- hai -
Đảo Chánh ngày 30 tháng 1 năm 1964
*****
Công du Nam Hàn (South Korea)
Đầu tháng 12/1963, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm gọi tôi vào văn phòng:
“Chú thích đi du lịch không?”
“Rất thích, nhưng chưa có cơ hội thưa Trung Tướng”.
“Bây giờ có rồi. Chú liên lạc sang văn phòng Trung Tướng Đôn (Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng) làm thủ tục đi Đại Hàn (South Korea) với tôi”.
Không ngờ là cơ hội tốt đến với tôi trong hoàn cảnh đang vui, nên tôi xúc tiến ngay. Sau đó, tôi mới biết đây là phái đoàn thay mặt chánh phủ sang Đại Hàn (Nam Triều Tiên) dự lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi vào ngày 17 tháng 12 năm 1963 tại thủ đô Seoul. Phái đoàn chánh thức gồm: (1) Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, Trưởng phái đoàn. (2) Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên. (3) Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, thành viên. (4) Đại Tá Linh Quang Viên, Bộ Quốc Phòng, thành viên. (5) Và tôi, Thiếu Tá Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên.
Ngoài ra còn có gia đình của Trung Tướng Khiêm và gia đình của Thiếu Tướng Thiệu, thêm Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khiêm, và Đại Úy Nhan Văn Thiệt, sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu.
Trong nhóm đi đầu là Đại Tá Linh Quang Viên, và tôi. Chúng tôi rời Sài Gòn ngày 08/12/1963, dừng lại Tokyo 5 ngày chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho hai gia đình của Trung Tướng Khiêm và Thiếu Tướng Thiệu, sẽ ngoạn cảnh và mua sắm trong khi chờ các vị dự lễ bên Seoul trở lại. Chúng tôi đến Seoul trưa ngày 13/12/1963 khi nhiệt độ nơi đây xuống đến 5 độ dưới không độ C. Tạm thời chúng tôi ở khách sạn Bando tại trung tâm thủ đô Seoul. Với sự giúp đỡ của tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại đây, chúng tôi hoàn thành công tác chuẩn bị: Đại Tá Viên đã xong bản tường trình về tình hình chính trị trước và sau ngày bầu cử Tổng Thống Đại Hàn. Và tôi đã có đầy đủ tin tức cũng như chương trình chi tiết trong ngày lễ, cùng những ngày sau đó dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng qua những buổi thuyết trình ngắn của tòa đại sứ, chúng tôi hiểu thêm đôi nét về cựu Tổng Thống Lý Thừa Vãng trong thời gian lãnh đạo quốc gia này. Theo đó, nếu so với bà Ngô Đình Nhu nặng về chính trị, thì hoạt động của bà Lý Thừa Vãng nghiêng về kinh tế, và khách sạn Bando là một trong rất nhiều cơ sở kinh doanh của đệ nhất phu nhân họ Lý. Khi ông Lý Thừa Vãng lưu vong, Đại Tướng Pak Chung Hi nhân danh quân đội lên cầm quyền. Ông có vị Cố Vấn phảng phất ông Ngô Đình Nhu lúc đương thời, đó là ông Kim Jong Pil. Vì vậy mà khi Đại Tướng Pak Chung Hi chánh thức tuyên bố ứng cử Tổng Thống, ông Cố Vấn của Đại Tướng Pak Chung Hi đã theo khuyến cáo của Hoa Kỳ, xuất ngoại để trấn an dư luận như là ông không dính dáng đến chính trị, nhưng thật ra ông đã chuẩn bị xong công tác tổ chức bầu cử trước khi xuất ngoại. Sau đó, cuộc bầu cử đã diễn tiến như dự định và Đại Tướng Pak Chung Hi đắc cử. Ông Kim Jong Pil lại trở về Seoul, vẫn trong chức vụ Cố Vấn.
Phần chánh của phái đoàn đến phi trường Kimpo, thủ đô Seoul, trưa ngày 17/12/1963, tức là ngày Đại Hàn cử hành lễ nhậm chức Tổng Thống của Đại Tướng Pak Chung Hi. Cả phái đoàn đầy đủ được hướng dẫn lên khu Walker Hill cách Seoul khoảng 8 cây số về phía bắc, một khu thắng cảnh rất đẹp của Đại Hàn, chỉ dành cho khách ngoại quốc để thu ngoại tệ. Cả một vùng rừng núi được biến thành khu du lịch với những khách sạn, nhà hàng, các khu giải trí với nhiều môn khác nhau, xây dựng bên các sườn núi mà hầu hết là nhìn xuống sông Hàn (Han river) uốn khúc dưới chân. Vào mùa này, nước sông Hàn đóng băng trắng xóa, trông rất đẹp.
Đến nơi, vừa mang hành lý vào phòng là Trung Tướng Khiêm gọi tôi:
“Mấy giờ bắt đầu lễ vậy chú?”
“Dạ 3 giờ chiều, thưa Trung Tướng”.
Ông nhìn đồng hồ:
“Ngay bây giờ, chú chạy đi tìm mua cho tôi "cặp lon 3 sao", vì trong cặp tôi chỉ có "3 sao" cho một bên áo thôi”.
“Vâng”.
Chẳng hiểu Đại Úy Nguyễn Hữu Có ở Tokyo, khi chuẩn bị hành lý cho "sếp" lại gấp gáp thế nào mà chiếc áo đại lễ của Trung Tướng Khiêm chỉ có một bên 3 ngôi sao, nghĩa là thiếu 3 ngôi sao cho cầu vai bên kia (cấp hiệu Trung Tướng biểu hiện bằng 3 ngôi sao mỗi bên cầu vai).
Nhận lệnh của Trung Tướng Khiêm là như vậy, nhưng tôi chưa biết phải làm sao mua cho kịp. Chợt nhớ anh sĩ quan Công Binh tại Bộ Quốc Phòng Đại Hàn, Thiếu Tá Choi, sĩ quan tùy viên cho phái đoàn chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và anh ta trình diện Đại Tá Linh Quang Viên tại sân bay trước khi phái đoàn chánh thức đến. Ra phòng khách, tôi nói với anh về nhu cầu gấp rút đó và hy vọng anh ta giúp tôi được.
Anh ta hỏi: “Anh sẳn sàng chưa?”
“Sẳn sàng”.
Thế là chúng tôi lên xe của phái đoàn có cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Đại Hàn, do xe Cảnh Sát của Đại Hàn dẫn đường chạy xuống Seoul. Quanh co một lúc, cả hai xe đậu ngoài đường cái, tôi theo Thiếu Tá Choi trên con đường hẽm vào gian hàng nhỏ ơi là nhỏ nằm sâu trong con đường thưa vắng người qua lại. Mua ngay "cặp lon 3 sao" mà không cần trả giá. Chúng tôi về đến Walker Hill vừa vặn cùng phái đoàn lên xe xuống Seoul dự lễ.
Seoul chiều ngày 17 tháng 12 năm 1963, đang trong thời tiết 5 độ dưới không độ C. Bầu trời u ám bao trùm thủ đô, một thành phố toàn cây trụi lá giữa mùa đông xám xịt. Quan khách của 25 quốc gia và viên chức của quốc gia sở tại, ngồi chật cả khán đài không mái che ngay trước tòa nhà Quốc Hội. Lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi cử hành đúng 3 giờ chiều trong một không khí không được trang nghiêm khả dĩ tương xứng cho buổi lễ quan trọng này. Một phần vì thời tiết quá lạnh, một phần do dân chúng tham dự không nhiều, và phần khác là có một số người tập trung bên kia đường hô hào chống đối một cách lạc lỏng, họ cáo buộc cuộc bầu cử vừa rồi là gian lận. Cảnh Sát chỉ đứng sát lòng đường để giữ trật tự mà không có hành động nào với nhóm người biểu tình.
Ngay sau lễ, các phái đoàn được hướng dẫn đến nhà hát xem trình diễn văn nghệ cổ truyền của Đại Hàn. Rồi buổi dạ tiệc trọng thể, tổ chức trong khuôn viên dinh Tổng Thống mừng ngày trọng đại của Đại Hàn Dân Quốc, khoản đãi các phái đoàn đại diện 25 quốc gia. Đại Hàn Dân Quốc là tên gọi của quốc gia phía nam của Triều Tiên theo chế độ dân chủ tự do, trong khi quốc gia phía bắc theo chế độ cộng sản độc tài, ranh giới giữa hai quốc gia này là vĩ tuyến 38. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt (năm 1945), cũng là lúc ba quốc gia trên thế giới bị chia đôi: Đó là Đức Quốc chia làm hai quốc gia theo chiều Đông Tây, Triều Tiên và Việt Nam chúng ta chia làm bốn quốc gia theo chiều Nam Bắc.
Riêng hoàn cảnh chính trị của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) có khác so với Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn Dân Quốc về địa lý, nhưng hoàn cảnh chính trị là cùng chống chiến tranh ý thức hệ cộng sản, có lẽ vì vậy mà những ngày sau đó, phải thừa nhận là chánh phủ Đại Hàn đã dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa chúng ta và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, sự đón tiếp rất nồng hậu gần như riêng biệt trong số 25 phái đoàn quốc tế tham dự. Tổng Thống Đại Hàn -theo lời của Bộ Ngoại Giao Đại Hàn- chỉ tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc. Khi tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Pak Chung Hi nói tiếng Đại Hàn và ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa nói tiếng Pháp. Tôi rất ngạc nhiên về điều này, vì theo thông thường ông phải nói tiếng Việt Nam. Thông dịch buổi tiếp kiến là hai thanh niên Đại Hàn, một nam một nữ.
Quốc gia thứ 3 có hoàn cảnh chính trị giống nhau là Cộng Hòa Liên Bang Đức, nhưng có thể do địa lý và văn hoá mà phái đoàn Cộng Hòa Liên Bang Đức không nằm trong chương trình riêng biệt nói trên chăng, mặc dù phái đoàn này cũng có mặt trong lễ nhậm chức?
Trước khi rời Seoul, mỗi thành viên trong phái đoàn chúng ta được chánh phủ Đại Hàn tặng 2 thùng trái cây tươi (bôm và nho) do Đại Hàn sản xuất bước đầu về kỹ nghệ trong nông nghiệp. Đây là chính sách quan trọng trong sách lược quốc gia của Đại Hàn Dân Quốc -theo lời ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đại Hàn- từ sau cuộc chiến tranh 1950-1953.
Trở lại Tokyo ngày 20/12/1963. Đêm 24/12/1963, phái đoàn được ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và phu nhân tại Nhật Bản, khoản đãi phái đoàn tại nhà riêng. Trong khi trò chuyện, bỗng mọi thứ trong nhà đều rung chuyển nhè nhẹ, ly tách chén dĩa lắc lư kêu leng keng trong vài chục giây đồng hồ. Ông Đại Sứ Nghĩa (xin lỗi là tôi không nhớ họ) nhìn thấy nét ngạc nhiên của phái đoàn nên ông lên tiếng trấn an:
“Khu vực chúng ta đang ngồi vừa bị động đất nhẹ nên không hư hại gì. Mời quí vị xem tivi sẽ rõ”.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được đôi chút về động đất.
Ngày 25/12/1963, tôi với Đại Úy Nhan Văn Thiệt -tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu- rời Tokyo trở về Sài Gòn vì hết tiền. Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, cũng rời Tokyo ngày ấy, nhưng ông chưa về Việt Nam mà còn đi thăm quốc gia nào đó.
Trung Tướng Khiêm nhận chức vụ mới.
Về đến Sài Gòn là tôi vào văn phòng ngay, vì chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng gọi tôi vào gặp Trung Tướng Trần Văn Đôn dù hôm nay là ngày nghỉ.
“Thưa Trung Tướng, tôi vừa về đến”.
“Anh ngồi đi. Công du có vui không?”
“Rất vui, thưa Trung Tướng”.
“Anh có hay tin về chức vụ mới của Trung Tướng Khiêm chưa?”
“Dạ chưa, thưa Trung Tướng”
“Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã cử Trung Tướng Khiêm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật rồi”.
“Thưa Trung Tướng, trường hợp này hồ sơ Trung Tướng Khiêm bàn giao cho vị nào để tôi chuẩn bị cho kịp?”
“Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Kim (Lê Văn Kim). Anh chuẩn bị cần thiết để Trung Tướng Khiêm khi về đến là bàn giao ngay và sang nhận Quân Đoàn III”.
“Lệnh này Trung Tướng Khiêm có biết chưa, thưa Trung Tướng?”
“Tôi chắc là chưa, nhưng dù sao thì anh cũng nên trình với Trung Tướng Khiêm khi anh đón ổng. Mà hôm nào Trung Tướng Khiêm về?
“Rạng sáng ngày 1 tháng 1 (1964) về đến, thưa Trung Tướng”.
“Anh liên lạc với chánh văn phòng Trung Tướng Kim và chánh văn phòng Trung Tướng Đính để thu xếp chương trình lễ bàn giao. Mọi việc đều diễn tiến trong phạm vi nội bộ thôi. Anh có điều gì cần hỏi nữa không?”
“Dạ không. Tôi sẽ thi hành, thưa Trung Tướng”.
Tôi rất thắc mắc là tại sao không chờ Trung Tướng Khiêm về hãy đưa ra quyết định này. Phải chăng Trung Tướng Dương Văn Minh cử Trung Tướng Trần Thiện Khiêm vào phái đoàn công du ngoại quốc để các vị ở nhà không gặp trở ngại khi quyết định như vậy? Trung Tướng Khiêm có nói với tôi rằng, ông là một trong rất ít vị (nếu tôi nhớ không lầm là 4 vị) vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963), với lại chỉ riêng những lệnh tối mật mà Trung Tướng Khiêm chỉ thị cho tôi vào sáng sớm ngày đảo chánh, cũng đủ nói lên vị trí quan trọng của ông đến mức nào trong cuộc đảo chánh đó. Sao lại xử sự như vậy? Bởi đây là một cách mà trong giới cầm quyền thường nửa đùa nửa thật là "hạ tầng công tác". Dù đúng hay không đúng thì rõ ràng là từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu đến chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhìn từ bên ngoài là xuống một bậc rồi còn gì!
Tôi chuẩn bị bàn giao, kể cả xin lệnh thuyên chuyển 6 nhân viên văn phòng sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, đồn trú trong khuôn viên trại Lê văn Duyệt, tọa lạc đường Lê văn Duyệt, Quận 3 Sài Gòn (về sau là bản doanh Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô).
Tuy Trung Tướng Khiêm đã dặn tôi và nhắc lại một lần trước khi tôi rời Tokyo ngày 25/12/1963, khi ông và gia đình về đến Tân Sơn Nhất, chỉ một mình tôi cùng mấy nhân viên trong tư dinh đón mà thôi, vì ông cho rằng đây chẳng qua là chuyện gia đình chớ không phải là phái đoàn công du trở về. Chính vì vậy mà ông chọn chuyến phi cơ về đến thủ đô khi Sài Gòn còn chìm trong giấc ngủ.
Đúng 3 giờ sáng ngày 01/01/1964, Trung Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Thiệu và hai gia đình về đến. Phi cơ dừng hẳn lại. Tắt máy. Tôi ra tận cầu thang đón ông. Chỉ vài bước rời khỏi cầu thang:
“Xin Trung Tướng đi chậm một chút vì tôi có nhận lệnh của Trung Tướng Đôn, thưa Trung Tướng”.
“Chuyện gì vậy?”
“Trung Tướng có được tin gì về lệnh cử Trung Tướng giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III chưa?”
“Chưa. Mà ai nói với chú vậy?”
“Dạ, Trung Tướng Đôn”.
“Ổng nói với chú hồi nào?”
“Dạ ngay khi tôi về đến Sài Gòn. Và Trung Tướng Đôn có nói là công tác bàn giao sau khi Trung Tướng về đến. Tôi đã chuẩn bị hồ sơ bàn giao xong rồi thưa Trung Tướng”.
Trung Tướng Khiêm đứng hẳn lại và im lặng một lúc:
“Ổng có nói gì nữa không?”
“Dạ không”.
“Sáng mai tôi gặp mấy ổng”.
Trung Tướng Khiêm nhìn vào nhà ga bên khu vực dành riêng cho các nhân vật quan trọng:
“Ai đón mà đông vậy?”
“Dạ các vị Trưởng Phòng/Tổng Tham Mưu. Tôi xin lỗi Trung Tướng, vì các vị ấy nói quá nên tôi không thể nói dối ngày giờ Trung Tướng về. Với lại tôi nghĩ là không nên cứng nhắc quá với các vị "tay phải tay trái" của Trung Tướng, e không có lợi”.
Đi được mấy bước, bà Khiêm quay lại:
“Chú Hoa. Bộ có chuyện hả?”
Tôi thuật tóm tắt cho bà Khiêm nghe, bà có ý trách:
“Sao mấy ổng kỳ vậy?”
“Tôi cho là điều không bình thường, dù rằng Trung Tướng Đính cần giảm bớt chức vụ Tư Lệnh Đoàn III để chu toàn chức vụ Tổng Trưởng An Ninh”.
“Chú biết ai thay "nhà tôi" không?”
“Dạ Trung Tướng Kim”.
Bà Khiêm buột miệng: “Họ hàng với ông Đôn rồi”.
Sáng ngày 02/01/1964, Trung Tướng Khiêm từ phòng Trung Tướng Đôn trở về, ông gọi tôi:
“Chú tổ chức bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay chiều nay. Không có ai chủ tọa hết”.
Lời nói và giọng nói của ông cho phép tôi suy đoán là ông đang tức giận.
“Vâng. Tôi thi hành ngay thưa Trung Tướng”.
Ngay chiều hôm ấy, Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Lê Văn Kim tại Bộ Tổng Tham Mưu, sau đó sang Quân Đoàn III nhận quân kỳ tiêu biểu chức vụ Tư Lệnh từ tay Trung Tướng Tôn Thất Đính. Cả hai lễ bàn giao đều tổ chức trong văn phòng mỗi nơi một cách nhanh chóng.
Từ ngày Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng (02/11/1963), giờ làm việc trong quân đội được ấn định từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, được nghỉ nửa giờ để ăn trưa tại chỗ, nhưng tại văn phòng chúng tôi thông thường là phải đến 6 giờ chiều mới ra về.
Trung Tướng Khiêm khá xông xáo trong công tác đi thăm các đơn vị, các tiểu khu trực thuộc, nhưng theo cách nhìn của tôi thì ông không bộc lộ hết nhiệt tình như lúc giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Xin đừng nghĩ rằng, nét nhìn của tôi bị ám ảnh bởi quyết định từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu đến Tư Lệnh Quân Đoàn III của Trung Tướng Khiêm mà có, vì tôi là sĩ quan tham mưu đặc biệt dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Khiêm từ năm 1960, nên tôi khá quen với thái độ cũng như cử chỉ của ông trong những lúc vui buồn, suy tư, hay tức giận.
Khoảng từ trung tuần tháng 01/1964, tức là nửa tháng sau ngày nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Khiêm (tại Sài Gòn) với Trung Tướng Nguyễn Khánh (tại Đà Nẳng), rất thường liên lạc nhau qua điện thoại viễn liên, và rõ ràng là Trung Tướng Khánh khích Trung Tướng Khiêm trong việc phục hồi danh dự vì bị thuyên chuyển mà không được biết trước.
Trung Tướng Khiêm là người ít nói, không thích tiếp xúc với các cơ quan truyền thông, cũng chẳng thích phô trương, và con đường chính trị -theo tôi- cũng không phải là hướng đi của ông, nên tôi không nghĩ là ông dễ dàng bị Trung Tướng Khánh dẫn đến một cuộc chính biến nữa để gọi là phục hồi danh dự cho ông, đành rằng ông đang buồn phiền và chắc là buồn phiền về vấn đề ấy.
Chỉnh Lý (Đảo Chánh).
Nhưng tôi lầm, vì cuộc đảo chánh quân sự lại xảy ra khá đột ngột.
Ngày gần cuối tháng 01/1964, Trung Tướng Khánh từ Đà Nẳng điện thoại bảo tôi cho xe đón ông trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất (thường thì đón ông bên nhà ga dân sự) và tuyệt đối không cho ai biết là ông về Sài Gòn. Tôi trình Trung Tướng Khiêm và dùng xe của Trung Tướng Khiêm đi đón Trung Tướng Khánh. Lúc ấy đã hết giờ làm việc trong ngày. Sau đó, hai vị cùng ngồi chung xe đi đâu đó mà tôi không rõ vì xe an ninh không được chạy theo như lệ thường. Điều này làm cho tôi tự hỏi:
"Liệu có cuộc đảo chánh nữa hay không, vì sự vắng mặt bất thường này giống như những ngày cuối tháng 10/1963 vậy?"
Mờ tối ngày 29/01/1964, sau khi từ bộ tư lệnh Quân Đoàn III về đến nhà, Trung Tướng Khiêm gọi tôi đến nhà ông ngay. Vào cửa, tôi thấy bàn ăn đã sẳn sàng nhưng gia đình ông chưa người nào ngồi vào bàn, ông chỉ tôi ngồi đối diện ông ngay trong phòng khách, và ông ra lệnh:
“Việc này đối với chú là lần thứ hai. Tôi muốn nói là chú biết việc gì phải làm. Chú mà hé môi với bất cứ ai trước khi thực hiện thì chú bị đứt đầu nghe chưa”.
“Vâng”.
Trong một thoáng thật nhanh tôi liên tưởng đến sự đi đâu đó của hai vị giống như trước ngày 01 thàng 11 năm ngoái (1963). "Đảo chánh nữa chăng, vì Trung Tướng Khiêm vừa nói đây là lần thứ hai?" Ông tiếp:
“Vào sáng sớm mai, tôi + Trung Tướng Khánh + và Đại Tá Viên (Cao Văn), lật đổ nhóm ông Minh ông Đôn, vì các ông này có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì sớm muộn cũng vào tay cộng sản. Chú rõ chưa?”
“Dạ rõ”.
“Sau giờ này, chú điều động xe truyền tin hành quân của Quân Đoàn về đậu sau nhà chú. Nhà chú có chỗ kín đáo hông?”
“Dạ có. Sau nhà tôi là vườn chuối, tôi đốn bớt vài cây cho xe vào và sẽ thực hiện khi trời tối. Bên trái nhà tôi là Thiếu Tá Đào Ngọc Thọ (phòng 4/Bộ Tổng Tham Mưu), và bên phải là gia đình Thiếu Tướng Thiệu (Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh). Mình ở Quân Đoàn, hệ thống liên lạc hành quân là chuyện bình thường, chắc chẳng ai quan tâm đâu, thưa Trung Tướng”.
“Đích thân chú phải lên máy liên lạc trực tiếp với Thiếu Tướng Thiệu (ở Biên Hòa) và Thiếu Tướng Có (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho). Làm như vậy để biết chắc là mình giữ liên lạc được với hai ổng thôi, và khi liên lạc được rồi chú phải giữ máy thường trực cho tôi. Công tác này phải xong trước 2 giờ sáng. Nếu có gì trở ngại, chú trình tôi ngay. Chú rõ chưa?”
“Dạ rõ”.
“Chú gọi chú Có sang ngủ nhà chú đêm nay. Chú Có không được quyền biết trước công tác này. Chú với chú Có đem xe truyền tin đến sân nhà Trung Tướng Khánh (sát bên phải cổng số 1 Tổng Tham Mưu) trước 3 giờ sáng, nhưng không nên sớm quá. Đúng 3 giờ sáng, Đại Tá Viên và Tiểu Đoàn Dù vào cổng số 1. Chú đón tại cổng, mời Đại Tá Viên vào nhà ông Khánh, và hướng dẫn Tiểu Đoàn lên bố trí chung quanh tòa nhà chánh. Phần an ninh trại Trần hưng Đạo, chú với Trung Tá Luông tổ chức như lần trước. Chú cần hỏi gì thêm không?”
“Dạ không”.
“Chú chỉnh đồng hồ theo đồng hồ tôi đây. Trung Tá Luông sẽ nhận lệnh sau”.
Sau khi rời khỏi nhà Trung Tướng Khiêm, tôi sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, mời Đại Uý Truyền Tin (dường như là Đại Uý Nguyễn Hữu Phụng) lên văn phòng:
“Trung Tướng Tư Lệnh vừa ra lệnh cho tôi, đêm nay Trung Tướng cần giữ liên lạc thường trực với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, để theo dõi cuộc hành quân vào căn cứ Hố Bò (của cộng sản), vì có tin là một tên quan trọng của chúng vừa đến nơi đây (tôi bịa ra tin này). Ngay bây giờ, anh có thể cho anh em trên chiếc xe AN/GRC 26 chuẩn bị di chuyển sang nhà tôi bên Tổng Tham Mưu”.
“Tôi cho lệnh chuẩn bị ngay. Khi xong, xe đến đây chờ lệnh Thiếu Tá”.
Cũng phải mất nửa tiếng đồng hồ dọn đường, chiếc xe truyền tin mới vào được vị trí. Lúc đó tối lắm rồi, tôi trợ giúp anh em truyền tin dựng cột antenne vì liên lạc xa. Đại úy Nguyễn Hữu Có vừa đến và tiếp tay, nên công tác chuẩn bị cho hệ thống liên lạc hành quân được nhanh chóng. Đại úy Có không thấy tôi nói lý do sự có mặt xe này tại đây nên cũng không hỏi, vì thật ra giữa chúng tôi hiểu nhau về những vấn đề bảo mật, nếu một bên không nói thì bên kia không bao giờ hỏi. Nhóm hành quân chúng tôi chẳng ai ngủ được cả, vì ăn khuya xong là bắt tay vào việc lên máy gọi Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 7. Lúc 00 giờ 30 ngày 30/01/1964:
“Cửu Long gọi Đồng Nai. Trả lời”.
“Đồng Nai nghe 5/5. Có gì cho Đồng Nai. Trả lời”.
“Giới chức của Cửu Long cần gặp thẩm quyền Đồng Nai trên máy. Trả lời”.
“Rõ. Xin chờ đầu máy.... “
“Hoa đó hả? Tôi đây”. Đó là tiếng nói của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
“Thưa Đại Bàng, Đại Bàng tôi chỉ cần biết có liên lạc là tốt rồi. Tôi xin phép ngưng. Trả lời”.
“Được rồi”.
Cửu Long là danh hiệu Quân Đoàn III. Đồng Nai là danh hiệu Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đại Bàng có nghĩa là vị Tư Lệnh.
Đến Sư Đoàn 7 Bộ Binh, hai anh chuyên viên luân phiên gọi liên tục mà cứ như gọi vào khoảng không mù mịt của đêm khuya vì chẳng nghe tăm hơi đầu kia gì cả.
Đang rầu thúi ruột! Bỗng dưng, đài của Sư Đoàn 7 Bộ Binh “nhảy vô” và lúc đó gần 2 giờ sáng rồi. Sau khi tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, cả 3 đài trên hệ thống đặc biệt này giữ máy thường trực. Xin nói rõ thêm, Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Quân Đoàn IV, nên không có trong hệ thống liên lạc thường trực của Quân Đoàn III. Nhưng giữa các vị thu xếp trước, nên Sư Đoàn 7 Bộ Binh vào hệ thống đặc biệt này. Dĩ nhiên là tôi phải "ngụy tạo lý do" để giải thích cho các anh chuyên viên, vì sao mà Sư Đoàn 7 Bộ Binh tăng phái cho Quân Đoàn III trong cuộc hành quân đặc biệt từ hôm nay. Đơn giản, là vùng hành quân dọc theo liên ranh Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV. Thế thôi.
Điện thoại trình Trung Tướng Khiêm xong, tôi ngồi luôn trên xe truyền tin như là ngồi chơi với các anh chuyên viên, nhưng thật ra là tôi ngăn chận những liên lạc đến bất cứ nơi nào khác, vì lúc nảy có một anh thắc mắc về sự có mặt của Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong hệ thống này. Lúc gần 3 giờ, nhóm chúng tôi di chuyển lại nhà Trung Tướng Nguyễn Khánh, tạm gọi là "bản doanh nhóm lãnh đạo đảo chánh". Kể ra thì tên gọi đó cũng không sai. Trước khi rời nhà, tôi mới cho Đại úy Nguyễn Hữu Có biết công việc đã làm từ đêm qua và đang làm tiếp. (hai ông cùng tên Nguyễn Hữu Có, nhưng một là Đại Úy và một kia là Thiếu Tướng)
“Sao đảo chánh hoài vậy Anh?” Vợ tôi hỏi.
“Anh cũng hổng biết. Chỉ biết Trung Tướng (Khiêm) nói là Trung Tướng Dương Văn Minh có kế hoạch trung lập, mà trung lập thì gần tới cộng sản rồi Em”.
“Ghê vậy!”
Đúng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 01 năm 1964. Đại Tá Cao Văn Viên và Tiểu Đoàn Nhẩy Dù lặng lẽ qua cổng số 1 Tổng Tham Mưu với nhiệm vụ sẳn sàng tác chiến, nếu như có đơn vị nào đó kháng cự lại. Một lu`c sau, Đại Tá Viên vào nhà Trung Tướng Khánh.
Nhớ lại cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhẩy Dù, bị xếp vào những nhân vật thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cách ly với Lữ Đoàn. Ngày 02/11/1963, Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết, các vị bị cách ly từ hôm trước được trả tự do nhưng hầu hết đều bị cách chức. Đại Tá Cao Văn Viên cũng trong số các vị bị cách chức. Ngày hôm sau bà Cao Văn Viên điện thoại tôi:
“Chú Hoa. Trung Tướng của chú (ý nói Trung Tướng Trần Thiện Khiêm) có hứa với chị là sẽ xin với Trung Tướng Minh (Dương Văn Minh) cho Đại Tá (Cao Văn Viên) trở về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù để lấy lại danh dự, và 24 tiếng đồng hồ sau đó Đại Tá sẽ đệ đơn từ chức. Chị nhờ chú theo dõi diễn tiến ra sao rồi cho chị biết ngay nghe chú”.
“Vâng”.
Ngưng một chút, bà tiếp: “Mà chú thấy có hi vọng không?”
“Em thì chưa biết gì về việc này, nhưng theo em nghĩ, với vị trí hiện nay của Trung Tướng (Khiêm) trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, hi vọng là Trung Tướng thực hiện được lời hứa với chị”.
Và rồi Đại Tá Cao Văn Viên trở về chức vụ cũ, nhưng sau đó ông có xin từ chức Tư Lệnh Nhẩy Dù hay không thì tôi không biết, nhưng rõ ràng là ông vẫn trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù.
Các đơn vị an ninh thuộc Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã vào vị trí. Trung Tá Nguyễn Văn Luông đi lúc nào tôi không rõ, nhưng chắc chắn là đi rồi. Nhiệm vụ của Trung Tá Luông cùng với toán Quân Cảnh, Nhẩy Dù, An Ninh Quân Đội, .... đi bắt những vị Tướng mà Trung Tướng Khiêm với Trung Tướng Khánh cho là có kế hoạch trung lập. Đó là các vị: Trung Tướng Trần Văn Đôn. Trung Tướng Tôn Thất Đính. Trung Tướng Mai Hữu Xuân. Trung Tướng Lê Văn Kim. Và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ.
Riêng Trung Tướng Dương Văn Minh thì tôi không rõ là có tên trong danh sách bị bắt hay không. Trước lúc bình minh, tại bản doanh -nhà Trung Tướng Khánh- có mặt: Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Cao Văn Viên, một người Việt Nam dáng vấp trung bình về chiều cao lẫn chiều ngang, và một người Mỹ mặc quần tây dài áo sơ-mi tay ngắn. Anh chàng Mỹ này không phải là người có mặt trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 trước đây. Nói cách khác, người Mỹ này không phải Trung Tá Conein. Căn cứ theo lần đảo chánh đó, tôi tin chắc rằng, người Mỹ này là gạch nối giữa nhóm đảo chánh với giới chức thẩm quyền Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Thậm chí, có thể là đại diện của cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ từ Mỹ sang. Mà cho dù là gạch nối hay đại diện đi nữa, cũng là bằng chứng một sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, và cuộc đảo chánh hôm nay 30/01/1964.
Chỉ cần ba nhân vật, một ít lực lượng, với một người Hoa Kỳ quyền thế, cuộc đảo chánh diễn tiến thật êm thấm vì chỉ cần bắt 5 vị Tướng nói trên là xong. Êm thấm đến nỗi tôi tin rằng, người dân Sài Gòn và ngay cả nhiều cơ quan đơn vị quân đội, không hề biết gì về một biến cố quan trọng vừa xảy ra, nếu như đài phát thanh Sài Gòn vẫn phát đi chương trình bình thường. Năm vị Tướng bị bắt, đã đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, và nơi đến là Đà Nẳng. Trung Tướng Khánh đã chỉ thị ngoài đó đón và đưa về nơi giam giữ. Người bị bắt thứ 6 là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung -tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh- người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất “đã đâm và bắn Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông cố vấn Ngô Đình Nhu”, thì bị đưa lên trại Hoàng Hoa Thám -tức doanh trại Lữ Đoàn Nhẩy Dù- và giữ tại đó. Tại đây, Thiếu Tá Nhung buộc phải viết tờ khai về những gì đã làm liên quan đến cái chết của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Sau ngày đảo chánh 30/01/1964, tôi cũng không biết gì về nội dung trong tờ khai đó. (mãi đến năm 1998, qua bài báo của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, tôi mới biết chính xác là Thiếu Tá Nhung đã giết hai ông ấy. Được cựu Đại Tá Nghĩa đồng ý qua điện thoại, tôi đã bổ túc phần đó trong ấn bản lần 3 vào cuối năm 1998).
Vài hôm sau, Lữ Đoàn Nhẩy Dù cho biết là Thiếu Tá Nhung đã thắt cổ tự tử. Mẫu tin đơn giản đó liệu có mấy người tin? Bởi Đại Tá Cao Văn Viên được xem là người thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông bị giữ trong ngày đảo chánh 01/11/1963, nhưng sau đó nhờ Trung Tướng Khiêm mà ông được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, do vậy mà cho dẫu Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung có chết một cách bình thường cũng là điều mà dư luận khó chấp nhận, huống chi đây là tin Thiếu Tá Nhung thắt cổ! Căn cứ theo lời viết trong tờ khai, Thiếu Tá Nhung khai là anh đâm ông Ngô Đình Nhu bằng lưỡi lê, Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống cự khi ông Nhu bị anh đâm chết, nên anh đâm Tổng Thống Diệm luôn. Sau đó, Thiếu Tá Nhung bắn mỗi vị một phát súng mà anh Nhung gọi là “phát súng ân huệ”.
Cứ theo luật pháp thông thường trong xã hội, giết người phải đền tội là chuyện phải đến thôi. Chuyện phải đến trong hoàn cảnh là như vậy, nhưng Thiếu Tá Nhung có đáng chết hay không lại là vấn đề khác. Có điều lạ là tôi không thấy dư luận đặt nghi vấn: "Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết là do chính ông tự tử, hay ông chết do bị giết rồi tạo cảnh như là chính ông tự tử? Nếu Thiếu Tá Nhung bị giết thì ai là người ra lệnh giết? Ai là người thi hành lệnh đó? Và lệnh giết Thiếu Tá Nhung có đúng hay không"? Nếu cho rằng, giết người mà không do phán quyết của tòa án là sai, thì Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là sai, và người giết Thiếu Tá Nhung cũng là sai. Tôi nghĩ, nếu truy tố Thiếu Tá Nhung ra tòa án quân sự trong tình hình lúc bấy giờ cầm chắc là bản án tử hình đến với anh. Nếu hành động minh bạch như vậy, sẽ cho thấy nhóm lãnh đạo đảo chánh tôn trọng luật pháp chớ không áp dụng "luật giang hồ" theo kiểu tam-đoạn-luận: “Giết người thì bị người (khác) giết. Anh đã giết người. Anh phải bị người (khác) giết”.
Đến đây tôi xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của ba vị nói về cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung. Trước hết là lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, định cư tại San Jose, California. Anh đồng ý cho tôi đưa vào trang sách này qua e-mail lúc 2 giờ 31 phút chiều ngày 06/03/2004. Đây là lời viết của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim:
“Vào thời điểm 01/11/1963, tôi là Trung Úy, Trưởng Ban An Ninh Căn Cứ Hoàng Hoa Thám/Lữ Đoàn Nhẩy Dù, thời Đại Tá Cao Văn Viên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn này. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị giữ tại trại Cãi Hối do Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù phụ trách. Tôi được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nhung và Thiếu Tá Nhung khai rằng, khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “Feu tous les deux” (bắn cả hai).
“Đây là câu trả lời được ghi lại trong ký ức tôi. Luôn tiện tôi xin đưa ra dữ kiện về việc Thiếu Tá Nhung tự tử để quí vị phán xét. Trước khi tôi bắt đầu thẩm vấn, Thiếu Tá Nhung xin phép tôi điện thoại về nhà để nhắn nhủ vợ con yên tâm. Trên nguyên tắc thì người đang bị thẩm vấn không được liên lạc ra ngoài, nhưng tôi muốn tạo tình cảm thuận lợi cho công tác lấy lời khai nên tôi đồng ý. Thẩm vấn xong, tôi giao lại Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù. Đến sáng hôm sau được báo là Thiếu Tá Nhung đã treo cổ. Tôi đến nơi trông thấy Thiếu Tá Nhung treo cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ, có để lại mấy chữ ở bìa trắng của tờ báo như sau: “Em ở lại nuôi các con, bọn Diệm sống lại rồi. Cây viết Parker 51 nắp vàng, còn nằm trên tờ báo. Tôi thuật lại đây để quí vị tùy nghi xét đoán, nếu không thì có nhiều người suy đoán trật quá xa sự thật. Tối thiểu, chúng ta cũng phải căn cứ trên các dữ kiện tôi nêu trên có thể kết luận Thiếu Tá Nhung tự vận hơn là bị giết.”
Hết phần trích dẫn trên trang e-mail về lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, và xin tiếp lời thuật của cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh qua điện thoại. Cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh, định cư tại San Francisco, California. Trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, anh là Đại Úy sĩ quan tùy viên của Đại Tá Cao Văn Viên. Giữa năm 2001, sau khi đến Washington DC thăm cựu Đại Tướng Cao Văn Viên trở về, anh điện thoại cung cấp cho tôi một số tin tức liên quan đến sức khoẻ và cuộc sống hằng ngày của vị Tướng đã từng là Tổng Tham Mưu Trưởng liên tục gần 10 năm. Nhân đó, anh thuật cho tôi nghe mẫu tin Thiếu Tá Nhung tự tử sau cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964. Lời thuật như sau:
“Cái hôm Thiếu Tá Nhung chết, lúc đó còn sớm lắm, điện thoại từ sĩ quan trực Lữ Đoàn Nhẩy Dù gọi đến tư dinh báo cáo là Thiếu Tá Nhung đã tự tử, và đưa vào bệnh xá của Lữ Đoàn rồi”.
Đại Úy Khanh trình cho Đại Tá Viên, và Đại Tá Viên ra lệnh:
“Nói với sĩ quan trực (Lữ Đoàn) gọi bác sĩ cứu được gì thì cứu”.
Theo lời Đại Úy Khanh thì lúc ra lệnh đó, Đại Tá Viên không có vẻ gì bất ngờ trước cái tin chết người như vậy, nhất là người chết lại là người mà dư luận đặt nghi vấn, thậm chí còn quả quyết anh ấy đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu nữa. Điều này cho phép chúng ta suy đoán có thể là Đại Tá Viên biết trước về cái chết của Thiếu Tá Nhung. Nhưng nếu biết trước, thì liệu Đại Tá Viên có liên quan gì? Bởi vì cái tin Thiếu Tá Nhung tự tử có thể là thật, cũng có thể là không thật. Không thật, vì có thể cái chết đó là do dàn dựng cho Thiếu Tá Nhung, cũng có thể là do áp lực dẫn đến chính Thiếu Tá Nhung phải tự tử. Điều này vẫn còn trong bóng tối.
Cũng liên quan đến vụ này, vị thứ ba là cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm vào tối ngày 21/10/2003, khi nói đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ông nói với tôi là ông nghe nói một số quân nhân Nhẩy Dù đã vì tức giận việc Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm, nên ra tay giết Thiếu Tá Nhung.
Tiếp đây là thư viết tay ngày 11/12/2007 của anh Nguyễn Ngọc Bích từ thành phố Farnboro, Anh quốc. Anh Bích là bạn cùng khóa 5 Thủ Đức & Đà Lạt với tôi. Sau lễ tốt nghiệp được nghỉ một tuần và cùng trình diện Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân đồn trú tại Vĩnh Long. Chúng tôi 4 đứa, gồm: (1) Thiếu Úy Trần Kinh Điển. (2) Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Bích. (3) Thiếu Úy Nguyễn Văn Miêng. (4) Và tôi, Thiếu Úy Phạm Bá Hoa. Anh Điển với anh Bích học Trường Sĩ Quan trừ Bị Thủ Đức, tôi với anh Miêng học nhờ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vì Thủ Đức hết chỗ.
Thư anh Bích viết tay dài 17 trang. Tôi thán phục sự kiên nhẫn của anh Bích, vì đang ở thời đại computer mà anh ấy ngồi nắn nót ngòi viết thẳng hàng thẳng chữ.
“Anh chị Hoa thân mến.
Trước hết, tôi phải một lần nữa cám ơn Anh đã tặng cho tôi cuốn sách quý “Đôi Dòng Ghi Nhớ”, những lời phê bình của các độc giả cũng như bạn bè bằng hữu khắp năm châu cũng đủ chứng tỏ giá trị của cuốn sách Anh viết, tôi không còn lời nào để nói thêm nữa. Tôi có nói với “nhà tôi” là Anh mới viết có đôi dòng mà gần 400 trang sách rồi, chớ Anh mà viết truyện dài chắc đến cả ngàn trang.
Tôi không dám phê bình nhưng tôi có nói với nhà tôi rằng, “văn là người”. Anh là con người rất chân thật, hiền hòa, khéo léo, nên văn phong của Anh viết rất là thật, nhẹ nhàng, và rất công bằng về những sự kiện lịch sử, không chê trách ai, cũng không nói xấu ai. Tôi rất cảm phục Anh vì Anh có một trí nhớ tuyệt vời thiên phú, với những tháng ngày rất chính xác. Tôi thường đọc sách hay các cuốn truyện chỉ qua có một lần thôi, song cuốn sách của Anh tôi đã đọc hết rồi, lại phải đọc lại một lần nữa cho “bà xã” tôi nghe.
Bây giờ tôi trình bày với Anh hoàn toàn sự thật về cái chết của anh ThiếuTá Nguyễn Văn Nhung, là chính ông ta tự thắt cổ bằng sợi dây giày nhà binh của ông ta, do sự ân hận vì chính ông ta nghĩ rằng “sát nhân giả tử”. Ông ta nghĩ rằng, sớm hay muộn gì thì người ta cũng giết mình nên mình tự giải quyết chứ không để ai ra tay cả! Ngay chính ở trong Nhẩy Dù, các phòng sở khác cũng rất ít ai biết được chuyện Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị mang về Bộ Tư Lệnh Dù để thẩm vấn về vụ sát hại cố Tổng Thống và ông Cố Vấn.
Vào thời gian cuối năm 1963 sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, là thời kỳ lộn xộn của nội bộ Việt Nam Cộng Hòa mình, các vị Tướng Lãnh nắm giữ quyền hành thi đua nhau hết Đảo Chánh đến Chỉnh Lý, nên lãnh đạo cộng sản miền Bắc lợi dụng tình hình đó để đưa lực lượng chính quy của chúng xâm nhập vào VNCH, củng cố lại hạ tầng cơ sở chuẩn bị những trận đánh lớn vào lực lượng ta. Thời gian này, tôi phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Nhẩy Dù với chức vụ Trưởng Phòng 2.
Hôm đó, tôi nhớ vào khoảng hạ tuần tháng 1 năm 1964, tôi được một anh bạn ở Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù ở ngay trước nghĩa địa Đô Thành ở đường Lê Văn Duyệt mời đến nhà ăn cơm chiều với gia đình sau khi hết giờ làm việc. Tôi đã dặn nhân viên trực phòng (Phòng 2 Lữ Đoàn Nhẩy Dù) là “tôi đi ăn cơm khách ở nhà Đại Úy Trang, nếu có chuyện gì cần thì gọi đến tổng đài Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù nhắn lại với Đại Úy Trang là xong”.
Chúng tôi tất cả 6 mạng đang trò chuyện rôm rả, mới nhâm nhi lai rai thì tổng đài điện thoại cho người sang kêu tôi về trình diện Đại Tá Tư Lệnh (Đại Tá Cao Văn Viên) có lệnh khẩn. Tôi vội từ biệt anh em ra lái xe về ngay đơn vị và hỏi tại văn phòng xem có lệnh gì. Nhân viên trực phòng trả lời: “Đại Úy Vĩnh Thái chỉ cho biết là tôi lên trình diện Đại Tá Tư Lệnh để nhận lệnh”. Vắn tắt có thế thôi.
Tôi gặp Đại Úy Thái và gõ cửa vào gặp Đại Tá Tư Lệnh, ông từ tốn bảo tôi ngồi xuống ghế rồi nói: “Một chút nữa cở khoảng 45 phút hay hơn, sẽ có người đưa Thiếu Tá Nhung về đây, anh chịu khó hỏi lại cho tôi về vụ hắn đã hạ sát Tổng Thống và ông Cố Vấn như thế nào. Đây là nhu cầu ở trên đưa xuống. Nhung nó ở trong quân đội lâu lắm rồi, Anh ráng hỏi hắn cho rõ tất cả sự thật. Đây là nhu cầu “ở trên”, Anh phải làm sao trình cho tôi vào sáng mai lúc 6 giờ. Nhớ là lúc 6 giờ nhé! Nếu cần thêm chi tiết gì, tôi sẽ bảo anh bổ túc thêm. Tôi trả lời Đại Tá là tôi nhận lệnh rõ, sẽ thi hành đúng như lời Tư Lệnh. Tôi đứng đậy tính chào và về Phòng để chuẩn bị thi hành, thì được Đại Tá tâm sự vui với tôi: “Anh có tin là con người ta có số mạng không?”. Rồi Đại Tá kể cho tôi nghe về vụ ông suýt bị đem đi thủ tiêu sau vị Đại Tá Tung (Lê Quang) và Thiếu Tá Triệu (Lê Quang) ở tại phòng hội của Bộ Tổng Tham Mưu ......
Tôi cũng được Đại Tá Tư Lệnh cho biết là làm việc trình thẳng cho ông chứ không phải theo hệ thống quân giai là phải qua Tham mưu Trưởng. Tội vội trở về Phòng để chuẩn bị. Hạ Sĩ Nhất Diệp Vinhchuẩn bị cho tôi một hồ sơ giả, trong đó có tấm bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngoài bìa cứng có kẻ chữ lớn màu đỏ “Hồ Sơ Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung”. Xong, bỏ vào tủ sắt, khóa lại. Trung Sĩ Nhất Sơn Bun sẽ lo phần đánh máy. Trung Sĩ Nhất Lê Văn Thanh trực phòng, khi tôi bảo lấy hồ sơ thì mở khóa tủ sắt lấy cho tôi tập hồ sơ của Thiếu Tá Nhung. Trung Sĩ Phạm Viết Hùng ngồi trực với khẩu súng cá nhân bên cạnh. Hạ Sĩ Hải cũng trực với súng cá nhân, và khi tôi lên phòng Tư Lệnh nhận Thiếu Tá Nhung thì tôi dắt đi ở phía sau không để ai thấy. Tất cả nhân viên của Phòng 1, 3, 4, 5, (Bộ Tham Mưu) không ai hay biết gì về lệnh đưa Thiếu tá Nhung, ngoài tôi với hai ba nhân viên của tôi.
Khoảng 30 phút sau, điện thoại từ Đại Úy Thái chánh văn phòng kêu tôi lên nhận công tác. Lúc ấy trời sập tối, toàn căn cứ Nhẩy Dù đã lên đèn, tôi kêu Hạ Sĩ Hải đem theo súng cá nhân và đi cách tôi một khoảng cách còn nhìn thấy tôi nhưng không để người khác thấy. Đến văn phòng Đại Úy Thái, nhìn thấy chiếc xe Jeep đậu sẳn, tôi ký giấy nhận Thiếu Tá Nhung theo thủ tục để đưa về phòng tôi làm việc. Dưới ánh đèn mờ mờ đủ để tôi nhận ra y là sĩ quan với vóc dáng tầm thước, cao khoảng 1.62 thước, mặc bộ đồ trận bộ binh màu xanh, không đội mũ cũng không đeo cấp bậc, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt có nét khắc khổ. Tôi đến chào hỏi ông ta và ông ta đứng trong tư thế nghiêm chào lại tôi, rồi tự giới thiệu và cho biết cả chức vụ. Chúng tôi bắt tay nhau, tôi mời ông ta về phòng làm việc. Khi đi, tôi không đi theo hành lang vào các phòng kế cận để tránh sự tò mò của các quân nhân. Trong lúc di chuyển, ông ta nói căn cứ quá rộng và khang trang, tôi cho ông ta biết là căn cứ này do quân đội Pháp để lại, mỗi dãy nhà có phòng ốc rộng rãi thoáng mát, với những hành lang dài có lót bằng đá hoa, có nhà vệ sinh ở cuối mỗi dãy với hệ thống ánh sáng đầy đủ.
Vế đến phòng làm việc, tôi mời ông ta ngồi ghế trước bàn và thân thiện hỏi ông ta đã dùng cơm chiều chưa? Tôi có hỏi thăm gia đình và tôi nói cho ông ta biết là có thể ông ta sẽ ở đây với tôi một hai ngày chứ chưa về ngay sáng mai đâu. Do đó, Thiếu Tá nên viết thư về cho gia đình nói cho “bà xã” an tâm, và lấy những thức cần dùng rồi tôi cho một Hạ Sĩ Quan của tôi mang về đây cho Thiếu Tá. Sau đó tôi trao cho ông ta một tập giấy loại của Mỹ với cây bút “bic”. Thư của ông ta như sau:
“Em yêu quí và các con thân thương. Hiện nay Anh đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, trại Hoàng Hoa Thám. Anh được ông Đại Úy Bích cũng là người quen biết từ lâu nên Em cứ an tâm, không có chuyện gì đáng lo ngại cả. Tiện có chú này, Em gởi cho Anh mấy món cần thiết, như: Bộ quần áo ngủ, đôi dép, bàn chải đánh răng và kem, một cục xà bông, với ít tiền để tiêu vặt. Mọi diễn tiến êm đẹp cả, Em và các con an tâm nhé. Ký tên”.
Sau đó, tôi kêu một binh sĩ xuống câu lạc bộ lấy hai chai bia có nước đá đem lên phòng, và chúng tôi bắt đầu làm việc thật sự. Tôi nói cho ông ta biết là tất cả mọi chuyện xảy ra đã xảy ra rồi, chúng tôi có đầy đủ hồ sơ từ mọi nơi cung cấp, bây giờ theo lệnh cấp trên chỉ thị chúng tôi xét lại một lần chót để đúc kết thôi. Chúng tôi muốn là Thiếu Tá ghi lại từ đầu đến cuối các sự kiện xảy ra trong ngày 2/11/1963, đừng giấu diếm điều gì. Với Thiếu Tá, tôi luôn luôn tôn trọng cấp bậc mặc dù Thiếu Tá không đeo “lon”. Ông ta có vẻ cảm động, đứng lên chào tôi, vừa bắt tay tôi vừa nói như lời hứa sẽ làm hết tất cả những gì tôi cần. Thái độ của ông ta rất ư là thoải mái. Tôi bấm chuông gọi anh Hạ Sĩ Quan trực mở khóa tủ lấy cho tôi tập hồ sơ mật của Thiếu Tá Nhung. Anh Hạ Sĩ Quan qua phòng bên, mở tủ, kéo thanh sắt gài ngang nghe lách cách, rồi tiếng kéo ngăn tủ rét rét,mang vào để trước mặt tôi. Tôi cố tình cho ông ta nhìn thấy tập hồ sơ bìa cứng có tên ông ta. Một lát sau thì chiếc xe Jeep trở về và đưa ông ta cái túi xách tay nhỏ, cùng với một số tiền và lá thư của bà vợ ông ta. Trong lá thư nhỏ chỉ có vài dòng chữ là bà ta hỏi có cần biếu xén gì không để bà ta lo liệu ... Ông ta cẩn thận trình cho tôi, tôi bảo không cần đâu. Anh em mình đều là quân nhân, làm việc là làm theo lệnh cấp trên thôi.
Ông ta ngồi viết qua lý lịch, gia cảnh,...rồi ông ta viết ... Khoảng 50 hay 55 phút, tôi bảo ông ta nghỉ ngơi, và hỏi một vài câu vu vơ sau khi xem qua đoạn mà ông ta vừa viết. Tôi giả vờ như có điều không đúng trong hồ sơ tôi có (thật ra là tôi không có hồ sơ gì cả) và sửa lại cho đúng. Cứ ông ta viết xong trang nào là tôi đưa đánh máy ngay. Trong những giây phút nghỉ ngơi, tôi có gợi chuyện xưa cũ thì ông ta cũng có khoe tôi là khẩu súng đang sử dụng là ông ta đã hạ sát rất nhiều người, và cứ mỗi lần xong công tác thì ông ta lại khắc một nét để ghi nhớ làm kỹ niệm của đời binh nghiệp: “Làm theo lệnh cấp trên”. Ông ta còn đọc cả số súng của ông cho tôi biết cũng như số quân của mình vậy. Ông ta nói một cách thản nhiên như không có gì tỏ ra hối hận hay thương xót cho những người đã khuất cả. Ông ta cho biết về cuộc đảo chánh (1/11/1963) là ông ta hoàn toàn không hay không biết, vì ông ta chỉ là cận vệ đi theo Tướng Dương Văn Minh mà thôi. Ông ta chỉ mờ ảo nghĩ rằng, sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra do các Tướng Lãnh họp bàn xôn xao đi đi về về ...
Phần đi công tác sáng ngày 2/11/1963, Anh đã nói rõ và rất đầy đủ. Nhưng có một chi tiết mà tôi không thể nào quên được là đối với Thiếu Tá Nhung, lúc bấy giờ không còn coi Tổng Thống và ông Cố Vấn là người có quyền hành nắm giữ quốc gia trong tay nữa, mà chỉ là tù nhân thôi. Lúc đó, Thiếu Tướng Xuân (Mai Hữu) tránh né đứng chờ bên ngoài khi chúng tôi vào đón Tổng Thống và ông Cố Vấn ra xe, Đại Tá Lắm (Dương Ngọc) chỉ lên xe Thiết Giáp đậu bên lề đường thì Tổng Thống rất ngạc nhiên và hỏi: “Xe ni mà đưa đón Tổng Thống với ông Cố Vấn ư?” Tôi bèn sẳng giọng trả lời ngay: “Giờ phút này mà còn là Tổng Thống với Cố Vấn gì nữa, tất cả lên xe đi.” Ông Cố Vấn có vẻ ngần ngại, song Tổng Thống tỏ ra hiểu được tình hình nên nhẹ nhàng bảo: “Thôi mà Chú Nhu, lên xe đi”. Xe chạy đến cổng xe lửa gần bệnh viện Từ Dũ phải ngừng lại chờ xe lửa chạy qua, lúc ấy tôi nhận được lệnh của Thiếu Tướng Xuân là “phải giết ngay cả hai vị” ngang qua máy truyền tin. Lệnh ra bằng tiếng Pháp. Thế là tôi thi hành ngay, bằng cách rút khẩu súng cá nhân ra và chĩa vào ông Cố Vấn thì ông Cố Vấn giơ tay ra như có ý muốn cản, song Tổng Thống đã bảo “Chú Nhu !!!”, rồi người làm dấu thánh giá. Chỉ cần hai phát đạn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng muốn cho chắc ăn tôi bồi thêm mấy phát đạn nữa cho bảo đảm.
Khi thẩm vấn, tôi cũng hỏi sĩ quan đương sự thì được biết là Thiếu Tướng Xuân thất sủng nên có lẽ oán giận Tổng Thống và ông Cố Vấn lắm, nhân dịp này trả thù được thì thanh toán cho xong. Tôi có hỏi thêm là “tại sao Thiếu Tá với nhiệm vụ là cận vệ của Trung Tướng Minh mà lại phải đi đón Tổng Thống?”. Ông ta trả lời: “Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm bảo tôi đi thì tôi đi theo, tôi làm theo lệnh cấp trên làm sao cãi được”. (Câu trả lời này không vững. PBH)
Chúng tôi làm việc hầu như suốt đêm, trong lúc làm việc tôi không cần la hét hay to tiếng với sĩ quan đương sự. Những nhu cầu cần biết, sau khi đọc lời khai của đương sự tôi bổ khuyết những chi tiết cho rõ ràng hơn. Đến khoảng 4 giờ 15 phút sáng (31/1/1964) thì hồ sơ hoàn tất. Tôi xem lại từng trang viết, đóng lại thành tập, sẳn sàng trình lên Tư Lệnh. Sau đó, tôi dẫn sĩ quan đương sự về phòng ngủ của tôi cách phòng làm việc không xa để nghỉ ngơi. Tôi cho kê thêm một chiếc giường cá nhân có nệm và gối mền đầy đủ, còn súng cá nhân, dao găm với mấy băng đạn tôi cho đem vào kho của Biệt Đội Quân Báo gần đó cất giữ, đề phòng bất trắc. Tôi có dặn ông ta là chung quanh đây có lính gác, Thiếu Tá cần đi đâu nên chờ tôi cùng đi, kẽo lính gác thấy đi một mình sẽ lôi thôi lắm. Ông ta cám ơn tôi mấy lần với thái độ cảm động, có lẽ vì tôi tôn trọng ông ta bằng cách gọi ông ta bằng cấp bậc. Tôi và ông ta, mỗi người một giường nằm nghỉ ngơi thoải mái sau khi đưa ông ta tắm rửa thay quần áo ngủ.
Đúng 5 giờ 45 phút sáng, tôi mang hồ sơ lên văn phòng Đại Tá Tư Lệnh. Lúc 5 giờ 58 phút, tôi gõ cửa phòng Tư Lệnh và trình hồ sơ gồm bản chánh và bản phụ. Tôi ngồi chờ Đại Tá Tư Lệnh có gì cần hỏi thêm chi tiết nào nữa không. Sau khi xem xong, Đại Tá bảo tôi: “Thôi, đêm qua Anh và mấy nhân viên làm việc ũng mệt rồi, xét ra hắn khai thế này là đầy đủ theo nhu cầu ở trên rồi, Anh về cho anh Nhung và mấy nhân viên nghỉ ngơi, nếu cần thêm điều gì tôi sẽ bảo Anh hỏi thêm” Tôi đứng dậy chào Đại Tá Tư Lệnh và quay về phòng ngủ, thấy Thiếu Tá Nhung vẫn còn trong giấc ngủ vùi. Tôi ngả lưng, nối lại giấc ngủ vì đêm qua chỉ ngủ vài tiếng đồng hồ. Khoảng 7 giờ 30 sáng, cả tôi lẫn Thiếu Tá Nhung cùng thức dậy. Tôi bảo chú binh sĩ của tôi sang câu lạc bộ cách nơi tôi ngủ 2 dãy nhà, chuẩn bị cho 2 tô hủ tiếu và 2 ly cà phê sữa đá. Ăn xong, chúng tôi vừa xem báo vừa trò chuyện về gia đình, về binh nghiệp, và những buồn vui đời lính. Đến trưa, lại dùng cơm mang về từ câu lạc bộ.
Khoảng 1 giờ trưa, văn phòng Đại Tá gọi tôi lên và Đại Tá bảo tôi chuyển Thiếu Tá Nhung cho Đại Úy Bùi Văn Châu, Phân Đội Trưởng Phân Đội 204 Quân Cảnh, cách văn phòng tôi một sân bóng chuyền. Khi trở về phòng ngủ, tôi nói cho sĩ quan đương sự biết là nhiệm vụ của tôi chấm dứt ở đây sau khi chuyển ông ta sang Quân Cảnh của Lữ Đoàn Dù. Vừa nói tôi vừa chỉ văn phòng Phân Đội Quân Cảnh ở dãy nhà bên kia. Tôi hỏi ông ta có gì cần giúp đỡ hay có gì phiền hà tôi, xin cho biết. Ông ta đứng nghiêm chào tôi và dùng cả hai tay bắt tay tôi với lời cám ơn. Tôi nói đó là bổn phận thôi, mình là anh em trong gia đình quân đội mà. Ông ta còn hứa hẹn với tôi là nếu có một ngày nào đó, tôi xin mời Đại Úy về nhà tôi nhậu một bữa.
Tôi đưa Thiếu Tá Nhung sang phòng Đại Úy Châu, bảo ông ta ngồi chiếc ghế ngoài hành lang rồi bước vào giới thiệu sơ qua với Đại Úy Châu biết về Thiếu Tá Nhung, vì lúc ấy ông ta không đeo lon, cũng không đội mũ, mà chỉ mặc bộ đồ trận của bộ binh. Sau khi ký nhận, Đại Úy Châu chỉ ừ ào cho qua chuyện chớ không đếm xỉa gì đến Thiếu Tá Nhung nên ông ta có vẽ hụt hẫng. Đại Úy Châu gọi hai anh Hạ Sĩ Quan Quân Cảnh dặn dò những việc phải làm, phải thu giữ những gì có thể dẫn tới việc ông ta có thể dùng để tự tử, nhưng không ai để ý đến đôi giày “bốt” nhà binh mà ông ta đang mang. Tôi ngồi nói chuyện gẫu với Đại Úy Châu trong giây lát rồi quay về văn phòng, đưa giấy tờ giao và nhận cho anh Hạ Sĩ Quan xếp vào hồ sơ lưu trữ và cất vào tủ. Sau này tôi mới biết là Quân Cảnh đưa ông ta vào phòng giam dành cho binh sĩ vô kỹ luật gần Trung Tâm Huấn Luyện Nhẩy Dù, cũng trong khuôn viên doanh trại Lữ Đoàn. Phòng giam này hơi hắc ám, không mấy sáng sủa vì chỉ có một cửa sổ nhỏ với hàng song sắt cao hơn đầu người một chút. Mặc dù tôi phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn khá lâu mà chỉ nghe chứ chưa bao giờ quan tâm đến phòng giam này làm gì cả.
Khoảng 5 giờ chiều tức là gần hết giờ làm việc buổi chiều, chuông điện thoại reo vang, Đại Úy Châu báo cho tôi biết một việc chẳng lành là Thiếu Tá Nhung đã tự tử tại phòng giam khi Hạ Sĩ Quan trực của Quân Cảnh đem phần cơm cho ông ta thì phát hiện sĩ quan đương sự đã tháo giây giày nối lại, một đầu giây quàng vào song sắt và đầu giây kia quàng vào cổ. Đại Tá Tư Lệnh đã được trình báo sự việc. Đại Úy Châu và tôi, liên lạc ngay với Đại Đội Quân Y của Lữ Đoàn, Bác Sĩ Văn Văn Của là Y Sĩ Trưởng cùng mấy Hạ Sĩ Quan Quân Y tận tình cứu chữa, làm hô hấp nhân tạo với 2 bình dưỡng khí, nhưng không sao cứu được. Khi khám nghiệm tử thi, Bác Sĩ Của giải thích cho Đại Úy Châu và tôi biết, “ống quần của đương sự có một vệt dài từ bộ phận sinh dục chảy xuống, chính là tinh khí xuất ra hết rồi nên không cách nào cứu chữa được, người tự tử bằng cách treo cổ chỉ có 3 hay 4 phút là chết”. Đại Úy Châu đưa cho tôi xem bút tích của ông ta viết cho vợ con trên tờ báo mà tôi đã đưa cho ông ta đọc: “Anh biết rằng, số mạng mình đến đây là hết rồi Em ạ, Anh biết là sớm muộn gì người ta cũng giết Anh, nhưng Anh không muốn để ai xét xử mình cả mà tự mình xử lấy mình thôi. Em ở lại nuôi đàn con dại nên người. Hẹn Em ở kiếp sau. Anh sẽ về phò hộ cho Em và các con”. Chữ viết nguệch ngoạc ở những phần có chỗ trống trên tờ báo Đại Dân Tộc. Sau đó, Bác Sĩ Của cho nhân viên khiêng xác Thiếu Tá Nhung lên chiếc cáng và làm thủ tục rồi đem xe Hồng Thập Tự chở vào nhà xác Tổng Y Viện Cộng Hòa, và thông báo cho gia đình của sĩ quan đương sự.
Buổi chiều hôm đó, tôi cảm nhận nỗi buồn man mác vì thấy cuộc đời con người với số mạng của ông ta sao mà vắn thế! Vừa buổi trưa còn ăn cơm vui vẻ với tôi, vậy mà bây giờ trở nên cách trở âm dương!!!
Khoảng 7 giớ 30 phút tối, tôi nhận điện thoại của Thiếu Tá Trương Quang Ân (Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn. PBH) hỏi thăm sức khỏe một cách lịch sự và nhã nhặn, nhưng có ý trách móc tôi nhẹ nhàng là làm việc trong nhà binh phải theo “hệ thống quân giai” như thế mới đúng, có trên có dưới. Tôi đã liên lạc với Đại Úy Châu, được biết là Phòng Nhì các anh đã làm việc với Thiếu Tá Nhung suốt đêm qua, và trưa nay anh giao lại cho Phân Đội 204 Quân Cảnh mà sao “anh quên” không trình cho Tham Mưu Trưởng biết chuyện này. Anh nhận sĩ quan đương sự ở đâu vế cũng không cho tôi biết. Tôi trả lời ngay rằng: “Thưa Thiếu Tá, tôi xin phép được trình bày sự việc, từ trước đến nay tôi làm việc với Thiếu Tá suốt trong thời gian qua, chưa có điều gì sai trái để bị Thiếu Tá khiển trách cả. Song, đây là trường hợp đặc biệt. Chiều hôm qua (30/1/1964. PBH), tôi được Đại Tá Tư Lệnh gọi lên và đã chỉ thị cho tôi: “Đây là nhu cầu ở trên đưa xuống, tất cả việc làm của anh chỉ trình cho tôi mà thôi, không trình qua ai hết”.Tôi cũng xin Thiếu Tá thông cảm, còn như nếu Thiếu Tá không tin tôi thì xin Thiếu Tá cùng tôi lên trình lại với Đại Tá Tư Lệnh. Nếu tôi có điều gi sai trái, tôi xin chịu phạt theo quân kỷ nhà binh”. Ông ta hiểu là tôi nói sự thật, nên chỉ hỏi sơ qua về Thiếu Tá Nhung “tại sao lại tự tử thôi”. Thời gian sau, Thiếu Tá Ân được thăng cấp Trung Tá, rồi Đại Tá, và được giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, rồi trong một cuộc đi thăm đơn vị vào ngày Tết, Đại Tá và phu nhân đã tử nạn khi trực thăng chở ông bà bị tai nạn, ông được truy thăng Chuẩn Tướng.
Anh Chị Hoa thân mến, chuyện có sao tôi viết vậy, không thêm không bớt gì cả. Thiên hạ lầm tưởng là Nhẩy Dù hạ sát. Rồi họ còn thêu dệt lên vì hồi Đảo Chánh 11/11/1960 (Đại Tá Nguyễn Chánh Thi. PBH), Thiếu Tá Ngô Xuân Soạn đã bị Nhẩy Dù đâm chết tại Tiểu Đoàn 3 Nhẫy Dù.
Tôi xin phép tạm dừng bút.
Thân. Nguyễn Ngọc Bích. Farnboro, Anh quốc.
Xin đóng ngoặc.
Ai ra lệnh giết Tổng Thống?
Thật tình tôi không có bằng chứng để quả quyết là ai ra lệnh giết, nhưng điều mà cựu Đại Tướng Khiêm nghe nói lại, dường như chưa đủ sức thuyết phục người đọc lẫn người nghe. Quí vị có suy nghĩ gì về sự kiện này không?
Với lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, đối chiếu với lời thuật của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa mà tôi được phép đăng trong chương nói về cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, thì nghi vấn về người ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, trở nên phức tạp. Tôi xin ghi lại những lời đó sau đây:
“Theo lời trong bài viết của cựu Đại Tá Nghĩa, sau ngày đảo chánh 01/11/1963, ông gặp Thiếu Tá Nhung và hỏi điều ông thắc mắc là tại sao giết cả hai ông, thì Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trả lời một cách tỉnh bơ rằng:
“Một người hay hai người cũng vậy thôi. Hai người thì khó khăn một chút, nhưng chắc ăn hơn. Vì ông Diệm chống cự lại sau khi ông Nhu bị tôi đâm chết, nên tôi phải thanh toán luôn. Có lệnh cũng được, mà không có lệnh cũng vậy thôi. Cho nó chắc ăn. Lúc đó đâu có đợi lệnh được”.
Theo lời viết trong e-mail của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì đầu năm 1964 anh là Trung Úy, sĩ quan An Ninh của căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù, anh được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, và anh ghi nhận lời khai của Thiếu Tá Nhung như sau:
“ ... Khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “feu tous les deux” (bắn cả hai) . .
Theo lời viết trong thư của cựu Trung Tá Nguyễn Ngọc Bích, thì lời viết của Thiếu Tá Nhung trên tờ khai tương tự như lời khai với Trung Úy Lâm Sanh Kim:
“ .... Xe chạy đến cổng xe lửa gần bệnh viện Từ Dũ phải ngừng lại chờ xe lửa chạy qua, lúc ấy tôi nhận được lệnh của Thiếu Tướng Xuân là “phải giết ngay cả hai vị” ngang qua máy truyền tin. Lệnh ra bằng tiếng Pháp. Thế là tôi thi hành ngay....”
Vậy, ai là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu? Trung Tướng Dương Văn Minh, hay Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, hay cả hai vị?
Theo cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, với lời của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung đã nói trực tiếp với ông (tức cựu Đại Tá Nghĩa), thì nghi vấn của tôi về người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là Trung Tướng Dương Văn Minh (cấp bậc lúc đảo chánh). Nhưng theo lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trước mặt cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh cho ông (tức Thiếu Tá Nhung) giết chớ không phải Trung Tướng Dương Văn Minh.
Cho đến bây giờ là tháng 08/2011, , tôi vẫn giữ nguyên nghi vấn Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (cấp bậc lúc đảo chánh) giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, vì Trung Tướng Dương Văn Minh là vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Trong chức vụ và quyền hạn của Trung Tướng Dương Văn Minh, chỉ có ông mới đủ thẩm quyền ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, chớ không thể nào Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trong trách nhiệm thay mặt Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng -theo lời của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa- lại tự ý ra lệnh này được.
Cứ thử nêu một giả thuyết là Trung Tướng Minh có giao quyền rộng rãi cho Thiếu Tướng Xuân tùy cơ ứng biến với Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đi nữa, thì từ khi đoàn xe rời nhà thờ Cha Tam chạy đến cổng xe lửa dừng lại chờ xe lửa chạy ngang, đã có việc gì xảy ra đâu mà Thiếu Tướng Xuân đến nỗi phải “ứng biến” bằng cái lệnh “bắn cả hai” như Thiếu Tá Nhung khai với Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích Trưởng Phòng 2 Lữ Đoàn Nhẩy Dù, và Trung Úy L âm Sanh Kim, sĩ quan an ninh căn cứ Hoàng Hoa Thám lúc ấy? Một giả thuyết như vậy không có sức thuyết phục, vì lệnh “bắn cả hai” là bắn Tổng Thống với Cố Vấn của Tổng Thống, tính cách quan trọng của cái lệnh này ở cấp quốc gia chớ không phải cái lệnh bắn giết địch quân ở chiến trường.
Tôi có hai giả thuyết về lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung:
Thứ nhất. Hoặc lời khai đó là thật, nghĩa là Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân được Trung Tướng Dương Văn Minh giao cho cái quyền rộng rãi đó để tùy tình hình mà giải quyết. Nhưng trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu trong một “tình hình hoàn toàn yên tỉnh” mà Thiếu Tướng Xuân lại ra lệnh “bắn cả hai” thì hành động đó có thể xem là lạm dụng quyền được giao. Như vậy, phải chăng bắt nguồn từ nguyên nhân hận thù nào đó của Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Nhưng nếu do thù hận riêng tư mà Thiếu Tướng Xuân dám ra lệnh giết chết Tổng Thống và Cố Vấn của Tổng Thống, quả là ông liều lỉnh. Liều lỉnh vì cấp trên của ông là Trung Tướng Dương Văn Minh còn đó, cho dù ông có là bạn thân của Trung Tướng Minh đi nữa, không chắc ông dám liều đến như vậy.
Thứ hai. Hoặc lời khai đó do Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự bịa ra để khai khi bị thẩm vấn. Nhưng tại sao lại bịa ra? Rất có thể là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung muốn bảo vệ Trung Tướng Dương Văn Minh, vị Tướng mà Thiếu Tá Nhung đang là cận vệ. Giả thuyết này có vẻ không vững, bởi lúc Thiếu Tá Nhung cung cấp lời khai này chỉ ba tháng sau ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết, mà trong dư luận chưa nghe loan truyền về cái lệnh giết Tổng Thống và ông Cố Vấn là công hay tội, thì khó mà nói là Thiếu Tá Nhung đổ tội cho Thiếu Tướng Xuân qua lời khai của ông. Rốt lại, chỉ còn giả thuyết oán ghét hay thù hận của Thiếu Tá Nhung đối với Thiếu Tướng Xuân thôi. Trong cuộc sống, cũng có những sự kiện xảy ra mà không thể dựa trên những dữ kiện bình thường để suy đoán phần kết luận. Nói nôm na là nghịch lý. Phải chăng trường hợp này là như vậy?
Cuối cùng, tôi vẫn đặt nghi vấn cao nhất và duy nhất là Trung Tướng Dương Văn Minh, người ra lệnh giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Nay thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ba con người này đã vào lòng đất tối tăm mù mịt, hay đang bay lượn trên những tầng mây cao với những nàng tiên xinh đẹp, thôi hãy để các vị yên nghỉ! Và nếu như hai con người nào đó "đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, giết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, và ra lệnh giết Thiếu Tá Nhung nếu có, còn sống trên cõi đời này mà còn chút lương tâm, tôi tin là hai con người đó, đã và đang còm cõi với nỗi khổ riêng của họ! Năm 2003, Đại Tướng Dương Văn Minh, người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, đã vào giấc ngủ ngàn thu! Xin cắm một nén hương trước mộ ông, với lời nguyện hương linh ông sớm siêu thoát vào cõi vĩnh hằng xa xôi nào đó, hay cõi đó cũng quanh quẩn trong cõi tạm trần ai này để nhìn cuộc sống tinh thần của những người một thời cùng ông vừa đánh địch vừa đánh bạn!
Thêm nữa, theo lời của cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cho tôi biết vào tối 21/10/2003, thì nguyên nhân dẫn ông vào cuộc đảo chánh này là vì Trung Tướng Dương Văn Minh đã đồng ý với ông (tức Thiếu Tướng Khiêm, cấp bậc lúc đảo chánh) trong cuộc đảo chánh ngày 01//11/1963, là chỉ giải quyết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải được bình yên và xuất ngoại, nhưng sau đó Trung Tướng Minh đã ra lệnh giết luôn Tổng Thống Diệm làm cho ông bất mãn. Cũng do bất mãn đó mà Trung Tướng Khiêm (cấp bậc trong cuộc đảo chánh 30/01/1964) đồng ý với Trung Tướng Khánh lật đổ Trung Tướng Minh và những vị Tướng thân cận của Trung Tướng Minh. Vậy là suy đoán của tôi trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ từ ấn bản 1 đến ấn bản 4, về nguyên nhân Trung Tướng Trần Thiện Khiêm trực tiếp trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, chỉ đúng một nửa.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết vào lúc nào?
Theo lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim mô tả khi đến phòng giam nhìn thấy thi hài Thiếu Tá Nhung trong tình trạng thắt cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ, nhưng không nói anh đến đó vào lúc náo. Theo lời của cựu Trung Tá Nguyễn Ngọc Bích thì anh được tin Thiếu Tá Nhung chết vào buổi chiều. Theo lời của cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh thì sĩ quan trực Lữ Đoàn điện thoại trình Đại Tá Cao Văn Viên tại nhà riêng lúc sáng sớm.
Xin nhớ rằng, cuộc Chỉnh Lý xảy ra lúc nửa đêm về sáng ngày 30/01/1964 là ngày thứ năm trong tuần. Tôi tin vào lời của cựu Trung Tá Khanh, theo đó thì Thiếu Tá Nhung chết ngay trong đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu 31/01/1964., và chết trong tình trạng thắt cổ bằng sợi giây của loại giày cao cổ.
Tóm lại. Nửa đêm về sáng ngày 30/01/1964, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị bắt đưa về căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trải qua hai cuộc thẩm vấn tại Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết trong tình trạng thắt cổ là sự thật. Nhưng Thiếu Tá Nhung chết trong tình trạng thắt cổ, thì những dữ kiện trên đây chưa đủ để khẳng định điều đó là sự thật. Tôi có hai giả thuyết:
Thứ nhất. Chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Nhưng ông tự thắt cổ là do ông hối hận, do bị áp lực, hay do ông muốn làm một anh hùng vì ông đã giết Tổng Thống với Cố Vấn trong khi không ai làm được, ông bị bắt nhưng ông không muốn bị làm nhục, đã dẫn đến quyết định như vậy? Giả thuyết hối hận không vững, vì luật pháp cũng như dư luận có buộc tội đâu. Giả thuyết do bị áp lực, hoặc giả thuyết ông muốn làm anh hùng, có thể lắm.
Thứ hai. Không phải chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Vậy, ai đã thắt cổ Thiếu Tá Nhung? Người thắt cổ Thiếu Tá Nhung là do chính người đó, hay người đó nhận lệnh của người nào khác nữa? Tôi không có dữ kiện nào về giả thuyết này, mong vào những nhà viết sử, theo thời gian sẽ thu thập được nhiều dữ kiện làm sáng tỏ vấn đề.
Tôi có dịp dùng cơm với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên vào tối ngày 06/09/2003 tại Virginia, nhưng tôi cảm thấy không nên hỏi những gì liên quan đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, vì gần như phần lớn thời gian trong bữa ăn kéo dài 3 tiếng đồng hồ, cựu Đại Tướng Viên cho tôi biết thêm vài sự kiện, đồng thời ông giải thích một số sự kiện về những gì tôi viết về ông trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ” của tôi, nhưng cần giải thích thêm để sự kiện được rõ ràng. Ông cũng giải thích về những sự kiện mà những tác giả khác đã nói về ông. Trong đó, có vẻ ông không bằng lòng tác giả Nguyễn Tiến Hưng, vì có những sự kiện mà ông nói là ông Hưng tưởng tượng hoàn toàn.
Đến đây xin khép lại những dấu hỏi mà tôi chưa đủ dữ kiện giải tỏa, và mời quí vị trở lại bản doanh cuộc đảo chánh.
Khoảng 7 giờ sáng, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đến bản doanh. Một lúc sau, Thiếu Tá Nguyễn Huy Lợi -cùng nhóm lưu vong với Đại Tá Thi trong vụ đảo chánh 11/11/1960 thất bại- và nhiều sĩ quan khác cũng đến. Đại Tá Thi bước vội đến Thiếu Tá Lợi đang đứng bên ngoài nhà, và sau một lúc lời qua tiếng lại, Đại Tá Thi bốp một phát vào mang tai Thiếu Tá Lợi. Thiếu Tá Lợi đỏ mặt và trong tư thế sẳn sàng bốp lại, nhưng nghĩ sao đó, Thiếu Tá Lợi quay lưng bỏ đi. Đại Tá Thi vào nhà, có vẻ như để chứng minh ông đúng:
“Thằng khốn nạn đó nó coi thường tôi”.
Lời lẽ này đúng hay không chỉ có quí vị trong nhóm lưu vong mới biết, nhưng hành động như vậy, tự Đại Tá Thi làm giảm phong cách của một sĩ quan cao cấp trong quân đội.
Sau một lúc thảo luận, viết rồi sửa, sửa rồi viết. Một bản Tuyên Cáo được phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn. Đại ý nội dung cho rằng, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, đã có kế hoạch đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì trước sau gì cũng vào tay cộng sản. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập hôm nay, sẽ truy tố các vị đó ra tòa trong thời gian sớm nhất.
Khoảng 10 giờ sáng, điện thoại reo: “Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.
“Em mời Trung Tướng Khiêm nói chuyện với Trung Tướng Minh nghe em”.
Đó là lời của Trung Tá Đỗ Kiến Nhiễu, chánh văn phòng của Trung Tướng Minh. Năm 1955, ông là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng của tôi (Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân), nên ông thường gọi tôi bằng em. Xe của Trung Tướng Minh và Trung Tá Nhiễu đã vào cổng lúc hơn 9 giờ.
“Xin Trung Tá chờ đầu máy”.
“Mời Trung Tướng tiếp chuyện với Trung Tướng Minh”.
Tôi bước đến ghế bố mà Trung Tướng Khiêm đang nằm vì ông bị cảm, tôi trao ống nói cho ông, nhưng:
“Chú nói với Trung Tướng Minh là tôi đang mệt và cần nghỉ ngơi. Tôi sẽ gọi lại sau”.
Quả thật là Trung Tướng Khiêm đang mệt, ông bị khàn tiếng. Từ lúc bắt đầu cuộc đảo chánh, Trung Tướng Khiêm là người ra chiều suy nghĩ âu lo và theo dõi chặt chẻ diễn tiến "cuộc hành quân bắt cóc các vị Tướng". Đến khi các vị đó lên phi cơ quân sự đi Đà Nẳng, ông nằm dài trên ghế bố. Dù sự thật là như vậy, nhưng chắc gì Trung Tướng Minh tin như vậy. Và rồi Trung Tướng Minh có thể nghĩ rằng, Trung Tướng Khiêm đã bắt hết các vị Tướng thân cận của ông rồi, nên khước từ nói chuyện với ông cũng nên. Tôi thì không nghĩ như vậy. Tuy Trung Tướng Khiêm chưa phải là vị Tướng xuất sắc của chiến trường hay nơi bàn giấy, nhưng ông có một tình cảm chân thành của một con người đối với cấp trên, với bạn bè, và nhất là với các cộng sự viên xa gần lớn nhỏ của ông. Tôi đã chứng kiến nhiều lần khi ông niềm nở bắt tay những đồng đội thuộc Tiểu Đoàn 3 Việt Nam, đơn vị mà có lần Trung Tướng Khiêm rất vui vẻ khi ông nói với tôi là ông rất nhiều cảm tình. Những đồng đội trước kia dưới quyền của Trung Tướng Khiêm tại Tiểu Đoàn này, đến những năm 60, phần lớn là Thượng Sĩ hay Thượng Sĩ Nhất.
“Thưa Trung Tá, Trung Tướng Khiêm bị cảm và khàn cổ. Thể nào Trung Tướng Khiêm cũng gọi lại Trung Tướng Minh khi sức khỏe cho phép”.
Nói thì nói vậy, nhưng khoảng 30 phút sau thì Trung Tướng Khiêm điện thoại nói chuyện với Trung Tướng Minh. Theo lời ông thuật lại với Trung Tướng Khánh và Đại Tá Viên, tôi biết là Trung Tướng Minh cần gặp ông với Trung Tướng Khánh để thảo luận một số vấn đề cần thiết. Vấn đề gì thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ chỉ quanh quẩn về việc các vị bị bắt thôi, chớ chẳng việc nước việc non gì đâu. Bởi sự thể đã đâu vào đó rồi. Nhưng nếu Trung Tướng Khánh ở vị trí Trung Tướng Minh hiện tại, thì Trung Tướng Khánh không nói chuyện êm thấm nhẹ nhàng vậy đâu, bởi Trung Tướng Khánh vốn là không ôn hòa, nhất là trong tình cảnh đó.
Sau một lúc thảo luận to nhỏ với người Mỹ đã có mặt từ sớm, Trung Tướng Khánh mời Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên vào bàn họp. Một số sĩ quan quan tâm hay hiếu kỳ, đang đứng lóng ngóng trong nhà để theo dõi tin tức, được mời ra sân. Tại sân, khá đông sĩ quan các quân binh chủng, cùng một số phóng viên báo chí. Tuy không đông, không nhộn nhịp như cuộc đảo chánh 01/11/1963, nhưng cũng chật sân trước. Lúc bấy giờ trong nhà Trung Tướng Khánh, chỉ có Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, Đại Tá Viên, người Việt Nam có vẻ là thân tín của Trung Tướng Khánh, một viên chức Hoa Kỳ, và tôi. Trung Tướng Khánh lên tiếng trước như là người chủ tọa:
“Thôi, mọi việc xong rồi. Bây giờ thì anh Khiêm làm đi”.
Trung Tướng Khiêm, tay phải gỡ kiến xuống và tay trái lau kiến, đó là những động tác biểu hiện sự suy nghĩ của ông. Tiếp đó, ông xoay qua Đại Tá Viên, vừa cười vừa nói:
“Phần tôi đến đây là đủ rồi. Tôi không thích chính trị đâu, hay là anh Viên nhận đi”.
Đại Tá Viên với nụ cười không hết miệng như lúc nào, ông nói:
“Thôi. Hai anh tính với nhau đi, ai làm cũng được mà. Tôi không thích lao vào chính trị đâu. Phần tôi đến đây là xong. Tôi muốn ở Lữ Đoàn Dù với anh em của tôi”.
Đại Tá Viên lớn tuổi hơn hai vị kia, nhưng ông rất cẩn thận trong cách xưng hô với mọi người, ngay cả với cấp dưới cũng vậy, chớ không nhất thiết là chỉ cẩn thận với hai vị này.
“Các "toa" không nhận thì "moa" đành nhận thôi”.
Nói xong, Trung Tướng Khánh cười khoan khoái. Trung Tướng Khánh nói nhận ở đây, là nhận chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tức Quốc Trưởng, và kiêm luôn chức Thủ Tướng. Vậy là chức vụ của Trung Tướng Khánh nhiều bằng chức vụ của Trung Tướng Minh với ông Đốc Phủ Sứ Nguyễn Ngọc Thơ trước đây cộng lại. Trung Tướng Khánh đồng ý giữ Đại Tá Viên trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù. Mời Trung Tướng Khiêm giữ chức Tổng Tưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, nhưng Trung Tướng Khiêm không nhận. Ông muốn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Dĩ nhiên là chính ông "muốn" chớ không phải ông "bị" như cách đây tròn 1 tháng. Buổi họp chọn vị đứng đầu quốc gia và đứng đầu chánh phủ tạm ngưng, vì Trung Tướng Khánh phải lên tòa nhà chánh họp báo.
Lúc đó là 2 giờ chiều, tại tầng trệt tòa nhà chánh. Rất đông phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình trong nước lẫn ngoại quốc. Trên bàn chủ tọa, Đại Tá Cao Văn Viên ngồi cạnh Trung Tướng Nguyễn Khánh, còn Trung Tướng Khiêm vắng mặt vì bệnh. Chuẩn Uý Nguyễn Ngọc Linh là thông dịch. Chuẩn Uý Linh tốt nghiệp khóa 12 (hoặc 13) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông là chủ một trường Anh ngữ khá nổi tiếng tại Sài Gòn. Sinh viên sĩ quan khóa này có một số khá đông tốt nghiệp đại học mà báo chí thường gọi là "thành phần khoa bảng".
Tổng quát thì Trung Tướng Khánh cho rằng, một số Tướng Lãnh trong nhóm đảo chánh 01/11/1963, đã âm mưu đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập là thời kỳ chuyển tiếp đến chế độ cộng sản. Và âm mưu này phải phá vở từ trong trứng, nếu không, nó sẽ là một sỉ nhục các chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống cho ngọn cờ quốc gia chống cộng. Đồng thời, dân tộc Việt Nam phải chịu sự thống trị của cộng sản và lệ thuộc Trung Cộng như hằng ngàn năm trong lịch sử. Do vậy, mà nhóm của ông đứng lên làm cuộc "chỉnh lý" hôm nay....
Sau đó, ông trả lời những câu hỏi của báo chí. Phần lớn những câu hỏi đều xoay quanh điều mà ông nói là âm mưu trung lập Việt Nam. Tôi không nhớ hết nguyên văn câu hỏi và trả lời, nhưng những điều dưới đây là tôi tóm tắt theo trí nhớ (đoạn này tôi viết lại lúc trong tù):
“Nhóm lãnh đạo chỉnh lý gồm những ai?”
“Nhóm lãnh đạo của chúng tôi gồm 3 người: Tôi, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên”. Vừa nói ông vừa chỉ Đại Tá Viên.
“Xin Trung Tướng cho biết những bằng cớ về âm mưu trung lập?”
“Hội Đồng chúng tôi sẽ truy tố các vị đó ra tòa theo luật định. Toà án sẽ căn cứ vào những bằng cớ để phán quyết”.
“Các vị Tướng đó nghe nói đã bị bắt, có đúng không? Nếu đúng, thì các vị đó bị giữ ở đâu?”
“Đúng. Các vị đó được giữ ở nơi an toàn trong khi chờ ra tòa”.
“Nhóm Chỉnh Lý có thành lập chánh phủ dân sự như nhóm đảo chánh trước đây hay không?”
“Chúng tôi thành lập chánh phủ quân sự, nhưng cũng là tạm thời”.
“Hiến Chương tạm thời bao giờ được thay đổi?”
“Sẽ được thay bằng Hiến Pháp khi Quốc Hội được bầu lên trong một tình hình ổn định”.
“Hàm râu của Trung Tướng cắt theo kiểu đó có nghĩa gì?”
Dường như bị bất ngờ, Trung Tướng Khánh đưa tay vuốt chòm râu cụt ngủn kèm theo nụ cười kéo dài khá lâu, chắc là để tìm câu trả lời trước câu hỏi này.
“Mỗi quân nhân chúng tôi thường có cái gì đó để kỷ niệm cho riêng mình. Hàm râu của tôi cũng không ngoài ý nghĩa đó”.
Và cuộc họp báo chấm dứt, nhưng điều mà các phóng viên thắc mắc liên quan đến bằng chứng về kế hoạch trung lập của các vị Tướng bị bắt, thì Trung Tướng Khánh trả lời rất mơ hồ, khiến họ tỏ vẻ không hài lòng. Mà thật ra ngôn ngữ trong chính trị, không nhất thiết một với một là hai như trong ngôn ngữ của các ngành sinh hoạt khác, cho nên có hài lòng hay không hài lòng cũng vậy thôi.
Trước bữa ăn tối, Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, và Đại Tá Viên, thảo luận với một số vị dân sự và hành chánh để thành lập chánh phủ. Tôi xin phép chạy về nhà vì con tôi lên cơn nóng, nên không theo dõi được phần thảo luận chi tiết. Sau đó Trung Tướng Khiêm gọi tôi trở lại "bản doanh" gấp:
“Chú sang bộ tư lệnh Quân Đoàn nói với Đại Tá Mạnh (Nguyễn Văn Mạnh) Tham Mưu Trưởng, chuẩn bị để sáng mai tôi bàn giao cho Thiếu Tướng Lâm Văn Phát. Còn mấy chú cũng chuẩn bị bàn giao văn phòng rồi trở về Tổng Tham Mưu với tôi”.
“Trung Tướng đã nhận lời với Trung Tướng Khánh?”
“Không có người nên tôi phải nhận thôi. Tôi coi Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu luôn. Tôi ngồi ở văn phòng mà trước kia Đại Tướng Tỵ ngồi đó. Chú sắp xếp lại cho tôi. Phần chú, chú làm chánh văn phòng cả hai bên, nghĩa là Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu. Thôi, chú chạy qua Quân Đoàn lo cho kịp. Nhớ bảo Đại Uý Tuấn về lại Tổng Quản Trị luôn”. (Đại úy Nguyễn văn Tuấn, về sau là Đại Tá, Giám Đốc Nha An Ninh Hành Chánh khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm làm Thủ Tướng)
“Chào Trung Tướng, tôi đi ngay”.
Sáng 31/01/1964, bàn giao xong, tôi và các quân nhân văn phòng dọn về lại văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Vẫn trên tầng lầu, nhưng khác phòng. Trung Tướng Khiêm nhận hai chức vụ của Trung Tướng Trần Văn Đôn nhưng không có bàn giao, vì Trung Tướng Đôn đã bị bắt từ hôm qua. Cùng lúc, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu nhận chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cũng không có bàn giao vì Trung Tướng Lê Văn Kim cũng bị bắt rồi. Tôi nhận bàn giao của Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, gồm văn phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng và văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng gần như hoàn toàn về kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ, dĩ nhiên là về mặt chính trị cũng vậy. Nói rõ hơn trong các biến cố chính trị, nhóm nào được Mỹ ủng hộ thì phần thắng có thể trong tầm tay. Ủng hộ thì có thể có nhiều cách, nhưng sự có mặt của một người Mỹ trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 và cuộc đảo chánh lần này, là biểu hiện rõ nhất. Với cuộc đảo chánh 30/01/1964, giữa bộ ba lãnh đạo đảo chánh (chỉnh lý, chỉ là một loại ngôn ngữ chính trị) với Hoa Kỳ, liệu bên nào là bên khởi xướng? Điều đó tôi không rõ, nhưng chắc chắn là ba vị này đã tiếp xúc ít nhất là 2 lần với Hoa Kỳ, kể từ lúc tôi đón Trung Tướng Khánh về đến Sài Gòn.
Nhìn từ góc độ cá nhân. Liệu có phải cuộc đảo chánh bắt nguồn từ "cái hận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm" khi cử ông vào phái đoàn công du Đại Hàn mà ông tưởng như phần thưởng, để rồi cử ông vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III trong khi ông công du ngoại quốc chưa về? Xin nhớ rằng, Trung Tướng Khiêm là một trong những vị nòng cốt lãnh đạo cuộc đảo chánh 01/11/1963, vì trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân nếu ông không tham gia thì cuộc đảo chánh cũng không dễ gì thực hiện được. Và cũng liệu có phải là từ "cái hận" của Đại Tá Viên khi bị tách khỏi Lữ Đoàn Nhẩy Dù trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 không? Nếu không phải là "những cái hận" đó, thì tại sao trong buổi họp chọn người lãnh đạo ngay sau khi đảo chánh thành công, Trung Tướng Khiêm nói "phần tôi đến đây là đủ rồi", và tại sao Đại Tá Viên cũng nói "phần tôi đến đây là xong rồi". Cả hai vị có cùng câu nói tương tự nhau là bao hàm ý nghĩa rằng "tôi không thích chính trị" hoặc "tôi không thích lao vào chính trị", để rồi Trung Tướng Khánh "đành" nhận cả hai chức vụ cao nhất nước? Hãy để câu trả lời chính xác cho cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên.
Nếu chấp nhận giả thuyết "hai cái hận" nói trên là nguyên nhân, thì theo tôi, hành động phục hận của Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên mới là "động lực", mà động lực không cũng chưa đủ, vì phải có "ngòi nổ" để phát nổ nữa chớ. Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng, và đây đúng là "ngòi nổ" để đẩy động lực kia nổ máy. Tôi muốn nói là Trung Tướng Khánh đã khai thác cái hận của Trung Tướng Khiêm với Đại Tá Viên bằng cách khích hai vị ấy phục hận. Cũng chưa đủ, phải có "lửa" châm ngòi nổ nữa chớ. Tôi cho rằng Hoa Kỳ là ánh lửa châm ngòi. Như vậy, nếu đúng là phục hận thì Hoa Kỳ cũng có nguyên nhân nào đó chớ chẳng lẽ Hoa Kỳ giúp đảo chánh chỉ để hai vị phục hận riêng tư sao? Chắc chắn là không.
Nhìn vào một góc độ khác, góc độ chính trị ngoại giao. Liệu có phải Hoa Kỳ muốn loại trừ những Tướng lãnh cầm quyền mà trước đó có tiếng là thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam không? Chắc trong chúng ta, lứa tuổi chào đời thập 20, 30, không ai quên là Pháp rất không bằng lòng hành động của Hoa Kỳ góp phần đẩy nước Pháp đến việc ký kết Hiệp Định Đình Chiến Genève 20/07/1954 với Việt Minh cộng sản, dẫn đến sự kiện nước Pháp thua trận và đoàn quân viễn chinh của Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam tháng 03/1956. Tổng Thống Pháp quốc, Tướng Charles De Gaulle, vào đầu thập niên 1960, trong chuyến viếng thăm Cambodge, ông cổ võ chính sách trung lập cả ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Quan niệm trung lập của ông De Gaulle, chẳng khác nào xúi ba nước trên bán đảo Đông Dương vào ảnh hưởng cộng sản, điều đó có nghĩa là vực Việt Nam Cộng Hòa (cùng với Cam Bốt và Lào) ra khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Phải chăng đây cũng là cách phục hận của Pháp đối với Mỹ? Lúc ấy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm phản ứng mạnh mẽ về lời tuyên bố đó của Tổng Thống Pháp.
Liên quan đến đoạn trên đây, cựu Đại Tướng Khiêm nói với tôi trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003, như sau:
“Tôi không biết tại sao mà Mỹ lại bỏ rơi ông Minh nữa”.
Tôi nói với ông về nét nhìn của tôi như đoạn viết ở trên. Ông nói:
“Điều chú nói có lý lắm, nhưng có thể còn điều gì đằng sau đó nữa”.
Nhưng mà thưa các bạn, với câu nói ngắn ngủi của cựu Đại Tướng Khiêm trên đây, cộng với nguyên nhân mà Trung Tướng Khánh (cấp bậc lúc đảo chánh) đã tuyên bố trong buổi họp báo cách nay 39 năm sau khi đảo chánh thành công (30/01/1964), theo đó thì Trung Tướng Dương Văn Minh và các vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập ngày 01/11/1963, có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, có thể làm quí vị suy nghĩ nếu quí vị muốn đào sâu thêm về con người dẫn đến sự kiện ngày 30/01/1964.
Nhìn sang góc độ khác nữa, góc độ chính trị nội bộ. Liệu có phải năm vị Tướng vừa bị bắt kia, thật sự có kế hoạch trung lập Việt Nam hay không vì Trung Tướng Khánh với quyền uy cao nhất nước, đã nói với báo chí là sẽ đưa các vị đó ra tòa (?). Tôi chấm hỏi trong ngoặc đơn như vậy vì tôi nghi ngờ lời ông. Tôi nghi ngờ vì chen lẫn trong lúc ba vị thảo luận thành lập chánh phủ, Trung Tướng Khánh có nói sẽ ra lệnh cho Trung Tá Cao (Albert Nguyễn Cao) và Thiếu Tá Nhiêu (Lê Văn Nhiêu) -sĩ quan tình báo- truy tìm tài liệu về "kế hoạch trung lập". Câu nói đó cho tôi hiểu đôi chút là khi bắt các vị Tướng bị cáo buộc "trung lập", thì trong tay các vị đảo chánh chưa có bằng chứng gì trung lập hết, hoặc nếu có cũng chưa đủ để đưa các vị ấy ra tòa.
Năm 1994, khi tôi viết lại đoạn này thì cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống ở Washington D.C. một cách lặng lẽ, không tiếp xúc với ai liên quan đến chính trị. Trong khi cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì đi sâu vào thiền, cũng ở Washington D.C. và cuộc sống càng ẩn dật hơn cựu Đại Tướng Khiêm nữa. Điều đó đúng trong thời gian ấy.