Remember ?

Trang 4/4 đầuđầu ... 234
kết quả từ 19 tới 24 trên 24

Tựa Đề: VIỆT NAM Quê Hương Cẩm Tú

  1. #19
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default VIỆT NAM Quê Hương Cẩm Tú * CÔN SƠN LORAN




    Côn Sơn (Côn Đảo POULO CONDOR)
    còn gọi: Long Range hay Côn Lôn LORAN)



    Côn Sơn Loran (Côn Đảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời vẫn giao hòa nhịp nhàng thắm thiết biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh xam xám nhàn nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc óng ánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.

    Côn Sơn an tọa tại vùng Đông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Điều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: “Côn Lôn ngộ xá bất nguyên” (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Đơn điệu! Lẽ loi!

    Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40” 57” Bắc & 106o 36”26” Đông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36’ Đông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36’ Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Đông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.

    Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bao la, bát ngát sóng vỗ. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa, chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn lao xao rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh, hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây.

    Năm. Tháng. Ngày, giờ ngày cũng như đêm, sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao, lồng lộng. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng “làm ngơ” nũng nịu nhìn về đất liền. Một phần “con gấu” đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt “con gấu” ngâm mình trong nước loáng bạc, hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên Con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập. Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhất ở Đầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường và đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi công dễ nhìn xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhất nhanh chóng và an toàn tuyệt hảo.


    Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. “Con gấu Côn Sơn” cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Đất Dốc. Bãi Ông Đụng. Bãi Đầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa ra biển.

    Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (là chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm… Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây… vân vân... Ai trong những nhóm tù phạm đó, có giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vào đài làm việc, họ sẽ được tự do đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ có ít tiền xài, và được mua sắm thoải mái trong canteen của Mỹ. Thật ra, tuy ở tù mà họ cũng còn “sung sướng” vô canteen ăn nhậu như ở “đường Sơn Quán” thoả thuê ha!

    Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Đến "thành phố buồn” mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Đi mãi tận cuối cùng “lãnh địa sầu muộn” ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vào khu rừng bạt ngàn để đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam.
    * * *

    Gia đình Năm “lủng củng lình xình” chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp, càng rất đau buồn! Thời gian nầy, Năm đã được giải ngũ. Ở nhà Năm càng chán bà vợ, bà là dân thiếu học và phổi bò gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Ngày ngày Năm thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãi… cuối cùng may mắn có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Năm đã có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho Năm có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo đã hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ như Năm phải trả lời:

    * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhất từ trước tới nay xảy ra vào năm 1557 ở Trung Quốc. Nơi khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Một trận địa chấn kinh hoàng khác ở Đường Sơn, (Trung Quốc) năm 1976 khiến khoảng 250.000 người chết. Nơi có nhiều động đất và phun trào núi lửa nhất trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là Vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động và nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.

    * Đại dương lớn nhất trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Đại Tây Dương, có độ sâu trung bình là 3,9 km.
    * Nơi duy nhất có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.

    * Điểm tận cùng của nước Mỹ về phía Đông là đảo Amatignak, Alaska. Điểm xa nhất về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Điểm xa nhất về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Điểm xa nhất về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.

    Năm nhớ, đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn nhất, nên Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Nhưng với điều kiện là Năm phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Phần chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần cũng muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: “Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào ông xã với bà xã cũng có sóng gió, đay nghiến, dằn vặt nhau, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai, mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng ẩu đả to tiếng”.

    Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, Năm cảm thấy thật hào hứng thoải mái, tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật. Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan). Nơi đây có những cột antenna cao ngất trời cả trăm mét.

    Hôm trước cái bóng đèn ở Côn Sơn bị yếu xìu và “đứt bóng”, sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn và tốp quân nhân đi kèm trên phi cơ để “hộ tống bóng đèn” từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền, ta không nói, nhưng mà… nhất là nó thật quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng “le lói” kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
    - Suốt ngày nay tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Hôm nay tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.

    Nói xong ông Trưởng-đài mời Năm và Tom (thư ký tiếp liệu) và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy tốt bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện chứng kiến đồng ký tên vào, và ông trưởng đài đóng dấu lên tờ giấy, bỏ trong tủ lớn khoá lại.

    Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo cái túi haversack to nặng. Đó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vào cột antenna, anh ta từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30’ Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất.

    Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng Năm được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thật thú vị. Nói ra chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo nhưng đầy đủ tiện nghi như ở đất liền. Có điều là “tụi mình” không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết. Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trạI để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy người, đến những “em” binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài, để lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu, vân vân...

    Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kiệm Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku, anh ta đã bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” trong cơn say túy lúy chỉ dám vui vẻ lố lăng “xàm-xỡ” với vợ của “ông thầy” (Đại úy chỉ huy trưởng của Kiệm mà thôi)!!! dù họ chưa chắm mút xí nào với và “ngài phu-nhân” ưa phô bộ ngực hở hang quá lố, chưng diện lòe loẹt và đỏm đáng cuả ông thầy. Chớ chẳng phải họ xàm xỡ với vợ của mình. Dù vậy Kiệm bỗng muốn dợt le nổi máu “yên hùng” tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác! Kiệm bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta ân hận thì đã… ra Côn Đảo mà mến Năm.

    Hằng ngày, Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của Năm mỗi ngày ở Côn Sơn là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike khi có việc cần. Hết giờ là Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá tôm, cua, sò ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.

    Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng cơ quan nầy). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, và làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ điều trị. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, nên nằm đó điều trị hai tháng. Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vào thăm đã đành. Còn có con bồ cũ ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ đang tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghe… thì bà xã Năm lù lù xuất hiện, la lối mắng nhiếc um sùm, khiến con nhỏ xanh mặt lủi mất. Năm thì mắc cỡ đứng thộn ra chịu trận lôi đình.

    Khi Năm khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Năm đã siêng năng làm việc; đồng thời được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, ăm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên chàng được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, họ cho Năm vào làm tạm “gác cổng” ở văn phòng chính tại đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi vào Năm làm “trợ lý” cho một người nữa, Năm lo đi lên đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhất, làm thẻ cho nhân viên Mỹ. Vì, chu vi hoạt động của hãng FEC bao gồm các đường dây điện thoại rất rộng lớn. Trong phi trường và trong DAO, trên Long Bình. Nghiễm nhiên Năm trở thành Phó-phòng, chuyên phụ trách về việc ghi Thẻ ở Tân Sơn Nhất.

    Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Rậm để đi làm một cái bản đồ, trong đó Năm ghi rõ tất cả địa chỉ, nơi mà nhân viên Mỹ đã và đang ở tại Sài Gòn và các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “xếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”. Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam!
    Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “xếp” gọi Năm:
    - Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
    Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
    - Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm…
    Năm giống như:
    “Thằng Bờm có cái quạt mo.
    Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
    Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười”. Ha ha ha !

    _ * _

    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  2. #20
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Đế Đô HUẾ - Kinh Thành Tráng Lệ Vàng Son Một Thuở



    VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG CẨM TÚ
    9*.- Đế Đô HUẾ - Kinh Thành Tráng Lệ Vàng Son Một Thuở



    Trả phòng ở bên Vĩ Dạ, hai người gọi taxi qua bên phố Phan Bội Châu vào Hotel Đồng Lợi. Phòng ốc ở đây tương đối sạch sẽ, thoáng khí, lịch sự, yên tĩnh. Khi Nam qua nhà Vinh ở bên kia sông, (đối diện gần phòng trọ) thăm các bạn. Mười tắm rửa xong liền xuống lầu, ra chợ Đông Ba mua ít trái cây. Chàng về phòng, sau đó họ đi thuê bao một chiếc xe lam rộng thênh thang, họ không mời các bạn vì muốn riêng tư đi với nhau, chỉ có hai người đi thăm các lăng tẩm nổi danh ở Huế: Minh Mạng. Thiệu Trị. Đồng Khánh. Tự Đức. Gia Long. Khải Định…

    Lăng KHẢI ĐỊNH nằm riêng biệt ở phía Tây tĩnh mịch ở kinh thành Huế. Lăng tẩm uy nghi được xây dựng khi vua còn ngự trên ngai vàng nghinh tiếp tình yêu đôi trẻ. Họ dìu nhau đi dưới hai hàng hoa bằng lăng nở đầy cành, bước chân đôi trẻ phiêu bồng dẫm trên xác phượng vĩ đỏ thắm. Những con rồng to, những vị quan thần đá, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai nghiêm. Hiện nay các lăng chẳng còn giữ được nguyên thể, dù đã nhiều lần trùng tu để nối dõi tông đường! Đầu tiên là hai bạn đi thăm: Lăng Khải Định (Ứng Lăng) tên thật của vua: Nguyễn Phúc Bửu Đảo, (1885-1925) Trị vì: 9 năm.

    Chàng và nàng đã cười to, tiếng cười vang dội núi đồi thinh lặng, hai người nắm tay nhau, vừa chạy lên năm bậc thềm của các tầng sân tạo thành một trăm hai mươi bảy bậc cấp (127). Lăng đứng sừng sững trên triền núi phía Tây làng Châu Chữ, xã Thủy Bằng, Huyện Hương Thủy, có núi án núi chầu: Núi Chóp Vung, núi Kim Sơn. Lăng cách thành phố Huế 10 km, ngọn đồi nầy cao chót vót, chung quanh toàn cây đại thụ mọc um tùm, râm mát, che kín một vùng núi non có khe Châu Ê nước đục và độc. Lăng không trang trí hồ vọng nguyệt, không có cầu. Diện tích lăng rộng khoảng 330,05 héc ta. Lăng mới xây kết hợp hài hoà giữa kiến trúc Đông và Tây, bê tông, gạch nung, đá, cột paratonnetrre, tháp nhọn stoupa v.v...

    Thanh long bạch hổ của tiền đình, hậu chấn, rồng chầu, hổ phục: tượng trưng bằng 2 voi. 2 ngựa. 10 tượng người đứng chầu quanh sân đại điện. Gian đại sãnh sơn son thiếp vàng, vòm cung nhọn, tường cột chạm trổ tinh vi, chi chít kỳ quan của ngành phù điêu khắc giao thoa độc đáo, đầy thẩm mỹ, khiến người xem rất kính phục, coi hùng vĩ, uy nghi hoành tráng bậc nhất với các loại bê tông, sắt, thép, sành sứ, long vân thủy họa, ghép ngàn vạn mãnh sành sứ thủy tinh, tạo thành nhiều bức họa long lanh sống động tinh xảo với “phúc” và “vạn thọ” phong thủy địa lý thủy thổ vững vàng.

    Hai người bạn trẻ đứng trước ngai vàng có pho tượng đồng vàng bao phủ, ở ngoài tạc hình vua Khải Định, sau lưng vua ngự là phong cảnh mặt trời lặn. Còn một pho tượng vua Khải Định đứng thì đặt ở Trung Lập đình của cung An Định. Tay Mười nương nhẹ sờ lên nếp nhung-y, tưởng chừng nơi đây đang trỗi dậy thời oanh liệt, vàng son với vua chúa, quan đại cận thần, dũng tướng kiêu binh, cung phi mỹ nữ. Vua cai trị triệu dân, giữ gìn xã tắc sơm hà, giang sơn ấm no, hạnh phúc một thời lừng lẫy. Nam Mười cùng nhau hét thật to, tiếng vang ngân từ xa vọng lại, như những dịp sấm rung dồn. Khi chàng hái được bông hoa thọ sim, anh cười ngặt nghẽo, chọc quê Mười. Hai bạn trẻ vừa chạy lên rồi chạy xuống những bậc cấp lăng, vừa đếm những 127 bậc cấp:
    - Một, hơi, boa, bốn, nem, séo, bởi, tém... chín mừi… một trem lẽ tớm...
    - Cha cố bà, mấy lâu ni, tui mới tìm thấy một bông thọ sim để tặng em. Hí!

    Thế là Mười lượm lặt sưu tầm ít văn thơ đặc biệt của thổ ngữ miền Trung, đọc lên cho Nam nghe. Anh con trai miền Nam khoái chí cười ha hả, cố học thuộc lòng:
    "Khôn" là đồng nghĩa với không
    Chẳng muốn lấy chồng = "khôn muốn lấy dôn"
    "Đoản hậu" là "Ác" en ni.
    Tui đã... im lặng cứ đi theo hoài
    Nhà tui còn khoảng đường dài
    Có chi noái nấy, ngày mai hết rồi
    Trên cao thì nói "trên côi"
    "Đi rượng" là lúc sóng đôi như chừ
    "Phủ phê" là lúc thặng dư
    Như là tình cảm "đã nư", no đầy
    "Như ri" có nghĩa như vầy
    Mô Tê Răng Rứa, em quay... mòng mòng. (*)


    Bởi vì hôm nay là ngày thường, nên các lăng tẩm rất vắng khách vãng lai. Đôi bạn đi giữa hai hàng hoa bằng lăng tim tím, mỗi khi có gió lùa thì nhiều cánh hoa rơi lả tả ven tường. Trước thềm rộng, hồ vọng nguyệt sen nở rộ, lá sen ôm kín mặt nước ao tù thăm thẳm. Chàng và nàng tha hồ chơi trốn tìm, rượt bắt cứu tù náo loạn. Rồi họ đi đánh trống dộng chuông inh ỏi. Khiến một cô gái xinh đẹp, cỡ trạc tuổi Mười đang ngồi học bài (có lẽ là con gái của người gác lăng), cô gái nhăn mặt, nhíu mày tỏ vẻ khó chịu. Thấy thế, Mười và Nam trêu cô gái:
    - Trời đéc thánh thiền thiên địa quơi, tui nà rân ri cư, còn bạn tui đây thì là dân Đà Lạt. Tui noái thặc dư ri… im đừng théc méc nghen: reng mờ im đệp chi, mòa im đệp éc ôn, đệp ớc liệt rứa, hỉ!
    - Em ui, cho anh Nam hỏi nè, có phải lờ” :
    "Răng chừ" đồng nghĩa "khi mô"
    "Khi mô" có nghĩa khi nào đó thôi
    Khi mô có cặp có đôi
    Răng chừ hết cảnh tuổi đời bơ vơ
    Đơn côi "cái trốt" dật dờ
    Là ôm đầu bạc "cà ngơ" một mình
    Lặng yên thì nói "mần thinh".
    Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
    (*)

    Nói xong, Nam đưa thỏi chocolate cho cô gái:
    - O đeng mần cới chi rứa, O có en sô cu la khôn? O khôn en, thì tét đèn đi ngủ, hén. Chớ không thì, súng sép bén đùng đùng. Mà nè O, O cầm cái kéo và noái: ẻm của tui cần két mớ tóc dời tới ngang lưng dư rớ. O két tóc đứa em tui trụi lủi, thì em tui sẽ giơ ra cấy trốt, lòi da đầu ra reng? Rùi O hô: O sẽ đi xung phen, để bén cái thèng cha ngừi Nôm ni lồm phẻn động... Chéc là tui chết. Hỉ!

    Cô gái không vừa, nàng cũng có một khối sưu tầm thơ văn nguyên bản của Cai Vĩnh đem thơ ca ra đốp liền:
    "Mần chi" ai hỏi làm chi
    Em muốn làm gì, "răng hoải mần chi?"
    Thế này thì nói "ri nì"
    "Rứa tề", thế đó mần chi đây hè?
    Cái cây thì noái cái "que"
    Còn ở trước hè lại nói cái "cươi"
    Cái "ôn" bản mặt tươi tươi
    Ưa đi tán bậy là người "vô duyên"
    (*)
    Sẵn trớn, Nam vui vẻ ôm Mười vào lòng và “ca” mấy câu thơ đã lượm lặt:

    - A ha. Như vậy là O nớ đã có dôn rồi hí, để tui thỏ thẻ noái cho O nghe hí:
    Nếu biết rằng em đã có chồng.
    Cho anh gặp chàng có được không?
    Để anh hậu đãi chồng em đã…
    Rước giùm của nợ, lập đại công.
    Nếu biết rằng em sắp lấy chồng
    Anh về tát nước cạn dòng sông
    Để cho đám cưới không qua được
    Đừng có mà mong được động phòng. (*)


    Cô gái ngượng quá nguýt hai người một cái dài, dài có đuôi… cô ta xù mặt ra, vội quơ tập sách chạy biến vào hậu trai, giữa tràng cười của Nam và Mười trải dài trên khu đồi quạnh vắng. Nam Mười cùng nắm tay nhau, chạy xuống trăm bậc tam cấp.


    Hai người đến lăng TỰ ĐỨC xa thành phố Huế 7 km. Chu vi 1200/m, diện tích 10/ha. Lăng ngự tọa ở núi Khiêm Sơn, hướng Tây Đông có núi án, núi chầu Dẫn Khiên Sơn, Động Án tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân. Lăng vua Tự Đức có cửa tam quan hai tầng, vào sâu bên trong sân là những tòa nhà xây gạch, có lối kiến trúc độc đáo; nhưng nhìn chung thì nhà cửa phòng ốc có phần rườm rà.

    Khiêm Lăng, tên thật vua là Nguyễn Đức Hồng Nhậm 1829-1883. Trị vì 35 năm. Vua là người nhân hậu, đa cảm, uyên thâm học vấn: Sử, Triết, Nho, xuất sắc nhất là văn học, một ông vua tinh tế có óc thẩm mỹ, và là một thi sĩ đa tình, thâm trầm, vua đã để lại nhiều bài thơ trữ tình. Khiến Mười hình dung đến vị vua cao trọng tôn qúy ấy mỗi khi rãnh việc nước, vua cùng đoàn mỹ nữ nhàn du, từng đặt chân đến nơi nầy, họ thi ca vịnh nguyệt, ngự tửu yến tiệc, đọc sách ngâm thơ. Phía tả hồ có bắc ba cây cầu, hồ mang tên Lưu Khiêm có dựng đảo Tịnh Khiêm. Trên hồ nước trong xanh mọc đầy sen trắng, tím, hồng coi sinh động, cạnh ven hồ là những con đường xinh xắn uốn lượn, và một rừng thông xanh ngút ngàn suốt tháng năm phóng khoáng reo vi vu dưới màu trời sắc nước rất yên tĩnh trầm lắng mà thơ mộng.


    Qua phần núi Đại Thiên Thọ cách kinh thành Huế 16km, là Lăng GIA LONG có chu vi 1800/m, diện tích 20/ha. Thọ Thiên Lăng tên thật vua là Nguyễn Phúc Ánh, 1762 – 1819. Trị vì 17 năm. Phong cảnh hữu tình, địa thế hài hòa, khung cảnh trầm lắng thơ mộng mà uy nghi. Đây là lăng của một ông vua đã tiên phong khai sáng một triều đại phong phú đa dạng. Lăng ở nơi xa xôi, rộng rãi mênh mông, hoang vu, và bình dị. Lên những bậc tam cấp, nơi chính điện xám xịt đồ sộ, mái cũ rêu rong thâm u, đặc biệt có hai ngôi mộ đá thanh xam xám, đơn giản, màu than đá không hoa mỹ, đó là: vua và hoàng hậu đã nồng ấm nằm an giấc ngàn thu bên nhau, không có lăng tẩm nào có hoàng hậu nằm chung mộ phần với vua giống lăng Gia Long như thế. Hai hàng quan Văn, Võ gồm 10 người. Những con rồng chầu, kèm hai voi, hai ngựa. Sư tử đắp bằng vôi gạch mặt xanh, mắt đen, lưỡi thòng dài xuống quá cổ, đuôi cúp giữa bốn chân, mang tư thế trung thành, nhẫn nhục đứng chầu trước ngọ môn. Mặt hồ phẳng như gương soi, nước im phắt rất mang tên Dài, vẫn gợi lên trong lòng Nam Mười cảm giác rờn rợn, lạnh lẽo u tịch, đầy hình ảnh sự tích thời cổ xưa nối đuôi nhau lướt bóng thời gian, như bóng mây nhẹ lướt qua đời, bay trên cánh đồng cỏ xanh rờn vào những tháng ngày nắng ấm. Nơi đây, Mười thích nhất là lối kiến trúc độc đáo, sâu sắc, điêu khắc tinh tường, đặc biệt chiếc ngai vàng kê giữa chính điện, quả là một kiệt tác diễm lệ dường bao!

    Hai người lững thững trở về lối cũ gọi đò đưa sang bên kia song. MườI và Naṃ đưa nhau đi qua lăng MINH MẠNG tức Hiếu Lăng, (tên thật vua Nguyễn Phúc Đảm 1791-1840) Trị vì 20 năm. Lăng an ngự ở hướng Tây Đông, chu vi 1732/m, diện tích 15/ha trên vùng núi Cẩm Kê. La Khê, xã Hương Thọ, Huyện Hương Trà. Lăng Minh Mạng cách xa thành phố Huế 12 km, có địa thế án núi do Kim Phụng núi chầu. Lăng đường bệ, hài hoà, được bao bọc bởi bức tường thành cao 3m, dày nửa mét. Mặt trước có ba cửa vào lăng đăng đối theo trục thẳng. Lăng nổi tiếng hoang-vu, ảm đạm, tàn phế. Lăng chiếm cư trên vùng đất xa xôi, vắng ngắt, rêu phong hoang dã, mái vòm gạch ngói tróc lở. Suốt dọc hai bên đường đất đỏ cỏ rậm chằn chịt với cỏ tranh mọc lên lút ngực, trông càng tiêu điều, hoang phế, cô liêu. Buồn tênh phiền não đến ghê rợn. Trong lăng đường bệ, im ắng, uy nghiêm, đăng đối. Bên ngoài thỉnh thoảng có nhiều tiếng chim hót líu lo trên cành. Mấy cái hồ xanh biếc im lìm mọc đầy hoa sen và cảnh nước mây trời. Đứng trên cầu Hữu Bật chia đôi mặt hồ thành con dường dài dẫn lên lăng, thì nơi hoang tịch nầy chỉ có Nam và Mười. Cảm thấy rờn rợn, sợ hãi, nên hai người thì thầm bảo nhau trở về.

    Ra tới bờ sông, hai người nằm ngửa trên lớp cỏ mềm và dày để đợi ông lái đò sang đón. Chàng hú lên những tiếng quái dị, đầy man rợ. Khi thì Nam trổ giọng kim, khi đổi giọng trầm ồ ồ. Rồi anh xổ một tràng dài tiếng Anh, tiếng Tây, tiếng Tàu, chen tiếng Ấn Độ, tiếng Miên, hay tiếng ba xàm ba láp “tào-lao” nghe rất quái gở! Trong khi đó Mười bụm hai tay trên miệng phụ-họa Nam, làm những tiếng hót chiêm chiếp, tiếng khẹt khẹt, tiếng ụt ịt, tiếng ò ó o...ù ú u... “Giỡn hớt” với nhau giữa chỗ không người, hai người sung sướng thoải mái cười đau thắt ruột.

    Bất thần, Mười Nam trông rõ có một đám du khách bốn người đang xuất hiện trên đường mòn, cỏ tranh lút gần tới bụng họ. Do Mười, Nam đang nằm trên cỏ bồng khuất lấp, bởi thế những du khách kia không thể trông thấy hai người, nhất là vùng nầy quá hoang vắng. Nên khi vô tình nghe những tiếng tru hú dị hợm ấy, họ hốt hoảng, lo sợ, xô nhau chạy về bên bờ sông cạnh con đò ngang. Du khách yếu bóng vía đành trở về bên kia sông, không được thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh của Đế Đô rồi. Lăng Minh Mạng nổi tiếng là có yêu tinh, ma quái mà lị! Càng nổi tiếng là có phường gian, ăn cướp, kẻ cắp đang ẩn núp đó đây, nên ít ai dám lên đò qua sông vào lăng Minh Mạng lúc choạng vạng hoàng hôn cả.

    Nam kéo tay Mười đứng lên, vội vàng chạy theo họ, để lên đò qua song. Trả tiền cho bác lái dò xong: Nam nói:
    - Nếu có máy ảnh, lúc đó mình chụp lại vài tấm, để lộng-kiến, em nhỉ!
    - Để liệng-cống thì có. Nhìn chúng mình cười rũ rượi như đười ươi í.
    - Lý tưởng chứ.
    - Lý tưởng gì! Lý tưởng là mình tưởng những điều ấy có lý ha.

    Môi hôn chàng phớt nhẹ trên môi nàng, Nam tủm tỉm nhìn Mười, cười cười như trêu ghẹo. Họ nhảy tót lên xe lam lúc nãy đã thuê bao. Hai anh chị ngồi thở dồn, giả vờ đứng đắn, nghiêm trang nhất thế giới. Nhưng Nam và Mười âm thầm kín đáo liếc nhìn bốn anh chị du khách kia, (họ xin Nam cho họ đi nhờ theo xe Nam đã thuê bao để về phố). Nam không do dự, đã đồng ý. Trên xe Mười và Nam cứ tủm tỉm, nháy mắt nheo mày, ngầm ngầm hân hoan vui thích những chuyện trêu chọc người ta, mà khoái... Không có gì ở đời khiến đôi trẻ hạnh phúc bằng tình yêu chân thành, say đắm và sự trìu mến đạt đến mọi cảm thông.


    Xe lam đưa họ tới chùa THIÊN MỤ xa kinh thành Huế 5 km, chùa uy linh nằm trên đồi Hà Khê, chùa cao bảy tầng, mỗi tầng có tượng Phật soi mình chếnh chếch trên sóng nước ở tả ngạn sông Hương. Người dân thị thành luôn nghe tiếng chuông mỏ ngân rền dưới tháp. Tựa mình bên nhau, Nam Mườị đứng nhìn xuống dòng sông Hương lờ lững trôi giữa hai bờ tre trúc uốn mình trong gió hiu hiu. Những con đò nhẹ nhàng khua sóng, tìm về bến đậu, tiếng hát câu hò thoảng đưa, nghe đượm màu dân tộc, chan chứa ngày mai, thì còn bức tranh tuyệt tác nào qua nỗi buổi hoàng hôn, nơi vùng tranh tối tranh sáng, mờ mờ ảo ảo, giữa bè mây vàng tía, nhẹ lâng lâng, dáng chiều ươm hồng thắm mặt đất theo:
    "Gió đưa cành trúc là đà
    Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”.

    Ngày thứ năm – chàng và nàng vào thăm THÀNH NỘI, thăm Hồ Tịnh Tâm. Buổi chiều họ đi biển THUẬN AN. Buổi tối, hai người ra ngoài balcon nhìn xuống phố Phan Bội Châu, (nơi nầy xe cộ chỉ có phép xuôi theo một chiều, để đi lên hướng chợ Đông Ba. Nếu xe cộ muốn đi về hướng Bao Vinh, là xe cộ chỉ được phép lưu thông trên con đường Huỳnh Thúc Kháng dài ngoẵng nầy ôm ven bờ sông Bạch Đằng). Người người đi bộ, hoặc chạy xe đạp, xe gắn máy, xe xích lô, xe hơi… Lòng phố đông như kiến chạy xuôi về hướng chợ Đông Ba. Chợt Mười thấy anh Bảy của nàng đang cởi chiếc xe vespa Italy, anh mặc bộ đồ sport trắng, anh đi đánh tennis. Mười chỉ cho Nam nhìn thấy anh, nàng nép sau lưng chàng, sợ anh trai vô tình ngước nhìn lên, sẽ bắt gặp mình, thì chết.

    Ăn cơm nhà hàng xong, Mười vào nằm nghỉ trên phòng. Chàng đi hội chợ với các bạn. Trong phiên chợ đêm, Nam chơi ném tên, ném cổ vịt, chơi bắn súng. Nam chơi cái gì thì trúng lớn cái đó. Nam ăn được hai chục ngàn đồng. Trong khi ấy thì các bạn thua to. Nam bù cho các bạn gấp đôi số tiền họ đã thua. (Ấy thế mà anh chả đưa cho Mười đồng nào ha!?) Khi chàng đi chợ đêm về, Nam mở khóa cửa thật nhẹ, vì ngỡ là Mười đã ngủ. Nam đi tắm, rồi lên giường hôn phớt lên má Mười. Nàng quàng tay qua cổ anh ghì xuống. Chàng và nàng muốn trao nhau mật ngọt tình yêu chân thật, run rẩy và táo bạo. Giữa lúc đôi trẻ ngỡ rằng hai người phải hòa tan tuyệt đỉnh tình yêu trong nhau, thì Nam đã thắng lướt được khuynh hướng bẩm sinh, mặc dù khuya nay, cả hai người không còn mảnh vải che thân. Chàng dặn dò Mười:
    - Nếu khi thấy anh “đi quá trớn”, em nhớ tát tát vào má anh, cho anh tỉnh người. Nhé.
    - Dạ vâng!
    - Mười yêu của anh. Anh quyết giữ gìn em trọn vẹn. Không muốn xâm phạm em. Bởi vì, anh rất yêu em.
    - Chúng mình đã thắng định mệnh một ván bài rồi đó anh.

    Kỳ diệu thay. Lý trí đã vượt lên cao, để dập tắt ngọn lửa tình hừng hực cháy trong đôi trái tim: Ôi! “chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong đôi mắt mỹ nhân”. Cả hai người cùng hiểu rất sâu sắc rằng: Chuyện trở thành vợ chồng, sẽ không xảy ra giữa hai người. Khi mà Nam + Mười chưa chính thức làm đám hỏi, đám cưới. Chàng - nàng quyết giữ gìn tình yêu sạch trong, không xâm phạm đến tiết hạnh cuả nhau.

    Để lãng quên ngọn lửa tình đang bừng bừng, chực đốt cháy hai thân thể, chàng gọi Mười đi ra ngoài balcon. Họ nhìn qua nhà Vinh ở phía sau khách sạn, trước bến sông Bạch Đằng, họ ngắm trăng rụng xuống dòng sông mờ đục. Chàng nói:
    - Anh đố em biết: Có hai người chạy đua xe đạp, trên đoạn đường dài ba cây số. Đích cuộc đua là một bờ sông. Ông A chấp ông B, chạy trước ông ta bảy phút. Hỏi em rằng: Ai sẽ thắng?
    - Ông A dám chấp ông B, như vậy có lẽ ông A giỏi hơn, ông A sẽ thắng.
    Chàng mỉm cười, hôn lên má Mười cái chụt, lắc đầu lia lịa. Nàng nói:
    - Vậy thì ông B. Phải không anh?
    - Sai quá sá rồi.
    - Vậy chứ ai nào?
    - Cả hai cùng thắng.
    - Kỳ lạ nhỉ!
    - Nếu cả hai ông không ai chịu thắng... xe, thì rơi tỏm xuống sông, chết đuối sao! Ngu gì chết? Hở em!

    Cả hai người cùng cười vang. Tay trong tay, họ trở vô phòng. Ngày thứ sáu- Nam Mười đi thăm Truồi, lúc về ghé núi Ngự, ăn bánh bèo ở Ga. Chiều qua ăn bánh xèo ở Trần Hưng Đạo. Ối Trời! Lúc đó Mười thấy Đan đứng trước sân nhà, anh ấy chống tay lên hông nhìn ngược lên hướng cầu Trường Tiền. Bên cạnh anh là mấy cô em gái rất xinh, họ đang nói chuyện vui vẻ. Chẳng hiểu sao Mười run run, lấm lét nhìn Đan, rồi quay phắt đi nép mình bên Nam. Mười nói nhỏ đến nỗi Nam phải cúi sát xuống đầu nàng, hỏi lại:
    - Ấy, anh đừng qua lối đó. Anh Đan đứng kia kìa.
    Theo hướng Mười chỉ, Nam ngước nhìn, rồi cười nhẹ:
    - Anh Đan beau trai, em nhỉ!

    Mười gật đầu. Hai người rẽ qua đầu cầu Gia Hội, lững thững trở về phòng. Chàng đã rõ câu chuyện Đan có dự tính sẽ về bàn tính với gia đình, xin làm đám cưới với Mười (sau ngày anh đi phép). Nam chỉ nghe Mười kể thoáng qua, không ngờ chàng vẫn ngậm ngùi.

    Buổi tối, chàng thuê chiếc đò, cùng Mười, Thạch, Vinh, Phong, Hải, Trí, ngồi đò chèo đi dạo trên sông Hương thơ mộng. Các anh có trò chơi chọc phá nhau ngộ lắm. Cứ thỉnh thoảng có một anh giả vờ gọi tên bạn nào ngồi ở trước, anh kia quay lại, liền bị ngón tay mình chỉ vô má. Thế là cả nhóm cười vang. Hoặc ai đó nói câu gì nho nhỏ, một vài anh không nghe rõ, liền quay lại, tức mình “há” lên một tiếng to. Thế mà cả nhóm vẫn vui vẻ cười vang.
    Ngày thứ bảy cuối cùng – (trong một tuần lễ rất hạnh phúc), thật bình an – chàng - nàng nằm bên nhau suốt ngày, đêm, như đôi bạn chí thân, cả hai người đọc lại cho nhau nghe những lá thư đã viết. Sau khi đi ăn cơm tối, Nam đi mua vé xe bao các anh Thạch, Phong, Hải, Vinh, Trí, đi về Đà Nẵng. Nàng ở trong phòng, lo thu dọn hành trang, áo quần vào valy mỗi người, chuẩn bị sáng mai lên đường. Đúng lúc nầy Mười “bị” sớm hơn mọi tháng những 5 ngày. Không ngờ bị sớm thế, nên nàng đâu chuẩn bị gì. Nam đi mua vé xe xong đã về phòng, biết Mười “bị”, chàng lại xuống phố mua serviette giúp cho Mười. Ôi, nàng mắc cỡ, ngượng ngùng không sao tả hết, cúi cúi liếc liếc, ỏn ẻn Mười nhỏ nhẹ cám ơn chàng.
    * * *

    Trở về Đà Nẵng, Mười đã quyết định chấm dứt mọi liên lạc với bạn bè cũ. Nam ở nhà anh chị bạn tên Phong tại đường Hoàng Diệu. Thỉnh thoảng hai người gặp nhau ở nhà anh chị Thương. Những ngày ngắn ngủi còn lại, Mười sống riêng cho Nam. Ngày cuối, chàng & nàng, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, đi picnic tại biển Mỹ Khê. Chưa đi tắm biển nầy lần nào, nên Mười dẫn Nam, các cháu, đi lạc vô khu dân chài sinh sống. Không có bãi tắm. Nước đục và dơ ơi là dơ. Trên bãi cát đủ thứ phóng uế bừa bãi. Bẩn thỉu kinh khủng. Ngồi một lúc, ruồi xanh ở đâu bu vào đầy người. Dì cháu Mười, Nam, đành xách giỏ thức ăn, đi bộ lên phía khác xa chỗ cũ.

    Nơi đây vẫn không lấy gì sạch sẽ tươm tất, tuy thế đỡ dơ hơn chỗ lúc nãy khá nhiều. Chàng, nàng đều tiếc rẻ, nếu biết bẩn thỉu như vậy, anh em dì cháu cứ đi đến biển Thanh Bình, như hôm trước có lẽ thích hơn. Chàng mặc chiếc soọt đỏ chạy đi tắm, chiếc quần đỏ in hẳn màu da trắng ngần trên nền trời xanh biếc, biển bao la xanh thẳm một màu sau lưng Nam, mái tóc bay xô lệch theo chiều gió. Nam đứng chống tay lên ngang hông, nụ cười đầy tin tưởng, mắt ngời sáng nhìn những cánh buồm căng gió. Ngâm mình trong nước, chàng bơi lội thoải mái. Khá lâu, Nam lững thững lên bờ. Trong khi các cháu còn nô đùa với biển cả, anh chạy về dưới hàng phi lao.

    Nằm ngả lưng bên Mười, Nam quay sang ôm hôn Mười, bỗng đâu có đám trẻ con của làng chài đã phục kích ở mấy bụi cây lúp xúp, chúng đồng loạt bò lổm ngổm tới gần rình xem. Thật là quê xệ một cục! Mắc cỡ muốn dộn thổ! chàng, nàng, bẽn lẽn gọi các cháu đi về phố.

    Buổi chia ly đã đến. Mười nghe tiếng gió rít trên tàng cây me trước sân nhà, cung đàn trầm lắng, xôn xao, ríu rít, bâng khuâng và băn khoăn vô ngần. Tai Mười nghe dư âm tiếng sóng gầm ngoài bờ biển Thanh Bình. Tiếng gió mưa ào ào, dội lên nóc nhà tôn bên Vĩ Dạ. Tiếng sóng nước vỗ vào mạn thuyền, với mái chèo khua sóng, tiếng hò khoan xuôi nhịp trên dòng Hương Giang. Muôn vàn xác hoa phượng rải trên lối cũ, dẫn đến các lăng tẩm hữu tình, thoảng nghe những lời ân tình, trìu mến.
    Nam thắm thiết dặn dò:
    - Anh về Sài Gòn, anh sẽ bỏ Đại-học Y Khoa. Anh xin ba má cho anh lên Đà Lạt học Văn-khoa vào niên khóa tới, để cho được gần em. Lúc anh ra đi, ba má đã nói rằng: Nếu em chưa lập gia đình, thì ba má rất sẵn lòng cưới vợ cho anh. Nhưng em biết rồi, sự nghiệp tương lai và hạnh phúc vợ chồng, do chính anh tạo nên. Mình phải có sự nghiệp trước, lập gia đình sau, là tốt. Còn em, em hãy xin ba má về Đà Lạt nhe. Chúng mình ở Đà Lạt, sẽ không sợ ai chia cách, phân ly nữa. Bây giờ, em yên tâm nghỉ ngơi ở nhà, em không đi làm nữa nha.

    Mười gật đầu thật ngoan. Tuy nhiên, tự trong thân tâm nàng cảm thấy âu lo, vì chẳng lẽ Mười cứ ngồi ở nhà anh chị, không làm gì ra tiền phụ giúp họ trang trải tiền nhà, tiền chi phí sao? Nếu Mười cứ nhàn cư vi chờ đợi Nam một thời gian quá xa vời? Nhất là hiện nay nhà anh chị không khá giả, Mười không thể ăn không ngồi rồi. Coi sao được. Thậm chí ngay chính Mười cũng cần có tiền, để chi cho cá nhân những món cần thiết. Dứt khoát chàng là con nhà giàu, ăn Nam không phải lo, mặc Nam không sợ thiếu, nên chàng không nghĩ ra điều thực tế mà cần thiết đó.

    Hình bóng Đan chợt hiện về trong tâm tư nàng, chàng lính chiến phong trần ấy đã yêu nàng tha thiết, dù chưa một lần tay nắm bàn tay, chưa một lần ở từ xa anh đưa bàn tay lên hôn gió. Hay anh hôn lên tóc Mười, dù chỉ nụ hôn phớt nhẹ trên mái tóc. Ấy thế mà Đan đã ngỏ lời cầu hôn với Mười. Anh tính chuyện hò hẹn đính ước hôn nhân, khi anh về phép thăm gia đình vừa qua. Ngày ấy nàng đã nói với Đan:
    - Cho em suy nghĩ, và xin thỉnh ý của ba mẹ, Mười sẽ trả lời anh sau.

    Mười vẫn suy nghĩ việc Mười từ chối lời ân cần cầu hôn của Đan với mình: thật sự xấu hay tốt, đúng hoặc sai đấy nhỉ!? Mười có cảm tưởng nửa tháng trọn vẹn hạnh phúc tinh tuyền bên Nam- một hạnh phúc trong vắt, sáng ngần- như phiên gương vừa rửa sạch- đã trôi tuột quá nhanh qua vùng trời Đế Đô êm đềm- là những ngày tươi thắm, đắm say, nồng nàn, tuyệt diệu nhất. Có lẽ, suốt đời người -mai sau- sẽ không bao giờ tìm thấy được, hình bóng thuở đầu đời! Vì, đó là hạnh phúc xanh xao, non nớt rất trinh nguyên, lồng trong áng mây hồng thắm sắc quyện tơ vàng giữa buổi hoàng hôn, làm rạng ngời mối tình niên thiếu tuyệt vời. Mười biết rằng: Hạnh phúc có thật rất tuyệt! khá trân quý nầy đang đứng gần bên, hay thoáng lướt qua - ở đâu đây. Mà, Mười không biết, để nắm giữ lại.

    Phải chia tay nhau là chuyện thường tình, và nhất thời. Nhưng lần nầy Nam và Mười cảm thấy khác hẳn lần chia tay năm nào. Khi xưa chàng ở Đà Lạt - đau buốt, buồn xo đi về Sài Gòn. Mười bị chị Khánh cho mấy cái tát tai, chảy máu mũi, rồi nàng bị tống lên xe đi về Huế. Lần nầy, Nam đành lên xe trở về Sài Gòn, khi sương khuya rơi ướt đẫm mái nhà em. Nhưng lòng Nam hân hoan, vui vẻ, đầy tin tưởng và hy vọng vào mối tình chân chính. Mười ở lại Đà Nẵng huyên náo, vui nhộn. Cuộc sống trong thành phố như ngái ngủ và đơn điệu (đối với riêng nàng) xuôi dòng, cứ lặng lẽ trôi đi... cùng mối tình cháy lòng. Với bao kỷ niệm êm đềm, đắm say, còn tươi nguyên dấu vết. Mối tình bất diệt sẽ không ai có thể phân ly, chia cách được. Dù không thể ở mãi bên nhau, chưa thể đi chung trên một con đường. Đôi ta chưa đủ điều kiện để có thể thực hiện lý tưởng, nguyện ước sum họp dưới mái nhà hạnh phúc bền lâu. Nhất là Nam và Mười biết rằng: Chúng mình yêu nhau tha thiết. Cần có nhau. Vì nhau. Sống cho nhau. Suốt đời. Điều chúng mình thiết tha mong ước và sự thành tựu là hai điểm khác nhau. Không hiểu rồi đây -trong tương lai- Chúng mình sẽ thực hiện, đến mức độ tối đa nào?! Hở anh yêu !?

    _ * _

    ình Hoài Hương


    (*) Sưu tầm lượm lặt.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  3. #21
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Từ (hướng Nam) Mỹ Chánh Lặng Lờ Ra Quảng Trị & Phong Tục Tập Quán





    8.- Từ (hướng Nam) Mỹ Chánh Lặng Lờ
    Ra Quảng Trị & Phong Tục Tập Quán

    (VIỆT NAM Quê Hương Cẩm Tú)


    Trong xe đò bác tài xế trẻ mở radio có bài ca “Về Miền Trung” lúc đoàn xe chạy tới *Tử Hạ. Lòng Mười cảm thấy thấm buồn. Tuy nhiên khi ngồi trên băng ghế lắc lư, Mười lắng nghe các “mệ” vui vẻ hài hoà trò chuyện thân tình chia xẻ chút bánh trái với nhau:
    - Nì, O ăn bánh ni đi…
    - Có chút bánh ít nớ, mà ăn cái chi, hì.
    - Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
    - Nếu khôn ưng ăn bánh ít, thì ăn trầu, hỉ!
    - Trầu cả chợ răng nói trầu không
    Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
    (cd)
    - Thì ăn, chớ khôn thì O lại nói:
    Chuối không qua Tây răng gọi là chuối Sứ?
    Cây không biết chữ răng gọi là thông?
    Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
    (cd)

    Mười thực sự kính phục các mệ nơi “xứ dân gầy” dù vai trĩu trịt quang gánh nặng, lưng còm, chân đất, quần thô áo vải, nhưng họ có cả tấm lòng nhân hậu tình mến, và có nguồn ca dao hoặc câu hò giọng hát thì dồi dào vô tận. Xe chạy qua *Sông Bô, *Thượng An Ngoài, *Thượng An Trong, *Cầu Quán Rớ, *Văn Xá, *Hiền Sĩ, *Phò Trạch…, xe chạy mỗi lúc một chậm hơn, bởi trời đổ mưa to, và vì có lẽ Mười cảm thấy nóng ruột mong xe mau chóng chạy đến *Mỹ Chánh, *Hải Lăng… Nơi có bài thơ:
    Từ HUẾ đi Bắc trời đẫm cơn mưa.
    Lác đác hàng cau chen cánh hàng dừa.
    Rồi oi ả hạ về nung bếp lửa.
    Bên bạch đàn thưa nhà tranh song cửa.

    Quê hương em đất sỏi đá khô cằn.
    Thu heo may quốc lộ thêm điêu tàn…
    Anh đến đây giữa vùng trời mây xám.
    Chân ngại ngần anh bước qua: MỸ CHÁNH.

    Gió lộng thổi cánh rừng sim bạt ngàn.
    Bên làng Ngoại lưu thủy nơi CÙ HOAN.
    Ông tổ Nội ở đầu HƯNG NHƠN nhánh.
    Đất Tổng AN THƠ trù phú non đoài.

    Dòng sông Nội cận bên THUẬN NHƠN Ngoại.
    Yêu thương an bình Phủ HẢI LĂNG ấy.
    Đầm ấm uống nguồn nước ngọt vơi đầy.
    Tình quyến luyến quyện chặt đất quê đây.

    Ra xa nữa miền QUẢNG TRỊ̣ phố buồn.
    Ngày kia súng đạn về hơn mưa tuôn.
    Khổ đau khốn cùng! Chiến tranh trong cuộc
    xâm lăng bạo tàn, rực trên ngọn đuốc

    Thiêu hủy xóm làng (đời sống bình yên).
    Mẹ ôm xác con cười, khóc, băn khoăn...
    Ông ra vườn chôn hài nhi vừa nhặt.
    Em bé lõa lồ nhìn cha một mắt.

    Bàn tay què bà lượm lặt bới đào
    xác người vừa tắt trên dáu môn khoai…
    Nơi đống hoang tàn quê nhà hiu hắt.
    Dùng tay chị đi thay bàn chân mất…

    Lết trên lối mòn lởm chởm ụ chông.
    Ôi! Tương lai cuộc đời không thể tưởng...
    Chiến tranh tới để lại vũng trừu tượng!
    Đã bao phen em an phận thủ thường.

    Vùi đời hèn bên nấm mộ chiều hoang.
    Anh có vì em chia sẻ bâng khuâng!?
    Anh yêu ơi! Quê nghèo thật cay đắng.
    Có điều chi quặn đau tim nằng nặng!

    Nầy bé HẢI LĂNG hạnh phúc cuối cùng!
    Hố mắt trào tuôn ngấn lệ rưng rưng…
    Cánh tay anh dìu bước em chưa vững
    Bờ môi ta dâng mật đắng tủi mừng.
    (*)

    *Hưng Nhơn*Thuận Nhơn, là nơi quê nội và quê ngoại của Mười! Xe dẫn đến làng quê trên con lộ chạy dài, dọc theo dòng sông xanh êm mát quanh co, ngoằn ngoèo. Nhìn từ xa, dòng sông như sợi dây dừa đang uốn lượn xẻ đồng ruộng làng mạc ra làm đôi. Cánh đồng khô tiếp nối dãy núi đồi trùng điệp dưới tán rừng có đủ thứ: đót, tràm, dược liệu, mây song...

    Bên hướng Nam sông MỸ CHÁNH thuộc giang địa cuối cùng của Huế. Bên bờ Bắc con sông Mỹ Chánh thuộc giang địa của Tỉnh Quảng Trị. Sông Ô Lâu (Ô Giang) hợp bởi nhánh sông Mỹ Chánh: bắt nguồn từ dãy đồi cao khoảng 500 > 600m là hợp nhánh chính, có chiều dài 65km, lưu lượng dòng chảy 44m3/giây, mật độ 0,81km2; có thể cung cấp chừng 376 triệu KW/h điện năm. Vì thế sông Mỹ Chánh là nơi thuận tiện chuyển tiếp của vành đai nội chí tuyến Bắc bán cầu & quan trọng từ ba bốn miền giáp giới địa lý: Mỹ Chánh nằm ở một phần quốc lộ 1: con đường cái quan nối liền Huế và Quảng Trị. Có quốc lộ 9 đi Lào qua cửa khẩu Lao Bảo toàn núi đồi trùng điệp, âm u, đi qua khu Khe Sanh, Đa Krông. Sát biên giới Việt là hai tỉnh Salavan, Savankhet, (mà tự thuở thanh bình, hồi còn bé, có mấy lần ba đã dẫn Mười qua đó, để ba trị bệnh nan y cho Vương Quốc bạn) con đường ấy nối trục đường bộ xuyên Á.

    Đất đá lộn xộn, lạo xạo rạo rực dưới gót giày. Con đường mòn gập ghềnh lổm chổm gồ ghề nhìn mút tầm mắt đến tận dãy trường sơn lún bùn, dưới ánh nắng nhạt phai buổi chiều cuối năm trông đơn điệu vô vàn. Hai má con mừng rỡ, tươi cười, chen lẫn nỗi bâng khuâng trầm lắng, bước thấp bước cao thân hình ướt nhẹp nước mưa, khi má con Mười vừa đặt chân lên thềm nhà, là nơi phần đất trữ lượng than bùn chuyên sản xuất phân vi-sinh.

    MỸ CHÁNH, nơi núi trọc đồi gò phù sa cổ và phù sa tiểu vùng đất phiến thạch tím và granit, với đặc thù khắc nghiệt tự nhiên vào muà khô, khí hậu rất oi nồng, thì rừng sim bạt ngàn cũng ủ rũ xơ xác. Vài tháng một lần gia đình Mười khi đi đò, khi đi bộ đường tắt băng rừng vượt dốc trùng điệp núi non chập chùng đi lại đó đây. Lau lát lá kép lông chim hoa vàng nhạt bay bay trong rừng sim bạt ngàn, cây lau cao hút tầm mắt, cây cối um tùm, chằng chịt, kèm toàn cây sao, kiền kiền, gụ, lim, chen lấn trong cánh đồng sậy, bông lau trắng xoá bay bay nghiêng nghiêng. Cỏ tranh ẻo lả lao xao đong đưa, lá tranh khô nằm rạp mình xuống mặt đất theo chiều gió xô, tạo ra những lượn sóng muộn phiền nhấp nhô rì rào xô lui xô tới nơi nổi danh:
    Nem chợ Sãi, vải La Vang
    Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
    Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
    Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
    Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
    (cd)
    ***

    Tỉnh QUẢNG TRỊ thuộc đất miền Trung, Quảng Trị cách xa Thủ Đô Sài Gòn 1.121 kilomet, là vành đai nội chí tuyến Bắc bán cầu đất hai miền Nam + Bắc là vùng đất chuyển tiếp khí hậu nhiệt đới ấm của vành đai nội chí tuyến các miền địa lý Bắc - Nam từ Huế ra Đông Hà, Gio Linh, Bến Hải … Quảng Trị: Cực Nam 16/o – 1, 8’ vĩ bắc là làng Hạ, xã Hải Quế, huyện Hải Lăng. Nam Tỉnh Quảng Trị giáp hai huyện: Phong Điền (Huế) và A Lưới. - Hướng Bắc Quảng Trị giáp Lê Thuỷ (Quảng Bình). - Cực Bắc 17/o - 10’ ở thôn Tây, Vĩnh Tú, (Vĩnh Linh). - Dọc phía Tây cùng chiều dài dãy trường sơn giáp biên giới với nước láng giềng độ chừng 206km là Cộng Hoà Dân Chủ Lào (Savanakhet). - Phía đông toạ độ địa lý cực đông: 17/o – 09’ 30” vĩ bắc và 107/o 20’ kinh đông. Đông giáp biển Đông dọc theo chiều dài biển Đông là 75km.

    Sông lớn nhất Tỉnh Quảng Trị: Thạch Hãn, sông có 37 phụ lưu bắt nguồn từ Tỉnh Thừa Thiên, chảy quanh co qua bao rừng, núi: … Trầm, làng Thượng Phước, làng Như Lệ, Núi Cấm, An Đôn, Nhan Biều, vân vân… và chảy qua lưng chợ Quảng Trị, hợp thành sông Thạch Hãn dài rộng tuông ra cửa biển Cửa Việt. Sông Thạch Hãn có chiều dài 64,5km. Tỉnh Quảng Trị đã chia ra thành hai thị xã: Thị-xã Quảng Trị & Thị-xã Đông Hà. Tỉnh Quảng Trị (gồm có bảy Huyện: Hải Lăng. Triệu Phong. Hướng Hoá. Cam Lộ. Gio Linh. Vĩnh Linh. Đa Krông (7 huyện bao gồm 119 xã, 9 phường). Tám thị trấn: Hải Lăng. Ái Tử. Hướng Hoá. Cam Lộ. Gio Linh. Hồ Xá. Khe Sanh. Lao Bảo.

    Về hướng Tây cuả Quảng Trị là Thánh điạ *LA VANG cách cổ thành Quảng Trị độ sáu bảy kilomet. La Vang luôn giữ vẻ trầm lắng u buồn dâng cao. Dọc hai bên đường là hàng thùy dương kín đáo chạy dài xuống chính toà thánh điạ luôn rì rào reo trong gió u trầm, buồn tênh. Khoảng năm 1793-1801, vào đời vua Cảnh Thịnh tàn ác kinh khủng nhất, đã bắt triều đình Huế thẳng tay giết người có đạo Kito, sự việc kéo dài hơn một trăm năm sau (mặc dù năm 313 đại đế Constantin ở thành La Mã, đã ký sắc lệnh bãi bỏ việc cấm đạo Thiên Chúa Giáo, và ông ta cho xây nhiều giáo đường. Nhưng đó là chuyện ở bên trời Tây). Khiến giáo dân ở Việt Nam bồng bế nhau, di tản lánh nạn vào trốn ở rừng Lá Vằng xa tít tắp trong hẻm núi xa hun hút, chập chùng trùng điệp rừng cây (một phiá Bắc cuả La Vang là cận bên dòng sông Như Lệ dài lê thê, rộng mênh mông, nước sông Như Lệ chảy xuống các làng mạc có tên: Ba Lòng, Trầm, Núi Cấm, Thượng Phước, Như Lệ, An Đôn, Nguyệt Biều, vân vân… và nối dài dọc theo thành phố Quảng Trị với tên gọi là sông Thạch Hãn).

    Chính nơi đây nhiều lần họ được Đức Mẹ mặc áo trắng, thắc nơ xanh, bồng Chúa Hài Đồng trên tay. Đức Mẹ La Vang đã hiện ra trên ba gốc cây đa to, trìu mến an ủi, đùm bọc, chở che, giúp đỡ người đau ốm, khó nghèo. Đức Mẹ chữa lành bệnh không những cho đoàn giáo dân lánh nạn, mà Đức Mẹ còn ban ơn cho tất cả cư dân không hề phân biệt tôn giáo toàn vùng. Người ta tin tưởng tuyệt đối, nhiệt tâm, thành khẩn dâng lên Mẹ bao sầu đau. Từ đấy, người ta gọi là “Đức Mẹ Lá Vằng”. (Hồi xưa chính tên gọi là nhà thờ Đức Mẹ Lá Vằng. Nhưng vào thời điểm đó, máy đánh chữ ở Việt Nam chưa có dấu tiếng Việt, nên người Pháp gọi bản địa nầy là La Vang. Thành ra quen tên gọi “La Vang” cho đến bây giờ. Người có đạo Thiên Chúa và người không cùng đạo ở tại đây xiết đổi yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau chí tình không chút tị hiềm. Dù họ rất nghèo, nhưng họ có cả tấm lòng từ ái rộng mở. Đời sống họ lầm than, cơ cực, đói khát, bệnh hoạn vô cùng. Sau 1886 nhà thờ nầy xây dựng khang trang. Giáo đường Đức Bà Sài Gòn, và giáo đường La Vang được chính thức phong lên hàng Vương Cung Thánh Đường năm 1961).

    Mỗi năm vào ngày 15 tháng 8 dương lịch có tổ chức kiệu một lần; năm lẻ thì kiệu nhỏ. Năm chẵn thì ba năm có một lần đại hội, nghiã là kiệu rất trọng thể. Biết bao người đã từ phương xa ở lại suốt tháng, sớm hôm quỳ bên Mẹ. Một vùng đất bao la có khoảng triệu người tấp nập suốt ngày đêm đến nhà thờ La Vang để chiêm ngưỡng, cung nghinh Mẹ. Họ trang nghiêm, yên lặng vô vàn, mặc dù người người đông vô số, hàng hàng lớp lớp, người và người chen chân đi bên nhaụ tuyệt đối giữ trật tự từ các nẽo thập phương trở về đây, đã tề tựu rất đông dưới chân Mẹ, khẩn xin Mẹ ban hồng ân. Người ta đi hái lá vằng, lá vằng không bao giờ hết trên núi đồi trùng điệp. Họ múc nước giếng đỗ vào chai lọ, để cạnh đền đài, dâng Mẹ xin những ước vọng, dâng những sầu đau, bệnh tật. Nước giếng sạch trong ngọt ngon, không bao giờ cạn, tựa như lòng Mẹ yêu thương bao la không bao giờ dứt.
    ***

    Nơi quê hương suốt dọc miền Trung từ vùng *Quảng Ngãi về đến *Đông Hà, *Đồng Hới, tới cầu *Hiền Lương *Bến Hải mãi u trầm, lắng đọng. Nhất là phong tục tập quán và những cô những bà miền Trung có rặt giọng Huế chính cống thì tiếng nói thanh thanh, nghe ríu rít, thỏ thẻ, ân cần, bặt thiệp, lịch sự, nhưng thoảng buồn, lạ lạ, man mác phiền phiền. Phụ nữ đa số giữ phong cách kín đáo, nhỏ nhẹ, vui vui, nhu mì, dè dặt, e ấp đi một đổi đò, đi chợ, đi bán hàng rong, đi xóm; khi ra khỏi nhà họ luôn luôn đoan trang khép nép, mặc áo dài che kín thân, dù trời nắng gắt oi nồng họ cũng không mặc: áo hở cổ, hở eo, nhất là che kín ngực.

    Điều hay hay là phái nữ ở miền Trung càng có nét đặc biệt: Khi các em bé gái còn thơ ấu, thường thường cha mẹ cắt mái tóc bum bê cho con nhỏ, để con bé đi học từ lớp mẫu giáo đến lớp Nhất. Lớn lên chút nữa, cô bé vào lớp Đệ Thất đến trạc tuổi mười bảy mười tám, thiếu nữ xuân xanh duyên dáng ấy thường để mái tóc thề, tóc dài chấm ngang thắt eo, và buông xõa xuống bờ lưng theo gió là tà bay bay. Mái tóc của họ bóng mướt, mượt mà trông tuyệt đẹp, thoang thoảng thơm thơm mùi hoa bưởi, hoa lài, chanh, bồ kết. Qua khoảng quá tuổi ngoài đôi mươi, thiếu nữ ấy để suối tóc huyền chấm mông, dài tha thướt và họ kẹp tóc lại sau lưng. Nhưng khi “nàng” có ý trung nhân (đã đi dạm hỏi), thì mái tóc của “nàng” được xếp cuộn lại gọn gàng làm hai ba lớp, mà họ vẫn kẹp quấn vào, rồi thả kẹp tóc lơ lửng ra sau lưng. Nhìn vào “nàng”, ta biết ngay là “nàng” đã có vị hôn phu. Và khi nàng đã có chồng, thì phụ nữ ấy bối búi tóc to ra sau gáy. Cho nên, nhìn chung là Mười có thể nhận biết và phân biệt một điều lý thú khá hấp dẫn, dễ thương và sâu sắc:

    Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
    Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
    Anh về thưa với hai họ rõ ràng
    Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
    (cd)

    Ngày xưa ấy, suốt ba tháng hè, thì cha mẹ, chị Hạc, anh Thuyền và Mười, đi qua bao ruộng vườn hồ ao sông ngòi về thăm bà con làng nước tại *Thôn Kẽ Vịnh. Khi họ đi xe hơi, khi đi bộ, khi đi xe thồ do trâu, bò, ngựa, kéo lạch cạch, lọc cọc trên con đường quê lổm chổm đá đăm, bên ruộng đồng rì rào sóng lúa. Thôn quê ngát hương tinh tuyền của hoa mít, hoa cau, hoa bưởi, cam, quít… Lúa chín đầy đồng, thợ gặt tấp nập làm việc ngày đêm. Nhà nhà yên vui qua câu hò điệu hát phong dao trữ tình dân tộc.
    Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
    Thân em như hạt mưa sa
    Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày
    (cd)

    Trên sân phơi lúa vàng. Bên cối chày giả gạo, bên đôi trâu mập kéo cày vỡ đất làm mùa. Bên nghệ nhân khéo tay tinh xảo chằm những bài thơ trên nón lá mỏng nhẹ xinh xinh. Những bữa cơm ngon miệng nghi ngút mùi thơm gạo lức. Cơm đồng quê từ miếng thịt gà, thịt vịt, con cá, con tôm tươi rói nhảy tưng tưng trong rổ. Người ta mừng rỡ chúc tụng nhau, khuôn mặt họ chân chất thật thà tỏ lộ nét hân hoan, chất phác không nói câu văn hoa bóng bẩy, không thêu dệt ý tình thơ mộng, nhưng đôi mắt ngời sáng tia vui mừng thành thật, nụ cười ấm dịu, đầy tình âu yếm xiết đỗi!
    Chồng em áo rách em thương
    Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
    Con vua thì lại làm vua
    Con sãi ở chùa lại quét lá đa
    Bao giờ dân nổi can qua
    Con vua thất thế lại ra quét chùa
    (cd).

    Chuyện vui nổ dòn như bắp rang, họ hỏi thăm về Đà Lạt, nơi xa xôi họ chưa bao giờ có dịp đặt chân đến. Họ là những người dân chân lấm tay bùn, suốt đời quanh quẩn bên lũy tre mộc mạc, vui cảnh điền viên với vườn sắn nương khoai. Mấy ai phiêu du hải hồ ngang dọc tứ xứ. Đa số nông dân thích bám vào mãnh đất gia tiên, nơi cho họ ba tiếng khóc oa oa chào đời. Nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi cột chặt họ với gốc đa bụi chuối, lũy tre làng xanh um bóng mát. Có mồ mả ông cha an nghỉ, gần con sông lặng lẽ êm đềm uốn khúc, giữa hai bờ quê hương, cạnh cồn cát trắng và bầy trâu nghé chậm chạp về chuồng mỗi buổi hoàng hôn. Sao ngọt ngào vui vẻ ấm áp, đắm thắm tình thân và sóng sánh tình người đến thế không biết!

    Trong đầm gì đẹp bằng sen
    Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
    Nhị vàng bông trắng lá xanh
    gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
    Ta về ta tắm ao ta
    Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
    (cd).

    Ngày lễ Song Thất, tại Phủ *Hải Lăng đã tổ chức ngày “Cầu Ngư Thi Quán Quân”, nông dân muốn tranh tài: sẽ ghi tên dự thi, và hy vọng đoạt giải các bộ môn như: Cướp Cờ. Chèo thuyền. Đua trải. Hát giã trạo, vân vân: …
    Thốt ra tới đâu dạ thiếp sầu tới đó
    Cuộc chung tình chàng chưa rõ bấy lâu
    Vì ai xê vô lật ván tháo cầu
    Trai say dọi gái, gái thảm sầu dọi duyên
    Ngồi buồn nói chuyện trên non
    Một trăm thứ cá có con không thằng
    Thầy ơi chớ nói bao đồng
    Một trăm thứ cọp có ông không bà
    (cd)
    Đánh cờ tam cúc. Bài thái. Bài ghế. Cờ tướng. Vật võ. Nam nữ thi các điệu hò đồng giao.
    Bây giờ mận mới hỏi đào
    Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
    Mận hỏi thì đào xin thưa
    Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào!
    (cd)

    Thi chằm nón lá. Thi nấu một nồi cơm (chỉ có một nồi cơm nhỏ, nhưng Ban Giám khảo ấn định cho thời gian suốt ngày) củi được thay thế bằng năm cây mía tươi, và một lố hộp quẹt ở trên thuyền thúng. Họ vừa nấu cơm vừa bơi thuyền thúng.
    Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì
    Dù ai nói ngả nói nghiêng
    Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
    (cd)
    Một cô đã đoạt giải nhất, vì cô ấy khôn ngoan, cứ ngồi tà tà róc mía ăn, cô ta phơi bã mía trên thuyền, chờ khô khô, rồi sau cùng cô ta đủng đỉnh nấu cơm, đã chín. Trong khi các nàng khác sợ không kịp giờ, đã vội đốt lửa “hơ” cho miá chảy ra, thì làm sao miá trở thành bả khô mà nấu cơm!
    Em trao cho anh một nắm bắp rang
    Anh trỉa làm sao cho mọc, thiếp với chàng trao duyên
    Đồn bên em có miếng đất hoang
    Mưa ba năm không ướt, hạn chín tháng nỏ khô
    Đến đây anh trỉa, trỉa vô mọc liền
    Thiếp trao cho chàng một nắm ngô rang
    Chàng đúc nơi mô cho mọc thiếp thắp nhang mời về
    Chỗ nào mà nắng không khô
    Mà mưa không ướt đúc vô mọc liền
    (cd)

    Trong tất cả cuộc thi, có cảnh đua thuyền là hào hứng rầm rộ trên sông nhất. Chiếc thuyền kết hoa lá đủ màu. Ngư thuyền dạn dày kinh nghiệm, bắp thịt no tròn rắn chắc, ngực nở vai u lực lưỡng, da đen dòn như bức tượng đồng. Ngư thuyền ở trần, mặc xà lỏn màu cuộn sát vào hai háng, nhìn từ xa như đóng khố, đầu họ chít khăn màu theo từng nhóm cuả thuyền có ghi số thứ tự dự thi. Trên bãi dưới bến, người đi xem đông hơn kiến, hai mươi cánh tay hùng dũng khua mái chèo khuấy nước đều đều lướt sóng vút vút, theo câu "hò dô ta… hò dô ta…" vang dậy góc trời. Dân chúng đứng trên bờ chen lấn nhau để giành chỗ tốt mà coi cho rõ. Họ ồn ào la hét inh ỏi mỗi khi có thuyền ai bơi về nhất. Thuyền nào thắng thì có nhiều tiếng reo hò la hét khàn cả cổ, vỗ tay rầm rầm. Thuyền nào thua thì buồn rầu kéo thuyền lật ngửa trở lại, họ lóp ngóp bơi vào bờ. Dân chài la chửi bạn chèo dở ỏm tỏi. Trên khán đài, tiếng tù-và thúc, trống giục liên hồi, phèn la dập dồn, bừng bừng niềm vui thích bốc cao.
    Gá duyên chẳng đặng hội này
    Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy… tôi chèo vô
    (cd)

    Quê ngoại Mười ở làng *Thuận Nhơn, không cách xa quê nội *Hưng Nhơn là mấy. Cậu mợ Ấm Cửu Ổn qúy mến gia đình Mười không thể tả. Nhà cậu rất giàu có, ruộng vườn ông bà để lại cò bay thẳng cánh, nhìn hút tầm mắt tới đường chân trời. Cậu Ấm hào hoa, phong lưu đúng mực công tử, trong làng không ai mà không biết danh cậu, và kính phục tính hào phóng, rộng rãi với người trên kẻ dưới. Cậu yêu thương đùm bọc che chở người nghèo, tận tình giúp đỡ người sa cơ thất thế đến nơi đến chốn. Một hôm gia đình hai anh em ruột có ngày sum họp, cậu bảo người nhà cho giết bò, heo, gà, vịt… khoản đãi thân nhân. Cậu cho ông quản gia đi mời bà con họ hàng làng nước đến ăn mừng, hầu chia sẻ niềm vui ngọt bùi với gia đình em gái ruột ly hương của cậu đã trở về cố quốc. Cậu mợ Ấm có năm người con, nhưng đã chết hết hai, còn ba người là chị Hường, anh Trình, và chị Sao.

    ***
    (*) Thơ Tình Hoài Hương

    (**) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi.
    (***) Những tấm hình qúy giá trong bài viết, không phải của tác giả THH.
    Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhiếp ảnh gia đã post hình trên Wikipedia,
    (tôi xin mạn phép chuyển tải vào bài viết, ngỏ hầu có thêm phần phong phú hóa hình ảnh quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta).
    Đa tạ!

    ***

    Tình Hoài Hương
    Trân trọng kính mời quý độc giả xem tiếp trang sau
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. #22
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default SÀI GÒN từ 1698: Giao-thoa ngọt ngào Cũ & Mới


    SÀI GÒN từ 1698: Giao-thoa ngọt ngào Cũ & Mới
    (Việt Nam Quê Hương Cẩm Tú)

    Do bút mực & khuôn khổ trang giấy có hạng, nên tôi, (tác giả bài viết) xin mạn phép chỉ viết bài & đôi khi ghi ít trích dẫn về mấy phát thảo: có nét đặc thù quan trọng theo quy luật chính & nổi bật nhất của bộ mặt Thủ-đô Sài Gòn hoa lệ > khởi nguyên từ năm 1698 trở đi.
    THH




    Sài Gòn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, thời gian vào tiết mùa đông thì không gian se lạnh, khi màn sương nhợt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ, oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư: nơi thủ đô vẫn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”, thì lúc đó khí trời bắt đầu hâm hấp nóng. Thành phố bừng lên sức sống hối hả, ồn ào, bon chen và xô bồ mãnh liệt; nhưng chẳng kém tưng bừng náo nhiệt. Saigon, “cố đô” của các chúa Nguyễn ở những vùng đất miền Nam rộng mênh mông, bao la bát ngát, luôn luôn là một thành phố đặc biệt.

    *Sài Gòn là một minh họa cho sự gặp gỡ định mệnh giữa hai đất nước: Việt Nam và Pháp. Vượt lên trên những thăng trầm về việc thuộc địa hoá, sơ đồ đô thị và kiến trúc Saigon được đặt nền tảng trên một kinh nghiệm chung… &… Nhằm thích nghi với điều kiện khí hậu và đáp ứng những nhu cầu vệ sinh và sự thoáng mát, các kỹ sư, kiến trúc sư kết hợp kỷ thuật của đất nước: trần nhà cao, cửa sổ hẹp nhưng có mái phủ ra ngoài, bắt nguồn từ nền kiến trúc truyền thống của Việt Nam. (Saigon est l’illustration du destin croisé de deux pays le Vietnam et la France. Au-delà des vicissitudes la colonisation, son schéma urbain et son architecture relèvent d’une expérience collective… & … Afin de répondre aux contraintes climatiques et aux exigences de salubrité et de fraicheur, les ingénieurs et architectes marient les techniques des deux pays: de hauts plafonds, des fenêtres étroites mais également des toits débordants issus de l’architecture traditionnelle Vietnamienne.) (*).


    Thổ nhưỡng Sài Gòn
    có vị trí địa lý đặc biệt nhiều kinh rạch chằn chịt, giàu có và giàu tiềm năng được xây dựng và thành hình từ năm Mậu Dần 1698, là do phù sa cổ (cũ), phù sa mới của trầm tích, và đất cồn cát, đất phèn, đất xám, đất mặn, đất phù sa nước ngọt tạo nên. Sài Gòn có tọa độ 10/o 22’ 13” – 11/o 22’ 17” vĩ độ Bắc - và 106/o 01’ 25” – 107/o 01’ 10” kinh độ Đông, tính theo đường chim bay. Sài Gòn về hướng tây bắc xuống đông nam 120km, nam giáp biển đông, từ đông sang tây 75km. Tại trung tâm Sài Gòn cách biển Đông theo đường chim bay 50km. Một hướng khác về phía tây bắc dọc quốc lộ 22 đi Hóc Môn, Củ Chi lên Tây Ninh theo trục Xuyên Á tới Campuchia.

    Địa giới Sài Gòn về phía bắc thì cao, và phía nam có khá nhiều đồng bằng bao bọc bởi các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tổng diện tích Sài Gòn 2.093,8km2. Sài Gòn có 12 quận: I, II, III - v.v… và thêm các quận: Phú Nhuận, Tân Bình, Bình Thạnh, Thủ Đức, Gò Vấp. Các Huyện: Hóc Môn, Nhà Bè, Cần Giờ, Củ Chi, Bình Chánh. Sài Gòn cận xích đạo nên giàu ánh nắng, mùa nóng nhất là tháng Tư, gió mùa đông nam và tây bắc và chuyển hướng tây nam đông bắc, khí hậu có độ ẩm khoảng 77%, và mưa từ tháng 5 đến 11. Mùa khô từ 12 đến tháng đầu tháng 4.

    Cố đô Sài Gòn” là vương quyền của các thời vua Chúa xa xưa, trước tiên do ông thống-suất Nguyễn Hữu Cảnh (tên thật là Kính) đi kinh lược miền Nam, đã lập ra phủ Gia Định; phủ nầy chia thành hai huyện: Phước Long & Tân Bình. Rồi từ đó nới rộng ra Đồng Nai, dựng Trấn Biên, và lập Sài Gòn làm huyện Tân Bình & Chợ Lớn là địa bạ huyện lỵ của huyện Tân Long. Vùng đất đặc biệt tại miền Nam Việt Nam, do chánh hộ (người xưa sống tại đây) và khách hộ lưu dân (bỏ quê quán xa xôi, đến vùng đất lạ tha phương cầu thực). Họ gồm tám hạng: Tráng. Quân. Dân. Lão. Cố. Cùng. Đào. (Tráng, quân: tráng kiện, khỏe mạnh. Dân= trẻ, già, tàn tật. Cố= làm thuê mướn. Cùng= cùng đinh nghèo khổ. Loại sau cùng= đào ngũ, trốn thoát…). Do đó bộ Hồng Đức (“Hoàng luật Gia Long”) ra đời, đặc biệt từ đời vua Minh Mạng thứ 21, thì có một số phong thổ, cũng như dân tình phát triển rất trù phú giàu mạnh & ổn định.

    Năm 1698 (Mậu Dần) trở đi tại các khu trù mật chính thức tại miền Nam đã từ từ mở mang, khai sáng, thành lập: Những khu đất Giồng gần sông ngòi, rạch, như: Giồng Ông Tố, Giồng Cai Yến, Giồng Sơn Quy, Giồng Ông Huệ, Giồng Tháp, Giồng Xe. Những Gò: Gò Cẩm Đệm (Phú Thọ) Gò Vấp, Gò Bầu, Gò Găng, Gò Xoài, Gò Công, Gò Tre… Hạnh Thông Tây, bờ Tiền Giang, Vàm Cỏ Tây, Vàm Rạch Gầm, Tân An… ven khu tứ giác, Tân Châu, Cao Lãnh. Cù lao Tân Huề, cù lao Giềng, cù lao ông Chưởng, cù lao Mây, cù lao Năm Thôn, Đồng Tháp Mười. Sóc Trăng, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Cái Lớn, Cái Bé, Gành Hào, Ông Đốc, Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Rạch Giá, Hà Tiên… Cà Mau, vân vân…
    ***

    Dinh Thự: Thuở còn Tây cai trị nước Việt Nam ta, con đường có tên Norodom từ dinh Độc Lập chạy suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó độc đáo và nổi bật nhất là: Dinh thự Norodom của thời Pháp-thuộc ở nước ta, xưa kia dinh xây cất năm 1868, mãi đến 1875 mới hoàn tất. Dinh Norodom (nay là dinh Độc Lập) trước kia theo bản vẽ của kiến trúc sư Hermite đảm nhiệm, ấy là dinh của Thống Đốc Pháp rất uy quyền: Charles Le Myre De Vilers. Dinh Độc Lập xây dựng nguy nga, lộng lẫy theo phong cách tân-Barốc Napoléon III. Gần dinh có để một cái đồng hồ to ở trên cao 15m, mỗi ngày đúng ngọ (12 giờ trưa) là trên tàu chiến bắn đi một phát. Thời gian dần dần trôi qua… cho đến bây giờ Sài Gòn “hai mùa mưa nắng” chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm suốt sáng, có sự giao thoa kiến trúc khá tuyệt hảo nhất thế kỷ; như văn sĩ Jules Boissière nói: Toà nhà ấy mà những thành phố kiêu hãnh nhất trên trái đất, sẽ lấy làm tự hào, thật là rất xác đáng. (Mounument don’t s’honoreraient avec raison les plus fíeres villes du monde). (*) -

    Bưu điện Sài Gòn khởi công xây dựng hồi tháng Giêng năm 1861, lợp ngói âm dương. Xưa kia toà nhà nầy gồm có hai khu: khu bưu chính và khu điện tín. Năm 1886, theo đồ án của ông kiến trúc sư Viloolic (dân Pháp) cho nhiều thợ xây dựng, đã gộp chung lại thành một tòa nhà lớn, kiến trúc kết hợp đồ sộ theo phong cách Âu và Á. Mặt tiền khu bưu điện xây những ô hình chữ nhật. Khi khánh thành toà nhà bưu điện ở mặt tiền nầy, họ đã đặt một cái đồng hồ rất to, không gian và thời gian trôi đi, trải qua vài trăm năm rồi, mà chiếc đồng hồ (vẫn “sống”-động) còn đến bây giờ. Trong toà bưu điện đặt 35 ô cửa để làm việc: tiếp khách đến gửi bưu phẩm, gửi thư trong quốc nội và ra hải ngoại, khách gọi điện thoại ở trong nước và ra ngoại quốc, gửi tiền đi các nơi… Tất cả ô cửa trong nha bưu điện thì nhân viên và khách hàng đều bận rộn, lu bu và tấp nập.

    Công trình xây dựng Thảo cầm viên Sài Gòn bắt đầu thành lập từ tháng 3 năm 1864, và hoàn thành năm 1865 tại 28 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận I, là một khu đất rộng 22ha, khu đất nằm cạnh phía Rạch Lăng, (hướng đông bắc của sông Sài Gòn, quận 9), nơi đây nuôi chim, cá, muôn thú khoảng vài trăm loài. Khu đất rộng to lớn (so với các nơi khác). Trồng nhiều loại cây quý hiếm (trên thế giới được nhập vô Việt Nam) như: Pháp, Ấn-độ Campuchia, Lào, Nhật, Thái Lan… các loại cây: café, vani, cacao, mía Jardin Acclimater, bằng lăng, cẩm Lai, bạch đàn, cây sao, gỗ giá tị, gỗ mun… Đó là nơi thơ mộng với ngàn loại hoa thơm tươi đẹp, vài chục loại lan Nhật, lan nội địa, vườn bonsai kết hợp từ hải ngoại và quốc nội, xương rồng… Người ta tốn công xây dựng chuồng trại cho những động vật hiếm, lạ, sinh tồn thực vật lâu đời trên thế giới. Trong thảo cầm viên nầy đã thiết kế viện Bảo Tàng quốc gia Sài Gòn, trên lầu viện bảo tàng có một thư viện khang trang rộng rãi (thời Pháp gọi nơi đây là: Blanchard de la Bross, viện bảo tàng xây ngày 27-11-1927).

    Phi trường: Sân bay Tân Sơn Nhứt quốc tế to lớn, đồ sộ, sầm uất nhất miền Nam Việt Nam, có các sân đậu nhẹ, phi trường quân sự, phi trường quốc tế, cùng phi đạo 25R, dài 3084m, rộng 45,72m, có mấy kho hàng hoá, kho chứa đạn, bom. Những phi cơ dân sự hiện có thường dùng trong nội địa, phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại. Phi cảng nầy chứa những phi cơ dân sự, phi cơ quốc tế bay ra ngoại quốc và trở về quốc nội rất an toàn, và trung tâm điều hành không lưu tinh vi (FIR/SG).

    Hải Cảng Sài Gòn: được xây dựng tại giao điểm chính giữa con kênh đào rộng lớn, sông toạ lạc tại vùng hạ lưu thành phố Sài Gòn, nước chảy qua thành phố Sài Gòn phồn vinh tấp nập. Chiều dài sông Sài Gòn 106km, có cầu nổi. Đây là nơi cầu nối giữa chính quốc với thuộc địa từ năm 1862. Cảng Sài Gòn là tiền trạm vận tải hàng hoá, là liên lạc giữa thuộc địa với các chính quốc, các tàu buôn tấp nập ra vô, và trở thành trung tâm cầu tàu vận tải hàng hải thương mại, giao thông lớn nhất miền Nam Việt Nam, là cột trụ rất quan trọng của bến cảng. *nơi mệnh danh là “cảng nhà Rồng”, toà nhà đặc biệt nầy có vẻ không liên hệ gì với kiến trúc thời thuộc địa của thành phố. Mặt tiền khô khan, nhắc nhở đến những điều kiện sống trước kia của những thực dân đầu tiên. Nó tương phản với những trang trí mái nhà theo phong cách Việt Nam… (Surnommé “la maison aux dragons”, ce curieux édifice ne semble pas avoir de filiation dans lesquelles vécurent les premiers colons, contraste avec l’ormementation de son toit de style Vietnamien) - (*)

    Công xưởng Hải-quân (Arsenal de la Marine, là Sở “Ba Son” hồi xưa); năm 1914 đã huy động hơn 1.600 công nhân quần quật vất vả đóng một chiếc tàu đầu tiên dài 85m, và an toàn hạ thủy tốt đẹp vào năm 1921. Cộng thêm xưởng Caric ở Thủ Thiêm chuyên sửa chữa các phần thiết bị và đóng tàu mới, ụ tàu, làm nồi “sốt-de”, lò hầm gạch, xây lắp để đào kênh, những chiếc xáng, bộ phận dây buồm… Thế nên về mặt đường sông, và biển, tàu bè, ghe thuyền di chuyển ngày càng tấp nập phong phú hơn xưa.

    Doanh trại Hải Quân: đường Đinh Tiên Hoàng; được xây dựng từ năm 1873 theo lệnh của Chúa Nguyễn Ánh. Trại lính Martin des Pallières, là một ví dụ điển hình của công binh tại Đông Dương: (Construite en 1873 sur l’emplacement de l’ancienne citadelle – elle-même bâtie en 1790 sur ordre du prince Nguyen Anh – la caseme Martin des Pallières est l’exemple type du génie militaire en Indochine) – (*).

    Năm 1881, Hải-quân đã tập trung khoảng mười chiếc tàu gọi là “trạm Hải-quân Nam Kỳ”. Những tàu nầy có nhiệm vụ bảo vệ an ninh các bờ biển, cùng nhiệm vụ làm cảnh sát bảo vệ đường sông, tàu thuyền. (La flotte comptait en 1881 une dizaine de bâtiments. Regroupés sous l’appellation de “station navale de la Cochinchine”, ils étaient chargés d’assurer la sécurité des côtes de la colonie et la police des fleuves. Afin de les entretenir, et malgré les difficultés techniques d’une telle réalisation, un dock flottant fut construit et mis à flot le 25 aout 1881. (*).

    Bệnh viện: Một bệnh viện quân sự đầu tiên ở Sài Gòn trên khu đất rộng có tên: Grall xây năm 1882 gồm hai tầng lầu mái ngói, cửa vòm cung, mặt tiền và nội thất khá đẹp, khang trang, rộng rãi, yên tĩnh, nhiều phòng ốc tươm tất sạch sẽ, nhờ các dãy hành lang rộng thoáng mát. Grall cũng là nơi chứa nhiều bệnh nhân Tây, các doanh nhân, những người giàu có vinh sang và đầy thế lực mới được nhập viện.

    Nhà Thờ: Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sài Gòn (Quảng trường Pigneau de Béhaine) bề thế tọa lạc tại trung tâm thành phố, (quản trường Pigneau de Béhaine), nhà thờ có hai tháp chuông cao, do kiến trúc sư Bourard kiến trúc tinh vi và chuẩn mực, theo lối cổ điển roman và gothic. Thánh đường Đức Bà xây từ 7 tháng 10 năm 1877, dĩ nhiên theo phong cách roman gạch trầm màu hồng của vùng Marseille (Pháp). Tất cả vật liệu chở từ Pháp theo đường tàu biển tới Việt Nam. Chiều dài nhà thờ 133m, rộng 35m, cao 21m, tính chiều cao tổng thể từ dưới đất lên ngọn tháp là 57m, nhà thờ có sáu quả chuông đặt trong hai lầu chuông. Ngày 11-4-1880 thì nhà thờ Sài Gòn khánh thành. Sau nầy xây thêm tượng Đức Mẹ ngự ở trước mặt tiền của nhà thờ ngoài công viên Hoà Bình, tượng làm bằng đá hoa trắc. Ngày 7 & 8 tháng 12 năm 1959 nhà thờ Đức Bà Sài Gòn được toà thánh Vatican chính thức chấp nhận là Vương Cung Thánh Đường.


    Nhà thờ Ngã Sáu
    kiến trúc kiểu Gothique theo lối tây phương, ở 116b Hùng Vương, phường 9 quận 5, (vì khu nhà thờ nầy có sáu con đường đan chéo nhau, chia ra thành sáu ngả đường lớn. Nhà thờ ngự tại khu nghĩa trang Huê kiều trong Chợ Lớn sầm uất phồn thịnh, nơi đây rợp bóng cây cổ thụ im mát. Nhà thờ nầy trước kia có tên của thánh Jeanne D’ Arc, dân Pháp gọi là Plaine Des Tombeaux. Nhưng cư dân miền Nam ở đây quen gọi là: “nhà thờ Ngã Sáu”).

    Nhà thờ Huyện Sĩ xây năm 1902 (còn có tên là: nhà thờ Chợ Đũi) nhà thờ hình cung nhọn, oai dũng với công trình thiết kế quy mô, đặc thù, tinh xảo, khang trang xinh lịch. Thiết kế giáo đường do đức cha Bouttier kiến trúc theo phong cách gothique tuyệt tác tinh vi, cao sang với vật liệu đá granit Biên Hòa, đồng thời phối hợp cùng kiểu kiến trúc tân Gothique ở những phần đế, các cột nhà, cửa lớn và cửa sổ là vòm đỉnh nhọn, các cửa kính đều được sàng lọc nên ánh sáng không lọt vô, trái lại thanh thoát êm dịu.
    Nhà thờ do ông bà Huyện Sĩ Lê Phát Đạt giàu có nhất thời ấy đã bỏ tiền ra xây dựng. Sau khi tạ thế, hai ông bà có mộ xây bằng đá cẩm thạch ở hậu sãnh.

    Nhà thờ Chợ Quán an ngự tại 120 Trần Bình Trọng, phường 2, quận 5 - là ngôi nhà nguyện nhỏ lâu đời từ năm 1674. Sau 1891 xây dựng nhà thờ mới kiến trúc theo kiểu Gothique đồ sộ uy nghi. Đến năm 1887 cha Nicola Hamm (Tài) bắt đầu khởi công xây nhà thờ, và hoàn tất ngày mồng bốn Tết Bính Thân 1896.

    Nhà thờ Cha Tam (Phanxico Xavie) ở 25 đường Học Lạc phường 14 quận 5. Đức cha Mossard đến khu đất nầy đặt viên đá đầu tiên, xây cất nhà thờ cho người Hoa, nhà thờ trang trí liễn đối, hoành phi… chói ngời, tương tự như là các đền miếu người Hoa thường kiến trúc. Ngày 10-1-1902 khánh thành nhà thờ, sau đó cha chánh xứ Đàm Á Tô (Tam Asson) đảm nhiệm, sau nầy cha cho xây thêm trường học, khu nội trú, và một số tư gia khác.

    Vào thập niên 50, Nhà thờ Tin Lành dựng trên khu đất rộng rãi thoáng mát ở góc đường Đề Thám và đại lộ Trần Hưng Đạo, số 155, phường Cô Giang, quận I. Nơi đây cũng là trụ sở của văn phòng chi hội Tin Lành khu vực Đông Nam Bộ. Nhà thờ có tầng trệt và một tầng lầu, mặt tiền nhà thờ xây gạch rộng và cao như bức tường thẳng đứng, bên trong nội thất rất rộng và thoáng, có nhiều hàng ghế. Nhưng rất khác với các nhà thờ Công Giáo, ở đặc điểm là nhà thờ Công Giáo thì trang trí nhiều tượng thánh, bông hoa…). Còn nhà thờ Tin Lành thì ở khu vực cung thánh chỉ có duy nhất một cây thánh giá lớn, (ngoài ra không có hình Chúa treo trên cây thánh giá, (hoặc chung quanh trong nhà thờ) không có trang trí bất cứ một hình ảnh nào khác).

    Chùa: Ngôi chùa Phật-giáo đại thừa Vĩnh Nghiêm rộng 8.000m2 xây dựng năm 1964, kiểu chữ Công, tọa lạc 339 đại lộ Công Lý, (quận 3), theo thiết kế của các kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên, Nguyễn Bá Lăng, Cổ Văn Hậu, và cùng các nghệ nhân chạm trổ: Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Văn Du, Bá Nhâm. Chùa do sư tổ từ đời Trần, thuộc phái “Trúc Lâm Tam Tổ” trụ trì, họ tu ở núi Yên Tử tỉnh Quảng Ninh. Bên các vách đặt 6 phù điêu La Hán do phái tịnh độ Nhật Bản thực hiện. Hai cửa ra vô tháp Quan Âm cao 35m, có hai pho tượng kim cương đắp nổi. Gian giữa thờ Đức Phật, hai bên thờ bồ tát Phổ Hiền, Văn Thù. Hai vách đặt bức phù điêu La Hán bằng gỗ.

    Chùa Giác Viên 161/85/20 Lạc Long Quân, quận 11, chùa có từ 1798 (trước kia tên chùa là Hố Đất). Chùa có những tấm bảng gỗ chạm trổ tinh vi theo lối kiến trúc cổ phương Nam phối hợp cùng phương Tây. Chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng, bao lam to, nhỏ… chạm trổ các vị La Hán, loài vật, hoa lá, cây cỏ, vân vân… Cao tăng đầu tiên là hoà thượng Hải Tịnh, Mạc Cửu trồng cây mai đến nay dù già nua nhưng vẫn tươi tốt.

    Chùa Xá Lợi xây trên khu rộng 2.500m2 tại 89 Bà Huyện Thanh Quan, quận 3. Chùa xây năm 1956 do thiết kế của các kiến trúc sư: Đỗ Bá Vinh & Trần Văn Đường. Tượng Đức Phật do điêu khắc gia Lê Văn Mậu thực hiện coi hài hòa, tinh xảo. Chùa có đặt thờ ngọc Xá Lợi do ông Narada ở Tích Lan dâng tặng. Hướng trái cổng tam quan là tháp chuông cao bảy tầng. Chùa trang trí đơn giản, bài trí tượng Thích ca Mâu Ni bằng đá đầy mỹ thuật. Hoà thượng Khánh Anh đã khánh thành chùa.

    Chùa Ấn Quang đặt trụ sở: tại 243 đường Sư Vạn Hạnh, quận 10, do kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện thiết kế. Chính giữa chùa thờ Đức Phật Thích-ca Mâu-Ni trang trí giản dị, nhưng tôn nghiêm. Chùa có trường dạy học gọi là viện Phật-Học Ấn Quang.

    Chùa Phụng Sơn (còn gọi là Chùa Gò) an toạ tại 1408, quận 11. Chùa được thiền sư Liễu Thông tạo lập vào thế kỷ 19 ; và sau 2 lần có thợ Sa Đéc trùng tu cẩn thận, nên chùa Phụng Sơn giữ được nét kiến trúc độc đáo cổ riêng, từ 40 pho tượng gỗ sơn son thiếp vàng, và các bộ tượng: Ngũ Hiền thượng kỳ thú, Di Đà Tam Tôn, tượng gốm Tiêu Diện, các tượng: Phật bằng đồng Thái Lan, Phật bằng đá giác vàng thuộc văn hoá Óc Eo, Phật Nhật Bản, đồ gốm, đất nung, v.v...

    Chùa Linh Sơn toạ lạc 149 Cô Giang, quận I. Thời xa xưa kia chùa thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. 1931 chùa trùng tu thành thiền viện, chùa thành lập Hội Nam Kỳ, ra tạp chí Từ Bi Âm, thỉnh Tam Tạng kinh tại Trung-quốc về chùa chiêm bái. Chùa Linh Sơn là nơi đào tạo tăng, ni.

    Chùa Nam Thiên Nhất Trụ thường gọi là chùa “Một Cột trong Nam” xây từ 1958 do kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức thiết kế. Từ cửa vào thấy hồ Long Nhãn nuôi nhiều cá và rùa, đài Liên Hoa giữa hồ. Chánh điện trưng bày lưu niệm và bảo tháp Nam Thiên. Trong khuôn viên chùa có nhiều pho tượng Phật.

    Thiền viện Vạn Hạnh trên đường Võ Di Nguy Phú Nhuận đi Gò Vấp có một khu đất rộng 1ha, dưới vòm cổng tam quan bề thế là chánh điện của thiền viện Vạn Hạnh, ngôi nhà cổ, các khu trường Phật-học, hai văn phòng thiền viện: 1. Nghiên-cứu Phật-học. 2. Nơi dành cho Hội phiên dịch Đại tung-kinh ra tiếng Việt.

    Đền thờ đức Trần Hưng Đạo to lớn, khang trang, toạ lạc trong khu đất rộng của chùa Vạn An xưa kia: tại 36 Hiền Vương, phường 4 quận I. Đền thờ xây hình chữ “đinh”, có ba cổng liền nhau trông ra ba hướng sân. Sân chính đặt bức tượng Trần Hưng Đạo uy dũng đắp xi măng màu đen vàng. Bên phải sân là bảo tàng chưng một số: bản đồ, có văn bản trích di bút về bài hịch của ông, hiện vật, v.v… Trong đền có thờ nhiều vị tướng: Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Dã Tương, Yết Kiêu, Trần Quang Khải. Đại sãnh treo nhiều hoành-phi, câu đối, v.v… Chính điện thờ đức Trần Hưng Đạo tạc đồng oai vệ, bề thế, uy dũng trong tư thế ngài đang ngồi, tượng ngài cao 1,70m đúc năm 1957. Bên trái có bài vị của hai người con gái, bên phải là bài vị bốn con trai của ngài.

    Chợ: *Năm 1882 các vựa ở chợ Charner là một trong những nơi sầm uất của Sài Gòn. Các vựa nầy tạo thành ngôi chợ đầu tiên của thành phố, hàng hoá được cung cấp từ con kinh đào lớn được mở trên thương cảng… Sau khi lấp kinh đào vào năm 1887, hoạt động của các vựa hàng từ từ ngừng hẳn. Nhiều vị cao niên tiếc nuối sự biến mất những vựa hàng nầy. Ngược lại, tâm trạng những nhà kinh doanh địa ốc lại nóng lòng chờ đợi việc nầy. Những vựa hàng ấy được thay thế bằng chợ Bến Thành xây vào năm 1912 trên vị trí của đầm lầy Boresse cũ. (Les halles du marché Charner constituaient en 1882 l’un des lieux les plus animés de Saigon. Constituèrent le premier marché de la ville alimenté par le grand canal ouvert sur le port de commerce… Surau comblement du canal en 1887 les halles s’éteignirent progressivement. En 1910 beaucoup de vieux Saigonnais déplorèrent leur disparition, contrairement aux promoteurs qui l’attendaient avec impatience. Elles furent remplacées par le marché Ben Thanh construit en 1912 sur les bords de l’ancien marais Boresse). (*)

    Tại trung tâm thành phố chính của miền Nam nước Việt, có ngôi chợ xép khung gỗ, tường gạch xây, mái lợp tranh nằm trên khu đầm lầy Bến Nghé và thành Sài Gòn. Thế nên dân bản địa đã ghép tên hai nơi: “Bến-nghé và Thành Sài Gòn” làm thành chợ “Bến Thành”. Năm 1870 một phần chợ đã bị cháy, nên chợ xép phá đi, năm 1912 họ đã xây ngôi chợ mới bằng gạch đúc, bốn hướng có bốn cửa: Đông. Tây, Nam. Bắc; cửa chia ra bốn hướng rộng rãi, khang trang, to lớn, có cái tháp đặt chiếc đồng hồ to tướng xinh lịch. Bên trong ngăn chia thứ tự các mặt hàng sản vật công nghệ bày bán đầy đủ từ hàng vải, nón, giày dép, hàng gia dụng, mỹ phẩm, quần áo. Qua các sập bán thịt, cá, gà vịt, chó, mèo, chim, chuột …v.v… Những khu hàng ăn, uống cũng rộng rãi, sạch sẽ. v.v… Hồi xa xưa từ thời Pháp và cả bây giờ, chợ Bến Thành vẫn là ngôi chợ lớn nhất vùng đô thành Sài Gòn Gia Định.

    Chợ Lớn
    vào thế kỷ 17, 18… từ thuở xa xưa người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nam, Triều Châu, Hẹ… có quốc tịch Anh, họ được người Pháp (đang cai trị nước Việt Nam lúc bấy giờ), cho phép người Hoa từ Singapore nhập cư vào Việt Nam. Những người ấy từ khi rời bỏ nguyên quán để di-dân đến xứ người, họ mang canh cánh trong lòng một tâm niệm “thắt lưng buộc bụng, để mang vinh quang và giàu sang phú quý về cho bản thân và gia đình”; Thế nên, vào những năm tháng đầu tiên khi tha phương cầu thực, không hề quản ngại gian lao khốn khó, lúc nào, ở đâu, trên vai họ cũng quảy đôi thúng gióng kĩu kịt đựng thực phẩm bán hàng rong, họ đi trên khắp các nẽo đường lớn nhỏ.

    Họ luôn miệng rao hàng nào là: hớt tóc dạo, bán bánh mì xíu mại, kẹo kéo, đậu hủ nóng ủ trấu chan nước đường. Làm thợ nhuộm áo quần, họ cũng ngồi lết bên lề đường, làm việc từ đôi thùng nước sôi tòn ten trên vai, làm lò heo, mổ thịt bò, đổ phân nhà cầu, vân vân… Bán buôn đầu tắt mặt tối suốt ngày lao khó vất vả, tối về nhà họ chỉ dám ăn nửa bát cháo với hột vịt muối bắc thảo. Những gia đình vợ chồng con cái nheo nhóc di dân ấy cùng ở trong ngõ hẻm sâu hun hút, ngoằn ngoèo, họ cùng chung nhau thuê một căn nhà lẹp xẹp chật chội, tối thui như ổ chuột, thiếu hẳn tiện nghi.

    Thời gian trôi qua… từ người bán buôn ở ngoài góc “đầu đường xó chợ”, họ tiến lên: một bữa ăn cháo hai bữa ăn cơm có cá có thịt. Từ mướn nhà mở tiệm thuốc bắc, tiệm tạp hoá, họ chuyển qua mua đất xây nhà, mua phố ở mặt tiền, mở nhà hàng, mở ngân hàng, họ làm chủ nhân ông các hãng xưởng lớn, xây các đại khách sạn, lập nhà tang nghi quán, xây chùa, xây rạp chiếu bóng, lập hội trường trình diễn hát Tiều, hát Quảng, múa lân vào những dịp Tết khai trương các tiệm, mở tường học, lập nhà máy xay lúa, nhà máy xi măng, nhà máy dệt, vân vân... Chợ Lớn cung cấp thực phẩm cho các chợ nhỏ, chợ quê, nơi Chợ Lớn nầy đấu giá những mặt hàng chính để đem đi lục tỉnh, cũng như phân phối đi toàn miền Nam. Họ trở thành những tay thương gia xuất khẩu độc quyền lẫy lừng mua tận gốc với giá rẻ rề, bán tận ngọn các món: lúa gạo, tôm, cá, bao cà-ròn, dầu dừa, da trâu bò, cau khô, chiếu... từ trong nước ra quốc tế, và nhập về các loại rượu mạnh, tôn, sắt thép, vải vóc, len, mỹ phẩm, các nhu yếu phẩm, thực phẩm, đồ hộp, trang trí nội thất, v.v...

    Chợ Lớn nằm gần sát cảng Sài Gòn, nơi sầm uất đầy thuyền buồm huyên náo vô ra, bán buôn tấp nập. Chợ Lớn trở thành nơi quan trọng sau cù lao Phố, vì Chợ Lớn xuôi về đồng bằng ở mé sông Cửu Long, và nối dài về phía Tây Vàm Cỏ Đông, Đức Hoà, Cần Giuộc, v.v... Quang cảnh ở Chợ Lớn khác hẳn ở khu Sài Gòn. Nơi đây ồn ào náo nhiệt đông đúc, người ta tụm trăm tụm ngàn đông đen trên đường phố to tiếng xí xa xí xô như chỗ không người. Đi đi, nói nói, la la, mắng chửi om sòm, họ tất bật buôn buôn bán bán, giành giựt mua bao đủ mọi thứ. Chợ Lớn có “chức năng” quan trọng của tư sản mại bản thương nghiệp “đại phố”. Đó là khu thương mãi của hoa-kiều (Arroyo Chinois). Họ giàu xụ! Có tiền rừng bạc bể, nên thương gia độc chiếm thị trường kinh tế, thương mại sầm uất ở một giang sơn Chợ Lớn!

    Bề mặt Chợ Lớn tươi đẹp như thế, nhưng bề trái cũng không tránh khỏi có những “lắc léo cuộc đời”: trục lợi, buôn lậu, chủ chứa, gian manh… Do bắt đầu từ ngày 26-7-1861 đã có nghị định cho phép mở các sòng chứa cờ bạc như: hốt me, tứ sắc, bài cào, cu di, bông vụ… còn dây dưa “di truyền” cho đến ngày nay. Trò tiêu khiển đặc biệt xóc dĩa tương tự như “hốt me”, là: chủ cái bốc đại một nắm me, rồi bỏ vô cái dĩa chén to, có dĩa đậy kín. Sau khi những tay chơi đặt tiền lên bàn (ở các cửa bài, có thứ tự từng tên: yêu, tam, lượng, túc); thì chủ sòng mở cái chén ra; họ phân từng nhóm 4 hột; còn dư bao nhiêu hột me, chủ sòng bỏ vô mấy cửa bài trên, gọi chung là chẵn, lẻ. Tay chơi bài chỉ đặt một hoặc hai mặt. Ngày nay tại Chợ Lớn còn “chế biến” ra kiểu cờ bạc hấp dẫn hơn: Số đề. Dân chơi đề dựa theo 36 con vật mà đánh. Giao kèo của “chủ cái con đề” là chỉ ăn con số đầu, số đuôi. “Chủ cái con đề” đều nghe radio, xem mình thắng hay thua trong mục xổ số “Kiến Thiết Quốc Gia” mỗi tuần. Nói chung, đa số thì chủ cái ung dung vơ hết tiền tộng vô túi.

    Những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, và cư dân gốc Trung Hoa đang sinh sống ở Chợ Lớn, do bán buôn tấp nập nên đa số đều phong lưu. Ngoài hai ngôi chợ sầm uất náo nhiệt của thủ đô Sài Gòn là: chợ Bến Thành và Chợ Lớn ra, còn có các chợ: Tân Định, Phú Nhuận, chợ Bà Chiểu. Chợ Thị Nghè, (xưa gọi rạch Avalanche, là tên của chiếc tàu đầu tiên vô thám sát trước khi Pháp đánh thành Gia Định), chợ Đũi, chợ Cầu Kho, chợ Rẫy. Chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Bình Đông, chợ Bình Tây, chợ Hoà Hưng, chợ Bà Quẹo, chợ An Đông, chợ Tân Bình. Chợ Bà Quẹo, chợ Khánh Hội, chợ Phú Thọ… Chợ Quán lúc xưa đã dùng nơi nầy để xử phạm nhân, nên đã có câu thơ:
    “Ở đây chợ Quán thêm sầu.
    Cơm ăn chẳng được, ăn trầu giải khuây”.

    Chợ Đệm: “Chim đại bàng đi ngang chơ Đệm.
    Ông Lưu Bị nói chuyện chim bao”
    (bàng, bị, đệm, bao).

    Chợ Thủ Thiêm ở làng An Lợi:
    Chừng nào chợ Quán hết vôi
    Thủ Thiêm hết gạo em thôi đưa đò
    Bắp non mà nướng lửa lò
    Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm
    . vân vân và v.v…

    Thương nhân người Hoa có mặt tại Sài Gòn từ thế kỷ XVII, họ dần dần chiếm lĩnh độc quyền thật sự trong các hoạt động thương mại buôn bán lớn. Được tổ chức chặt chẽ, gắn bó khắng khít bởi các lợi ích chung, có một hệ thống thương mại trải rộng trên toàn vùng, cộng đồng Hoa-kiều ở Sài Gòn tập trung tại Chợ Lớn, hình thành nên một đầu mối trung gian không thể thiếu được: (Les négociants chinois. Présents depuis le XVII siècle à Saigon, ils avaient peu à peu acquis un monopole de fait sur les activités commerciales et le grand négoce. Très organisée, soudée par des intérêts communs et disposant d’un réseau commercial qui s’étendait sur toute la région, la communauté chinoise de Saigon, concentrée à Cho Lon, constituait un intermédiaire incontournable) - (*).
    ***

    Trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc sống phức tạp, xô bồ, nhưng không kém phần quyến rũ, thơ mộng nơi dòng chảy văn hoá, ấy là những đặc trưng tuyệt vời kết nối giữa sự giao thoa cũ và mới. Từ các ngày lễ, giỗ của đất nước và những con đường: Ôi những con đường lớn nhỏ, ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu, và ngã Bảy… dài ngoẵng trong thành phố Sài Gòn thì nhiều vô số, không thể kể xiết. Trên các con đường ấy đã từng là nơi có những công trình xây cất phong phú mang di tích lịch sử, để tưởng niệm các vĩ nhân hiền tài qua các thời đại:

    - Ngày rằm tháng Giêng âm lịch: Cư dân người Trung Hoa sinh sống ở miền Nam theo tín ngưỡng Hoa-Nam (nhất là khu Chợ Lớn) họ tập trung đến các đền miếu nơi họ cư trú, để dâng tế bái, khói hương nghi ngút, để thờ phụng các vị thần linh của họ. Lễ hội lớn nhất của người Hoa là lễ “Nguyệt Tiêu”.

    - Ngày 15 và 16 tháng Giêng âm lịch: tại số 5 Hải Thượng Lãn Ông, quận 5, nơi thờ cúng viên quan nhà Nguyên đã từng công cán ở Đông Nam Á, là ông Châu Đạt Quan, đền thờ nầy gọi là chùa ông Bổn. Người Trung Hoa đã đến cúng bái, xin xăm, đấu võ, múa rồng rất đông.

    Ngày Kỳ Yên 16, 17, 18 tháng Giêng âm lịch: Ngày đầu tiên khai hội làm lễ tụng kinh cầu an, tế tiền hiền và hậu hiền theo truyền thống Nam-bộ. Ngày thứ hai và ngày cuối vẫn múa lân, biểu diễn võ thuật, sau đó làm nghi thức truyền thống Bắc-bộ: tôn vương tế thần và hồi chầu. Đó là phần lễ hội long trọng uy nghiêm bắt đầu và kết thúc trong ba ngày tại Phú Nhuận.
    Tại bờ rạch Bà Tàng ở Bình Đông, phường 7, quận 8 thì lễ Kỳ Yên diễn ra từ > 10-2 >> 14/2 âm lịch. Ngày 10: cúng tiên sư trưởng, (thầy dạy nghề). Ngày thứ nhì: tụng kinh cầu an. Ngày thứ ba: làm nghi thức khán sắc, tế thần, cầu mưa thuận gió hòa, hát bội cúng thần. Ngày thứ tư: tế hiền tiền và hậu tiền. Ngày cuối: làm nghi thức hoàn sắc.

    Ngày 2 tháng 2 âm lịch: Từ những năm đầu thế kỷ (1852) vua Tự Đức đã chấp thuận sắc phong cho miếu ông Địa; thờ: Thổ, Địa, Phúc, Đức, Chính, Thần. Thủ tục dâng tế lễ hội bằng những loạt nghi thức: gióng trống khai tràng dồn dập, chầu mời liên tục với điệu hát bóng rỗi, để thỉnh thần về dự lễ. Sau đó diễn tuồng hài hước “Địa, Nàng” khá vui, bởi hai nghệ nhân thủ vai “ông Địa, nàng tiên” có nội dung phê phán những thói hư tật xấu trong nhân gian. Cuối cùng là múa đồ chơi & mâm vàng mâm bạc và phát lộc. Ca hát hầu tổ và tiệc rượu linh đình.

    Ngày 7, 8, 9 tháng 2 âm lịch: những đoàn hát bội, cải lương thường tổ chức lễ hội tại 133 cô Bắc, quận I, theo nghi thức đánh trống thỉnh tổ có bài bản, từ rạng đông cho tới xế chiều. Tiếp là thắp nhang bái tế tưởng niệm tổ sư ngành nghệ thuật

    - 16 tháng 8 âm lịch: Lễ Ngư Dân “nghinh Ông”: Ngày ấy tất cả ngư dân miền biển từ Cửa Tùng đến Cà Mau đều nghỉ ngơi, họ ở nhà để rộn ràng trang hoàng lộng lẫy các bến cá, ghe, thuyền, tàu buồm. Một trong rất nhiều lăng miếu từ các ven biển Việt Nam đã thờ bộ xương cá voi đặt trên bàn thờ, hoặc ở trong quách, khạp, có dán giấy hồng đơn, được vua chúa Nguyễn sắc phong “Nam Hải cư tộc. Ngọc Lân thượng đẳng thần”. Tại xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ đã tổ chức long trọng tuần tự vào ngày thứ nhất: 1. làm lễ nghinh Ông. 2. Cúng tiền hiền, hậu hiền tưởng nhớ cố nhân. 3. Lễ cúng chánh tế. Đồ cúng: heo quay, xôi thập cẩm, rượu, trà (không nhận đồ cúng hải-sản). Xen vào đó là những trò vui chơi: hát bội, cà kheo, kéo dây.

    - Ngày 12 tháng 3 (Hồi lịch): Lễ hội người Chăm: theo đạo Islam họ tiến hành nghi thức theo tôn giáo đạo Hồi rất long trọng. Đó là lễ sinh nhật thiên sứ Muhamed (người vâng lời thánh Alah giảng kinh Coran và khai sáng đạo Hồi). - Lễ Ramadan (tháng nhịn ăn) từ 1 đến 30/9 Hồi lịch). - Lễ bố thí 1/10 Hồi lịch, và tùy theo khả năng, người Hồi ở rải rác khắp nơi, sẽ hành hương về thánh địa Mecca ngày 20/12 Hồi lịch.

    - Ngày 13, 14 và 15 tháng Tư: Lễ hội Khmer - Dân Khmer có nhiều lễ hội, nhưng các lễ lớn nhất là:
    a/ Tết mới: (chol Chnam Thmay) bắt đầu tai chùa Miên quận 3, rước “đại lịch” (Mahaang Kran). Tiếp là lễ dâng cơm cho sư sãi (vên chông han). Lễ đắp núi cát quanh chùa (pên phnôm Ksach), Lễ quy y. Lễ té nước vào người khác, lễ tắm tượng Phật.
    b/ lễ cúng tổ tiên ông bà, rước vong linh tổ tiên về cùng con cháu vào khoảng cuối tháng 8. Lễ thả thuyền bè bằng bẹ chuối, trên bè đặt đồ cúng cho trôi trên sông rạch.
    c/ Lễ trông trăng “ăn cốm dẹt” (Ok om bok) ngày 15/10 âm lịch, tại sân mỗi nhà họ cúng khoai, mía, cốm, xôi…

    - 29 ; 30 tháng 7 và 1 tháng 8 âm lịch: tại Lăng Ông Bà Chiểu đã thờ khai quốc công thần tổng trấn Gia Định là tả quân Lê Văn Duyệt. Nơi đây thường xin xăm cầu phúc cầu lộc… Lễ bái giỗ theo nghi thức cổ truyền Nam-bộ và hát bội diễn xướng nhiều tuồng tích và ôn lại những nhân vật chính yếu thuở xưa: Sinh tiền, thuở còn bé ông Lê Văn Duyệt đã than:
    - Sinh ở thời loạn, không kéo cờ, gióng trống, không làm đại tướng, lưu danh vô sử sách, thì không phải trai tài.
    Khi Lê Văn Duyệt 17 tuổi, đức Thế Tổ cho ông làm cai cơ thái giám nội dinh và hầu Thế Tổ qua Xiêm La, hoặc lúc vua về thu phục Gia Định, ông thường đi theo vua ở các chiến trận, ông cùng chư tướng bàn luận việc nầy việc nọ. Vua hỏi:
    - Ngươi cũng biết việc binh à?
    - Có biết.
    - Binh cơ là việc trọng đại, sao ngươi nói khinh thường vậy?
    Thưa, sơn tặc là quân vô đạo, không lâu nữa sẽ bị tiêu. Nay ta đánh kẻ bạo tàn như chẻ tre, tôi nghĩ không có gì khó.
    19 tháng Giêng năm Tân Dậu: vua nghe tin quân Tây Sơn sẽ kéo binh vô đánh Bình Đề, vua Thế Tổ sai Lê Văn Duyệt và Tống Viết Phúc đem quân đi trấn giữ. Hai ông đã tâu:
    - Có chúng tôi ở đây, không sợ gì giặc. Đây là nơi chúng tôi liều sống chết với giặc.

    Quả nhiên trận ấy hai ông lấy được thành Qui Nhơn uy danh ông lẫy lừng. Năm sau, quân, tướng, Tây Sơn lại kéo quân đi đánh Qui Nhơn, quân giặc ở trên đồn bắn xuống như mưa, nhưng không đến cửa Thị Nại được. Vua Thế Tổ sai Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt dùng thế hoả công. Võ Di Nguy bị đạn ngã xuống nước mà Lê Văn Duyệt chỉ lo xông vô đánh giặc, không ngoái lại dòm. Vua thấy quân, tướng bị giết nhiều, bèn ba lần sai tiểu hầu truyền dụ:
    - Tạm lui quân.
    Lê Văn Duyệt:
    - Xin cho chúng tôi cứ tiến vô, không lui.
    Tâu xong, thấy thuận gió ông liền dùng thuật “võ công đệ nhất” thúc quân xông vô cửa biển, nổi lửa bắn tên giết hết thuyền giặc.
    Các tướng muốn thừa thắng xông lên, đem quân đánh Phú Xuân, nhưng vua Thế Tổ do dự chần chờ. Lê Văn Duyệt tâu:
    - Binh qui thần tốc, mưu mô phải quả quyết. Nếu cứ đóng quân ở đây, sẽ mỏi mệt và uổng công. Nếu lấy được Phú Xuân, thì thành Bình Định không phải đánh, mà lập tức giải vây; đó là một cách chơi cờ thí xe vậy.
    Đức Thế Tổ nghe ông, quả thật đã thu được thành Phú Xuân.

    Đời Gia Long nguyên nhiên, Lê Văn Duyệt quả cảm hăng hái được thăng “Khâm-sai Chưởng-tả-quân Doanh-bình-sơn Tướng quân”, tước quận công, cùng Lê Chất đem bộ binh đi dẹp yên Bắc Hà. Đức Thế Tổ thưởng cho Lê văn Duyệt làm Tổng-trấn Gia Định. Năm vua Minh Mạng thứ 13 ông Lê Văn Duyệt già yếu dâng sớ xin từ chức, vua không cho. Ông Lê Văn Duyệt một lòng báo quốc, hưng lợi, dẹp giặc trừ hại, yên dân, không nghĩ đến thân, chăm lo và thương quân tướng, được lòng người, nên ông cầm quân đi chinh phạt đây đó, không thua trận nào, quân giặc Mán Vách Đá ở Quảng Ngãi nghe danh Lê Văn Duyệt uy phong rất khiếp vía; tuy tính ông tự chuyên, khi dụng hình có quá lạm. Ông Lê Văn Duyệt từ trần ngày 30-7-1832, thọ 69t. Mộ ông xây ở Gia Định.

    Khi ông Lê Văn Duyêt mất rồi, bố chính Bạch Xuân Nguyên rất tham lam, sách nhiễu, không hoà với ai, tự xưng là: phụng mệnh vua Minh Mạng thứ 14, truy bắt con nuôi của ông Lê Văn Duyệt, (ghép tội loạn đảng Lê Văn Khôi). Mãi đến năm Minh Mạng thứ 16 mới dẹp yên. Các quan nội các dâng sớ lên đình thần nghị xử quy trách kể tội tại Duyệt, (nuôi lũ phỉ đảng đã gây tai vạ). Họ kết án ông Lê Văn Duyệt đáng tội tội giảo 2 điều, trảm 7 điều, truy đoạt quan tước, cuốc bằng bia mộ, dựng bia ghi tám chữ: Quyền yêm Lê Văn Duyệt thụ pháp xứ”.

    - Ngày 10-3 (âm lịch) tất cả các đền thờ vua Hùng trong thảo cầm viên số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận I, - thủ đô Sài Gòn, Chợ Lớn, (và các miền đất khác trong lãnh thổ Việt Nam) đều đến dâng hương bái vọng, giỗ tổ Hùng Vương theo nghi thức lễ bái và cử nhạc khí cổ truyền: đàn đá, chiêng, trống, trống đồng, múa võ thuật, múa lân, cờ người; để tưởng nhớ đến vị cha già đã khai sinh ra nước Van Lang.

    - Ngày 19-8 âm lịch (từ 19, 20, 21) nhiều lương dân đều tế lễ hát chầu cổ truyền Bắc-bộ bái tế gồm nam tế và nữ tế dâng quốc công tiết chế thống lãnh quân đội, ấy là đức Trần Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn: tại 36 đường Hiền Vương, quận I, nhiều nơi tổ chức lễ giỗ rất long trọng trang nghiêm và linh đình.
    Hưng Đạo đại vương con ông An sinh vương Trần Liễu, (anh ruột vua Trần Thái Tôn) quê làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định.

    ***

    Tóm lại, bây giờ không có gì hân hoan hớn hở vui thích bằng:
    Nhà Bè nước chảy chia hai
    Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
    (cd)
    Và:
    Nhà Bè nước chảy trong ngần
    Buồm nâu buồm trắng chạy gần chạy xa
    Thon thon hai mái chèo hoa
    Lướt qua lướt lại như là gấm thêu
    (cd)

    Nghe những câu thơ lục bát mô tả về cảnh sông nước hữu tình, duyên dáng, giản dị mà đậm đà tình quê (của con sông hợp lưu Đồng Nai & Nhà Bè nằm ở hướng đông nam Sài Gòn). Sông nước ngọt tấp nập ghe thuyền lướt bên những lá dừa ẻo lả quệt lui quệt tới trên sông nước có nhiều phù sa, dồi dào gạo trắng, cây lành trái tươi thơm ngon, tôm cá thừa mứa)… Quả là không thể tránh khỏi xúc động. Đúng như thế.

    Thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen, càng tăng thêm nhốn nháo, nhưng bóng loáng, thanh cao, rộng rãi trên phố Catina. Người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi dạo phố chiều kẹt cứng. Đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đại lộ lớn như: Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát. Trên những con đường lớn nhỏ tại Sài Gòn đều đông nghẹt người đi bộ. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe.

    Sài Gòn đã hân hoan trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông lừng danh kể từ đó. Lúc hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom cháy Dinh Độc Lập (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. (Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại). Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị công-binh là: Đại tá Nguyễn Văn Quý, Đại tá Điển điều động một đoàn công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp. Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây tuyệt vời.
    * * *


    (*) - Trích dẫn: “Regard sur le monde Saigon 1882”
    M. Charles Le Myre de Vilers: Tổng Lãnh Sự Pháp).
    (Jean-Noel-Poirier, Consul géne’ral de France a Saigon ville).
    *

    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  5. #23
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default MIỀN TÂY ơi! Thi-vị & hữu tình biết bao!



    MIỀN TÂY ơi! Thi-vị & hữu tình biết bao!
    (Việt Nam Quê Hương Cẩm Tú)
    *
    SÀI GÒN đến TIỀN GIANG


    Đất Sài Gòn nam thanh nữ tú
    Cột cờ Thủ Ngữ cao thật là cao
    Vì thương anh, em vàng vỏ má đào
    Em tìm khắp chốn… nhưng nào thấy anh!
    (*)

    Theo điển tích xưa thì: khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào đánh chiếm Gia Định (gồm 4 lần; lần thứ I= 1777; lần II= 1782; lần III= 1783; & chiếm Rạch Gầm lần IV= 1785), thì vua “Gia Long tẩu quốc” lòng đau như dao cắt, đã dắt díu tàn quân xuôi về miền Tây Nam Bộ, vua và quân lính chạy tới các vùng đất: Bà Cụm, Bình Điền, Rạch Chanh, Bến Lức, Cai Lậy, vàm Ba Rài, Mang Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, mũi Ông Đội, Giếng Ngự, Bãi Ngự, Cạnh Đền, rạch Thầy Quơn, Rạch Gò Quao, Rạch Bò Ót, Vàm Cỏ, (Gò Công), sông Tiền (Bến Tre, Mỹ Tho), vàm sông Hậu (Long Xuyên, Cần Thơ), U Minh Thượng, U Minh Hạ… Ba Thắt, Trà Vinh, Cầu Ngang, và những hòn đảo: Cổ Tron (Poulo Dama), hòn Thổ Châu (Poulo Panjang) giữa vịnh Xiêm La & vùng cực Tây:
    Đem quân ra đóng cửa hùng quan
    Chim muôn giọng hót hoa ngàn hương đưa
    Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
    Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
    (*)

    Nơi vùng quan tái dặm ngàn xa xôi cách trở, vua và quân lính lam lũ vất vả khổ cực trăm bề. Họ phải nai lưng ra khai khẩn đất làm đủ thứ, tự đào giếng, dựng trại, làm đồn bót, đắp luỹ hào, làm lộ nhỏ là đường đắp đê, rạch ngắn. Họ bắt cá biển, ốc biển, cuốc đất trồng khoai, sắn, đào củ chuối rừng… mà ăn, để tạm sống qua ngày ở vùng đất có đầy đủ nỗi âu lo sợ cọp dữ, muỗi, ve, vắt, ốm đau, bệnh hoạn.

    Việc mần mệt nặng
    Kẻ cuốc người rinh
    Chừa hai bên kinh
    Đắp hai đường lộ
    Việc mần cực khổ
    Mệt đổ hết hơi
    Không dám nghỉ ngơi
    Cực đà quá cực
    Phần thời nắng nực
    Lại không nước uống


    Hy vọng vua và quân binh sẽ vạch ra một chân trời tươi sáng quang rạng mà “hưng long”: Vua (Nguyễn Ánh) kiên trì, nhẫn nại dùng những nơi đây nuôi quân, dưỡng quân, tuyển quân, luyện quân và đã làm bàn đạp tiến quân, ngỏ hầu sau đó vua “Gia Long phục quốc” sẽ vinh quang hùng dũng lấy lại đất Gia Định lần I= 1778-1781; chiếm lại lần II= 1782; chiếm lại Bến Nghé lần III= 1787- (tất cả ba lần: 1781, 1782, 1787):
    Ngang lưng thì thắt bao vàng
    Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
    Một tay thì cắp hỏa mai
    Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
    Thùng thùng trống đánh ngũ liên
    Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
    (*)

    Ra đi… trong lòng trai xứ Việt ngổn ngang trăm mối tơ vò sâu lắng buồn thương da diết lo âu. Người hẹn người… Lòng hẹn lòng mong sao ai nấy đồng tâm hiệp sức, cùng nhau kiến thiết xây dựng giang sơn, giữ gìn đất nước trường tồn, hưng thịnh, thì mọi người sẽ ấm no, hạnh phúc. Tất nhiên khi đã trả nợ non sông, đất nước thái bình thịnh vượng, mọi người vinh quang trở về chốn cũ, tại sao mình không mừng vui như Thánh Tông thượng hoàng xưa đã làm hai câu thơ:
    Xã tắc hai phen bon ngựa đá
    Non sông thiên cổ vững âu vàng

    Anh sẽ cùng em hoàn thành lời hẹn ước năm xưa:
    Gió lung lay mới biết tùng bá cứng
    Lửa có hồng mới rõ thực vàng thau
    Thân tằm còn trả nợ dâu
    Bước lên ghe mặt ủ gan rầu
    Qua đây với bậu hẹn có ngày gần nhau
    Tình qua với bậu làm sao phụ phàng


    Bởi vì:
    Quả trong ngăn trong lòng sơn đỏ
    Mấy lời anh to nhỏ, em bỏ bạn sao đành
    Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
    Tàu Tây liệt máy, em mới đành bỏ anh
    (*)

    Thật chí lý và chung tình! Từ đó, triều đình chúa Nguyễn đã ra sức mở mang bờ cõi, đường lộ, đường sông, đường biển… thủy vận là điều kiện tất yếu tự nhiên thuận tiện nhất. Các vị trí địa lý từ Sài Gòn về miền Tây, và đi ngoại quốc (Campuchia, Lào) luôn tấp nập rộn rịp, náo nhiệt… được định hình qua các tuyến đường thủy vận chính. Di chuyển bồng bềnh xuôi ngược trên sông, trên biển đủ mọi thứ: Thuyền, tàu, xuồng câu cá tôm từ loại ghe nhỏ đến tàu to, mái chèo tùy theo con nước ngược chảy xiết chèo mái cuốc, nước xuôi chèo mái dài thong thả, sông dài lúc nông lúc sâu, khi khoan khi nhặt nếu gặp nước xoáy đứng sát cột chèo và nạy. Thỉnh thoảng trên sông văng vẵng câu hò:
    Tàu xúp lê một anh còn mong đợi
    Tàu xúp lê hai anh than vắn thở dài
    Tàu xúp lê ba tàu ra biển bắc
    Vịn song sắc nước mắt nhỏ bên đông
    Mở miệng kêu “bớ chú tài công
    Chớ chú ôi làm chi cho phân vợ rẽ chồng đêm năm canh…


    Ghe, Bè là loại không có mái che đóng bằng cây, chở hàng hoá, người ta thảnh thơi đi lại trên ghe: Ghe Cửa chạy buồm nhỏ, mũi nhọn. - Ghe Lồng có ngăn nhiều vách để chứa hàng hoá - Ghe Giản: Ghe to ở hai bên có ghép cánh cao dùng chứa hàng. Ghe Cui: đơn sơ dùng chở những vật liệu nhẹ và di chuyển gần, ghe nầy không đi thủy lộ xa sông dài. Ghe Độc Mộc. Ghe Be, Ghe Chái. Ghe Diêu thì mũi, kèo, lái đều chạm trổ hoa lá nhà cửa, thú vật… Có một loại thuyền ghe đặc biệt: sàn ghe bóng loáng, vách sơn son thiếp vàng, đó là loại thuyền ghe sang trọng đầy đủ tiện nghi, có quân hầu dành cho phú ông bá hộ, chủ điền, thương gia… Cô lái đò buông lỏng mái chèo bâng quơ thả câu hò:
    Bớ chiếc ghe sâu
    Chèo mau em đợi
    Kẻo khỏi đoạn kinh nầy bờ bụi tối tăm.
    (*)

    Nào ngờ… chàng trai xứ Việt hiền lành đôn hậu ấy không chỉ là dân miệt vườn, mà anh cũng là một thương khách đa tình, anh đã từng giang hồ vượt trùng dương ngạo nghễ đi tứ xứ trên sông rộng nước sâu, anh ỡm ờ buông câu:
    Thuyền em đã nhẹ
    Chèo lẹ khôn theo
    Em ơi bớt mái, khoan lèo chờ anh
    . (*)
    Cô gái vui sao là vui, dí dỏm ỏn ẻn trả lời:
    Đây đã chèo lơi
    Đặng chờ người tri kỷ
    Gặp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ
    (*)

    Thế rồi…
    Sông Cửu Long tấp nập thuyền bè
    Biển Hồ hai chữ cặp kè bên nhau
    Trai Việt Nam nổi tiếng anh hào
    Anh đà đối đặng vậy là đào em trao đây…
    (*)

    * Phương tiện di chuyển:

    1.- Sài Gòn đi Mỹ Tho – Cái Bè – Vĩnh Long – Sa Đéc – rẽ qua Cù Lao Giêng – Châu Đốc – Long Xuyên – Lai Vung – Cần Thơ – Trà Ôn – Sóc Trăng.
    a)- Tân An đi Gò Công - Gò Bắc Chiên – Hưng Nguyên – Soài Riêng.

    b). Mỹ Tho đi Cái Bè – Vĩnh Long – Sa Đéc.

    2.- Sài Gòn đi Cái Quanh – Sóc Trăng (Bãi Xàu) – Bạc Liêu.
    a. Chi nhánh khác: từ Mỹ Tho đi Chợ Lách – Bến Tre – Trà Vinh.
    b. Mỹ Tho đi Chợ Lách – Mang Thít – Cái Nhum – Ba Kè – Trà Luộc – Trà Ôn - Cần Thơ – Đại Ngãi.

    3.- Phía Đông-Bắc: Từ Sài Gòn đi Thủ Dầu Một - Biên Hoà – Bà Rịa – Vũng Tàu – rẻ về hướng Bà Rịa đi Tây Ninh – Trảng Bàng – Bến Lức – Gò Công.

    4.- Đường sông tàu thủy đi (ra ngoại quốc hoặc vô) Hậu Giang:
    a. PhnomPenh (Campuchia) vô miền Hậu Giang - phải qua Ba Nam – Châu Đốc – Sóc Trăng – Đại Ngãi.
    b. Từ Sài Gòn đi PhnomPenh – Compong Luông – CompongXnăng – PuotXat – Xiemrep…

    5.- Sài Gòn đi Campuchia (và qua Lào): Bến Cảng Sài Gòn đi Bến Chùa – Mỹ Tho – Cái Bè – Vĩnh Long – Sa Đéc – Cái Tàu Thượng – Chợ Thủ - Tân Châu – Vĩnh Xương – Vĩnh Lợi – Ba Nam tới PhnomPenh, sau đó đi Lào, hoặc các nơi khác như Croche – Stung Treng…

    6.- Trên đường dài 32km dọc theo bờ sông Tiền Giang có khoảng 25 cây cầu. Chợ Long Xuyên lên chợ Thất Nốt khoảng 19km, mà có hơn 30 con rạch cây cầu. Và, tại Kiên Giang tiếp nối với sông Cái Lớn, nếu tính theo đường chim bay chỉ cách nhau 7km, mà có tới 241 cây cầu. Ôi chà… cầu ơi là cầu!
    * * *

    * Tại thành phố Sài Gòn đi theo quốc lộ I tới LONG AN: 47km (thị-xã Tân An). Long An là một cửa ngõ quan trọng, và là trạm khởi đầu nối Sài Gòn (Chợ Lớn); để đi về các tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long ở miền Tây Việt Nam. Toạ đô địa lý Long An: 10/o 08’30” đến 11/o 02’30” vĩ độ Bắc; 105o/ 0’ 30” đến 106/o 47’ 02” kinh độ Đông. Phía Nam Long An giáp tỉnh Tiền Giang. Phía Đông Long An giáp Sài Gòn. Phía Tây Long An giáp tỉnh Đồng Tháp. Phía Bắc Long An giáp tỉnh Tây Ninh và Svâyrieng (Campuchia) & vùng đất tiếp giáp với cửa sông Soài Rạp cũng trực thuộc với Cần Đước & Cần Giuộc.

    Tỉnh Long An có các Huyện: Vĩnh Hưng. Mộc Hoá. Tân Thanh. Thanh Hoá. Đức Hoà. Đức Huệ. Bến Lức. Châu Thành. Tân Trụ. Cần Đước. Cần Giuộc. Phần đất đai Tỉnh Long An bao gồm: Đồng Tháp Mười, Đức Huệ, Thanh Hoá, Tân Thanh, Vĩnh Hưng, Mộc Hoá và một vùng thuộc Thủ Thừa, Bến Lức. Long An còn phong phú chằng chịt kinh rạch sông ngòi từ hai con sông lớn:

    1./ Sông Vàm Cỏ Đông dài 200km bắc nguồn từ Campuchia, nước chảy qua Tỉnh Tây Ninh, Đức Huệ, Đức Hoà, Bến Lức, Tân Trụ, Cần Đước.
    2.- Sông Vàm Cỏ Tây dài 250km cũng bắc nguồn từ Campuchia, qua Vĩnh Hưng, Mộc Hoá, Tân Thạnh, Thanh Hoá, Thủ Thừa, Tân An, Tân Tru, Châu Thành, Cần Đước… Dưới sông thuyền ghe tấp nập bán mua:
    Đạo nào vui bằng đạo đi buôn.
    Xuống biển lên nguồn gạo chợ nước sông
    .

    Bước vào cửa ngõ địa đầu đi lục tỉnh, trước nhất là vô Long An, trên đường cái quan xe cộ vun vút qua lại. Xe lửa đi đây đi đó kéo nhiều toa xình xịch trên hai cây cầu bắc ngang sông Vũng Gù và Bến Lức. Dọc ven lộ có các nhà máy xay lúa, nhà máy ép mía rải rác từ ngõ nhà điền chủ, trung nông, tá điền… nhà nhà nép mình ẩn hiện dưới những tàng cây sum suê đầy bóng mát, chen lẫn ruộng vườn xanh um & bán buôn đổi chác có phần khác với chốn phồn hoa đô thị:

    Trước phường phố bày hàng bày hoá
    Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai
    Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bả
    Thuốc Đồng Môn thuốc hút phà hơi
    (*).

    Long An tuy là một Tỉnh (của phần đất địa đầu ở miền Nam), nhưng có giá trị cao không kém các nơi khác, vì những tinh hoa từ di tích Ốc Eo thời tiền sử đặc biệt hấp dẫn tại Gò Đồn, Gò Năm Tước. Gò Xoài có bộ chữ Phạn, tượng thần Siva, Vinu, Linga, Yoni. Ngôi đền Gò Xoài (thuộc Huyện Đức Hoà, Long An). Bình Tả là nơi hành lễ của người Phù Nam Chân Lạp thời cổ đại theo đạo Bà La Môn.

    Long An có ngôi nhà 120 tại Huyện Cần Đước (Long An) cổ kính rêu phong đã xây dựng trên 100 năm, nhà làm vách & cột chạm khắc hoa văn tinh xảo, độc đáo với muôn chim, hoa, lá, cỏ cây… ghi trên loại gỗ cẩm lai và gõ đỏ. Đồn Rạch Cốc có năm tầng; hai tầng nổi lên khỏi mặt đất, ba tầng chìm là các gian hầm có tường dày, có nắp hầm và những cổ pháo 105mm. Đồn xây năm 1903, đồn dài 300m, rộng 100m.

    * Lăng Nguyễn Huỳnh Đức (1748-1819) nằm về phía Tây Nam trên quốc lộ I và cách Thị xã Tân An 3,5km, là di tích lịch sử kiến trúc cổ nguyên vẹn cổng ngoài, cổng trong, lăng mộ cùng các cổ vật từ 200 năm còn lưu giữ.
    * Chùa Tôn Thạnh (Huyện Cần Giuộc) xây 1808 do hoà thượng Viên Ngô lập. Khuôn viên chùa có bia của thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu làm những bài thơ hay. Trong chùa có pho tượng cổ Bồ Tát địa tạng bằng đồng & Chùa Kim Cang (Huyện Thủ Thừa) có bảng kinh kim cang gỗ khắc chữ Hán. Chùa Linh Sơn (Rạch Núi) dựng 1926 còn pho tượng cổ Tiêu Điện bằng gỗ qúy.

    * Bên dòng sông Vàm Cỏ Tây có những đầm đầy hoa sen, những cánh rừng thoang thoảng mùi tràm thơm ơi là thơm, bông so đũa, bông điên điển, thanh long, dưa hấu. Nơi đây cũng là vựa lúa nổi mọc tự nhiên từ tháng Tư đến tháng 10; Cũng là nơi trồng: mía, thuốc lá, bông, đậu tương, chôm chôm, chùm ruột, măng cầu, vú sữa, nổi tiếng không khác gì các nơi: bưởi Phong Trà, xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít La Vung. Ta tận mắt thấy từng đàn sếu cổ trụi đầu đỏ, (sếu còn gọi tên là chim hạc, là loài chim thủy chung) cò, diệc, cồng cộc, vịt trời, ong bướm nhởn nhơ nô đùa bên muôn hoa tại thị-xã Tân An, Cao Lãnh.

    * Tỉnh Đồng Tháp gần biên giới Campuchia & Tây Nam miền Nam Việt Nam. Đông Đồng Tháp giáp Long An và Tiền Giang. Tây Đồng Tháp giáp An Giang và Cần Thơ. Nam Đồng Tháp giáp Vĩnh Long. Bắc Đồng Tháp giáp Campuchia kéo dài 50,9km ranh giới qua hai huyện Tân Hồng & Hồng Ngự. Đồng Tháp có các Huyện: Tân Hồng. Hồng Ngự. Thanh Bình. Tam Nông. Cao Lãnh. Tháp Mười. Thanh Bình. Lai Vung. Lấp Vò. Châu Thành. Huyết mạch giao thông chính của Đồng Tháp là thuỷ vận từ sông Tiền nối với biển Đông, lục tỉnh và đi Campuchia. Nhưng Đồng Tháp cũng thuận tiện về quốc lộ I - nối quốc lộ 30, chạy qua các tỉnh phía Bắc đến Hồng Ngự, tới Tân Hồng, đi Preyveng (Campuchia). Quốc lộ 80 chạy qua các huyện An Giang, Kiên Giang.
    Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
    Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em...
    ... về Bưng ăn cá, về Giồng ăn dưa".


    Khu Đồng Tháp Mười hoang vu, có lau sậy, trấp, bưng, bàu, đìa, đưng, năng, lác, súng, sen... Có Cồn Tiên (Lai Vung), bãi tắm An Hoà. Đặc biệt la chợ chiếu Định Yên không họp ban ngày lại họp vào ban đêm, mỗi người một cây đèn, và bán chiếu con cò, chiếu hoa văn, chiếu trắng, chiếu cưới & những vật liệu để dệt chiếu như: bột màu, dây bố, v.v…

    Đồng Tháp có tháp Cổ Tự, mộ cụ Đốc Bình Kiều chống Pháp, miếu Bà Chúa Xứ. Chùa Hương. Chùa Kiến An Cung do nhóm người Hoa (Phúc Kiến) định cư tại Sa Đéc xây kiểu chữ Công 1924. Đền thờ thượng tướng Trần Ngọc (Đốc Binh Vàng) dưới triều vua Minh Mạng Ngày 16 tháng 2 âm lịch năm 1837, ông cùng quân lính đem lương thực đến An Giang, giữa chừng ông được tin dữ: “thành An Giang thất thủ”. Ông ra lệnh phá hủy đoàn thuyền, giải tán binh sĩ. Rồi ông bình tĩnh rút gươm tự sát. Triều đình quần thần và dân chúng vô cùng xúc động, cảm kích, vua ban tặng ông chức Thượng-tướng quận công. Dân chúng thương tiếc ông đã lập đền thờ và đặt tên rạch là ông Đốc Binh Vàng.

    * TIỀN GIANG địa thế trải rộng và nằm dọc theo bờ biển sông Tiền, sông tiền là sông già chảy quanh, lòng sâu; sông có chiều dài 120km, là cửa ngõ giao thương quốc tế và giao lưu kinh tế từ hai cửa: sông Tiền và Soài Rạp. Các sông chính của Mỹ Tho: Sông Tiền. Gò Công. Bảo Định, và rất nhiều kinh đào. Tiền Giang có hai mùa rõ rệt: mùa khô thường bị ảnh hưởng mặn, và mùa mưa bị phèn, ngập lũ ở các huyện phía Tây; nên việc thoát nước khó khăn. Hè, Thu thì nước trong đồng, các kinh rạch đều mang tính chất vùng tiếp giáp nước lợ bị chua.

    Toạ độ địa lý 10/o 12’ – 10/o 32’ vĩ độ bắc – 105/o 19’ – 106/o 48’ kinh độ đông. Phía đông giáp biển Đông nên chịu ảnh hưởng bán nhật triều. Tây giáp tỉnh Đồng Tháp. Phía nam giáp tỉnh Bến Tre. Phía Bắc giáp Tỉnh Long An. Tỉnh Tiền Giang có các huyện: Tân Phước. Châu Thành. Cai Lậy. Chợ Gạo. Cái Bè. Gò Công Tây. Gò Công Đông. Từ Tiền Giang thuận tiện nhiều mặt: quốc lộ 4 là đường bộ giao thông chính tới các nơi nối liền Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây, ra miền Trung, Cao Nguyên Trung-phần, cùng đường thủy đi PhnomPenh, v.v… Tiền Giang đất đai phì nhiêu, màu mỡ, là vựa lúa dồi dào, giàu hải sản: cá, tôm, sò, ốc... Vựa trái cây dồi dào nhất là: vú sữa Vinh Kim - mận hồng đào Trung Lương - ổi xá lị Cái Bè – xoài cát - cam sành, kể cả khóm, mía, dừa, v.v…

    Tiền Giang có nhiều danh lam thắng cảnh hữu tình, và là nơi mang đậm nét di tích lịch sử như: Tại thị xã Gò Công, xã Phú Đông có xây Lũy Pháo Đài năm 1862 chân móng lũy là đá hàn, đã đục lũng và nhận chìm xuống nước, nên mùa mưa úng ngập, không sợ sóng nước tràn cuốn đi. Lũy Pháo Đài cao 8mét, rộng từ 3mét,50 đến 4mét,50, thành xây hình lục lăng bằng đá ong, đá xanh kiên cố. Bốn mặt thành xây hình lục lăng, có rào chắn, vọng gác, cửa cổng. Trong đồn có lầu chỉ huy, giếng nước, kho vũ khí, dãy nhà ăn, ngủ… dành cho binh lính. Lũy thành rất đặc biệt từ: mặt bắc là sông Cửa Tiểu, bờ gắn liền với thành ngoài, trên thành có súng thần công, rặng cây, đập đá phòng ngự. Mặt nam là dãy trại và lũy chà-là, đất cát và sình lầy. Mặt đông nhìn ra biển cả bao la và rặng cây chằn chịt che khuất, bãi cát bồi, nên tàu bè không thể neo bến. Mặt tây là Rạch Đồn rừng rậm rạp, sình lầy ứ đọng quanh năm. Tại lũy Pháo Đài năm 1862 - 1863 là nơi Trương Công Định chiến thắng quân Pháp vẻ vang từ các trận Trại Cá, Cửa Khậu…

    * Ông Trương Công Định sinh năm 1820 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tướng mạo ông khôi ngô, tuấn tú lại tinh thông võ nghệ, am tường binh thư. Ông được triều đình phong chức Quản Cơ, ông khai hoang lập ấp (bây giờ là Gò Công). Khi Pháp xâm lược nước ta, ông Trương Công Định chỉ huy quân dân đứng lên chống giặc oai hùng và dũng cảm, khiến Pháp nhiều phen điêu đứng. Nhưng do phản tặc Huỳnh Công Tấn theo giặc mật báo điềm chỉ, nên quân ta bị thua, ông đã oanh liệt tử tiết ngày 20.8.1864. Mộ táng của ông kiến trúc hồ ô, đước, đá ong, có ý tiêu biểu phong tục táp quán của người miền Tây Nam Bộ.

    * Ông Thủ Khoa Huân là con của một gia đình giàu có (tên thật ông là Nguyễn Hữu Huân) sinh năm 1930 xã Mỹ Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, dưới triều vua Tự Đức ông học rất giỏi, năm 1852 ông đậu thủ khoa (thế nên ông có biệt danh là “Thủ Khoa Huân”). Ông được triều đình cử làm Đốc Học tỉnh Định Tường (Tiền Giang). Biết thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông cỡi áo từ quan, ông là một thi sĩ, một người trí thức yêu nước thương dân. Mười lăm năm ấy dù ông liên lạc với sĩ phu yêu nước, chiêu mộ binh lính khắp nơi, rồi anh dũng đánh đuổi giặc. Sau lần nghinh chiến với Pháp, ông đã bị bắt, bị chém đầu. Mộ ông Phó Đề Đốc đơn sơ, là phiến đá xanh ở mái bia, thân bia, chân bia, ghép lại ở xã Tịnh Hào, huyện Chợ Gạo.

    Ngoài ra tỉnh Tiền Giang còn các di tích: Mỹ Tho Đại Phố cổ xây từ 1679, do người Minh (Tàu) và người Việt thành lập. Mỹ Tho Đại Phố cũng ngang hàng với Hà Tiên, Cù Lao Phố (Biên Hoà), đó là những trung tâm thương mại có tầm cỡ. Đối diện với thành phố Mỹ Tho và nằm lênh đênh giữa khúc sông Tiền mênh mông, là cù lao Thái Sơn, là những vườn cây có nhiều loại trái ngọt xanh tươi mơn mỡn trĩu nặng trên cành.

    Đèn Cầu Tàu ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    (*)
    Đây là phía Chợ Gạo Mỹ Tho ăn qua Gò Công, rạch Sa Đéc (sông Tiền) thủy triều lên xuống, nước lớn nước ròng ghe nhỏ thuyền to tấp nập từ các rạch Nha Mân, Sa Đéc, rạch Lai Vung, Lấp Vò, Cái Tàu Hạ, Long Hậu… nối qua sông Hậu đến tận Cà Mau, kinh Thoại Hà (núi Sập) nối qua sát chân núi Ba Thê. Núi Sam đền thờ Châu Đốc do ông Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) lập 29-11-1852.

    Cũng trên mặt sông thênh thang từ Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long và Tiền Giang mỗi ngày, mỗi đêm đều tấp nập cư dân các nơi và thương lái nhộn nhịp kẻ đi lên bờ, người đi xuống thuyền mua, bán, hoặc cất hàng. Họ trao đổi mua bán như mắc cửi trên ghe thuyền lớn nhỏ, tạo thành một chợ nổi Cái Bè khổng lồ, thuyền ghe náo nhiệt luôn luôn tấp nập bềnh bồng, lênh đênh, nhấp nhô di động, lênh đênh nhốn nháo ồn ào náo nhiệt vui kinh khủng. Đây là một chợ nổi đông đúc tuyệt vời với những sáng kiến độc đáo nhất, dân dã chèo ghe chống xuồng đi mua nầy mua nọ, thương lái bày những mặt hàng quảng cáo cần thiết treo lủng lẳng ở đầu cây sào tre cắm trên thuyền. Nào là: Gà, vịt, heo, cá, tôm, cua, ếch, rắn, chim, gạo, muối, nước mắm, có cả các “tiệm” cà phê, bún, cháo, phở, kể cả quán nhậu “cờ tây” mới thú vị chứ. Phía bên phải khu chợ nổi là cù lao Tân Phong.

    Ôi vui sao là vui, đầy thi vị, thơ mộng và hữu tình biết bao. Trên bờ hoa quả trĩu cành thơm ngon, cô thôn nữ mặc quần lãnh Tân Châu, áo bà ba nõn màu lá mạ ôm sát thân hình thon gọn, cô bẽn lẽn dấu nụ cười khúc khích trong chiếc khăn rằn; Dưới sông nước mát lững lờ trôi, gió chiều lả lướt ru tình theo cành trúc lả ngọn quệt lui quệt tới trên mặt nước. Anh thương khách đa tình tủm tỉm cười lom lom nhìn cô gái, tránh gì khỏi tằng hắng lấy giọng với câu hò, câu hát buông lơi, “ghẹo em”… nghe huê tình chất phác, đơn sơ, mặn-mà. Ui chao! sao mà thân thiết gợi cảm dễ thương đến thế không biết:
    Chiều chiều ra đứng bờ kinh
    Gặp người goá bụa tui rinh vô nhà.
    Anh về để áo lại đây
    Khuya nay em đắp, gió tây lạnh lùng
    Gió lạnh lùng lấy mùng mà đắp
    Trả áo anh về đi học kẻo trưa.
    (cd)

    Tiền Giang còn lưu lại di tích lịch sử Rạch Gầm Xoài Mút: ngày 20 tháng Giêng năm 1785, vua Quang Trung đã lẫy lừng chiến thắng ba vạn quân Xiêm, chỗ có nền văn hoá Óc Eo và lễ hội: Điển hình là tại Gò Thành (thuộc huyện Chợ Gạo, xã Tân Thuận) đã tìm thấy di tích quan trọng của nền văn hoá Phù Nam, & các vật qúy: vàng, đồng, đồ gốm, những pho tượng: Negasa, Nam Thần, Vinus. Tiền Giang có những chùa: Hội Thọ ấp Mỹ Hưng, huyện Cái Bè. Chùa Linh Thứu xây vào khoảng 1811 gần chợ Xoài Hột. Chùa Thanh Trước dựng năm 1826 tại Gò Tre, xã Long Thuận (Gò Công). Ngôi chùa to lớn nhất của tỉnh Tiền Giang do ông bà Bùi Công Đạt xây những bộ cột, những hàng đá hoa cương, nhiều bức hoành phi chạm trổ tinh vi tại xã Mỹ Phong (Mỹ Tho) là chùa Vĩnh Tràng, trong chính điện có 60 pho tượng gỗ quý, và tượng La Bát Hán tạc năm 1907.
    [B]***

    Tình Hoài Hương

    Một ít tham khảo chính tại:
    (*) ca dao.
    (1), “Histoire modern du pays d’ Annam” (1592-1820) Paris 1919 – từ: Charles Maybon.
    (2), “Guide historique de rues de Saigon” – từ: André Baudrit.
    (3), “Scène de la vie Annamite”. Paris 1884 - từ: Henri le Verdier & H. Maubryan.

    ***
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  6. #24
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Miền HẬU GIANG Chập Chùng Sông Nước






    Miền HẬU GIANG Chập Chùng Sông Nước

    * VĨNH LONG:


    Vĩnh Long an ngự từ phía đông nam tỉnh Vĩnh Long giáp Trà Vinh. Phía tây nam tỉnh Vĩnh Long giáp Cần Thơ. Phía Tây bắc tỉnh Vĩnh Long giáp Đồng Tháp. Phía đông bắc tỉnh Vĩnh Long giáp hai tỉnh Bến Tre và Tiền Giang.

    Tỉnh Vĩnh Long có ba dân tộc chính: Người Việt chiếm 97% dân số trong tỉnh; Tàu chiếm 1%. Tuy người Khmer chiếm 2% dân số, nhưng họ ghi dấu những nghi lễ uy nghi đặc sắc, long trọng: Tết Chol Chnam Thmay 15/4 dương lịch. Lễ Đôn Tạ (cúng ông bà từ 29/8 đến 1/9 âm lịch). Lễ dâng bông, dâng phước. Lễ Ok Om Bok 15/10 âm lịch = (lễ cúng trăng & đua ghe). Dường như những ngôi chùa, đền, miếu, am… đã xây dựng ở miền Tây Nam Bộ thì nhiều vô số, không thể nào kể cho xiết.

    Vĩnh Long có hai mùa: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình 27o/C. Vĩnh Long có các huyện: Mang Thít. Long Hồ. Tam Bình. Trà Ôn. Bình Minh. Vĩnh Long được khai phá và chính thức thành lập năm 1832 (sau khi chúa Nguyễn dựng dinh Long Hồ năm 1732). Vĩnh Long có quốc lộ 1, và quốc lộ 53 êm đềm duỗi mình trên đồng bằng cây trái phì nhiêu, nơi đây được bồi đắp phù sa màu mỡ, dồi dào, trù phú giữa hai dòng sông Tiền Giang, Hậu Giang và chằn chịt sông rạch, nhất là những khu vườn cây trái sum suê, không khí trong lành mát mẻ, cảnh vật hài hoà nhịp nhàng với muôn chim.

    CHÙA :

    * Lúc đầu chùa Kỳ Sơn chỉ làm bằng tre lá thô sơ tại khu rừng hoang vu và nhiều đầm lầy. Sau đó chùa xây tại ấp Kỳ Sơn 1812, mái hình chóp năm tầng so le, ba mái xuôi một mái ngang, chung quanh là tượng nữ thần Kâyno đứng nâng tháp, kèm với nhiều đầu rắn hình rễ quạt che Phật ngồi thiền, tất cả cột ngoài tạc chim Mahaknốt, & những cánh dơi Kâyno đỡ mái. Nói chung chùa làm phỏng theo kiểu chùa Khmer.

    Nào là: chùa Phước Hậu tại ấp Đông Phú, xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình đã xây từ thế kỷ 18, sau đó do thiền sư Hoàng Chỉnh đã trùng tu khang trang hơn vào năm 1895 – 1910.
    * Chùa Tiên Châu (còn có tên là: Tô Châu, và tên Di Đà) ở bên kia sông Cổ Chiên (cù lao An Bình và xã An Bình) lập vào khoảng thề kỷ 19.
    * Chùa Pháp Hải mới xây 1962. Chùa Saghamangala (Hạnh Phúc Tăng, còn gọi là chùa Vũng Liêm) xây 1339 của Khmer Nam Bộ, năm 1964 thì xây chính điện. Cửa tam quan xây 1974 đã đắp nổi hai tượng Krud đỡ mái tam quan tuyệt đẹp.
    * Tịnh xá Ngọc Viên xây 1948 tại Xóm Chài của hệ phái Phật Giáo Khất Sĩ đầu tiên khai mở, do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập.

    * Cù lao An Bình
    đối diện với thị xã Vĩnh Long thoáng mát, nhiều vườn cây trái như: sầu riêng, nhãn, xoài, sapoche, chôm chôm, măng cụt, v.v… Cũng như vườn bonsai ông Sáu Giáo ở Bình Thuận (Vĩnh Long) trồng vô số loài hoa mai chiếu thủy lài, mai vàng tứ quý, cây cảnh đủ loại… và ông Mười Đẩy trồng la liệt trái cây.

    * BẾN TRE:

    Do địa mạo bằng phẳng, thỉnh thoảng có những giồng cát đặc trưng xen kẻ, lắng đọng phù sa, rừng chồi, trầm tích của các lòng sông cổ lẫn lộn nhiều xác hữu cơ, bốn bề kinh rạch chằn chịt sông nước mênh mông, bao bọc theo dòng chảy hai chiều của sông rạch, tàu bè xuôi ngược đó đây đều phải đi qua Bến Tre, và có phù sa của các sông: Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai và sông Tiền hợp lưu Bến Tre ung dung nằm ở cuối nguồn đồng bằng sông Cửu Long, được thành hình từ ba cù lao chắp lại với nhau: cù lao Bảo, cù lao Minh, cù lao An Hoá. Bến Tre được ví như hình cái quạt, các nan quạt là những nhánh sông lớn xoè ra ở phía đông, đầu ngọn thì nằm ở thượng nguồn.

    Phía đông tỉnh Bến Tre giáp biển. Phía Tây tỉnh Bến Tre giáp ranh giới chung là sông Cổ Chiên thuộc Vĩnh Long. Phía Nam tỉnh Bến Tre giáp Trà Vinh. Phía bắc tỉnh Bến Tre giáp Tiền Giang. Cực đông nằm trên kinh độ 106/o 48’ Đông. Cực tây tỉnh Bến Tre nằm trên kinh độ 105/o 57’ Đông. Cực Nam của tỉnh Bến Tre nằm trên vĩ độ 9o/48’ Bắc. Tỉnh Bến Tre có các huyện: Châu Thành. Bình Đại. Ba Tri. Chợ Lách. Giồng Trôm. Mỏ Cày. Thạnh Phú.

    Đường thủy tỉnh Bến Tre rất thuận lợi như thế, đường bộ cũng khá 1861 tiện trên quốc lộ 60 nối từ thị xã Bến Tre đến phà Rạch Miễu. Tỉnh lộ 882 đi Mõ Cày và Hàm Luông. Quốc lộ 60 nối tỉnh lộ 883 với thị trấn Bình Đại. Tỉnh lộ 884 từ ngã ba Hàm Long đi Tân Thành. Tỉnh lộ 885 nối thị xã Bến Tre với Ba Tri qua Giồng Trôm. Tỉnh lộ 888 cù lao Minh nối huyện Thanh Phú đi Mỏ Cày.

    * Bến Tre có các thắng cảnh, trước tiên là CHÙA:
    Chùa Tuyền Linh lập năm 1861 tại ấp Tân Quới Đông, huyện Mỏ Cày, ở khu vườn chùa có tháp tổ, trong chùa có tượng hộ pháp bằng đồng cao 0,70. - Từ thế kỷ 18, tại ấp 8 xã Quới Sơn (Châu Thành) có chùa Hội Tôn nơi đây có tượng đồng Thập Điện Minh Vương cao 0,70m. – Chùa Viên Minh tại 156 Nguyễn Đình Chiểu, tước khuôn viên chùa có tượng Bồ Tát Quan Thế Âm.

    * Lễ Hội:

    Hằng năm đến ngày 1 tháng 7 đa số đồng bào kéo đến mộ phần thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu tại xã An Đức, huyện Ba Tri, để cúng giỗ và tưởng niệm. Cũng tại huyện Ba Tri, xã Bảo Thạnh có mộ phần danh nhân Võ Trường Toản, ông có kiến thức uyên bác. Nằm gần ông là mộ phần của Phan Thanh Giản. - Mỗi năm vào ngày 18, 19 tháng Ba âm lịch, có lễ Kỳ Yên cầu mưa thuận gió hoà & lễ Cầu Bông tổ chức ngày 9, 10 tháng 11 âm lịch: rước sắc thần tế Hoàng thành, nông dân cầu xin gặt hái mùa màng tốt đẹp.

    Tại đình Phú Lễ, ấp Phú Khương, huyện Ba Tri thờ thành hoàng Bổn Cảnh. Ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các nơi đình, miếu… thuộc huyện Ba Tri, huyện Đại Bình, các tay ngư phủ đều đem tàu thuyền đến neo bến, khai hội tế thần Cá Ông, cúng bái và cùng nhau hàn huyên vui vẻ, ăn uống linh đình. Nhân tiện nói về “ăn, uống”, thì… có “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc (huyện Giồng Trôm).

    Rượu Phú Lễ (Ba Tri) xuất hiện từ 1851 nghề làm rượu đa dạng, rất quy mô, và không những quá cầu kỳ với: nếp thượng hạng, 36 vị thuốc xay nhuyễn, hoà với cám và bột gạo lứt, vo thành viên, phơi nắng thật khô thành hồ men, bỏ vô tỉnh, (vại, hủ) ủ kín sau bảy ngày đêm mới chiếc ra nấu canh lửa, khi xong lại hạ thổ chôn bách nhật (100 ngày). Thật công phu. Kèm theo kẹo dừa Bến Tre là một đặc sản thơm ngon, béo ngậy ít có nơi nào bằng:

    Bến Tre nước ngọt sông dài
    Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh
    Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo
    Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan


    CỒN

    Cồn cách Bến Tre chừng 10km thuộc xã Hưng Phong, huyện Giồng Trôm có Cồn Ốc rộng 1km, dài 8,3km đã trồng nhiều cây trái trĩu cành ngon ngọt.
    * Cồn Phụng cạnh phà Rạch Miễu (quốc lộ 60 Mỹ Tho – Bến Tre) có cù lao nổi giữa sông Tiền, có di tích đẹp: sân rồng, tháp, địa đạo ông Đạo Dừa, làng thủ công mỹ nghệ gia dụng, họ làm ra những sản phẩm từ cây dừa, và nuôi ong lấy mật.
    * Cồn Tiên thuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, ngang tầm với làng Cái Mơn có Cồn Tiên rộng 7/ha là một bãi cát tuyệt đẹp, nơi có thể vui chơi và tắm thoải mái .

    * Giữa hai xã Quới Sơn & Tân Thạch là:
    Cồn Qui (trên sông Tiền Giang) rộng 65/ha cũng trồng nhiều loại cây ăn quả rất ngon. Cái Mơn thuộc xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành là quê hương của Trương Vĩnh Ký, nơi nổi tiếng nhất với nghệ nhân chuyên chiếc cành các loại cây giống, cây cảnh, bonsai uốn thành hình rồng, phượng, nai, hưu… rất nghệ thuật có giá trị. Đây cũng là nơi có nhiều trái cây đủ các loại cây ăn trái của miền Nam.

    Bến Tre nước ngọt lắm dừa.
    Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm
    Sầu riêng măng cụt Cái Mơn
    Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày
    Xoài chua cam ngọt Cam Lai
    Bắp thì Chợ Giữa giồng khoai Mỹ Hoà
    Mắm bằm ven bãi phù sa
    Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm.


    * Vàm Hồ
    ở hai xã Tân Xuân + Mỹ Hoà (huyện Ba Tri) cách xa Bến Tre 52km, nơi đây là khu rừng chà là có gai, đước đôi, bụp tra, ô rô, so đũa, dừa nước, cùng những cây ăn trái như phong phú: đậu ván, ổi, mãng cầu xiêm, v.v… Nơi đây là “chung cư” của những loài chim: cồng cộc, le le, vạc… và loại cò thì nhiều vô số: cò trắng, cò ngà, cò ruồi, quắm trắng, vòng vọc, diệc xám, các loại chim khác… không thể nào kể xiết.

    Mỗi khi bình minh lên hoặc chiều về, thì trong rừng bừng lên sức sống mãnh liệt, đủ các loài chim nườm nượp rộn ràng từng đàn, từng đàn chim rìu rịt bay ngợp trời, trên không trên cạy, dưới đất vang inh ỏi những hợp ca trường cửu, mang đầy giọng điệu véo von trầm bổng, dìu dặt, líu lo. Tuyệt vời khôn tả. Đúng là nơi “đất lành chim đậu”.

    * AN GIANG có một vùng Thất Sơn (Bảy Núi) hùng vĩ ở các huyện: Tri Tôn. Tịnh Biên. An Giang nằm về hướng Đông và Đông Bắc An Giang giáp Đồng Tháp. Hướng Tây An Giang giáp Campuchia. Hướng Tây và Tây Nam An Giang giáp Kiên Giang. Hướng Đông Nam An Giang giáp Cần Thơ. Cực đông: Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới. Cực tây: xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn. Cực Nam xã Thoại Giang, huyên Thoại Sơn. Cực bắc: xã Khánh An, huyện An Phú. * Tọa độ địa lý 104/o 46’ đến 105/o 12’ kinh độ đông; 10/o 54’ đến 10/31’ vĩ độ bắc.

    An Giang là một tỉnh đầu nguồn rất đặc biệt sông nước bao la bắt nguồn từ Tây Tạng, nhờ có dòng sông Mê Kông chảy vô An Giang, sông tách ra hai nhánh sông Tiền, và một phần sông Hậu Giang, dòng sông được thiên nhiên dao động mực nước điều hoà, phù sa bồi đắp “mùa nước nổi”, đồng thời đổ ra chín cửa biển, thế nên đã mang tên Cửu Long.

    Muốn đi đường bộ: Sài Gon > Long Xuyên > qua Long An, đi cầu Mỹ Thuận, Sa Đéc Bắc Vàm Cống, Long Xuyên.

    Đường thứ hai: qua cầu Mỹ Thuận, đi Thốt Nốt, Ô Môn, bắc Hậu Giang, đi Vĩnh Long. Long Xuyên. Liên tỉnh lộ 91 và tỉnh lộ 943 có thể các nơi: Nhà Bàng, núi Sam, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ & Núi Sập, Tri Tôn.

    * Tịnh Biên > thì đi tỉnh lộ 948, đi về hướng Bắc, sẽ có liên tỉnh lộ 91 nối với Nhà Bàng, hoặc tại An Châu có tỉnh lộ 941 nối tới Tri Tôn. Tỉnh lộ 841 tại Chợ Mới đi Phú Tân, Cái Tàu Thượng, Sa Đéc.

    * Hoặc Chợ Mới nối tỉnh lộ 942 đi Chợ Vàm, Tân Châu thấy tỉnh lộ 953 đi Châu Đốc.

    Tóm lại, tỉnh An Giang rất thuận tiện về các mặt đường bộ, cũng như An Giang chằn chịt sông ngòi, kinh, rạch… nên sự giao thông thuận tiện nhất vẫn là di chuyển trên đường thủy.

    An Giang có hai mùa: Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
    An Giang có chín huyện:
    Tỉnh An Giang: thị xã Long Xuyên & Châu Đốc). An Phú (thị trấn cùng tên). Tân Châu (thị trấn cùng tên). Phú Tân (thị trấn Phú Mỹ & Chợ Vàm). Tịnh Biên (thị trấn Nhà Bàng & Chi Lăng). Tri Tôn (thị trấn cùng tên). Chợ Mới (thị trấn cùng tên). Châu Thành (thị trấn An Châu). Thoại Sơn (thị trấn Núi Sập).

    An Giang phong phú giống như vựa lúa gạo các nơi khác ở miền Tây: Thổ sản là các loại dưa, đậu xanh, đậu đen, đậu nành, đậu phụng…; Ngoài ra, các loại trái cây thì trồng nhiều vô số, cả mù u, tràm, giáng hương… Không những thế, nơi đây từ giữa thế kỷ 19 đến nay thường có hội hè đình đám tấp nập, tại thị xã Châu Đốc thường có lễ hội vía Bà Chúa Xứ Châu Đốc. Miếu của bà đầu tiên làm vách bằng cây, tre, nóc lợp lá. Sau 1962 miếu bà kiến trúc theo chữ quốc, xây bằng đá, lợp ngói âm dương màu xanh, bốn mái hình vuông.

    Trong miếu có bức tượng bằng đá màu xanh tạc hình bà Chúa Xứ, phỏng theo tượng thần Vitnu giống các nước Campuchia, Ấn Đô, Lào. Trước khi cử hành nghi lễ tắm tượng bà chúa Xứ, người ta cúng bái, hát bội, múa bóng rất vui. Sau đó ban hành lễ cỡi áo bà và tắm bà bằng nước mưa có rắt đầy hoa thơm trong bồn. Hằng năm lễ hội vía bà Chúa Xứ cử hành rất long trọng; bắt đầu từ đêm 23 đến 27 tháng Tư âm lịch tại Núi Sam, (đường thủy hoặc đường bộ tại Sài Gòn đi Cần Thơ đến Sóc Trăng, lên Châu Đốc. Hoặc đi đường bộ tại Sài Gòn đi tỉnh lộ 10 ở Long Xuyên đến Châu Đốc).

    Lễ Hội & Cúng Giỗ


    * Ngày 18 – 19 tháng 10 âm lịch: lễ giỗ ông Nguyễn Trung Trực, tại Xã Long Kiên, huyện Chợ Mới (An Giang). Ông là người rất nổi tiếng đã đánh chìm một tàu chiến trên sông Nhật Tảo của thực dân Pháp (thế kỷ 19).

    * Ngày 12, 13, 14, & 15 tháng Tư âm lịch, là lễ Chol Chnam Thmay lớn nhất của người Khmewr định cư tại miền Tây Nam Bộ, họ tiễn thần Teveda cũ, tiễn ngày nắng hạn. Nhân đó mời thần Teveda mới, đón chào ngày mưa làm mùa (lễ nầy tương tự như ngày Tết Nguyên Đán Việt Nam).

    Ngoài việc cúng giỗ linh đình, họ đốt pháo, mở tiệc ăn mừng, chúc mừng nhau, đánh quay lửa, thả diều, hát Dù Kê, múa Roam Vông. Cũng giống như ngày Thanh Minh của người Việt, lễ của người Khmer cúng ông bà tương tự như thế vào ngày 1 đến 15, họ cúng hoa quả, bánh tét, cơm, thức ăn tại chùa, và ăn mừng tại gia. Ngoài ra còn có lễ hội “Đua Bò” của Khme. Lễ Hát Gi Haji (còn gọi là Roya Haidj của người Chăm theo đạo Hồi).

    Thành cổ Ốc Eo là một thương cảng thời trung cổ, bị chìm dưới đất tại huyện Thoại Sơn, Ba Thê, vùng núi Sập. Chùa Xã Tón tại thị trấn Tri Tôn trên các đỉnh tháp chạm tượng thần sáng tạo Bayon, hai mái ngói đỏ vàng xanh hình tam cấp cong, góc nhọn chùa là thần rắn Naga, theo người Khmer rắn Naga tượng trưng cho sự hùng dũng và bất diệt. Quanh chính điện đựng tro cốt.

    Chùa thường tổ chức những buổi lễ quan trọng chính:
    * Choy Chnam Thmay từ ngày 12 đến 15 tháng Tư âm lịch.
    * Lễ Chol Ca Sa: Suốt ba tháng từ 15 tháng 6 đến 15 tháng Chín = cấm sư, sãi ra khỏi chùa.
    * Lễ dâng y: Sắm quần áo, nhiều vật dụng cho chùa, trường học, sư sãi.
    Ngoài ra còn các ngày lễ nhỏ linh tinh khác. Một khu vực rộng lớn thuộc huyện Phú Tân, thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang có nhiều nhà thờ Hồi Giáo Maburat của chừng 12.000 người Chăm theo đạo Hồi (những người Chăm ở An Giang; không phải là dân tộc Chăm ở Thuận Hải). Trong năm có những ngày lễ:
    - Sinh nhật Mahamet (giáo chủ sáng lập).
    - Lễ Haji ngày 3/7 dương lịch (Hồi lịch: ngày 10/2).
    - Ra chay: ngày 27/4 dương lịch (Hồi lịch: tháng 9).

    * Núi Cấm: Trong dãy núi hùng vĩ “Thất-Sơn” cách thị xã Châu Đốc 30km, có Núi Cấm cao 710m, trên đường đi lên Núi Cấm (tên là “Núi Cấm”, nhưng thật ra lên núi có độ dốc lài, ai ai cũng đi lại thoải mái dễ dàng). Trên núi mát mẻ, có dựng chùa và tượng Phật to lớn, có động Thủy Liêm, hang Vồ Bồ Hông, suối Thanh Lang. Trên núi Cấm nhìn xuống chung quanh chân núi thì cảnh An Giang rất đẹp.

    Núi Sam: Trên đường liên tỉnh 10 về hướng tây thị xã Châu Đốc và thị xã Long Xuyên (quảng đường xa độ 60km, là đến Núi Sam. Núi Bảy và núi Sam là vùng núi án ngữ biên giới giữa Campuchia và lãnh địa Việt Nam tốt, nơi phòng thủ và an toàn bảo vệ tuyệt vời. Núi thấp có nhiều đường mòn lên, xuống. Núi nằm giữa cánh đồng bao la cao 284m, rải rác nơi đây ở đỉnh núi có pháo đài do Pháp xây. Tại chân núi, sườn núi, đỉnh núi có rất nhiều chùa, đền, miếu, am, (tất cả khoảng 200).

    Du khách còn viếng lăng Thoại Ngọc Hầu (danh tướng Nguyễn văn Thoại 25/11/1761 – từ trần 6/6/1829) lăng kiến trúc độc đáo, tinh xảo, uy nghi, hài hoà bằng đá ong, có tấm bia đá sa thạch dựng năm 1828 ghi “Vĩnh Tế Sơn”. Mộ hai phu nhân nằm ở hai bên mộ của ông, và mộ phần của những người vô danh cùng ông khai hoang lập ấp.
    Ông Thoại Ngọc Hầu chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà, phát triển nông nghiệp, mở đường phía Tây Nam khai sơn từ Châu Đốc đi núi Sam, Lò Gò, Sóc Trăng và nhiều vùng khác. Thế nên cư dân vùng nầy thương quý kính trọng và biết ơn ông, họ tưởng nhớ và cúng giỗ ông vào ngày 6/6 âm lịch.

    Đứng ở hướng tây thị xã Châu Đốc nhìn về núi Sam cao độ 284m, tại đây có một ngôi chùa cổ tự Tây An, kiến trúc kiểu Ấn Độ theo phái Đại Thừa, do vị quan triều vua Minh Mạng là: thống đốc Nguyễn Nhật An xây dựng chắc chắn bằng cột đúc, gạch, xi măng, ngói. Trong sân chùa có cột phướn, hai bên chính điện là hai hành lang, dưới bậc thang có bạch tượng và hắc tượng, trên vai hai tượng là hai vị thần ngồi trên mặt trăng lưỡi liềm.

    Chùa có ba vọng cửa, hai cửa hai bên đề Tây An cồ tự, hai bên là lầu trống, lầu chiêng, cửa tam quan thờ Phật Quan Âm. Chùa có 11.270 pho tượng lớn, nhỏ bằng gỗ quý. Chính điện ở giữa là tượng Phật Thích Ca cao 18m.
    Các ngày rằm trong năm: tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười ... là những ngày chùa đón khách thập phương đến cúng dường lễ Phật rất đông.
    Đường từ Châu Đốc Hà Tiên
    Có kinh Vĩnh Tế nối liền hai nơi
    Đất Nam Vang lắm dốc nhiều đồi
    Đèn cao Châu Đốc mọi người đều nghe.


    Sở dĩ cư dân địa phương ưa gọi chùa Long Hương Tự là chùa Giồng Thành, vì năm 1875 chùa đã xây trên hào thành của nhà Nguyễn xưa kia. Nóc chùa có tháp hai tầng hình phễu, mái lợp ngói, chùa có ba gian xây theo dạng chữ “song-hỉ”, cột chánh điện vẽ rồng, nơi đây thờ Phật Thích Ca, Ngọc Hoàng, Nam Tào Bắc Đẩu. Chánh điện và hậu tổ có hai nhà cầu song song tiếp nối và nhà giảng thờ Phật Mẫu. Hậu tổ thờ các hoà thượng Trần Minh Lý, Chôn Nhơ, Nguyễn văn Điền. Cũng giống chùa Tây An, mọi tín hữu đi cúng giỗ, lễ Phật các ngày rằm trong năm: tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười

    Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú
    Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu
    Quản chi nắng sớm mưa chiều
    Lên doi xuống vịnh cũng chèo thăm em.
    (*)

    Hoặc:

    Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ
    Gió nào dữ bằng gió Đồng Nai
    Trai nào khôn bằng trai Cao Lãnh
    Gái nào bảnh bằng gái Ba Tri
    (*)

    Vì thế, khá nhiều vị anh hùng hào kiệt trai trẻ một thời miệt mài bôn ba tứ xứ, ngày nay họ đã dừng gót giang hồ:

    Nước mắm ngon dòm sâu đáy hũ
    Thả miếng đu đủ xuống tận đáy bình
    Mù u nhuộm thắm bông quỳnh
    Bao nhiêu gái đẹp không nhìn
    Dạ anh chỉ để thương mình em thôi.
    (*)

    Thương hồ miền Tây Nam Bộ khác biệt với doanh nhân tại đô thị Sài Gòn hào nhoáng và xa hoa. Nơi vùng quê trù phú đây tĩnh lặng an lành, bình yên với sông xanh êm đềm nước ngược nước xuôi, kinh, rạch chi chít bến nhỏ, bến bạ, bến đối… tấp nập thuyền ghe xuôi ngược. Đất đai màu mỡ phì nhiêu tươi tốt, đồng lúa bao la bát ngát, nhờ anh nông dân, và con trâu:

    Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông
    Vừa đến buổi cày bừa bua việc
    Trước cổ đà mang hai cái niệt
    Sau đuôi thêm kéo một cái cày
    Miệng đã vàm, mũi lại dòng dây
    Lưng mòng nút, dưới chân đỉa cắn
    Trâu đã mệt thở dài thở vắn
    Người không mêt mắng ngược mắng xuôi…
    (*)

    Ôi! Thật thương sao là thương... và biết ơn người nông dân cần cù, nhọc nhằn lam lũ vất vả khổ cực dãi dầu nắng mưa khuya sớm & con trâu đã nai lưng vác nặng cày bừa, để cho chúng ta tận hưởng những hạt gạo thơm, gạo lứt (riz cargo) no tròn, ngon ơi là ngon. Miền Nam Việt Nam đã vang danh một thời dồi dào phong phú có nhiều gạo ngon xuất cảng ra nước ngoài hậu hỉ. Người dân quê chất phát, thật thà đôn hậu, hiếu hoà, rộng rãi, hào phóng. Xóm giềng thân mật cô bác ông bà chia cơm xẻ áo chí tình, hiếu khách, tương trợ lẫn nhau như anh em họ hàng.

    Ngoài việc chăn nuôi dê, bò, heo, gà, vịt, ngỗng, ngan… thì ruộng vườn nhà nào nhà nấy đều sum suê trĩu trịt cây trái miền dưới (phía Nam) không thiếu thứ gì. Nào là: chuối lá xiêm, mãn cầu xiêm, vú sữa, chôm chôm, sầu riêng, dâu da, bòn bon, cam, quít, xoài, chanh, ổi xá lị, mận, chuối, mía, cau, dừa ... nhiều vô số kể chen cánh với rừng tràm, đót… Cánh đồng lúa bạt ngàn, ngun ngút, mênh mông như biển cả bao la. Sông ngòi kinh rạch chằn chịt tiếp nối, nơi sản xuất biết bao tôm, cá, sò, cua, ghẹ… e hề, thừa mứa:

    Kinh rạch, nhà cửa từ nhà nầy đi sang nhà kia rất xa, hầu như đa số mọi nhà đều có ghe, thuyền… làm phương tiện di chuyển, giao dịch mua bán. Ngày xưa và bây giờ họ liên lạc với nhau bằng cách nghe những thông báo từ các tiếng mõ. Ví dụ như:
    1./ Nghe mõ đánh thúc ba hồi, kèm ba dùi = gọi nhau đi họp.
    2./ Nghe mõ đánh thúc hai hồi, hai dùi = Trong khu xóm có chuyện chẳng lành, gây lộn đánh nhau chảy máu.
    3./ Nghe mõ đánh thúc một hồi, và một dùi = Hoả hoạn, trộm cướp.

    Ngoài những sinh hoạt bình an êm đềm với ruộng vườn, điền thổ, sông ngòi, biển cả… vì kế sinh nhai cơm áo gạo tiền ra, người dân miền Nam Việt Nam hiền hoà, hiếu khách, chân tình nhân hậu có những thú vui tao nhã, lành mạnh khác: đó là những câu hát điệu hò đơn sơ mà trữ tình, phong phú của khách thương hồ dưới thuyền trao lời huê tình với người trên bến:

    Trứng vịt đổ lộn trứng gà
    Thấy em má trắng anh đà muốn hun
    Muốn hun một cái mà chơi
    Mâm trầu hũ rượu kết đôi vợ chồng.


    Á à… thì ra “qua” đã ngẩn ngơ si tình cô thôn nữ nhu mì hiền hoà và xinh lịch mất rồi. Ai kia quyết định “bưng trầu hầu rượu” để rước nàng dìa dinh. Dù mai kia mốt nọ “qua” có tách bến mà lang bạt giang hồ, chắc hẳn “qua” cũng xôn xao nôn nao:

    Anh ngồi phần thủ trống treo
    Miệng kêu ghe ghé, chân trèo xuống thang
    Bước xuống thang quạt che tay ngoắt
    Chia rẻ vợ chồng ruột thắt dường bao!


    Người phụ nữ mặc quần lãnh đen tuyền, áo bà ba nõn trên dáng người thon thả với khăn rằn vắt vai, phụ nữ ấy mặn mà duyên dáng, đảm đang, cần mẫn ở nhà với đìa, ao, kinh, rạch, cùng đồng áng, vườn cây trái ngon ngọt trĩu cành, dù trải qua bão táp gian truân không kém với thời gian, em vẫn chung tình ngóng chờ đợi anh trên bến:


    Tiền tài như phấn thổ
    Nhơn nghĩa tợ thiên kim
    Trầm hương khó kiếm, anh tìm cũng ra
    Linh đinh vịt lội giang hà
    Nói ra tốt lớp, bạc đà trao tay
    Nhiều sương cỏ mới bạc đầu
    Thương anh, em chịu thảm sầu từ đây
    (*)
    *
    Tình Hoài Hương

    ***

    Mời độc giả xem tiếp:
    RẠCH GIÁ * KIÊN GIANG * HÀ TIÊN & CÀ MAU tại trang sau.
    Trân trọng
    ***

    Tình Hoài Hương

    *
    Một ít tham khảo chính tại:
    (*) Ca dao, tục ngữ.
    (1), “Histoire modern du pays d’ Annam” (1592-1820) Paris 1919 – từ: Charles Maybon.
    (2), “Guide historique de rues de Saigon” – từ: André Baudrit.
    (3), “Scène de la vie Annamite”. Paris 1884 - từ: Henri le Verdier & H. Maubryan.
    ***
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

Trang 4/4 đầuđầu ... 234

Similar Threads

  1. Trả lời: 22
    Bài mới nhất : 07-02-2013, 05:32 AM
  2. Huế -Đà Nẵng-Đà Lạt
    By diemtan in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-15-2011, 06:51 PM
  3. Đà Lạt Ơi ! niềm luyến lưu ngọt ngào
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 11-17-2011, 04:53 PM
  4. Băng Tâm, Tiếng Hát Ngọt Ngào Tình Tự Quê Hương
    By chimtroi in forum Chân Dung Nghệ Sĩ
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-14-2008, 09:18 PM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-04-2008, 06:58 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •