sau đó ông Nhu đưa tôi đi viết bài cho báo của tôi. Bài báo được phát hành bên Pháp với tựa đề : "chiến tranh thứ hai ở Đông Dương đã bắt đầu". Đó là ngày 18 tháng 10 năm 1960.

Triều đình nhà Ngô đã ở vào một thời kỳ khác rồi, một sự sao chép quá dở của triều đình Hué. Ở đó người ta dịu dàng trong đạo đức giả, nhưng cũng khá trung thực. Như thế đã là khá hơn những gì xảy ra sau đó. Những người họ Ngô có đủ thứ tật xấu, Bà Nhu thì đã không chịu nổi rồi, nhưng không ai có thể nghi ngờ về tinh thần quốc gia và lòng can đảm của họ. Ông Diệm là một người tò mò, với bộ mặt bất động và bình tĩnh như một bà sơ. Đã nhiều lần ông đã thử sống như một tu sĩ ,nhưng không bao giờ thử sống với đàn bà. Một vị Tổng Thống còn trinh! Ông mê say cầu nguyện, bấp cải và những giấc nghỉ trưa dài. Đối với ông người ta có những biểu hiện kính trọng như đối với một quân vương. Không thể tự bầu mình lên như một vị hoàng đế được , ông đã tuyên bố thành lập Cộng Hòa Việt Nam, và đưa ông Bảo Đại ra khỏi nước , người mà ông đã từng rất sát cánh chặt chẽ. Không như bà Nhu, ông thuộc một đại gia đình quan lại ở Miền Trung, ông rất liêm khiết và thiển cận. Ông tin tưởng vào đức hạnh truyền thống: công việc, gia đình , kính trọng ông bà, và kỷ luật . Ông sống trong quá khứ trong khi Hồ chí Minh ít nhất cũng biết chế ra một loại nước chấm mới cho chim ăn, bằng cách pha trộn vào thành phần cũ kỹ Khổng Mạnh, loại bột ngọt của Mác xít thuộc Tây Phương .

Bây giờ người Pháp chúng tôi không được nhìn với con mắt thiện cảm. Tướng Lansdale, người đã đưa ông Diệm lên yên ngựa, vừa cho xuất bản một bản tường trình trong đó ông ước tính rằng người Pháp đã mất hết thế chánh trị ở đây chỉ vì cái nhãn hiệu thực dân mà họ đã từng mang, và cả thế quân sự nữa chỉ vì họ đã không biết thích ứng với một loại chiến tranh lật đổ mà công tác tuyên truyền được trộn lẫn với những trận đột kích của đặc công. Do đó ông trách người Pháp những gì mà người Mỹ sẽ thi hành sau đó, nhưng còn tệ hơn nữa.. Cũng đừng nên quên rằng Ngũ Giác Đài đã đánh giá Hiệp Định Genève là một thảm họa có thể đưa tới sự thất bại của cả vùng Đông Nam Á luôn..

Thế mà chúng tôi đã để lại trên trận địa từ 1945 đến 1954: 91.000 người chết, trong đó phải kể là 75.000 con dân chính cống của nước Pháp và ít nhất 5 khóa của trường Võ Bị Saint Cyr. Cũng đã nhờ họ mới có được Miền Nam Việt Nam và Sài Gòn mới có được những cô gái chơi trò đạo đức.... Chuyện đó cũng không tốt lắm cho thủ đô Sài Gòn đâu.

Đường sá có sạch sẽ thật đấy, các bãi cỏ được cắt kỹ lưỡng, nhà cửa được sơn phết lại với màu trắng hay màu be, vấn đề lưu thông được đưa vào nề nếp và các cảnh sát rất chững chạc trong đồng phục trắng của họ.

Các hộp đêm được đóng cửa, các quán rượu quá ồn ào và những xe ba gác cũng bị cấm. Không cho các sòng bạc hoạt động. Tôi không nói tới thuốc phiện.Người ta đã thiêu hủy hằng ngàn ống tẩu. Và các sĩ quan như đại tá Trần văn Đôn, người sanh đẻ ở Bordeaux (Pháp) đã đứng ra đốt hết lon Pháp của mình. Người ta đã thăng cấp tướng cho ông vì chuyện đốt lon nầy. Khiêu vũ bị cấm, và trong tất cả các khách sạn rất khó mà mang lên phòng mình một cô gái Việt Nam . Còn làm tình với "đôi mắt xếch" trở thành một tội lỗi và một sự lăng nhục giống nòi. Tất cả giống như ở Hà Nội .

Nhà hát Tây được biến thành Quốc Hội , ở đó tay chân của nhà Ngô trịnh trọng ngồi họp.

Nhưng ở thôn quê thì tình hình xuống cấp nhanh chóng. Vấn đề thành lập các ấp chiến lược để gom dân về ở, đến lúc xử dụng mới được biết đó là một thảm họa vì do những công chức ngạo mạn hoặc các quân nhân hung tợn quản trị.

Tôi gởi bài của tôi đi và sau đó tôi được dẫn trở về biên giới.

Bây giờ thì tôi đang ở Cam Bốt. Hoàng thân bạn của tôi, ông Norodom Sihanouk đã quyết định là không phỏng vấn bất cứ một nhà báo nào khác, nên tổ chức cho tôi một "buổi họp báo". Được hai tên bộ hạ Mayer và Barret ngồi kèm hai bên, một tên gầy một tên mập, một tên "đỏ" một tên "trắng", ông ta biến tôi thành một người quá kỳ lạ trong vòng gần hai tiếng đồng hồ.

Sau khi từ thành phố Grasse trở về đây, ông đã có gầy đi trong bệnh viện của Bác sĩ Pathé, ông có vẻ đứng ngồi không yên.

Duyệt qua tất cả những người thân cận của mình, ông trách con trai ông là không thể gần đứa con gái nào mà không cho nó có chửa, trách mẹ cậu ta, bà hoàng hậu, là đã mua bán dược phẩm, và trách ông đại sứ của chúng tôi là đã dính vào đủ trò ô nhục với những "gái trẻ, thật trẻ, người Cam bốt."..

Tôi đánh giá cao sự yên tĩnh, sự thanh bình ở Cam Bốt. Nếu người ta nói ông Sihanouk điên thì ít nhất ông cũng đã giữ đất nước ông đứng được ngoài vòng của chiến tranh.

Tôi biết là ở Sài Gòn đang sắp xảy ra một điều gì đó, tôi biết người ta đang chuẩn bị một cuộc đảo chánh và tôi chờ.

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, từ sáng sớm tôi đã lên đến phi trường Pochentong , lúc đó còn dưới quyền quản trị của người Pháp.

Một trong những người Pháp ở đó đã nói với tôi :

- "Sài Gòn đã gởi cho chúng tôi bằng máy điện báo :RKO kỹ thuật, nó có nghĩa là không một phi cơ

nào được đáp xuống phi trường Tân sơn Nhứt vì thời tiết xấu. Nhưng anh hãy nhìn bầu trời xem, Hoàn toàn quang đãng !."

Tôi , thì tôi đã hiểu. Nếu phi trường bị đóng cửa, thì tức là đã có xảy ra chuyện gì đó. Đó là chuyện mà tôi đang chờ đợi !

Tôi lái xe vượt qua biên giới vốn không còn có ai canh gác. Ở Sài Gòn , quân NHãy Dù đang tấn công vào dinh Tổng Thống . Tôi chứng kiến với họ sự kết thúc của cuộc đảo chánh, một cuộc kết thúc quá bẽ bàng, thảm não !

Cuộc đào chánh nầy đã thất bại bởi vì binh sĩ Dù đã được xác nhận là có tính khờ khạo không chữa được và hai anh em của ông Diệm đã chứng tỏ là có can đảm và dám quyết định.. Hiện giờ tôi đang ở Miền Nam Việt Nam mà không có chiếu khán, bị trục xuất, rồi lại lén lút trở về để chứng kiến một cuộc đảo chánh. Thật là rất khó cho tôi để giải thích rằng tôi không hề biết chuyện nầy. Vậy là tôi phải lo trở lại Cam Bốt như lúc tôi đã qua đây. Trong trường hợp đó, tôi chỉ có một phương cách: mấy ông chủ đồn điền cao su và mấy ông linh mục. Đi tìm họ là tôi thấy mình đã trở lại các đồn điền lớn ở dọc theo biên giới. Chỉ cần đi bộ vài giờ xuyên rừng là tôi đã về đến đất Cam Bốt rồi. Thật là tôi quá nông nỗi....

Khác hẳn với một nhân viên mật vụ, một nhà báo tường thuật sự phiêu lưu mạo hiểm của mình. Bài tường thuật về những sự phiêu lưu của tôi đăng trên báo Paris - Presse không đáng để bị Việt Nam kết tội và ghi tên tôi vào sổ bìa đen.

Tôi phải chờ đến năm 1963 và cuộc đảo chánh ông Diệm lần nầy đã thành công, mới có thể trở lại Sài Gòn . Tôi quen biết hết các tác giả của cuộc đảo chánh nầy (kể cà đại tá CIA, ông Conin, người đã có thể là chỉ huy vụ nầy) : tướng Trần văn Đôn, người Bordeaux; tướng Lê văn Kim đã từng là phụ tá của tướng Pagbol; Mai hữu Xuân, cựu chỉ huy trưởng cảnh sát và sau cùng là tướng Minh Dương (được gọi là Minh "lớn") là người chỉ huy trong vụ nầy.. Các cơ quan tình báo và mật vụ của Hoa Kỳ đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ là ông Cabot Lodge đề có quyết định phải loại trừ ông Diệm . Hoa Kỳ ước tính rằng chế độ ông Diệm không cho người Mỹ thực hiện những gì họ muốn làm, và vì sự vụng về của mình nên ông Diệm không được lòng dân. Hoa Thạnh Đốn tưởng rằng ván cờ đã được thỏa thuận nên họ đã quyết định cho đổ bộ ồ ạt binh sĩ Mỹ vào Miền Nam , nhưng chánh quyền ông Diệm đã không muốn một con số quá lớn quân nhân Mỹ đến đây, họ sẽ làm hư hỏng đất nước nầy đi vì sự tiêu xài mỹ kim của họ. . Và về điều nầy thì chính phủ của ông Diệm có lý.

Chánh Phủ ông Diệm đã có yêu cầu là mỗi binh sĩ Mỹ chỉ được tiêu ở đây 50 mỹ kim mỗi tháng mà thôi.. Trước hết ông Diệm và những người của ông là những người quốc gia cố chấp. Họ từ chối không cho các nhân viên Hoa Kỳ trực tiếp kiểm soát đất nước . Muốn loại trừ anh em nhà Ngô, người Mỹ cần có một lý do. Họ tung tin ra là chế độ muốn thương lượng với Miền Bắc qua trung gian của Đại Sứ Pháp và đồng nghiệp của ông ở Hà Nội.. Điều nầy sai.

Họ dùng những người Phật Tử để chống ông Diệm. Thình lình người ta thấy xuất hiện những ông tăng của phái Tiểu Thừa mặc y vàng như bên Cam Bốt và Lào, trong lúc ở Việt Nam thì tăng ni mặc y nâu vì thuộc phái Đại Thừa vì ảnh hưởng của người Tàu và họ ít sống theo lối cộng đồng . Những vị tăng mới xuất hiện nầy nói là để chống lại sự biệt đãi của chính phủ đối với người công giáo, nên họ bắt đầu tự thiêu ở những nơi công cộng và chợ búa, điều mà bà Nhu sau nầy còn mỉa mại gọi đó là món "thịt nướng" (nguyên tác : "barbecues", tiếng Mỹ) . Bà quá vụng về. !

Bằng mọi cách, các cơ quan Hoa Kỳ muốn bôi đen chế độ, lần lượt cáo buộc là độc tài công giáo, (trong lúc ở Hoa Kỳ vừa mới bầu vị Tổng Thống đầu tiên người công giáo , ông Kennedy), là trung lập, cả đến là thân Pháp nữa, một điều thật là quá quắc ! Khi người ta muốn giết con chó của mình thì người ta nói là nó có ghẻ !

Hai ông Diệm, Nhu bị tấn công ở Dinh Gia Long đã trốn được và đi đến Chợ Lớn nhờ sự giúp đỡ của một trong những sĩ quan khởi nghĩa, đại tá Nguyễn văn Thiệu. (3) Họ trốn trong một nhà thờ ở Chợ Lớn và họ bị giết chết trong một xe thiết vận xa trên đường đưa họ về Bộ Tổng Tham Mưu

Tôi đến Sài Gòn ngày hôm sau. Tôi đã tìm được mả của hai anh em họ. Họ đã được an táng ở phía sau Bộ Tổng Tham Mưu, về sau người ta cho cải táng ở đất thánh, trong nghĩa trang của người Pháp, nằm về phía sau hầm mộ của gia đình Prouvost, giữa hai ngôi mộ của ông Aufroy Ernest, dược sĩ, chết năm 1876, và thiếu úy Thủy quân lục chiến, Trousselier.

Họ đã gặp lại những người Pháp mà họ đã từng quá ghét, quá thương và gặp lại nền văn hóa đã từng được khắc sâu vào họ.

Với "Ủy Ban Quân nhân Cách mạng" của tướng Minh Dương và với nhóm tướng lãnh trẻ hầu hềt đều xuất thân từ trường võ bị Coetquidan hay những quân trường khác của Pháp , không khí Sài Gòn đổi khác ngay.

Hồi thời ông Diệm, như tôi đã trình bày ở trên, thành phố Sài Gòn có vẻ mặt như một cô gái có tư cách, đạo đức giả , che dấu hết những gì không thể cho thấy từ thân thể mình.. Với các tướng lãnh, người ta lại bắt đầu khiêu vũ, các quán rượu có gái bắt đầu mở cửa lại. Thành phố Sài Gòn vén cửa lên và để lộ các bắp đùi ra... Cả nước tưởng chừng như đã sắp có hòa bình rồi.

Sự thật trái hẳn lại. Chiến cuộc tăng cường độ lên gấp hai lần, nếu không muốn nói là đã leo thang với sự tham chiến của người Mỹ.

Người ta lại loại tướng Minh Dương , và nhóm các tướng lãnh thân Pháp coi như đã làm xong công tác,, bằng cách cáo buộc họ "có ghẻ", tức là trung lập. Chuyện đó chưa xảy ra lúc đó đối với tướng

Minh, nếu tôi tin vào những lời ông ta nói với tôi lúc bấy giờ.

Một anh hề, mập lùn, con người hay gieo rắc sự khiếp sợ, đã thay thế họ: đó là tướng Khánh., với những trò giả dối của ông ta, đôi khi quá xoàng và thô bạo, cuối cùng ông ta phải rời khỏi Việt Nam và trở thành chủ một quán ăn ở Ba Lê.

"Bị đập" thời ông Diệm, tôi lại bị tiếp với ông Khánh, ông nầy đã nghe biết được về những chuyện của tôi nên đã thề sẽ lột da tôi nếu tôi bước chân đến Sài Gòn .

Đảo chánh đã xảy ra liên miên như thác đổ. Tất cả những ông thủ lỉnh nhỏ được người Mỹ vận dụng, đã bắt dầu lên chiếm sân khấu chánh trị . Những cuộc đảo chánh đó làm cho Quân đội bị chia rẽ. Ngày 12 tháng 8 năm 1965 phi công Cao Kỳ lên nắm chánh quyền và người ta chấp thuận cấp cho tôi một chiếu khán vào Miền Nam Việt Nam . Đã là kẻ thù của tướng Khánh, tôi trở thành bạn của tướng Kỳ mà tôi không biết.

Bây giờ là tôi trở lại Sài Gòn .Tình hình đã quá thảm hại. Nếu người Mỹ không can thiệp ồ ạt, theo tôi thì Miền Nam đã thua rồi. Các tướng lãnh đã có những tranh chấp nội bộ đến độ gần như không còn một Quân đội nữa. mà chỉ là những nhóm phục vụ hết người nầy đến người khác. Có môt số phần tử thuộc các giáo phái bị ông Diệm dẹp tan, nay họ nhập vào hàng ngũ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhất là nhóm Bình Xuyên, những kẻ cướp trên sông khi xưa.

Sài Gòn đã không còn là một thành phố sạch nữa, không còn thơm tho như trước nữa và người ta cứ để như thế muốn ra sao thì ra.Người ta không còn tôn trọng đèn đỏ nữa. Mặc các anh cảnh sát cứ làm hiệu , mặc không ai muốn tuân hành. Cảnh sát đã mất uy tín bởi vì họ đã nặng tay đối vói các sư sãi và sinh viên. Ở Sài Gòn lúc bấy giờ đã có sáu ngàn "hộp thơ" Việt Cộng.Chỗ nào cũng có mở quán rượu cho lính Mỹ cũng như tôi đã từng thấy ở Nhật và ở Phi luật Tân: một cái quầy dài với một cô gái trước mỗi khách hàng.Cô gái phải bắt người đối diện uống, đồng thời phải làm cho anh ta hy vọng rằng cô nàng sẽ theo mình sau giờ đóng cửa, uống cho tới khi nào anh ta say hoàn toàn ngã lăn ra, hoặc không còn khả năng đòi hỏi gì nữa cả. Thân hình gầy gò của cô gái, cô chỉ nghiêm túc bán cho một anh "bạn" nào đó đang lo bảo quản cho mình, và thỉnh thoảng cô ta cho một anh cảnh sát mượn, không mất tiền, để anh nầy để yên cho cô hoạt động: mãi dâm, chợ đen hàng ăn cắp từ chợ Mỹ (nguyên tác tiếng Anh :PX)

Sau đó là tới ma túy. Ở đâu cũng có các phòng đấm bóp như ở Thái Lan. Người Mỹ rất sợ các bệnh hoa liễu, nên thay vì làm tình lại thích những xoa bóp bằng tay của các cô chuyên nghề "xoa bóp"..

Không còn ai muốn đánh giặc nữa, cả sinh viên , các anh cu li, cho đến những anh Tàu ở Chợ Lớn đều muốn được tuyển vào phục vụ trong các căn cứ Mỹ. Tinh thần công dân đã chết rồi, các tướng lãnh trẻ của Miền Nam đã mất hết tinh thần đó rồi. Có nhiều cô gái công tác cho Việt Cộng , các cô khác thì đóng tiền cho họ, có những cô khác thì mơ ước kết hôn với một lính Mỹ và trốn đi. Sự ung thối đã bắt đầu và ngày càng tăng theo nhịp độ đổ bộ của Quân đội Mỹ.

Tôi đã viết trong quyễn "một triệu mỹ kim, người Việt" :

"Ngày 1 tháng 3 năm 1967, đối với cuộc chiến tranh nầy, Miền Nam Việt Nam và những cố vấn Mỹ

của họ đã bại trận rồi. Đã không có một trận đánh nào, chỉ có hằng trăm xã , hằng trăm ấp chiến lược

bị mất. Thường thì họ đầu hàng, hay khá hơn nữa họ giữ nguyên trạng và bí mật ngã theo Việt Cộng

Có nhiều nơi bị "giải phóng " cả vùng..Có nhiều vùng người ta xài tiền Hồ chí Minh, trong một số vùng khác thì có những cột mốc dài theo lộ để chỉ dẫn cho người ta cách vào vùng giải phóng . Có nhiều điểm thu thuế cầu đường được đặt ngay bên cạnh đồn bót. Thuốc lá bị đánh thuế.. .Hai chánh quyền !..."

Tôi đã lái chiếc xe Citroen 2 ngựa, đi lang thang trong vùng do Việt Cộng kiểm soát mà không có chút e ngại nào. "Vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn Chợ Lớn bị một thứ vòng đại đỏ bao vây hết bên ngoài, từ phía Nam khoảng 15 cây số của thành phố Bến Lức, 7 cây số về phía Bắc của thị trấn Thủ Đức, 8 cây số về phía Tậy của Cát Lái. Tại Sài Gòn, có tin các sĩ quan , bộ đội, và cả ủy viên chánh trị Việt Cộng lẻn được về thăm gia đình của họ, hoặc để chữa trị.

"Người Mỹ đã thấy được là tình hình đã ung thối đến mức nào rồi.

" Ở Sài Gòn có một không khí rất lạ lùng. Tất cả đều gian lận, tất cả đều sai hết. Cộng sản họ đã tin chắc là họ đã thắng trận rồi. Các cuộc xung đột và những giải pháp của nó đã qua khỏi giai đoạn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vì tổ chức nầy đã biến thành CPLTCHMN . Nó đã nằm trong phạm vi quyền lực của Ủy Ban Trung Ương đảng từ Hà Nội .

Cũng giống như người Pháp, người Mỹ vốn đã biết sẽ thua ở Đông Dương nên đã chuẩn bị sẵn sàng ra đi, nếu cộng sản khéo léo trong thương lượng.. Nhưng Hồ chí Minh, Giáp và Phạm văn Đồng bị Liên Xô và Trung Cộng thúc đẩy nên muốn có một chiến thắng quân sự . Họ nói với nhau :

- " Hãy cho người Mỹ chờ đợi cho đến khi nào họ mất hết thể diện, cho tới khi nào những sự bảo đảm

mà họ đòi hỏi thật sự không còn giá trị gì nữa. "

Chính vào lúc đó, tháng 3 năm 1965, họ phạm vào một lỗi lầm rất nặng. Đột nhiên Hoa Kỳ can thiệp ồ ạt.

Ngày 1 tháng 3 năm 1965, Việt Cộng coi như đã thắng trận giặc nầy rồi,.

Ngày 1 tháng 10 năm 1965, Việt Cộng coi như đã thua trên bình diện quân sự .

"Chiến trận gây nhiều chết chóc nhất đã xảy ra ở Chu Lai, ở đó có sự tham chiến của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Trong vòng 6 tháng , từ tháng 3 đến tháng 9 / 1965 , Việt Cộng đã thình lình cho rút hết toàn bộ binh lính ra khỏi các vùng mà họ đã chiếm được và quay trở về những nơi ẩn náu cũ.

Thành phố Sài Gòn trở thành như một địa ngục. Không tài nào thong thả đi dạo được và sự lưu thông đã đến một cường độ dữ dội. Hàng ngàn xe vận tải to lớn chạy như điên trên đường phố, với còi hụ inh ỏi. Hàng trăm hằng ngàn binh sĩ Mỹ đi tìm gái và rượu. và sẳn sàng trả cho họ bất cứ giá nào. Sài Gòn bị tràn ngập chăng ? Không Sài Gòn sẽ nuốt chững con quái vật nầy.. Và người dân Sài Gòn sẽ biết cách lợi dụng, từ anh phu xích lô đến anh nhà buôn giàu có. Sài Gòn sẽ trở thành một nhà thổ khổng lồ ! Nhìn bề ngoài, tất cả cấu trúc gia đình , luân lý, tôn giáo và cả chánh trị đều như sụp đổ...

" Người Mỹ ước tính là họ đối diện với khoảng 165.000 Việt Cộng chánh quy hay du kích địa phương, và cán bộ từ Miền Bắc lên đến 10.000 người . Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì có 10 sư đoàn với khoảng 250.000 binh sĩ chánh quy, 250.000 địa phương quân và dân vệ, 70.000 cảnh sát. Lực lượng Mỹ lên tới con số 150.000 vào ngày 12 tháng 10."

Lúc đầu thì người Mỹ lấy làm khích lệ với những mục đích tốt. Cũng trong ý định đó mà tướng Westmoreland đã cho công bố chín điều "giới luật" cho các binh sĩ Mỹ ở Việt Nam .Họ được khuyến cáo là lúc nào họ cũng phải có những điều luật nầy trong người , một tấm giấy cứng nhỏ, khổ 9 trên 6 phân có in những điều giới cấm đó. :

" 1.- Hãy nhớ là ở đây các anh là khách, đừng đòi hỏi gì hết, đừng tìm những đối xử riêng lẻ.

2.- Hãy hòa mình với dân chúng, Hãy hiểu đời sống của họ, Hãy biết ngôn ngữ của họ và tôn trọng luật pháp và phong tục tập quán của họ.

3.- Hãy tỏ ra có lễ độ và kính trọng trong sự giao tiếp với phụ nữ.

4.- Hãy làm bạn với những binh sĩ và dân chúng Miền Nam Việt Nam

5.- Hãy để cho người Việt Nam được ưu tiên

6.- Hãy ở trong thế thủ và sẵn sàng hành động như một người lính.

7.- Đừng làm cho người ta chú ý bằng hành động ồn ào, thô bạo và khác hẳn với hành động của những người khác.

8.- Tránh đừng xa rời dân chúng bằng cách khoe mình giàu sang và có quyền được ưu đãi.

9.- Trước hết , các anh là người của quân lực Hoa Kỳ , đến đây với một nhiệm vụ khó khăn. Các anh phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình, trong mọi việc làm, công cũng như tư, giữ danh dự cho chính mình và cho Hoa Kỳ ."

Cả 9 điểm của tướng Westmoreland đã được thi hành, nhưng ngược lại. Người Mỹ không coi mình như người khách mà coi mình như người chủ. Họ không bao giờ hòa mình với dân chúng :Họ sống riêng trong căn cứ có máy điều hòa không khí của họ, và ăn đồ hộp lạt lẽo vô vị trong khi họ có thể tự đãi mình bằng một bát phở hay hủ tiếu có bán khắp nơi, ở mọi nẻo đường. Cũng có đôi lúc họ liều đi ăn ở nhà hàng, nhưng của Pháp, chớ không bao giờ đến tiệm ăn Việt Nam . Người Mỹ cho người ta cái cảm tưởng là họ sống trong một hòn đảo mà họ mang theo với họ.

Còn về chuyện " tỏ ra có lễ độ và kính trọng trong sự giao tiếp với phụ nữ" thì đối với họ, tất cả người phụ nữ Việt Nam đều là gái điếm hết ! Dĩ nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ vậy. Binh sĩ Mỹ cưới người Việt Nam phần đông là gái không đứng đắn, chỉ với những người mà họ đã có biết qua.

"Hãy làm bạn với binh sĩ và dân chúng " : Đối với lính Mỹ, người quân nhân Việt Nam là nhát, không có khả năng chiến đấu, luôn sẵn sàng để phản bội.

"Hãy ở thế thủ và sẵn sàng hành động như một người lính" : Những anh lính lớn con người Mỹ thường không được như vậy, vì điều nầy mà họ đã trả một cái giá quá đắt .

"Đừng làm cho người ta chú ý bằng một hành động ồn ào, thô bạo và..... tránh xa rời dân chúng bằng cách khoe mình giàu sang và có quyền được ưu đải ": Tất cả những nắm mỹ kim họ ném lên bàn ! Người dân Miền Nam Việt Nam vốn khôn lanh như khỉ, nên tự nhủ:"Chúng ta không thể nào làm khác hơn là yểm trợ họ, và như vậy là ta phải thừa cơ hội chớ " Họ cứ thế họ gậm nhắm Quân đội Hoa Kỳ . Đến chỗ họ biển thủ hay dánh cắp tới 30 % tất cả những gì Hoa Kỳ đã mang sang .

Có vài lần người ta xử bắn một kẻ có tội "quấy phá an ninh" hay một anh Tàu nào đó về tội buôn lậu. Từ trên xuống dưới trong hệ thống chánh trị và quân sự chỗ nào cũng có chợ đen. Khi ông rời khỏi nước Việt Nam , tướng Khánh mang theo một va ly đầy giấy 100 mỹ kim.

Một chỗ nương náu: sân thượng của khách sạn Continental, ở đó tôi gặp lại vài người Pháp già nhớ nhà. Đây la một nơi cần được giữ chỗ trước . Người ta gặp ở đây vài anh nhà báo Mỹ. Thường thì người Mỹ không thích khách sạn Continental vì ở đây không có máy lạnh. Họ thích các trung tâm hay căn cứ của họ hơn, được tổ chức vừa ý họ hơn và luôn luôn có máy điều hòa không khí.

Nhưng với một nhà báo, làm việc với người Mỹ một khi được tín nhiệm rồi thì là tuyệt vời . Thật là rất có hiệu quả: Quân đội Hoa Kỳ là một bộ máy to lớn, chạy rất là tốt.... và bài được đánh đi ngay bên cạnh đó.



Tôi đã rời khòi Sài Gòn những tưởng rằng trên bình diện quân sự người Mỹ đã lật ngược được tình hình, nhưng họ đã thua về mặt chánh trị . Vì họ không lựa được người xứng đáng để điều khiển đất nước , và không có được một ý thức hệ có giá trị khả dĩ có thể chống lại với người cộng sản. Thuyết Dân chủ không phải được tạo ra cho người Đông Nam Á Châu.

Tôi không có ở Sài Gòn trong trận tổng công kích Tết Mậu Thạn mà mãi về sau tôi mới đến đó được . Bọn Việt Cộng đã phân tích sai tình hình. Họ không bao giờ hiểu gì hết về Sài Gòn . Họ đã lập luận rằng : thành phố nầy đã chán ngấy về sự ung thối về người Mỹ, đã chín mùi rồi cho một cuộc tổng nổi dậy. Họ đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho cuộc tổng tông kích. Họ đã giốc hết toàn bộ lực lượng của họ vào trận đánh chiếm Sài Gòn , cả chủ lực và thành phần bí mật nằm vùng. Nhưng Sài Gòn không có tổng nổi dậy, và dân chúng Sài Gòn không có theo cộng sản . Bọn Việt Cộng bị lạc đường trong thành phố . Điều nầy dẫn đến một sự tàn sát sau nhiều trận đẫm máu, vì Việt Cộng đánh quá hăng. Họ đã gần chiếm được tòa đại sứ Hoa Kỳ. Nhưng họ quá đơn độc.

Họ đã treo được cờ CPLTCHMN trên thành nội Huế, nhưng họ đã phạm vào những tội không thể tha thứ được, còn tệ hơn tội sát nhân nữa. Họ đã tàn sát thẳng tay tất cả những ai chống lại họ. Ở Sài Gòn thì phần đông là cảnh sát . Ở Huế , thì tất cả giai cấp tư sản và thượng lưu trí thức đã từng theo họ. Và không ít các công chức.

Ở Hué cũng như ở Sài Gòn , trong ngày Tết 68 nầy, cộng sản đã thất bại về chánh trị . Không bao giờ sẽ có cuộc nổi dậy nào có lợi cho họ nữa . Tệ hại hơn nữa, CPLTCHMN trong dạng quân sự, vì bị quá nhiều thiệt hại nên đã gần như không còn nữa và đã hoàn toàn rơi vào tay của cộng sản Bắc Việt. Tức là bọn Việt Cộng và CPLTCHMN đều thua trận nầy.

Chúng ta đang ở vào ngày 24 tháng 4 năm 1975, và không có chỗ nào, dù là Miền Nam đang trong tình trạng sắp tan rã, dân chúng cũng không hề nổi dậy. Không có một đơn vị nào mang cả vũ khí và quân trang sang hàng ngũ cộng sản .



Tôi trở lại Sài Gòn vào tháng 2 năm 1971, để hưởng cái Tết.

Vào lúc 12 giờ trưa hay 6 giờ chiều, con đường Pasteur bị tắm trong một màu xanh quá khó chịu của dầu benzin cháy không hết. Các loại chim đều bay đi hết. Nước sơn trên tường bị bong ra, thành phố đã trở thành ghê tởm.Có nhiều toán trẻ lang thang đi ăn cắp vặt, nhiều người tàn tật đi ăn xin .... Có khoảng 200.000 trẻ lang thang trên đường phố Sài Gòn và 200.000 người ăn xin,(4) vô gia cư và phạm đủ thứ tội. Dân số đã trên 4 triệu, trong khi thành phố chỉ dự trù cho 500.000 dân... Sài Gòn đã biết được trước nhất một thời kỳ đặc biêt sảng khoái lúc binh sĩ Hoa Kỳ ồ ạt đổ bộ, 540.000, chưa kể quân số của hạm đội 7, các toán tuần tiễu duyên hải, các nhà thầu và nhóm dân sự vụ, cộng cả thảy khoảng 600.000 người . Các binh sĩ đổ bộ lên đợt đầu tiên được đón tiếp trên bãi biển với các tràng hoa tươi. Bây giờ thì hết rồi Với bất cứ một căn phòng nào, lớn nhỏ không cần , người ta đã có ngay một quán rượu. Tìm thêm vài cô gái đưa vào đó , thế là xong....

Vào tháng giêng năm 1971, quân số Hoa Kỳ đã xuống dần, đến con số 350.000. Vào tháng 5, thì chỉ còn có 284.000. Đồng bạc Việt Nam lại xuống giá. 1 mỹ kim chỉ đổi được có 400 đồng (giá chánh thức là 200). Ngày 29 tăng lên 600 đồng.

Trên phương diện quân sự, phần thắng lợi coi như nghiêng về phía Miền Nam Việt Nam . Tôi đã tham dự cuộc hành quân Lam Sơn. Người Mỹ đã có ý muốn chứng minh trước khi họ rút đi, rằng Quân đội Miền Nam Việt Nam có khả năng chiến đấu một mình được rồi.. Từ Khe Sanh, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải tiến vào lãnh thổ Lào để cắt ngang đường mòn Hồ chí Minh .

Chuyện "Việt Nam Hóa chiến tranh" đã cho thấy đó chỉ là một đòn bịp để cho chúng ta hiểu được sự bại trận vào năm 1975.. Thí dụ như Hoa Kỳ đã giúp huấn luyện một số phi công lái trực thăng. Nhưng các phi công trẻ nầy không biết xử dụng dụng cụ bay, chỉ nhắm hướng bay bằng thị giác mà thôi. Một chiếc trực thăng chở một số nhà báo, bị rơi vào sương mù bị lạc qua vùng cộng sản và bị bắn hạ. Tôi thoát được là nhờ đi được trên một chiếc trực thăng khác, cũng bị lạc nhưng may mắn hơn họ đáp được xuống đất nhà.

Người ta đã đào tạo và huấn luyện ở Hoa Kỳ những sĩ quan Việt Nam chuyên trách sau nầy về liên lạc địa-không Họ có khả năng điều khiển từ dưới đất hỏa lực không trợ . Họ đã tập sự, lập đi lập lại nằm lòng những gì người ta đã dạy. Trên trận địa, họ cho thấy là họ không có đủ khả năng để điều khiển hỏa lực không trợ của các phi cơ Mỹ. Chỉ vì họ quá kém về Anh văn.

- " Quân đội Miền Nam Việt Nam không thiếu một món gì hết, cho tới một chiếc bù lon cũng không thiếu"

Đó là những gì hầu hết các tướng lãnh Hoa Kỳ đã nói Nói vậy chớ trừ một vài đơn vị thiện chiến còn thì

tất cả đều như cái bị rách. Người Mỳ đề cao giá trị của QLVNCH để họ có thể rút đi càng sớm càng tốt.

Tôi đã khám phá ra cái thành phố Sài Gòn của những người lính Mỹ đào ngũ, một thành phố ghê tởm vừa tự bán mình vừa giữ nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta suy nghĩ thật kỹ thì Sài Gòn lần lượt đã từ chối người Pháp, chế độ của ông Diệm, người Mỹ và bọn Việt Cộng. Thành phố nầy chưa bao giờ thật sự là một thành phố Việt Nam , nó thả mình phiêu lưu theo thế giới và buôn lậu. Chúng tôi sẽ trở lại sau nầy về những nguồn gốc của nó.

Tôi đã viết trong quyển "Chuyến du lịch đến tận cuộc chiến tranh " :

-" Trước kia Sài Gòn rất là duyên dáng. Người ta ai cũng biết cười. Thành phố đã qua thử thách vì

hằng trăm ngàn lính Mỹ, với đồng mỹ kim đầy túi và muốn tất cả đều được mua bán tự do, rượu, gái, ma túy và sẵn sàng trả với bất cứ giá nào cũng được .Tất cả những rào cản đều được đồng mỹ kim dẹp hết kể cả một dạng về luân lý, và tất cả các cấu trúc xã hội chỉ còn giữ lại một vài cơ cấu mà thôi. Trước kia, trong thế kỷ khác nào đó, người ta gọi Sài Gòn là "hòn ngọc Viễn Đông" và Sài Gòn giờ đây đã trở

thành một thành phố của các sự hối lộ và của thanh toán nhau...Từ các thùng rác không đổ đi được và những miệng cống bị tắt tịt.. phóng lên một mùi xú uế nồng nặc đã thành một mùi đặc biệt của thành phố nầy ...."

Người ta tìm được ở đây bạch phiến với một giá bất chấp mọi sự cạnh tranh nào. Nguyên chất ,

90 %, và rẻ hơn thuốc phiện vốn từ đó bạch phiến được lấy ra. Đó là do bọn cộng sản đã mang sang từ Lào, từ Tam Giác Vàng , từ Thái Lan .. để cho tràn ngập thị trường ở đây. Chu ân Lai đã từng thú nhận

như thế trong một cuộc phỏng vấn ở Hán Khẩu :" Người Mỹ họ có B.52, thì chúng ta có ma túy"

Ở tiệm Soul Alley, nằm về phía sau Tân Sơn Nhất , thường có những tay ăn cắp chuyên nghiệp, thường là

những lính đào ngũ da đen. Họ đào ngũ bởi vì họ quá nghiện rồi và tự biết là họ sẽ không bao giờ có được bạch phiến nữa khi về đến Hoa Kỳ . Cũng như người ta đã từng nhắc nhở với họ trong tờ Stars & Stripes rằng bạch phiến ở Hoa Kỳ mắc bằng 10 lần hay 20 lần hơn, nên họ đã thích đào ngũ để ở lại đây luôn.

Sài Gòn đã bung to ra vì Quân đội Hoa Kỳ . Các người lính Mỹ dơ dáy, tóc để dài, thường hay làm dấu hiệu hòa bình trên đường phố. Họ la cà hết các quán rượu nầy đến nhà thổ khác. Họ làm thối nát Sài Gòn và ngược lại Sài Gòn làm hư hết binh sĩ Mỹ.

Đối với vấn đề nầy, phải nhấn mạnh đến ảnh hưởng của người phụ nữ Việt Nam . Chính họ là người nắm túi tiền. Có 3 người đàn bà đã có một vai trò quyết định trong việc để mất Miền Nam Việt Nam . Bà Thiệu, vợ của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa , bà Khiêm , vợ của Thủ Tướng chính phủ , và bà Quang, vợ của cố vấn quân sự đầy quyền lực của Tổng Thống. Các bà nầy có những văn phòng bí mật ở Sài Gòn để ở đó họ bán đấu giá những địa vị những chức vụ, những giấy phép quan trọng, những chiếu khán xuất cảnh, những giấy miễn dịch Quân sự . Bán tất cả miển là có tiền, có mỹ kim hay đồng quan Thụy sĩ..

Người thợ thủ công phải chung một phần lợi tức của mình cho đại tá hay ông tướng nào đó của đơn vị mình để được tiếp tục ở nhà hành nghề . Những anh Tàu giàu có còn lanh hơn, tự xung phong làm bếp cho tướng lãnh. Dĩ nhiên họ phải cung cấp cả bếp lẫn thức ăn cho vị tướng đó. Năm 1971, quân số của hầu hết các đơn vị đều gian dối: người ta thổi phồng quân số lên để giúp cho các sĩ quan có thêm tiền lương của lính ma lính kiểng hoặc bán đi thực phẩm của họ.

Lúc bấy giờ, ông Thiệu là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa , chánh thức được Tổng Thống Hoa Kỳ và CIA nâng đỡ. Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Phó Tổng Thống và tướng Minh Dương là người rất bình dân. . Ông vẫn là người tiêu biểu cho hòa bình . Sau đó tướng Kỳ bị loại ra và tướng Minh thì bị đưa sang Thái Lan. Các tướng lãnh và đại tá thì ủng hộ ông Thiệu. Họ muốn được yên thân để làm giàu.

Tất cả cho thấy có một sự thúi nát, nhưng người dân Miền Nam Việt Nam vì không muốn chế độ cộng sản nên phải chấp nhận ông Thiệu và mọi sự hư hỏng nầy. Và vì họ nhớ tới vụ tàn sát ở Huế.

Chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát phần lớn lãnh thổ vào năm 1971 từ sau khi các đơn vị Hoa Kỳ rút đi.Đó là trên phương diện chánh trị. Và họ sẽ mất dần trên phương diện quân sự .

Người dân Miền Nam Việt Nam rất sợ người dân Hỏa Tinh của Hà Nội , những người "nhỏ thó mặt

đồ xanh lá cây". Đối với họ đây là những người thuộc một hành tinh khác, một giống người khác , khắc nghiệt, cười nhưng không biết động lòng, là những tượng gỗ . Sài Gòn vẫn thích đời sống dễ dãi, và không muốn vào nhà kín để trở thành một bà sơ đỏ.

Lịch sử về những nguồn gốc của Sài Gòn đã cho chúng ta hiểu nhiều hơn về lối sống và xử sự của người dân, vừa có chút máu tàu , chút máu Miên, rồi đã phải sống chung và liên lạc lâu dài với người Pháp, rồi với người Nhật, với người Mỹ... không thể sống mà không có người bảo hộ, những người mà họ vẫn luôn luôn không trung thành, mà thiếu họ cũng không được .



*

* *

Chú Thích của dịch giả:

(2) - Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài không phải là dị giáo như tác giả đã hiểu, nên đến giờ nầy (thế kỷ 21) vẫn còn tồn tại. Chỉ riêng có nhóm Bình Xuyên thì sai trái, không có chánh nghĩa, nên bị triệt tiêu là quá đúng.

(3 )- Ở chỗ nầy tác giả có một nhận xét quá chủ quan, có thể sai. Sự thật là người lái xe "Citroen 2 ngựa" đưa hai ông Diệm Nhu và tùy viên quân sự rời khỏi Dinh Gia Long là thiếu tá Trang khánh Hưng, người cùng quê và bạn học một trường một lớp từ nhỏ với dịch giả. Anh cũng là một sĩ quan thiết giáp như dịch giả, được biệt phái qua Bộ Thanh Niên, làm việc với ông Cao xuân Vỹ. Anh được lệnh của ông Cao xuân Vỹ đến chờ đón hai ông Diệm Nhu ở một nghách bí mật từ Dinh Gia Long ra, ngay lúc hoàng hôn chiều tối ngày 1/11, lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Công tác hoàn thành, anh đưa họ vào nhà ông Mã Tuyên hồi gần 9 giờ đêm, và từ đó họ mới vào được nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn. Riêng đại tá Thiệu, với tư cách là sư đoàn trưởng sư đoàn 5, ông đang cùng với Bộ Tham Mưu sư đoàn ở Bộ Chỉ Huy hành quân của sư đoàn, không đóng gần Dinh Gia Long ;

(4) tác giả quá chủ quan, đưa ra những con số cao gần gấp 10 lần sự thật.




--------------------------------------------------------------------------------


CHƯƠNG MỘT

(tiếp theo của phần 2 )



Theo ông Pétrus Trương vĩnh Ký (quyển sách “Những Kỷ Niệm Lịch Sử của Sài Gòn và Những Vùng Ngoại Ô” : diễn văn của ông Pétrus Ký tại Đại Học Thông Dịch Viên 1887) thì cái tên Sài Gòn mà chúng ta đang gọi là tên của thành phố Chợ Lớn , thành phố của người Hoa trong hiện tại. Chữ “Sài” được mượn từ một chữ Tàu, có nghĩa là “Cây”; chữ “Gòn” tiếng Việt Nam có nghĩa là cây gòn. Thoạt đầu lúc người ta mới gọi Sài Gòn thì có rất nhiều cây loại nầy được người Cam Bốt trồng chung quanh các thành cổ bằng đất mà hiện nay người ta vẫn còn thấy được dấu vết gần đình Cây Mai và quanh vùng đó. Do vậy người Cam Bốt đã chỉ rõ cả vùng nầy là Sài Gòn.

Trước vua Gia Long, Sài Gòn chỉ là một làng thường của người Cam Bốt, có tên gọi là Prei Kor với những rào cây xanh bằng cây “gòn” , nhưng dầu đơn sơ như vậy đây là dinh của một vị vua.

Năm 1680, có hai vị tướng người Trung Quốc đời nhà Minh không chịu tùng phục người Mãn Châu là kẻ xâm lăng nước Tàu lúc bấy giờ, nên đã cùng với 3000 binh sĩ trốn đi trên 60 thuyền lớn. Họ đến với vua Hiền Vương của Việt Nam (lúc đó còn gọi là An Nam) . Vị vua nầy viết cho họ một lá thư để trao cho quốc vương Cam Bốt, chư hầu của Việt Nam, cho họ được phép ở Nam Kỳ để khai phá đất hoang quá rộng ở đây. Lúc bấy giờ quốc gia Cam Bốt đang trong thời kỳ suy đồi, được chia ra làm hai vùng, một là ở phía Tây chịu ảnh hưởng của Thái Lan, và một vùng ở phía Đông chịu ảnh hưởng của Việt Nam . Coi như quốc gia nầy sắp bị diệt vong , cuộc xâm lăng của người Pháp đã cứu được quốc gia đó.

Đến được Đồng Nai, hai tướng người Tàu chia ra thành hai nhóm, một đi lên Miền Đông ở Biên Hòa và một nhóm xuống Mỹ Tho ở Miền Tây. Vị vua Cam Bốt ở Prei Kor cảm thấy bị đe dọa vì hai nhóm Tầu ở cả hai Miền Đông và Miền Tây, nên viết thư cầu cứu quốc vương Việt Nam .

Quốc Vương Việt Nam muốn lợi dụng cơ hội để xuống chiếm luôn vùng nầy, nên đã gởi đến một tướng lãnh nào đó có tên là Văn. Vua Cam Bốt ở Sài Gòn chọn con đường tự tử để khỏi phải bị bắt để rồi sẽ bị nhốt vào cũi cho đến chết vì đói, theo phong tục lúc bấy giờ.

Sụ can thiệp của triều đình Việt Nam đưa đến một làn sóng di cư của người dân Việt và nhờ sự giúp đỡ và khuyến khích của chính phủ đã lần lần chiếm hết Miền Nam Việt Nam.

“ Thật tình mà nói thì trên phương diện hoàn toàn luân lý, người dân Việt vào Nam lúc bấy giờ hầu hết không phải là những người được chọn lọc, mà phần đông là dân bị đày biệt xứ, những người đào ngũ, những người sống lang thang không cửa không nhà, nhưng cũng là những người có cá tính đặc biệt quen với những thiếu thốn, chịu gian khổ, và họ đến nơi định cư với những đức tánh chịu khó, dẻo dai và ham hoạt động .

Do vậy, Sài Gòn cũng như cả Miền Nam Việt Nam được thoát thai từ một sự pha trộn giữa người Cam Bốt , những dân bất hảo và phiêu lưu người An Nam thời đó, người Mã Lai, người Nhật và một số lính đánh thuê người Tàu bị đuổi khòi Trung Quốc .

Sự nổi dậy của người Tây Sơn, dân vùng bình nguyên An Khê, đã làm cho Nguyễn Ánh (về sau trở thành vua Gia Long) phải bỏ chạy. Nhưng may mắn ông lại gặp được một nhân vật đặc biệt là linh mục d’Adran, ông Pierre Pigneau de Béhaine, Khâm Mạng tòa thánh ở Nam Kỳ. Vị giám mục lực lưỡng nầy, người có một dòng máu lạ lùng pha trộn giữa một dũng tướng, một nhà ngoại giao và một nhà truyền giáo, là người bảo trợ cho người mà ông gọi là “một ông vua nhỏ bé, đau khổ của xứ Nam Kỳ”. Qua trung gian của giám mục nầy, Nguyễn Ánh xin được sự trợ giúp của nước Pháp, và ông giao cho Giám mục những gì quý giá nhất của đời ông : đó là hoàng tử Cảnh và ấn tín của nhà vua.

Ngày 28 tháng 11 năm 1787, Hiệp Ước Versailles đã được ký kết, theo đó vua Louis XVI cam kết đặt lại ngôi vị quốc vương cho Nam Kỳ, bù lại người Pháp sẽ được tự do buôn bán trên toàn cõi Việt Nam và đặc biệt được quyền xử dụng hải cảng Tourane (Đà Nẵng) . Nhưng hoàn cảnh nội bộ của nước Pháp sau đó đã buộc vua Louis XVI phải quyết định hủy bỏ cuộc viễn chinh.

Ngày 24 tháng 7 năm 1789, Giám mục Bá Đa Lộc vào Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) với 3 chiến thuyền, trong đó có chiếc Méduse với một đạo quân tình nguyện do chính ông tuyển mộ : 400 người Pháp. Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn, một căn cứ không mấy quan trọng và từ nơi đó ông chờ viện binh của ông.

Giám Mục Pigneau de Béhaine sẽ trở thành Bộ trưởng Chiến Tranh và Tổng Trưởng Ngoại Giao của vua Gia Long trong suốt 10 năm liền. Chính ông ta đã chuyển những nhóm người ủng hộ nhà vua thành một quân đội hiện đại, vững mạnh , mà cán bộ chỉ huy thuộc nhóm quân tình nguyện người Pháp

Quân Tây Sơn thua và bị đuổi đi, Nguyễn Ánh lấy lại Huế và sau đó Hà Nội (ngày 20 tháng 7 năm 1802) và lên ngôi với danh hiệu là Gia Long. Ông nhận sự tấn phong từ hoàng đế Trung Quốc vẫn luôn luôn với danh nghĩa là bá chủ của An Nam Quốc. Chỉ còn thiếu có phép lành của người bạn Giám Mục của ông mà thôi.

Sau đó không bao lâu thì Giám Mục qua đời. Ông được chôn ngay cửa thành phố Sài Gòn , trong một “ngôi mộ nguy nga” . Bây giờ thì chung quanh đó có quá nhiều nhà sùm sụp. Và toàn là kẻm gai chung quanh. Có nhiều binh sĩ đang phòng thủ ở đó sau những bức tường bằng bao cát. Một lần nữa, vị Giám Mục Pigneau de Béhaine nầy lại có mặt ở tiền tuyến..

Thành Sài Gòn được Ông Olivier, một người Pháp trong hàng ngũ tình nguyện mà Giám Mục Bá Đa Lộc mang sang, đã đứng ra xây cất theo kiểu Bát Quái dồ, có 8 cừa (8 ô theo thuật bói toán của người Tàu, gồm 4 hướng chánh và 4 hướng phụ), được dựng lên hướng về nhà thờ chánh tòa. Giám mục Pigneau de Béhaine người rất mến thương đại đội binh sĩ của ông nên cất nhà ở ngay tại đó.

Đã trở thành hoàng đế, vua Gia Long đóng đô ở Huế, để Sài Gòn cho người phụ tá thân tín của ông là Ngài Tả quân Lê văn Duyệt, người sẽ trở thành Tổng Đốc xứ Nam Kỳ.

Nhờ vào một vài người Pháp mà ông giữ lại bên mình, vua Gia Long đã tiến hành được một chuyển đổi thật sự cho đất nước. Thật vậy, đi trước Nhật bản gần 60 năm, Ngài đã đoán thấy cái lợi của sự tăng trưởng sức mạnh mà một quốc gia Á Châu có thể có được do sự thu nhận kỹ thuật của phương Tây.

Vua Gia Long mất vào năm 1820 và người con trai thứ tư của Ngài lên nối ngôi. Cũng giống như những vì vua kế tiếp là Thiệu Trị (1841- 1847) và Tự Đức (1847-1883), vua Minh Mạng tiêm nhiễm văn hóa Trung Hoa. Ông khinh miệt những người Tây phương mà ông gọi là “ngoại lai” và nghi ngờ các xí nghiệp của họ. Triều đại của 3 vì vua nầy đã đánh dấu một sự phục hồi rõ nét ảnh hưởng văn hóa Khổng Học của Trung Quốc đến trở thành mẫu mực . Trong khi vua Gia Long đã biết được sự cần thiết của một sự hiện đại hóa càng nhanh càng tốt, thì những người kế thừa ông lại tin là có thể bảo vệ nền văn hóa Khổng học của Trung Quốc bằng cách cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài.

Để giữ vương quốc bị “Hán hóa” của mình cách biệt với thế giới bên ngoài, vua Minh Mạng và những vì vua kế tiếp đã truy hại những giáo dân, thuộc “giáo phái nghịch đạo”. Riêng tại Bắc Việt con số bị giết đã lên tới 70.000 trong tổng số 300.000 người. Có những sự bắt bớ toàn bộ, nhà thờ bị đốt, các linh mục truyền giáo bị xử trảm… đã khiến cho hải quân Pháp phải can thiệp , bắn chìm trước càng Đà Nẵng năm 1847 những tam bản và chiến thuyền của Việt Nam

Những sự truy hại người công giáo vẫn cứ được tiếp tục như thường và một vị cố đạo người Tây ban Nha là Giám mục Diaz đã bị hành quyết. Điều nầy giải thích tại sao một tàu hộ tống và một biệt đội bộ binh tham gia việc chiếm đóng Nam Kỳ và tiến chiếm Sài Gòn .

Hoàng đế Napoléon III đang cần có một vài chiến thắng quân sự đã lấy cớ vì những sự truy hại đó để can thiệp. Ngày 25 tháng 11 năm 1857, một hạm đội gồm có 14 chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của đô đốc Rigault de Genouilly đã bắn vào các thành lũy của Đà Nẵng và các đại đội đổ bộ của ông ta đã chiếm thành phố và hô vang những khẩu hiệu “Vạn tuế Hoàng Đế Nã phá Luân”

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, đến lượt Sài Gòn bị chiếm. Cuộc tiến chiếm Sài Gòn bắt đầu từ sáng sớm tinh sương và chấm dứt lúc 10 giờ sáng và thành lính do ông Olivier xây cất bị chiếm. Người Pháp và người Tây ban Nha tìm thấy được ờ đó một số vật liệu đáng kể : “200 khẩu đại bác bằng sắt và bằng đồng, 20.000 khẩu súng tay, 8 tấn rưỡi thuốc pháo… một thùng đựng bạc để đúc tiền trị giá 130.000 quan Pháp và một số lượng gạo đủ nuôi 8.000 người trong một năm. “

Đô đốc long trọng chiếm thành phố và chỉ định đại tá Jauréguiberry làm tổng trấn. Đô đốc Bonard kế vị đô đốc Rigault de Genouilly với danh xưng là thống đốc toàn quyền xứ Nam Kỳ. Vua Tự Đức đành phải chịu mất cả Sài Gòn và các tỉnh phía Nam.

“Không thấy có Sài Gòn một thành phố của người An Nam lúc chúng tôi đến đây” Ông Jean Bouchot đã viết như vậy trong Tập San Nghiên Cứu vế Đông Dương “ .

“Trong giới hạn hiện tại của trại binh sĩ Pháp, người ta chỉ có thể nhìn thấy được một số xóm, làng mạc, những vùng dân cư rải rác, hoặc dọc theo hai bờ sông, hoặc trên bờ rạch theo các hàng cây xanh, hoặc trên sườn đồi nhỏ nằm trong vùng bảo vệ của trại lính.”

Và đây là phần mô tả của ông Léopold Pallu của tạp chí La Barrière năm 1859 :

“ Người khách du lịch lúc đến Sài Gòn thấy được bên bờ phải của con sông một con đường mà hai bên nhà cửa thưa thớt, cách khoảng với nhau, có nhiều khoảng trống lớn. Hầu hết các căn nhà cây được lợp bằng lá dừa nước. Có một số ít được xây bằng đá, nóc lợp bằng ngói đỏ xem đẹp mắt phần nào. Kế đó là nóc nhà mái cong của một ngôi chùa phối cảnh của con rạch Tàu và hai con kinh nhỏ dùng cho các xuồng ghe nhỏ của người bản xứ. Một hàng hiên không còn thẳng đứng được dùng làm chợ mà nóc của nó lúc nào trông cũng thấy muốn xiêu về bên phải. Hằng ngàn chiếc ghe thuyền chen nhau đậu vào bờ sông trông như một làng nổi. Người An Nam, người Ấn Độ, Tàu và vài quân nhân người Pháp và Phi Châu qua lại đi tới đi lui, thoạt nhìn tạo nên một cảnh trí lạ nhưng sau đó thì mắt thấy chán chê ngay. Sau đó thì Sài Gòn không còn có gì để mà xem nữa hay nếu có thì dọc theo con rạch Tàu còn một số nhà khá sạch sẽ được xây cất bằng đá, trong đó có một ít nhà cũ, còn đứng vững được sau các cuộc nổi dậy vừa qua. Lúc chúng tôi vừa đến chiếm cứ ở đây thì vùng đất thấp hiện tại của Sài Gòn chỉ là một vùng đồng ruộng sình lầy tràn ngập nước khi thủy triều lên. Các quan chức dân sự và quân sự và những người khá giả thì ở trên bình nguyên chạy dài từ thành lính Pháp đến cánh đồng mả, trong khi lớp dân chúng đang cần làm lụng mỗi ngày thì chen chúc nhau ở bên bờ phải của con rạch trong những nhà sàn lợp lá trông như được treo lửng lơ dọc theo hai bên bờ sông như chúng ta còn thấy hiện nay.Vài con đường nhỏ được nâng cao lên khỏi mặt nước nối liền thành phố kỹ nghệ với các khu nhà quý tộc, và ai cũng biết là người An Nam quá quen với chuyện đi dưới ruộng rồi thì việc liên lạc qua lại giữa các khu không có gì gọi là khó khăn hết.” (báo Courrier de Sài Gòn ngày 5 tháng 6 năm 1865)

Vài năm sau, một người khách du lịch khác đã viết về Sài Gòn như sau :

“Có những lều nhỏ được cất theo kiểu nhà sàn, nối liền nhau bằng những cây tre kết lại với nhau, làm thành khá nhiều khu dân cư. Hai bên bờ có rất nhiều con rạch nhỏ đầy bùn. Đó là nhà ở của dân chúng được xây cất ở nơi mà bây giờ người ta gọi là thành phố Sài Gòn , lúc đô đốc Rigault de Genouilly mang lá cờ tam tài của Pháp đến dựng lên ở cái thành lính đổ nát của người An Nam lúc bấy giờ.”

Một sĩ quan đã mô tả cho chúng ta bên trong của các nhà đó như sau :

“ Một buổi sáng tôi đã đến thăm một vài căn nhà nhỏ của Sài Gòn, mặc dầu tôi cảm thấy khó chịu khi tôi tiếp xúc với những người có hàm răng đen vì trầu và môi đỏ như máu vì bị chất vôi ăn trầu đốt cháy, và họ hay cắn rận chí của chính họ. Cũng giống những căn nhà ở Đà Nẵng, bàn ghế bên trong rất thô sơ. Trên nền nhà bằng đất họ trải chiếu. Người dân thường ngồi trên chiếu để ăn cơm. Nằm ở cuối nhà là một chiếc giường, với khung cây và cao hơn mặt đất, có chiếu trải ra trên đó. Hai bên vách có treo các thúng rổ đan bằng tre, trong đó là ổ chuột, bồ cạp v.v.. Nhà không có cửa sổ, không có ống khói, chỉ có một cửa trước với một tấm phên dở lên dở xuống bằng một khúc tre…”

Ông Jean Bouchot còn viết như sau :

“ Khi quân lính tiến vào, thành phố chỉ có một thành lính, được xử dụng như một trung tâm hành chánh hơn là một căn cứ quân sự, với một trại của mấy ông đồ nho và môt vài khu buôn bán, nhà cửa lụp xụp như người ta thường thấy chung quanh các trại lính người An Nam khác.

Hầu hết phần đất bây giờ nằm giữa bờ sông, chợ, đường Catinat (Tự Do) và đường Bonard, là khu đất sình lầy, trong đó còn có vài con rạch nhỏ đầy bùn chạy ngang dọc. Như người ta đã nói một cách công bằng, phải tài lắm mới lắp hết được vùng sình lầy nầy trong một thời gian ngắn kỷ lục, rồi làm cho đất cứng lại, đặt ống cống, xây cất nhà đẹp và các tượng đài kỷ niệm, phóng các con đường và trồng cây 2 bên, xây các đại lộ, các bồn binh, đặt các ống nước và phông tên nước khắp nơi đề có nước ngọt xử dụng cho đời sống của dân chúng …Nói tóm lại bằng mọi cách tạo ra một thành phố kiểu Âu Châu, duyên dáng, xinh đẹp, tiện nghi cho đời sống, ăn ở, đầy sức sống và mọi sinh hoạt cho 35.000 dân. Công trình nầy chúng tôi phải ghi công cho các đô đốc và vị toàn quyền đầu tiên của chúng tôi một người dân chính, ông Le Myre de Villers. Từ một bãi sình lầy, ngập nước , bẩn thỉu… nhờ họ đã biến thành một trong những thành phố đẹp nhất và trong lành nhất ở Viễn Đông.”

Đô đốc Charner, vừa đặt chân lên bờ đã bắt tay ngay vào việc.Cùng với những người kế vị ông , các đô đốc Bonard, De la Grandière, Rose, Ohier Cornulier-Lucinière, Dupré, Krantz, Duperré, Lafont…. họ cùng nhau xây dựng một thành phố. Nhưng thật đúng là quan niệm của hải quân: những đại lộ thẳng tắp được trồng cây hai bên lề tất cả đều dẫn xuống hải cảng, như đường Catinat (Tự Do). Dĩ nhiên còn có những đường cắt ngang. Các nhà đều được xây cất bằng gạch và sắt, như bệnh viện Grall, được thoát thai từ lối kiến trúc thượng từng như những chiến hạm để cho không khí được lưu thông dễ dàng.

Cuộc tiến chiếm đã phá hết thành phố Sài Gòn cũ, kế hoạch xây cất thành phố mới được vẽ rộng ra quả là một sự hồi sinh. Phải san bằng vùng bình nguyên quá cao , lấp bằng càc vũng lầy, làm lại các con đường và xây cất nhà cửa trên vùng đất không có chân. Con đường đầu tiên được sửa chữa phục hồi lại là con đường Catinat, dựa trên con đường cũ của người An Nam đi từ con sông đến thành lính cũ. Bên trái con đường nầy từ con sông đi lên, ngay đại lô Charner bây giờ, là con kinh Charner cũng được gọi là con Kinh Lớn, chỉ mới được lắp đi vài năm gần đây thôi. Con kênh nầy vốn giúp cho các thuyền bè chuyên chở đầy ấp hàng hóa, và thực phẩm đưa vào dọc theo hai bên chợ, đã phải bị lấp đi vì tình trạng ao tù nước đọng, quá bẩn dễ sanh bệnh thời khí. Hai bên bờ kinh là hai bến cảng, đó là bến cảng Charner và bến cảng Rigault de Genouilly, thẳng góc với con sông và đến đường Espagne là hết.

Đô đốc Bonard cho xây cất ngoài vòng thành một căn nhà rất đẹp bằng cây ván, mua ở Tân gia Ba, tạm dùng làm dinh toàn quyền. (tất cả các đô đốc vẫn tiếp tục ở dưới tàu của họ neo trên sông Sài Gòn vừa để cho mát mẻ mà cũng vừa để được lãnh tiền lương hải hành và 12 phần lương thực mà họ vẫn có quyền được hưởng.) Cột cờ đươc dựng lên phía trước mặt tiền nhìn về con sông Sài Gòn. Đây cũng là nơi dẫn đến hệ thống điện tín nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn , Biên Hòa , Bà Rịa, và Vũng Tàu. Điện tín tư vẫn có như ở bên Pháp.

Trại lính của tiểu đoàn binh sĩ bản xứ trên đồi trông thật ngoạn mục. Gần đó, bên trong trại cũ của những nhà nho cũng được thấy dựng lên một số trại gia binh. Các nhà kho và cơ xưởng của hải quân và của pháo binh thì nằm ở giữa con sông và các công trình mới, ở đó người ta đã tiến hành lấp con rạch nhỏ. Bên cạnh đó là trường dạy các thông dịch viên, một bệnh viện mới và một số nhà đẹp của các bà sơ của dòng Saint Enfance…

Ở đâu cũng có trồng cây cỏ xanh um. Nhà thờ được cất xong năm 1885. Phải tốn hết 2.059.257 quan Pháp. Người ta rất hãnh diện. Cũng như với nhà hát lớn, vườn bách thảo và nhà vòm của nó dành để chơi nhạc, khách sạn và các nhà bưu điện, câu lạc bộ sĩ quan và khách sạn của vị Phó toàn quyền. Về vật liệu, luôn luôn là gạch và sắt.

Bình luận gia của tờ “Tạp Chí Đông Dương” (1898) đã bay bướm kết thúc một bài hay tuyệt, mô tả như sau:

“ Các anh không được nói về Sài Gòn một cách hời hợt nữa, các anh phải hiển nhiên công nhận thành phố nầy không phải là một tác phẩm giả tạo, một ý thích bất thường của một vài ông đô đốc hay của một ông toàn quyền dân sự, sau cùng các anh sẽ đoán ra tại sao bao nhiêu người Pháp và công chức, kiều dân, bộ binh và lính thủy đã thương yêu xứ Nam Kỳ lắm lúc tha thiết đến có thể chết vì nó, tại sao họ muốn nó phải có một tầm quan trọng, và không bao giờ nghi ngờ về tương lai của nó. Nếu các anh hiểu được chuyện đó các anh sẽ phải ngã mũ chào Sài Gòn , thủ đô của Nam Kỳ, ở đó suốt 35 năm không gián đoạn lá cờ của nước Pháp hãnh diện tung bay…”

Sài Gòn sẽ trở thành một trong những thành phố dễ thương nhất của Viễn Đông. Đời sống ở đây rất êm dịu, nhất là cho những người Âu Châu. Các thương buôn đến từ Pháp và hợp tác với người Hoa để giữ độc quyền về lúa gạo và mua bán đất đai. nhưng chỉ trong thành phố thôi. Người Việt Nam vẫn còn là chủ của những đồng ruộng lớn ở Miền Tây.

Từ năm 1880, ở Sài Gòn đã có một hội đồng thành phố nơi đó các công chức và kiều dân Pháp làm luật hơn là những người Việt Nam mà trước đó họ cần phải xin được vào quốc tịch Pháp..

Ba sở công cộng đã được thành lập: sở thuốc phiện, sở rượu và sờ muối. Một người du lịch vào thăm sở thuốc phiện và mê say 3 bộ máy cân tự động do một công chức chánh ngạch của quan thuế , ông Deyne, sáng chế ra giúp có thể cân được 10.000 hộp thuốc phiện trong một ngày.

“ Vào ngày mà chúng tôi đến viếng nhà máy chế tạo thì cái kho chứa cây thẩu để cho lên men đang có đến 34.570 kí lô thuốc phiện đang lên men mà giá tại xưởng là 13 hay 14 $ một kílô. Cái kho chứa võ cây thẩu có những bình chứa hình xi-lanh, có hình dáng như các hộp sữa đặc . Mỗi bình chứa độ 100 gờ ram vỏ cây thẩu và bán ra thị trường với giá là 1 đồng bạc một hộp. Vỏ cây hay đúng hơn là lá cây thẩu ép lại, chưa nấu, do công nhân và các thợ đốn cây làm ra. Họ nhai các vỏ cây nầy như ăn trầu vậy. Vỏ và lá cây thẩu có một số lượng rất ít mót-phin và dược chất khác từ thuốc phiện. Sở nầy cung cấp cho Bắc Việt và Trung Việt từ khi hai nơi nầy bị cấm trổng cây thẩu.”

Hải cảng Sài Gòn được trang bị lại. Một đường xe lửa được thiết lập để nối liền thủ đô Miền Nam với Hà Nội ở Bắc Việt .

Dưới sự lãnh đạo của ông Paul Doumer, một nước Đông Dương thuộc Pháp được hình thành. Mặc dầu có một số chống phá của người quốc gia nhất là ở Bắc Việt, sự tăng trưởng của một vài hội kín ở Trung Việt và sự ra đời của một vài giáo phái ở Nam Việt nhưng thuộc địa vẫn tiếp tục phát triển. Phần lớn dân chúng dưới trào của ông Albert Sarraut, đã chọn nước Pháp.

Trong thời kỳ Thế chiến 1914-1918, cả Đông Dương chỉ có 2.500 vệ binh Đông Dương mà không có xảy ra một biến loạn nào, trong lúc có gần 100.000 người Việt sang tác chiến và làm việc tại Pháp.

Nam Kỳ có một quy chế cùa một lãnh thổ Pháp, và Sài Gòn có một sự quyến rũ như một thành phố của một tỉnh được chuyển đến vùng nhiệt đới..

Các buổi khiêu vũ, các chợ hoa, các cuộc triển lãm, các chầu kịch nghệ…đã làm cho người ta quên hết những hiểm họa đang đe dọa Đông Dương và đặc biêt hơn hết là Sài Gòn .

Đảng cộng sản của Hồ chí Minh và đàng Việt Nam Quốc Dân Đảng, một đảng nhái theo đàng Kou ming Tang của Trung Quốc xúi người ta đình công và biểu tình đã bị thẳng tay dập tắt. Có ai lo lắng cho Sài Gòn, ngoài một số chuyên viên mật thám ?

Lạ lùng thay, vào năm 1939, khi chiến tranh bùng nổ, toàn cõi Đông Dương thật là yên tịnh. Mà đây cũng là một thời kỳ phồn thịnh nhất ờ đó. Giá gạo và cao su đang lên, con đường hỏa xa xuyên việt đã thực hiện xong, nối liền Sài Gòn với Hà Nội trong 50 giờ. Những kẻ gây rối được đưa vào nhà tù.

Người dân bản xứ và kiều dân Pháp sống gần nhau hơn bao giờ hết.Người ta qua lại tiếp đãi nhau. Cả một thế hệ người Việt được đào tạo về văn hóa và tư tưởng của Pháp.

Nước Pháp thất trận năm 1940. Đông Dương bị cắt đứt liên lạc với nước Pháp và suốt 5 năm như vậy. Ngày 18 tháng 6, Nhật bản gởi tối hậu thư cho tướng Catroux, buộc ông nầy phải đóng cửa biên giới Việt Hoa trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và để cho giới chức Nhật được quyền kiểm soát biên giới nầy.

Trên thực tế không có quân và cũng không có không quân, mà đã có kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ nhưng vô hiệu , toàn quyền Catroux đành phải nhượng bộ. Đô đốc Decoux thay thế ông ta và còn phải buông bỏ một vài chỗ nữa : phi trường Hà Nội , phi trường Lào Kay và cả cảng Hải Phòng, để chỉ đổi lấy một sự công nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Đông Dương một cách mơ hồ.

Hiến Binh Nhật, (Kempétai) được dùng để xúi dục dân chúng chống lại người Pháp, họ xử dụng các giáo phái chánh trị - tôn giáo ở Miền Nam như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hão và những nhóm quốc gia nhỏ. Nhưng Đồng Minh thì vẫn tiếp tục không nhận sự giúp đỡ của họ.

Đô dốc Decoux và nhóm người của ông cưỡng lại từng bước một, báo cho chính phủ Vichy nhưng sống hoàn toàn tự túc, không có viện trợ, không có lệnh lạc gì cả, vô phương tìm được một sự ủng hộ của một nhóm dân chúng Việt Nam nào ngoài các nhóm cộng sản , quốc gia và nhóm cộng tác với Nhật Bản.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, là ngày của bạo lực. Lực lượng của Mikado tấn công bất thần. Quân đội Pháp bị triệt tiêu, bị cầm tù ờ Sài Gòn, bị sát hại ở Lạng Sơn. Không còn chánh quyền nữa. Người Nhật biết mình sấp sửa thua nên trước khi thất trận họ muốn lôi kéo cả vùng Đông Nam Á vào cuộc chiến chống người da trắng.

Người Pháp ở Sài Gòn sắp biết những giờ phút khó khăn. Họ bị tập trung vào một số khu vực. Đã quen với lối sống tự do thoải mái, họ gặp lại nhau người nầy nhìn người khác, suốt thời gian không một người giúp việc nên họ thấy khó mà sống khổ như vậy được.

Hà Nội và Huế đã rơi vào tay của Việt Minh cộng sản vào lúc Nhật đầu hàng. Bảo Đại cũng thoái vị chạy theo Việt Minh. Tại Sài Gòn Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất được người Nhật dựng lên nhưng đã nhanh chóng bị cộng sản chế ngự. Cờ đỏ tung bay từ biên giới Trung Quốc đến mũi Cà Mau .

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Hà Nội Hồ chí Minh tuyên bố độc lập trên toàn cõi Việt Nam và nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam ra đời. Tại Ba Lê, người ta không biết những gì đã xảy ra và người ta đề ra những kế hoạch trên cung trăng.

Nếu Việt Minh nắm chặt được Miền Bắc, thì ở Miền Nam lại hoàn toàn khác hẳn.

Ngay tại Sài Gòn tình trạng hỗn loạn đang tiến mạnh . Trộm cướp từ Khánh Hội, Chợ Lớn, Đakao, tràn lan ra khắp nơi ở Đô thành. Ở các cửa ngõ vào thành phố bên kia sông Sài Gòn , các tay cướp Bình Xuyên bắt đầu ra trấn đóng các căn cứ để từ đó họ tung ra làm ăn ở ven đô. Sự sôi động đang tăng dần. Các nhóm trốt-kít, cộng sản, Cao đài đều tung ra hoạt động, trong lúc chung quanh các trại lính Nhật, chuyện buôn bán vũ khí đang phát triển mạnh.

Bọn cộng sản không kiểm soát nổi dân chúng . Quân đội Anh đến nhận sự đầu hàng của người Nhật phải duy trì trật tự . Họ dùng lại những binh sĩ Nhật vốn một lòng với những đám nổi dậy.

Ngày 2 tháng 9, có một người truyền giáo bị ám sát trên sân nhà thờ, một nhóm người do các tay cầm đầu xúi dục đã cướp phá gia cư của người Pháp. Hàng trăm người trong cộng đồng Âu Châu bị bắt đi. Có một số người chết và bị thương….

Khoản 2000 binh sĩ Pháp - trong đó có 1400 tù binh chiến tranh được tái võ trang- chỉ trấn giữ thành lính Pháp (11 ème R.I.C), nơi đó có một số ngườiViệt Nam thân Pháp tỵ nạn. Quân đội Anh có khoản 1800 lính Anh và Ấn.

Ngày 24 tháng 9, có hơn chục người Pháp bị ám sát trong khu vực hải cảng và ngày 25 trong cư xá Hérault ngay giữa khu người Âu Châu có một trăm người da trắng và lai gồm cả nam nữ và trẻ con bị tàn sát trong những điều kiện đặc biệt hết sức dã man. Một trăm năm chục người khác bị bắt cóc và giữ làm con tin. Tất cả đã đượcxảy ra trong vòng hai tiếng đồng hồ trong sự kinh hoàng và hổn loạn.

Bọn cộng sản vì sợ bị cho là có liên lạc dính líu với chánh quyền mới của người Pháp nên thẳng tay giết chóc không biết gớm tay. Họ còn làm hăng say hơn những người cuồng tín thuộc các giáo phái và bọn cướp bóc vùng Dakao để người Âu Châu không thể biết họ là ai. Do đó lúc bấy giờ thật rất khó mà thương lượng được với họ . Sau 80 năm bị đô hộ rất thanh bình và không biết gì là lo âu , bây giờ Sài Gòn lại có một bộ mặt khác, một bộ mặt thật hãi hùng. Từ đâu mà Sài Gòn lại có bộ mặt nầy ? Từ những cuộc biến loạn có nguồn gốc của nó ?

Ngày 6 tháng 10, chiến xa của tướng Leclerc đổ bộ từ sông Sài Gòn chạy ngược lên đường Catinat (Tự Do) trong cơn bão, mưa như trút nước . Như thế là cuộc chiến đầu tiên ở Đông Dương vừa bắt đầu…. Thành phố Sài Gòn được bình định nhanh chóng, và từ thời điểm nầy Sài Gòn sẽ được đứng ngoài các trận chiến. Trừ hai trường hợp, là trận tấn công các giáo phái vào năm 1955 của chánh quyền, và trận tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 của cộng sản . Nhưng Sài Gòn sẽ lợi dụng cuộc chiến nầy, một cuộc chiến dài bất tận trong suốt 30 năm mà không biết ngượng ngùng và cũng không giữ ý tứ chút nào.



Ngày thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975 nầy, trên sân thượng của khách sạn Continental… tôi ngồi uống rượu với một vài nhà báo . Họ đến đây để chứng kiến những ngày cuối cùng của Sài Gòn ,.Những anh bạn cũ không còn ở đây nữa : các anh Bodard, Clos Ullman và tất cả các anh khác, những người mà người ta gọi là các nhà báo gốc Á Châu. Anh Schoendorffer đã viết xong một quyền sách rồi nên không thể đến, anh Bernard Fall thì đã đi đong vì đã đạp phải một quả mìn của Việt Cộng … .

Chung quanh chúng tôi như thường lệ vẫn có bọn giả trang, bọn gái điếm, bọn ăn xin, và bọn tàn tật không biết thật hay giả, cụt tay cụt chân…..Và bọn trẻ con cứ như đàn ruồi mà chẳng một ai đưổi được. Gái cũng như trai, họ cứ như rình rập mình, và sẳn sàng trao cho mình những gì mình muốn, bất cứ loại nào mà mình thấy cần, từ ma túy đến gái… . Và lúc nào cũng có thể chôm cái ví của mình nữa , nếu chúng nó có cơ hội.

Bên kia đường là các quầy nhỏ của những người bán thuốc lá. Tất cả đều rất yên tĩnh! Vậy thì chiến tranh nó ở đâu ?

Nhưng ở Tân sơn Nhứt , các xe ca đầy ấp người đang đổ người Mỹ và người Việt Nam xuống sân nhựa. Không đi qua hàng rào quan thuế hay an ninh, cảnh sát , họ chạy ùa vào các chiếc phi cơ Galaxy khổng lồ sẵn sàng cất cánh ngay sau đó; thường vào ban đêm…

Từ hai đến ba ngàn người dân tỵ nạn định tràn qua lực lượng an ninh cảnh sát của phi trường để vào một trong các chiếc phi cơ nầy . Hoa Kỳ dự trù di tản 130.000 người Việt Nam mà họ nghĩ là họ có bổn phận vì “nghĩa vụ tinh thần”, trong số đó có khoảng 50.000 người được xếp vào loại “có nguy cơ cao” sẽ nguy hiểm đến tánh mạng nếu họ còn ở lại Miền Nam Việt Nam, như là các nhân vật chánh trị , các nhân viên tình báo, cảnh sát và những người hồi chánh. Khoản 30.000 đã được di tản xong. Cho tới ngày hôm qua người Mỹ tin là họ còn được một tuần lễ nữa cho vấn đề di tản bằng cả phi cơ vận tải C.130 và những chiếc C.141. Nhưng các tin tức quân sự hình như rất xấu. Chốt Xuân Lộc vẫn còn, nhưng sư đoàn 18 bộ binh có nhiệm vụ phòng thủ tại đây đã bị bọc hậu nên phải rút về Trảng Bôm nằm ở giữa Xuân Lộc và Sài Gòn . Tỉnh Hàm Tân bị mất làm cho hải cảng Vũng Tàu (cap Saint Jacques) bị trống, hải cảng nầy ở cách thủ đô 65 cây số có thể giúp di tản một lượng người đông đảo hơn. Hoa Kỳ do đó có dự trù cho đổ bộ vài ngàn thủy quân lục chiến để giữ hành lang giữa Sài Gòn và Vũng Tàu. Nhưng đã quá muộn. Căn cứ Không Quân Biên Hòa đã bị pháo binh nặng của cộng sản bắn vào…

Nếu Biên Hòa mất – và có ai cản được chuyện đó – thì Miền Nam Việt Nam chỉ còn có mỗi một phi cảng duy nhất là Tân sơn Nhứt . Chỉ cần vài quả rốc kết cũng đủ để vô hiệu hóa phi cảng nấy.

Hai ngân hàng Chase Manhattan và First National City vừa cho đóng cửa. Hầu hết các hãng hàng không không còn bảo đảm một chuyến bay nào nữa ngoại trừ 3 hãng: Hàng Không Pháp Air France, hãng UTA, và hãng Air Việt Nam . Lý do là : các chuyến bay C.130 và C.141 của Hoa Kỳ đã có bị địch bắn lên.

Ông Trần văn Hương, một ông già suy yếu đáng kính, người đã thay thế tướng Nguyễn văn Thiệu, đã tiếp xúc hết người nầy đến người khác, từ Đại sứ Pháp, Đại sứ Hoa Kỳ, đến vài nhân vật địa phương mà tên tuổi gần như đã bị chìm trong quên lãng. Ông nghiên cứu tình hình. Rất là chăm chỉ. Ông đã có một vài biện pháp quan trọng. Phải chăng ông đã thay thế một tướng lãnh bằng một đại tá ở chức vụ Đô Trưởng Sài Gòn ?

Tôi thật sự đã ngửi được ngày cuối cùng của thành phố Sài Gòn và tôi không thể tin được đó là sự thật. Đã nhiều lần rồi Sài Gòn đã được cứu thoát như một phép lạ vậy. Nhưng lần nầy, người ta thấy khó mà chuyện đó có thể xảy ra. Cả 4 sư đoàn có nhiệm vụ phòng thủ thành phố trên thực tế đã bị cô lập.

Thiết quân luật vào 8 giờ chiều. Chúng tôi ăn tối tại khu vườn phía sau khách sạn. Một trái hỏa châu đang lơ lửng bay trên không dưới chiếc dù của nó..Từ căn phòng của tôi nhìn xuống tôi thấy con đường vắng hoe. Không có một bóng người, cà một đội tuần tiễu cũng không có. Có một vài tiếng súng trong đêm tối nhưng xa xa ..Tôi hy vọng ngày mai hai bạn Merlin và Mathurin sẽ tới, đó là một người quay phim và một người thu âm thuộc toán của chúng tôi . Có lẽ họ phải lấy chuyến bay từ trạm Bangkok. Họ đã thử vào Cam Bốt qua ngả Lào nhưng không được.

Có nhiều chuyện lạ lắm đã xảy ra ở Phnom Penh.. Cái được gọi là “giải phóng” thành phố bắt đầu bằng một buổi lễ và đã chấm dứt bằng những cuộc tàn sát ghê rợn và một sự xua đuổi dân chúng hàng loạt…. ra khỏi thủ đô.

Chúng tôi có phải chứng kiến một cảnh “giải phóng” như vậy ở Sài Gòn hay không đây ????



*****************

CHƯƠNG 2

NGÀY 26 THÁNG 4 1975



Giá đồng đô la : 4000 đồng Việt Nam (giấy lớn :100 $ và 50 $, đề mang theo dễ dàng)

khoảng 3800 đồng Việt Nam (giấy nhỏ)

Giá vàng : 700 đô la hay 3 triệu đồng Việt Nam một lượng, 37,5 gram

**********



Tổng Thống Thiệu sẽ bay đi đêm nay đến Đài Loan, với 16 tấn hành lý gồm toàn bộ sưu tập đá quý, đồ cổ, và người ta còn nói vàng của Ngân Hàng Quốc Gia . (1)

Tờ báo “Tin Tức Viễn Đông chạy hết trang nhất đầu đề : " Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing đã đàm thoại với Đại sứ Pháp tại Sài Gòn qua điện thoại.” Đó là tin tức quan trọng hàng đầu. Làm như là ở Paris không còn gì khác để làm và để thảo luận nữa vậy.

Và đây là những lời tuyên bố của Thượng Nghị Sĩ Paul d’Ornano, nghị sĩ của những người Pháp ở Việt Nam, người đã cùng đi một chuyến máy bay với chúng tôi :

-“ Tôi rất sung sướng được thấy là tôi đang ở giữa những người Pháp của Sài Gòn mà tôi thấy là họ rất bình tĩnh và cũng rất là xứng đáng như khi tôi đã ở đây với họ trong 3 tuần trước . Và tôi cũng rất là vui sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống Pháp đã tiếp tôi ngay trước khi tôi lên phi cơ khời hành từ Ba Lê sang đây, để nhấn mạnh tất cả sự ân cần và quan tâm đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn , một cộng đồng mà ông biết và rất can đảm và rất có giá trị …”

Ông Paul d’Ornano dự trù sẽ ở lại Sài Gòn khoảng 10 ngày rồi mới về Ba Lê. Không biết ông có đang mơ ngủ không vậy ? Trong mười ngày nữa tình hình của chúng ta sẽ ra sao đây? Đang lo băng bó các vết thương của chúng ta dưới đống gạch vụn của thành phố Sài Gòn ? Hay là đang là tù binh hoặc là bị bắt làm con tin của cộng sản Bắc Việt ?

Ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Jean Sauvagnargues còn tuyên bố là : "Vẫn còn hy vọng có khả năng thương lượng được một giải pháp chánh trị.”

Tôi rất muốn thấy chuyện đó vào một buổi sáng quá nóng lúc tôi đang vừa uống tách cà phê sáng vừa ăn miếng đu đủ và trái măng cụt, vừa để ý lắng nghe được tiếng nổ không biết từ đâu. của một chiến xa ? một tiếng nổ lớn ? từ đâu ?

Một anh tóc đỏ đang chạy giữa mấy chiếc bàn ăn. Anh ta là người của toán phát thanh. Anh ta là con trai của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao, đang hợp tác làm việc với chúng tôi. Ông Đại sứ đang mệt với anh ta, vì đã nhờ hai anh sen đầm bắt được anh ta rồi, họ đã đưa anh ta về tòa Đại sứ rồi để tống cổ anh ta về Pháp. Nhưng anh ta đã trèo tường ra và hiện đang đến với chúng tôi đây.

Câu chuyện “ngừng bắn” cụ thể đang được xác nhận.

Và đây là những điều kiện của cái gọi là CPLTCHMN đưa ra trước khi thương lượng:

- Sài Gòn phải thành lập một chính phủ mới, một chính phủ không có bất cứ một người nào thuộc phe cánh của ông Thiệu.

- Chánh Phủ đó phải tuyên bố lập trường vì hòa bình, độc lập, dân chủ, để hòa giải quốc gia và thi hành các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê.

- Chánh Phủ đó phải bắt buộc các quân nhân Hoa Kỳ đang giả dạng thường dân phải rời khỏi tức khắc nướcViệt Nam và phải rút đi tất cả các tàu chiến và hải quân Hoa Kỳ ra khỏi vùng biển của nướcViệt Nam.

- chính phủ đó phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ và trả tự do cho tất cả tù nhân chánh trị

Chỉ còn co` tướng Dương văn Minh một mình trên sân khấu chánh trị; nhưng Tổng ThốngTrần văn Hương đã nhiệm chức được 5 ngày nay, rất muốn được nắm quyền Tổng Thống đó tối thiểu một tuần lễ. Ông ta đã có đề nghị với tướng Minh ghế Thủ Tướng với tất cả quyền hành , nhưng tướng Minh đã từ chối.

Chúng ta đang ở chỗ nầy.

Tướng Nguyễn cao Kỳ, một đối thủ bất hạnh của ông Thiệu, viên phi công nhỏ bé với hàm râu mép và với bộ đồ bay màu sắc rực rỡ dạo nào, được thấy xuất hiện trở lại. Ông ta từ đâu đến ?

Ông tuyên bố là ông ủng hộ tướng Minh Dương. Theo ông thì một chính phủ mới là rất cần thiết, để lấy lại lòng tin trong dân chúng, và để hoạch định một kế hoạch hầu đạt được một sự ngừng bắn. Với một vài tướng lãnh khác, những người được coi là ưu tú của quân đội Miền Nam Việt Nam, ông ta cũng sẽ thử cố quân bình lại tình hình quân sự . Ông ta chắc cũng còn rảnh rỗi, vì ông cho tôi biết là ông ta sẵn sàng dành cho tôi một cuộc phỏng vấn. Giờ giấc ? Tùy ở tôi .

Ông Phó Thủ Tướng (chắc là tướng Trần văn Đôn), mà cũng là Tổng Trưởng Quốc Phòng đã có quyết định về phần ông, là sẽ có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những công dân nào muốn chạy trốn ra khỏi đất nước .

Biện pháp gì đây ? Ai sẽ có biện pháp ? Chẳng còn gì nữa cả . Quân sự thì hỗn loạn, chánh trị thì trống rỗng. Về tướng Đôn nầy thì ông không có gì mà phải sợ bị thiệt thòi.. Sanh đẻ ở Bordeaux, ông ta là công dân Pháp. Và dầu cho ông có đốt giấy thông hành hay cấp bậc sĩ quan Pháp của ông để làm vui lòng ông Diệm và bà Nhu chăng nữa, thì ông cũng vẫn biết là ông ta sẽ không bao giờ mất quốc tịch Pháp của mình đâu. Toàn là chuyện trò hề !

Nhưng kìa, thình lình một tin tức được truyền đi làm xuống hẳn giá ngoại tệ và giá vàng. Báo chí thi nhau đăng tin nầy, kể cả tờ Saigon Post và tờ Tin Tức Viễn Đông.

“Ở Hà Nội đã xảy ra một cuộc đảo chánh. Tướng Võ nguyên Giáp đã phải đi lánh nạn ở Mạc tư Khoa , trong khi 5 sư đoàn quân Bắc Việt phải trở về Miền Bắc để lập lại trật tự ở đó.”

Và người ta dựa trên việc đó để giải thích sự ngừng hoạt động của quân Bắc Việt .

Người ta lại cho tôi một giải thích khác nữa thiết thực hơn : quân Bắc Việt đang gác súng chờ tướng Minh thành lập chính phủ, một chính phủ mà Hà Nội sẽ chấp thuận để thương thuyết.

Về phần mình, người phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài (Hoa Kỳ) chỉ ghi nhận có một sự yên tĩnh ở Miền Nam Việt Nam . Ông ta cho đó là vì quân cộng sản Bắc Việt đang cần có một sự tái tiếp tế về xăng dầu và đạn dược.

Riêng tôi thì tôi lại có cảm tưởng rằng cộng sản Bắc Việt đang tập trung các đơn vị của họ chung quanh Sài Gòn để sẵn sàng phóng ra một cuộc tấn kích cuối cùng. Họ có được lợi ích gì để thương lượng với tướng Minh thay vì với ông Hương ? Vai trò trung gian mà nước Pháp muốn thực hiện có làm cho những người quốc gia cực đoan lo sợ hay không khi chúng ta không quên rằng họ vẫn còn nhớ là chúng ta đã chiếm đóng đất nước của họ trong gần non một thế kỷ ?

Đám đông dân chúng đang xin được di tản càng lúc càng đông hơn bao giờ hết trước tòa Đại sứ và Lãnh sự quán Hoa Kỳ, đã làm tắc nghẽn sự lưu thông ở đây và xe cộ phải rẽ qua một con đường khác.

Trước khách sạn, người ta đang bán các loại sách thường là sách cũ và thuộc các thư viện tư. Tôi rất nghi ngờ về xuất xứ của các loại sách nầy. Các anh bồi phòng đã bắt đầu đánh cắp của chủ vì những người chủ nhà đã bỏ nhà ra đi rồi. Tôi mua được quyển “Cuộc du hành để khám phá Huế ờ xứ Nam Kỳ” (xuất bản ở Ba Lê năm 1889) chỉ với vài đồng bạc Việt Nam. Trong đó tôi đọc được một đoạn. Thì ra tất cả đều chỉ có một thứ bột. Đứng trước một sự quá ư đầy đủ, đứng trước một sự thiếu hiểu biết trầm trọng về dân tộc nầy, người ta vẫn tỏ ra sửng sốt.

Mới có 9 giờ sáng mà trời đã quá nóng rồi. Những cơn mưa lớn của gió mùa sẽ bắt đầu và những đám mây đen kịt đang che phủ bầu trời chưa thấy tan ra.

Tôi và anh Coutard tản bộ đi viếng chợ trời. Đó cũng là một thú vui khi đến Sài Gòn . Người ta có thể tìm thấy mọi thứ được tuồn ra đây từ các căn cứ và chợ của quân đội Mỹ từ các loại máy thâu thanh nhỏ bằng transistor, các máy ảnh, các loại máy thâu băng, máy quay phim, đến các chai rượu huýt ky, rượu khai vị, rượu rum rồi các loại đậu phộng rang, bắp rang, các loại túi vải đeo lưng của quân đội , ống dòm v.v. thượng vàng hạ cám đủ các thứ…..

Giá cả thì vẫn không thay đổi, và cũng vẫn là các bà vợ cảnh sát là chủ quầy hàng.. Họ giống như những con gà mái lớn ôm trong tà áo thay vì trứng là các máy Nikkon, Canon, Sony, v.v…

Chúng tôi gặp một nhóm đông những anh sen đầm Pháp. Để phòng xa những chuyện bất ổn, nhân viên của tòa Đại sứ Pháp được tăng cường 13 anh sen đầm còn độc thân thuộc hạt Périgord hay ở Larzac, người khỏe mạnh, ăn nói chững chạc. Họ rất tự nhiên và thoái mái giữa những người bán hàng lậu nầy, trả giá các máy quay phim, và cũng đã biết giá hối đoái của đồng bạc và đồng mỹ kim rồi, không dễ bị gạt đâu, họ sống rất là sung sướng vì có sức khỏe, sẳn sàng đánh đấm hay dùng vũ khi nếu cần. Họ vừa đi vừa vui vẻ tán gẩu với mấy cô gái mà họ cho là đẹp và không có gì đáng sợ. Không phải hạng người dễ dãi mà cũng không phải là hạng điếm đàng. Trái lại là khác. Họ chỉ muốn cho chúng ta biết về gia thế của họ thôi, đó là những người đáng kính , có tài sản đàng hoàng.

Người con trai độc thân dù là Pháp hay là Mỹ lúc nầy rất là được giá. Một món hàng đắt giá nhất trên thị trường Sài Gòn , đó là những người mạnh khỏe. Người con gái Việt Nam khi có được một người chồng Pháp thì đương nhiên sẽ được có quốc tịch của chồng mình và sẽ nhận được một thông hành Pháp. Không có vấn đề chiếu khán xuất cảnh nữa.

Thấy râu tóc của mình quá dài cho mùa nóng nực nầy ( 33 đến 36 độ) tôi phải lo đi cắt tóc mới được . Tôi vào một hiệu cắt tóc lớn ở dưới đường Catinat, ở đây nhân viên phục vụ toàn là phái nữ. Rõ ràng là những hoạt động của tiệm cắt tóc nầy không chỉ giới hạn trong việc săn sóc sắc đẹp mà họ còn có thể làm thêm công việc giúp cho những bạn trai bớt cô đơn. Lúc tôi bước vào thì tiệm có vẻ vắng khách. Các cô dùng thì giờ rảnh rỗi để cắt móng tay hay kéo một vài hơi thuốc lá.

Trong lúc người ta gội đầu cho tôi, rồi tỉa tóc cho tôi, rồi cắt móng tay cho tôi (sau đó người ta hỏi tôi xem tôi có muốn gì thêm nữa thì trên lầu sẵn có khâu đấm bóp và thư giãn), thì tôi để ý đến một cô người Tàu rất là đẹp, hình như đang sắp sửa đi du lịch. Một chiếc va ly da samsonite, và một túi da lớn được thấy ngay bên cạnh cô ta. Cô đeo hầu như gần hết nữ trang của mình. Ánh đèn chiếu sáng lấp lánh các hột xoàn bên hai vành tai của cô ta. Ngồi trên một ghế phô tơi ngay sát bên cạnh tôi, là một người Mỹ to lớn với chiếc sơ mi bông màu rực rỡ bỏ ngoài, trên cái bụng phệ của ông ta . Cô gái người Tàu có vẻ sốt ruột, nôn nóng. trái lại anh chàng Mỹ kia thì rất là bình tĩnh. Ông ta đòi 3000 mỹ kim để ghi tên cô ta vào danh sách. Và ông ta còn nói rõ là “tiền mặt”.

Mỗi người Mỹ đều có quyền, với tư cách cá nhân của mình, được ghi tên 8 người vào danh sách đi : vợ, gia đình Việt Nam của người vợ hay của người vợ chưa cưới của mình.

Cô gái người Tàu trả giá, môi mím chặt. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng là sắc đẹp của cô ta không làm cho anh chàng Mỹ kia chú ý, mà chỉ có đồng tiền của cô ta thôi. Người ta ngã giá là 2700 đô la ngay trước mặt tôi. Người Mỹ đứng dậy, cô gái đi theo ngay, mang theo cả va ly và xách tay. Hướng về Tân sơn Nhứt .

Cô thợ làm móng tay cho tôi cho tôi biết cô Tàu kia là bà chủ của cô, và anh chàng Mỹ kia chỉ là một nhân viên nhỏ trong vô số ban, ngành trong tòa đại sứ, nhưng lại có cơ hội và phương cách để kiếm được vài chục ngàn đô la, khoảng chừng 20 ngàn nếu anh ta tìm đủ được 8 người cho danh sách của mình.

Đã 10 giờ 30 sáng. Chúng tôi đang ở tại tòa Đại sứ Pháp. Và ông Jean Marie Mérillon đang tiếp chúng tôi .Tôi đã từng gặp ông này ở thủ đô Amman của nước Jordanie, nơi mà ông đã bị một tháng 9 đen tối, vì các chuyến bay không được đáp xuống, và các trận chiến giữa người Árập di cư và người Palestine. Ông ta đã sửa tòa Đại sứ của mình thành như một pháo đài, vì nó nằm giữa hai lằn đạn của cả 2 phe, và trong liên tiếp 3 tháng trường, chính ông ta và nhân viên của ông đã sống trong tình trạng như bị vây hãm.

Nhỏ con, người mảnh khảnh nhưng rất lanh lẹ (tướng De Gaulle đã phái ông ta sang cho quốc vương Hussein với lý do là bóng ông ta sẽ không thể nào che khuất được quốc vương ) ông đã từng là một cựu sinh viên sáng giá. Bây giờ thì ông đang tóm lược cho chúng tôi nhanh chóng tình hình trên một tấm bản đồ lớn của Miền Nam Việt Nam treo ngay phía sau bàn làm việc của ông.

- “Bọn cộng sản Bắc Việt , các anh muốn gọi họ là Việt Cộng cũng không sao, hiện đang ở chung quanh Sài Gòn với lực lượng đáng kể. Ít nhất là 15 sư đoàn . Chỉ còn có một cứu cánh, đó là tướng Minh Dương. Một khi được trao cho quyền bính rồi thì ông ta là người duy nhất có thể thương lượng. Nhưng mà chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ. Ông già Hương, người muốn tự xem mình như Thống chế Pétain, đã không muốn rời khỏi ghế Tổng Thống . Ông ta muốn được giữ nó ít nhất trong 8 ngày để lưu lại trong lịch sử Việt Nam một kỷ niệm của ông ta, dù ông ta là một người rất khiêm nhường. Ông ta đã tuyên bố với tôi rằng :

-" Này ông Đại sứ , cũng giống như Thống chế Pétain, tôi đã hiến thân nầy cho đất nướcViệt Nam”

(Có nhiều người xấu miệng đã cho rằng ông cũng có thể tự xem mình là “người” có thể dám nói là “ tôi đã hiến thân nầy cho nước Pháp” lắm đó)

Ông Hương là một người đã lớn tuổi, hay hay, và thống thiết, và lúc nào cũng muốn bám víu vào tính cách hợp pháp, hợp hiến một cách vô vọng. Ông ta lý luận như sau : “Ông Thiệu là Tổng Thống của nền Cộng Hòa đã trao quyền hành lại cho tôi một cách hợp pháp vì tôi là Phó Tổng Thống . Tới phiên tôi tôi cũng phải làm giống như vậy, tôi sẽ trao quyền Tổng Thống lại cho ông Chủ Tịch Thượng Viện là ông Trần văn Lắm. Khi đã nắm được quyền rồi thì ông Lắm sẽ triêu tập Quốc Hội Lưỡng Viện lại, và chỉ có Quốc Hội mới quyết định gọi ông Minh đến để trao thẳng cho ông ta quyền bính, dĩ nhiên dù có sai chút ít đối với Hiến Pháp.

“ Nhưng mà bọn cộng sản Bắc Việt không muốn ông Hương chút nào.Vì ông đã từng phản bội họ. Ông đã từng chiến đấu trong hàng ngũ của cộng sản trong 4 năm.

“Tôi đã có cố gắng đẩy ông già gân nầy ra khỏi ghế Tổng Thống của ông ta, nhưng ông đã cố giữ lại. Ông đã là một người gần như mù rồi, đi đứng lại khó khăn , bây giờ ông lại muốn làm một người điếc nữa !

“Một khi ông Thiệu và nhóm quân nhân của ông ra đi rồi thì chúng ta chỉ còn lại những chánh trị gia lớn tuổi của thời Nam Kỳ thuộc Pháp mà thôi. Họ còn lại ở những Ban và Tiểu Ban với những bài diễn văn kêu to nhưng vô tích sự với tất cả những nghi lễ mà chúng ta đã chỉ dạy cho họ. Những bình bông của thời đệ tứ Cộng Hòa với những đóa hoa cằn cỗi hay lỗi thời trước khi De Gaulle nắm chánh quyền. Nhưng giờ đây tình hình ở Việt Nam còn gấp nghìn lần bi đát hơn nước Pháp lúc đó nữa.

“ Tôi có cảm tưởng như là không có môt ai biết được hơn chúng ta là hiện ta đang ở đâu, và tôi hình như đang nói chuyện với những người đang ờ trong trạng thái “mộng du”

Qua một khe cửa ông Đại sứ chỉ cho chúng tôi một tòa nhà lớn : tòa Đại sứ Hoa Kỳ

-“Và ở đây cũng vậy ! toàn là những người đang “mộng du”.

Bây giờ là 12 giờ trưa rồi. anh Coutard đi ra ngoài, còn toán của chúng tôi có lẽ cũng sẽ tới bằng chuyến phi cơ của Hàng Không Việt Nam., chuyến bay liên lạc thường xuyên hằng ngày giữa Sài Gòn và Bangkok.

Tôi cố gắng sấp xếp lại mọi việc cho có thứ tự trong đầu của tôi trong lúc tôi tản bộ từ tòa Đại sứ trở về phòng.

Tình hình quân sự coi như vô vọng rồi. Người Mỹ họ đã cho di tản nhân viên của họ và những người Việt Nam đã làm việc với họ theo kế hoạch đã định trước, không gấp gáp lắm. Làm như họ vẫn còn nhiều thì giờ lắm vậy.

Cảm thấy mình đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi, người dân Miền Nam Việt Nam mà nhất là dân Sài Gòn tự nhiên quay về với nước Pháp . Họ cần có một người cha. Mất cha rồi thì họ tìm đến người ông. Nhưng ông người Pháp thì đã quá mệt mỏi rồi. Ông ta đã chán ngấy với tất cả các loại phiêu lưu chánh trị hay quân sự nên không thể làm gì cho họ hơn được ngoài những lời khuyên lơn và những mỹ từ. Người dân Sài Gòn không làm chủ lịch sử họ bao giờ . Họ phải luôn luôn nắm tay người cha, dù là cha Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ .

Và kia là người ông Pháp đang trở lại với đôi nạng. Chỗ nào cũng thấy bắt đầu treo cờ

tam tài. Người ta sơn cờ cả trên nhà và các kho hàng nữa. Còn các nhật báo nào còn xuất bản thì đã đổi giọng rồi. Bây giờ người ta gọi cộng sản là “phía bên kia” và người ta không còn nói tới chuyện “ngừng bắn” nữa.

Chánh Phủ quân sự ở Sài Gòn cuối cùng rồi cũng ra một thông cáo : “Từ nay, giờ thiết quân luật sẽ chấm dứt từ 6 giờ sáng thay vì 7 giờ nhưng sẽ bắt đầu từ 8 giờ tối.”

Hàng ngàn người Việt Nam được báo trước là họ sẽ phải đi ngay không chậm trễ, đã chuẩn bị hành lý và bỏ nhà để đến các địa điểm tập trung, ở đó họ được xe buýt và các loại xe khác của tòa Đại sứ Hoa Kỳ bốc đi.

Chúng tôi đang ngồi uống một ly rượu với một ông đại tá của Miền Nam Việt Nam . Ông nầy sau khi đã phục vụ trong binh chủng Dù đã về làm việc ở văn phòng báo chí thuộc Bộ Tổng Tham Mưu . Ông ta có vẻ sốt ruột. Không biết ông ta muốn trấn an chúng tôi hay tự trấn an mình. Ông ta nói :

-“ Tình hình thật ra cũng rất là bi đát nhưng không đến đỗi vô vọng. Với sự giúp đỡ của các đơn vị Dù và các đơn vị xung kích, chúng tôi đã quyết định thành lập các toán du kích ở đồng bằng. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng sẽ chiến đấu theo lối cách mạng và sẽ chống lại cộng sản bằng chính vũ khí và chiến thuật của họ."

Rất là quan tâm, tôi hỏi lại ông ta :

- Ngày mai ông sẽ làm gì? Chúng ta gập lại nhau được không ?

- Tôi rất bận ngày mai. Tôi phải sửa soạn cho con tôi nó đi xuất ngoại.

Chắc chắn là ông ta bận lo cho chính ông ta thì phải hơn. Trong lúc ông ta vừa mơ về khu kháng chiến vừa nhậu huýt ky, chắc chắn là ông ta đang tính chuồn.

Vì các cấp chỉ huy của ông đã cho ông gương xấu, như Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, tướng cố vấn quân sự Đặng văn Quang, các tỉnh trưởng… tất cả những người nào đã kiếm tiền đầy túi rồi bây giờ họ phải bay đi Đài Loan, Phi luật Tân hay Hoa Kỳ

Nếu như binh sĩ mà không xứng đáng để đi đến sự thất trận thì cấp chỉ huy của họ đều phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, dĩ nhiên trừ một vài trrường hợp. Họ đâu đến đổi điên hay vô tâm đến độ không biết rằng trước mặt họ là cả một đội quân cảm tử, không biết gì là tham nhũng, với những cấp chỉ huy thật tâm chia xẻ với họ cả về sinh mệnh lẫn hành động.

Chìa khóa của sự sụp đổ của cả một lâu đài từ trong nhiều năm qua là tướng Thiệu nầy. Từ đầu đến cuối chính ông ta đã để cho cả binh sĩ và dân chúng của ông trong trạng thái “mộng du” (đi rong trong giấc ngủ mê). Cho đến lúc chính ông nửa tỉnh nửa mê, đã lấy một quyết định hết sức thảm hại là rút quân bỏ Vùng Cao Nguyên mà không tham khảo với một ai hết, mà cũng không có một công tác chuẩn bị nào cho sự rút quân nầy..

Vậy ông Thiệu là ai ? Đã nhiều lần chúng tôi đã tự đặt câu hỏi đó trước mặt người nầy, một người thật sự chẳng có ra gì.

Trước tiên ông không phải là một quân nhân ưu tú. Theo sự nhận xét của tất cả các chuyên viên thì ông sống với quá nhiều sự bảo vệ và ngay lúc ông sấp sửa về hưu thì ông lại được thăng cấp thiếu tá giả định . Nhưng ông là một chánh trị gia lỗi lạc, một người biết cách lợi dụng các sư đoàn thuộc phe đối lập một cách ngoạn mục, và lợi dụng sự thèm khát của các quân nhân . Đồng thời tỏ ra cho người Mỹ thấy khó mà tìm ra người thay thế ông được .

Ông đã trị vì 10 năm. Ngày 17 tháng 6 năm 1965, sau nhiều ngày bàn cãi, trả giá gay go, ông được bầu lên làm lãnh đạo với đa số phiếu của đại diện quân nhân các cấp, giúp ông loại được đối thủ là tướng không quân Nguyễn cao Kỳ. Hai năm sau ông được bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa và được tái đắc cử ngày 30 tháng 10 năm 1971. Ông từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975.

Ông Nguyễn văn Thiệu thuộc một gia đình ở Miền Trung, dư ăn dư để, không hơn không kém. Ông theo học một khóa sĩ quan hải quân và trong khi ông chỉ mơ ước được chỉ huy một tàu chiến thì một sự tình cờ lại đưa ông đến trường sĩ quan võ bị Dalat. Ông thuộc đảng Đại Việt, một đảng tinh hoa, theo lối nói của thời đó, một đảng quốc gia cực đoan đã có lúc hợp tác với người Nhật. Trong những người thân cận của ông, người ta thường thấy các đảng viên Đại Việt, như tướng Trần thiện Khiêm chẳng hạn.

Chống Pháp triệt để, ít nhất cũng trong lúc đầu, đảng Đại Việt đã đào tạo được một số cán bộ chánh trị và trí thức ở Việt Nam. Ông Diệm hình như đã thừa hưởng được gia sản nầy. Ông Thiệu ít hay nhiều cũng đã dính vào gia đình nhà Ngô, vốn là quan lại của triều đình. Và ông Diệm cũng là người làm cho ông Thiệu đi lên. Là sĩ quan trong quân đội Pháp, ông Thiệu chỉ có làm cho người ta chú ý vì sự tránh né và sự kín đáo của ông.

Ở Đông Nam Á, người Trung Hoa thường hay đầu tư vào một số nhân vật nào đó, với hy vọng một ngày nào đó người đó lên nắm được quyền hành thì họ sẽ được trả giá gấp bội. Ông Francis Koo đầu tư vào ông Thiệu. Không biết vì trực giác hay do thông minh tính toán ? Là một người Trung Hoa sanh đẻ ở Thượng Hải, được nuôi nấng nên người ở bên Pháp, ông thuộc một gia đình lớn người công giáo. Ông là bạn thân của con trai ông Tưởng giới Thạch, và chỉ là một đệ nhất thơ ký của tòa Đại sứ Trung Hoa Quốc gia tại Sài Gòn, vào thời ông Diệm. . Chỉ là một tấm bình phong. Sau khi một hiệp ước giữa các nước hội viên của tổ chức O.T.A.S.E. được ký kết thì ông Koo chỉ huy hết các tổ chức tin tức tình báo của Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai Á và Đài Loan. Một loại phối trí viên chịu trách nhiệm về những cuộc hành quân chánh trị .

Ông Thiệu lúc đó chỉ là một sĩ quan thường đang làm việc trong triều đại của ông Diệm. Ông vào đạo Thiên Chúa giáo và cưới một bà vợ người Miền Nam , người công giáo, sáng sủa, nhưng thích tiền và danh vọng. Cũng như các bà Việt Nam khác, bà là một tay chạy áp phe đáng ngại.

Là một đại úy lúc ông Diệm nắm chánh quyền , ông lên Thiếu Tá và sau đó Trung tá. Ông ta luôn luôn dửng dưng và kín đáo. Ông rất là trung thành với chủ nghĩa quốc gia của mình và khéo léo giúp đỡ mọi người . Luôn luôn ông không làm cho người ta chú ý đến mình. Ở trong dinh, người ta khen ông về sự yên lặng và sự trung thành của ông. Ông vào được nhóm người của ông Diệm là nhờ gia đình của ông, dù muốn dù không ít nhiều cũng đã nằm trong quỹ đạo của nhà Ngô, nhờ vào đạo Thiên Chúa của ông và nhờ vào đạo của bà vợ ông.

Ông Francis Koo đã cho ông lời khuyên và yểm trợ ông. Ông Thiệu trở thành chỉ huy trưởng đoàn vệ binh của Tổng Thống . Cuối cùng ông nắm đươc một vị trí then chốt và ông đã sẵn sàng để được người ta trả giá.

Khi ông Diệm bị lật đổ, ông khôn ngoan đứng ngoài, và chỉ nhảy vào tham gia khi ông đã hiểu (hay Koo cho ông biết không chừng) rằng nhóm chủ trương đảo chánh sẽ thắng vì họ có sự ủng hộ của Hoa Kỳ . Và chỉ có ông mới có thể cho phép hai ông Diệm Nhu trốn khỏi từ Dinh Gia Long để chạy đến một nhà thờ ở Chợ Lớn . Ở đó hai người bị khám phá ra sau khi bị tố giác. Cũng có thể do ông ta. Ông ta khôn khéo lắm!(2)

Ông Thiệu không thích lộ diện trên sân khấu. Để cho các tướng lãnh trẻ , sáng giá tự do mua may quây cuồng và xâu xé lẫn nhau. Chỉ có ba vòng tôi là tướng Minh Dương và các tướng lãnh thân Pháp phải ra đi : Lê văn Kim, Trần văn Đôn, Mai hữu Xuân và Tôn thất Đính. Sau đó là Khánh và tướng Minh Trần… Bây giờ mới xuất hiện tướng Nguyễn cao Kỳ với hàm râu mép, và cả một lô phi công của ông ta, những người thích chơi trò cao bồi ngoài phố.

Người ta mới bắt đầu nói tới ông Thiệu như là một người duy nhất biết điều và có lý tính trong chính trường của nhóm quân nhân thích đu giây, quên chiến cuộc mà chỉ ham làm chánh trị giống như một nhóm người biểu diễn trò xiếc ngoài đường phố.

Bọn Việt Cộng chiếm các ấp chiến lược, thiết lập các hệ thống của họ trong các thành phố. Hoa Kỳ chuẩn bị can thiệp mạnh khắp nơi để tái lập tình hình bi đát đó lại. Nhưng chỉ sau khi Hà Nội đã bác bỏ đề nghị hòa bình của Tổng Thống Johnson.

Lẽ ra họ phải chấp thuận ngay lúc đó hơn là phải đến một năm sau, và nếu không có thêm 2 triệu người chết nữa, cờ đỏ đã phất phơ ở Sài Gòn rồi.

Vào tháng 3 năm 1965, 10 triệu người trong số 14 triệu dân ở Miền Nam lúc bấy giờ đã trực tiếp hay gián tiếp bị dưới sự kềm kẹp của Việt Cộng vốn kiểm soát gần 4/5 lãnh thổ. Chánh Phủ chỉ còn có các thành phố , giống như những hạt nho khô trên bánh ngọt vậy

Hoa Kỳ thấy không thích thú lắm khi họ nhảy vào cuộc chiến bẩn thỉu nầy, vì cộng sản đã từ chối một nhượng bộ tối thiểu khả dĩ giúp họ khỏi mất mặt và tránh khỏi cái bẫy. Họ muốn ít nhất cũng phải có một vị nguyên thủ quốc gia coi được để không làm bực mình dư luận quần chúng Hoa Kỳ vì những trò hề của mình. Họ chọn ông Thiệu, một người có vẻ đứng đắn, chớ không phải ông Kỳ với nhóm áo bay màu cam và các cảnh sát thích trò giải trí vui chơi.

Vận xui “không phải lúc” lại đến . Một chiếc trực thăng Mỹ bắn nhằm rốc kết xuống một căn nhà nơi đó đang có một cuộc hội họp của Bộ Tham mưu tướng Kỳ, nhưng cũng may là tướng Kỳ chưa đến. Biến cố nầy làm cho tướng phi công mất đi một số phụ tá đàn em giỏi.

Kể từ lúc đó, mức điểm của tướng Kỳ xuống thấp và ngôi sao của ông Thiệu lại lên. Ngoài ra ông Thiệu còn có một lợi thế lớn hơn đối thủ của mình : ông biết rõ các bạn của mình, ông biết răng của họ đang ngứa , họ đang thèm danh vọng, tiền bạc và thăng quan tiến chức. Nhất là tiền. Lương của một đại tá hay của một ông tướng không có nghĩa lý gì. Người ta không có sống được đúng mức. Để có thêm nhiều thân hữu chống tướng Kỳ, ông Thiệu phải có nhiều tiền hoặc do nhóm người Tàu hoặc do Mỹ cung cấp. Nhờ đó ông mua được các cấp thiếu tá và đại úy. Và trả tiền mặt (3). Còn ông Kỳ thì chỉ có hứa suông. Vì bị mất một số cảnh sát viên thân cận trong biến cố nói trên, nên ông thấy những nguồn lợi chính vốn thu được từ các tổ chức kiếm tiền như các quán rượu, gái nhảy hay ma túy… bị cạn dần . Còn ông Thiệu thì thiết lập hệ thống hối lộ vốn giúp ông từ đây nắm vững được quân đội dể các cấp sĩ quan đại diện có thể bầu ông lên vị trí lãnh đạo với đa số phiếu áp đảo.

Khi nắm được chánh quyền rồi thì ông Thiệu sẽ giữ chặt lấy. Vì đã chán không muốn nghe nói tới chuyện đảo chánh hay âm mưu đảo chánh nữa nên người Mỹ coi như đã chọn được đúng người rồi và quyết định cứ giữ nguyên như vậy, do đó rất có lợi cho ông Thiệu .

Ông Thiệu có tính hay đa nghi, và quỷ quyệt như cáo già giống như ông đã làm chánh trị trong suốt cuộc đời của ông vậy. Không phải chánh trị lớn lao gì mà là nhỏ thôi với những mánh khóe trong cạnh tranh cá nhơn, trong những cuộc tranh đấu ngoài hành lang về ảnh hưởng, về thế lực. Ông loại tất cả các đối thủ của mình bằng cách cho người nầy chống người kia, hoặc mua đàn em của họ.

Bà Thiệu và bà Thủ Tướng Khiêm qua thương nghiệp của mình đã gần như thu hút hết tiền tệ của Miền Nam Việt Nam . Nếu không qua hai bà thì người ta không có thể có một chỗ làm tốt, chẳng những hái ra tiền mà còn không nguy hiểm đến tánh mạng với một đồng lương khốn khổ. Mà phải trả trước và phài tỏ ra trung thành với phe cánh mới được.(4)

Ông Thiệu đi lên từ từ, không nỗ lực lắm, không phạm một vụng về nào và rất thản nhiên. Đươc các tướng lãnh bỏ phiếu tín nhiệm, giờ đây ông lại được dân chúng bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa . Người Mỹ tin tưởng rằng ông rất cứng và thông minh. Ông rất ít nói. Nhưng than ôi ông quá yếu ớt và không thể đứng vững một mình được. Ông cần phải có một người đỡ đầu để hướng dẫn ông và trợ lực cho ông. Sau người Pháp là ông Diệm, và sau đó là người Mỹ, và ông Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ . Ông không biết tý gì về vụ Watergate (nghe lén). Ông không thể chấp nhận được chuyện đó. Theo ông thì làm chánh trị là phải làm như vậy mới được. Tại sao người ta trách Tổng Thống Hoa Kỳ về chuyện đó ? Chuyện mà ông thường làm hằng ngày để loại trừ các đối thủ của ông ?.

Trong bài diễn văn cuối cùng mà ông đọc trước khi ông từ chức, ông buộc tôi Hoa Kỳ là đã phản bội ông và phản bội cả ông Tổng Thống Nixon là người đã ủng hộ ông.

Ông Thiệu là một người quốc gia trung thực, nhưng ông không thể tưởng tượng hình dung ra được một chế độ không tham nhũng. Ông chỉ là một người do các bạn đồng nghiệp của ông bầu lên . Ông phải liên tục trả tiền cho họ để họ đứng yên và tỏ ra trung thực hay có vẻ trung thực, đó là quy luật, đồng thời họ phải loại trừ những người chống đối chế độ: đó là các tướng lãnh tốt. Ngoài ra tất cả người còn lại đều xoàng.

Từ một năm nay, chuyện tham nhũng đó đã lan rộng ra, không tha thứ được. Những người chung quanh ông Thiệu ngày càng tỏ ra ham ăn. Ông Thiệu không có một phẩm chất quân sự nào hết và ông lại bất cần các tướng lãnh khác. Những người mà ông đã đưa lên làm tư lệnh lữ đoàn, sư đoàn, quân đoàn, tỉnh trưởng, vùng chiến thuật… đều có nhiệm vụ phải làm tiền để làm giàu cho quỹ của đảng và mua chuộc người nầy người khác. Họ không phải được chọn vì nhiệm vụ hay vì phẩm chất quân sự mà chỉ vì sự trung thành và vì đồng tiền mà họ phải cung cấp (5) . Người Mỹ đã không còn ở đây nữa thì chỉ còn có đè đầu dân chúng để lấy tiền mà thôi. Tuy nhiên cũng còn một vài đơn vị xung kích còn nguyên vẹn như các đơn vị Dù vốn tôn trọng tinh thần đồng đội hơn là lợi lộc. Nhưng mà sau khi họ không còn bị luân chuyển như chong chóng phục vụ hết tiểu khu nầy đến tiểu khu khác, thì họ lại phải “đóng quân”như Thủy quân lục chiến ở Quảng Trị, thì lúc bấy giờ họ lại mắc phải cùng một thứ bệnh và từ ông đại tá đến anh thiếu úy thường ai cũng chú tâm đến chuyện mua bán hết.

Linh hồn chốn địa ngục của ông Thiệu là tướng Đặng văn Quang, một con heo mập, mà ai cũng biết rõ là bà vợ của ông nầy đã có giao dịch buôn bán với bọn Việt Cộng . Ông ta là chủ lớn của đường dây ma túy. Lợi lộc hơn nhiều đối với việc mua bán lúa gạo hay gỗ xây cất từ vùng Việt Cộng mang về. Tổng Thống Thiệu đã chịu ảnh hưởng hoàn toàn của tướng Quang. Chính tướng Quang đã xuống lệnh cho quân đội và đã cắt cử các tướng lãnh, nhưng ông Thiệu đã ra quyết định cho các cuộc hành quân mà không cần nghĩ biết xem những người được tướng Quang cắt cử đó có đủ khả năng thi hành hay không . Nói một cách cụ thể hơn là không còn có một bộ tham mưu nào nữa cả. Vì ông Thiệu với tính đa nghi sợ sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân sự nên đã bỏ hẳn bộ tham mưu. Hậu quả : lúc Bắc Việt tung ra chiến dịch Tổng Tấn Công vào tháng 3 năm 1975, thì quân đội gần như không có chiến đấu, vì quân đội không phải được thành lập ra để chiến đấu nữa vì thường thì cấp chỉ huy đều không có khả năng.

Lúc nào ông cũng sống và hành động qua một người cha, nên người ta nói ông Thiệu sẽ mất hết tinh thần thực tế khi người Mỷ bắt đầu bỏ ông. Và vì ông không chấp nhận chuyện đó, nên ông từ chối không coi đó là một sự thật. Ông không hiểu tý gì về Hiệp Định Ba Lê và cũng giống như ông Diệm đối với Hiệp Định Genève, ông tin rằng ông không cần phải thi hành Hiệp Định đó. Hoàn toàn viễn tưởng ! Ông yêu cầu ông Nixon hãy làm sao cho ông được yên tâm. Tổng Thống Hoa Kỳ đã gởi cho ông 3 lá thơ riêng với tánh cách cá nhơn, bảo đảm với ông rằng nếu Bắc Việt tổng tấn công ông toàn bộ thì quân đội Hoa Kỳ sẽ bay sang tiếp cứu. Lúc bấy giờ ông Thiệu mới chịu ký tên vào Hiệp Định và lúc đó Kissinger mới nhận được nhận giải thưởng Nobel vể hòa bình .

Tháng chạp năm 1974: một sư đoàn chánh quy Bắc Việt tấn chiêm vùng Phước Long, chiếm đóng thị xã tỉnh lỵ đầu tiên thuộc một tỉnh của Miền Nam Việt Nam.

Theo Hiệp Định Ba Lê và những điều khoản mật để bảo đảm cho Hiệp Định nầy, thì Hoa Kỳ phải yểm trợ Miền Nam Việt Nam. Nhưng Hoa Kỳ không có một hành động nào hết. Dư luận dân chúng Mỹ chống lại mọi hành động tái can thiệp, và lúc bấy giờ không phải ông Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc là người cai trị Hoa Kỳ nữa, (vì Tổng Thống Ford không phải là người được dân chúng bầu lên), mà là Quốc Hội lưỡng Viện đầy quyền lực đang trong giai đoạn “chơi” lại Hành Pháp.

Ông Thiệu bắt đầu nhận thấy mình bị mồ côi. Ông không còn biết cái đầu của mình ở đâu nữa. Ông cảm thấy bồn chồn và không yên. Vốn là người không chịu nói chuyện với ai, là người không bao giờ lo lắng về một sự chống đối nào thật sự như một vài nhân vật nào đó, một vài lương tâm tốt của Phật Giáo , những người Công Giáo… tự nhiên ông thấy mình không có sự ủng hộ của dân chúng, thình lình ông muốn tìm tới một sự hòa giải với họ, muốn dựng lên một cái gì như là chủ nghĩa tự do. Thất bại hoàn toàn. Ông biến đi, người ta không tìm thấy được ông nữa . Ông như mất đi rồi, ông cảm thấy sợ, vì thấy mình cô đơn.. Thay vì ông tìm hiểu xem cái gì đã xảy ra, thì giờ đây ông đang ở trong trạng thái mộng du, và đất nước Việt Nam cũng đi theo ông luôn. Tất cả Miền Nam Việt Nam đang đi theo sau vị Tổng Thống của mình, trên một cây rui trên nóc nhà, mắt nhắm tít lại.

Ông Thiệu là một người Công Giáo, nhưng ông còn tin hoàn toàn vào dị đoan. Ông tin vào thuật phong thổ và số tử vi , thờ cúng ông bà nghiêm túc, và thường tham khảo mấy người đồng bóng. Cha ông được chôn cất ở Cam Ranh. Trên mộ của người cha, ông có cho dựng lên một cây kim chỉ Nam lớn. Vào cái ngày mà quân cộng sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch Tổng Tấn Công vào Miền Nam Việt Nam, ngày 14 tháng 3 năm 1975, một cơn bão đã nổi lên và sét đánh trúng ngay vào ngôi mộ đó làm gãy cây kim đi. Đối với ông Thiệu, đây là một điềm rất xấu. Phải chăng chúng ta đang ở vào năm Mão (con mẻo) và ông Thiệu lại ở vào tuổi Tý (con chuột): Mèo luôn luôn bắt chuột ăn. Và phải chăng Staline và Fidel Castro cũng cùng tuổi con mèo ?

Ông Thiệu coi như đã thua rồi. Và không có một ai để xốc ông lên, để đánh thức ông dậy. Ông Đại sứ Graham Martin lẽ ra phải làm chuyện đó. Nhưng ông nầy cũng đang ở trạng thái “mộng du” khác, kiểu riêng của ông ta. Ông có một người con trai tử trận ờ Việt Nam. Theo ông thì cuộc chiến tranh nầy đã trở thành một dục vọng rồi. Ông không thể chấp nhận việc Hoa Kỳ đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam . Ông hành động như là Tổng Thống Nixon vẫn đang còn tại chức vậy, vì ông Nixon là người được dân chúng bầu lên, coi như sự kiện Watergate không bao giờ có vậy. Và do đó, chuyện ông Thiệu biến mất đi sẽ tạo nên một lỗ hổng chánh trị lớn

Ông Thiệu đã có một kế hoạch nội an của ông Diệm trên phương diện chánh trị : một đảng chánh trị duy nhất, nhưng hai hệ thống song song. Những người tiếp nối ông không được chuẩn bị kỹ càng trong công tác nắm chánh quyền, đã tiềp tục đi theo con đường cũ đó tức là không có làm gì hết.

Vào cái ngày thứ bảy 26 tháng 4 nầy, thành phố Sài Gòn đang mất máu lần lần và mất cả thịt nữa, nhưng việc đó chưa thấy rõ được lắm đâu.

Có tin ngoài phố: Bọn cộng sản Bắc Việt xác nhận là họ sẽ làm chủ thành phố Sài Gòn ngày 15 tháng 5 để ăn mừng ngày sinh nhật của Hồ chí Minh . Mặt khác, chiến dịch tổng tấn công mà họ đang tiến hành cũng được mang tên của người lãnh tụ già Bắc Việt.

Tôi tự hỏi tại sao họ lại phải đợi đến ngày 15 tháng 5 ? Các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chỉ có một việc là tiến vào thôi. Trừ phi ngoài Hà Nội người ta nhất quyết phải chọn ngày đó. Ngay từ đầu Hà Nội vẫn là người chủ của chuyện nầy .

“Đâu có thề được, một người Việt Nam nói với tôi như thế, người ta không có nghe một tiếng súng đại bác nào cả”

Tôi muốn đẩy mạnh anh ta để cho anh mở to cặp mắt ra. Nếu anh ta lên một chiếc xe tắc xi, và đi ra khỏi thành phố, thì anh ta sẽ nghe được những tràng súng đại liên ngay.

Anh Raoul Coutard vừa ở Tân sơn Nhứt về. Chiếc phi cơ của Hàng Không Việt Nam đã từ chối không chịu cất cánh lên từ Bangkok. Chúng tôi vẫn không có một người nào thêm trong toán của chúng tôi .

Tôi ngủ không được . Chiếc quạt máy không chạy nữa vì không có điện. Trời quá nóng. Và lại thêm sự yên tĩnh nầy !

Có tiếng còi hụ của một chiếc xe Hồng Thập Tự cứu thuơng đi nhanh qua…..



**********************

CHÚ THÍCH (của dịch giả)

(1) Lời đồn thôi, vì số vàng dự trử đằng kho của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn còn nguyên cho đến chiều ngày 30/4/75 thì ông Nguyễn văn Hảo mới giao cho người đại diện của cộng sản Bắc Việt để họ mang xe chở ngay về Hà Nội tối hôm đó.

(2) Đoạn nầy tác giả vì có định kiến và thành kiến với cá nhân ông Nguyễn vănThiệu nên viết có phần không đúng lắm:

- ông Thiệu với tư cách là đại tá Tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh đã là người tham gia từ đầu trong nhóm quân nhân đảo chánh, như là một thành viên chánh thức, với sự tham gia của đơn vị của mình như là một đơn vị bộ binh chủ lực của cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963.

- Bản doanh của sư đoàn 5 không đóng gần dinh Gia Long nên việc hai ông Diệm Nhu trốn ra khỏi dinh Gia Long vào lúc gần sáng hoàn toàn do hai ông Cao xuân Vỹ và thiếu tá Trang khánh Hưng sấp xếp và lo liệu, không dính gì đến ông Thiệu.

- Khi đến nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn chính ông Diệm đã gọi điện thoại trực tiếp nói chuyện với tướng Dương văn Minh hồi gần 6 giờ sáng ngày 2 tháng 11, chớ tuyệt nhiên không có ai là người tố cáo hết, bản thân dịch giả có mặt ngay lúc đó trong phòng của tướng Minh với một số tướng lãnh khác, nên là nhân chứng biết rất rõ chuyện nầy.

(3) Việc nầy thì hơi lố bịch. Làm gì có chuyện nầy ? nhưng vốn tôn trọng quyền của tác giả chúng tôi cũng xin dịch đúng theo nguyên văn quyển sách.

(4) Đây cũng là một nhận xét hơi chủ quan của tác giả.

(5) Xin nói thẳng thừng là nhận xét của tác giả e rằng sẽ quá tội nghiệp cho hương linh của những vị anh hùng đã tuẫn tiết chăng ? như tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Phú và các đại tá Nguyễn văn Cẫn…, hoặc cho một số rất nhiều quân nhân ưu tú khác thuộc mọi quân binh chủng như tướng Lê quang Trưởng, Lê văn Lưỡng, Lâm quang Thi, Đổ kế Giai, Lê minh Đảo v.v., các hải quân đô đốc Chung tấn Cang và Diệp quang Thủy, tướng không quân Trần văn Minh, tướng thiết giáp Trần quang Khôi hay pháo binh Nguyễn đức Thắng, v.v.. hay các quân nhân ưu tú khác rải rác ở hầu hết các chức vụ hành chánh quân sự khác ? Vì tất cả đều chỉ biết hy sinh phục vụ cho chánh nghĩa quốc gia dân tộc chớ chẳng có ai là tay sai làm tiền cho ông Thiệu hay cho bất cứ ai cả !

--------------------


Chương 3

NGÀY CHÚA NHẬT 27 THÁNG 4
Giá đồng đô la : 4000 đồng Việt Nam một đô la



3 giờ 30 sáng ngày 27/4/75:

Tôi giật mình thức dậy vì tiếng rốc kết nổ làm rung chuyển cả thành phố Sài Gòn . Một quả rốc kết rơi rất gần. Tôi thò mũi ra cửa sổ. Tiếng còi hụ của xe chữa lửa và của xe cứu thương. Xa xa có những cột khói đang lên… Không thể nào ra được, vì còn giờ thiết quân luật. Nhưng cũng không thể nào ngủ lại được.

Con người của ông Thiệu cứ ám ảnh tôi mãi. Tới giờ phút cuối cùng ông cũng chưa hiểu là người Mỹ không còn muốn nghe nói tới ông ta và tới hai chữ Việt Nam nữa.Và ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã nuôi dưỡng ông trong ảo ảnh của mình, nói trắng ra trong sự điên rồ của ông ta.

Ông Thiệu đeo cứng vào ý nghĩ đó. Ông ta muốn nhất thiết Quốc Hội Hoa Kỳ phải viện trợ bổ túc cho ông 300 ngàn đô la, trong khi số tiền đó sẽ không thể dùng được vào việc gì cả, thì giở còn đâu nữa mà dùng để mua dụng cụ? Chẳng qua đó chỉ là một cử chỉ mang ý nghĩa là họ chưa có bỏ rơi số phận cũa ông ta, là người ta còn đưa bàn tay ra cho ông nữa để kéo ông ra khỏi vũng sình mà ông đang mắc lầy.

Dĩ nhiên ở đâu cũng còn có sự tiêu pha lãng phí và tham nhũng. Quân đội của ông Thiệu đã quen với lối sống xa hoa, lãng phí đạn dược, dụng cụ và xăng dầu. Quân đội đó cũng là nạn nhân của người Mỹ vốn để lại cho họ một hạ tầng cơ sở quá nặng nề, các căn cứ quân sự, các phi trường, các kho tàng và cơ xưởng. Chỉ riêng việc bảo quản các cơ sở hạ tầng đó cũng phải tốn kém hằng tỷ rưỡi đô la hàng năm, và tiền viện trợ cho Miền Nam Việt Nam do đó cứ khô cạn dần. Bây giờ thì chỉ còn có 700 triệu hàng năm, trong khi viện trợ của Liên Xô cho Hà Nội cứ tăng lên mãi – trên một tỷ rưỡi đô la cho năm nay.

Khi ông Thiệu cho lệnh Vùng 2 Chiến Thuật rút đi, ông đã nhìn về Hoa thạnh Đốn . Không phải ông lấy một quyết định quân sự mà ông chơi trò đe dọa chánh trị . Bỏ đi một phần lãnh thổ của mình, ông tưởng rằng ông có thể bắt chẹt những người đồng minh cũ của ông phải can thiệp mạnh mẽ, phải chiến đấu trở lại bên cạnh ông ta, và phải giữ những lời mà họ đã hứa để cho ông ký vào Hiệp Định Ba Lê. Ông quên rằng người Mỹ đã cho ông biết vào tháng 12 năm 1974 là họ sẽ không làm gì nữa hết khi tỉnh Phước Bình rơi vào tay cộng sản Bắc Việt và không bao giờ các pháo đài bay B.52 sẽ bỏ bom vào các sư đoàn Bắc Việt nữa. Do có những thỏa thuận như vậy cho nên họ không bao giờ can thiệp vào chuyện quân đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm quận lỵ của một tỉnh cũa Miền Nam Việt Nam . Những thỏa thuận đó đã xảy ra vào tháng 10 năm 1972, sau khi Kissinger đã thất bại trong hai ngày để thuyết phục ông Thiệu ký vào Hiệp Định Ba Lê.

Tướng Haig đã có mang đến trao cho ông Thiệu một bức thư (hay 3 bức) của ông Nixon, thừa nhận những sự “thỏa hiệp kín” đó.

Vậy Đại sứ Graham Martin đã làm trò gì ? Ông đã không có nói cho ông Thiệu và đã thúc đẩy ông cho lệnh rút lui Cao Nguyên hay sao ? Rằng: “Ông hãy cho Quốc Hội Hoa Kỳ thấy là ông đang sấp sửa mất tất cả. Hãy đánh thức dư luận Hoa Kỳ dậy. Hãy buộc Hoa Kỳ phải giữ lời hứa của ông cựu Tổng Thống của họ.“ d4” Người ta đoan chắc như vậy.

Ông Thiệu đã hành động như là không tính gì đến việc mất các tỉnh vậy. Và ông ra lịnh cuộc rút lui đó . Một cuộc rút lui hoàn toàn thật là thảm bại trên phương diện quân sự, không có môt chút lo lắng gì về hậu quả trên địa thế. Chuyện mà ông quan tâm là những phản ứng của Hoa Kỳ. Ông ta không biết là người ta không muốn nghe nói tới nữa về vấn đề “đổ máu” , về “Việt Nam” mà người ta đã ước tính là đã mất rồi; là Ngũ Giác Đài đã bôi tên Việt Nam trong sổ kiểm soát rồi; là người ta đã nghe những tiếng kêu của một dân tộc mà người ta đang bóp cổ rồi; Kêu la đã là vô lễ rồi mà còn ngoan cố đòi viện trợ nữa. Ít nhất ông cũng phải chứng tỏ được tư thế của mình và đừng nên đến quấy rầy lương tâm tốt của người Mỹ đang trên đà phục hồi lại sau những hậu quả xấu của vụ Watergate. Sau cơ quan điều tra liên bang lại đến lượt cơ quan tình báo trung ương.

Chính cái hình ảnh nầy của Hoa Kỳ tới giờ chót Đại sứ Graham Martin cũng không muốn đưa ra cho ông Thiẹu, người mà ông được lệnh phải đẩy ra ngoài. Đối với viên chức ngoại giao loại nhà nghề nầy, nước Việt Nam không phải một nhiệm sở như những nơi khác như Bangkok chẳng hạn, nơi mà ông đã thành công và cũng là nơi mà từ đó ông sang đây. Ông đã chuyển cuộc chiến nầy thành một chuyện thích thú riêng của chính mình. Đây là một sự lựa chọn xấu nhất mà ông có thể làm được trong những hoàn cảnh hiện tại.

Ông Martin đã thay thế cho ông Ellsworth Bunker sau khi Hiệp Định BaLê được ký kết, với vai trò là một người cha đỡ đầu mà người Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam không thể thiếu được .Và ông đã thành công. Quá thành công, tự nhiễm độc mình đồng thời làm cho người mà mình đang che chở cũng bị nhiễm độc luôn.

Ở vào cái tuổi 62, ông Graham Martin có một dáng đi hùng dũng, người thì mảnh khảnh, gương mặt thì rắn rỏi, kiểu như một con sói già xám khi đi vào cái hoàn cảnh tận thế thì đến lượt nó cũng mất hết lý trí. Thí dụ như ông bướng bỉnh muốn bảo vệ một cây cổ thụ phía sau tòa đại sứ Hoa Kỳ nhưng cái cây nầy nó gây trở ngại cho trực thăng không đáp xuống được. Ông cho người gát giữ cây nầy sợ rằng nhân viên an ninh lợi dụng đêm tối sẽ đốn nó đi. Các anh đặc công bí mật đã thử lơi dụng sự cảnh giác của ông ta và đã đốn nó dưới ánh sáng trăng bằng cưa máy.

Ông ta đã đồng nhất hóa cây đó với nước Việt Nam . Như ông Thiệu với các ngôi mộ của cha mẹ ông ta. Và như vậy mà ông vẫn giữ bề ngoài của một nhà ngoại giao lạnh như tiền, rất thản nhiên, tao nhã. Cũng như ông Thiệu nữa, một con người cố giữ bộ mặt thanh thãn, giấu kín sự điên rồ của mình.Trong lúc Miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Những thượng nghị sĩ Mỹ được gởi sang Sài Gòn để điều tra về tình hình đã biết rõ chuyện đó và một người trong số đó ngày 5 tháng 3 đã tuyên bố với Tổng Thống Ford: “Có một chuyện mà tất cả chúng tôi đều đồng ý là ông Đại sứ của chúng ta ở Việt Nam là một tai họa. Ông cố hết sức giữ ý chí của mình, nhưng trên phương diện thể chất ông ở trong tình trạng rất xấu.”

Ông Graham Martin túc trực ở đầu giường của Miền Nam Việt Nam như một bác sĩ biết người bệnh của mình đã hết cách cứu chữa rồi nhưng ông vẫn cố giữ cho anh ta vững tinh thần bằng cách nhắc đi nhắc lại là anh ta còn có thể lành được bệnh. Vậy mà bây giờ thì người bác sĩ vì cứ nhắc hoài như thế nên ông đã bắt đầu tin rằng sự nối dối của mình là một sự thật.

Và khi mà người ta đòi hỏi ông ta phài chuẩn bị sự ra đi của người Mỹ và sự di tản của đồng bào ông thì ông trì hoãn cố làm chậm lại. Ông không muốn rời khỏi người bệnh, và vẫn muốn giữ tất cả nhân viên của mình luôn kế cận bệnh nhân.

Đây là một ví dụ nữa về trạng thái “mộng du” của ông Martin: Trong khi sự tan vỡ được gần như hoàn toàn rồi, trong khi hàng trăm ngàn người dân tỵ nạn đã trên con đường di tản, ông ta còn gởi về Hoa thạnh Đốn những bản đỉện tín dài nhằm yêu cầu gởi khẩn cấp sang cho “Miền Nam Việt Nam những chương trình phát triển kinh tế dài hạn”.

Là một người mất ngủ, thần kinh bị căng thẳng, lúc nào cũng uống thuốc, ông đã trở thành đa nghi và bí mật, và lánh mặt cả với các cộng sự viên của mình. Ông nói năng và hành động nhân danh của một nước Hoa Kỳ vốn đã không còn ở đây nữa, một quốc gia Hoa Kỳ của ông Nixon, của một sự bảo đảm cho Miền Nam Việt Nam, của một nước Mỹ trước sự kiện Watergate, trước cảnh đại hồng thủy. Giống y như ông Thiệu vài ngày trước khi từ chức, trong bài diễn văn cuối cùng của ông ta về một Miền Nam Việt Nam thật sự không còn nữa với Hiệp Định Ba Lê, đã hứa với dân chúng Sài Gòn một thành phố đang bị bao vây là ông sẽ tái chiếm lại hết các tỉnh bị mất.

Bây giờ thì chỗ trống đang dành cho tướng Minh Dương. Tôi đã ở ngay nhà ông ta. Ông đang lập chính phủ của mình. Tôi phải đến gặp ông lần nữa hôm nay…. nếu toán chuyên viên quay phim của tôi cuối cùng đến đây được . Ông Minh sẽ sẳn sàng có một lời tuyên bố.

Tôi được biết là giá đồng mỹ kim hôm nay lên đến 4000 đồng Việt Nam, lúc tôi xuống phòng ăn để dùng điểm tâm

Ngân hàng Chase Manhattan đã quyết định di tản nhân viên của họ sang Phi luật Tân, nhân viên cấp cao thì đồng ý, cấp nhỏ hơn thì được lãnh một tháng lương và người ta cho họ nghỉ việc. Có tất cả là 43 người. Ban Giám Đốc của Ngân Hàng Bank of America đã rời Sài Gòn , chỉ còn lại quản lý là người Việt Nam .Những người gởi tiền đang yêu cầu được rút tiền ra. Ngân hàng Trung Ương cho biết là ngân hàng bảo đảm sẽ trả tiền mặt, nhưng biện pháp nầy không thể làm mất đi sự hổn loạn. Các ngân hàng của người Mỹ ở Sài Gòn đã cho đóng cửa mà không có báo trước cho khách hàng hay cho các ngân hàng Việt Nam mà họ có liên quan thỏa hiệp. Quyết định bất thần nầy đã làm tăng một cách nguy hiểm đến biến động rút tiền ra. Vào những ngày cuối cùng của tháng 4 /75, những người gởi tiền đã rút ra gần 40 tỷ bạc Việt Nam (khoảng 60 triệu mỹ kim) chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ .

Tất cả các hãng hàng không xử dụng sân bay Sài Gòn, ngoại trừ các hãng Hàng Không Pháp, và hãng U.T.A. , và Hàng Không Việt Nam… đã hủy bỏ hết các chuyến bay có ghé lại Sài Gòn : Hãng Pan Am và Hàng Không Trung Hoa, Cathay Pacific, Hàng Không Singapore, Thái International…, vì lý do an ninh, họ nói như thế.

Báo Việt Nam viết:

“Người ta đính chánh rằng Tổng Thống Trần văn Hương, bị áp lực của các Đại sứ Pháp và Hoa Kỳ là ông Mérillon và ông Martin, đã yêu cầu tướng Minh Dương hãy thay ông ta ở chức vụ nguyên thủ quốc gia” Một sự đính chánh thật là ngớ ngẩn, vì tướng Minh đã xác nhận với tôi rằng ông ta đã lập Chánh Phủ.

Cuối cùng một biện pháp lớn đã được ban hành: “Các cơ quan công cộng sẽ làm việc ngày 1 tháng 5.”

Trên thực tế, thì Chánh Phủ không còn nữa. Cũng không phải một văn phòng nội các nào xử lý thường vụ nữa . Chẳng có con ma nào hết. Chẳng có một Chánh Phủ nào để cho ông già Hương bám vào nữa hết.

Ngày hôm qua đây, Tổng Thống Hương còn bắt chơi bài quốc ca khi ông bước vào Thượng Viện. Ông cũng còn được một toán quân danh dự mặc đồ trắng bắt súng chào đúng theo nghi lễ. Nhưng các đơn vị xung kích, mặc áo giáp và đội nón sắt đang nằm ở các vị trí chiến đấu trên các đường lân cận. Sẵn sàng chiến đấu. Quân cộng sản Bắc Việt đang ở trong tầm súng đại bác.

Hiện tôi đang có bản văn của bài nói chuyện của ông ta.

“ Tôi yêu cầu Thượng Viện giúp tôi chỉ định một nhân vật khả dĩ có thể thương lượng được với phía bên kia.”

Chỉ còn có tướng Minh mà thôi , nhưng ông Hương lại thích ông Trần văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện hơn, “bởi vì ông nầy là đại diện hợp pháp của nền Cộng Hòa” và chính ông nầy đã ký vào Hiệp Định Ba Lê … và nhất là vì ông chánh trị gia già nầy không bao giờ chịu ủng hộ tướng Minh.

Mười bốn sư đoàn cộng sản Bắc Việt đang ở ngay cửa của Sài Gòn . Lại đến lượt tướng Trần văn Đôn, người công dân của nước Pháp, cũng đứng vào hàng. Theo ông thì hình như ông đã có đường dây liên lạc được với phía địch.

Có giá trị gì tướng Minh và cái gọi là lực lượng thứ ba nầy ?, hay cái đường lối thứ ba nầy mà ông ta đang là người cầm cờ đây ?

Chỉ có vài nhóm có thế lực, nhưng ở Ba Lê thì “lực lượng Việt Nam tự do”, “lực lượng tranh đấu cho Dân chủ và hòa bình” , “lực lượng quốc gia tranh đấu cho hòa bình và trung lập cho Miền Nam Việt Nam”, “Hiệp Hội Phật Giáo Hải Ngoại”, “Phong Trào Hòa Hợp Hòa Giải quốc gia” và “Phong Trào đòi quyền sống cho Phụ Nữ Việt Nam”. Chỉ có chừng vài ngàn người thôi, nhất là các Ban Tham Mưu. Tôi còn quên “Lực lượng Hòa Giải quốc gia” của nghị sĩ Vũ văn Mẫu mà phần lớn các Phật tử đều không muốn tham gia. Hầu hết đều là những nhóm nhỏ và những hội ái hữu người lưu vong.

Toàn là mộng du và sân khấu bóng hình, đầy chia rẽ và tranh chấp cá nhân, và cạnh tranh rắc rối giữa các nhóm, giữa đạo giáo, đôi khi còn tiền bạc nữa. Và cầm đầu các nhóm nầy là một nhân vật vừa không dám quyết định và can đảm không cầm được dây cương mà hình như còn bị người ta giật dây mình nữa : đó là ông Dương văn Minh, còn được gọi là Minh Dương (hay Minh lớn nữa)

Năm nay ông 59 tuổi. Đối với người Việt Nam thì ông quá lớn con, do đó có tên là Minh Lớn. Ông chơi quần vợt giỏi và biết giữ sức khoẻ cho mình. Ông trồng hoa lan. Ông là một trong những chuyên viên nổi tiếng về hoa lan và ông cũng nuôi các loại cá lạ trong các hồ kiếng hoàn chỉnh. Ông thuộc loại giai cấp tiểu tư sản thân Pháp và nói tiếng Pháp của tỉnh Mỹ Tho, đối với Sài Gòn Mỹ Tho là một tỉnh “Pháp” hơn các tỉnh khác của Việt Nam. Ông gia nhập quân đội Pháp vào năm 1940, thiếu úy năm 1942, thời Diện Biên Phủ ông là trung tá. Ông sang học và đậu bằng Tham Mưu Cao Cấp ở Ba Lê. Vinh thăng thiếu tướng năm 1955 và là Tổng Tham Mưu Trưởng năm 1959. Người ta thấy ông là một quân nhân tốt vì ông không có làm chánh trị . Cũng có thể là ông không làm chánh trị nhiều vì ông không vào đảng Cần Lao, vốn là đảng duy nhất của chế độ, trong đó người ta mua quan bán chức. Đồng thời ông cũng rất là bình dân. Vào năm 1962, ông Diệm cho ông ra rìa và cho ông một chức vụ gần như danh dự là cố vấn quân sự của Phủ Tổng Thống nên ông có nhiều thì giờ rổi rảnh. Người ta thấy ông luôn luôn có mặt mỗi buỗi sáng ở sân quần vợt của Câu lạc Bộ Thể Thao, và hay chơi với những tay vợt hay của tòa đại sứ Hoa Kỳ. Do đó người ta đã quyết định dùng ông để lật đổ chế độ. Nhưng ông là một người tôn trọng pháp luật nên người ta phải thúc đẩy ông.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, cuối cùng ông là người đứng đầu các tướng lãnh lật đổ ông Diệm và cũng hơi lạ là ông đã trở thành Chủ tịch của Hội Đồng Quân nhân Cách mạng và sau đó là Nguyên thủ Quốc gia .

Tôi gặp ông rất lâu lúc đó. Ông mong muốn có hòa bình, mà không phải bất cứ hòa bình kiểu nào, và triệt để không nhận mình là trung lập. Ông ta nói với tôi ngay tại văn phòng của ông ờ Tổng Tham Mưu :

“Phải có môt cuộc đảo chánh, hay là chúng tôi sẽ mất hết…Làm sao mấy ông muốn là chúng tôi đi tới hòa bình được, khi chúng tôi phải thỏa hiệp với Miền Bắc lúc chúng tôi đang ở thế yếu ? Đó là chúng tôi tự hiến mình cho cọp ăn. Trung lập hả ? nó không có nghĩa gì hết, và cái đó không bao giờ là một vị thế tốt để nói chuyện với cộng sản”.

Nhưng mà mặc dầu vậy, đối với dân chúng ông ta vẫn được xem như một biểu tượng của hòa bình . Đâu đâu cũng hoan hô ông. Và nhiệt liệt.

Ngày 31 tháng giêng năm 1964, người Mỹ lấy làm tức tối đã buộc tội ông là muốn thương thuyết với Bắc Việt , một chuyện hoàn toàn sai. Và họ đã dùng một anh hề lật đổ ông, đó là tướng Nguyễn Khánh.

Vào cuối tháng 10 ông coi như bị lưu đày sang Thái Lan, lãnh lương đại sứ nhưng không có một nhiệm vụ gì hết. Ông ở đó 4 năm, dùng thì giờ đọc sách nhiều hơn là tiếp khách, buồn lắm.

Cuối cùng vào tháng 10 năm 1968, ông Thiệu cho ông trở về nước và đề nghị ông làm cố vấn của Phủ Tổng Thống. Ông tự biết mình không thể làm được nên từ chối. Và từ đó ông không làm chánh trị và trở thành một người phong lưu, một người hiền triết mà người ta tôn sùng như một ông phổng.

Cuối cùng vào năm 1971, ông lại lên tiếng và sau nhiều lần do dự, ông đứng ra tranh cử với ông Thiệu vào chức vụ Tổng Thống. Nhưng chỉ để rút lui sau đó, lấy cớ là những trò bầu cử nầy chẳng qua chỉ là một màn kịch mà thôi. Âu cũng là một chuyện thường tình ở Việt Nam cũng như ở khắp Đông Nam Á . Thái độ ngập ngừng do dự nầy của tướng Minh là một điệu nhạc “valse” của ông ta, 3 bước tới, ba bước lui.

Ông Thiệu đắc cử và ông Minh trở về với vườn hoa lan và hồ nuôi cá của ông. Qua tiếp xúc ông tìm lại bạn bè cũ trong quân đội , vì cuối cùng ông cũng hiểu là không có họ ông không làm gì được cả. Nhưng ông cũng chỉ có lời nói suông còn ông Thiệu thì là tiền ! Mà là tiền mặt nữa !.

Tôi gặp ông Minh lại rất thường, ông giải thích với tôi là ông rất chán ghét chánh trị, nhất là các quân nhân hay chen vào làm chánh trị, ông chỉ muốn giúp đất nước của mình mà thôi và khi nào người ta cần đến ông là ông sẽ có mặt ngay. Là một quan sát viên tỉnh táo, nhưng ông vẫn là một người hoạt động với tính không dứt khoát. Nay thì ông theo ý kiến của những người nầy, mai thì ông lại theo lời khuyên của những người khác. Người ta tưởng rằng ông sắp nói hay sắp làm một chuyện gì đó; nhưng ông tự khép kín trong một sự yên lặng khó hiểu.

Cuối cùng giờ của ông ta cũng đã điểm. Ông biết lần nầy chỉ có một mình ông là có thể không phải cứu Miền Nam Việt Nam mà là ngăn cản được chuyện tàn phá thành phố Sài Gòn. Bởi vì Miền Nam Việt Nam hiện chỉ là một thành phố với gần 4 triệu dân cùng một số lớn người dân tỵ nạn mà người ta ngăn cản không cho vào, và các bộ đội cộng sản Bắc Việt thì không còn có cách gì chống lại họ được nữa.

Tôi đang đọc tờ “Tin Tức Viễn Đông”, một trong những cách giải trí nhất của tôi. Lẫn lộn trong nhiều chuyện đính chánh và tin đồn thất thiệt, tôi khám phá ra một bài được đóng khung của ông Gustave Lê văn Hổ như sau :

“Những ngày gần đây, nhiều tin đồn quá đáng có thể làm tổn hại đến thanh danh và danh dự của gia đình chúng tôi , liên quan đến những cuộc cướp bóc ở quán Auberge des Roches Noires ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Các nguồn tin nầy được cố ý tung ra do những người xấu miệng. Để trả lời cho những chuyện ngồi lê đôi mách vốn chỉ là những chuyện bẩn thỉu không đàng hoàng đó, nhân danh gia đình chúng tôi, tôi cực lực đính chánh và tuyên bố là không có một vụ cướp trộm nào đã xảy ra ở đây hết. Hiện chúng tôi đang sống như hầu hết anh chị em ở đây trong an ninh hoàn toàn. Mặc dầu những chuyện phá phách như đã nói ở trên, quán chúng tôi vẫn tiếp tục mở cửa và tiếp khách như trong thời gian qua. Vốn là người quân tử, chúng tôi tha thứ hết các luận cứ sai trái đã được đưa ra trong một thời điểm lệch lạc và yêu cầu tác giả của việc đó hãy có một chút lương tri và chính trực để rút các lời nói láo xược được tung ra nhằm làm mất thanh danh gia đình chúng tôi và phá hại cuộc buôn bán của chúng tôi.”

Ký tên : Lê văn Hổ Gustave, chủ quán “Đá đen”. Vũng Tàu.

Đây cũng là một trong nhiều chuyện lộn xộn kiểu Việt Nam mà chúng ta cũng nên tìm hiểu bên trong nó là cái gì.

Xa xa một chút còn có vài hàng như sau :

“Sáu mươi mốt người đã được di tản khỏi Sài Gòn đi Tân gia Ba sau khi tòa Đại sứ Anh ở Miền Nam Việt Nam tạm đóng cửa”

Và sau hết là Tử vi cho ngày chúa nhật:

“ Hãy lên một chương trình và cứ theo đó mà làm. Anh sẽ đi vào một sự lầm lẫn nếu anh nghe quá nhiều người hoặc anh mong muốn làm gấp. Một thay đổi nhỏ ra ngoài nề nếp cũ sẽ có lợi. Đời sống vật chất của anh: anh sẽ ngạc nhiên đôi chút, hoàn cảnh không được rõ lắm. Anh dự trù có những chuyện thay đổi nhưng anh không chắc chắn về hình thức thay đổi. Đường lối chánh trị đúng nhất là cứ sống ngày qua ngày thôi. Đời sống xã hội của anh : anh cố gắng thay đổi chỗ ở. Đừng làm chuyện đó trước lễ Giáng Sinh. Anh phải tổ chức lại đời sống gia đình của mình. Nếu anh chưa cưới vợ, thì hãy sống độc thân một năm nữa.Thật là một điều không hợp lý để kết bạn vĩnh viễn ngay bây giờ. Có một chút căng thẳng trên cương vị cá nhân. Anh có một bài toán phải giải quyết, anh sẽ có giải đáp trước ngày lễ Giáng sinh. Tất cả sẽ được giải quyết nếu anh bình tĩnh và có quyết tâm.”

Anh Christian Hoche của tờ Figaro và Michel Laurent, nhiếp ảnh viên của thông tấn xã Gamma đến ngồi cùng bàn với chúng tôi . Họ còn trẻ, đầy lòng hăng hái. Họ cười khi nghe tôi đọc mục tử vi.

Cùng với toán của anh Moscardo thuộc đài truyền hình, họ sẽ đi xem chuyện gì đã xảy ra trên đường đi tử Xuân Lộc đến Trảng Bom. Tôi vẫn còn ngồi chờ toán của chúng tôi . Nếu họ tới thì có lẽ chúng tôi sẽ cũng đi theo hướng đó, vì theo một số tin tức thì cộng sản Bắc Việt đang đánh nhau quyết liệt với anh em tự vệ công giáo.

Mặt ông thiếu tá có nhiệm vụ cùng đi theo họ thấy tái xanh. Bọn cộng sản Bắc Việt sau hai ngày nghỉ, đã lại tiếp tục mở lại các cuộc tấn công.

Chúng tôi tưởng rằng Miền Nam Việt Nam còn có 4 sư đoàn chánh quy, một sư đoàn biệt động quân , một sư đoàn Dù và một lữ đoàn thiết giáp . Tất cả khoảng 100 ngàn người phải đối diện với 15 sư đoàn cộng sản đang bao vây Sài Gòn từ ngày 18 tháng 4, cộng với các trung đoàn pháo binh. Nếu tính theo số người thì 100 ngàn người của Miền Nam Việt Nam phải đương đầu với 120 ngàn quân Bắc Việt đang vây hãm họ, Nhìn thoáng qua thì thật tình không tương xứng chút nào. Nhưng quân đội Miền Nam Việt Nam thì đang trong tình trạng lộn xộn, mất tinh thần và được bị mất đi một số cấp chỉ huy và vũ khí nặng.

Hai anh bạn Hoche và Laurent thuộc toán của anh Moscardo và ông thiếu tá đi trên hai chiếc xe La Dalat, nhỏ hẹp, chỉ có 2 mã lực.

Tôi và anh Coutard đi xuống bến tàu. Một quả rốc kết 122 ly rơi vào khách sạn Majestic, vốn đã có sân thượng bị phá hư. Tôi được biết là tướng Vanuxem, bạn và cố vấn của ông Thiệu đã ở đó và đang đi tìm một khách sạn khác.

Ba trái rốc kết khác đã rơi xuống sau nhà ga xe lửa trung ương, làm cháy cả khu vực nầy. Có tất cả 10 người tử thương. Người ta còn nghe nhiều tiếng gầm của đại bác ở xa xa . Pháo binh 155 ly của Mỹ bắn trả lại đại bác 130 ly của Liên Xô.

Chúng tôi ăn trưa tại Bến Nhà Rồng. Ăn cua rang muối. Chúng tôi đang tìm hiểu xem có một sự bí mật nào mà quân đội của Miền Nam Việt Nam một quân đội hùng mạnh nhất, được trang bị tốt nhất ở Đông Nam Á nầy, lại có một quân chủng Không Quân hùng mạnh… lại bị ngã gục chỉ trong một tháng . Bây giờ họ chỉ còn gom lại để phòng thủ vùng ngoại ô của Sài Gòn sau khi bị mất gần hết lãnh thổ của mình ngoại trừ một vài tỉnh ở phía Nam, mà không biết giờ nào cũng phải mất nốt .

Và đây là những sự kiện và những con số :

Ngày 9 tháng 3, sau một thời kỳ tạm lắng chừng 3 tháng, trong lúc chiến dịch tổng tấn công mang tên là chiến dịch Hồ chí Minh mới bắt đầu, thì đây là lực lượng của 2 Bên. Họ suýt soát gần ngang nhau.

- Miền Nam Việt Nam có khoản 270.000 quân chánh quy, 300.000 địa phương quân, 200.000 dân quân tự vệ (không có giá trị bao nhiêu). Ngoài ra về Không Quân họ có 60.000 (phi công và nhân viên kỹ thuật), và về Hải Quân 40.000. Có cả thảy là 6 sư đoàn Không Quân với cả ngàn phi cơ, trong đó có khoảng 370 loại tiềm kích và bỏ bom, nhưng vì thiếu chăm sóc nên khoảng trên một phần ba đang chờ được sửa chữa.

Điều thiệt thòi lớn nhất của quân đội nầy là : không có một trừ bị nào, tất cả các đơn vị đều bị dàn ra hết trên trận địa.

-Bên phía cộng sản Bắc Việt , họ có 24 sư đoàn , mỗi sư đoàn từ 6000 đến 8000 binh sĩ (các sư đoàn của Miền Nam Việt Nam trên nguyên tắc có 12.000 người) và 55 trung đoàn chiến xa biệt lập, pháo binh và hỏa tiễn tùy theo sơ đồ căn bản của quân đội sô viết. Không có Không Quân.

Tóm lại, quân đội Miền Nam dàn ra 270.000 binh sĩ đối diện với 230.000 quân Bắc Việt và Việt Cộng .

Các đơn vị xung kích của Miền Nam trên hẳn các đơn vị của Miền Bắc ; bộ binh thì hơi kém hơn về phẩm nhưng họ có vũ khí tốt hơn. Dụng cụ cũng tốt . Các chiến xa sô viết tốt hơn chiến xa của Hoa Kỳ nhưng về phần còn lại, hai bên đều ngang nhau, để bù lại việc chiến xa Miền Nam kém hơn thì họ lại có một lực lượng Không Quân hùng mạnh và một số lớn trực thăng.

Vào lúc khởi đầu tấn bi kịch thì quả là hai bên ngang nhau. Cũng không hẳn là như vậy. Bộ chỉ huy tối cao của Miền Nam Việt Nam không có ai hết trong khi phía địch thì trái lại, các cấp chỉ huy là những tay thiện chiến hiểu biết rành rẽ những lời giáo huấn của Clausewitz, của Mao trạch Đông và của bậc Thầy của ông nầy là Tôn Tử. Họ có một quá khứ, một kinh nghiệm lâu năm về chiến tranh và một Tổng tư Lệnh có uy tín là Võ nguyên Giáp, mặc dù ông nầy đau yếu và mệt mỏi nhưng luôn luôn vẫn là nguồn khích lệ của quân đội .

Ở Miền Nam không có Bộ Tham Mưu. Ông Thiệu đã bỏ nó đi rồi, vì sợ bị tạo phản.Việc thăng thưởng của hàng tướng lãnh được thi hành vì lợi lộc, hay vì tiền bạc. Đâu đâu cũng có gia đình trị. Chiến lược của ông Thiệu rất là giản dị : Giữ tất cả lãnh thổ để không cho CPLTCHMN có mảnh đất nào từ đó thành lập được chính phủ. Một chiến lược như vậy phải hao tốn rất nhiều binh sĩ.

Lực lượng địa phương quân ở Miền Nam không có phẩm lượng tốt để giữ vai trò đó, và các Tư Lệnh Khu hay ở địa phương thường dùng lực lượng địa phương quân để chiếm đất, nên vì đó mà họ không có lực lượng trừ bị. Các đơn vị chánh quy thì được dùng vào nhữngviệc lớn hơn và được xử dụng như sen đầm. Họ giữ cầu, giữ đường, và các đèo, các thành phố . Trái lại quân Bắc Việt có thể vận hành theo ý muốn và tập trung lại rất dể dàng.Chỗ nào quân cộng sản cũng tấn công, còn quân Miền Nam thì phải ở thế phòng thủ .

Từ năm 1972, quân đội Miền Nam đóng ở các căn cứ và không nhúc nhích, cả Thủy quân lục chiến và biệt động quân cũng vậy. Chỉ trừ các đơn vị Dù, còn các đơn vị khác thì ở tình trạng không hoạt động. Họ đóng quân luôn trong 3 tháng không thay đổi vị trí. Cả gia đình họ đến, vợ con và cả ông bà nữa.

Trong một quân đội đi giật lùi đầy thành lũy như thế, người ta dùng thì giờ lo chăn nuôi, họ nuôi heo, nuôi gà vịt, hoặc lo trồng trọt, buôn bán, gát qua một bên mọi hoạt động quân sự được xem là khổ cực: thao dượt, tu bổ thành lũy… Làm như người Mỹ vẫn còn ở đó sẳn sàng can thiệp nếu có gì quá xấu xảy ra.