Từ Huế hoặc Mỹ Chánh xuôi đò về vùng Quảng Trị, thỉnh thoảng Mười ưa ngồi bên mạn thuyền thò tay xuống nước sông vớt cánh lục bình, tai vẳng nghe cô lái đò trên sông lả lướt câu hò ý nhị, đậm đà tình dân tộc:
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Có khi nghe:
Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương. (cd)
Hoặc:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Phiá Bắc
Tỉnh Quảng Trị thuộc đất miền Trung, Quảng Trị cách xa Thủ Đô Sài Gòn 1.121 kilomet, thuộc vành đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, chuyển tiếp hai miền Nam + Bắc giáp Huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Dọc phía Tây cùng chiều dài dọc dãy trường sơn, thì giáp biên giới với nước láng giềng độ chừng 206km là Cộng Hoà Dân Chủ Lào (Savanakhet). Phía đông toạ độ địa lý 17o 09’ 30” vĩ bắc và 107o 20’ kinh đông, bờ biển dài 75km giáp biển Đông. Nam giáp hai huyện Phong Điền (Huế) và A Lưới. Cực bắc: 17o - 10’ vĩ Bắc từ điạ phận thôn Tây, xã Vĩnh Phú, huyện Vĩnh Linh. Cực Nam 16o - 18’ vĩ bắc là làng Hạ, xã Hải Quế, huyện Hải Lăng. Cực Tây: 106o - 24’ điạ phận đồn Cù Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa. Cực đông: 107o - 24’ kinh đông, thôn Thâm Quế, Hải Lăng. Tỉnh Quảng Trị có bảy Huyện. Gồm: Hải Lăng. Triệu Phong. Vĩnh Linh. Gio Linh. Cam Lộ. Hướng Hoá. Đa Krông.
Hai Thị-xã chính: Quảng Trị và Đông Hà. Gồm chín Phường. Tám Thị trấn. 119 xã thuộc Tỉnh Quảng Trị.
Khí hậu nhiệt đới ẩm. Điạ hình Quảng Trị do cấu trúc địa chất đa dạng: đồng bằng, núi, đồi, cồn cát, hồ, đầm, sông ngòi chằn chịt, biển… Cửa Tùng khá đẹp. ̣Khí hậu ở Quảng Trị khô và nóng rất khắc nghiệt; khó chịu, khi khô thì nóng hừng hực, có thể nắng và nóng nung cháy người vì ngọn gió Tây Nam, và gió Lào luôn quất vô mặt, và tàn phá thiên nhiên qua những cơn lốc xoáy kinh hồn! Mùa lạnh thì run rẩy, lạnh tê nhức thấu xương tủy. Từ tháng Bảy đến tháng 12 ở Quảng Trị thường bị bão, mưa dầm, lụt, gió xoáy. Ruộng lúa nương khoai có phần chưa tốt tươi, trái lại xơ xát hoang vu... cằn cỗi.
Lần đầu tiên vào năm 1824 Cổ-thành Quảng Trị có chu vi cổ thành Quảng Trị độ 2km đắp bằng đất, sau đó được xây bằng gạch chắc chắn bốn cửa Đông Tây Nam Bắc. Bốn bờ thành cao kiên cố bao bọc bởi lũy hào sâu hoắm hơn ba mét, ngăn cách trong tường thành và ngoài thành có dựng tầm dông vót nhọn làm hầm chông.
Từ Huế ra hướng Bắc (bờ Bắc) có hai nhánh sông lớn bao quát diện tích lưu vực 900km2 dài khoảng 65km, do bắt nguồn dọc theo những ngọn núi đồi nhấp nhô từ miền Tây Thừa Thiên & Quảng Trị: tạo thành sông Ô Lâu (cũng gọi là là Ô Giang) và sông Mỹ Chánh. Vào muà Hè dọc ven hai bờ sông Thạch Hãn có hàng phượng vỹ đỏ rực nghiêng mình là tà soi bóng nước, trông tuyệt vời biết bao! Trên sông Thạch Hãn nào đò ngang, đò dọc khua mái chèo. Muôn câu hò tiếng hát tình tứ thân thương đượm màu dân tộc, nghe mà lòng chan chứa niềm vui dạt dào ở ngày mai. Sông Thạch Hãn uốn lượn giữa hai bờ tre xanh ôm quê hương soi bóng mát được bắt nguồn do 37 phụ lưu ngòi lạch, từ: dãy núi phiá Tây (Thừa Thiên & Quảng Trị) , và từ trên thượng nguồn Trầm chảy nối dài qua các làng xã:
Thượng Phước, Như Lệ, An Đôn…
Phong cảnh nên thơ uyển chuyển, nước lấp lánh ánh dương uốn khúc lặng lờ, tạo thành hai sông chính là sông Quảng Trị và Cam Lộ. Thạch Hãn là sông lớn nhất cuả Tỉnh Quảng Trị. Diện tích lưu vực chiếm gần một nửa lãnh thổ Quảng Trị, sông Thạch Hãn đổ ra biển qua cửa Việt.
*
Thượng Phước (xã *
An Đôn, Quận *T
riệu Phong, thuộc *Tỉnh Quảng Trị); vào ngày 13 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch: có lễ hội long trọng, để ghi nhớ quan công Hoàng Dũng, là người có công lập Làng nầy. Dân cư cả làng Thượng Phước kéo nhau lên rừng bạt ngàn để săn thú, đem về dâng cúng các chùa, họ vui vẻ bên nhau với điệu hát “oát”, hát ru em bé “Adang Kon”, hát “Prdoak” vui vui. Hoặc:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
Ấy là nơi gia đình ba má Mười đã từ giã Đà Lạt và đến đây lập nghiệp, sống về nghề ương cây giống, như: Trà, cà phê, cam, quít, dâu, mãn cầu, bưởi đào, bưởi đường, cau, dừa, v.v... Ba của nàng không quản ngại khổ sở, vất vả, nhọc nhằn, nơi đâu có giống cây qúy, tốt, thì ba lặn lội đến, tuyển về nhà ương trồng. Rồi láng trại đem cung cấp hầu hết vùng phụ cận. Ba nàng bán cây với giá lời nhẹ nhàng, lời chút đỉnh, gọi là vui cảnh điền viên tuổi già. Có khi ba hào phóng cho không, tặng không, biếu không. Ba chẳng nhận tiền vốn, chứ nói gì đến tiền lời, tí chút tiền còm, gọi là... Mặc vợ và bầy con cằn nhằn:
- Sao ba quá “huênh hoang”.
Quảng Trị đa dạng: Núi Voi Mẹp. Đồi. Đảo Cồn Cỏ là đất nâu vàng, đất nâu đỏ có bãi đá và hai đồi. Bãi cát bằng phẳng.
Cửa Việt, Cửa Tùng có bãi cát phẳng mịn. Tuy là miền đất khô cằn, sỏi đá, nơi “chó ăn đá gà ăn muối” (chao ôi! chi mà khổ) nhưng Quảng Trị có tài nguyên khoáng sản (cũng tuyệt vời như ai chứ!). Điển hình là: Đất mặn (
Vĩnh Linh). Đất phù sa bồi (Mỹ Chánh. Thạch Hãn. Bến Hải...) Phù sa Glay:
Gio Linh…). Đất nâu tím trên phiến thạch tím. Đất nâu đỏ, nâu vàng trên bazan, trên phiến đá thạch sét ở Vĩnh Linh, Gio Linh. Hoặc đất đỏ vàng trên đá granit ở Voi Mẹp. Có nơi nhiều than bùn như Hải Lăng, Gio Linh. Kim loại đen quặng sắt ở
Cam Mỹ, Cam Lộ, Đông Hà.
Ồ! Tỉnh Quảng Trị rải rác ở Sa Lung (Vĩnh Linh) cũng có angtimoan ở Cam Lộ nằm trong đá vôi, thạch anh chứa ít vàng nữa! Cửa Tùng phong cảnh khá đẹp và bãi cát mịn bằng phẳng, nước biển ở Cửa Tùng trong xanh, là một bức tranh sinh động thêu lên bầu trời bao la bát ngát rừng phi lao, hàng cây chen cánh hàng dừa, những mái nhà ngói bên nhà tranh mờ mờ ẩn hiện xa xa, có đàn hải âu mơn man líu lo bay lượn vờn đùa trên sóng, có nhạc biển ì ầm rì rào trong chiều lộng gió.
*
Khe Sanh là một thung lũng nằm gần kề bên quốc lộ 9 thuộc Huyện Hương Hóa, tứ phương trùng trùng điệp điệp núi rừng và những dãy đồi cao trên bình độ 300m 400m, phun trào bazan và đá trầm tích. Có làng
Làng Vây, Tà Cơn. Mười yêu rừng sim hoa tím bạt ngàn, chen cánh rừng lim xanh, gụ, huỳnh, trường, trám lương, đào, sến, mây, song, đót, tràm.
Núi đồi *Đông Hà xa Huế 66km, cách Quảng Trị 12km ở ngã ba cuả quốc lộ 1A và quốc lộ 9. Đông Hà có 9 quận:
Cam Chính. Cam Giang. Cam Thủy. Cam Nghiã. Cam Hiếu. Cam Thanh. Cam Tuyền. Triệu Lương. Triệu Lễ. Đông Hà có đường xuyên Á Đông Tây; (cửa khẩu Lao Bảo) Đông Bắc Thái Lan. Lào. Myanma. Việt Nam về hướng Tây 83km trên toạ độ 1600’53” vĩ độ bắc, trùng điệp bao quanh, dù đất đai rất cằn khô, thiên tai luôn đe dọa, mùa màng thấp kém. Mười yêu con đường đất đỏ *Cam Lộ ngoằn ngoèo uốn lượn giữa hai bờ lúa lao xao, trăng sao gọi gió lào khắc nghiệt lùa về nóng khô hừng hực, nhưng gió nồm phía Nam lại nồng ẩm đất đai.
*Cầu treo và sông
Đa Krông nằm về phía Tây Quảng Trị. Cầu Đa Krông lơ lửng chơ vơ trên cao ngút ngàn núi rừng trùng điệp, giữa trời cao mây trắng sông nước trầm lắng thâm u, nhưng không kém thơ mộng. Có con đường số 9 xuyên Á đất đỏ ngoằn ngoèo len lỏi trong rừng cây chằn chịt qua cửa biên giới Đen Sa Vẳn (Lào).
*
Lao Bảo nằm cạnh sông Sepon về hướng Đông của đỉnh núi Voi Mẹp, cách xa Thị-xã Đông Hà độ 80km. Chợ Lao Bảo là nơi cách biên giới Lào khoảng 2km, nơi tập trung buôn bán tấp nập sầm uất rộn ràng hàng hoá cuả ba nước: Lào Việt Thái. Gió muà Tây Nam khô và nóng. Lao Bảo cách cửa khẩu Lào - Việt chừng 2km là nơi thấp nhất của dãy trường sơn.
*
Rú Lịnh đa số núi rừng già cỗi, đất nâu tím, nâu đỏ, nâu vàng, cả đất đỏ vàng trên phiến đá thạch sét, nhiều gò, đồi, núi trọc, có đá granodiorit hồng, lục đen, trắng lẫn trong đá bazang.
Dòng sông nối hai bờ của Vĩnh Linh và Gio Linh mà thuở nhỏ đã đem lại cho Mười sự mơ mộng… đẹp tuyệt vời của bình minh, hay hoàng hôn lãng đãng đang nhúng lên nhúng xuống ở đường chân trời! Đồng thời dòng sông vẫn dạy cho Mười biết thế nào là sự giận dữ, gào thét trong cơn thịnh nộ của sóng thần… và cuộc đời phù phiếm đã bạo tàn quét lên những chia biệt, vò xé, đổ nát, đau thương xiết đổi đau-đớn trong đời người.
* Sông
Bến Hải bắt nguồn từ vùng núi Động Chân, Tỉnh Quảng Trị, thuộc dãy Trường Sơn, sông cao hơn mặt biển 500m. Diện tích lưu vực độ 809km2, dòng chảy mạnh. Sông Bến Hải có 14 phụ lưu ở phiá Tây Bắc cuả Tỉnh Quảng Trị, thượng nguồn bắt đầu từ dãy núi phía Tây Bắc (cuả Quảng Trị). Tuy nhiên do có sông La Lung (Bàn Xen) hợp thành sông Bến Hải. Sông Bến Hải chạy dọc theo vĩ tuyến 17 dài 64,5km đổ ra biển Cửa Tùng.
1, Sông Bến Hải chảy từ Tây Nam sang Đông Bắc (còn có tên là Rào Thanh).
2, Sông Bến Hải (còn có tên là sông Bến Hói).
3, Sông Bến Hải (dân bản xứ còn gọi là sông Hiền Lương, vì dòng sông đã chảy qua cầu và qua làng Hiền Lương).
*Cầu Hiền Lương thuộc địa phận Tỉnh Quảng Trị có từ năm 1922, do dân địa phương cần mẫn tạo thành cây cầu bằng gỗ nhỏ hẹp, thô sơ. Năm 1950-1952 người Pháp đã đúc cầu bằng bê tông, xe cộ có thể qua lại trên cầu, hoặc dân cư đi bộ thay lúc xưa ngồi đò thuyền đi đó đây. Cầu Hiền Lương có bảy nhịp, hai bên thành cầu cao 1,2m, chiều dài cầu 178m, bề rộng 4m, gồm bảy nhịp. Bề mặt cầu lót tất cả 894 tấm ván gỗ tốt.
Năm 1954 cây cầu gỗ có tên Hiền Lương; cái tên nghe thật hiền lành lương thiện, ấy thế mà oái oăm chua xót và đau đớn thay cầu Hiền Lương lại “bị đưa lên đoạn đầu đài” bởi Hiệp Định Genève 1954, diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự hiệp ước: Anh. Mỹ. Liên Xô. Pháp. Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Laos. Cambodia. Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà; bản văn ghi -tạm thời chia đôi vĩ tuyến 17- tách ra hai miền Nam – miền Bắc Việt Nam. Mỗi chính phủ -của hai miền Bắc Việt Nam & miền Nam Việt Nam- được chủ quyền tự do trong khuôn khổ của 89m của cây cầu oan nghiệt mà thôi – Chính giữa cây cầu định mệnh đã bị ngăn chia bởi hai đường vạch song song, hai phe có toàn quyền sử dụng, tự do lộp cộp đi lại ở trên 447 miếng ván gỗ sờn úa của chiếc cầu luôn luôn lồng lộng gió. Ác nghiệt!
Lính biên phòng của hai Thủ Đô trong một đất nước mang tên hình chữ
S trên chiếc cầu Hiền Lương tai hoạ truyền kiếp dị hợm nầy, hằng ngày họ bồng súng đi đi lại lại, để canh gác cầu. Hai bên bờ Bắc và bờ Nam Việt Nam: đều gắn nhiều giàn loa phóng thanh rất cao và mạnh chiã sang đối phương, ngày như đêm cả hai phía đều ra rả đọc tin tức, tuyên truyền, chiêu hồi. Lâu ngày lâu tháng quen mặt, thỉnh thoảng họ cũng dừng lại nơi mốc giới ranh phân định, rù rì rủ rỉ hỏi thăm bên nớ bên nầy vài câu xã giao vớ vẩn. Bên kia và bên nầy bờ e dè chia từng mẫu thuốc lá vặt, hút đỡ lòng lúc giá rét căm căm qua đêm mưa phùn gió bấc lạnh lẽo.
Ngặt nỗi… khi chộn rộn, loa phóng thanh ra rã tung tin đụng chạm đến chính kiến, nghe ngứa lỗ tai, họ liền nổi giận và “đấu võ mồm” ác liệt, chưởi nhau nhoi trời đất. Làm buồn lòng chiếc cầu Hiền Lương (hiền lành lương thiện) của sông Bến Hải không ít. Chiếc cầu buồn bã vẫn áo não kêu cót két, trăn trở khô khan, kêu răng rắc rên rỉ… "Chiếc cầu cũng khóc" trong mưa, khóc theo mưa, như lời tự trách thở than não nùng, ai oán khóc hận cơn sóng loạn cuồng lưu, gió réo rắt tru hú về những tháng năm phù trầm! Nhìn hai bờ thôn xóm, gợi nhớ trong tôi hình ảnh lữ khách tha phương thẩn thờ đứng bên bờ… thổn thức dòng lệ tuông rơi. như nữ thi sĩ Nguyễn Thị Hoàng có bài thơ rặt giọng Huế “Chi Lạ Rứa” tuyệt vời:
... , ... Chi lạ rứa? Người cứ làm tui ngại
Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời
Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi
Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể
Tui không muốn khóc chi những giọt lệ
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình
… Tui không điên, cũng không hề bối rối
Ngó làm chi cho tủi nhục đau thương
Tui biết tui là hoa dại bên đường
Không màu sắc, chi lạ rứa hè, người hí
Tui cũng muốn có một người tri kỷ
Nhưng đường đời như rứa đó, biết mần răng?
Tui muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng
Chờ tui với! A, cười chi lạ rứa?
Tui không buồn, răng mắt mờ lệ ứa!
Bởi vì răng tui có hiểu chi mô
Vì lòng tui là mặt nước sông hồ
Chi lạ rứa, bên ni bờ tui khóc...
***
Thật ra Mười yêu nhất quê nghèo rất nghèo từ nơi *Quảng Trị với *T
rầm, *
Rừng Cấm thượng nguồn, lên ngã *
Ba Lòng, qua vùng biên giới. Gần giới tuyến có số ít sắc dân Paca, Tà ôi, Bru Vân Kiêu, Kơ Tu, Triêng, Dao, Xudăng, sống rải rác dọc trường sơn đông, trường sơn tây.
Mười càng yêu hoa sen nở tươi đồng nội xen lẫn hoa súng, hoa lục bình, cỏ lát, cây năng, hoa rau muống màu tím nhạt, bon chen trong cảnh ao tù nước đọng bùn lầy bên mé đình thôn
Thượng Phước. Mười yêu ngôi chùa cổ kính cong cong rêu phủ đầy nóc, qua u ẩn bao tháng năm phơi mình giữa nắng gió khuya chiều đìu hiu. Mười yêu mái trường làng A
N ĐÔN năm căn bé nhỏ, tường vách làm bằng rơm với bùn tro, phân trâu phân bò khô đã nhào trộn công phu, rồi tô trét kỹ lưỡng. Nhìn từ xa, ngôi trường giống như tường gạch xây, quét vôi vàng sạch sẽ. Nền đất nện công phu. Trường nép mình bên tàng phượng vĩ, hoa đỏ rực đan đầy cành. Đại đa số dân vùng xã thôn nầy làm ruộng, trình độ học vấn thấp kém, hơn 50% nam nữ, phụ, lão, ấu, chưa thông thạo đọc, viết.
Dân cư dọc miền Trung đa số rất hiền hoà, chất phác mộc mạc, tâm họ hiền lành chân chất, thật thà, đôn hậu, ít độc điạ và không chì chiết. Họ sống yên vui, đa số an phận bình yên, ẩn nhẫn bên lũy tre xanh bao bọc. Giọng nói của họ tại Quảng Trị, Đông Hà thổ ngữ âm khá nặng, nhưng vẫn ríu ra ríu rít… và trìu mến mặn mà hương đồng vị nội.
Khi tiếng ve sầu rền rĩ mỗi độ hè sang ở các miền nầy, nghe sao mà buồn não nùng khúc ca biệt ly trên sân trường Nguyễn Hoàng. Như thầy Phạm Lộc dạy Văn lớp Mười đã làm bài thơ dài thâm thúy, ý nhị, (thầy viết thơ riêng tặng học sinh lớp thầy). Đứng đầu hàng mỗi câu thơ là tên của một học sinh trong lớp. Trong đó, Mười thích nhất mấy câu thơ sau:
Từ độ xa nhau ai nỡ khóc.
Thế nhân một chuyến lỡ sông đò.
Hoa nở! Hoa ơi đã mấy lần.
Hương lòng úa lạnh giữa ngày xuân.
Hường phai sắc thắm trong ngàn lá.
Sen tả tơi hoa, nhụy úa dần.
./.
Tình Hoài Hương
(*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi.
(**) Những tấm hình qúy giá trong bài viết, không phải của tác giả thh. Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhiếp ảnh gia đã post hình trên Wikipedia, (tôi xin mạn phép chuyển tải vào bài viết, ngỏ hầu có thêm phần phong phú hóa hình ảnh quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta). Đa tạ!
*