Hội Quán Phi Dũng vừa nhận được tập sách "Đôi Dòng Ghi Nhớ" của Niên Trưởng Phạm Bá Hoa, hồi ký chính trị 1963 - 1975 mà tác giả trong vai trò của một chứng nhân. Xin chân thành cám ơn Niên Trưởng Phạm Bá Hoa và trân trọng giới thiệu cùng quý NT và quý Bạn.




Đôi Dòng Ghi Nhớ

Hồi ký chính trị 1963 - 1975
Ấn bản lần 4, năm 2007
*****
Houston, Texas, U.S.A.
Phạm Bá Hoa



Tác giả giữ bản quyền. Mọi trích dịch hoặc chuyển ngữ cần được tác giả đồng ý bằng văn bản.
Ngày Nay xuất bản lần 1 tại Houston tháng 11 năm 1994.
Lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ dưới số TX 4-045-945.
Số ISBN: 0-9648940-1-7.
Lưu trữ trong tại Thư Viện Điện Tử, trong CD Giao Điểm 2.
Ngày Nay xuất bản lần 2 tại Houston tháng 11 năm 1995.
Lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ dưới số TX 4-052-093.
Số ISBN: 0-9648940-0-9.
Ngày Nay xuất bản lần 3 tại Houston tháng 12 năm 1998.
Số ISBN: 0-9648940-2-5.
Ngày Nay xuất bản lần 4 tại California tháng 7 năm 2007.
Lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ dưới số Txu 1-364-153.

*****
First printing, November 1994.
Library of Congress Registration No: TX 4-045-945. ISBN: 0-9468940-1-7.
Second printing, November 1995.
Library of Congress Registration No: TX 4-052-093. ISBN: 0-9648940-0-9.
Third printing, December 1998. ISBN: 0-9648940-2-5.
Fourth printing, July 2007.
Library of Congress Registration No: Txu 1-364-153.
Copyright (c) 1994,1995, 1998, 2007 and 2009, by Hoa Ba Pham. All rights reserved. No part of this publication may be translated into different languages, reproduced, stored in a retrieval system in any form or by any means, electronìcs, mechanical, photocopying, recording, or otherwise, without the prior written permission of the publisher.




Tác giả


Phạm Bá Hoa, sinh năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Nhập ngũ ngày 12 tháng 5 năm 1954 vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thuộc tài nguyên sĩ quan trừ bị khóa 5. Vì không đủ cơ sở, được gởi lên học Trường Võ Bị Liên Quân/Đà Lạt. Trở về Thủ Đức dự lễ tốt nghiệp khóa Vì Dân cuối tháng 1 năm 1955, với cấp bậc Thiếu Úy.
Lần lượt giữ các chức vụ:
Trung Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Đại Đội Trưởng/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân.
Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban 3 Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Trưởng Ban Hành Quân, rồi Phó Phòng 3/Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu.
Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Chánh Văn Phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng.
Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh (Cần Thơ).
Chánh Sở Kế Hoạch/Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu .
Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận.
Cục Trưởng Cục Mãi Dịch.
Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.

Thăng cấp:
Trung Úy, tháng 2 năm 1957.
Đại Úy, tháng 11 năm 1961.
Thiếu Tá, tháng 11 năm 1963.
Trung Tá, tháng 12 năm 1965.
Đại Tá, tháng 9 năm 1969.


*****

Nội Dung

Lời trần tình
Lời nói đầu
Một. Đảo Chánh ngày 01/11/1963
Hai. Đảo Chánh ngày 30/01/1964
Ba. Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964
Bốn. Đảo chánh ngày 19/02/1965
Năm. Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia từ ngày 19/06/1965
Sáu. Khủng Hoảng Chính Trị từ ngày 09/03/1966
Bảy. Vài Sự Kiện Quan Trọng
Tám. Những Tháng Cuối Cùng 01--->04/1975
Tỉnh Phước Long thất thủ
Tỉnh Darlac thất thủ
Rút bỏ Cao Nguyên
Chín. Những Ngày Cuối Cùng 21--->28/04/1974
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
Di tản
Tổng Thống Hương bàn giao cho Đại Tướng Minh
Trước Giờ Thứ 25
Mười. Giờ Thứ 25
Thay lời kết 287
Phụ bản A: Góp ý bài viết của tác giả Trần Ngọc Giang
Phụ bản B: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Phụ bản C: Chân Dung Người Lính VNCH
Phụ bản D: Chân Dung Người Vợ Lính
Phụ bản E: Nhận xét của một số độc giả .......................
Tác giả



Lời trần tình


Kính thưa quí vị,
Trước khi bắt đầu tôi rất đắn đo, vì muốn ghi lại sự kiện trung thực ít nhất cũng là trung thực với tôi về những gì mà tôi biết và những gì mà tôi làm, tất nhiên là khó tránh khỏi những đụng chạm đến quí vị, đặc biệt là với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, và cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh.
Riêng với cựu Đại Tướng Khiêm và cựu Đại Tướng Viên, là hai vị mà tôi luôn ghi nhớ nghĩa ân. Tôi không có một thân nhân hay một bạn bè nào quen biết khi vào quân ngũ tháng 05/1954. Tháng 11/1961, đang trong trách nhiệm Trưởng Ban hành quân/Phòng 3 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tôi được Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Hậu Giang, cử giữ chức Chánh Văn Phòng. Tháng 10 năm 1965, tôi được Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cử giữ chức Chánh Văn Phòng. Nhờ vậy mà tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhiều vị Tướng Lãnh, nhiều giới chức trong các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, học hỏi được những căn bản trong tổ chức và quản trị.
Tôi biết có những vị gần như mai danh ẩn tích từ khi đến Hoa Kỳ sau ngày đất nước vào tay cộng sản 30/04/1975, nhưng tôi xin phép được nhắc đến quí vị trong tập sách, và tôi chỉ nói đến quí vị ở khía cạnh quí vị là những vị lãnh đạo Quốc Gia, lãnh đạo Quân Lực, chớ tôi không nói đến những riêng tư của quí vị. Tôi xin tôn trọng phần riêng tư đó. Về những gì tôi viết vào đây, có thể có sự kiện nào đó mà quí vị cho là không chính xác, nhưng theo tôi, tôi thấy đã đủ thận trọng trong cách nhìn của tôi khi viết những trang sách nhỏ này. Biết đâu, có những điều mà tôi nói lên được sự thật liên quan đến quí vị mà nhiều chục năm qua chính quí vị cũng chưa biết đến, và cũng có thể tôi làm sáng tỏ được điều gì đó đối với dư luận dù rằng quí vị cho là có hay không có cũng chẳng sao.
Thế hệ chúng ta đã học nhiều bài học quí báu từ trong lịch sử, và vận dụng vào bổn phận công dân trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia. Rồi đây, những thế hệ sau chúng ta, cũng cần đến lịch sử mà thế hệ chúng ta sẽ là một phần quan trọng trong đó, và quí vị là thành phần quan trọng hơn hết trong giai đoạn lịch sử 1954 - 1975.
Lịch sử một dân tộc không thể tự nhiên mà có. Muốn có được lịch sử, tôi nghĩ, sau chặng đường phục vụ quốc gia dân tộc, mỗi người trong bất cứ lãnh vực nào của xã hội, cần viết lại trên giấy trắng mực đen về những hiểu biết xác thực của mình trong từng phạm vi trách nhiệm lúc đương thời, và viết với một trạng thái tâm hồn thật bình thản. Từ đó, những nhà viết sử gom góp lại, chọn lọc, phân tách, đánh giá, và tạo nên những dòng sử qua từng giai đoạn thăng trầm của đất nước. "Tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử sách, truyền mãi trong dân gian", không phải người này tạo cho người kia, hay ngược lại, mà mỗi người trong xã hội -nhất là những vị giữ chức vụ lãnh đạo- tự tạo cho chính mình qua những nghĩ suy, những phương tiện diễn đạt, và trong những môi trường hành động.
Tôi không dám nghĩ đây là một sử liệu, nhưng tôi cố gắng ghi chép đúng theo trí nhớ của tôi, để các sử gia may ra tham khảo được đôi điều trong khoảng thời gian nghiêng ngã của đất nước, mà thuở đó, quyền lực nằm trong tay quí vị lãnh đạo . So với ấn bản lần 1, lần 2, và lần 3, và lần 4, duyệt lại mới nhất vào cuối năm 2010 có vài sắp xếp lại về cách trình bày và bổ túc thêm một số chi tiết, vì 1.600 trang giấy học trò mà tôi lén lút viết lại trong thời gian bị giam ở trại tập trung Nam Hà trên đất Bắc, lén lút gởi về gia đình cất giữ, và khi đoàn tụ với gia đình tôi vẫn tiếp tục viết, đến nay tôi đã nhận đầy đủ từ Việt Nam gởi sang. Cùng với những sự kiện mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng từ tháng 9/1969 đến tháng 4/1975, và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ tháng 10/1965 đến tháng 4/1975, hai vị cho tôi biết thêm nhân khi vợ chồng tôi đến Virginia hồi đầu tháng 9 năm 2003 và những năm sau đó, thăm hai vị và gia đình.
Xin quí vị vui lòng, và trân trọng kính chào quí vị.
Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Viết xong ngày 15 tháng 8 năm 1994.
Bổ túc lần 1, mùa Thu 1995.
Bổ túc lần 2, mùa Thu 1998.
Bổ túc lần 3, mùa Đông 2001-2002.
Bổ túc lần 4, mùa Đông 2003-2004.
Bổ túc lần 5, mùa Đông 2005-2006.
Bổ túc lần 6, mùa Xuân 2007.
Bổ túc lần 7, mùa Hè 2009.
Duyệt lại, mùa Đông 2010.
Bổ túc lần 8, mùa hè 2011.
Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa



Lời nói đầu


Trong bối cảnh quốc tế sau thế chiến thứ hai 1939-1945, do ảnh hưởng lớn lao của hai siêu cường Hoa Kỳ với Liên Xô, đã tạo thành khối các quốc gia Tự Do và khối các quốc gia Cộng Sản. Bên cạnh đó là những quốc gia nhỏ về thế lẫn lực, cố ngồi lại với nhau và hình thành khối thứ ba thường gọi là khối Trung Lập.
Trong khung cảnh gia đình, mức thu nhập hằng tháng hằng năm không đủ chi tiêu dù là tối thiểu, phải nhờ đến sự giúp đỡ của thân nhân thân quyến hay bạn bè bằng hữu. Mà khi nhờ vả thì ít hay nhiều cũng phải chịu ảnh hưởng của người ấy về mặt này mặt khác. Với hình ảnh đó ở cấp bậc quốc gia cũng vậy, còn cộng thêm những phức tạp về chính trị quốc gia quốc tế nữa. Xin nhớ rằng, trong bang giao quốc tế không có vấn đề tình cảm mà chỉ có vấn đề quyền lợi quốc gia là trên hết. Vì vậy, khi đã vay mượn hay xin xỏ của nước nào, phải chịu ảnh hưởng về những sinh hoạt của nước đó đối với quốc gia mình, thậm chí có những chính sách của họ không liên hệ đến mình mà mình vẫn phải ủng hộ, và khi đã chịu ảnh hưởng thì ý nghĩa của Trung Lập không còn nữa.
Khi nhìn nhận như vậy, rõ ràng là các quốc gia trong khối thứ ba nói trên không có khả năng Trung Lập. Do đó mà sự hình thành của khối thứ ba này chẳng qua là gượng ép, nếu không nói là do sức ép từ thế lực bên ngoài để tăng thêm thế chính trị cho họ. Tôi muốn nói đến một thế đứng chính trị: “hoặc khối Tự Do hoặc khối Cộng Sản”. Còn tuyên bố Trung Lập mà quốc gia chỉ trông vào viện trợ hay trợ giúp nhân đạo để tồn tại, đó là tính chất dối trá trong lãnh đạo đối với đồng bào, và khi lãnh đạo dối trá thì không xứng đáng lãnh đạo đồng bào của họ nữa. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam là một trong những nhóm lãnh đạo đó.
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đứng hẳn vào khối Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo. Đó không phải là cách chọn lựa lý tưởng, nhưng khi phải chọn lựa giữa hai điều xấu, ta phải chọn điều xấu ít. Nhưng chịu ảnh hưởng những chính sách của Hoa Kỳ là một việc, mà bản lãnh chính trị của những vị lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa trong việc tận dụng tối đa những chính sách đó vào mục đích tăng thêm hay ít ra cũng phải bảo vệ quyền lực và lợi ích quốc gia, lại là việc khác. Đó là cốt lõi của lãnh đạo.
Lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chúng ta kể từ giữa năm 1954, đã lần lượt trong tay các vị: Ông Ngô Đình Diệm, Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Khánh, Kỹ sư Phan Khắc Sửu, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Giáo sư Trần Văn Hương, và Đại Tướng Dương Văn Minh (lần hai). Nhiệt tình của những vị lãnh đạo trên đây đối với quốc gia dân tộc dù nhiệm kỳ của hai vị sau cùng cộng lại chỉ hơn một tuần lễ, đều đáng được ca ngợi, nhưng vị nào đã để lại tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử sách, truyền mãi trong dân gian, xin tùy quí vị quí bạn. Xa hơn nữa là phán xét của lịch sử.
Với quyển sách này, tôi xin ghi lại những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, và những gì mà tôi nghĩ, qua những lệnh và những việc làm đó trong các biến cố chính trị từ năm 1963 đến cuối năm 1966. Rồi năm cuối cùng của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà lãnh đạo nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếm trọn Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, ký ức và tài liệu mà tôi ghi chép lúc đương nhiệm, còn lưu giữ được đôi điều. Vì giới hạn trong phạm vi trách nhiệm nên không có được tính cách tròn vẹn của mỗi biến cố, nhưng hy vọng là nội dung này có khả năng giùp quí vị quí bạn nhận ra những nét trung thực khi lần theo mỗi sự kiện trong từng biến cố.
Cũng xin nói thêm rằng, tôi chưa từng viết văn, cũng không biết viết văn, nên văn chương ở đây rất luộm thuộm. Kính mong quí vị quí bạn vui lòng xem nội dung quyển sách này như là một chuyện kể, nhớ đâu kể đó.
Và bây giờ kính mời quí vị quí bạn vào chuyện kể . . .


- một -

Đảo Chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963



Ngày 06/05/1963, Đổng Lý văn phòng Phủ Tổng Thống gởi công điện yêu cầu các địa phương không được treo cờ Phật Giáo ngoài khuôn viên chùa, theo đúng tinh thần Dụ số 10 ngày 6/8/1950.
Ngày 08/05/1963, đại lễ Phật Đản, có lẽ theo tinh thần văn kiện nói trên, cơ quan chánh quyền tại Huế cấm treo cờ Phật Giáo. Đông đảo Phật tử đến trước đài phát thanh Huế để nghe chương trình phát thanh của vị lãnh đạo Phật Giáo địa phương, nhưng chương trình đó không thực hiện. Thế là đám đông trước đài phát thanh biến thành cuộc mít tinh lên tiếng phản đối, gây mất trật tự nơi đây. Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An chỉ huy Cảnh Sát với Quân Đội đến vãn hồi an ninh trật tự. Trong tình hình rối ren đó, một tiếng nổ lớn gây thiệt mạng 7 thiếu nữ từ 12 đến 19 tuổi và một số khác bị thương. Chánh quyền địa phương cho là cộng sản gây ra vụ nổ này, nhưng không trưng dẫn được bằng chứng.
Vài ngày sau đó, Thượng Tọa Thích Tịnh Khiết, vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo đã gởi bản Tuyên Ngôn lên chánh phủ, trong đó, Phật Giáo đòi được hưởng chế độ ngang hàng với Thiên Chúa Giáo. Chánh phủ đã bắt giam nhiều chức sắc lãnh đạo của Phật Giáo tại nhiều nơi, nhất là tại Huế.
Ngày 11/06/1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức, trụ trì ngôi chùa ở Quận Phú Nhận tỉnh Gia Định, đến ngồi ngay ngã tư đại lộ Lê Văn Duyệt với đường Phan Đình Phùng, trung tâm thủ đô Sài Gòn, trước ống kính của rất nhiều nhà báo Việt Nam và ngoại quốc. Rồi sau đó, lần lượt thêm bảy tám vụ tự thiêu nữa tại các tỉnh. Không khí chính trị sôi sục với những cuộc mít tinh biểu tình của đông đảo sinh viên học sinh, đồng bào -nhất là đồng bào Phật tử- lác đác có cả quân nhân viên chức và cảnh sát nữa. Nhiều phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình ngoại quốc -nhất là Hoa Kỳ- đến Việt Nam ghi nhận và đánh giá tình hình.

Thiết quân luật.
Trước khi hết giờ làm việc chiều ngày 20 tháng 8 năm 1963, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gọi tôi vào văn phòng:
“Tối nay, chú với mấy chú văn phòng làm việc tại đây. Chú cho mấy chú luân phiên về dùng cơm rồi trở lại ngay. Chú cần hỏi gì thêm không?”

“Có cần ngủ lại đây không, thưa Thiếu Tướng?”

“Có thể không cần. Sẽ có lệnh sau”

Đây là lần đầu tiên kể từ khi cầm quyền ngày 7/7/1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh Bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh thiết quân luật trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn để Cảnh Sát cùng mật vụ bao vây các chùa, tìm bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang, vị sư được xem là lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng Thượng Tọa Trí Quang đã vượt rào vào khuôn viên cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ và được phép tạm trú nơi đây.
Thế là, từ đòi hỏi trong bản Tuyên Ngôn không được giải quyết, đến các vụ tự thiêu để phản đối chánh phủ, rồi đến vụ nhà cầm quyền vây bắt hụt Thượng Tọa Thích Trí Quang, dần dần dẫn Phật Giáo đến cuộc tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động tại hầu hết các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam, đã làm cho tình hình chung của Việt Nam Cộng Hòa trở nên tệ hại hơn hết, kể từ sau Hiệp Định Đình Chiến Genève tháng 7 năm 1954.
Đó là phản ứng quyết liệt của giáo hội Phật Giáo và nhiều Phật tử trên toàn quốc.
Với một tình hình như vậy, đã làm cho hầu hết các nước trong khối Tự Do, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất, đều phản đối chính sách tôn giáo trong hành động đàn áp bắt giữ các chức sắc Phật Giáo và Phật tử Việt Nam. Trước dư luận quốc nội lẫn quốc tế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khó mà biện minh chính sách kỳ thị tôn giáo, cho dù lệnh cấm treo cờ Phật Giáo cũng như lệnh dùng bạo lực trực tiếp hay không trực tiếp do Tổng Thống ban hành cũng vậy. Vì thuở ấy, quyền lực rất lớn trong tay hai em của Tổng Thống là ông Ngô Đình Nhu "Cố Vấn Chính Trị", và ông Ngô Đình Cẩn "Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung".

Ông Ngô Đình Diệm, được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Việt Nam vào giữa năm 1954 và nhận chức Thủ Tướng ngày 7 tháng 7 năm 1954.

Cựu Hoàng Đế Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã bị Việt Minh cộng sản cưỡng bách thoái vị từ mùa thu năm 1945.
Ngày 5/6/1948, trên chiến hạm Duguay Trowin của Pháp trong vịnh Hạ Long, Ông cùng một số chính khách đại diện cho 3 miền Nam Trung Bắc Việt Nam, chứng kiến ông Bollaert Cao Ủy Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương (gồm 3 nước: Việt Nam, Cam Bốt, và Lào) với Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, chánh phủ Nam Kỳ Quốc, ký tên bản Hiệp Ước công nhận Việt Nam là quốc gia thống nhất và độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Danh xưng Việt Nam là “Quốc Gia Việt Nam”.
Ngày 8/3/1949, tại điện Élysée (Paris), Tổng Thống Pháp là ông Auriol với ông Bảo Đại ký Hiệp Ước chánh thức hóa Hiệp Ước vịnh Hạ Long ngày 5/6/1948, đồng thời Pháp sẽ thành lập cho Việt Nam một quân đội quốc gia.
Ngày 25/4/1949, cựu Hoàng Đế Bảo Đại từ Pháp trở về Việt Nam. Ngày 1/7/1949, thành lập chánh phủ của một quốc gia thống nhất. Với chức vụ cao nhất nước cho dù bị giới hạn quyền hành, nhưng ông đã không tận dụng thực dân Pháp để vừa xây dựng quốc gia non trẻ vừa chống lại chủ nghĩa cộng sản đang bắt rễ tại Việt Nam, mà ông lại sống trên đất Pháp nhiều thời gian hơn là có mặt trên quê hương Việt Nam đầy sóng gió!
Ngày 21/1/1950, Quốc Trưởng Bảo Đại cử ông Nguyễn Phan Long thành lập chánh phủ, và ngày 4/2/1950 Hoa Kỳ công nhận quốc gia Việt Nam. Ngày 15/5/1950, Quốc Hội Pháp ban hành Luật thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam với 60.000 quân do Pháp trang bị và chỉ huy.
Ngày 23/12/1950, Việt Nam-Pháp-Hoa Kỳ cùng ký “Hiệp Ước Hỗ Tương Phòng Thủ & Viện Trợ Quân Sự” cho Việt Nam. Danh xưng của quân đội là “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”.
Ngày 28 và 30/04/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại từ thành phố Cannes (Pháp) gọi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sang nhận lệnh, nhưng Thủ Tướng không thi hành. Có vẻ như Thủ Tướng trông chờ quyết định của đại hội chính trị do ông Nguyễn Bảo Toàn tổ chức trong ngày 29/4/1955 với sự tham dự của 18 đảng phái chính trị và 20 nhân sĩ Việt Nam. Đại hội kết thúc với quyết định: “(1) Truất phế quốc Trưởng Bảo Đại. (2) Giải tán chánh phủ hiện tại. (3) Ủy nhiệm ông Ngô Đình Diệm thành lập chánh phủ. (4) Tổ chức tổng tuyển cử”.
Ngày 23/10/1955, Thủ Tướng tổ chức cuộc trưng cầu dân ý với mục đích người dân có “đồng ý hay không đồng ý” truất phế Quốc Trưởng. Kết quả, người dân đồng ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Ba ngày sau đó, 26/10/1955, chánh phủ ban hành Hiến Ước Lâm Thời, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố Việt Nam theo chế độ Cộng Hòa, và ông trở thành Tổng Thống. Từ đó, danh xưng quốc gia Việt Nam là “Việt Nam Cộng Hòa”, và danh xưng của quân đội là “Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa”.
Tiếp theo là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 4/3/1956 với 123 vị Dân Cử để soạn thảo Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956, ban hành Hiến Pháp và hủy bỏ Hiến Ước Lâm Thời. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một văn bản Luật cao nhất, qui định chế độ chính trị cùng với toàn bộ cơ cấu sinh hoạt quốc gia. Từ năm 1957, ngày 26 tháng 10 được chọn là Ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa.
Theo qui định trong Hiệp Định Đình Chiến ngày 20/07/1954 tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 15/03/1956, quân đội viễn chinh Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam. Từ đó, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa thật sự toàn quyền chỉ huy quân đội .
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong những năm đầu cầm quyền, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập bang giao. Ông đã ổn định được cuộc sống cho non một triệu người từ miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản trước khi chúng tiến vào các thành phố trên đất Bắc theo Hiệp Định đình chiến Genève ngày 20/07/1954. Hiệp Định này chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà trên địa thế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ dân chủ tự do. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã cải thiện được tình hình kinh tế xã hội trong mức độ khả quan.
Về quân sự. Với sự cố vấn của phái bộ quân sự Hoa Kỳ, quân đội đã được tổ chức lại và phát triển từ cấp Tiểu Đoàn lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, trên căn bản quân đội trong chiến tranh qui ước. Mọi dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân đội, đều do Hoa Kỳ cung cấp.
Về chính trị. Ông đã thành công đáng kể trong nỗ lực ôn hòa lẫn sử dụng võ lực trong mục đích đem lực lượng võ trang của Bình Xuyên, của Hòa Hảo, và Cao Đài về hợp tác hoặc giải thể. Lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng chống cộng sản quyết liệt.
Đó là sự thành công bước đầu không ai phủ nhận được. Nhưng, dần đần về sau, chế độ dưới quyền Tổng Thống, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện tính cách "gia đình trị", bởi vì ngoài Tổng Thống ra, còn có:
Thứ nhất, em trai Ngô Đình Nhu trong chức vụ Cố Vấn Chính Trị, và vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân, rất nhiều quyền lực trong tay, một phần có thể là Tổng Thống Diệm vẫn còn độc thân nên vị trí của bà trong một mức độ nào đó, như đệ nhất phu nhân.
Thứ nhì, em trai Ngô Đình Cẩn trong chức vụ không hề có trong tổ chức quốc gia là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, ông sống độc thân. Là người không có văn bản bổ nhiệm nhưng lại có toàn quyền đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế, Quảng Nam Đà Nẳng, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Quyền lực của ông có thể ví bằng "vị sứ quân" của 5 tỉnh này.
Thứ ba, anh trai Ngô Đình Thục, Giám Mục địa phận Vĩnh Long, và từ năm 1960 là Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế. Tuy là chức sắc lãnh đạo trong tôn giáo, nhưng tiếng nói của ông ảnh hưởng rất lớn đối với công việc chánh quyền mà các em của ông nắm giữ.
Thứ tư, em trai Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh quốc, được xem là người ít dính dáng đến những điều tệ hại mà các anh của ông gây ra trên quê hương Việt Nam.
Khi viết lại đoạn trên đây tôi vẫn hiểu rằng, anh em thân thuộc với Tổng Thống, (hay Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Tướng Lãnh, ..v..v.. ), tự đó không phải là cái tội, vì vị lãnh đạo không bổ nhiệm người này cũng phải bổ nhiệm người khác. Chỉ khi nào, người thân thuộc đó lợi dụng quyền lực người thân đã bổ nhiệm mình mà ngang nhiên hành động vi phạm luật pháp, lúc đó là có tội. Khi tội trạng phơi bày, người đó có bị luật pháp trừng phạt như bất cứ người công dân nào khác hay không, đó là vấn đề cần được đánh giá đúng mức.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hai em của ông là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, đã lần lượt loại trừ một số nhà chính trị đối lập qua những hành động trong khuôn khổ luật pháp lẫn ngoài luật pháp.
Rồi đến những lời lẽ cứng rắn của bà Trần Lệ Xuân -em dâu ông- tại các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc đàn áp Phật Giáo nhiều nơi trên toàn quốc. Bà đã nhiều lần chỉ trích công khai với vẻ miệt thị và tàn nhẫn về những vụ tự thiêu của các nhà sư phản đối chánh quyền.
Những sự kiện đó đã đưa người dân từ ủng hộ chánh phủ lúc đầu, dần dần trở nên bất mãn, đến mức căm thù chế độ mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người trách nhiệm chính, vì Tổng Thống là người lãnh đạo quốc gia.
Vậy, sự kiện giải tán Phật Giáo ngày 08/05/1963 dẫn đến sự kiện 7 Phật tử chết cùng với một số bị thương, và những hành động tệ hại tiếp theo, tôi nghĩ, đó là nguyên nhân quốc nội dẫn đến cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Tôi nói "nguyên nhân quốc nội", vì theo tôi, còn có "nguyên nhân quốc tế" nữa.

Đảo chánh.
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, ngày lễ "Các Thánh" (All Saints), quân đội được nghỉ buổi sáng. Khoảng 7 giờ sáng, chuông điện thoại nhà tôi reo:

“Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Chú đến nhà tôi ngay”.

“Vâng. Tôi đến ngay, thưa Thiếu Tướng”.

Đó là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhà tôi và nhà ông cùng ở trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cách nhau khoảng vài trăm thước. Ông ở khu nhà lầu, tôi ở khu nhà trệt.

“Chào Thiếu Tướng”.

“Chú lấy ghế ra sân với tôi”.

Hoàn toàn khác lạ với mỗi lần tôi đến nhận lệnh, nên tôi nghĩ ngay đến một vấn đề gì đó phải là quan trọng lắm, bởi thường khi chỉ ngồi trong nhà. Thiếu Tướng Khiêm và tôi cùng ngồi ở góc sân sát hàng rào:

“Chú nghe đây. Lệnh mà tôi sắp cho chú là lệnh tối mật, nếu chú tiết lộ thì chú bị đứt đầu trước tôi. Chú không được nói với bất cứ ai, kể cả vợ chú và chú Có. Chú nghe rõ chưa?”

“Tôi nghe rõ, thưa Thiếu Tướng”.

Chú Có mà Thiếu Tướng Khiêm vừa nói là Trung Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Khiêm từ năm 1960. (Trung Úy Có nói ở đây, trùng họ tên lẫn chữ lót với Đại Tá Nguyễn Hữu Có lúc ấy).

“Hôm nay, tôi và một số vị Tướng Lãnh đảo chánh ông Diệm, và những việc sau đây chú phải làm xong trong buổi sáng. Thứ nhất, đây là danh sách mời dùng cơm trưa tại câu lạc bộ (Bộ Tổng Tham Mưu). Thức ăn do chú sắp xếp. Nhớ, các vị được mời phải có mặt tại câu lạc bộ đúng 12 giờ hoặc trước đó chút ít. Thứ nhì, đây là danh sách mời họp tại phòng họp số 1 (tầng trệt trong tòa nhà chánh). Yêu cầu các vị này có mặt tại phòng họp chậm nhất là trước 1 giờ trưa. Đúng 1 giờ, chú cho lệnh Quân Cảnh khóa cửa lại và không ai được ra vào bất cứ vì lý do gì khi chưa có lệnh tôi. Cả hai danh sách này, nếu chú không liên lạc được với bất cứ ai hoặc có gì trở ngại thì chú trình ngay cho tôi. Đến đây chú rõ chưa?”

“Vâng. Tôi rõ, thưa Thiếu Tướng”.

“Và thứ ba. Chú tổ chức an ninh chu đáo khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu, bằng cách sử dụng Đại đội 1 Quân Cảnh (của Tổng Tham Mưu) và các thành phần an ninh của Tổng Hành Dinh (Tổng Tham Mưu). Tất cả các cổng đóng lại, tuyệt đối không được mở, riêng cổng chánh, bất cứ ai ra hay vào đều phải trình tôi. Lệnh của tôi xong, chú có gì cần hỏi không?”

“Thưa Thiếu Tướng, lý do mời họp tôi phải nói thế nào để không bị ngờ vực?”

“Tùy chú. Nhớ, chỉ một chút sơ hở là chú đứt đầu đó. Thôi, chú vào văn phòng làm việc đi”.
Khuôn viên trại Trần Hưng Đạo có các cổng số 1 hướng ra giao lộ Võ Tánh và đường Ngô Đình Khôi (sau đó đồi thành đường Cách Mạng 1/11), cổng số 2 và số 5 hướng ra đường Võ Tánh, cổng số 10 hướng ra đường Ngô Đình Khôi, cổng số 3 và số 4 hướng ra đường Võ Di Nguy.
Đảo chánh, đây là lần thứ hai tôi nghe thấy trong đời binh nghiệp. Lần thứ nhất, xảy ra vào nửa đêm về sáng ngày 11/11/1960, lúc đó tôi đang học tham mưu tại Trường Đại Học Quân Sự, tọa lạc trong khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu. Nhóm lãnh đạo cuộc đảo chánh thất bại vì không được sự ủng hộ của các vị Tư Lệnh đại đơn vị. Đại Tá Trần Thiện Khiêm, Quyền Tư lệnh Quân Khu 5 kiêm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đưa quân của Sư Đoàn 21 từ Sa Đéc và quân của Sư Đoàn 7 Bộ Binh từ Mỹ Tho lên Sài Gòn đẩy lui lực lượng đảo chánh. Đại Tá Nguyễn Chánh Thi -Tư Lệnh Nhẩy Dù- và các sĩ quan trong thành phần lãnh đạo đảo chánh, đã dùng phi cơ vận tải quân sự C.47 bay sang Nam Vang -thủ đô Cam Bốt- xin tị nạn chính trị.
Lần đảo chánh này, dù muốn hay không muốn, tôi cũng phải can dự cho dù là can dự như một sĩ quan thừa hành tin cậy. Lệnh tối mật mà tôi vừa nhận quả là bất ngờ và phải thi hành trong thời gian cấp bách, với lại dù diễn đạt như thế nào đi nữa thì tôi cũng là người chịu ơn Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, cho nên tôi không hề nghĩ cũng như không kịp nghĩ đến điều sắp thi hành là sai hay đúng, và nên hay không nên làm. Bởi Thiếu Tướng Khiêm không hề biết tôi, ngược lại tôi cũng chưa một lần phục vụ dưới quyền ông, đến khi ông về nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại Bến Kéo tỉnh Tây Ninh vào đầu tháng 02 năm 1960, thay thế Trung Tá Trần Thanh Chiêu bị cách chức sau vụ Trung Đoàn 32 Bộ Binh bị quân cộng sản đột kích lúc 3 giờ sáng ngày 29/01/1960 tại Trãng Sụp, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 6 cây số về phía bắc, gây tổn thất nhân mạng với 23 quân nhân chết, gần 20 quân nhân bị thương, và 1 xe dodge 4x4 bị cộng sản lấy chở đầy xe vũ khí trong kho. Lúc đó, tôi đang là Trung Úy, trưởng ban hành quân/Phòng 3 Sư Đoàn.
Vài tháng sau đó, Sư Đoàn được lệnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm chuyển xuống Quân Khu 5, hoạt động an ninh vùng Đồng Tháp Mười. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn trở lại nơi đồn trú cũ là quận lỵ Sa Đéc. Đến giữa năm 1960, Đại Tá Khiêm được Tổng Thống cử giữ chức Quyền Tư Lệnh Quân Khu 5 tại Cần Thơ (thay Đại Tá Nguyễn Văn Y chuyển về trung ương) kiêm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại Sa Đéc. Tháng 4 năm 1961, lãnh thổ quân sự được tổ chức lại thành 3 Vùng Chiến Thuật do 3 Quân Đoàn trách nhiệm:
“Quân Đoàn I/Vùng I Chiến Thuật tại Đà Nẳng, bao gồm 5 tỉnh cực bắc duyên hải. Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật tại Plei ku, bao gồm các tỉnh Cao Nguyên và các tỉnh duyên hải phía nam. Quân Đoàn III lâm thời/Vùng III Chiến Thuật tại Sài Gòn, bao gồm các tỉnh vùng đất chuyển tiếp miền nam và trọn vùng đồng bằng Cửu Long”.
Những tháng cuối năm 1961, tôi được thăng cấp Đại Úy và được cử giữ chức Chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh mà vị Tư Lệnh là Đại Tá Trần Thiện Khiêm. Sư Đoàn đã chuyển sang đồn trú tại Cần Thơ và trách nhiệm Khu 33 Chiến Thuật, cũng gọi là Khu Chiến Thuật Hậu Giang. Ngày 06/12/1962, Đại Tá Trần Thiện Khiêm thăng cấp Thiếu Tướng, đồng thời được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu, thay Thiếu Tướng Nguyễn Khánh lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật. Chức vụ "Tham Mưu Trưởng Liên Quân" là chức vụ mới thành lập, trước đó chỉ là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 17/12/1962, tôi thuyên chuyển theo Thiếu Tướng Khiêm về Bộ Tổng Tham Mưu, và từ ngày đó, tôi giữ chức Chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Vì vậy mà tôi thi hành nhiệm vụ tối mật này một cách tích cực.
Trở lại việc thi hành lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Đầu tiên, tôi gọi Trung Úy Nguyễn Hữu Có và các nhân viên vào văn phòng. Trung Úy Có có trách nhiệm liên lạc với quản lý câu lạc bộ lo bữa ăn trưa. Tiếp đó là điện thoại đến Đại Đội 1 Quân Cảnh (trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu):

“Tôi, Đại Úy Hoa đây. Anh cho tôi nói chuyện với Trung Úy Phụng, Đại Đội Trưởng (Nguyễn Thúc Phụng)”.

“Vâng. Đại Úy chờ một chút”. Hạ sĩ quan trực trả lời.

“Chào Đại Úy, tôi Phụng đây. Đại Úy đang ở đâu đó?”

“Chào anh. Tôi đang ở văn phòng. Anh Phụng à, trong vòng 3 tiếng đồng hồ tới đây, anh có thể tập trung tất cả anh em hay ít nhất cũng là tối đa quân số của Đại Đội được không?”

“Dạ được”.

“Vì vấn đề an ninh trong trại Trần Hưng Đạo hôm nay, anh phải cố gắng hết sức nghe anh. Khi tập họp xong hoặc chậm lắm là 10 giờ 30, anh điện thoại lại tôi để nhận lệnh chi tiết. Anh có gì cần hỏi thêm không?”

“ Có chuyện gì vậy Đại Úy?”

“Lệnh của Thiếu Tướng như vậy chớ tôi không biết gì hơn anh đâu. Thôi nghe. Anh lo phần anh, tôi còn vài việc khác nữa. Chào anh”.

Tôi mời Thiếu Tá Nguyễn Văn Luông, Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đến văn phòng. Năm 1958, Thiếu Tá Luông là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 35 Bộ Binh/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến, đồn trú tại Kon Tum. Lúc đó, tôi là Trung Úy, trưởng ban 3 kiêm trưởng ban 5 Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn này. Thì ra Thiếu Tá Luông đã nhận lệnh của Thiếu Tướng Khiêm rồi, nhưng tôi vẫn nói thêm vài chi tiết về an ninh:

“Thưa Thiếu Tá, với Đại Đội 1 Quân Cảnh, tôi đã điện thoại cho Trung Úy Phụng rồi. Xin Thiếu Tá đúng 1 giờ trưa, đóng tất cả các cổng lại và đưa lực lượng bảo vệ đến bố trí ngay lúc đó. Cổng số 2, 3, 4, 5, và 10, tuyệt đối không mở cho đến khi có lệnh. Riêng cổng số 1, lệnh của Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng là bất cứ giới chức nào muốn ra hay vào, xin Thiếu Tá hoặc trưởng toán Quân Cảnh điện thoại vào tôi và chờ tôi trình Thiếu Tướng”.

“Vấn đề an ninh tòa nhà chánh, anh lo hay tôi lo?”

“Thưa Thiếu Tá, tôi trách nhiệm. Để cho rõ ràng, an ninh trong phạm vi trại Trần Hưng Đạo thì Thiếu Tá trách nhiệm, riêng phạm vi tòa nhà chánh thì tôi trách nhiệm. Về lực lượng, xin Thiếu Tá cho tôi 2 chiếc Thiết Giáp AM/M8 lên tăng cường cho tôi cùng với 2 tổ đại liên đặt trên nóc tòa nhà chánh. Xin nhắc lại, tất cả mọi việc chỉ được thực hiện ngay trước lúc 1 giờ trưa. Xin Thiếu Tá vui lòng chỉnh lại đồng hồ để có giờ thống nhất. Thiếu Tá còn cần gì không?”

“Để tôi về lo ngay cho kịp. Chào anh nghe”.

“Dạ, chào Thiếu Tá”.

Lần lượt tôi điện thoại các vị trong danh sách 1, tức là danh sách mời dùng cơm nhưng thật ra là quí vị trong nhóm đảo chánh, mà hầu hết các vị này đều biết trước. Kế tiếp, tôi mời các vị trong danh sách 2, tức danh sách mời họp nhưng thật ra sẽ bị giữ để cách ly với cuộc đảo chánh. Vì trục trặc với hai vị trong danh sách 2, tôi điện thoại đến Thiếu Tướng Khiêm:
“Trình Thiếu Tướng, tôi Hoa đây. Tôi đã điện thoại xong, nhưng có trở ngại là không liên lạc được với Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền -Tư Lệnh Không Quân- và Đại Tá Hồ Tấn Quyền -Tư Lệnh Hải Quân- Theo người nhà của hai vị ấy cho biết, thì Đại Tá Hiền đang trên không trình Sài Gòn-Đà Lạt, tôi có dặn người nhà trên đó khi Đại Tá Hiền đến nơi thì điện thoại về tôi gấp. Còn Đại Tá Quyền thì người nhà nói có lẽ đã đi lễ nhà thờ, nhưng tôi gọi đến nhà thờ Đức Bà nhờ người tìm mà không gặp. Tôi sẽ cố gắng nhưng không chắc là tôi sẽ thực hiện được, thưa Thiếu Tướng”.
“Chú ráng tìm hai ổng, phần tôi, tôi cũng tìm cách liên lạc”.

“Vâng. Chào Thiếu Tướng”.

Đến đây xin mở ngoặc để nói thêm về Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Tối ngày 06/09/2003, trong lúc dự tiệc cưới tại Washington DC, vợ chồng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Bỗng dưng ông Thoại nhắc đến vụ 01/11/1963, vì sau ngày Đại Tá Quyền bị giết ông nghe người nhà Đại Tá Quyền nói là có một sĩ quan nào đó ở Tổng Tham Mưu điện thoại mời Đại Tá Quyền đi họp không biết điều đó có đúng không? Vì nếu đúng thì có thể Đại Tá Quyền không bị giết nếu ông ấy đi họp, dù rằng tối hôm ấy tôi được biết nếu có đi họp cũng bị cách ly với cuộc đảo chánh, nhưng cách ly có thể thoát chết.
Thế là tôi lên tiếng:

“Thưa Anh, người mời Đại Tá Quyền hôm ấy là tôi. Người cầm ống nói là phụ nữ đã trả lời cho tôi là Đại Tá Quyền có thể đã đi nhà thờ Đức Bà, nhưng sau đó tôi đã hai lần điện thoại đến nhà thờ nhưng không tìm thấy Đại Tá Quyền”.

“Chưa đến giờ đi lễ nên Đại Tá Quyền vào sân tennis với tôi”. Anh Thoại quay hẳn sang tôi và tiếp:

“Khi ông Lực, sĩ quan tùy viên, đến mời Đại Tá Quyền lên Thủ Đức dự tiệc mừng sinh nhật của Đại Tá Quyền do anh em Hải Quân tổ chức trên đó, có lẽ thấy Đại Tá Quyền chần chừ nên ông Lực nói tiếp: Đại Tá ráng đi vì anh em muốn dành cho Đại Tá sự bất ngờ nên không trình trước với Đại Tá. Rồi Đại Tá Quyền có vẻ nễ nang nên lên xe đi. Và sau đó thì bị ông Lực giết chết. Nếu như người nhà điện thoại đến sân tennis báo tin Tổng Tham Mưu mời đi họp, rất có thể là Đại Tá Quyền không bị giết như vậy”.

Xin đóng ngoặc. Trở lại hoạt động trong văn phòng tôi.
Điện thoại reo: “Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Phụng đây Đại Úy. Tôi tập trung Đại Đội xong rồi, Đại Úy có lệnh gì cho tôi?”

“Cám ơn Anh, và đây là chi tiết: Ngay bây giờ, anh sẳn sàng tại chổ 3 Tiểu Đội và tôi sẽ điều động công tác trong chốc lát. Điều quan trọng là 3 Tiểu Đội này phải di chuyển ngay tức thì khi có lệnh. Phần còn lại của Đại Đội, anh liên lạc với Thiếu Tá Luông, Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu để nhận lệnh. Anh cần biết gì thêm không?”

“Dạ không Đại Úy”.

“Xin anh đừng rời xa điện thoại nghe anh Phụng. Chào anh”.

Chuẩn bị bữa ăn hôm nay, Trung Úy Nguyễn Hữu Có chu toàn trách nhiệm mặc dù anh không biết tại sao lại có bữa ăn bất thường này. Bữa ăn trưa hôm nay rất quan trọng, nhưng không quan trọng về thực khách mà quan trọng ở điểm là ngụy trang cho buổi họp mặt tối mật của các vị trong nhóm lãnh đạo đảo chánh quân sự. Tôi nói ngụy trang, vì trong vòng 3 tuần lễ trước ngày này, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm thường có những buổi tối đi đâu đó mà tôi không biết chính xác mặc dù hệ thống liên lạc đặc biệt giữa tôi tại nhà, với toán cận vệ trên xe theo sau xe Thiếu Tướng mỗi khi ra khỏi nhà, chúng tôi giữ liên lạc thường xuyên nhưng vẫn không bám sát được vị trí của ông. Điển hình trong một tối, xe bắt đầu rời nhà Thiếu Tướng Khiêm, tôi được thông báo và mở máy liên lạc ngay. Một lúc sau:

“Hồng Hà. Hồng Hà. Bắc Bình gọi. Trả lời”.

“Hồng Hà tôi nghe 5/5. Có gì cho tôi. Trả lời”.

“Tôi dừng xe ở đường 45 (ám danh của đường Kỳ Đồng), Bông Hồng đã có xe khác đón nhưng không rõ đi dâu, tôi chỉ được lệnh chờ tại chỗ. Nghe rõ trả lời?”

“Tôi nghe 5/5. Thi hành lệnh. Giữ liên lạc với tôi. Trả lời”.

“Nghe rõ”.

Xin giải thích. Chữ "trả lời" ở cuối mỗi câu khi liên lạc vô tuyến là điều qui định khi học về Truyền Tin trong trường quân sự. Chữ này cũng có nghĩa "đến đây là hết câu". Hồng Hà là danh hiệu của tôi. Bắc Bình là danh hiệu của toán an ninh. Và Bông Hồng là danh hiệu của Thiếu Tướng Khiêm. Tất cả chỉ dùng trong hệ thống liên lạc an ninh này mà thôi.

Một buổi tối khác. Thiếu Tướng Khiêm cũng đi một cách bí mật như vậy, trong lúc tôi tự đặt ra những giả thuyết và phân tách để tìm giả thuyết có thể chấp nhận được về hoạt động bất thường đó, thì chuông điện thoại nhà tôi reo:

“Đại Úy Hoa, tôi nghe”.

“Trung Tá Đường đây, tôi có gọi đằng tư dinh Thiếu Tướng Khiêm để ông Cố Vấn (Ngô Đình Nhu) nói chuyện với Thiếu Tướng nhưng không gặp. Ông Cố Vấn bảo tôi nói với anh và anh trình lại Thiếu Tướng Khiêm rằng, tình hình Sài Gòn lúc này phức tạp lắm, bọn Việt Cộng tung những tổ đặc công vào nội thành, chuyên ám sát các tướng lãnh và các sĩ quan cao cấp. Ông Cố Vấn dặn Thiếu Tướng không nên ra khỏi nhà sau giờ làm việc. Đó là lệnh, anh rõ chưa?”

“Thưa Trung Tá, tôi rõ”
.
“Chào anh”.

Đó là Trung Tá Phạm Thư Đường, Chánh văn phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Đến giờ phút này (tức giờ phút nhận lệnh của Trung Tá Đường) thì tôi hiểu rằng, chẳng phải ông Cố Vấn lo cho những người dưới quyền, mà chính là ông muốn theo dõi những người dưới quyền ông có hành động gì có thể "phản trắc" đối với anh em Tổng Thống hay không, vì tình hình ngày càng tồi tệ thêm và tự nó đã lung lay chiếc ghế cầm quyền của Tổng Thống lẫn của ông Cố Vấn. Cũng vì vậy mà trong thời gian xảy ra sự đối đầu của Phật Giáo với Chánh Phủ, dư luận từ các nhà chính trị đối lập nói về kế hoạch Bravo 1 của ông Cố Vấn Nhu, theo đó ông Cố Vấn Nhu dự định thực hiện cuộc đảo chánh giả để phát hiện và triệt tiêu những ai chống đối chế độ, không phải là không có cơ sở.
10 phút trước 1 giờ 00, tôi nhắc Thiếu Tá Luông chuẩn bị đóng các cổng cùng lúc với việc điều động lực lượng tăng cường cho các cổng. Mặt khác, tôi kiểm lại các vị trong danh sách 2. Và cho đến lúc này, vẫn còn thiếu Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền và Đại Tá Hồ Tấn Quyền.
Ngay lúc trước 1 giờ 00, tình hình trong trại Trần Hưng Đạo nói chung và tòa nhà chánh nói riêng, như sau:
Tất cả các cổng số 1, 2, 3, 4, 5, và 10, đều đóng lại và lực lượng canh gác được tăng cường trước sự ngạc nhiên của các quân nhân thường trực. Chi Đội Thiết Giáp bố trí đằng sau tòa nhà chánh và 2 khẩu đại liên đã sẳn sàng trên sân thượng.
Bãi đậu xe hai bên hông tòa nhà chánh, mỗi bên có 1 Tiểu Đội Quân Cảnh túc trực. Tiểu Đội Quân Cảnh thứ 3, tập trung an ninh tầng lầu 2, bên cánh phải (tính từ trong tòa nhà chánh nhìn ra võ đình trường), nơi đó là văn phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cũng là bản doanh của quí vị lãnh đạo đảo chánh.
Trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, rất đông các vị trong danh sách mời ăn trưa sau khi xong ở câu lạc bộ, như: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng vì Đại Tướng Lê Văn Tỵ đang dưỡng bệnh, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, cùng các vị Tướng Tôn Thất Đính, Trần Tử Oai, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, ..... Đại Tá Đỗ Mậu -Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội- Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, ......
Trong khi đó, văn phòng tôi và văn phòng Trung Úy Có, các sĩ quan tùy viên và hạ sĩ quan cận vệ, kẻ ngồi người đứng chật cả phòng, vì mỗi vị Tướng ít nhất cũng có 3 hay 4 người đi theo, nhất là trong tình hình này.
Đúng giờ G, tức 1 giờ trưa ngày 01 tháng 11 năm 1963. Cửa phòng họp số 1 đóng lại, 2 Quân Cảnh đứng gác bên ngoài. So với danh sách "mời họp" vẫn còn thiếu Đại Tá Hiền và Đại Tá Quyền. Hướng Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống (góc đường Thống Nhất-Cường Để-Hồng Thập Tự) và khu vực Phủ Tổng Thống -tức dinh Gia Long- súng bắt đầu nổ.
Trong văn phòng Thiếu Tướng Khiêm -bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng- âm thanh ồn ào hẳn lên cùng với sự đi lại nhiều hơn, do các vị điện thoại ra lệnh đơn vị này cơ quan khác, chen lẫn với bàn thảo tình hình.
Một lúc sau, tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm:

“Thưa Thiếu Tướng, tôi thấy giữ Đại Tá Viên (Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù) dưới phòng họp không tiện lắm. Xin Thiếu Tướng cho phép tôi đưa Đại Tá Viên lên ngồi ở văn phòng tôi và tôi chịu trách nhiệm”.

“Được rồi. Chú đưa Đại Tá Viên lên phòng chú đi”.

Tôi quen biết chưa nhiều với Đại Tá Cao Văn Viên, nhưng do bà Trần Thiện Khiêm nói lại, theo đó thì Thiếu Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Khánh, và Đại Tá Viên rất thân nhau, nhất là khi ba vị này là sĩ quan cấp úy và cùng chiến đấu ở mặt trận Na Sản trên đất Lào trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp. Và ba gia đình này cũng thân nhau từ đó, vì có nhiều thời gian sống chung nhau ở Hà Nội trong khi các ông cùng ở mặt trận. Do đó, tôi thấy cần giúp Thiếu Tướng Khiêm tránh điều khó xử đối với người bạn thân của ông bằng cách "giải thoát" Đại Tá Viên ra khỏi phòng "tạm giữ". Nguyên nhân chỉ là vậy.
Đại Tá Cao Văn Viên, năm 1960, đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Tham Mưu Biệt Bộ/Phủ Tổng Thống, lúc đó là Trung Tá. Ngay sau cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960, ông được thăng cấp Đại Tá và nhận chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù đang khuyết, vì Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đã chạy sang Cam-Bốt tị nạn chính trị khi đảo chánh thất bại. Cũng vì vậy mà ông (Đại Tá Viên) bị xếp vào thành phần tín cẩn của Tổng Thống Diệm, và bị giữ chân trong phòng họp số 1 cách ly với cuộc đảo chánh đang diễn tiến.
Đến đây xin mở dấu ngoặc để nói thêm về cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Cũng nhân dịp dự tiệc cưới ngày 06/09/2003 nêu trên, tôi có đến nhà thăm cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, sau đó dùng cơm tối với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên tại nhà người bạn. Cựu Đại Tướng Viên nói rằng:

“Những điều Anh (tức tôi) nói về cuộc đảo chánh 01/11/1963 trong quyển sách của Anh về tôi là đúng, nhưng có những điều khác mà Anh chưa biết”.

“Rất đúng, thưa Đại Tướng. Tôi chỉ viết lại những gì mà tôi biết thôi, cho nên câu chuyện không tròn trịa được”. Tôi trả lời, và cựu Đại Tướng Viên nói tiếp:

“Trước khi Anh mời tôi lên ngồi văn phòng Anh, có người xuống gọi tôi lên văn phòng gặp ông Minh (tức Trung Tướng Dương Văn Minh, cấp bậc lúc bấy giờ), để nghe ổng nói là ổng đảo chánh Tổng Thống Diệm, rồi ổng hỏi tôi nghĩ sao? Tôi trả lời là chuyện lớn như vậy mà bây giờ Trung Tướng mới nói với tôi thì tôi đâu có quyết định được. Lúc ấy sĩ quan cận vệ của ông Minh lăm le khẩu súng về phía tôi như sẳn sàng bắn tôi. Tôi cũng nhắc lại với Anh là trước đó, tôi với một ông Đại Tá mà tôi giấu tên (theo tôi biết, đó là Đại Tá Lê Quang Tung, Chỉ Huy Trưởng Sở Khai Thác Địa Hình, tên gọi ngụy trang của cơ quan mật vụ) cùng gọi lên gặp Trung Tướng Minh, nhưng vừa ra khỏi phòng họp thì ổng bị còng tay dẫn đi và đã bị giết sau đó. Còn tôi cũng bị còng nhưng mới còng một tay thì Thiếu Tướng Đính (Tôn Thất) chợt thấy, ổng bảo tháo còng ra, và sĩ quan đó dẫn tôi lên gặp ông Minh như tôi vừa nói. Tiếp đến mới nối vào chuyện của Anh mời tôi lên ngồi ở văn phòng Anh”.

Đến đây là hết lời kể của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Tôi xin tiếp lời của một nhân chứng khác cũng liên quan đến sự kiện này. Tối 18/05/2005, tại Houston, tôi dùng cơm với anh Trịnh Bá Lộc từ Arkansas đến thăm thành phố này. Trong bữa ăn đó còn có cựu Đại Tá Lê Thuần Trí, và cựu Trung Tá Hoa Hải Đường. Qua những câu chuyện trao đổi, trong đó có nói đến cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Lúc ấy, anh Lộc là Đại Úy, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh. Và đây là lời trao đổi giữa tôi với anh Trịnh Bá Lộc.
Khi tôi thuật lại lời kể của cựu Đại Tướng Viên lúc ông bị còng tay, anh Lộc nói:

“Đại Tướng Cao Văn Viên bị còng tay ngay trước mặt Trung Tướng Minh, và tôi đứng bên cạnh. Lúc ấy đang đứng bên ngoài cửa văn phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng, tức là trên tầng lầu 2 chớ không phải ở tầng trệt. Đúng như Đại Tướng Viên nói là ông bị Quân Cảnh mới còng một tay (trên tầng 2), và chính Trung Tướng Minh ra lệnh tháo còng ra”.

“Vậy anh có biết ai ra lệnh còng tay không?” Tôi hỏi.

Anh Lộc đáp:

“Chính tôi cũng thắc mắc điều này, vì tôi hoàn toàn không biết ai ra lệnh”.

Với lời của anh Lộc, sự kiện nho nhỏ này trở thành cái “gút”. Vì cựu Đại Tướng Viên nói là ông bị còng tay sau khi ra khỏi “phòng tạm giữ” ở tầng trệt của tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, và Thiếu Tướng Đính ra lệnh mở còng, trong khi anh Lộc nói Đại Tướng Viên bị còng tay ở tầng lầu 2 và Trung Tướng Minh ra lệnh mở còng. Sự kiện tuy nhỏ, nhưng không rõ là vị nào nhớ đúng, vì một vị là “nạn nhân” còn vị kia là “nhân chứng”. Tôi sẽ cố gắng tìm hiểu thêm về sự kiện này.
Anh Lộc còn kể lại mẫu chuyện ngắn vào những ngày cuối của tháng 04/1975, theo đó thì lá đơn của Đại Tướng Viên gởi Tổng Thống Trần Văn Hương xin giải ngũ mà tôi bổ túc vào “Lời nói cuối”. Xin đóng ngoặc.
Khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ sau, điện thoại reo:

“Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Thưa Đại Úy, có Thiếu Tá Trần Cửu Thiên vô phòng Tổng Quản Trị lãnh huy chương, và bây giờ xin ra cổng”.

Đó là lời của trưởng toán Quân Cảnh ở cổng số 1. “Anh chờ tôi đầu máy”.

Tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm nhưng Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tôi một cách lạnh lùng:

“Anh đem vô nhốt luôn cho tôi”.

“Vâng”.

Xin nói thêm. Tất cả các vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đều có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, nên mỗi khi tôi trình điều gì với Thiếu Tướng Khiêm, các vị khác đều nghe. Do vậy mà Trung Tướng Minh ra lệnh giữ Thiếu Tá Thiên trong khi Thiếu Tướng Khiêm chưa có phản ứng.
Một lúc sau, tôi gặp Thiếu Tá Thiên trong phòng vệ sinh có Quân Cảnh đi kèm, ông Thiên trừng mắt với tôi và không nói một lời cho dù tôi chào ông đến hai lần. Thiếu Tá Thiên rất được sự tín nhiệm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu sau khi Thiếu Tá Thiên được đánh giá là xây dựng thành công "khu trù mật" Vị Thanh-Hỏa Lựu thuộc tỉnh Phong Dinh (lúc bấy giờ chưa thành lập tỉnh Chương Thiện). Thiếu Tá Thiên là đảng viên đảng Cần Lao Nhân Vị mà ông Cố Vấn Nhu là lãnh tụ. Vì vậy mà Thiếu Tá Thiên -trong một chừng mực nào đó- đã xem thường ngay cả với Đại Tá Khiêm khi Đại Tá Khiêm đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh/kiêm Khu 33 Chiến Thuật, chỉ vì Đại Tá Khiêm không phải là đảng viên, cũng không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo.
Lúc 3 giờ chiều, điện thoại tôi reo: “Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Tôi là Hiền đây anh Hoa. Anh trình Thiếu Tướng xem bây giờ tôi đến còn kịp họp không?”

“Xin lỗi, Đại Tá đang ở đâu đó?”

“Tôi đang ở Bộ Tư Lệnh Không Quân”.

Đấy là Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân.

“Xin Đại Tá vui lòng chờ đầu máy, tôi vào trình ngay”.

Tương tự như khi tôi trình với Thiếu Tướng Khiêm về trường hợp Thiếu Tá Thiên, trình xong, Thiếu Tướng Khiêm chưa có phản ứng thì Trung Tướng Minh ra lệnh:

“Kêu qua nhốt luôn”
“Vâng”.
Tôi báo cho Quân Cảnh phụ trách cổng số 1, mở cổng, và hướng dẫn Đại Tá Hiền vào phòng họp, gọi cho đúng là "phòng tạm giữ".
Đến lúc này thì điện thoại tôi reo liên hồi, hết ông Tỉnh Trưởng này đến vị Tỉnh Trưởng khác, hỏi thăm tình hình tại thủ đô ra sao? Nhóm đảo chánh có những vị nào? Có địa phương nào gọi về ủng hộ chưa? Các vị Tư Lệnh Quân Đoàn Sư Đoàn có ủng hộ không? ..v..v.. Tất cả những câu hỏi, tôi nghĩ, chắc là các ông ấy có mục đích tìm hiểu thêm tình hình, để các vị ấy quyết định ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Thế thôi. Do vậy mới có thêm nhu cầu chuyển ngay các bản văn của địa phương ủng hộ Hội Đồng sang đài phát thanh Sài Gòn để loan tin kịp thời. Thế là tôi có thêm đường giây điện thoại trực tiếp với đài phát thanh và hầu như tất cả những bản văn ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của nhiều vị Tỉnh Trưởng, đều do tôi gợi ý. Và khi vị ấy đồng ý là tôi chuyển đến đài phát thanh qua điện thoại luôn. Nghĩa là từ lúc ông Tỉnh Trưởng đồng ý ủng hộ đến khi loan tin trên làn sóng, chỉ trong vòng 3 đến 5 phút.
Bất cứ biến cố nào cũng có người ủng hộ, người thì không, đó là lẽ đương nhiên. Trường hợp đảo chánh đang diễn tiến cũng vậy. Theo lệnh Thiếu Tướng Khiêm, tôi chuyển đến Truyền Tin:
“Hệ thống kiểm thính sẽ "chận bắt" trên làn sóng vô tuyến, các công điện gởi về Phủ Tổng Thống và trình lên văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân ngay. Còn trên hệ thống điện thoại viễn liên ngang qua tổng đài điện thoại Cộng Hòa trong khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu, phải thu băng các cuộc đàm thoại, ghi chép lại và trình lên vào mỗi đầu giờ”.
Bây giờ xin mời quí vị quí bạn cùng tôi rời bộ Tổng Tham Mưu để lên Biên Hòa, theo chân Sư Đoàn 5 Bộ Binh, lúc ấy Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu là Tư Lệnh. Những tin tức về hoạt động của Sư Đoàn này liên quan đến ngày đảo chánh 01/11/1963, do Đại Tá Lộ công Danh –lúc ấy là Thiếu Tá, trưởng phòng 3 Sư Đoàn 5 Bộ Binh- kể lại cho chúng tôi nghe vào năm 1981, khi bị giam chung ở trại tập trung tù chính trị Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh, miền bắc Việt Nam. Chuyện kể như thế này:
"Khoảng trung tuần tháng 10 năm 1963, Đại Tá Thiệu đã làm cho bộ tham mưu Sư Đoàn, nhất là các sĩ quan Phòng 2 Phòng 3 rất ngạc nhiên. Lệnh hành quân ban hành trong thời gian thật ngắn, bộ tham mưu phải vất vả lắm mới thi hành xong những công tác tham mưu trong việc điều động 1 Trung Đoàn Bộ Binh cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, và Công Binh Chiến Đấu. Khi tất cả sẳn sàng để sáng mai hành quân, thì Đại Tá Thiệu ra lệnh ngưng cuộc hành quân này và lập tức điều động lực lượng sang vùng khác.
Tuần lễ sau đó, lại chuẩn bị một cuộc hành quân khẩn cấp để rồi đến giờ chót lại thay đổi vùng hành quân, cũng là khẩn cấp! Chính Phòng 2 -phụ trách tình báo- cũng không hiểu vì sao lại chuyển vùng hành quân mà Phòng 2 chưa ghi nhận sự hiện diện một lực lượng nào của quân cộng sản ở đó cả.
Ngày 30 và 31/10/1963, lại chuẩn bị hành quân vào căn cứ Bời Lời. Đây là một căn cứ quan trọng của quân cộng sản, cho nên lực lượng tham dự gần 2 Trung Đoàn Bộ Binh, 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh, lực lượng Thiết Giáp và Công Binh. Đêm 31 tháng 10 rạng ngày 01/11/1963, lệnh của Đại Tá Tư Lệnh cho chuyển toàn bộ các đơn vị xuống hành quân vùng Phước Tuy (trên đường Sài Gòn-Vũng Tàu). Bộ tham mưu muốn điên đầu vì những thay đổi mà chính các sĩ quan trách nhiệm điều động và yểm trợ hành quân, cũng không sao hiểu nổi.
Sáng 01/11/1963, các đơn vị, thay vì di chuyển về hướng Vũng Tàu như lệnh hành quân đã định, lại được lệnh dừng quân ở ngã ba xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn-Vũng Tàu, chờ lệnh mới.
Đến 1 giờ trưa, lệnh mới được ban hành: Theo đó, các đơn vị chuyển hướng về Sài Gòn. Ngoài lực lượng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, còn có một lực lượng Thiết Giáp xuất phát từ Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp (đồn trú ở Bà Rịa) cùng tiến quân. Vào buổi chiều thì bản doanh Sư Đoàn và 1 bộ chỉ huy Trung Đoàn đặt tại trường đại học sư phạm, đại lộ Cộng Hòa, trong khi lực lượng của Sư Đoàn đã chiếm giữ các vị trí ấn định trong phạm vi thủ đô Sài Gòn.
Lại mời quí vị, chúng ta dành thêm chút thì giờ xuống Quân Đoàn IV tại Cần Thơ, nhưng trước khi xuống Cần Thơ, đến ngã ba Trung Lương mời quí vị tạt vào Mỹ Tho quan sát Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại đây. Tư Lệnh Sư Đoàn là Đại Tá Bùi Đình Đạm. Sư Đoàn phụ trách Khu 41 Chiến Thuật gồm 6 tỉnh bờ bắc Sông Tiền là Kiến Hòa, Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, và Long An, gồm cả Đồng Tháp Mười. Vì Đại Tá Đạm được xem là thành phần tín cẩn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa Đại Tá Nguyễn Hữu Có từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho, khống chế Đại Tá Đạm với mục đích cầm chân Sư Đoàn tại chỗ.
Xong, chúng ta cùng xuống Cần Thơ, bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Trung Tá Huỳnh Văn Tồn đã xuống bộ tư lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật, với nhiệm vụ thuyết phục Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nhưng không thành công, ông áp dụng biện pháp dự liệu trước là uy hiếp Thiếu Tướng Cao án binh bất động.
Năm 1962, Đại Tá Huỳnh Văn Cao là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho, được thăng cấp cấp Thiếu Tướng ngày 05/12/1962, trước Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm một ngày dù rằng hai Sắc Lệnh thăng cấp cùng một ngày ký. Điều đó có nghĩa là Thiếu Tướng Cao thâm niên hơn Thiếu Tướng Khiêm một ngày, và trong quân đội vấn đề thâm niên là rất quan trọng về mặt chỉ huy. Không có gì khó hiểu khi biết rằng Thiếu Tướng Cao là đảng viên đảng Cần Lao trong khi Thiếu Tướng Khiêm vừa là khác tôn giáo vừa là người ngoài đảng.
Quân Đoàn IV được thành lập ngày 01/01/1963, và Tổng Thống Diệm cử Thiếu Tướng Cao giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn này từ ngày ấy.
Xin mời sang Sa Đéc quan sát hoạt động của Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Đại Tá Bùi Dzinh, Tư Lệnh Sư Đoàn và Tư Lệnh Phó là Trung Tá Đoàn Văn Quảng. Trung Tá Quảng trách nhiệm khống chế Đại Tá Dzinh và giữ chân Sư Đoàn tại chỗ. Năm 1961 và 1962, Trung Tá Quảng là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh trong khi Đại Tá Trần Thiện Khiêm là Tư Lệnh. Do vậy mà lệnh của Thiếu Tướng Khiêm được Trung Tá Quảng thi hành một cách tích cực. Nhưng theo cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, thì trách nhiệm khống chế Đại Tá Bùi Dzinh án binh bất động Sư Đoàn 9 Bộ Binh là do cựu Đại Tá Nhan Minh Trang -lúc đó là Thiếu Tá- theo lệnh Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng từ Sài Gòn xuống Sa Đéc thi hành.
Đại Tá Bùi Dzinh và Đại Tá Trần Thiện Khiêm cùng học lớp "chỉ huy tham mưu" tại Hoa Kỳ năm 1959, cùng trở về Việt Nam và cùng nhận chức tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh vào đầu tháng 02/1960, khi Trung Tá Trần Thanh Chiêu bị cách chức. Đại Tá Khiêm Tư Lệnh, Đại Tá Bùi Dzinh Tư lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Đại Tá Bùi Dzinh, rất được Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu tín nhiệm. Sư Đoàn 9 Bộ Binh thành lập tại Qui Nhơn, và Tổng Thống Diệm cử ông vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. Sau đó, Sư Đoàn 9 Bộ Binh được lệnh chuyển toàn bộ vào hoạt động vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bây giờ mời quí vị trở về Bộ Tổng Tham Mưu.
Trước 5 giờ chiều một chút, tôi trình nhắc Thiếu Tướng Khiêm về trường hợp Đại Tá Quyền -Tư Lệnh Hải Quân- Thiếu Tướng Khiêm cho biết là Đại Tá Quyền đã bị sĩ quan tùy viên của ổng bắn chết trên Thủ Đức rồi.

Lúc 5 giờ chiều: “Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Chào anh Hoa. Tôi là Đại Úy Bằng đây. Anh mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống”.

Đại Úy Bằng là sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Diệm, thường trực ở văn phòng Phủ Tổng Thống.

“Vâng. Anh chờ tôi đầu máy”.

Tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm và nhấc ống nói trao cho ông:

“Mời Thiếu Tướng tiếp chuyện với Tổng Thống”.

Thiếu Tướng Khiêm chưa kịp nhận ống nói thì Trung Tướng Minh chụp lấy ngay. Tôi không nghe Tổng Thống Diệm nói gì mà chỉ nghe Trung Tướng Minh:

“Chúng tôi chỉ chấp nhận cho ông đi ngoại quốc như một người bình thường”.
“........................”
“Không”.

Tiếp đó, Trung Tướng Minh nói với các vị có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm sau khi ông dằn ống nói xuống vị trí:

“Ổng đòi đi như một Tổng Thống, tôi không đồng ý”.
Lúc đó trong phòng im phăng phắc, chừng như cách giải quyết của Trung Tướng Minh đem lại niềm suy nghĩ cho các vị ấy thì phải. Tôi nhìn vào thái độ của các vị mà suy đoán như vậy.

Điện thoại lại reo và đầu giây bên kia vẫn là Đại Úy Bằng mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống. Tôi lại vào:

“Trình Thiếu Tướng, Tổng Thống muốn nói chuyện với Thiếu Tướng”.
Cũng như lúc nảy, Trung Tướng Minh chụp ống nói lên, rồi đặt xuống máy: “Không cần nói chuyện với ổng”
.
Tôi trở ra phòng và trả lời Đại Úy Bằng:

“Rất tiếc là Trung Tướng Minh cắt đường giây rồi. Chào anh”.

Khoảng 6 giờ chiều. Một buổi họp ngay trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, cũng là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Ngoài các vị có mặt ở đây từ lúc trưa, tôi thấy có thêm Trung Tá Mai của Không Quân (dường như là Đỗ Khắc Mai) mà mấy phút trước đây Quân Cảnh cổng số 1 điện thoại cho tôi biết. Buổi họp ngắn gọn này quyết định:

"Không Quân phải chuẩn bị càng nhiều phi tuần khu trục càng tốt, nếu đến 7 giờ sáng mai (2/11/1963) mà ổng (Tổng Thống Diệm) chưa đầu hàng thì đánh bom xuống dinh Gia Long trong khi Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp sẳn sàng xung phong ngay sau khi Không Quân chấm dứt đánh bom".
.
Phải nói rằng, lúc bấy giờ trên nét mặt các vị biểu hiện ít nhiều lo âu, bởi bên đảo chánh với dấu hiệu thành công chưa nhiều, trong khi bên bị đảo chánh cũng chưa có dấu hiệu gì nhiều về sự thất bại, tuy chưa có vị Tư Lệnh đại đơn vị nào lên tiếng ủng hộ Tổng Thống.
Thiếu Tướng Đỗ cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Vùng I Chiến Thuật ở Đà Nẳng, đã có công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ngay từ đầu. Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật ở Plei Ku, có thể là lúc đầu còn chần chừ nhưng sau đó thì có công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Thật sự nếu ông có chần chừ cũng đúng thôi, vì dù sao thì ông cũng được Tổng Thống Ngô Đình Diệm tín nhiệm khi đưa ông từ Tư Lệnh Quân Khu 5 về giữ chức Tham Mưu Trưởng/Tổng Tham Mưu, và trong cuộc đảo chánh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11/11/1960, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh hoàn toàn ủng hộ Tổng Thống. Đến Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật là Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, đang trong thành phần Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng rồi. Còn Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao đang bị khống chế tại bộ tư lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, và Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhẩy Dù, đang bị giữ tại tòa nhà chánh. Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã bị giết lúc trưa.
Xem chừng Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, lần này không có nhiều cơ may như lần bị Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh cách đây 2 năm, nhưng dù sao thì Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cũng chưa đủ yếu tố để lạc quan về sự thành công của mình. Có lẽ cũng vì vậy mà Thiếu Tướng Khiêm bảo tôi đích thân lái xe về nhà đón vợ và 2 con ông, đưa đến nhà riêng của Thiếu Tướng Lê Văn Kim trên đường Võ Di Nguy, gần khu nghĩa trang giáp ranh với cổng số 3 của bộ Tổng Tham Mưu, tạm vắng mặt tại nhà. Khu này tương đối vắng vẻ. Khi xe trên đường đến nhà Thiếu Tướng Kim, bà Khiêm hỏi tôi:

“Chú Hoa, chú biết ai làm đảo chánh không?”

“Dạ biết. Nhiều vị lắm, có Trung Tướng Minh, Trung Tướng Đôn, Thiếu Tướng Đính, Thiếu Tướng Kim, Thiếu Tướng Xuân, .... đông lắm”.

“Nếu có ai hỏi thì chú đừng nói có "nhà tôi" nghe chú”.

“Vâng”.

Thật ra thì Thiếu Tướng Khiêm không cho gia đình biết những gì mà ông và các vị khác cùng làm, cho nên bà Khiêm tỏ ra âu lo dự phòng của người đàn bà bình thường vậy thôi.

Trở lại tình hình tại văn phòng, và lúc này vào khoảng giữa đêm.

“Đại Úy Hoa tôi nghe”.

“Trung Tá Minh đây em”
.
Đó là Trung Tá Nguyễn Văn Minh mà các bạn ông thường gọi là "Minh đờn", Tỉnh Trưởng tỉnh An Giang. Là một vị Tỉnh Trưởng rất được lòng Tổng Thống và ông Cố Vấn. Tôi quen biết với Trung Tá Minh nhiều là trong thời gian tôi giữ chức chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại Cần Thơ. Trung Tá Minh có tiếng là sĩ quan xử sự rất khéo với cấp trên và "chơi ngọt" với cấp dưới, nếu như cấp dưới đó là thân cận với cấp trên của ông. Dạo đó, cứ mỗi khi ông xuống Cần Thơ là y như rằng, ông ghé cho tôi tí tiền còm kèm theo câu "em cầm lấy uống cà phê chơi" mà tôi có bao giờ uống cà phê đâu.

“Thưa Trung Tá, dường như Trung Tá chưa có công điện ủng hộ Hội Đồng phải không?”

“Tình hình đến giờ ra sao rồi em?”

“Trung Tá theo dõi đài phát thanh thì rõ vì tất cả những tin tức đó là chính xác. Bây giờ tôi thử đọc bản văn ủng hộ Trung Tá nghe, nếu Trung Tá đồng ý thì tôi chuyển sang đài phát thanh ngay, chỉ vài phút sau đó là Trung Tá nghe công điện ủng hộ của Trung Tá và tỉnh An Giang phát đi trên làn sóng đài Sài Gòn”.

Thế là tôi đọc bản văn luôn, và Trung Tá Minh đồng ý ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.

Đến khoảng 3 giờ sáng (2/11/1963), Truyền Tin mang vào công điện của ông Tỉnh Trưởng Lâm Đồng (nay là ấn bản lần thứ 4 mà tôi vẫn không nhớ tên ông). Công điện này gởi Phủ Tổng Thống với nội dung:

"... Quân Dân Cán Chánh tỉnh Lâm Đồng nguyện ủng hộ Tổng Thống và gia đình, chống lại cuộc đảo chánh của bọn phản loạn.."

Tôi mang vào trình Thiếu Tướng Khiêm. Xem xong, ông trao cho Trung Tướng Minh, lướt qua nội dung, ông lại đưa cho Thiếu Tướng Đính và kèm theo khẩu lệnh:

“Toa" kiếm người thay thằng này đi”.
Sở dĩ Trung Tướng Minh trao cho Thiếu Tướng Đính vì tỉnh Lâm Đồng thuộc Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật mà Thiếu Tướng Đính đang là Tư Lệnh.

Vài ngày sau đó, ông Tỉnh Trưởng Lâm Đồng, người gởi công điện nói trên, sau khi từ văn phòng Trung Tướng Khiêm (Thiếu Tướng Khiêm thăng cấp Trung Tướng chiều 02/11/1963) trở ra, ông hỏi tôi với vẻ khó chịu:

“Tôi có gởi công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà tại sao tôi bị cách chức. Anh có biết lý do không?”
“Dạ không thưa Thiếu Tá. Nhưng tôi biết là quí vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng có xem công điện Thiếu Tá gởi về Phủ Tổng Thống, do hệ thống Truyền Tin/Tổng Tham Mưu "chận bắt" tất cả những làn sóng như vậy”.
Ông quày quả ra khỏi phòng mà chẳng buồn chào trả lại. Thật ra thì đến gần sáng ngày 02/11/1963, ông có công điện ủng hộ Hội Đồng, nhưng điều đó đã quá trễ. Trong cuộc sống, biết nhận đúng thời cơ là tốt nhất, vì hành động sớm quá hay muộn quá, thường là không mang lại kết quả tốt, đôi khi chuốc lấy nguy hại là khác.

(còn tiếp)