Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 17

Tựa Đề: Đôi Dòng Ghi Nhớ - Phạm Bá Hoa

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default Phần trích thuật bắt đầu.



    Phần trích thuật bắt đầu.

    "Tôi có dịp đến Houston khoảng tháng 07/1995, được người bạn tặng cuốn "Đôi Dòng Ghi Nhớ" của anh Phạm Bá Hoa, cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Không như "Lời Trần Tình" quá khiêm nhường của anh, quyển sách tuy không chánh thức là một sử liệu, nhưng nó đóng góp rất nhiều cho các sử gia, vì anh được ở vào một vị trí rất quan trọng trong guồng máy hành chánh và quân sự trong một giai đoạn lịch sử 1960-1968. Những sự việc mà anh ghi lại thật là trung thực, rất đầy đủ từng chi tiết, cũng như anh đã phân tách sự việc rất vô tư, khách quan. Trong quyển sách, anh nói không ít về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm".
    "Về sự việc lịch sử này, đã có rất nhiều người -kể cà người Mỹ- hỏi tôi từ sau ngày 02/11/1963 cho tới giờ này. Ai cũng muốn biết rõ chi tiết của sự việc đã xảy ra trên chiếc Thiết Vận Xa trong đoàn xe mà cá nhân tôi có trách nhiệm an ninh hộ tống hôm đó. Tác giả quyển "Đôi Dòng Ghi Nhớ" chỉ nêu lên một số dữ kiện, một số suy luận, một số giả thuyết, và nghi vấn chung quanh sự việc nói trên, mà không hề có ý xác quyết ai là người đã ra lệnh và ai là người đã thi hành lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Đây là điểm hoàn toàn khác biệt với một vài quyển hồi ký khác đã được xuất bản mà tôi có dịp đọc".
    "Liên quan đến sự việc này, tôi muốn nói đến vài quyển hồi ký mà tác giả đã có nhận xét thiếu chính xác, có khi còn sai lạc hẳn. Sự việc cũng không được phân tách cho đúng lý đúng tình. Có tác giả đã kể lại sự việc mà chính mắt tác giả không mục kích được, tai cũng chỉ nghe lõm bõm diễn tiến mà người thuật cũng không phải người trong cuộc. Hoặc là viết theo một số dữ kiện do quá nhiều người thuật lại theo cái nghe được hay theo lập luận một chiều. Đặc biệt là cựu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, tác giả " Việt Nam, Một Trời Tâm Sự", ông đã dựa trên lời khai nguyên văn của Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (đúng ra là Thiếu Tá vì lúc bị bắt là ngày 30/01/1964, anh Nhung đã thăng cấp Thiếu Tá rồi. PBH) mà ông được đọc sau ngày "Chỉnh Lý 30/01/1964", nên sự việc đó ông viết rất chính xác. Nói rất rõ là ai thi hành lệnh giết Tổng Thống và giết bằng cách nào..."
    "Sáng ngày 02/11/1963, Trung Tướng Dương Văn Minh chỉ định Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân và Đại Tá Dương ngọc Lắm, vào nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn "đón họ" về đây (Họ, tức Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Về đây, tức về Bộ Tổng Tham Mưu. PBH). Tôi có mặt tại chỗ, vì tôi cùng Trung Đội Thiết Vận Xa vừa từ dinh Gia Long về tới, và trình Trung Tướng Minh là Tổng Thống và ông Cố Vấn không có trong dinh Gia Long. Do đó, tôi nhận lệnh của Trung Tướng Minh tiếp tục cho Trung Đội Thiết Giáp hộ tống Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm vào nhà thờ Cha Tam "đón họ" (nguyên văn của Trung Tướng Minh). Như vậy, tôi được biết Thiếu Tướng Xuân nhận lệnh trực tiếp của Trung Tướng Minh, nhưng tôi không biết là Thiếu Tướng Xuân có nhận lệnh mật gì của Trung Tướng Minh không. Cũng ngay lúc đó, tôi được Đại Tá Nguyễn Văn Quan -bạn thân của Trung Tướng Minh- cho biết, trong khi tôi xuống dinh Gia Long thì ông Diệm và ông Nhu đã bí mật vào trong Chợ Lớn, và hiện ở nhà thờ Cha Tam. Từ nhà thờ, hai ông đã liên lạc điện thoại với các Tướng Lãnh. Ngay sau đó, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng quyết định dứt khoát, ít nhất là số phận của ông Ngô Đình Nhu, bằng mọi cách phải diệt trừ hậu họa. Thiếu Tướng Xuân, Đại Tá Quan, Đại Tá Lắm, Đại Tá Đỗ Mậu, ... đều có mặt trong cuộc thảo luận để lấy quyết định có tính cách lịch sử nói trên, cùng với Trung Tướng Dương Văn Minh, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu. ..v..v.."
    "Tôi cũng được Đại Tá Quan cho biết thêm rằng, Trung Tướng Minh, người chỉ huy cuộc đảo chánh, đã nhanh chóng đưa ra quyết định rất dứt khoát để Hội Đồng lấy quyết định chung. Các vị hiện diện lúc đó, không ai góp thêm ý kiến gì. Lúc đó im lặng được xem là đương nhiên chấp thuận đề nghị của Trung Tướng Minh. Thật ra, từ 11 giờ đêm 01/11/1963, trong lúc tình hình chưa ngã ngủ hẳn, các Tướng Lãnh đã có bàn bạc riêng với nhau trước về số phận của ông Ngô Đình Nhu rồi. Riêng đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì hầu hết đều tán thành cho Người (viết hoa) đi ra ngoại quốc, không thấy vị nào phát biểu khác hơn. Do đó, khi Thiếu Tướng Xuân nhận lệnh đi đón Tổng Thống là ông biết mình sẽ phải làm gì rồi, ít nhất là đối với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Còn đối với Tổng Thống thì lúc bấy giờ tôi hoàn toàn không biết là Thiếu Tướng Xuân có nhận được mật lệnh gì thêm từ Trung Tướng Dương Văn Minh hay không."
    "Đoàn xe khởi hành từ Bộ Tổng Tham Mưu khoảng 6 giờ sáng. Hai xe Quân Cảnh dẫn đầu, xe Jeep của tôi và Đại Úy Phan Hòa Hiệp, kế đó là xe Jeep Thiếu Tướng Xuân rồi xe Đại Tá Lắm, và đoàn xe hộ tống gồm Trung Đội Thiết Vận Xa 5 chiếc (4 xe đi đầu có bộ binh tùng thiết, và xe sau cùng là của Trung Đội Trưởng). Tôi xin nói rõ thêm. Tôi thấy không có dự trù xe nào chở Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu, nên tôi có hỏi Thiếu Tướng Xuân trước khi khởi hành, thì ông nói nhanh và cộc lốc "không cần". Tôi nghĩ, chắc là ông đã có phương cách rồi nên không muốn chúng tôi quấy rầy làm mất luồng suy tính của ông trong lúc ông có mission (nhiệm vụ) quá đặc biệt, có lẽ đặc biệt hơn bao giờ hết trong cuộc đời Cảnh Sát Công An của ông.
    “Trước khi khởi hành, tôi và Đại Úy Hiệp nhìn thấy Đại Úy Nhung ngồi trên một trong bốn chiếc thiết vận xa sau xe Jeep chúng tôi. Đại Úy Hiệp hỏi tôi về sự hiện diện của vị sĩ quan bộ binh lạ mặt này. Tôi giải thích sơ qua, đó là Đại Úy Nhung, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh, và có xác nhận với Đại Úy Hiệp rằng: "Đại Úy Nhung có hỏi tôi để được cùng đi với Trung Đội Thiết Vận Xa. Tôi nghĩ, có lẽ Đại Úy Nhung có nhiệm vụ gì đó do Trung Tướng Minh đích thân giao cho, nên tôi không tiện hỏi vì không liên quan gì đến nhiệm vụ an ninh hộ tống của chúng mình".
    "Tôi không muốn nói rõ với Đại Úy Hiệp, nhưng cá nhân tôi đã biết là Đại Úy Nhung được Trung Tướng Minh sai đi theo đoàn xe để thi hành quyết định của Hội Đồng. Quyết định liên quan đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Quyết định này đã được chuyển thành lệnh và được Trung Tướng Minh trao cho Đại Úy Nhung thi hành. Vì chắc chắn Trung Tướng Minh không còn thấy ai hơn người sĩ quan cận vệ thân tín này để thi hành một công tác đặc biệt, khó khăn và quan trọng nói trên. Tôi dùng danh từ "mật" là vì nếu Trung Tướng Minh có dặn dò điều gì với Đại Úy Nhung thì không một ai trong Hội Đồng nghe thấy được. Và nếu có ra lệnh cho Đại Úy Nhung thi hành quyết định công khai của Hội Đồng, về một mình ông Cố Vấn Nhu hay cho cả hai ông, thì cũng không một ai trong Hội Đồng nghe thấy được. Nhưng tôi khẳng định là Trung Tướng Minh có sai Đại Úy Nhung -tức là đã ra lệnh cho Đại Úy Nhung- và lệnh được đưa ra theo quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Ít nhất là liên hệ đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Tôi xin nói rõ lại một lần nữa, là chỉ liên quan đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Vì nếu Trung Tướng Minh không ra lệnh thì không còn ai trong Hội Đồng có đủ thẩm quyền để ra lệnh đặc biệt này? Cũng như nếu không sai Đại Úy Nhung, thì tại sao Đại Úy Nhung lại phải nói với tôi cho anh được ngồi trên chiếc thiết vận xa để được cùng đi vào Chợ Lớn?"
    "Nhưng tôi cũng xác định là dù có sai Đại Úy Nhung hay ra lệnh cho Đại Úy Nhung, Trung Tướng Minh cũng là sai mật hay dặn dò mật mà thôi. Như vậy là đến đây, chúng ta không còn thắc mắc gì về người nào đã ra lệnh và lệnh xuất phát từ đâu. Đại Tá Dương Ngọc Lắm, chắc chắn phải biết rõ mật lệnh mà Trung Tướng Minh đã giao cho Thiếu Tướng Xuân. Vì nếu không thì tại sao đích thân ông đến gặp tôi để dặn dò tôi trước khi đoàn xe khởi hành:

    "Nè, mấy người đừng có nói gì bậy bạ nghe".

    "Tôi cũng biết chắc chắn ngay từ lúc bàn thảo kế hoạch sơ khởi trước tháng 11 năm 1963, các vị Tướng Tá trong nhóm lãnh đạo đảo chánh đã có dự trù một giải pháp dứt khoát đối với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Sự dự trù đã trở thành quyết định từ sau 1 giờ trưa ngày 01/11/1963. Đó là truy tố ra tòa và xử ngay trong nước, không cho ra ngoại quốc. Tôi xin lặp lại, sơ khởi là như vậy. Nhưng theo lời Đại Tá Nguyễn Văn Quan (không phải Đại Tá Đặng Văn Quang. PBH) nói với tôi, lúc khuya rạng sáng ngày 02/11/1963 khi chưa được tin Tổng Thống và ông Cố Vấn rời khỏi dinh Gia Long, đa số trong Hội Đồng không còn ý đưa ông Cố Vấn Nhu ra tòa nữa, mà nhất quyết phải trừ hậu họa bằng mọi cách. Rõ ràng là như vậy. Lúc bấy giờ tình hình chưa ngã ngũ. Dinh Gia Long chưa chiếm được, lực lượng phòng vệ Phủ Tổng Thống chưa buông súng đầu hàng, vì cũng chính ông Cố Vấn được qui trách cho mọi xáo trộn trong nước, làm mất lòng Dân Quân Cán Chánh, ... "
    "Riêng đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy chưa có quyết định dứt khoát, nhưng qua trao đổi ngoài hành lang thì đa số các vị trong Hội Đồng có ý tán thành một giải pháp ôn hòa. Đó là, để ổng ra ngoại quốc một mình như một dân thường, không được hưởng lễ nghi quân cách của một Tổng Thống. Biện pháp này coi như là một ân huệ đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, theo lời Đại Tá Quan xác nhận lại với tôi, thì Trung Tướng Minh vẫn còn im lặng, chưa có ý kiến".
    "Khi được biết Tổng Thống và ông Cố Vấn đã bí mật rời khỏi dinh Gia Long, thì tình hình thật sự có thay đổi trong chiều hướng bất lợi cho hai ông. Khi còn chưa rõ hai ông ở đâu thì Hội Đồng có phần lo âu, vì dù đảo chánh có thành công mà hai ông chạy thoát được thì tình hình chính trị ra sao đây? Chẳng những không có sự ổn định trong tương lai, mà sẽ có một sự chia rẽ có thể dẫn tới tranh chấp quyền lực, nếu không muốn nói là nội chiến ngay tại miền nam Việt Nam! Và nỗ lực chống cộng sản sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Nhất là đến giờ này, Tướng Huỳnh Văn Cao ở Vùng IV Chiến Thuật chưa chịu tuyên bố chánh thức trên đài phát thanh đứng về phía Hội Đồng, mặc dầu được yêu cầu nhiều lần. Vùng IV có 3 Sư Đoàn Bộ Binh được kềm giữ trong thế án binh bất động nhờ công của Thiếu Tá Nhan Minh Trang, Thiếu Tá Huỳnh Văn Tồn, và Đại Tá Nguyễn Hữu Có".
    "Do đó, từ quyết định ôn hòa, đã có một số không ít thành viên trong Hội Đồng bắt đầu tỏ thái độ cứng rắn và quyết liệt hơn, nhất là Trung Tướng Dương Văn Minh, linh hồn của cuộc đảo chánh. Ông không muốn thấy ngày 11/11/1960 tái diễn (11/11/1960 là ngày Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh thất bại phải vượt thoát lưu vong. PBH). Chúng ta phải thấy được trách nhiệm nặng nề của người chỉ huy cuộc hành quân đảo chánh lúc bấy giờ, mới biết được mức độ lo âu nóng ruột của Trung Tướng Dương Văn Minh như thế nào. Từ đó mới thấy thái độ của Trung Tướng Minh qua đề nghị của Trung Tướng để Hội Đồng lấy quyết định về trường hợp cá nhân của ông Ngô Đình Nhu, dứt khoát, không thể do dự hay yếu mềm được."
    "Có người nói là trước khi đoàn xe khởi hành, Trung Tướng Minh đứng trên lầu tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, hướng về Thiếu Tướng Xuân hay Đại Úy Nhung, đưa ra hai ngón tay (ý nói là cả hai người), nhưng tôi xác nhận là hoàn toàn không trông thấy. Tôi biết rõ tính trầm tĩnh và suy tính chính chắn của Trung Tướng Minh, nên tôi chắc chắn là ông không bao giờ có hành động vào phút chót quá lộ liễu như vậy. Nếu có ra lệnh, chắc chắn ông đã có đắn đo suy tính kỹ càng trước rồi, và ông đã phải dặn dò ngay Đại Úy Nhung chớ không bao giờ ông lại ra lệnh để cho người ta thấy dễ dàng như vậy."
    "Tôi xin mở thêm dấu ngoặc ở đây. Trước khi khởi hành, tôi có ghé ngang bộ chỉ huy Thiết Giáp hành quân đặt trên chiếc bán xích xa đậu cạnh tòa nhà chánh, báo cho Trung Tá Nguyễn Văn Thiện biết về hướng đi và nhiệm vụ của tôi. Tôi tuyệt đối không nói thêm điều nào, vì Trung Tá Thiện không phải là thành viên của nhóm đảo chánh. Trung Tá Thiện là cán bộ nòng cốt của đảng Cần Lao, là người tín cẩn của Tổng Thống và ông Cố Vấn, nên bị giữ ở phòng họp từ trưa hôm qua (01/11/1963). Tôi xin với Trung Tướng Minh cho tôi lãnh ông ra và tôi hoàn toàn trách nhiệm. Được chấp thuận, và Trung Tá Thiện chỉ huy Thiết Giáp trong cuộc hành quân này. Sau đảo chánh, ông được thăng cấp Đại Tá và giữ nguyên chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp."
    "Đoàn xe đến nhà thờ Cha Tam, Đại Úy Hiệp giúp tôi lo bố trí an ninh. Tôi đến gặp Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm để nhận lệnh. Cả hai ông, không ai chịu vào nhà thờ để gặp Tổng Thống và ông Cố Vấn. Tôi không rõ tại sao, dù đó là nhiệm vụ của hai ông, và bảo tôi đại diện Hội Đồng vào mời Tổng Thống và ông Cố Vấn ra xe là được rồi. Tôi vào nhà thờ qua cổng nhỏ bên mặt cổng chánh. Nhưng khi bước vào khỏi cổng khoảng 10 thước, tôi sực nhớ là mình vào một cơ sở tôn giáo không nên mang theo vũ khí. Tôi vội trở ra cổng, cởi súng lục trao cho tài xế của tôi. Lúc này người dân chung quanh thấy có việc lạ, tò mò đứng lố nhố đầy cả ngã ba trước rào sắt của nhà thờ. Binh sĩ cũng không gắt gao cho lắm, và chắc chắn bây giờ người dân đã biết được là Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu đang ở trong nhà thờ này."
    "Tôi lại bước vào nhà thờ lần thứ hai, không súng, và vẫn một mình. Tôi không nhìn lại phía sau, nhưng nghĩ bụng là anh em Thiết Giáp ở ngoài rào sắt, chắc cũng đã bố trí theo dõi và an ninh cho tôi, vì biết rằng, tôi vào đây không một tấc sắt trong tay. Tôi mạnh dạn bước tới, rẽ về tay mặt. Đi tới khoảng 20 thước thì thấy từ phía dãy nhà bên hông phải của nhà thờ có 4 người đi về hướng tôi. Đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm tay cầm gậy, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và 2 người mặc thường phục. Tôi nghĩ bụng, một trong hai người mặc thường phục có xách chiếc cặp da phải là Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống. Người thứ tư tôi không biết. Mãi sau này tôi mới biết là Đại Úy An, sĩ quan cận vệ của Tổng Thống. Tôi nghĩ, chắc là Tổng Thống đã được Hội Đồng báo trước rồi, nên khi nghe thấy xe tới nhà thờ là Tổng Thống đi ra. Tôi đứng lại. Chờ. Nhưng vẫn không để ý xem hai sĩ quan này có võ trang hay không. Và khi Tổng Thống đến còn cách tôi khoảng 3 thước, tôi đứng nghiêm lại, đưa tay lên mũ, chào đúng lễ nghi quân cách, và giữ nguyên tư thế đứng nghiêm đó, tôi nói: "Thưa Tổng Thống, chúng tôi có lệnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đến đây mời Tổng Thống và ông Cố Vấn về Bộ Tổng Tham Mưu. Có Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đại diện cho Hội Đồng, đang đứng trước cửa chờ Tổng Thống".
    "Tổng Thống đứng lại nghe tôi trình bày và có nói một câu ngắn mà tôi nghe không rõ. Sau đó, Đại Úy Đỗ Thọ bảo tôi đi trước, Tổng Thống sẽ theo sau. Nhưng tôi đứng nép qua một bên, mời Tổng Thống đi trước ra hướng cổng nhỏ bên phải. Cả 4 người qua hết rồi, tôi mới lững thững bước theo sau, cách xa độ 3 thước. Dù sao, trong cương vị sĩ quan, tôi vẫn bắt buộc phải giữ lễ độ đối với Tổng Thống dù đang trong hoàn cảnh này. Và đi sau cũng có thể là một hành động phản ứng đề phòng tự nhiên của tôi, chớ hoàn toàn không có ý gì khác. Tôi đinh ninh rằng, Thiếu Tướng Xuân đã phải có mặt trước cổng để hướng dẫn Tổng Thống lên xe về Tổng Tham Mưu, vì đó là nhiệm vụ của ông. Đến cổng rào, vì là cổng nhỏ bên hông nên 4 người phải tuần tự qua cổng. Tổng Thống đi trước, đến Đại Úy Thọ, rồi mới đến ông Cố Vấn, và Đại Úy An. Tôi là người thứ 5 ra khỏi cổng sau cùng".
    "Ngay lúc bấy giờ, tôi chợt thấy có chiếc Thiết Vận Xa đậu ngay cổng nhỏ này, cánh cửa sau xe mở rộng, gác nằm xuống sát mặt lề đường. Tôi thấy Thiếu Tướng Xuân và Đại Úy Nhung đã có mặt tại chỗ. Không có Đại Tá Lắm. Thiếu Tướng Xuân bảo Đại Úy Đỗ Thọ trao cho ông chiếc cặp da của Tổng Thống mà Đại Úy Thọ đang xách. Ông Xuân xách chiếc cặp đi ngay, không nói lời nào khác ngoài việc khoác tay ra lệnh cho Đại Úy Thọ và Đại Úy An đi theo ông".
    "Đại Úy Nhung hướng về phía Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu, nói như ra lệnh:

    "Mời hai ông lên".

    “Vừa nói vừa chỉ vào cửa Thiết Vận Xa đã mở. Lúc này Tổng Thống và ông Cố Vấn đứng cách cửa Thiết Vận Xa khoảng 1 thước. Tổng Thống không nói lời nào, chưa có một phản ứng nào về thái độ kém nhã nhặn của người sĩ quan mà ông chưa hề biết mặt. Tổng Thống còn đang tần ngần, sững sờ, thì ông Cố Vấn Nhu đã lên tiếng với vẻ mặt bất bình:

    “Tại sao lên xe này? Không còn xe nào khác hay sao?”

    “Không có. Vì lý do an ninh, tình hình đang hỗn loạn. Dân chúng đang muốn giết hai ông đó. Hai ông phải lên xe này để được bảo vệ”.

    "Đại Úy Nhung có vẻ bực bội vì câu hỏi với giọng kẻ cả, nên vừa trả lời vừa đưa tay ra dấu như có ý đẩy hai người vào Thiết Vận Xa. Nhìn qua nhìn lại không thấy Thiếu Tướng Xuân đâu cả. Đại Úy Thọ và người sĩ quan cận vệ cũng không thấy có mặt. Tổng Thống hỏi:

    “Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đâu? Gọi Thiếu Tướng đến gặp tôi”.

    “Thiếu Tướng Xuân đã lên xe đi trước rồi”. Đại Úy Nhung vừa trả lời vừa giục hai ông vào xe. Sau phút ngập ngừng, hai ông phải bước vào xe.

    "Tôi vẫn còn đứng cách đó vài bước bên cạnh cổng nhỏ nhà thờ, nhìn thấy cảnh Thiếu Tướng Xuân đầu trần, không nhìn thẳng Tổng Thống. Thiếu Tướng đã đưa tay nhận lấy chiếc cặp da từ tay Đại Úy Thọ, xong là bước đi luôn về hướng xe của ông, không quên ra lệnh cho Đại Úy Thọ cùng người sĩ quan cận vệ theo ông, để mặc cho Đại Úy Nhung đối đáp với Tổng Thống ra sao tùy ý. Tôi cũng nhìn thấy được gương mặt thẩn thờ, ngạc nhiên của Tổng Thống, vẻ bất bình cau có của ông Cố Vấn Nhu, và thái độ nóng nẩy của Đại Úy Nhung. Tôi theo dõi được những câu trao đổi ngắn ngủi nhưng mất bình tỉnh của ông Cố Vấn với Đại Úy Nhung, cũng như sự im lặng chịu đựng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi còn chứng kiến được cảnh hai người lặng lẽ bước vào xe, còn nghe Đại Úy Nhung bảo họ cúi đầu xuống. Đợi cho hai ông vào xe xong, Đại Úy Nhung mới bước vào sau cùng. Và cửa xe từ từ dựng đứng lên, đóng kín lại. ... "
    "Ngay lúc bấy giờ, tôi mới kịp nhận ra là trong Thiết Vận Xa không còn một binh sĩ Thiết Giáp nào, ngoại trừ tài xế và phụ tài xế ngồi phía trước. Lúc Đại Úy Nhung bước vào xe, thì rõ ràng tôi chỉ thấy có 3 người trong xe. Đó là Tổng Thống, ông Cố Vấn, và Đại Úy Nhung. Sau này hỏi ra tôi mới biết, trưởng xa và xạ thủ đã được Đại Úy Nhung yêu cầu tạm qua xe khác. Tôi bước xuống lòng đường, đi bộ lại gặp Thiếu Tướng Xuân, tôi báo cáo tình hình sau cùng, và đề nghị với Thiếu Tướng cho đoàn xe khởi hành về Bộ Tổng Tham Mưu".
    "Tôi bước về xe Jeep của tôi, ra lệnh cho đoàn xe nổ máy và chuẩn bị lên đường. Thứ tự các xe như cũ: Xe Jeep của tôi và Đại Úy Hiệp đi sau 2 xe Quân Cảnh dẫn đường, kế đó là xe Thiếu Tướng Xuân, xe Đại Tá Lắm, theo sau là 4 Thiết Vận Xa đi liền nhau, trong đó, chiếc thứ 3 chở Tổng Thống và ông Cố Vấn với Đại Úy Nhung, tiếp theo là xe chở bộ binh tùng thiết (tức là bộ binh tháp tùng ngồi trên xe Thiết Giáp), sau cùng là xe Trung Đội Trưởng. Đoàn xe đang đi trên đường Hồng Thập Tự, qua khỏi nhà bảo sanh Từ Dũ phải dừng lại cổng xe lửa vì sắp có xe lửa chạy qua. Thời gian đoàn xe dừng lại đây khoảng hơn mười phút, chợt tôi nghe có mấy tiếng súng nổ phía sau, vào khoảng giữa đoàn xe. Tôi cho quay đầu xe Jeep lại, chạy dọc theo đoàn xe để xem việc gì đã xảy ra. Đến ngang chiếc Thiết Vận Xa chở Tổng Thống và ông Cố Vấn, tôi thấy Đại Úy Nhung ngồi trên nóc xe và hướng về phía chúng tôi, đưa một ngón tay cái lên làm hiệu (được hiểu là mọi việc tốt đẹp). Tôi vội hỏi: “Tiếng súng nổ ở đâu?”

    "Đại Úy Nhung đưa tay chỉ vào trong xe mà không nói gì. Tôi quay đầu xe lại, tiếp tục trở lên đầu đoàn xe. Lúc đó xe lửa cũng vừa qua xong, cổng chắn ngang đã mở, đoàn xe chúng tôi tiếp tục chạy hướng về Bộ Tổng Tham Mưu. Để được biết rõ ràng hơn, tôi có hỏi Trung Đội Trưởng Thiết Giáp, việc gì đã xảy ra mà có tiếng súng nổ trên chiếc Thiết Vận Xa thứ 3. Tôi được trả lời:

    “Phụ tài xế xe thứ 3 có báo cáo cho tôi biết, tiếng súng đó do ông Đại Úy bộ binh ngồi trong xe bắn chết Tổng Thống và ông Cố Vấn rồi”.

    Cả tôi và Đại Úy Hiệp đều nghe biết sự việc này qua hệ thống truyền tin Thiết Giáp trên xe chỉ huy của chúng tôi, nhưng tôi vẫn chưa có báo cáo gì về Tổng Tham Mưu vào lúc đó, cả với bộ chỉ huy Thiết Giáp cũng vậy. Riêng tôi, tôi không biết tại sao cả hai ông đã bị bắn chết. Vì cho tới giờ này, cũng như các Tướng Tá thành viên khác của Hội Đồng, tôi vẫn biết là Hội Đồng dù chưa có quyết định nào dứt khoát cho trường hợp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng gần như đã có một sự hiểu ngầm qua trao đổi ý kiến ngoài hành lang bán chánh thức giữa các thành viên của Hội Đồng, thì Tổng Thống được cho xuất ngoại như một người dân bình thường".
    "Gặp Trung Tướng Minh và các vị Tướng Lãnh ngay lối vào tòa nhà chánh, Thiếu Tướng Xuân báo cáo ngắn gọn rằng:

    “Mission accomplie (nhiệm vụ hoàn thành)”.

    "Trầm ngâm và đăm chiêu, Trung Tướng Minh chưa nói một lời nào sau báo cáo của Thiếu Tướng Xuân, thì Thiếu Tướng Khiêm (Trần Thiện Khiêm) ngay sau đó hỏi nhỏ:

    “Việc gì đã xảy ra?”
    “Hai ổng đã chết rồi”.-

    "Trung Tướng Minh trả lời ngắn gọn như vậy. Ngay lúc này, tôi có mặt tại chỗ, và chợt hiểu. Thì ra câu "nhiệm vụ đã hoàn thành" (mission accomplie) cũng có nghĩa là hai ổng đã chết rồi. Rất là rõ ràng. Trung Tướng Minh nói xong, tất cả đều không có một câu hỏi nào khác nữa và cùng nhau trở lên văn phòng, không đi ra chỗ Thiết Vận Xa đậu nữa. Tôi cũng đi theo".
    " Bước vào đây tôi mới thấy Đại Úy Nhung đã có mặt ở văn phòng của Tham Mưu Trưởng rồi, tức là văn phòng mà Trung Tướng Minh và các Tướng Tá trong Hội Đồng đang tạm sử dụng. Lúc bấy giờ, tôi mới biết thêm là Đại Úy Nhung đã lên đây trước và báo cáo với Trung Tướng Minh trước khi có người lên đây trình đoàn xe đón Tổng Thống đã về đến Tổng Tham Mưu. Đại Úy Nhung chỉ báo cáo riêng cho Trung Tướng Minh mà thôi, và chắc chắn là kín là mật, nên các Tướng Tá trong Hội Đồng, kể cả Thiếu Tướng Khiêm cũng chưa hay biết được việc gì đã xảy ra. Do đó, khi Trung Tướng Minh cùng các Tướng Tá trong Hội Đồng cùng đi xuống sân vận động dự trù để gặp Tổng Thống và ông Cố Vấn, thì chưa ai biết được việc gì đã xảy ra cho Tổng Thống cả. Vừa đến tầng dưới thì gặp ngay Thiếu Tướng Xuân từ ngoài sân bước vào, hớn hở báo cáo (công khai) với Trung Tướng Minh là nhiệm vụ đã hoàn thành".
    "Để trả lời câu hỏi: "Việc gì đã xảy ra của Thiếu Tướng Khiêm", Trung Tướng Minh mới buông gọn một câu: "Hai ổng đã chết rồi". Tôi đã kín đáo nhận xét thái độ của các thành viên trong Hội Đồng ngay tại hành lang tầng dưới của tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, ngay sau khi Thiếu Tướng Xuân báo cáo, và sau đó Trung Tướng Minh trả lời ngắn gọn cho Thiếu Tướng Khiêm. Thoạt đầu, tất cả đều có vẻ vui (có lẽ khi biết là đã đón hay bắt được Tổng Thống và ông Cố Vấn về đây rồi. PBH), vì ai cũng nghĩ rằng phe đảo chánh ta đã nắm chắc phần thắng 100% mà không còn sợ hậu họa gì nữa, vì hai ông không chạy vuột ra khỏi thủ đô để còn mưu tính chuyện gì khác đâu. Và câu "mission accomplie" cũng được các Tướng Tá trong Hội Đồng hiểu là đã bắt được hai ông về rồi. Đến lúc nghe Trung Tướng Minh trả lời cho Thiếu Tướng Khiêm là cả hai đều đã chết hết rồi thì phần đông đều có vẻ sững sốt, ngạc nhiên, đến độ không nói được một lời nào. Vì cứ y theo quyết định, thì cùng lắm cũng chỉ một mình ông Cố Vấn Nhu mà thôi, tại sao lại là hai người? Ai cũng nghĩ là Tổng Thống sẽ được Hội Đồng cho đi ra ngoại quốc, bây giờ tại sao lại như vậy? Phải giải thích thế nào đây? Riêng Trung Tướng Minh rất là trầm tỉnh, không nói một lời nào với Thiếu Tướng Xuân dù là một lời khen hỏi ủy lạo, chỉ vài lời ngắn gọn cho câu hỏi của Thiếu Tướng Khiêm thôi".
    "Sau đó vài hôm, tôi có dịp gặp lại Thiếu Tá Nhung (đã được thăng cấp. PBH). Để hết thắc mắc, tôi có gặn hỏi lại sự việc đã xảy ra như thế nào trong chiếc Thiết Vận Xa, thì Thiếu Tá Nhung vừa cười vừa trả lời cho tôi một cách gọn gàng như đã không có chuyện gì quan trọng xảy ra:

    “Một người cũng vậy, mà hai người cũng vậy thôi. Hai người cũng khó khăn lắm, nhưng chắc ăn hơn”.

    “Nhưng làm gì có lệnh cho hai người?” Tôi gợi ý hỏi thêm.

    “Vì ông Diệm chống cự lại sau khi ông Nhu bị tôi đâm chết, nên tôi phải thanh toán luôn. Có lệnh cũng được, mà không có lệnh cũng vậy thôi. Cho nó chắc ăn. Lúc đó đâu có đợi lệnh được anh”.

    "Thiếu Tá Nhung cũng cho tôi biết là anh đã sử dụng dao găm cá nhân của anh, và sau đó bồi thêm cho mỗi người một viên đạn ân huệ. Tôi còn nhớ mãi những câu đối đáp này mồn một, không bao giờ quên. Nhưng không bao giờ dám hé môi nửa lời ... Bí mật quốc gia chăng? Cũng có thể là như vậy, vì Hội Đồng họp báo có tiết lộ điều gì rõ ràng đâu. Cũng không có giải thích điều gì, và cũng không có trả lời bất cứ câu hỏi nào có liên quan đến sự việc này".
    "Kết luận. Tôi xin tạm mượn một câu trích nguyên văn của cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn trong quyển Việt Nam Nhân Chứng: Tuy lúc đó tôi không nghĩ đến chuyện giết hai ông Diệm Nhu, sau này nhìn lại các sự kiện, tôi cho rằng người nào đó ra lệnh giết này, quả là một người thấy xa. Ông ta không phải ngu dại gì khi làm chuyện đó. Nhưng theo tôi, xét cho cùng, người nào đó cho dù có thấy xa, có ngu dại hay có khôn ngoan gì thì cũng không phải là người thực sự có quyền chủ động, và không thể chủ động gì trong sự việc này. Lý do rất đơn giản và rất dễ hiểu là lúc nào cũng có một bàn tay lông lá của người phù thủy với chiếc đũa thần, luôn luôn có mặt bên cạnh ... đứng trong bóng tối".
    Hết phần trích dẫn.

    Trở lại phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Sau một lúc bàn thảo và viết viết sửa sửa, một bản Thông Cáo được hoàn chỉnh, liền đưa sang đài phát thanh công bố cho toàn dân biết là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã thành công trong mục tiêu lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của họ Ngô. Đồng thời cũng loan tin vắn tắt rằng, Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đã tự sát.
    Ngay trong buổi sáng hôm nay (02/11/1963), Bộ Tổng Tham Mưu với hằng trăm phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình trong nước ngoài nước, cùng với những vị hoạt động chính trị, ra vào tòa nhà chánh rất nhộn nhịp. Những chiếc xe bóng lộn chạy vào chạy ra như "con thoi" vậy. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra lệnh thả tất cả tù chính trị dù có án hay chưa có án. Hải Quân được lệnh ra trại tù Côn Sơn đón các tù nhân chính trị về thủ đô, dĩ nhiên là không có tù chính trị cộng sản.
    Buổi chiều (02/11/1963), trong buổi lễ đơn giản ngay trong phòng Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Trung Tướng Dương Văn Minh, nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thăng cấp Trung Tướng cho các vị: Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, thăng cấp Thiếu Tướng cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu và Đại Tá Nguyễn Hữu Có, cùng nhiều vị cấp Tướng cấp Tá khác.
    Trung Tướng Minh ra lệnh mở cửa phòng họp số 1 và các vị bị giữ từ trưa hôm qua được ra về, nhưng đa số các vị này sau đó không còn ngồi lại chiếc ghế tại nhiệm sở của mình mà phải ngồi những chiếc ghế mà báo chí thường gọi là "ngồi chơi xơi nước", hoặc ngồi ghế ở nhà riêng của quí vị ấy.
    Đến tối, hằng trăm sinh viên học sinh bị bắt giam trong cuộc tranh đấu cho Phật Giáo, sau khi ra khỏi nhà tù đã vào tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, mang theo đủ thứ thức ăn, nào bánh mì thịt, bánh tây, bánh ngọt, thịt quay, giò chã, cháo cá cháo thịt, .... đãi tất cả những ai có mặt tại đây, từ anh tùy phái, thư ký, đến cận vệ, tùy viên hay chánh văn phòng, và các vị Tướng Lãnh, một bữa ăn rất ý nghĩa trong một không khí thật vui. Phần tôi đã một ngày đêm không chợp mắt và cũng chẳng có thì giờ ăn uống mặc dù vợ tôi có gởi thức ăn vào cho tôi. Giờ đây công việc không đến nỗi vất vả nên thật ngon miệng.
    Trong khi Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cùng với các nhân vật chính trị và tôn giáo, thảo luận về thành phần chánh phủ thay thế chánh phủ sụp đổ, thì thi hài ông Diệm và ông Nhu được đưa sang bệnh xá Tổng Tham Mưu, tọa lạc bên kia đường gần như đối diện với tòa nhà chánh Tổng Tham Mưu, để làm các thủ tục trước khi tẩn liệm và mai táng. Khai tử của hai ông làm tại quận Tân Bình, tỉnh Gia Định, ngang cổng số 2 trại Trần Hưng Đạo, tức Bộ Tổng Tham Mưu. Nghề nghiệp trên tờ khai tử của ông Diệm thì tôi không được đọc, nhưng của ông Nhu ghi là "quản thủ thư viện".
    Trung Tướng Trần Văn Đôn ra lệnh cho Trung Tá Nguyễn Văn Luông (vừa thăng cấp) tìm mua hai quan tài tốt nhất, nhưng tìm cả Sài Gòn chỉ có một cái tốt nhất và cái còn lại được xem là tốt nhì. Dĩ nhiên cái tốt nhất dành cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Theo yêu cầu của bà Trần Trung Dung, cháu gái gọi ông Diệm ông Nhu là cậu ruột, đưa hai quan tài đến quàn tại bệnh viện Saint Paul trên đường Phan Thanh Giản. Biết được tin đó, học sinh sinh viên vì phẫn uất trong tù đày khi tham gia đấu tranh cho sự công bằng tôn giáo, nên dự định đánh cắp quan tài của hai ông. Tin tức này đến tai bà Dung, Bà vội vả xin Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển trở vào Bộ Tổng Tham Mưu. Sau cùng, hai quan tài được an táng tạm trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc.
    Lễ an táng vị nguyên thủ quốc gia và vị cố vấn của ông ngay sau khi bị lật đổ, thật là thê thảm! Phải cử hành lúc nửa đêm để tránh những đụng chạm xô xát với học sinh sinh viên. Trong bóng đêm mù mịt, dưới ánh đèn pha loại nhỏ, ánh sáng chỉ đủ cho công việc hạ huyệt hai quan tài. Có mặt lúc đó, gồm vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung (một thời là Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng dưới quyền Tổng Thống Diệm), Trung Tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), tôi, và một số quân nhân của Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu phụ trách an táng. Xong, một biên bản được thiết lập, và toàn bộ hồ sơ được ghép thành một tập dày cùng với hình ảnh từ lúc tẩn liệm đến khi hoàn thành hai ngôi mộ. Hai ngôi mộ thật bình thường. Tôi có giữ một hồ sơ này, nhưng cuối cùng cũng phải thiêu hủy sau ngày chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ 30/04/1975.
    Chánh phủ Nguyễn Ngọc Thơ được Trung Tướng Dương Văn Minh, với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chức năng Quốc Trưởng tấn phong, trong khi nhiều nhân vật từng được ông Diệm và ông Nhu tin cẩn bị bắt giữ. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, trong ngành hành chánh, là Đốc Phủ Sứ thời Pháp cai trị, nguyên là Phó Tổng Thống của Tổng Thống Diệm, nhưng ông được mời thành lập chánh phủ có lẽ nhờ vào thành tích khôi phục nền kinh tế trong những năm trước đó, với lại ông cũng chưa bị tai tiếng gì trong dư luận. Tân chánh phủ có màu sắc dân sự dù là có vài vị Tướng Lãnh nắm giữ Bộ Quốc Phòng và Bộ An Ninh (tức Bộ Nội Vụ cũ), nhưng thực chất lãnh đạo quốc gia vẫn là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà Trung Tướng Minh là Chủ Tịch, hành sử chức năng Quốc Trưởng.
    Những ngày tiếp theo, các chính khách vẫn ra vào Bộ Tổng Tham Mưu tuy không nhộn nhịp như những ngày đầu, nhưng tòa nhà chánh lúc nào cũng có khách dân sự -nói chung- vào gặp Trung Tướng Minh hoặc Trung Tướng Khiêm.

    Chiều ngày 03/11/1963, Đại Tá Đặng Văn Quang, sau khi được điều chỉnh từ Đại Tá tạm thời thành Đại Tá thực thụ, ông nói với Trung Tướng Khiêm:

    “Trung Tướng lo thăng cấp cho nhiều người mà Trung Tướng quên thằng Hoa và nhân viên văn phòng. Tụi nó thức với Trung Tướng hai ngày nay, mà chánh văn phòng của Trung Tướng là cực nhất đó”.
    “Đúng là tôi không nhớ. Chú Hoa, chú và mấy chú trong văn phòng mỗi chú được thăng 1 cấp. Chú bảo Phòng Tổng Quản Trị làm xong Nghị Định đưa vào tôi trình Trung Tướng Minh duyệt ký”.


    Thế là tôi được thăng cấp Thiếu Tá từ hôm đó.

    Các chức vụ quan trọng tại trung ương ngay sau cuộc đảo chánh thành công, như sau:

    Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tức Quốc Trưởng.

    Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng.

    Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, vẫn Tham Mưu Trưởng Liên Quân.

    Trung Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trưởng Bộ An Ninh kiêm Tư Lệnh Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật.

    Các chức vụ quan trọng tại địa phương, như sau:
    Trung Tướng Đỗ Cao Trí, từ Đà Nẳng lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật , hoán chuyển với Trung Tướng Nguyễn Khánh.
    Trung Tướng Nguyễn Khánh, từ Plei Ku xuống Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Vùng I Chiến Thuật, hoán chuyển với Trung Tướng Trí.
    Trong khi cuộc đảo chánh chưa phân thắng bại, Thiếu Tướng Khánh chần chừ trong quyết định ủng hộ bên nào, đến gần sáng 02/11/1963 mới lên tiếng ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, và khi thành công ông cũng được thăng cấp Trung Tướng.
    Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Đại Tá Nhơn nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ trung tuần tháng 12/1962 do Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm bàn giao lại, và chuyển Sư Đoàn từ Cần Thơ xuống Bạc Liêu. Đảo chánh thành công, Đại Tá Nhơn được thăng cấp Thiếu Tướng và nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao bị cách chức.
    Các chức vụ Tư Lệnh Hải Quân (Đại Tá Hồ Tấn Quyền), Tư Lệnh Không Quân (Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền), Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (Đại Tá Bùi Đình Đạm), Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh (Đại Tá Bùi Dzinh), Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù (Đại Tá Cao Văn Viên), Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (Đại Tá Lê Nguyên Khang), Chỉ Huy Trưởng Sở Khai Thác Địa Hình (Đại Tá Lê Quang Tung, bị giết trong ngày đảo chánh), ..... và Trưởng Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu (Đại Tá Nguyễn Văn Phước), đều bị thay thế. Riêng Đại Tá Cao Văn Viên, chỉ vài ngày sau được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù.
    Ngày 08/11/1963, tôi chuyển lệnh của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm sang Bộ Tư Lệnh Không Quân, cấp 1 chiếc trực thăng lên Gò Dầu Hạ (tỉnh Tây Ninh) đón Đại Tá Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn. Trực thăng về đáp ngay trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi dùng xe của Trung Tướng Khiêm ra đón Đại Tá Thi và đưa vào phòng Trung Tướng Khiêm. Hai vị, sau cái bắt tay đã ôm nhau với nụ cười ròn rã. Nhưng liệu đằng sau hai nụ cười đó có phải xuất phát từ tình cảm chân thành hay chỉ là đầu môi? Bởi vì 3 năm trước đây, một vị lãnh đạo cuộc đảo chánh (Đại Tá Thi) và một vị chỉ huy đánh dẹp cuộc đảo chánh đó (Trung Tướng Khiêm), giờ đây lại gặp nhau, bắt tay nhau, cùng nhau cười, nhưng cười vui hay cười gượng!
    Chính trị, theo tôi, là một loại ngôn ngữ và hành động mà mỗi người hiểu theo cách riêng của mình tùy theo bối cảnh chung, sự kiện riêng, thời gian và không gian của nó. Nói như vậy, hành động như vậy, nhưng không nhất thiết là như vậy. Phải chăng, Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Thi đang là như vậy?
    Cũng theo tôi, Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị lãnh đạo có bản lãnh chính trị. Ông là người thấy trước sự suy yếu trên chính trường quốc tế của Việt Nam Cộng Hòa nếu như chấp thuận cho Hoa Kỳ thiết lập các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và như vậy cuộc chiến tranh chống cộng sản sẽ mất thế chính trị, trong khi thế chính trị rất là quan trọng nếu không nói là có tính cách quyết định đối với cuộc chiến mà Việt Nam Cộng Hòa đang lâm trận (và điều này đã thật sự xảy ra). Nhưng rất có thể cũng vì ông có tầm nhìn xa như vậy mà ông đã bị lật đổ và bị giết chết? Vì thế mà cái chết của ông vẫn còn là một nghi vấn về người ra lệnh giết ông. Nhất thiết người đó phải là người Việt Nam có thẩm quyền lúc bấy giờ, nhưng liệu có phải chính người ấy tự mình quyết định hay người ấy cũng chỉ là người thi hành lệnh của ai đó đằng sau nữa? Nghi vấn cao nhất của tôi về người duy nhất ra lệnh giết Tổng Thống Diệm ông Nhu vẫn là cựu Đại Tướng Dương Văn Minh. Giả thuyết rằng, nếu Đại Tướng Minh tự nhận ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết ông Diệm, điều đó đúng hay sai tốt hay xấu còn tùy thuộc nhiều yếu tố mà những sử gia sẽ dẫn đến sự phán xét sau này, nhưng nếu Đại Tướng Minh cho là ông thi hành lệnh của Hoa Kỳ chẳng hạn, chúng ta có thể phán xét ngay bây giờ chớ không cần chờ đợi sự phán xét sau này của lịch sử. Nhưng năm 2003, cựu Đại Tướng Dương Văn Minh đã từ trần, xin để ông yên nghỉ!
    Mặt khác, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong hơn 9 năm cầm quyền, vừa chiến đấu chống du kích cộng sản, vừa xây dựng được nền kinh tế non trẻ bước đầu, và năm 1962 đã cân bằng được ngân sách quốc gia. Tổng Thống cũng là người lãnh đạo trong sạch, nhưng ông phải chịu trách nhiệm về mọi tác hại do anh em ông gây ra cho dân tộc, bởi vì ông là Tổng Thống, ông đã không ngăn chận, hoặc ông không đủ can đảm ngăn chận hành động của anh em ông, hoặc là ông xem thường thái độ chính trị của đồng bào dưới quyền ông nên để mặc anh em của ông thao túng!
    Phải chăng ưu điểm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù có nhiều, nhưng không bù được khuyết điểm của ông, vì khuyết điểm từ trong trách nhiệm của ông mới thật là cốt lõi của lãnh đạo!
    Khi thăm đơn vị quân đội, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường nhắc nhở người lính "chiến thắng ở mặt trận nhưng không nên tỏ ra kiêu căng ở hậu phương, vì như vậy là kiêu binh, mà kiêu binh thì mất lòng dân, mất lòng dân thì không thắng được cộng sản trong cuộc chiến tranh toàn diện này".
    Vậy, có phải là Tổng Thống đã vấp phải điều mà ông răn dạy quân đội không?
    Nhưng dù sao thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm -và chỉ riêng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thôi- tôi nghĩ, đã để lại nhiều luyến tiếc, thương cảm, thậm chí là ngưỡng mộ, trong các thành phần xã hội, kể cả quân nhân các cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    (hết phần 1)

  2. #2
    hohai22's Avatar
    Status : hohai22 v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jan 2009
    Posts: 19
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Nước VN từ năm 1945-1975 có hai người tên Minh mang đại hoạ đến cho dân tộc : HCMinh và Dương văn Minh . Coi bộ cái tên "Minh" này đáng sợ ghê .
    KQVN may mắn có vị Tư Lệnh tên Minh rất hào hoa phong nhã . Nhưng xem ra có lẽ ta nên e dè với ai mang tên "Minh" và điều này không có nghĩa là ta quơ đũa cả nắm vì có người tốt người xấu tuỳ theo nhận xét và cách nghỉ cũa từng người .

  3. #3
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default Đảo Chánh ngày 30 tháng 1 năm 1964



    - hai -
    Đảo Chánh ngày 30 tháng 1 năm 1964


    *****


    Công du Nam Hàn (South Korea)

    Đầu tháng 12/1963, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm gọi tôi vào văn phòng:

    “Chú thích đi du lịch không?”
    “Rất thích, nhưng chưa có cơ hội thưa Trung Tướng”.
    “Bây giờ có rồi. Chú liên lạc sang văn phòng Trung Tướng Đôn (Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng) làm thủ tục đi Đại Hàn (South Korea) với tôi”.


    Không ngờ là cơ hội tốt đến với tôi trong hoàn cảnh đang vui, nên tôi xúc tiến ngay. Sau đó, tôi mới biết đây là phái đoàn thay mặt chánh phủ sang Đại Hàn (Nam Triều Tiên) dự lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi vào ngày 17 tháng 12 năm 1963 tại thủ đô Seoul. Phái đoàn chánh thức gồm: (1) Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, Trưởng phái đoàn. (2) Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên. (3) Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, thành viên. (4) Đại Tá Linh Quang Viên, Bộ Quốc Phòng, thành viên. (5) Và tôi, Thiếu Tá Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thành viên.

    Ngoài ra còn có gia đình của Trung Tướng Khiêm và gia đình của Thiếu Tướng Thiệu, thêm Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khiêm, và Đại Úy Nhan Văn Thiệt, sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu.
    Trong nhóm đi đầu là Đại Tá Linh Quang Viên, và tôi. Chúng tôi rời Sài Gòn ngày 08/12/1963, dừng lại Tokyo 5 ngày chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho hai gia đình của Trung Tướng Khiêm và Thiếu Tướng Thiệu, sẽ ngoạn cảnh và mua sắm trong khi chờ các vị dự lễ bên Seoul trở lại. Chúng tôi đến Seoul trưa ngày 13/12/1963 khi nhiệt độ nơi đây xuống đến 5 độ dưới không độ C. Tạm thời chúng tôi ở khách sạn Bando tại trung tâm thủ đô Seoul. Với sự giúp đỡ của tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại đây, chúng tôi hoàn thành công tác chuẩn bị: Đại Tá Viên đã xong bản tường trình về tình hình chính trị trước và sau ngày bầu cử Tổng Thống Đại Hàn. Và tôi đã có đầy đủ tin tức cũng như chương trình chi tiết trong ngày lễ, cùng những ngày sau đó dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa.
    Cũng qua những buổi thuyết trình ngắn của tòa đại sứ, chúng tôi hiểu thêm đôi nét về cựu Tổng Thống Lý Thừa Vãng trong thời gian lãnh đạo quốc gia này. Theo đó, nếu so với bà Ngô Đình Nhu nặng về chính trị, thì hoạt động của bà Lý Thừa Vãng nghiêng về kinh tế, và khách sạn Bando là một trong rất nhiều cơ sở kinh doanh của đệ nhất phu nhân họ Lý. Khi ông Lý Thừa Vãng lưu vong, Đại Tướng Pak Chung Hi nhân danh quân đội lên cầm quyền. Ông có vị Cố Vấn phảng phất ông Ngô Đình Nhu lúc đương thời, đó là ông Kim Jong Pil. Vì vậy mà khi Đại Tướng Pak Chung Hi chánh thức tuyên bố ứng cử Tổng Thống, ông Cố Vấn của Đại Tướng Pak Chung Hi đã theo khuyến cáo của Hoa Kỳ, xuất ngoại để trấn an dư luận như là ông không dính dáng đến chính trị, nhưng thật ra ông đã chuẩn bị xong công tác tổ chức bầu cử trước khi xuất ngoại. Sau đó, cuộc bầu cử đã diễn tiến như dự định và Đại Tướng Pak Chung Hi đắc cử. Ông Kim Jong Pil lại trở về Seoul, vẫn trong chức vụ Cố Vấn.
    Phần chánh của phái đoàn đến phi trường Kimpo, thủ đô Seoul, trưa ngày 17/12/1963, tức là ngày Đại Hàn cử hành lễ nhậm chức Tổng Thống của Đại Tướng Pak Chung Hi. Cả phái đoàn đầy đủ được hướng dẫn lên khu Walker Hill cách Seoul khoảng 8 cây số về phía bắc, một khu thắng cảnh rất đẹp của Đại Hàn, chỉ dành cho khách ngoại quốc để thu ngoại tệ. Cả một vùng rừng núi được biến thành khu du lịch với những khách sạn, nhà hàng, các khu giải trí với nhiều môn khác nhau, xây dựng bên các sườn núi mà hầu hết là nhìn xuống sông Hàn (Han river) uốn khúc dưới chân. Vào mùa này, nước sông Hàn đóng băng trắng xóa, trông rất đẹp.
    Đến nơi, vừa mang hành lý vào phòng là Trung Tướng Khiêm gọi tôi:

    “Mấy giờ bắt đầu lễ vậy chú?”

    “Dạ 3 giờ chiều, thưa Trung Tướng”.

    Ông nhìn đồng hồ:

    “Ngay bây giờ, chú chạy đi tìm mua cho tôi "cặp lon 3 sao", vì trong cặp tôi chỉ có "3 sao" cho một bên áo thôi”.
    “Vâng”.
    Chẳng hiểu Đại Úy Nguyễn Hữu Có ở Tokyo, khi chuẩn bị hành lý cho "sếp" lại gấp gáp thế nào mà chiếc áo đại lễ của Trung Tướng Khiêm chỉ có một bên 3 ngôi sao, nghĩa là thiếu 3 ngôi sao cho cầu vai bên kia (cấp hiệu Trung Tướng biểu hiện bằng 3 ngôi sao mỗi bên cầu vai).
    Nhận lệnh của Trung Tướng Khiêm là như vậy, nhưng tôi chưa biết phải làm sao mua cho kịp. Chợt nhớ anh sĩ quan Công Binh tại Bộ Quốc Phòng Đại Hàn, Thiếu Tá Choi, sĩ quan tùy viên cho phái đoàn chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và anh ta trình diện Đại Tá Linh Quang Viên tại sân bay trước khi phái đoàn chánh thức đến. Ra phòng khách, tôi nói với anh về nhu cầu gấp rút đó và hy vọng anh ta giúp tôi được.

    Anh ta hỏi: “Anh sẳn sàng chưa?”

    “Sẳn sàng”.

    Thế là chúng tôi lên xe của phái đoàn có cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Đại Hàn, do xe Cảnh Sát của Đại Hàn dẫn đường chạy xuống Seoul. Quanh co một lúc, cả hai xe đậu ngoài đường cái, tôi theo Thiếu Tá Choi trên con đường hẽm vào gian hàng nhỏ ơi là nhỏ nằm sâu trong con đường thưa vắng người qua lại. Mua ngay "cặp lon 3 sao" mà không cần trả giá. Chúng tôi về đến Walker Hill vừa vặn cùng phái đoàn lên xe xuống Seoul dự lễ.
    Seoul chiều ngày 17 tháng 12 năm 1963, đang trong thời tiết 5 độ dưới không độ C. Bầu trời u ám bao trùm thủ đô, một thành phố toàn cây trụi lá giữa mùa đông xám xịt. Quan khách của 25 quốc gia và viên chức của quốc gia sở tại, ngồi chật cả khán đài không mái che ngay trước tòa nhà Quốc Hội. Lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi cử hành đúng 3 giờ chiều trong một không khí không được trang nghiêm khả dĩ tương xứng cho buổi lễ quan trọng này. Một phần vì thời tiết quá lạnh, một phần do dân chúng tham dự không nhiều, và phần khác là có một số người tập trung bên kia đường hô hào chống đối một cách lạc lỏng, họ cáo buộc cuộc bầu cử vừa rồi là gian lận. Cảnh Sát chỉ đứng sát lòng đường để giữ trật tự mà không có hành động nào với nhóm người biểu tình.
    Ngay sau lễ, các phái đoàn được hướng dẫn đến nhà hát xem trình diễn văn nghệ cổ truyền của Đại Hàn. Rồi buổi dạ tiệc trọng thể, tổ chức trong khuôn viên dinh Tổng Thống mừng ngày trọng đại của Đại Hàn Dân Quốc, khoản đãi các phái đoàn đại diện 25 quốc gia. Đại Hàn Dân Quốc là tên gọi của quốc gia phía nam của Triều Tiên theo chế độ dân chủ tự do, trong khi quốc gia phía bắc theo chế độ cộng sản độc tài, ranh giới giữa hai quốc gia này là vĩ tuyến 38. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt (năm 1945), cũng là lúc ba quốc gia trên thế giới bị chia đôi: Đó là Đức Quốc chia làm hai quốc gia theo chiều Đông Tây, Triều Tiên và Việt Nam chúng ta chia làm bốn quốc gia theo chiều Nam Bắc.
    Riêng hoàn cảnh chính trị của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) có khác so với Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn Dân Quốc về địa lý, nhưng hoàn cảnh chính trị là cùng chống chiến tranh ý thức hệ cộng sản, có lẽ vì vậy mà những ngày sau đó, phải thừa nhận là chánh phủ Đại Hàn đã dành cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa chúng ta và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, sự đón tiếp rất nồng hậu gần như riêng biệt trong số 25 phái đoàn quốc tế tham dự. Tổng Thống Đại Hàn -theo lời của Bộ Ngoại Giao Đại Hàn- chỉ tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa và phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc. Khi tiếp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Pak Chung Hi nói tiếng Đại Hàn và ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa nói tiếng Pháp. Tôi rất ngạc nhiên về điều này, vì theo thông thường ông phải nói tiếng Việt Nam. Thông dịch buổi tiếp kiến là hai thanh niên Đại Hàn, một nam một nữ.
    Quốc gia thứ 3 có hoàn cảnh chính trị giống nhau là Cộng Hòa Liên Bang Đức, nhưng có thể do địa lý và văn hoá mà phái đoàn Cộng Hòa Liên Bang Đức không nằm trong chương trình riêng biệt nói trên chăng, mặc dù phái đoàn này cũng có mặt trong lễ nhậm chức?
    Trước khi rời Seoul, mỗi thành viên trong phái đoàn chúng ta được chánh phủ Đại Hàn tặng 2 thùng trái cây tươi (bôm và nho) do Đại Hàn sản xuất bước đầu về kỹ nghệ trong nông nghiệp. Đây là chính sách quan trọng trong sách lược quốc gia của Đại Hàn Dân Quốc -theo lời ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đại Hàn- từ sau cuộc chiến tranh 1950-1953.
    Trở lại Tokyo ngày 20/12/1963. Đêm 24/12/1963, phái đoàn được ông Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và phu nhân tại Nhật Bản, khoản đãi phái đoàn tại nhà riêng. Trong khi trò chuyện, bỗng mọi thứ trong nhà đều rung chuyển nhè nhẹ, ly tách chén dĩa lắc lư kêu leng keng trong vài chục giây đồng hồ. Ông Đại Sứ Nghĩa (xin lỗi là tôi không nhớ họ) nhìn thấy nét ngạc nhiên của phái đoàn nên ông lên tiếng trấn an:

    “Khu vực chúng ta đang ngồi vừa bị động đất nhẹ nên không hư hại gì. Mời quí vị xem tivi sẽ rõ”.
    Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được đôi chút về động đất.
    Ngày 25/12/1963, tôi với Đại Úy Nhan Văn Thiệt -tùy viên của Thiếu Tướng Thiệu- rời Tokyo trở về Sài Gòn vì hết tiền. Ông Phạm Đăng Lâm, Tổng Trưởng Ngoại Giao, cũng rời Tokyo ngày ấy, nhưng ông chưa về Việt Nam mà còn đi thăm quốc gia nào đó.

    Trung Tướng Khiêm nhận chức vụ mới.
    Về đến Sài Gòn là tôi vào văn phòng ngay, vì chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng gọi tôi vào gặp Trung Tướng Trần Văn Đôn dù hôm nay là ngày nghỉ.

    “Thưa Trung Tướng, tôi vừa về đến”.

    “Anh ngồi đi. Công du có vui không?”

    “Rất vui, thưa Trung Tướng”.

    “Anh có hay tin về chức vụ mới của Trung Tướng Khiêm chưa?”

    “Dạ chưa, thưa Trung Tướng”

    “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã cử Trung Tướng Khiêm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật rồi”.

    “Thưa Trung Tướng, trường hợp này hồ sơ Trung Tướng Khiêm bàn giao cho vị nào để tôi chuẩn bị cho kịp?”

    “Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Kim (Lê Văn Kim). Anh chuẩn bị cần thiết để Trung Tướng Khiêm khi về đến là bàn giao ngay và sang nhận Quân Đoàn III”.

    “Lệnh này Trung Tướng Khiêm có biết chưa, thưa Trung Tướng?”

    “Tôi chắc là chưa, nhưng dù sao thì anh cũng nên trình với Trung Tướng Khiêm khi anh đón ổng. Mà hôm nào Trung Tướng Khiêm về?

    “Rạng sáng ngày 1 tháng 1 (1964) về đến, thưa Trung Tướng”.

    “Anh liên lạc với chánh văn phòng Trung Tướng Kim và chánh văn phòng Trung Tướng Đính để thu xếp chương trình lễ bàn giao. Mọi việc đều diễn tiến trong phạm vi nội bộ thôi. Anh có điều gì cần hỏi nữa không?”

    “Dạ không. Tôi sẽ thi hành, thưa Trung Tướng”.

    Tôi rất thắc mắc là tại sao không chờ Trung Tướng Khiêm về hãy đưa ra quyết định này. Phải chăng Trung Tướng Dương Văn Minh cử Trung Tướng Trần Thiện Khiêm vào phái đoàn công du ngoại quốc để các vị ở nhà không gặp trở ngại khi quyết định như vậy? Trung Tướng Khiêm có nói với tôi rằng, ông là một trong rất ít vị (nếu tôi nhớ không lầm là 4 vị) vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963), với lại chỉ riêng những lệnh tối mật mà Trung Tướng Khiêm chỉ thị cho tôi vào sáng sớm ngày đảo chánh, cũng đủ nói lên vị trí quan trọng của ông đến mức nào trong cuộc đảo chánh đó. Sao lại xử sự như vậy? Bởi đây là một cách mà trong giới cầm quyền thường nửa đùa nửa thật là "hạ tầng công tác". Dù đúng hay không đúng thì rõ ràng là từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu đến chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhìn từ bên ngoài là xuống một bậc rồi còn gì!
    Tôi chuẩn bị bàn giao, kể cả xin lệnh thuyên chuyển 6 nhân viên văn phòng sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, đồn trú trong khuôn viên trại Lê văn Duyệt, tọa lạc đường Lê văn Duyệt, Quận 3 Sài Gòn (về sau là bản doanh Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô).
    Tuy Trung Tướng Khiêm đã dặn tôi và nhắc lại một lần trước khi tôi rời Tokyo ngày 25/12/1963, khi ông và gia đình về đến Tân Sơn Nhất, chỉ một mình tôi cùng mấy nhân viên trong tư dinh đón mà thôi, vì ông cho rằng đây chẳng qua là chuyện gia đình chớ không phải là phái đoàn công du trở về. Chính vì vậy mà ông chọn chuyến phi cơ về đến thủ đô khi Sài Gòn còn chìm trong giấc ngủ.
    Đúng 3 giờ sáng ngày 01/01/1964, Trung Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Thiệu và hai gia đình về đến. Phi cơ dừng hẳn lại. Tắt máy. Tôi ra tận cầu thang đón ông. Chỉ vài bước rời khỏi cầu thang:

    “Xin Trung Tướng đi chậm một chút vì tôi có nhận lệnh của Trung Tướng Đôn, thưa Trung Tướng”.

    “Chuyện gì vậy?”

    “Trung Tướng có được tin gì về lệnh cử Trung Tướng giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III chưa?”

    “Chưa. Mà ai nói với chú vậy?”

    “Dạ, Trung Tướng Đôn”.

    “Ổng nói với chú hồi nào?”

    “Dạ ngay khi tôi về đến Sài Gòn. Và Trung Tướng Đôn có nói là công tác bàn giao sau khi Trung Tướng về đến. Tôi đã chuẩn bị hồ sơ bàn giao xong rồi thưa Trung Tướng”.

    Trung Tướng Khiêm đứng hẳn lại và im lặng một lúc:

    “Ổng có nói gì nữa không?”

    “Dạ không”.

    “Sáng mai tôi gặp mấy ổng”.

    Trung Tướng Khiêm nhìn vào nhà ga bên khu vực dành riêng cho các nhân vật quan trọng:

    “Ai đón mà đông vậy?”

    “Dạ các vị Trưởng Phòng/Tổng Tham Mưu. Tôi xin lỗi Trung Tướng, vì các vị ấy nói quá nên tôi không thể nói dối ngày giờ Trung Tướng về. Với lại tôi nghĩ là không nên cứng nhắc quá với các vị "tay phải tay trái" của Trung Tướng, e không có lợi”.

    Đi được mấy bước, bà Khiêm quay lại:

    “Chú Hoa. Bộ có chuyện hả?”
    Tôi thuật tóm tắt cho bà Khiêm nghe, bà có ý trách:

    “Sao mấy ổng kỳ vậy?”

    “Tôi cho là điều không bình thường, dù rằng Trung Tướng Đính cần giảm bớt chức vụ Tư Lệnh Đoàn III để chu toàn chức vụ Tổng Trưởng An Ninh”.

    “Chú biết ai thay "nhà tôi" không?”

    “Dạ Trung Tướng Kim”.

    Bà Khiêm buột miệng: “Họ hàng với ông Đôn rồi”.

    Sáng ngày 02/01/1964, Trung Tướng Khiêm từ phòng Trung Tướng Đôn trở về, ông gọi tôi:

    “Chú tổ chức bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay chiều nay. Không có ai chủ tọa hết”.

    Lời nói và giọng nói của ông cho phép tôi suy đoán là ông đang tức giận.

    “Vâng. Tôi thi hành ngay thưa Trung Tướng”.
    Ngay chiều hôm ấy, Trung Tướng Khiêm bàn giao cho Trung Tướng Lê Văn Kim tại Bộ Tổng Tham Mưu, sau đó sang Quân Đoàn III nhận quân kỳ tiêu biểu chức vụ Tư Lệnh từ tay Trung Tướng Tôn Thất Đính. Cả hai lễ bàn giao đều tổ chức trong văn phòng mỗi nơi một cách nhanh chóng.
    Từ ngày Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng (02/11/1963), giờ làm việc trong quân đội được ấn định từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, được nghỉ nửa giờ để ăn trưa tại chỗ, nhưng tại văn phòng chúng tôi thông thường là phải đến 6 giờ chiều mới ra về.
    Trung Tướng Khiêm khá xông xáo trong công tác đi thăm các đơn vị, các tiểu khu trực thuộc, nhưng theo cách nhìn của tôi thì ông không bộc lộ hết nhiệt tình như lúc giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Xin đừng nghĩ rằng, nét nhìn của tôi bị ám ảnh bởi quyết định từ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu đến Tư Lệnh Quân Đoàn III của Trung Tướng Khiêm mà có, vì tôi là sĩ quan tham mưu đặc biệt dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Khiêm từ năm 1960, nên tôi khá quen với thái độ cũng như cử chỉ của ông trong những lúc vui buồn, suy tư, hay tức giận.
    Khoảng từ trung tuần tháng 01/1964, tức là nửa tháng sau ngày nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Khiêm (tại Sài Gòn) với Trung Tướng Nguyễn Khánh (tại Đà Nẳng), rất thường liên lạc nhau qua điện thoại viễn liên, và rõ ràng là Trung Tướng Khánh khích Trung Tướng Khiêm trong việc phục hồi danh dự vì bị thuyên chuyển mà không được biết trước.
    Trung Tướng Khiêm là người ít nói, không thích tiếp xúc với các cơ quan truyền thông, cũng chẳng thích phô trương, và con đường chính trị -theo tôi- cũng không phải là hướng đi của ông, nên tôi không nghĩ là ông dễ dàng bị Trung Tướng Khánh dẫn đến một cuộc chính biến nữa để gọi là phục hồi danh dự cho ông, đành rằng ông đang buồn phiền và chắc là buồn phiền về vấn đề ấy.

    Chỉnh Lý (Đảo Chánh).

    Nhưng tôi lầm, vì cuộc đảo chánh quân sự lại xảy ra khá đột ngột.
    Ngày gần cuối tháng 01/1964, Trung Tướng Khánh từ Đà Nẳng điện thoại bảo tôi cho xe đón ông trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất (thường thì đón ông bên nhà ga dân sự) và tuyệt đối không cho ai biết là ông về Sài Gòn. Tôi trình Trung Tướng Khiêm và dùng xe của Trung Tướng Khiêm đi đón Trung Tướng Khánh. Lúc ấy đã hết giờ làm việc trong ngày. Sau đó, hai vị cùng ngồi chung xe đi đâu đó mà tôi không rõ vì xe an ninh không được chạy theo như lệ thường. Điều này làm cho tôi tự hỏi:

    "Liệu có cuộc đảo chánh nữa hay không, vì sự vắng mặt bất thường này giống như những ngày cuối tháng 10/1963 vậy?"

    Mờ tối ngày 29/01/1964, sau khi từ bộ tư lệnh Quân Đoàn III về đến nhà, Trung Tướng Khiêm gọi tôi đến nhà ông ngay. Vào cửa, tôi thấy bàn ăn đã sẳn sàng nhưng gia đình ông chưa người nào ngồi vào bàn, ông chỉ tôi ngồi đối diện ông ngay trong phòng khách, và ông ra lệnh:

    “Việc này đối với chú là lần thứ hai. Tôi muốn nói là chú biết việc gì phải làm. Chú mà hé môi với bất cứ ai trước khi thực hiện thì chú bị đứt đầu nghe chưa”.

    “Vâng”.

    Trong một thoáng thật nhanh tôi liên tưởng đến sự đi đâu đó của hai vị giống như trước ngày 01 thàng 11 năm ngoái (1963). "Đảo chánh nữa chăng, vì Trung Tướng Khiêm vừa nói đây là lần thứ hai?" Ông tiếp:

    “Vào sáng sớm mai, tôi + Trung Tướng Khánh + và Đại Tá Viên (Cao Văn), lật đổ nhóm ông Minh ông Đôn, vì các ông này có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì sớm muộn cũng vào tay cộng sản. Chú rõ chưa?”

    “Dạ rõ”.

    “Sau giờ này, chú điều động xe truyền tin hành quân của Quân Đoàn về đậu sau nhà chú. Nhà chú có chỗ kín đáo hông?”

    “Dạ có. Sau nhà tôi là vườn chuối, tôi đốn bớt vài cây cho xe vào và sẽ thực hiện khi trời tối. Bên trái nhà tôi là Thiếu Tá Đào Ngọc Thọ (phòng 4/Bộ Tổng Tham Mưu), và bên phải là gia đình Thiếu Tướng Thiệu (Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh). Mình ở Quân Đoàn, hệ thống liên lạc hành quân là chuyện bình thường, chắc chẳng ai quan tâm đâu, thưa Trung Tướng”.

    “Đích thân chú phải lên máy liên lạc trực tiếp với Thiếu Tướng Thiệu (ở Biên Hòa) và Thiếu Tướng Có (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho). Làm như vậy để biết chắc là mình giữ liên lạc được với hai ổng thôi, và khi liên lạc được rồi chú phải giữ máy thường trực cho tôi. Công tác này phải xong trước 2 giờ sáng. Nếu có gì trở ngại, chú trình tôi ngay. Chú rõ chưa?”

    “Dạ rõ”.

    “Chú gọi chú Có sang ngủ nhà chú đêm nay. Chú Có không được quyền biết trước công tác này. Chú với chú Có đem xe truyền tin đến sân nhà Trung Tướng Khánh (sát bên phải cổng số 1 Tổng Tham Mưu) trước 3 giờ sáng, nhưng không nên sớm quá. Đúng 3 giờ sáng, Đại Tá Viên và Tiểu Đoàn Dù vào cổng số 1. Chú đón tại cổng, mời Đại Tá Viên vào nhà ông Khánh, và hướng dẫn Tiểu Đoàn lên bố trí chung quanh tòa nhà chánh. Phần an ninh trại Trần hưng Đạo, chú với Trung Tá Luông tổ chức như lần trước. Chú cần hỏi gì thêm không?”
    “Dạ không”.

    “Chú chỉnh đồng hồ theo đồng hồ tôi đây. Trung Tá Luông sẽ nhận lệnh sau”.

    Sau khi rời khỏi nhà Trung Tướng Khiêm, tôi sang Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, mời Đại Uý Truyền Tin (dường như là Đại Uý Nguyễn Hữu Phụng) lên văn phòng:

    “Trung Tướng Tư Lệnh vừa ra lệnh cho tôi, đêm nay Trung Tướng cần giữ liên lạc thường trực với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, để theo dõi cuộc hành quân vào căn cứ Hố Bò (của cộng sản), vì có tin là một tên quan trọng của chúng vừa đến nơi đây (tôi bịa ra tin này). Ngay bây giờ, anh có thể cho anh em trên chiếc xe AN/GRC 26 chuẩn bị di chuyển sang nhà tôi bên Tổng Tham Mưu”.

    “Tôi cho lệnh chuẩn bị ngay. Khi xong, xe đến đây chờ lệnh Thiếu Tá”.
    Cũng phải mất nửa tiếng đồng hồ dọn đường, chiếc xe truyền tin mới vào được vị trí. Lúc đó tối lắm rồi, tôi trợ giúp anh em truyền tin dựng cột antenne vì liên lạc xa. Đại úy Nguyễn Hữu Có vừa đến và tiếp tay, nên công tác chuẩn bị cho hệ thống liên lạc hành quân được nhanh chóng. Đại úy Có không thấy tôi nói lý do sự có mặt xe này tại đây nên cũng không hỏi, vì thật ra giữa chúng tôi hiểu nhau về những vấn đề bảo mật, nếu một bên không nói thì bên kia không bao giờ hỏi. Nhóm hành quân chúng tôi chẳng ai ngủ được cả, vì ăn khuya xong là bắt tay vào việc lên máy gọi Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 7. Lúc 00 giờ 30 ngày 30/01/1964:

    “Cửu Long gọi Đồng Nai. Trả lời”.
    “Đồng Nai nghe 5/5. Có gì cho Đồng Nai. Trả lời”.
    “Giới chức của Cửu Long cần gặp thẩm quyền Đồng Nai trên máy. Trả lời”.
    “Rõ. Xin chờ đầu máy.... “
    “Hoa đó hả? Tôi đây”. Đó là tiếng nói của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    “Thưa Đại Bàng, Đại Bàng tôi chỉ cần biết có liên lạc là tốt rồi. Tôi xin phép ngưng. Trả lời”.
    “Được rồi”.

    Cửu Long là danh hiệu Quân Đoàn III. Đồng Nai là danh hiệu Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Đại Bàng có nghĩa là vị Tư Lệnh.

    Đến Sư Đoàn 7 Bộ Binh, hai anh chuyên viên luân phiên gọi liên tục mà cứ như gọi vào khoảng không mù mịt của đêm khuya vì chẳng nghe tăm hơi đầu kia gì cả.

    Đang rầu thúi ruột! Bỗng dưng, đài của Sư Đoàn 7 Bộ Binh “nhảy vô” và lúc đó gần 2 giờ sáng rồi. Sau khi tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, cả 3 đài trên hệ thống đặc biệt này giữ máy thường trực. Xin nói rõ thêm, Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Quân Đoàn IV, nên không có trong hệ thống liên lạc thường trực của Quân Đoàn III. Nhưng giữa các vị thu xếp trước, nên Sư Đoàn 7 Bộ Binh vào hệ thống đặc biệt này. Dĩ nhiên là tôi phải "ngụy tạo lý do" để giải thích cho các anh chuyên viên, vì sao mà Sư Đoàn 7 Bộ Binh tăng phái cho Quân Đoàn III trong cuộc hành quân đặc biệt từ hôm nay. Đơn giản, là vùng hành quân dọc theo liên ranh Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV. Thế thôi.

    Điện thoại trình Trung Tướng Khiêm xong, tôi ngồi luôn trên xe truyền tin như là ngồi chơi với các anh chuyên viên, nhưng thật ra là tôi ngăn chận những liên lạc đến bất cứ nơi nào khác, vì lúc nảy có một anh thắc mắc về sự có mặt của Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong hệ thống này. Lúc gần 3 giờ, nhóm chúng tôi di chuyển lại nhà Trung Tướng Nguyễn Khánh, tạm gọi là "bản doanh nhóm lãnh đạo đảo chánh". Kể ra thì tên gọi đó cũng không sai. Trước khi rời nhà, tôi mới cho Đại úy Nguyễn Hữu Có biết công việc đã làm từ đêm qua và đang làm tiếp. (hai ông cùng tên Nguyễn Hữu Có, nhưng một là Đại Úy và một kia là Thiếu Tướng)

    “Sao đảo chánh hoài vậy Anh?” Vợ tôi hỏi.
    “Anh cũng hổng biết. Chỉ biết Trung Tướng (Khiêm) nói là Trung Tướng Dương Văn Minh có kế hoạch trung lập, mà trung lập thì gần tới cộng sản rồi Em”.
    “Ghê vậy!”
    Đúng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 01 năm 1964. Đại Tá Cao Văn Viên và Tiểu Đoàn Nhẩy Dù lặng lẽ qua cổng số 1 Tổng Tham Mưu với nhiệm vụ sẳn sàng tác chiến, nếu như có đơn vị nào đó kháng cự lại. Một lu`c sau, Đại Tá Viên vào nhà Trung Tướng Khánh.

    Nhớ lại cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhẩy Dù, bị xếp vào những nhân vật thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cách ly với Lữ Đoàn. Ngày 02/11/1963, Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết, các vị bị cách ly từ hôm trước được trả tự do nhưng hầu hết đều bị cách chức. Đại Tá Cao Văn Viên cũng trong số các vị bị cách chức. Ngày hôm sau bà Cao Văn Viên điện thoại tôi:

    “Chú Hoa. Trung Tướng của chú (ý nói Trung Tướng Trần Thiện Khiêm) có hứa với chị là sẽ xin với Trung Tướng Minh (Dương Văn Minh) cho Đại Tá (Cao Văn Viên) trở về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù để lấy lại danh dự, và 24 tiếng đồng hồ sau đó Đại Tá sẽ đệ đơn từ chức. Chị nhờ chú theo dõi diễn tiến ra sao rồi cho chị biết ngay nghe chú”.

    “Vâng”.

    Ngưng một chút, bà tiếp: “Mà chú thấy có hi vọng không?”

    “Em thì chưa biết gì về việc này, nhưng theo em nghĩ, với vị trí hiện nay của Trung Tướng (Khiêm) trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, hi vọng là Trung Tướng thực hiện được lời hứa với chị”.

    Và rồi Đại Tá Cao Văn Viên trở về chức vụ cũ, nhưng sau đó ông có xin từ chức Tư Lệnh Nhẩy Dù hay không thì tôi không biết, nhưng rõ ràng là ông vẫn trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù.
    Các đơn vị an ninh thuộc Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã vào vị trí. Trung Tá Nguyễn Văn Luông đi lúc nào tôi không rõ, nhưng chắc chắn là đi rồi. Nhiệm vụ của Trung Tá Luông cùng với toán Quân Cảnh, Nhẩy Dù, An Ninh Quân Đội, .... đi bắt những vị Tướng mà Trung Tướng Khiêm với Trung Tướng Khánh cho là có kế hoạch trung lập. Đó là các vị: Trung Tướng Trần Văn Đôn. Trung Tướng Tôn Thất Đính. Trung Tướng Mai Hữu Xuân. Trung Tướng Lê Văn Kim. Và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ.
    Riêng Trung Tướng Dương Văn Minh thì tôi không rõ là có tên trong danh sách bị bắt hay không. Trước lúc bình minh, tại bản doanh -nhà Trung Tướng Khánh- có mặt: Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Cao Văn Viên, một người Việt Nam dáng vấp trung bình về chiều cao lẫn chiều ngang, và một người Mỹ mặc quần tây dài áo sơ-mi tay ngắn. Anh chàng Mỹ này không phải là người có mặt trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 trước đây. Nói cách khác, người Mỹ này không phải Trung Tá Conein. Căn cứ theo lần đảo chánh đó, tôi tin chắc rằng, người Mỹ này là gạch nối giữa nhóm đảo chánh với giới chức thẩm quyền Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Thậm chí, có thể là đại diện của cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ từ Mỹ sang. Mà cho dù là gạch nối hay đại diện đi nữa, cũng là bằng chứng một sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, và cuộc đảo chánh hôm nay 30/01/1964.
    Chỉ cần ba nhân vật, một ít lực lượng, với một người Hoa Kỳ quyền thế, cuộc đảo chánh diễn tiến thật êm thấm vì chỉ cần bắt 5 vị Tướng nói trên là xong. Êm thấm đến nỗi tôi tin rằng, người dân Sài Gòn và ngay cả nhiều cơ quan đơn vị quân đội, không hề biết gì về một biến cố quan trọng vừa xảy ra, nếu như đài phát thanh Sài Gòn vẫn phát đi chương trình bình thường. Năm vị Tướng bị bắt, đã đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất, và nơi đến là Đà Nẳng. Trung Tướng Khánh đã chỉ thị ngoài đó đón và đưa về nơi giam giữ. Người bị bắt thứ 6 là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung -tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh- người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất “đã đâm và bắn Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông cố vấn Ngô Đình Nhu”, thì bị đưa lên trại Hoàng Hoa Thám -tức doanh trại Lữ Đoàn Nhẩy Dù- và giữ tại đó. Tại đây, Thiếu Tá Nhung buộc phải viết tờ khai về những gì đã làm liên quan đến cái chết của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Sau ngày đảo chánh 30/01/1964, tôi cũng không biết gì về nội dung trong tờ khai đó. (mãi đến năm 1998, qua bài báo của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, tôi mới biết chính xác là Thiếu Tá Nhung đã giết hai ông ấy. Được cựu Đại Tá Nghĩa đồng ý qua điện thoại, tôi đã bổ túc phần đó trong ấn bản lần 3 vào cuối năm 1998).
    Vài hôm sau, Lữ Đoàn Nhẩy Dù cho biết là Thiếu Tá Nhung đã thắt cổ tự tử. Mẫu tin đơn giản đó liệu có mấy người tin? Bởi Đại Tá Cao Văn Viên được xem là người thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông bị giữ trong ngày đảo chánh 01/11/1963, nhưng sau đó nhờ Trung Tướng Khiêm mà ông được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, do vậy mà cho dẫu Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung có chết một cách bình thường cũng là điều mà dư luận khó chấp nhận, huống chi đây là tin Thiếu Tá Nhung thắt cổ! Căn cứ theo lời viết trong tờ khai, Thiếu Tá Nhung khai là anh đâm ông Ngô Đình Nhu bằng lưỡi lê, Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống cự khi ông Nhu bị anh đâm chết, nên anh đâm Tổng Thống Diệm luôn. Sau đó, Thiếu Tá Nhung bắn mỗi vị một phát súng mà anh Nhung gọi là “phát súng ân huệ”.
    Cứ theo luật pháp thông thường trong xã hội, giết người phải đền tội là chuyện phải đến thôi. Chuyện phải đến trong hoàn cảnh là như vậy, nhưng Thiếu Tá Nhung có đáng chết hay không lại là vấn đề khác. Có điều lạ là tôi không thấy dư luận đặt nghi vấn: "Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết là do chính ông tự tử, hay ông chết do bị giết rồi tạo cảnh như là chính ông tự tử? Nếu Thiếu Tá Nhung bị giết thì ai là người ra lệnh giết? Ai là người thi hành lệnh đó? Và lệnh giết Thiếu Tá Nhung có đúng hay không"? Nếu cho rằng, giết người mà không do phán quyết của tòa án là sai, thì Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là sai, và người giết Thiếu Tá Nhung cũng là sai. Tôi nghĩ, nếu truy tố Thiếu Tá Nhung ra tòa án quân sự trong tình hình lúc bấy giờ cầm chắc là bản án tử hình đến với anh. Nếu hành động minh bạch như vậy, sẽ cho thấy nhóm lãnh đạo đảo chánh tôn trọng luật pháp chớ không áp dụng "luật giang hồ" theo kiểu tam-đoạn-luận: “Giết người thì bị người (khác) giết. Anh đã giết người. Anh phải bị người (khác) giết”.
    Đến đây tôi xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của ba vị nói về cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung. Trước hết là lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, định cư tại San Jose, California. Anh đồng ý cho tôi đưa vào trang sách này qua e-mail lúc 2 giờ 31 phút chiều ngày 06/03/2004. Đây là lời viết của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim:

    “Vào thời điểm 01/11/1963, tôi là Trung Úy, Trưởng Ban An Ninh Căn Cứ Hoàng Hoa Thám/Lữ Đoàn Nhẩy Dù, thời Đại Tá Cao Văn Viên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn này. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị giữ tại trại Cãi Hối do Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù phụ trách. Tôi được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nhung và Thiếu Tá Nhung khai rằng, khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “Feu tous les deux” (bắn cả hai).
    “Đây là câu trả lời được ghi lại trong ký ức tôi. Luôn tiện tôi xin đưa ra dữ kiện về việc Thiếu Tá Nhung tự tử để quí vị phán xét. Trước khi tôi bắt đầu thẩm vấn, Thiếu Tá Nhung xin phép tôi điện thoại về nhà để nhắn nhủ vợ con yên tâm. Trên nguyên tắc thì người đang bị thẩm vấn không được liên lạc ra ngoài, nhưng tôi muốn tạo tình cảm thuận lợi cho công tác lấy lời khai nên tôi đồng ý. Thẩm vấn xong, tôi giao lại Phân Đội 204 Quân Cảnh Nhẩy Dù. Đến sáng hôm sau được báo là Thiếu Tá Nhung đã treo cổ. Tôi đến nơi trông thấy Thiếu Tá Nhung treo cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ, có để lại mấy chữ ở bìa trắng của tờ báo như sau: “Em ở lại nuôi các con, bọn Diệm sống lại rồi. Cây viết Parker 51 nắp vàng, còn nằm trên tờ báo. Tôi thuật lại đây để quí vị tùy nghi xét đoán, nếu không thì có nhiều người suy đoán trật quá xa sự thật. Tối thiểu, chúng ta cũng phải căn cứ trên các dữ kiện tôi nêu trên có thể kết luận Thiếu Tá Nhung tự vận hơn là bị giết.”


    Hết phần trích dẫn trên trang e-mail về lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, và xin tiếp lời thuật của cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh qua điện thoại. Cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh, định cư tại San Francisco, California. Trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, anh là Đại Úy sĩ quan tùy viên của Đại Tá Cao Văn Viên. Giữa năm 2001, sau khi đến Washington DC thăm cựu Đại Tướng Cao Văn Viên trở về, anh điện thoại cung cấp cho tôi một số tin tức liên quan đến sức khoẻ và cuộc sống hằng ngày của vị Tướng đã từng là Tổng Tham Mưu Trưởng liên tục gần 10 năm. Nhân đó, anh thuật cho tôi nghe mẫu tin Thiếu Tá Nhung tự tử sau cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964. Lời thuật như sau:

    “Cái hôm Thiếu Tá Nhung chết, lúc đó còn sớm lắm, điện thoại từ sĩ quan trực Lữ Đoàn Nhẩy Dù gọi đến tư dinh báo cáo là Thiếu Tá Nhung đã tự tử, và đưa vào bệnh xá của Lữ Đoàn rồi”.

    Đại Úy Khanh trình cho Đại Tá Viên, và Đại Tá Viên ra lệnh:

    “Nói với sĩ quan trực (Lữ Đoàn) gọi bác sĩ cứu được gì thì cứu”.

    Theo lời Đại Úy Khanh thì lúc ra lệnh đó, Đại Tá Viên không có vẻ gì bất ngờ trước cái tin chết người như vậy, nhất là người chết lại là người mà dư luận đặt nghi vấn, thậm chí còn quả quyết anh ấy đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu nữa. Điều này cho phép chúng ta suy đoán có thể là Đại Tá Viên biết trước về cái chết của Thiếu Tá Nhung. Nhưng nếu biết trước, thì liệu Đại Tá Viên có liên quan gì? Bởi vì cái tin Thiếu Tá Nhung tự tử có thể là thật, cũng có thể là không thật. Không thật, vì có thể cái chết đó là do dàn dựng cho Thiếu Tá Nhung, cũng có thể là do áp lực dẫn đến chính Thiếu Tá Nhung phải tự tử. Điều này vẫn còn trong bóng tối.

    Cũng liên quan đến vụ này, vị thứ ba là cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm vào tối ngày 21/10/2003, khi nói đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ông nói với tôi là ông nghe nói một số quân nhân Nhẩy Dù đã vì tức giận việc Thiếu Tá Nhung giết Tổng Thống Diệm, nên ra tay giết Thiếu Tá Nhung.
    Tiếp đây là thư viết tay ngày 11/12/2007 của anh Nguyễn Ngọc Bích từ thành phố Farnboro, Anh quốc. Anh Bích là bạn cùng khóa 5 Thủ Đức & Đà Lạt với tôi. Sau lễ tốt nghiệp được nghỉ một tuần và cùng trình diện Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân đồn trú tại Vĩnh Long. Chúng tôi 4 đứa, gồm: (1) Thiếu Úy Trần Kinh Điển. (2) Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Bích. (3) Thiếu Úy Nguyễn Văn Miêng. (4) Và tôi, Thiếu Úy Phạm Bá Hoa. Anh Điển với anh Bích học Trường Sĩ Quan trừ Bị Thủ Đức, tôi với anh Miêng học nhờ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vì Thủ Đức hết chỗ.
    Thư anh Bích viết tay dài 17 trang. Tôi thán phục sự kiên nhẫn của anh Bích, vì đang ở thời đại computer mà anh ấy ngồi nắn nót ngòi viết thẳng hàng thẳng chữ.

    “Anh chị Hoa thân mến.

    Trước hết, tôi phải một lần nữa cám ơn Anh đã tặng cho tôi cuốn sách quý “Đôi Dòng Ghi Nhớ”, những lời phê bình của các độc giả cũng như bạn bè bằng hữu khắp năm châu cũng đủ chứng tỏ giá trị của cuốn sách Anh viết, tôi không còn lời nào để nói thêm nữa. Tôi có nói với “nhà tôi” là Anh mới viết có đôi dòng mà gần 400 trang sách rồi, chớ Anh mà viết truyện dài chắc đến cả ngàn trang.

    Tôi không dám phê bình nhưng tôi có nói với nhà tôi rằng, “văn là người”. Anh là con người rất chân thật, hiền hòa, khéo léo, nên văn phong của Anh viết rất là thật, nhẹ nhàng, và rất công bằng về những sự kiện lịch sử, không chê trách ai, cũng không nói xấu ai. Tôi rất cảm phục Anh vì Anh có một trí nhớ tuyệt vời thiên phú, với những tháng ngày rất chính xác. Tôi thường đọc sách hay các cuốn truyện chỉ qua có một lần thôi, song cuốn sách của Anh tôi đã đọc hết rồi, lại phải đọc lại một lần nữa cho “bà xã” tôi nghe.

    Bây giờ tôi trình bày với Anh hoàn toàn sự thật về cái chết của anh ThiếuTá Nguyễn Văn Nhung, là chính ông ta tự thắt cổ bằng sợi dây giày nhà binh của ông ta, do sự ân hận vì chính ông ta nghĩ rằng “sát nhân giả tử”. Ông ta nghĩ rằng, sớm hay muộn gì thì người ta cũng giết mình nên mình tự giải quyết chứ không để ai ra tay cả! Ngay chính ở trong Nhẩy Dù, các phòng sở khác cũng rất ít ai biết được chuyện Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị mang về Bộ Tư Lệnh Dù để thẩm vấn về vụ sát hại cố Tổng Thống và ông Cố Vấn.

    Vào thời gian cuối năm 1963 sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, là thời kỳ lộn xộn của nội bộ Việt Nam Cộng Hòa mình, các vị Tướng Lãnh nắm giữ quyền hành thi đua nhau hết Đảo Chánh đến Chỉnh Lý, nên lãnh đạo cộng sản miền Bắc lợi dụng tình hình đó để đưa lực lượng chính quy của chúng xâm nhập vào VNCH, củng cố lại hạ tầng cơ sở chuẩn bị những trận đánh lớn vào lực lượng ta. Thời gian này, tôi phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Nhẩy Dù với chức vụ Trưởng Phòng 2.

    Hôm đó, tôi nhớ vào khoảng hạ tuần tháng 1 năm 1964, tôi được một anh bạn ở Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù ở ngay trước nghĩa địa Đô Thành ở đường Lê Văn Duyệt mời đến nhà ăn cơm chiều với gia đình sau khi hết giờ làm việc. Tôi đã dặn nhân viên trực phòng (Phòng 2 Lữ Đoàn Nhẩy Dù) là “tôi đi ăn cơm khách ở nhà Đại Úy Trang, nếu có chuyện gì cần thì gọi đến tổng đài Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù nhắn lại với Đại Úy Trang là xong”.

    Chúng tôi tất cả 6 mạng đang trò chuyện rôm rả, mới nhâm nhi lai rai thì tổng đài điện thoại cho người sang kêu tôi về trình diện Đại Tá Tư Lệnh (Đại Tá Cao Văn Viên) có lệnh khẩn. Tôi vội từ biệt anh em ra lái xe về ngay đơn vị và hỏi tại văn phòng xem có lệnh gì. Nhân viên trực phòng trả lời: “Đại Úy Vĩnh Thái chỉ cho biết là tôi lên trình diện Đại Tá Tư Lệnh để nhận lệnh”. Vắn tắt có thế thôi.

    Tôi gặp Đại Úy Thái và gõ cửa vào gặp Đại Tá Tư Lệnh, ông từ tốn bảo tôi ngồi xuống ghế rồi nói: “Một chút nữa cở khoảng 45 phút hay hơn, sẽ có người đưa Thiếu Tá Nhung về đây, anh chịu khó hỏi lại cho tôi về vụ hắn đã hạ sát Tổng Thống và ông Cố Vấn như thế nào. Đây là nhu cầu ở trên đưa xuống. Nhung nó ở trong quân đội lâu lắm rồi, Anh ráng hỏi hắn cho rõ tất cả sự thật. Đây là nhu cầu “ở trên”, Anh phải làm sao trình cho tôi vào sáng mai lúc 6 giờ. Nhớ là lúc 6 giờ nhé! Nếu cần thêm chi tiết gì, tôi sẽ bảo anh bổ túc thêm. Tôi trả lời Đại Tá là tôi nhận lệnh rõ, sẽ thi hành đúng như lời Tư Lệnh. Tôi đứng đậy tính chào và về Phòng để chuẩn bị thi hành, thì được Đại Tá tâm sự vui với tôi: “Anh có tin là con người ta có số mạng không?”. Rồi Đại Tá kể cho tôi nghe về vụ ông suýt bị đem đi thủ tiêu sau vị Đại Tá Tung (Lê Quang) và Thiếu Tá Triệu (Lê Quang) ở tại phòng hội của Bộ Tổng Tham Mưu ......

    Tôi cũng được Đại Tá Tư Lệnh cho biết là làm việc trình thẳng cho ông chứ không phải theo hệ thống quân giai là phải qua Tham mưu Trưởng. Tội vội trở về Phòng để chuẩn bị. Hạ Sĩ Nhất Diệp Vinhchuẩn bị cho tôi một hồ sơ giả, trong đó có tấm bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngoài bìa cứng có kẻ chữ lớn màu đỏ “Hồ Sơ Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung”. Xong, bỏ vào tủ sắt, khóa lại. Trung Sĩ Nhất Sơn Bun sẽ lo phần đánh máy. Trung Sĩ Nhất Lê Văn Thanh trực phòng, khi tôi bảo lấy hồ sơ thì mở khóa tủ sắt lấy cho tôi tập hồ sơ của Thiếu Tá Nhung. Trung Sĩ Phạm Viết Hùng ngồi trực với khẩu súng cá nhân bên cạnh. Hạ Sĩ Hải cũng trực với súng cá nhân, và khi tôi lên phòng Tư Lệnh nhận Thiếu Tá Nhung thì tôi dắt đi ở phía sau không để ai thấy. Tất cả nhân viên của Phòng 1, 3, 4, 5, (Bộ Tham Mưu) không ai hay biết gì về lệnh đưa Thiếu tá Nhung, ngoài tôi với hai ba nhân viên của tôi.

    Khoảng 30 phút sau, điện thoại từ Đại Úy Thái chánh văn phòng kêu tôi lên nhận công tác. Lúc ấy trời sập tối, toàn căn cứ Nhẩy Dù đã lên đèn, tôi kêu Hạ Sĩ Hải đem theo súng cá nhân và đi cách tôi một khoảng cách còn nhìn thấy tôi nhưng không để người khác thấy. Đến văn phòng Đại Úy Thái, nhìn thấy chiếc xe Jeep đậu sẳn, tôi ký giấy nhận Thiếu Tá Nhung theo thủ tục để đưa về phòng tôi làm việc. Dưới ánh đèn mờ mờ đủ để tôi nhận ra y là sĩ quan với vóc dáng tầm thước, cao khoảng 1.62 thước, mặc bộ đồ trận bộ binh màu xanh, không đội mũ cũng không đeo cấp bậc, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt có nét khắc khổ. Tôi đến chào hỏi ông ta và ông ta đứng trong tư thế nghiêm chào lại tôi, rồi tự giới thiệu và cho biết cả chức vụ. Chúng tôi bắt tay nhau, tôi mời ông ta về phòng làm việc. Khi đi, tôi không đi theo hành lang vào các phòng kế cận để tránh sự tò mò của các quân nhân. Trong lúc di chuyển, ông ta nói căn cứ quá rộng và khang trang, tôi cho ông ta biết là căn cứ này do quân đội Pháp để lại, mỗi dãy nhà có phòng ốc rộng rãi thoáng mát, với những hành lang dài có lót bằng đá hoa, có nhà vệ sinh ở cuối mỗi dãy với hệ thống ánh sáng đầy đủ.

    Vế đến phòng làm việc, tôi mời ông ta ngồi ghế trước bàn và thân thiện hỏi ông ta đã dùng cơm chiều chưa? Tôi có hỏi thăm gia đình và tôi nói cho ông ta biết là có thể ông ta sẽ ở đây với tôi một hai ngày chứ chưa về ngay sáng mai đâu. Do đó, Thiếu Tá nên viết thư về cho gia đình nói cho “bà xã” an tâm, và lấy những thức cần dùng rồi tôi cho một Hạ Sĩ Quan của tôi mang về đây cho Thiếu Tá. Sau đó tôi trao cho ông ta một tập giấy loại của Mỹ với cây bút “bic”. Thư của ông ta như sau:

    “Em yêu quí và các con thân thương. Hiện nay Anh đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, trại Hoàng Hoa Thám. Anh được ông Đại Úy Bích cũng là người quen biết từ lâu nên Em cứ an tâm, không có chuyện gì đáng lo ngại cả. Tiện có chú này, Em gởi cho Anh mấy món cần thiết, như: Bộ quần áo ngủ, đôi dép, bàn chải đánh răng và kem, một cục xà bông, với ít tiền để tiêu vặt. Mọi diễn tiến êm đẹp cả, Em và các con an tâm nhé. Ký tên”.

    Sau đó, tôi kêu một binh sĩ xuống câu lạc bộ lấy hai chai bia có nước đá đem lên phòng, và chúng tôi bắt đầu làm việc thật sự. Tôi nói cho ông ta biết là tất cả mọi chuyện xảy ra đã xảy ra rồi, chúng tôi có đầy đủ hồ sơ từ mọi nơi cung cấp, bây giờ theo lệnh cấp trên chỉ thị chúng tôi xét lại một lần chót để đúc kết thôi. Chúng tôi muốn là Thiếu Tá ghi lại từ đầu đến cuối các sự kiện xảy ra trong ngày 2/11/1963, đừng giấu diếm điều gì. Với Thiếu Tá, tôi luôn luôn tôn trọng cấp bậc mặc dù Thiếu Tá không đeo “lon”. Ông ta có vẻ cảm động, đứng lên chào tôi, vừa bắt tay tôi vừa nói như lời hứa sẽ làm hết tất cả những gì tôi cần. Thái độ của ông ta rất ư là thoải mái. Tôi bấm chuông gọi anh Hạ Sĩ Quan trực mở khóa tủ lấy cho tôi tập hồ sơ mật của Thiếu Tá Nhung. Anh Hạ Sĩ Quan qua phòng bên, mở tủ, kéo thanh sắt gài ngang nghe lách cách, rồi tiếng kéo ngăn tủ rét rét,mang vào để trước mặt tôi. Tôi cố tình cho ông ta nhìn thấy tập hồ sơ bìa cứng có tên ông ta. Một lát sau thì chiếc xe Jeep trở về và đưa ông ta cái túi xách tay nhỏ, cùng với một số tiền và lá thư của bà vợ ông ta. Trong lá thư nhỏ chỉ có vài dòng chữ là bà ta hỏi có cần biếu xén gì không để bà ta lo liệu ... Ông ta cẩn thận trình cho tôi, tôi bảo không cần đâu. Anh em mình đều là quân nhân, làm việc là làm theo lệnh cấp trên thôi.

    Ông ta ngồi viết qua lý lịch, gia cảnh,...rồi ông ta viết ... Khoảng 50 hay 55 phút, tôi bảo ông ta nghỉ ngơi, và hỏi một vài câu vu vơ sau khi xem qua đoạn mà ông ta vừa viết. Tôi giả vờ như có điều không đúng trong hồ sơ tôi có (thật ra là tôi không có hồ sơ gì cả) và sửa lại cho đúng. Cứ ông ta viết xong trang nào là tôi đưa đánh máy ngay. Trong những giây phút nghỉ ngơi, tôi có gợi chuyện xưa cũ thì ông ta cũng có khoe tôi là khẩu súng đang sử dụng là ông ta đã hạ sát rất nhiều người, và cứ mỗi lần xong công tác thì ông ta lại khắc một nét để ghi nhớ làm kỹ niệm của đời binh nghiệp: “Làm theo lệnh cấp trên”. Ông ta còn đọc cả số súng của ông cho tôi biết cũng như số quân của mình vậy. Ông ta nói một cách thản nhiên như không có gì tỏ ra hối hận hay thương xót cho những người đã khuất cả. Ông ta cho biết về cuộc đảo chánh (1/11/1963) là ông ta hoàn toàn không hay không biết, vì ông ta chỉ là cận vệ đi theo Tướng Dương Văn Minh mà thôi. Ông ta chỉ mờ ảo nghĩ rằng, sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra do các Tướng Lãnh họp bàn xôn xao đi đi về về ...

    Phần đi công tác sáng ngày 2/11/1963, Anh đã nói rõ và rất đầy đủ. Nhưng có một chi tiết mà tôi không thể nào quên được là đối với Thiếu Tá Nhung, lúc bấy giờ không còn coi Tổng Thống và ông Cố Vấn là người có quyền hành nắm giữ quốc gia trong tay nữa, mà chỉ là tù nhân thôi. Lúc đó, Thiếu Tướng Xuân (Mai Hữu) tránh né đứng chờ bên ngoài khi chúng tôi vào đón Tổng Thống và ông Cố Vấn ra xe, Đại Tá Lắm (Dương Ngọc) chỉ lên xe Thiết Giáp đậu bên lề đường thì Tổng Thống rất ngạc nhiên và hỏi: “Xe ni mà đưa đón Tổng Thống với ông Cố Vấn ư?” Tôi bèn sẳng giọng trả lời ngay: “Giờ phút này mà còn là Tổng Thống với Cố Vấn gì nữa, tất cả lên xe đi.” Ông Cố Vấn có vẻ ngần ngại, song Tổng Thống tỏ ra hiểu được tình hình nên nhẹ nhàng bảo: “Thôi mà Chú Nhu, lên xe đi”. Xe chạy đến cổng xe lửa gần bệnh viện Từ Dũ phải ngừng lại chờ xe lửa chạy qua, lúc ấy tôi nhận được lệnh của Thiếu Tướng Xuân là “phải giết ngay cả hai vị” ngang qua máy truyền tin. Lệnh ra bằng tiếng Pháp. Thế là tôi thi hành ngay, bằng cách rút khẩu súng cá nhân ra và chĩa vào ông Cố Vấn thì ông Cố Vấn giơ tay ra như có ý muốn cản, song Tổng Thống đã bảo “Chú Nhu !!!”, rồi người làm dấu thánh giá. Chỉ cần hai phát đạn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng muốn cho chắc ăn tôi bồi thêm mấy phát đạn nữa cho bảo đảm.

    Khi thẩm vấn, tôi cũng hỏi sĩ quan đương sự thì được biết là Thiếu Tướng Xuân thất sủng nên có lẽ oán giận Tổng Thống và ông Cố Vấn lắm, nhân dịp này trả thù được thì thanh toán cho xong. Tôi có hỏi thêm là “tại sao Thiếu Tá với nhiệm vụ là cận vệ của Trung Tướng Minh mà lại phải đi đón Tổng Thống?”. Ông ta trả lời: “Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm bảo tôi đi thì tôi đi theo, tôi làm theo lệnh cấp trên làm sao cãi được”. (Câu trả lời này không vững. PBH)

    Chúng tôi làm việc hầu như suốt đêm, trong lúc làm việc tôi không cần la hét hay to tiếng với sĩ quan đương sự. Những nhu cầu cần biết, sau khi đọc lời khai của đương sự tôi bổ khuyết những chi tiết cho rõ ràng hơn. Đến khoảng 4 giờ 15 phút sáng (31/1/1964) thì hồ sơ hoàn tất. Tôi xem lại từng trang viết, đóng lại thành tập, sẳn sàng trình lên Tư Lệnh. Sau đó, tôi dẫn sĩ quan đương sự về phòng ngủ của tôi cách phòng làm việc không xa để nghỉ ngơi. Tôi cho kê thêm một chiếc giường cá nhân có nệm và gối mền đầy đủ, còn súng cá nhân, dao găm với mấy băng đạn tôi cho đem vào kho của Biệt Đội Quân Báo gần đó cất giữ, đề phòng bất trắc. Tôi có dặn ông ta là chung quanh đây có lính gác, Thiếu Tá cần đi đâu nên chờ tôi cùng đi, kẽo lính gác thấy đi một mình sẽ lôi thôi lắm. Ông ta cám ơn tôi mấy lần với thái độ cảm động, có lẽ vì tôi tôn trọng ông ta bằng cách gọi ông ta bằng cấp bậc. Tôi và ông ta, mỗi người một giường nằm nghỉ ngơi thoải mái sau khi đưa ông ta tắm rửa thay quần áo ngủ.

    Đúng 5 giờ 45 phút sáng, tôi mang hồ sơ lên văn phòng Đại Tá Tư Lệnh. Lúc 5 giờ 58 phút, tôi gõ cửa phòng Tư Lệnh và trình hồ sơ gồm bản chánh và bản phụ. Tôi ngồi chờ Đại Tá Tư Lệnh có gì cần hỏi thêm chi tiết nào nữa không. Sau khi xem xong, Đại Tá bảo tôi: “Thôi, đêm qua Anh và mấy nhân viên làm việc ũng mệt rồi, xét ra hắn khai thế này là đầy đủ theo nhu cầu ở trên rồi, Anh về cho anh Nhung và mấy nhân viên nghỉ ngơi, nếu cần thêm điều gì tôi sẽ bảo Anh hỏi thêm” Tôi đứng dậy chào Đại Tá Tư Lệnh và quay về phòng ngủ, thấy Thiếu Tá Nhung vẫn còn trong giấc ngủ vùi. Tôi ngả lưng, nối lại giấc ngủ vì đêm qua chỉ ngủ vài tiếng đồng hồ. Khoảng 7 giờ 30 sáng, cả tôi lẫn Thiếu Tá Nhung cùng thức dậy. Tôi bảo chú binh sĩ của tôi sang câu lạc bộ cách nơi tôi ngủ 2 dãy nhà, chuẩn bị cho 2 tô hủ tiếu và 2 ly cà phê sữa đá. Ăn xong, chúng tôi vừa xem báo vừa trò chuyện về gia đình, về binh nghiệp, và những buồn vui đời lính. Đến trưa, lại dùng cơm mang về từ câu lạc bộ.

    Khoảng 1 giờ trưa, văn phòng Đại Tá gọi tôi lên và Đại Tá bảo tôi chuyển Thiếu Tá Nhung cho Đại Úy Bùi Văn Châu, Phân Đội Trưởng Phân Đội 204 Quân Cảnh, cách văn phòng tôi một sân bóng chuyền. Khi trở về phòng ngủ, tôi nói cho sĩ quan đương sự biết là nhiệm vụ của tôi chấm dứt ở đây sau khi chuyển ông ta sang Quân Cảnh của Lữ Đoàn Dù. Vừa nói tôi vừa chỉ văn phòng Phân Đội Quân Cảnh ở dãy nhà bên kia. Tôi hỏi ông ta có gì cần giúp đỡ hay có gì phiền hà tôi, xin cho biết. Ông ta đứng nghiêm chào tôi và dùng cả hai tay bắt tay tôi với lời cám ơn. Tôi nói đó là bổn phận thôi, mình là anh em trong gia đình quân đội mà. Ông ta còn hứa hẹn với tôi là nếu có một ngày nào đó, tôi xin mời Đại Úy về nhà tôi nhậu một bữa.

    Tôi đưa Thiếu Tá Nhung sang phòng Đại Úy Châu, bảo ông ta ngồi chiếc ghế ngoài hành lang rồi bước vào giới thiệu sơ qua với Đại Úy Châu biết về Thiếu Tá Nhung, vì lúc ấy ông ta không đeo lon, cũng không đội mũ, mà chỉ mặc bộ đồ trận của bộ binh. Sau khi ký nhận, Đại Úy Châu chỉ ừ ào cho qua chuyện chớ không đếm xỉa gì đến Thiếu Tá Nhung nên ông ta có vẽ hụt hẫng. Đại Úy Châu gọi hai anh Hạ Sĩ Quan Quân Cảnh dặn dò những việc phải làm, phải thu giữ những gì có thể dẫn tới việc ông ta có thể dùng để tự tử, nhưng không ai để ý đến đôi giày “bốt” nhà binh mà ông ta đang mang. Tôi ngồi nói chuyện gẫu với Đại Úy Châu trong giây lát rồi quay về văn phòng, đưa giấy tờ giao và nhận cho anh Hạ Sĩ Quan xếp vào hồ sơ lưu trữ và cất vào tủ. Sau này tôi mới biết là Quân Cảnh đưa ông ta vào phòng giam dành cho binh sĩ vô kỹ luật gần Trung Tâm Huấn Luyện Nhẩy Dù, cũng trong khuôn viên doanh trại Lữ Đoàn. Phòng giam này hơi hắc ám, không mấy sáng sủa vì chỉ có một cửa sổ nhỏ với hàng song sắt cao hơn đầu người một chút. Mặc dù tôi phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn khá lâu mà chỉ nghe chứ chưa bao giờ quan tâm đến phòng giam này làm gì cả.

    Khoảng 5 giờ chiều tức là gần hết giờ làm việc buổi chiều, chuông điện thoại reo vang, Đại Úy Châu báo cho tôi biết một việc chẳng lành là Thiếu Tá Nhung đã tự tử tại phòng giam khi Hạ Sĩ Quan trực của Quân Cảnh đem phần cơm cho ông ta thì phát hiện sĩ quan đương sự đã tháo giây giày nối lại, một đầu giây quàng vào song sắt và đầu giây kia quàng vào cổ. Đại Tá Tư Lệnh đã được trình báo sự việc. Đại Úy Châu và tôi, liên lạc ngay với Đại Đội Quân Y của Lữ Đoàn, Bác Sĩ Văn Văn Của là Y Sĩ Trưởng cùng mấy Hạ Sĩ Quan Quân Y tận tình cứu chữa, làm hô hấp nhân tạo với 2 bình dưỡng khí, nhưng không sao cứu được. Khi khám nghiệm tử thi, Bác Sĩ Của giải thích cho Đại Úy Châu và tôi biết, “ống quần của đương sự có một vệt dài từ bộ phận sinh dục chảy xuống, chính là tinh khí xuất ra hết rồi nên không cách nào cứu chữa được, người tự tử bằng cách treo cổ chỉ có 3 hay 4 phút là chết”. Đại Úy Châu đưa cho tôi xem bút tích của ông ta viết cho vợ con trên tờ báo mà tôi đã đưa cho ông ta đọc: “Anh biết rằng, số mạng mình đến đây là hết rồi Em ạ, Anh biết là sớm muộn gì người ta cũng giết Anh, nhưng Anh không muốn để ai xét xử mình cả mà tự mình xử lấy mình thôi. Em ở lại nuôi đàn con dại nên người. Hẹn Em ở kiếp sau. Anh sẽ về phò hộ cho Em và các con”. Chữ viết nguệch ngoạc ở những phần có chỗ trống trên tờ báo Đại Dân Tộc. Sau đó, Bác Sĩ Của cho nhân viên khiêng xác Thiếu Tá Nhung lên chiếc cáng và làm thủ tục rồi đem xe Hồng Thập Tự chở vào nhà xác Tổng Y Viện Cộng Hòa, và thông báo cho gia đình của sĩ quan đương sự.

    Buổi chiều hôm đó, tôi cảm nhận nỗi buồn man mác vì thấy cuộc đời con người với số mạng của ông ta sao mà vắn thế! Vừa buổi trưa còn ăn cơm vui vẻ với tôi, vậy mà bây giờ trở nên cách trở âm dương!!!

    Khoảng 7 giớ 30 phút tối, tôi nhận điện thoại của Thiếu Tá Trương Quang Ân (Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn. PBH) hỏi thăm sức khỏe một cách lịch sự và nhã nhặn, nhưng có ý trách móc tôi nhẹ nhàng là làm việc trong nhà binh phải theo “hệ thống quân giai” như thế mới đúng, có trên có dưới. Tôi đã liên lạc với Đại Úy Châu, được biết là Phòng Nhì các anh đã làm việc với Thiếu Tá Nhung suốt đêm qua, và trưa nay anh giao lại cho Phân Đội 204 Quân Cảnh mà sao “anh quên” không trình cho Tham Mưu Trưởng biết chuyện này. Anh nhận sĩ quan đương sự ở đâu vế cũng không cho tôi biết. Tôi trả lời ngay rằng: “Thưa Thiếu Tá, tôi xin phép được trình bày sự việc, từ trước đến nay tôi làm việc với Thiếu Tá suốt trong thời gian qua, chưa có điều gì sai trái để bị Thiếu Tá khiển trách cả. Song, đây là trường hợp đặc biệt. Chiều hôm qua (30/1/1964. PBH), tôi được Đại Tá Tư Lệnh gọi lên và đã chỉ thị cho tôi: “Đây là nhu cầu ở trên đưa xuống, tất cả việc làm của anh chỉ trình cho tôi mà thôi, không trình qua ai hết”.Tôi cũng xin Thiếu Tá thông cảm, còn như nếu Thiếu Tá không tin tôi thì xin Thiếu Tá cùng tôi lên trình lại với Đại Tá Tư Lệnh. Nếu tôi có điều gi sai trái, tôi xin chịu phạt theo quân kỷ nhà binh”. Ông ta hiểu là tôi nói sự thật, nên chỉ hỏi sơ qua về Thiếu Tá Nhung “tại sao lại tự tử thôi”. Thời gian sau, Thiếu Tá Ân được thăng cấp Trung Tá, rồi Đại Tá, và được giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, rồi trong một cuộc đi thăm đơn vị vào ngày Tết, Đại Tá và phu nhân đã tử nạn khi trực thăng chở ông bà bị tai nạn, ông được truy thăng Chuẩn Tướng.

    Anh Chị Hoa thân mến, chuyện có sao tôi viết vậy, không thêm không bớt gì cả. Thiên hạ lầm tưởng là Nhẩy Dù hạ sát. Rồi họ còn thêu dệt lên vì hồi Đảo Chánh 11/11/1960 (Đại Tá Nguyễn Chánh Thi. PBH), Thiếu Tá Ngô Xuân Soạn đã bị Nhẩy Dù đâm chết tại Tiểu Đoàn 3 Nhẫy Dù.

    Tôi xin phép tạm dừng bút.

    Thân. Nguyễn Ngọc Bích. Farnboro, Anh quốc.

    Xin đóng ngoặc.

    Ai ra lệnh giết Tổng Thống?

    Thật tình tôi không có bằng chứng để quả quyết là ai ra lệnh giết, nhưng điều mà cựu Đại Tướng Khiêm nghe nói lại, dường như chưa đủ sức thuyết phục người đọc lẫn người nghe. Quí vị có suy nghĩ gì về sự kiện này không?
    Với lời thuật của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, đối chiếu với lời thuật của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa mà tôi được phép đăng trong chương nói về cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, thì nghi vấn về người ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, trở nên phức tạp. Tôi xin ghi lại những lời đó sau đây:
    “Theo lời trong bài viết của cựu Đại Tá Nghĩa, sau ngày đảo chánh 01/11/1963, ông gặp Thiếu Tá Nhung và hỏi điều ông thắc mắc là tại sao giết cả hai ông, thì Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trả lời một cách tỉnh bơ rằng:
    “Một người hay hai người cũng vậy thôi. Hai người thì khó khăn một chút, nhưng chắc ăn hơn. Vì ông Diệm chống cự lại sau khi ông Nhu bị tôi đâm chết, nên tôi phải thanh toán luôn. Có lệnh cũng được, mà không có lệnh cũng vậy thôi. Cho nó chắc ăn. Lúc đó đâu có đợi lệnh được”.
    Theo lời viết trong e-mail của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì đầu năm 1964 anh là Trung Úy, sĩ quan An Ninh của căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù, anh được lệnh thẩm vấn Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, và anh ghi nhận lời khai của Thiếu Tá Nhung như sau:
    “ ... Khi đoàn xe chạy đến cổng xe lửa trên đường Hồng Thập Tự, tôi xin lệnh Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân về việc ông Diệm và ông Nhu, thì được Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trả lời bằng câu tiếng Pháp “feu tous les deux” (bắn cả hai) . .
    Theo lời viết trong thư của cựu Trung Tá Nguyễn Ngọc Bích, thì lời viết của Thiếu Tá Nhung trên tờ khai tương tự như lời khai với Trung Úy Lâm Sanh Kim:
    “ .... Xe chạy đến cổng xe lửa gần bệnh viện Từ Dũ phải ngừng lại chờ xe lửa chạy qua, lúc ấy tôi nhận được lệnh của Thiếu Tướng Xuân là “phải giết ngay cả hai vị” ngang qua máy truyền tin. Lệnh ra bằng tiếng Pháp. Thế là tôi thi hành ngay....”
    Vậy, ai là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu? Trung Tướng Dương Văn Minh, hay Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, hay cả hai vị?
    Theo cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, với lời của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung đã nói trực tiếp với ông (tức cựu Đại Tá Nghĩa), thì nghi vấn của tôi về người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu là Trung Tướng Dương Văn Minh (cấp bậc lúc đảo chánh). Nhưng theo lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trước mặt cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim, thì Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh cho ông (tức Thiếu Tá Nhung) giết chớ không phải Trung Tướng Dương Văn Minh.
    Cho đến bây giờ là tháng 08/2011, , tôi vẫn giữ nguyên nghi vấn Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (cấp bậc lúc đảo chánh) giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, vì Trung Tướng Dương Văn Minh là vị lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Trong chức vụ và quyền hạn của Trung Tướng Dương Văn Minh, chỉ có ông mới đủ thẩm quyền ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, chớ không thể nào Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trong trách nhiệm thay mặt Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng -theo lời của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa- lại tự ý ra lệnh này được.
    Cứ thử nêu một giả thuyết là Trung Tướng Minh có giao quyền rộng rãi cho Thiếu Tướng Xuân tùy cơ ứng biến với Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đi nữa, thì từ khi đoàn xe rời nhà thờ Cha Tam chạy đến cổng xe lửa dừng lại chờ xe lửa chạy ngang, đã có việc gì xảy ra đâu mà Thiếu Tướng Xuân đến nỗi phải “ứng biến” bằng cái lệnh “bắn cả hai” như Thiếu Tá Nhung khai với Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích Trưởng Phòng 2 Lữ Đoàn Nhẩy Dù, và Trung Úy L âm Sanh Kim, sĩ quan an ninh căn cứ Hoàng Hoa Thám lúc ấy? Một giả thuyết như vậy không có sức thuyết phục, vì lệnh “bắn cả hai” là bắn Tổng Thống với Cố Vấn của Tổng Thống, tính cách quan trọng của cái lệnh này ở cấp quốc gia chớ không phải cái lệnh bắn giết địch quân ở chiến trường.
    Tôi có hai giả thuyết về lời khai của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung:
    Thứ nhất. Hoặc lời khai đó là thật, nghĩa là Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân được Trung Tướng Dương Văn Minh giao cho cái quyền rộng rãi đó để tùy tình hình mà giải quyết. Nhưng trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu trong một “tình hình hoàn toàn yên tỉnh” mà Thiếu Tướng Xuân lại ra lệnh “bắn cả hai” thì hành động đó có thể xem là lạm dụng quyền được giao. Như vậy, phải chăng bắt nguồn từ nguyên nhân hận thù nào đó của Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Nhưng nếu do thù hận riêng tư mà Thiếu Tướng Xuân dám ra lệnh giết chết Tổng Thống và Cố Vấn của Tổng Thống, quả là ông liều lỉnh. Liều lỉnh vì cấp trên của ông là Trung Tướng Dương Văn Minh còn đó, cho dù ông có là bạn thân của Trung Tướng Minh đi nữa, không chắc ông dám liều đến như vậy.
    Thứ hai. Hoặc lời khai đó do Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự bịa ra để khai khi bị thẩm vấn. Nhưng tại sao lại bịa ra? Rất có thể là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung muốn bảo vệ Trung Tướng Dương Văn Minh, vị Tướng mà Thiếu Tá Nhung đang là cận vệ. Giả thuyết này có vẻ không vững, bởi lúc Thiếu Tá Nhung cung cấp lời khai này chỉ ba tháng sau ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết, mà trong dư luận chưa nghe loan truyền về cái lệnh giết Tổng Thống và ông Cố Vấn là công hay tội, thì khó mà nói là Thiếu Tá Nhung đổ tội cho Thiếu Tướng Xuân qua lời khai của ông. Rốt lại, chỉ còn giả thuyết oán ghét hay thù hận của Thiếu Tá Nhung đối với Thiếu Tướng Xuân thôi. Trong cuộc sống, cũng có những sự kiện xảy ra mà không thể dựa trên những dữ kiện bình thường để suy đoán phần kết luận. Nói nôm na là nghịch lý. Phải chăng trường hợp này là như vậy?
    Cuối cùng, tôi vẫn đặt nghi vấn cao nhất và duy nhất là Trung Tướng Dương Văn Minh, người ra lệnh giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
    Nay thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, ba con người này đã vào lòng đất tối tăm mù mịt, hay đang bay lượn trên những tầng mây cao với những nàng tiên xinh đẹp, thôi hãy để các vị yên nghỉ! Và nếu như hai con người nào đó "đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, giết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, và ra lệnh giết Thiếu Tá Nhung nếu có, còn sống trên cõi đời này mà còn chút lương tâm, tôi tin là hai con người đó, đã và đang còm cõi với nỗi khổ riêng của họ! Năm 2003, Đại Tướng Dương Văn Minh, người mà tôi đặt nghi vấn cao nhất là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm với ông Cố Vấn Nhu, đã vào giấc ngủ ngàn thu! Xin cắm một nén hương trước mộ ông, với lời nguyện hương linh ông sớm siêu thoát vào cõi vĩnh hằng xa xôi nào đó, hay cõi đó cũng quanh quẩn trong cõi tạm trần ai này để nhìn cuộc sống tinh thần của những người một thời cùng ông vừa đánh địch vừa đánh bạn!
    Thêm nữa, theo lời của cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cho tôi biết vào tối 21/10/2003, thì nguyên nhân dẫn ông vào cuộc đảo chánh này là vì Trung Tướng Dương Văn Minh đã đồng ý với ông (tức Thiếu Tướng Khiêm, cấp bậc lúc đảo chánh) trong cuộc đảo chánh ngày 01//11/1963, là chỉ giải quyết ông cố vấn Ngô Đình Nhu, còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải được bình yên và xuất ngoại, nhưng sau đó Trung Tướng Minh đã ra lệnh giết luôn Tổng Thống Diệm làm cho ông bất mãn. Cũng do bất mãn đó mà Trung Tướng Khiêm (cấp bậc trong cuộc đảo chánh 30/01/1964) đồng ý với Trung Tướng Khánh lật đổ Trung Tướng Minh và những vị Tướng thân cận của Trung Tướng Minh. Vậy là suy đoán của tôi trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ từ ấn bản 1 đến ấn bản 4, về nguyên nhân Trung Tướng Trần Thiện Khiêm trực tiếp trong cuộc đảo chánh 30/01/1964, chỉ đúng một nửa.

    Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết vào lúc nào?

    Theo lời của cựu Thiếu Tá Lâm Sanh Kim mô tả khi đến phòng giam nhìn thấy thi hài Thiếu Tá Nhung trong tình trạng thắt cổ bằng sợi giây giày loại giày cao cổ, nhưng không nói anh đến đó vào lúc náo. Theo lời của cựu Trung Tá Nguyễn Ngọc Bích thì anh được tin Thiếu Tá Nhung chết vào buổi chiều. Theo lời của cựu Trung Tá Phạm Ngọc Khanh thì sĩ quan trực Lữ Đoàn điện thoại trình Đại Tá Cao Văn Viên tại nhà riêng lúc sáng sớm.
    Xin nhớ rằng, cuộc Chỉnh Lý xảy ra lúc nửa đêm về sáng ngày 30/01/1964 là ngày thứ năm trong tuần. Tôi tin vào lời của cựu Trung Tá Khanh, theo đó thì Thiếu Tá Nhung chết ngay trong đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu 31/01/1964., và chết trong tình trạng thắt cổ bằng sợi giây của loại giày cao cổ.
    Tóm lại. Nửa đêm về sáng ngày 30/01/1964, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung bị bắt đưa về căn cứ Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung trải qua hai cuộc thẩm vấn tại Lữ Đoàn Nhẩy Dù là sự thật. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung chết trong tình trạng thắt cổ là sự thật. Nhưng Thiếu Tá Nhung chết trong tình trạng thắt cổ, thì những dữ kiện trên đây chưa đủ để khẳng định điều đó là sự thật. Tôi có hai giả thuyết:
    Thứ nhất. Chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Nhưng ông tự thắt cổ là do ông hối hận, do bị áp lực, hay do ông muốn làm một anh hùng vì ông đã giết Tổng Thống với Cố Vấn trong khi không ai làm được, ông bị bắt nhưng ông không muốn bị làm nhục, đã dẫn đến quyết định như vậy? Giả thuyết hối hận không vững, vì luật pháp cũng như dư luận có buộc tội đâu. Giả thuyết do bị áp lực, hoặc giả thuyết ông muốn làm anh hùng, có thể lắm.
    Thứ hai. Không phải chính Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung tự thắt cổ. Vậy, ai đã thắt cổ Thiếu Tá Nhung? Người thắt cổ Thiếu Tá Nhung là do chính người đó, hay người đó nhận lệnh của người nào khác nữa? Tôi không có dữ kiện nào về giả thuyết này, mong vào những nhà viết sử, theo thời gian sẽ thu thập được nhiều dữ kiện làm sáng tỏ vấn đề.


    Tôi có dịp dùng cơm với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên vào tối ngày 06/09/2003 tại Virginia, nhưng tôi cảm thấy không nên hỏi những gì liên quan đến cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, vì gần như phần lớn thời gian trong bữa ăn kéo dài 3 tiếng đồng hồ, cựu Đại Tướng Viên cho tôi biết thêm vài sự kiện, đồng thời ông giải thích một số sự kiện về những gì tôi viết về ông trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ” của tôi, nhưng cần giải thích thêm để sự kiện được rõ ràng. Ông cũng giải thích về những sự kiện mà những tác giả khác đã nói về ông. Trong đó, có vẻ ông không bằng lòng tác giả Nguyễn Tiến Hưng, vì có những sự kiện mà ông nói là ông Hưng tưởng tượng hoàn toàn.
    Đến đây xin khép lại những dấu hỏi mà tôi chưa đủ dữ kiện giải tỏa, và mời quí vị trở lại bản doanh cuộc đảo chánh.
    Khoảng 7 giờ sáng, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đến bản doanh. Một lúc sau, Thiếu Tá Nguyễn Huy Lợi -cùng nhóm lưu vong với Đại Tá Thi trong vụ đảo chánh 11/11/1960 thất bại- và nhiều sĩ quan khác cũng đến. Đại Tá Thi bước vội đến Thiếu Tá Lợi đang đứng bên ngoài nhà, và sau một lúc lời qua tiếng lại, Đại Tá Thi bốp một phát vào mang tai Thiếu Tá Lợi. Thiếu Tá Lợi đỏ mặt và trong tư thế sẳn sàng bốp lại, nhưng nghĩ sao đó, Thiếu Tá Lợi quay lưng bỏ đi. Đại Tá Thi vào nhà, có vẻ như để chứng minh ông đúng:
    “Thằng khốn nạn đó nó coi thường tôi”.
    Lời lẽ này đúng hay không chỉ có quí vị trong nhóm lưu vong mới biết, nhưng hành động như vậy, tự Đại Tá Thi làm giảm phong cách của một sĩ quan cao cấp trong quân đội.
    Sau một lúc thảo luận, viết rồi sửa, sửa rồi viết. Một bản Tuyên Cáo được phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn. Đại ý nội dung cho rằng, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập trong cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, đã có kế hoạch đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập thì trước sau gì cũng vào tay cộng sản. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập hôm nay, sẽ truy tố các vị đó ra tòa trong thời gian sớm nhất.
    Khoảng 10 giờ sáng, điện thoại reo: “Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.

    “Em mời Trung Tướng Khiêm nói chuyện với Trung Tướng Minh nghe em”.
    Đó là lời của Trung Tá Đỗ Kiến Nhiễu, chánh văn phòng của Trung Tướng Minh. Năm 1955, ông là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng của tôi (Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân), nên ông thường gọi tôi bằng em. Xe của Trung Tướng Minh và Trung Tá Nhiễu đã vào cổng lúc hơn 9 giờ.

    “Xin Trung Tá chờ đầu máy”.
    “Mời Trung Tướng tiếp chuyện với Trung Tướng Minh”.
    Tôi bước đến ghế bố mà Trung Tướng Khiêm đang nằm vì ông bị cảm, tôi trao ống nói cho ông, nhưng:

    “Chú nói với Trung Tướng Minh là tôi đang mệt và cần nghỉ ngơi. Tôi sẽ gọi lại sau”.
    Quả thật là Trung Tướng Khiêm đang mệt, ông bị khàn tiếng. Từ lúc bắt đầu cuộc đảo chánh, Trung Tướng Khiêm là người ra chiều suy nghĩ âu lo và theo dõi chặt chẻ diễn tiến "cuộc hành quân bắt cóc các vị Tướng". Đến khi các vị đó lên phi cơ quân sự đi Đà Nẳng, ông nằm dài trên ghế bố. Dù sự thật là như vậy, nhưng chắc gì Trung Tướng Minh tin như vậy. Và rồi Trung Tướng Minh có thể nghĩ rằng, Trung Tướng Khiêm đã bắt hết các vị Tướng thân cận của ông rồi, nên khước từ nói chuyện với ông cũng nên. Tôi thì không nghĩ như vậy. Tuy Trung Tướng Khiêm chưa phải là vị Tướng xuất sắc của chiến trường hay nơi bàn giấy, nhưng ông có một tình cảm chân thành của một con người đối với cấp trên, với bạn bè, và nhất là với các cộng sự viên xa gần lớn nhỏ của ông. Tôi đã chứng kiến nhiều lần khi ông niềm nở bắt tay những đồng đội thuộc Tiểu Đoàn 3 Việt Nam, đơn vị mà có lần Trung Tướng Khiêm rất vui vẻ khi ông nói với tôi là ông rất nhiều cảm tình. Những đồng đội trước kia dưới quyền của Trung Tướng Khiêm tại Tiểu Đoàn này, đến những năm 60, phần lớn là Thượng Sĩ hay Thượng Sĩ Nhất.

    “Thưa Trung Tá, Trung Tướng Khiêm bị cảm và khàn cổ. Thể nào Trung Tướng Khiêm cũng gọi lại Trung Tướng Minh khi sức khỏe cho phép”.
    Nói thì nói vậy, nhưng khoảng 30 phút sau thì Trung Tướng Khiêm điện thoại nói chuyện với Trung Tướng Minh. Theo lời ông thuật lại với Trung Tướng Khánh và Đại Tá Viên, tôi biết là Trung Tướng Minh cần gặp ông với Trung Tướng Khánh để thảo luận một số vấn đề cần thiết. Vấn đề gì thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ chỉ quanh quẩn về việc các vị bị bắt thôi, chớ chẳng việc nước việc non gì đâu. Bởi sự thể đã đâu vào đó rồi. Nhưng nếu Trung Tướng Khánh ở vị trí Trung Tướng Minh hiện tại, thì Trung Tướng Khánh không nói chuyện êm thấm nhẹ nhàng vậy đâu, bởi Trung Tướng Khánh vốn là không ôn hòa, nhất là trong tình cảnh đó.
    Sau một lúc thảo luận to nhỏ với người Mỹ đã có mặt từ sớm, Trung Tướng Khánh mời Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên vào bàn họp. Một số sĩ quan quan tâm hay hiếu kỳ, đang đứng lóng ngóng trong nhà để theo dõi tin tức, được mời ra sân. Tại sân, khá đông sĩ quan các quân binh chủng, cùng một số phóng viên báo chí. Tuy không đông, không nhộn nhịp như cuộc đảo chánh 01/11/1963, nhưng cũng chật sân trước. Lúc bấy giờ trong nhà Trung Tướng Khánh, chỉ có Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, Đại Tá Viên, người Việt Nam có vẻ là thân tín của Trung Tướng Khánh, một viên chức Hoa Kỳ, và tôi. Trung Tướng Khánh lên tiếng trước như là người chủ tọa:

    “Thôi, mọi việc xong rồi. Bây giờ thì anh Khiêm làm đi”.

    Trung Tướng Khiêm, tay phải gỡ kiến xuống và tay trái lau kiến, đó là những động tác biểu hiện sự suy nghĩ của ông. Tiếp đó, ông xoay qua Đại Tá Viên, vừa cười vừa nói:

    “Phần tôi đến đây là đủ rồi. Tôi không thích chính trị đâu, hay là anh Viên nhận đi”.

    Đại Tá Viên với nụ cười không hết miệng như lúc nào, ông nói:

    “Thôi. Hai anh tính với nhau đi, ai làm cũng được mà. Tôi không thích lao vào chính trị đâu. Phần tôi đến đây là xong. Tôi muốn ở Lữ Đoàn Dù với anh em của tôi”.

    Đại Tá Viên lớn tuổi hơn hai vị kia, nhưng ông rất cẩn thận trong cách xưng hô với mọi người, ngay cả với cấp dưới cũng vậy, chớ không nhất thiết là chỉ cẩn thận với hai vị này.

    “Các "toa" không nhận thì "moa" đành nhận thôi”.

    Nói xong, Trung Tướng Khánh cười khoan khoái. Trung Tướng Khánh nói nhận ở đây, là nhận chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tức Quốc Trưởng, và kiêm luôn chức Thủ Tướng. Vậy là chức vụ của Trung Tướng Khánh nhiều bằng chức vụ của Trung Tướng Minh với ông Đốc Phủ Sứ Nguyễn Ngọc Thơ trước đây cộng lại. Trung Tướng Khánh đồng ý giữ Đại Tá Viên trong chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù. Mời Trung Tướng Khiêm giữ chức Tổng Tưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, nhưng Trung Tướng Khiêm không nhận. Ông muốn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Dĩ nhiên là chính ông "muốn" chớ không phải ông "bị" như cách đây tròn 1 tháng. Buổi họp chọn vị đứng đầu quốc gia và đứng đầu chánh phủ tạm ngưng, vì Trung Tướng Khánh phải lên tòa nhà chánh họp báo.

    Lúc đó là 2 giờ chiều, tại tầng trệt tòa nhà chánh. Rất đông phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình trong nước lẫn ngoại quốc. Trên bàn chủ tọa, Đại Tá Cao Văn Viên ngồi cạnh Trung Tướng Nguyễn Khánh, còn Trung Tướng Khiêm vắng mặt vì bệnh. Chuẩn Uý Nguyễn Ngọc Linh là thông dịch. Chuẩn Uý Linh tốt nghiệp khóa 12 (hoặc 13) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông là chủ một trường Anh ngữ khá nổi tiếng tại Sài Gòn. Sinh viên sĩ quan khóa này có một số khá đông tốt nghiệp đại học mà báo chí thường gọi là "thành phần khoa bảng".
    Tổng quát thì Trung Tướng Khánh cho rằng, một số Tướng Lãnh trong nhóm đảo chánh 01/11/1963, đã âm mưu đưa nước Việt Nam đến trung lập, mà trung lập là thời kỳ chuyển tiếp đến chế độ cộng sản. Và âm mưu này phải phá vở từ trong trứng, nếu không, nó sẽ là một sỉ nhục các chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống cho ngọn cờ quốc gia chống cộng. Đồng thời, dân tộc Việt Nam phải chịu sự thống trị của cộng sản và lệ thuộc Trung Cộng như hằng ngàn năm trong lịch sử. Do vậy, mà nhóm của ông đứng lên làm cuộc "chỉnh lý" hôm nay....
    Sau đó, ông trả lời những câu hỏi của báo chí. Phần lớn những câu hỏi đều xoay quanh điều mà ông nói là âm mưu trung lập Việt Nam. Tôi không nhớ hết nguyên văn câu hỏi và trả lời, nhưng những điều dưới đây là tôi tóm tắt theo trí nhớ (đoạn này tôi viết lại lúc trong tù):

    “Nhóm lãnh đạo chỉnh lý gồm những ai?”

    “Nhóm lãnh đạo của chúng tôi gồm 3 người: Tôi, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên”. Vừa nói ông vừa chỉ Đại Tá Viên.

    “Xin Trung Tướng cho biết những bằng cớ về âm mưu trung lập?”

    “Hội Đồng chúng tôi sẽ truy tố các vị đó ra tòa theo luật định. Toà án sẽ căn cứ vào những bằng cớ để phán quyết”.

    “Các vị Tướng đó nghe nói đã bị bắt, có đúng không? Nếu đúng, thì các vị đó bị giữ ở đâu?”

    “Đúng. Các vị đó được giữ ở nơi an toàn trong khi chờ ra tòa”.

    “Nhóm Chỉnh Lý có thành lập chánh phủ dân sự như nhóm đảo chánh trước đây hay không?”

    “Chúng tôi thành lập chánh phủ quân sự, nhưng cũng là tạm thời”.

    “Hiến Chương tạm thời bao giờ được thay đổi?”

    “Sẽ được thay bằng Hiến Pháp khi Quốc Hội được bầu lên trong một tình hình ổn định”.

    “Hàm râu của Trung Tướng cắt theo kiểu đó có nghĩa gì?”

    Dường như bị bất ngờ, Trung Tướng Khánh đưa tay vuốt chòm râu cụt ngủn kèm theo nụ cười kéo dài khá lâu, chắc là để tìm câu trả lời trước câu hỏi này.

    “Mỗi quân nhân chúng tôi thường có cái gì đó để kỷ niệm cho riêng mình. Hàm râu của tôi cũng không ngoài ý nghĩa đó”.

    Và cuộc họp báo chấm dứt, nhưng điều mà các phóng viên thắc mắc liên quan đến bằng chứng về kế hoạch trung lập của các vị Tướng bị bắt, thì Trung Tướng Khánh trả lời rất mơ hồ, khiến họ tỏ vẻ không hài lòng. Mà thật ra ngôn ngữ trong chính trị, không nhất thiết một với một là hai như trong ngôn ngữ của các ngành sinh hoạt khác, cho nên có hài lòng hay không hài lòng cũng vậy thôi.
    Trước bữa ăn tối, Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm, và Đại Tá Viên, thảo luận với một số vị dân sự và hành chánh để thành lập chánh phủ. Tôi xin phép chạy về nhà vì con tôi lên cơn nóng, nên không theo dõi được phần thảo luận chi tiết. Sau đó Trung Tướng Khiêm gọi tôi trở lại "bản doanh" gấp:
    “Chú sang bộ tư lệnh Quân Đoàn nói với Đại Tá Mạnh (Nguyễn Văn Mạnh) Tham Mưu Trưởng, chuẩn bị để sáng mai tôi bàn giao cho Thiếu Tướng Lâm Văn Phát. Còn mấy chú cũng chuẩn bị bàn giao văn phòng rồi trở về Tổng Tham Mưu với tôi”.
    “Trung Tướng đã nhận lời với Trung Tướng Khánh?”
    “Không có người nên tôi phải nhận thôi. Tôi coi Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu luôn. Tôi ngồi ở văn phòng mà trước kia Đại Tướng Tỵ ngồi đó. Chú sắp xếp lại cho tôi. Phần chú, chú làm chánh văn phòng cả hai bên, nghĩa là Bộ Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu. Thôi, chú chạy qua Quân Đoàn lo cho kịp. Nhớ bảo Đại Uý Tuấn về lại Tổng Quản Trị luôn”. (Đại úy Nguyễn văn Tuấn, về sau là Đại Tá, Giám Đốc Nha An Ninh Hành Chánh khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm làm Thủ Tướng)
    “Chào Trung Tướng, tôi đi ngay”.
    Sáng 31/01/1964, bàn giao xong, tôi và các quân nhân văn phòng dọn về lại văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Vẫn trên tầng lầu, nhưng khác phòng. Trung Tướng Khiêm nhận hai chức vụ của Trung Tướng Trần Văn Đôn nhưng không có bàn giao, vì Trung Tướng Đôn đã bị bắt từ hôm qua. Cùng lúc, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu nhận chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cũng không có bàn giao vì Trung Tướng Lê Văn Kim cũng bị bắt rồi. Tôi nhận bàn giao của Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, gồm văn phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng và văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.
    Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng gần như hoàn toàn về kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ, dĩ nhiên là về mặt chính trị cũng vậy. Nói rõ hơn trong các biến cố chính trị, nhóm nào được Mỹ ủng hộ thì phần thắng có thể trong tầm tay. Ủng hộ thì có thể có nhiều cách, nhưng sự có mặt của một người Mỹ trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 và cuộc đảo chánh lần này, là biểu hiện rõ nhất. Với cuộc đảo chánh 30/01/1964, giữa bộ ba lãnh đạo đảo chánh (chỉnh lý, chỉ là một loại ngôn ngữ chính trị) với Hoa Kỳ, liệu bên nào là bên khởi xướng? Điều đó tôi không rõ, nhưng chắc chắn là ba vị này đã tiếp xúc ít nhất là 2 lần với Hoa Kỳ, kể từ lúc tôi đón Trung Tướng Khánh về đến Sài Gòn.
    Nhìn từ góc độ cá nhân. Liệu có phải cuộc đảo chánh bắt nguồn từ "cái hận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm" khi cử ông vào phái đoàn công du Đại Hàn mà ông tưởng như phần thưởng, để rồi cử ông vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III trong khi ông công du ngoại quốc chưa về? Xin nhớ rằng, Trung Tướng Khiêm là một trong những vị nòng cốt lãnh đạo cuộc đảo chánh 01/11/1963, vì trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân nếu ông không tham gia thì cuộc đảo chánh cũng không dễ gì thực hiện được. Và cũng liệu có phải là từ "cái hận" của Đại Tá Viên khi bị tách khỏi Lữ Đoàn Nhẩy Dù trong cuộc đảo chánh 01/11/1963 không? Nếu không phải là "những cái hận" đó, thì tại sao trong buổi họp chọn người lãnh đạo ngay sau khi đảo chánh thành công, Trung Tướng Khiêm nói "phần tôi đến đây là đủ rồi", và tại sao Đại Tá Viên cũng nói "phần tôi đến đây là xong rồi". Cả hai vị có cùng câu nói tương tự nhau là bao hàm ý nghĩa rằng "tôi không thích chính trị" hoặc "tôi không thích lao vào chính trị", để rồi Trung Tướng Khánh "đành" nhận cả hai chức vụ cao nhất nước? Hãy để câu trả lời chính xác cho cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên.
    Nếu chấp nhận giả thuyết "hai cái hận" nói trên là nguyên nhân, thì theo tôi, hành động phục hận của Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên mới là "động lực", mà động lực không cũng chưa đủ, vì phải có "ngòi nổ" để phát nổ nữa chớ. Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng, và đây đúng là "ngòi nổ" để đẩy động lực kia nổ máy. Tôi muốn nói là Trung Tướng Khánh đã khai thác cái hận của Trung Tướng Khiêm với Đại Tá Viên bằng cách khích hai vị ấy phục hận. Cũng chưa đủ, phải có "lửa" châm ngòi nổ nữa chớ. Tôi cho rằng Hoa Kỳ là ánh lửa châm ngòi. Như vậy, nếu đúng là phục hận thì Hoa Kỳ cũng có nguyên nhân nào đó chớ chẳng lẽ Hoa Kỳ giúp đảo chánh chỉ để hai vị phục hận riêng tư sao? Chắc chắn là không.
    Nhìn vào một góc độ khác, góc độ chính trị ngoại giao. Liệu có phải Hoa Kỳ muốn loại trừ những Tướng lãnh cầm quyền mà trước đó có tiếng là thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam không? Chắc trong chúng ta, lứa tuổi chào đời thập 20, 30, không ai quên là Pháp rất không bằng lòng hành động của Hoa Kỳ góp phần đẩy nước Pháp đến việc ký kết Hiệp Định Đình Chiến Genève 20/07/1954 với Việt Minh cộng sản, dẫn đến sự kiện nước Pháp thua trận và đoàn quân viễn chinh của Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam tháng 03/1956. Tổng Thống Pháp quốc, Tướng Charles De Gaulle, vào đầu thập niên 1960, trong chuyến viếng thăm Cambodge, ông cổ võ chính sách trung lập cả ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Quan niệm trung lập của ông De Gaulle, chẳng khác nào xúi ba nước trên bán đảo Đông Dương vào ảnh hưởng cộng sản, điều đó có nghĩa là vực Việt Nam Cộng Hòa (cùng với Cam Bốt và Lào) ra khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Phải chăng đây cũng là cách phục hận của Pháp đối với Mỹ? Lúc ấy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm phản ứng mạnh mẽ về lời tuyên bố đó của Tổng Thống Pháp.
    Liên quan đến đoạn trên đây, cựu Đại Tướng Khiêm nói với tôi trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003, như sau:

    “Tôi không biết tại sao mà Mỹ lại bỏ rơi ông Minh nữa”.

    Tôi nói với ông về nét nhìn của tôi như đoạn viết ở trên. Ông nói:

    “Điều chú nói có lý lắm, nhưng có thể còn điều gì đằng sau đó nữa”.

    Nhưng mà thưa các bạn, với câu nói ngắn ngủi của cựu Đại Tướng Khiêm trên đây, cộng với nguyên nhân mà Trung Tướng Khánh (cấp bậc lúc đảo chánh) đã tuyên bố trong buổi họp báo cách nay 39 năm sau khi đảo chánh thành công (30/01/1964), theo đó thì Trung Tướng Dương Văn Minh và các vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập ngày 01/11/1963, có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập, có thể làm quí vị suy nghĩ nếu quí vị muốn đào sâu thêm về con người dẫn đến sự kiện ngày 30/01/1964.

    Nhìn sang góc độ khác nữa, góc độ chính trị nội bộ. Liệu có phải năm vị Tướng vừa bị bắt kia, thật sự có kế hoạch trung lập Việt Nam hay không vì Trung Tướng Khánh với quyền uy cao nhất nước, đã nói với báo chí là sẽ đưa các vị đó ra tòa (?). Tôi chấm hỏi trong ngoặc đơn như vậy vì tôi nghi ngờ lời ông. Tôi nghi ngờ vì chen lẫn trong lúc ba vị thảo luận thành lập chánh phủ, Trung Tướng Khánh có nói sẽ ra lệnh cho Trung Tá Cao (Albert Nguyễn Cao) và Thiếu Tá Nhiêu (Lê Văn Nhiêu) -sĩ quan tình báo- truy tìm tài liệu về "kế hoạch trung lập". Câu nói đó cho tôi hiểu đôi chút là khi bắt các vị Tướng bị cáo buộc "trung lập", thì trong tay các vị đảo chánh chưa có bằng chứng gì trung lập hết, hoặc nếu có cũng chưa đủ để đưa các vị ấy ra tòa.
    Năm 1994, khi tôi viết lại đoạn này thì cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống ở Washington D.C. một cách lặng lẽ, không tiếp xúc với ai liên quan đến chính trị. Trong khi cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì đi sâu vào thiền, cũng ở Washington D.C. và cuộc sống càng ẩn dật hơn cựu Đại Tướng Khiêm nữa. Điều đó đúng trong thời gian ấy.

  4. #4
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default


    Ngày 06/09/2003, vợ chồng tôi lên Virginia thăm ông bà cựu Đại Tướng Khiêm, nhận thấy ông và gia đình ông vẫn trong cuộc sống ẩn dật tuy là trong căn nhà khá rộng. Buổi tối cùng ngày, tôi và hai người bạn nữa đến đón cựu Đại Tướng Viên từ một gian phòng nhỏ trong building khang trang, về nhà anh chị Lý Thanh Tâm dùng cơm tối. Anh Lý Thanh Tâm, một cựu sĩ quan ngành Tổng Quản Trị. Anh Chị Lý Thanh Tâm, là người giúp cựu Đại Tướng Viên rất nhiều việc trong những năm gần đây. Trong bữa ăn này, tôi thấy sức khoẻ của ông rất kém nhưng sự minh mẫn không sa sút bao nhiêu, tôi không hỏi ông về thiền vì sức khoẻ của ông như vậy ông không thể ngồi thiền được nữa. Có một điều thật dứt khoát là ông không thể tham gia vào những vấn đề chính trị, đơn giản là sức khỏe của ông trong tình trạng sút kém đến mức khó mà hình dung được nếu không trông thấy ông.
    Xin giải thích thêm về cựu Đại Tướng Cao văn Viên. Trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 01 và 02/11/1963, lúc ấy ông là Đại Tá, bị Hội Đồng Quân Cách Mạng cách ly khỏi chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù và bị cách chức sau khi Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đảo chánh thành công. Nhưng bà Cao Văn Viên nhờ Trung Tướng Trần Thiệm Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) vì hai vị là bạn thân, vận động với Trung Tướng Dương Văn Minh và Đại Tá Viên được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, dĩ nhiên vị sĩ quan thay thế ông mấy ngày phải chuyển sang đơn vị khác. Tháng sau đó, trong một cuộc hành quân trực thăng vận (chuyển quân bằng phi cơ trực thăng đổ ngay tại chiến trường) dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt thuộc quận Hồng ngự, tỉnh Kiến Phong. Cuộc hành quân này đã đánh nhau dữ dội với quân cộng sản từ bên trong lãnh thổ Cam Bốt xâm nhập vào, với sự yểm trợ của Pháo Binh, Thiết Giáp, và Không Quân, Nhẩy Dù đã chiến thắng nhưng chấp nhận số thương vong đáng kể. Trong số bị thương có Đại Tá Viên, ông và những thương binh khác được đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị. Chiều hôm đó, Trung Tướng Nguyễn Khánh với chức năng Quốc Trưởng, cùng với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, vào tận giường bệnh trao gắn cấp bậc Thiếu Tướng cho Đại Tá Cao Văn Viên. Đây là thăng cấp mặt trận. Đến đây là hết phần giải thích.
    Một hôm, Trung Tướng Khiêm gọi tôi vào văn phòng, tôi thấy ông có vẻ như có điều gì quan trọng, ông nói:

    “Chú phải biết là ngoài Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu, tôi còn là cố vấn cho Trung Tướng Khánh nữa, nên tôi không có thì giờ nhiều như trước đây. Vì vậy mà chú phải thận trọng khi thu xếp chương trình tiếp khách hằng ngày của tôi để tôi có thì giờ nghiên cứu nhiều vấn đề. Chú hiểu ý tôi chớ?”

    “Vâng. Tôi hiểu”.

    “Dù muốn hay không muốn, tôi cũng phải dính dáng đến chính trị. Đó là điều không thích hợp với tôi”.

    “Vâng. Tôi hiểu”.

    Ngưng một chút, ông tiếp:

    “Chú liên lạc Phòng Tổng Quản Trị (Tổng Tham Mưu) làm lệnh thuyên chuyển Đại Úy Đặng Văn Châu về văn phòng (Tổng Tham Mưu Trưởng), làm thông dịch viên khi cần”.

    Đại Úy Đặng Văn Châu là chánh văn phòng Tỉnh Trưởng Vĩnh Long, lúc ấy Trung Tá Lê Văn Phước là Tỉnh Trưởng. Sau ngày 01/11/1963, Trung Tá Phước bị cách chức và giải ngũ. Thế là Đại Úy Châu về văn phòng tôi. Trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng có các sĩ quan sau đây: (1) Tôi. (2) Đại Úy Nguyễn Hữu Có sĩ quan tùy viên luôn luôn đi theo Trung Tướng Khiêm. (3) Đại Úy Nguyễn Tinh Tú sĩ quan tùy viên tại tư dinh. (4) Đại úy Đặng Văn Châu thông dịch viên. (5) Trước ngày đảo chánh còn có Đại Uý Trần Thiện Ngươn, anh của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, nhưng sau ngày đảo chánh anh thuyên chuyển đơn vị khác vì văn phòng dư sĩ quan theo ấn định trong bảng cấp số. Thật ra Trung Tướng Khiêm chỉ sử dụng Đại Úy Châu thông dịch trong trường hợp tiếp các phóng viên báo chí ngoại quốc, không phải ông không nói được Anh ngữ, nhưng vì nhà báo ngoại quốc thường hỏi những câu hóc búa, thành ra ông cần cái khoảng thời gian thông dịch để chuẩn bị câu trả lời.
    Vài tuần sau ngày trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Khiêm bảo tôi viết chi phiếu xuất 100.000,00 đồng cho nhà thờ Martino tu sửa những hư hỏng, vì ảnh hưởng trong cuộc chạm súng giữa lực lượng tấn công với lực lượng phòng vệ Phủ Tổng Thống trong ngày 01/11/1963. Tập chi phiếu này tôi nhận bàn giao ngày 31/01/1964 từ Thiếu Tá Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng Tổng Trưởng Quốc Phòng. Lúc ấy, số tiền trong quỹ mật còn 36.000.000,00 đồng.
    Lần thứ nhì, tôi cũng được lệnh viết chi phiếu 100.000,00 đồng cấp cho Trung Tá Nguyễn Văn Luông, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, trong dịp Trung Tá Luông cưới vợ cho con. Tôi nghĩ, ngoài công tác bắt những vị Tướng khởi đầu cũng là kết thúc cho cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964 ra, không có nguyên nhân nào khác để Trung Tá Luông được phần thưởng này cả. Cho Trung Tá Luông để cưới vợ cho con, tôi nghĩ, đó chỉ là cái cớ hơn là nguyên nhân.
    Trong số những sĩ quan bị bắt sau cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963 đang giữ tại Nha An Ninh Quân Đội, có Trung Tá Nguyễn Văn Minh, và Trung Tá Nguyễn Khắc Bình, là hai trong số những vị tôi quen biết khá nhiều. Trung Tá Minh, Tỉnh Trưởng An Giang trong khi Đại Tá Trần Thiện Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 33 Chiến Thuật (còn gọi là Khu Chiến Thuật Hậu Giang). Trung Tá Bình, khi còn tổ chức Quân Khu, ông là Tham Mưu Trưởng đệ ngũ Quân Khu đồn trú tại Cần Thơ. Tháng 04/1961, khi giải thể tổ chức Quân Khu để thành lập Khu Chiến Thuật với Vùng Chiến Thuật, Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ Sa Đéc di chuyển sang Cần Thơ đồn trú ngay trong doanh trại Quân Khu vừa giải thể, và Thiếu Tá Bình (cấp bậc lúc bấy giờ) giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Do mối liên hệ công tác đó đã dẫn đến thân tình giữa Đại Tá Khiêm với hai vị.
    Cũng xin nói thêm đôi nét về Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình. Từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Thiếu Tá Bình được Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Định Tường. Theo lời Đại Uý Nguyễn Hữu Tài hồi năm 1964 -anh của Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có- thì sáng ngày 01/11/1963, Thiếu Tá Bình mang một phúc trình mật từ Mỹ Tho lên Sài Gòn để trình Tổng Thống Ngô Đình Diệm về những dấu hiệu của một cuộc đảo chánh, nhưng Thiếu Tá Bình bị Đại Tá Có (cấp bậc lúc bấy giờ) chận bắt.
    Bà Nguyễn Văn Minh và bà Nguyễn Khắc Bình, sau nhiều lần đến nhà tôi nhờ tôi trình với Trung Tướng Khiêm xin cứu xét giúp cho hai ông được tự do. Trung Tướng Khiêm có vẻ phân vân, chưa quyết định. Lần trình bày thứ nhì của tôi cùng với đơn của hai bà, Trung Tướng Khiêm phê dòng chữ trên hai đơn đó:
    “Nha An Ninh (Quân Đội) cứu xét rộng rãi”.
    Sau đó, Trung Tá Minh và Thiếu Tá Bình được tự do. Chưa có quyết định gì về Trung Tá Minh, nhưng Thiếu Tá Bình được thuyên chuyển về văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, và Trung Tướng Khiêm giao trách nhiệm cho Thiếu Tá Bình khai thác đống hồ sơ của đảng Cần Lao, mà Trung Tướng Trần Văn Đôn đã cho chở đầy một xe vận tải quân sự GMC từ Phủ Tổng Thống về tòa nhà chánh Tổng Tham Mưu từ ngày 02/11/1963, và tôi cho mang lên để ở tầng lầu trên cùng.
    Vài tháng sau đó, Thiếu Tá Nguyễn Khắc Bình được thăng cấp Trung Tá. Trong khi Trung Tá Nguyễn Văn Minh vẫn cấp bậc cũ, nhưng ông có cái may khác. Trung Tá Minh lần đầu tiên đến văn phòng tôi kể từ sau ngày được tự do, ông vẫn giữ thông lệ chơi ngọt với tôi nên phần “uống cà phê chơi” của tôi lần này là con búp bê sản xuất “bên Tây” rất đẹp.
    Xin nhắc lại là khi ông làm Tỉnh Trưởng An Giang, tôi là chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồn trú tại Cần Thơ, cứ mỗi lần ông đến Cần Thơ họp là y như rằng, Trung Tá Minh tặng tôi cái phong bì mà bên trong là 200,00 đồng (Việt Nam) kèm theo lời nói của ông:

    “Em cầm lấy uống cà phê chơi” dù ông biết rằng tôi không quen uống cà phê.

    Sau đó thỉnh thoảng ông tạt vào văn phòng tôi chơi. Một hôm Trung Tá Minh nhờ tôi trình Trung Tướng Khiêm, cho ông thuyên chuyển đến Sư Đoàn 21 Bộ Binh và ông bằng lòng nhận bất cứ nhiệm vụ gì ở đó. Ông giải thích thêm:

    “Em biết hông, theo thầy tướng số, nếu Anh được về hướng đó sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Em ráng giúp Anh nghe Hoa”.

    Trong khi chờ quyết định của Trung Tướng Khiêm, Trung Tá Minh cho tôi thêm thông tin liên quan đến ông, rằng Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồng ý cử ông vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn Cà Mau. Và rồi Trung Tá Minh thành công bước đầu, tức là ông được Trung Tướng Khiêm chấp thuận thuyên chuyển đến Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Và bước thứ hai:

    “Hoa à! Em ráng giúp Anh lần nữa nghe. Lần này là em thu xếp cho Anh chiếc phi cơ L19, và điều cần là anh phi công với phi cơ có mặt tại sân VIP đúng 7 giờ sáng -không sớm cũng không muộn- và đừng tắt máy. Anh sẽ lên phi cơ ngay. Anh nói nhỏ em nghe: ông thầy tướng số nói nếu như Anh đi đúng như vậy và đúng về hướng Sư Đoàn 21 thì tương lai Anh sẽ lên tột đỉnh trong quân đội đó em. Ráng nghe Hoa”.

    Trước khi ra về, ông đưa tôi cái phong bì tặng anh phi công, và phần “uống cà phê chơi” của tôi cũng là một phong bì.
    Xin giải thích. Trung tuần tháng 12 năm 1962, ngay sau khi Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm (thăng cấp Tướng ngày 06/12/1962) bàn giao Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho Đại Tá Bùi Hữu Nhơn, thì Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn cùng các đơn vị yểm trợ trực thuộc, di chuyển đến nơi đồn trú mới là Bạc Liêu, vì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV sẽ thành lập từ ngày 01/01/1963 đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt trong tỉnh lỵ Cần Thơ. Còn phi cơ L19 là loại phi cơ sử dụng quan sát từ trên không, và hướng dẫn Pháo Binh hoặc phi cơ khu trục tác xạ. Trường hợp cần thiết, sử dụng chở một sĩ quan hay Tướng Lãnh công tác. Còn Lữ Đoàn Cà Mau là tên gọi một đơn vị chiến thuật do Sư Đoàn 21 Bộ Binh thành lập cho nhu cầu ổn định tình hình tỉnh An Xuyên (Cà Mau là tỉnh lỵ), gồm Trung Đoàn 32 Bộ Binh (trực thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh) và Pháo Binh với Thiết Kỵ (Thiết Giáp Kỵ Binh).
    Vài tuần sau ngày Trung Tá Nguyễn Văn Minh nhận nhiệm vụ tại Lữ Đoàn Cà Mau, ông điện thoại về tôi:
    “Hoa à! Anh đang có một việc liên quan đến tòa án và họ có giấy gọi Anh về Sài Gòn để trả lời một số câu hỏi. Em ráng nói với chánh văn phòng Bộ Tư Pháp là đơn vị Anh đang hành quân, khi xong thì Anh về trình diện. Em ráng giải quyết càng sớm càng tốt nghe em”.

    “Mà chuyện gì vậy Trung Tá? Liệu có ghê gớm lắm hông?”

    “Không quan trọng đâu em. Chẳng qua là sự việc chưa rõ ràng thôi mà”.

    “Được. Tôi sẽ cố gắng nhưng không hứa chắc chắn nghe Trung Tá, vì tôi chưa hiểu đầu đuôi ra sao”.

    Sau khi liên lạc với chánh văn phòng ông Tổng Trưởng Tư Pháp, tôi mới biết Trung Tá Nguyễn Văn Minh đang là một trong những nghi can về cái chết của mấy nhân vật chính trị đã bị thủ tiêu ở tỉnh An Giang mà lúc ấy Trung Tá Minh là Tỉnh Trưởng. Chánh văn phòng Bộ Tư Pháp cho biết là ông Tổng Trưởng thuận dời lại đến khi Trung Tá Minh chấm dứt hành quân. Tôi cũng không hiểu là bằng cách nào mà chỉ trong thời gian ngắn sau đó, Trung Tá Nguyễn Văn Minh đã vận động ra sao mà từ đó tôi không nghe thấy gì về vụ này nữa. Khi viết lại những dòng này, tôi tự hỏi: có phải là tôi đã chen chân vào vụ án đó hay không nữa? Thật lòng là tôi chỉ nói đúng theo yêu cầu của Trung Tá Minh chỉ xin dời ngày trình diện của ông thôi.
    Về ông thầy tướng số tử vi đã giải lá số tử vi của Trung Tá Nguyễn Văn Minh hay dở ra sao thì tôi không rõ, nhưng có điều là sau cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa tháng 04/1972, có dư luận ngay trong Bộ Tổng Tham Mưu là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (ông đã thăng cấp khá nhanh) có hi vọng thay thế Đại Tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng.
    Xin trở lại Bộ Tổng Tham Mưu.
    Đầu tháng 04 năm 1964, một Sắc Lệnh do Trung Tướng Nguyễn Khánh ký, nâng danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu thành Bộ Tổng Tư Lệnh. Và một Sắc Lệnh khác, nâng danh xưng Quân Đội thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bao gồm: Lục Quân, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân. Vậy là, Bộ Tổng Tham Mưu, từ bấy giờ có danh xưng là Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị đứng đầu tức Trung Tướng Trần Thiện Khiêm là Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng bên trên còn có vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao trong chức năng Quốc Trưởng, chính vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao này mới có thẩm quyền tuyên chiến.
    Trung tuần tháng 04/1964, Hội Đồng Tướng Lãnh mà nòng cốt là Trung Tướng Nguyễn Khánh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng với chức năng Quốc Trưởng, kiêm Thủ Tướng, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù, lên Đà Lạt họp để giải quyết năm vị Tướng bị bắt giữ từ ngày 30/01/1964, vì các vị này bị cáo buộc là “chủ trương trung lập hoá Việt Nam và sẽ truy tố ra tòa” mà Trung Tướng Khánh đã tuyên bố trong buổi họp báo chiều ngày 30/01/1964 tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, sau khi đảo chánh thành công. Kết quả trong tinh thần hòa giải (?), xem như các vị Tướng bị cáo đều không có tội nhưng không được giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội. Thật ra không hòa giải cũng không được, vì đâu có bằng chứng gì để truy tố ra tòa. Hòa giải xong, các vị có mặt gồm “nguyên cáo lẫn bị cáo” ôm nhau vui vẻ và “ăn nhậu linh đình”, có cả sự “giúp vui” của những cô gái ngay tại biệt thự chọn làm nơi hội họp. Các cô này được phi cơ C47 đưa từ Sài Gòn lên.
    Sở dĩ Hội Đồng Tướng lãnh họp tại Đà Lạt là vì sau khi năm vị Tướng bị bắt ngày 30/01/1964 đưa ra giữ ở Đà Nẳng, nhưng do thiếu tiện nghi sinh hoạt nên Trung Tướng Nguyễn Khánh chấp nhận lời yêu cầu của năm vị mà chuyển lên Đà Lạt giam trong một biệt thự với những tiện nghi sinh hoạt tốt hơn. Trong thời gian giam giữ các vị tại Đà Nẳng, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ thị tôi trách nhiệm thanh toán chi phí, nhưng khi chuyển lên Đà Lạt thì văn phòng Phủ Thủ Tướng trách nhiệm.
    Về hòa giải giữa các vị Tướng Lãnh. Xin quí vị quí bạn lùi lại tháng 03 đến đầu tháng 04/1964. Đại Tá Nguyễn Cao (có tên Pháp là Albert Cao), Trung Tá Lê Văn Nhiêu, hai vị này thuộc Phủ Thủ Tướng, và Trung Tá Nguyễn Khắc Bình văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, ba sĩ quan này đã phục vụ nhiều năm trong ngành tình báo quân sự, tạo thành một toán công tác tình báo đặc biệt. Theo lệnh của Trung Tướng Nguyễn Khánh, ba vị sĩ quan này truy tìm chứng cớ để kết tội năm vị Tướng bị cáo buộc “chủ trương trung lập”. Đến ngày kết thúc, Trung Tá Bình sau khi từ phòng Trung Tướng Trần Thiện Khiêm bước ra, anh nói với tôi:

    “Anh biết hông, tụi tôi truy lục các hồ sơ ở An Ninh Quân Đội, Tổng Nha Cảnh Sát, rồi bên Phủ Đặc Ủy Tình Báo, và hầu hết các tòa soạn báo chí, nhưng không tìm ra bất cứ một chứng cớ nào liên quan đến chủ trương trung lập của mấy ông Tướng bị bắt cả”.

    “Vậy các vị Tướng bị cáo chủ trương trung lập chẳng qua là cái cớ cho cuộc “Chỉnh Lý” (Trung Tướng Nguyễn Khánh gọi như vậy, thật ra cũng là đảo chánh thôi), còn nguyên nhân nằm ở đâu?”

    “Tôi cũng tự hỏi như anh vậy”.

    “Khi anh trình kết quả này, Trung Tướng (Trần Thiện Khiêm) có nói gì hông Anh?”

    “Không”.

    Vậy, nguyên nhân nằm ở đâu? Tôi nghĩ, nguyên nhân ở người Mỹ có mặt trong buổi sáng ngày 30/01/1964 tại nhà Trung Tướng Nguyễn Khánh, đây cũng là bản doanh của các vị lãnh đạo đảo chánh. Phải chăng Hoa Kỳ muốn loại trừ hẳn những Tướng lãnh cầm quyền mà trước đó bị cáo buộc là thân Pháp ra khỏi chính trường Việt Nam không?
    Nếu đúng như vậy thì rõ ràng là Hoa Kỳ thực hiện mục tiêu theo từng bước: Bước một, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì Tổng Thống Diệm không đồng ý để Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa trong chiến lược Domino của Hoa Kỳ, nhằm tạo một hàng rào ngăn chận mặt Nam của Trung Hoa cộng sản. Tổng Thống Diệm đã nhìn thấy thế chính trị Việt Nam Cộng Hòa bị tổn thương trong bối cảnh chính trị quốc tế nếu có mặt quân bộ chiến Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.
    Sau khi lật đổ Tổng Thống Diệm, trao cờ vào tay Trung Tướng Dương Văn Minh và các vị Tướng thâm niên phất tạm. Bước hai, Hoa Kỳ “bật đèn xanh” cho Trung Tướng Trần thiện Khiêm, Trung Tướng Nguyễn Khánh, và Đại Tá Cao Văn Viên, giành lấy cờ từ tay các vị Tướng bị cáo buộc thân Pháp để phất tiếp. Chính sách của Hoa Kỳ, năm 1954 đẩy Pháp đến chỗ chia đôi đất nước Việt Nam, năm 1956 đã góp phần không nhỏ trong việc đẩy quân đội Liên Hiệp Pháp rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa, và năm 1964 đẩy luôn các vị Tướng bị cho là thân Pháp ra khỏi chánh quyền lẫn quân đội. Thuận lý chớ?
    Trở lại vấn đề nội tình Việt Nam. Trong hướng cố gắng tạo chiến công để có tiếng vang về khả năng lãnh đạo, Trung Tướng Nguyễn Khánh lệnh cho Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật, tổ chức cuộc hành quân qui mô vào mật khu Đỗ Xá, nằm sâu trong vùng rừng già giáp ranh 2 tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi. Lực lượng hành quân vào tận sào huyệt Đỗ Xá, phá hủy nhiều vũ khí đạn dược và toàn bộ cơ sở tiếp vận (mà cộng sản gọi là hậu cần), nhưng không diệt được lực lượng của chúng. Tuy vậy, một phần lực lượng tham dự hành quân qui mô đó cùng với bộ chỉ huy hành quân của Trung Tướng Trí, được đưa về thủ đô Sài Gòn tham dự cuộc duyệt binh diễn binh tại công trường Lam Sơn, ngã tư đại lộ Nguyễn Huệ với đại lộ Lê Lợi. Nhiều quân nhân được thăng cấp mặt trận và ân thưởng huy chương, mà theo tôi là vượt trên mức thành tích đạt được. Sở dĩ có sự kiện như vậy vì Trung Tướng Nguyễn Khánh muốn tỏ ra chánh phủ do ông lãnh đạo có khả năng tạo được thành tích.

    Hiến Chương Vũng Tàu.
    Trung tuần tháng 07/1964, ban hành Sắc Lệnh thiết lập cấp Chuẩn Tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cấp bậc Tướng Lãnh từ trước đến lúc bấy giờ là Thiếu Tướng biểu tượng bằng 2 ngôi sao mỗi bên ve áo hay cầu vai trên áo, Trung Tướng 3 ngôi sao, Đại Tướng 4 ngôi sao, và Thống Tướng 5 ngôi sao. Cấp Chuẩn Tướng mới thiết lập được qui định là 1 ngôi sao mỗi bên ve áo hay cầu vai trên áo. Ngay sau đó là Sắc Lệnh thăng cấp Chuẩn Tướng cho 9 Đại Tá, và Trung Tướng Trần Thiện Khiêm được thăng cấp Đại Tướng, dĩ nhiên là do Trung Tướng Nguyễn Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực (cải danh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng)), với chức năng Quốc Trưởng, ký ban hành. Như vậy, có phải là Đại Tướng Khiêm thăng cấp nhanh quá chăng? Vì ngày 06/12/1962 ông từ Đại Tá thăng cấp Thiếu Tướng do công vụ, ngày 02/11/1963 thăng cấp Trung Tướng do tham gia trong nhóm lãnh đạo đảo chánh 01/11/1963, ngày 15/07/1964 thăng cấp Đại Tướng không do nguyên nhân nào cả, trừ khi Trung Tướng Khánh muốn vị Tổng Tư Lệnh phải là cấp bậc 4 sao như dự trù cấp bậc lý thuyết trong bảng cấp số Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhưng liệu khi Trung Tướng Khánh quyết định thăng cấp Tướng cho một số vị là do nhu cầu công vụ, hay đằng sau quyết định đó còn có nhu cầu nào khác?
    Sở dĩ tôi nêu câu hỏi đó cho tôi, vì sau ngày trao gắn cấp Tướng cho các vị vừa vinh thăng, thì Trung Tướng Khánh cho triệu tập Đại Hội Đồng Quân Lực tại ngôi biệt thự màu trắng ở Vũng Tàu, nơi mà cư dân Vũng Tàu thường gọi là “bạch dinh”, để thông qua bản “Hiến Chương” thay thế cho Hiến Ước Lâm Thời sau khi bãi bỏ Hiến Pháp đệ nhất Cộng Hòa. Đại Hội Đồng Quân Lực sau khi được bổ sung một số vị mới thăng cấp Tướng, nâng tổng số gần 40 thành viên. Và rồi Đại Hội Đồng Quân Lực thông qua bản Hiến Chương, đồng thời bầu Trung Tướng Nguyễn Khánh vào chức Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa. Vậy, theo quí vị, có phải là Trung Tướng Khánh “mua chuộc” hay một ý nghĩa nào đó tương đương với mua chuộc các thành viên trong Đại Hội Đồng Quân Lực, nhất là đối với các vị vừa mang những ngôi sao mới toanh trên ve áo?
    Tôi chưa kịp đọc bản Hiến Chương này, nhưng qua báo chí cũng như những bản tuyên bố của những tổ chức chính trị, cáo buộc Trung Tướng Khánh là độc tài khi soạn thảo Hiến Chương và điều khiễn Đại Hội Đồng Quân Lực bầu ông vào chức vụ Chủ Tịch với rất nhiều quyền hành. Thế là ngay sau ngày Hiến Chương được thông qua tại Vũng Tàu mà báo chí thường gọi là “Hiến Chương Vũng Tàu”, các tổ chức chính trị, tôn giáo, mà khởi đầu là sinh viên xuống đường mít tinh biểu tình, cáo buộc Trung Tướng Nguyễn Khánh là độc tài, đòi hủy bỏ Hiến Chương Vũng Tàu, và đòi Trung Tướng Nguyễn Khánh từ chức.
    Một hôm, tôi mang hồ sơ của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đến Phủ Thủ Tướng ở số 7 đại lộ Thống Nhất, để trình tận tay Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh đúng lúc đoàn biểu tình vừa dừng trước cổng và hô to:
    “Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
    Lúc bấy giờ, Trung Tướng Khánh từ trong Phủ Thủ Tướng bước ra dưới sự bảo vệ của hàng rào cận vệ võ trang chống biểu tình. Khi đoàn biểu tình trông thấy ông thì họ lại hô to:
    “Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
    Lúc ấy tôi không thể tưởng tượng được là Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh cũng giơ tay lên và cũng hô to:
    “Đả đảo Nguyễn Khánh! Đả đảo Nguyễn Khánh!”
    Bỗng dưng đoàn biểu tình trở nên im lặng. Tôi nghĩ là đoàn biểu tình quá bất ngờ về hành động của Trung Tướng Khánh làm cho họ mất đối thủ, vì chính ông cũng đả đảo ông thì còn ai để đoàn biểu tình đả đảo nữa. Và rồi Trung Tướng Khánh chen vào đoàn biểu tình cười nói huyên thuyên chẳng khác một thành viên nhiệt tình trong đoàn biểu tình vậy. Phải công nhận phản ứng của Trung Tướng Khánh rất cao tay, chớ không phải ông quên ông là Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn Khánh đâu quí vị à!
    Cuối cùng Trung Tướng Khánh tuyên bố hủy bỏ Hiến Chương mới công bố mấy ngày trước đó. Thế là thủ đoạn chính trị của ông đối với Đại Hội Đồng Quân Lực quá dễ, nhưng với lực lượng chính trị và tôn giáo thì ngược lại. Một bên có quân có súng nhưng phục tùng, một bên khác không súng nhưng lại có một sức mạnh nếu không nói là phi thường thì sức mạnh đó cũng đủ đập tan chiếc ghế Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tướng Nguyễn Khánh.
    Đúng là quân nhân phải chấp hành kỷ luật một cách triệt để, nhưng đó là nhiệm vụ quân sự thuần túy, còn trường hợp thông qua bản Hiến Chương tại Vũng Tàu thì không thể coi là nhiệm vụ quân sự mà là nhiệm vụ chính trị, và cao hơn nữa là nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia. Vậy, quyền quyết định thông qua hay không thông qua bản Hiến Chương, các vị thành viên Đại Hội Đồng Quân Lực phải tự mình quyết định lá phiếu của mình chớ! Nhưng rồi bản Hiến Chương đã thông qua dễ dàng, điều đó có nghĩa là các vị đã đồng ý nội dung cho dù từ trong thâm tâm quí vị rất có thể là không phải như vậy. Nếu đúng như vậy thì quí vị đã không thực hiện được vai trò thành viên của tập thể lãnh đạo quốc gia rồi còn gì, và quí vị phải chịu chung lỗi lầm sai trái khi đồng tình với Trung Tướng Khánh trong nội dung bản Hiến Chương bị cáo buộc là độc tài.
    Hội Đồng Quân Lực thu hẹp vội vã họp tại Trung Tâm Hành Quân/Bộ Tổng Tư Lệnh để tìm giải pháp cho sự khủng hoảng, nhưng suốt ngày vẫn không thành công. Cuối cùng, giải pháp lãnh đạo bởi ba người mà báo chí gọi là “tam đầu chế”, gồm: Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Dương Văn Minh, và Trung Tướng Nguyễn Khánh. Rốt cuộc cũng chỉ có Trung Tướng Khánh nắm quyền, vì Đại Tướng Khiêm với Trung Tướng Minh, hoặc không đủ thủ đoạn đối phó với Trung Tướng Khánh, hoặc không muốn dấn thân vào chính trị. Và dù muốn hay không muốn, hai vị cũng phải chịu chung trách nhiệm về lỗi lầm của Trung Tướng Khánh trong giải pháp “tam đầu chế”.
    Nhưng vấn đề không dừng ở đây, vì Trung Tướng Khánh tự thấy chiếc ghế quyền lực của ông thực sự lung lay, thế là Trung Tướng Khánh nhắm thẳng vào Đại Tướng Trần Thiện Khiêm mà ông cho là nguyên nhân, là người đứng đằng sau mọi hình thức chống đối ông. Tôi nhận định như vậy vì có một người không có tên trong tổ chức quân đội, trong tổ chức hành chánh, hay bất cứ tổ chức hoặc cơ quan nào của chánh phủ, nhưng lại là người có thế lực chỉ vì ông là em vợ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, tên của ông là Phạm Quang Tước. Những tháng trước đó, ông Tước thường đến văn phòng tôi với vài món lặt vặt tặng tôi. Mỗi khi gặp tôi, ông nói chuyện huyên thuyên về mọi chuyện, trong khi tôi nghe rất ít vì luôn bận việc của văn phòng Bộ Quốc Phòng và văn phòng Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhưng từ sau ngày Trung Tướng Khánh buộc phải thỏa mãn yêu sách của giới chính trị hủy bỏ Hiến Chương, cũng là hủy bỏ chức Chủ Tịch mà ông đã được bầu, thì ông Tước cũng lạnh nhạt với tôi. Rồi từ lạnh nhạt đến xem tôi là kẻ thù cũng chỉ vài bước thôi, và vài bước đó đã qua khi ông Tước nói với tôi:
    “Đại Tướng của anh phải cẩn thận đó, nếu cứ lấn tới nữa thì tánh mạng không an toàn đâu”. Nói xong là ông đi ngay mà chẳng cần chào hỏi như trước nữa.
    Đại Tướng Khiêm rất buồn Trung Tướng Khánh, nhưng vì ông ít nói nên tôi không nghe ông phân bua, cũng chẳng buồn giải thích với những người chung quanh. Hoặc có thể là Đại Tướng Khiêm xem thường Trung Tướng Khánh mà không cần thanh minh chăng? Nếu đúng vậy, thì Đại Tướng Khiêm áp dụng câu “im lặng cũng là khinh bỉ”.

    Chuyện 10 kí lô vàng thoi.
    Sau ngày Chỉnh Lý 30/01/1964 -cũng là hay là đảo chánh- vài tuần, Trung Tướng Khiêm (cấp bậc lúc bấy giờ) gọi tôi vào văn phòng:

    “Chú xuống nhà Trung Tướng Minh (Dương Văn) nhận vàng đem về cất, rồi liên lạc xem cơ quan nào giữ thì giao cho người ta”.

    “Thưa Trung Tướng (cấp bậc lúc bấy giờ), tôi chưa rõ công tác này. Xin Trung Tướng cho biết tôi sẽ trình như thế nào với Trung Tướng Minh?”

    “Chú cứ nói là tôi bảo chú xuống nhận vàng là được rồi”.

    Sở dĩ phải hỏi lại là vì có bao giờ tôi nhận cái lệnh tương tự như vậy đâu, bây giờ nghe nói nhận vàng một cách quá nhẹ nhàng nên hỏi để biết mình không nghe lầm. Tôi đến tư dinh Trung Tướng Dương Văn Minh mà nơi đây báo chí thường gọi là "dinh hoa lan". Chờ một lúc, sĩ quan tùy viên đưa tôi vào văn phòng Trung Tướng Minh. Lại chờ một lúc nữa. Với thái độ vui vẻ, vừa bước vào phòng là Trung Tướng Minh đưa tôi cái túi xách và nói luôn:

    “Anh mở ra xem và đếm lại coi có đủ 10 kí không, rồi mang về đưa Trung Tướng Khiêm”.

    Đó là cái túi xách màu xanh, cũ mèm, bên ngoài có chữ "Air Việt Nam". Đếm xong:

    “Thưa Trung Tướng, trong túi này có 10 thoi nhưng không biết có phải là 10 kí hay không thì tôi không rõ”.

    “Anh cứ mang về trình Trung Tướng Khiêm chớ có cân đong đo đếm gì đâu mà anh sợ”.

    “Vâng. Chào Trung Tướng”.

    Vừa vào văn phòng Trung Tướng Khiêm là tôi mở túi ra để trình ông xem, nhưng ông không xem mà nói:

    “Chú nhận rồi thì cất trong tủ sắt đi, cơ quan nào nhận giữ thì chú giao cho người ta”.

    “Vâng”.

    Theo tôi biết, số vàng này do Trung Tướng Đỗ Cao Trí -lúc giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I- tịch thu của ông Ngô Đình Cẩn ở Huế, đem vào Sài Gòn giao cho Trung Tướng Minh. Bây giờ Trung Tướng Minh giao lại Trung Tướng Khiêm. Xin nhắc lại là sau cuộc đảo chánh lật đổ và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và ông Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung Ngô Đình Cẩn (bị tòa kêu án tử hình và thi hành bản án sau đó chẳng bao lâu), Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập "Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô", do Trung Tướng Lê Văn Kim giữ chức Chủ Tịch. Đã có Ủy Ban đó, nhưng không biết tại sao số vàng này lại "vòng vo lưu lạc" như vậy nữa, kể cả mấy tháng nay nó nằm trong tủ sắt ngay sau lưng tôi.
    Khi mối giao hảo giữa Trung Tướng Khánh với Đại Tướng Khiêm căng thẳng, Đại Tướng Khiêm hỏi tôi:

    “Chú còn giữ mấy kí vàng đó không?”

    “Dạ còn thưa Đại Tướng”.

    “Bao nhiêu vậy?”

    “Dạ 10 kí vàng thoi”.

    “Chú liên lạc xem cơ quan nào nhận thì giao cho người ta, giữ hoài mất công lắm”.

    “Vâng. Ngày mai tôi xuống Ngân Hàng Quốc Gia hỏi xem nơi đây có biết không, thưa Đại Tướng”.

    Tôi đến Ngân Hàng Quốc Gia, mới biết đây là cơ quan nhận số tài sản đã tịch thu của gia đình anh em Tổng Thống Ngô đình Diệm do Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô bàn giao. Sau khi được ông Giám Đốc giải thích thủ tục giao nhận, tôi hẹn hôm sau mang đến.
    Sáng hôm sau, tôi lững thững xách cái túi Air Việt Nam vào. Khi ông Giám Đốc thấy cái túi cứ tưởng tôi đi ngang chợt ghé chớ không nghĩ là 10 kí lô vàng bên trong, vì cái túi quá cũ chẳng ai thèm lượm nếu chợt thấy nó bên đường. Khi biết vàng bên trong, ông Giám Đốc quá sức ngạc nhiên:

    “Thiếu Tá đi với ai?”

    “Một mình tôi thôi mà”.

    “Sao Thiếu Tá liều mạng quá vậy. Dễ chết lắm đó!”

    “Đi một mình đâu có ai để ý mà chết. Nếu bên cạnh tôi có thêm Quân Cảnh hay nhân viên nào đó đi theo thì kẻ gian cho là tôi mang thứ gì quí giá bên trong nó sẽ theo chân ngay. Lúc ấy mới là lúc dễ chết đó ông Giám Đốc. Nói cho vui nghe, chương trình của trường quân sự cao cấp chúng tôi có dạy về "9 nguyên tắc chiến tranh", trong đó có nguyên tắc "bất ngờ" mà chúng tôi không bao giờ quên ứng dụng nó, như trường hợp này chẳng hạn”.

    Chúng tôi cười xòa và bắt tay vào việc. Thủ tục giấy tờ xong, ông Giám Đốc hướng dẫn tôi xuống tầng hầm của Ngân Hàng Quốc Gia. Ôi chao! Mặt bằng của tầng hầm này có lẽ rộng hơn mặt bằng của tầng trệt thì phải, và tôi nghĩ là nó nằm ngay dưới mặt đường "Bến Chương Dương" nữa đó. Đi một vòng rộng lớn, xem các bà các cô đếm bạc. Nhân viên đếm bạc toàn mặc áo blouse trắng không túi. Đến chỗ cân trọng lượng:

    “Số vàng này cân hả ông Giám Đốc?”

    “Cân chớ. Cân cho biết bao nhiêu để ghi vào biên bản thôi Thiếu Tá”.

    “Trời ơi! Hồi tôi nhận từ tay Trung Tướng Minh (Dương Văn Minh) tôi chỉ đếm đủ 10 thoi là mang về trình "sếp" chớ có cân lượng gì đâu”.

    Tôi được giải thích là cái cân này rất nhạy và rất chính xác. Một hột cát bé xíu là cân hoạt động rồi. Lần lượt cân từng thoi một, bù qua sớt lại vừa đủ 10 kí. Xong, đến trước một cái tủ thật lớn, hai nhân viên ngân hàng cùng tra hai chìa khóa vào và cùng mở một lúc. Lại cùng mở thêm cánh cửa bên trong nữa, một cái thúng lớn chứa đầy vàng lá óng ánh, ông Giám Đốc nói:

    “Đây là 42 kí lô vàng lá do Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô bàn giao tháng trước đó Thiếu Tá”.

    Thế là 10 thoi vàng này đổ vào cái thúng đó luôn.

    “Như vậy là xong rồi hả ông Giám Đốc?”

    “Xong rồi Thiếu Tá”.

    Câu chuyện 10 kí lô vàng thoi đến đây là hết. Xin mời trở lại đoạn cuối của cuộc đảo chánh không đổ máu ngày 30/01/1964.

    Đoạn kết.
    Vậy là Trung Tướng Dương Văn Minh, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hành sử chức năng Quốc Trưởng từ 02/11/1963 đến 29/01/1964, đó là thời gian quá ngắn để vị lãnh đạo thể hiện khả năng và bản lãnh của mình, nhưng với câu mà ông nói với những vị Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu vào chiều ngày 02/11/1963, tức ngay sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công:
    “Các “toa” còn cần gì “moi” không để “moi” còn đi đánh tennis?”
    Quả thật là ông thiếu trách nhiệm của người lãnh đạo quốc gia ngay sau cuộc đảo chánh với biết bao vấn đề đặt ra, chỉ riêng phần ổn định nhân sự trong các tổ chức trung ương sau cuộc khủng hoảng chính trị đã là vấn đề quan trọng hàng đầu, vì nhân sự bao giờ cũng chiếm đến 50% trong mọi thành công hay thất bại. Thêm nữa, dân chúng thì hoang mang trong khi cộng sản lợi dụng tình hình xáo trộn trong nội bộ để gia tăng áp lực quân sự tại nhiều nơi. Ấy vậy mà Trung Tướng Minh tỏ ra nhàn nhã, chừng như ông giao khoán công việc quốc gia cho Chánh Phủ Nguyễn Ngọc Thơ và Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, để ông đi đánh tennis thì phải!
    Lẽ dĩ nhiên không nên căn cứ vào mỗi câu nói trên mà đưa ra nhận xét về vị lãnh đạo quốc gia, nhưng trong 3 tháng cầm cờ lãnh đạo trong tay, rõ ràng là Trung Tướng Dương Văn Minh đã không thể hiện bất cứ khả năng hay bản lãnh của vị Tướng lãnh đạo quốc gia. Chẳng những thế, cả Chánh Phủ cũng lúng túng trong chính sách Ấp Chiến Lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để lại.
    Trên cương vị Tướng Lãnh trong quân đội, quân đội đòi hỏi phải có một kiến thức quân sự vững chắc để biết đánh và biết thắng địch, phải có một nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy để quân sĩ tin tưởng, tôn trọng, và nhiệt tình thi hành nhiệm vụ. Nhưng khi vị Tướng trên cương vị lãnh đạo quốc gia, vị Tướng đó cần có thêm bản lãnh và thủ đoạn chính trị để lãnh đạo toàn dân, để đương đầu với kẻ thù đang xâm lăng đất nước, để đương đầu với những thử thách quốc tế, nhất là với các quốc gia Đồng Minh, trong trách nhiệm bảo vệ tổ quốc và phát triển dân giàu nước mạnh.
    Đồng ý rằng, Trung Tướng Dương Văn Minh rất được lòng của nhiều thành phần trong xã hội, nhưng tôi nghĩ, cảm tình này là do bản tính hiền hòa vốn có của ông, chớ không do tài năng bản lãnh của vị lãnh đạo quốc gia. Nhưng chẳng lẽ vị lãnh đạo quốc gia chỉ cần trang bị có ngần ấy thôi sao?
    Vậy, Trung Tướng Dương Văn Minh, theo quí vị, là vị Tướng thích ứng đến mức nào trong vai trò lãnh đạo quốc gia?


  5. #5
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default Biểu Dương Lực Lượng ngày 13 tháng 9 năm 1964


    - ba -

    Biểu Dương Lực Lượng


    ngày 13 tháng 9 năm 1964


    *******


    Sự "mâu thuẫn một chiều" từ phía Trung Tướng Nguyễn Khánh đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, như cái hố ngày càng rộng và sâu thêm, cơ hồ khó mà hàn gắn lại nếu không nói là không thể hàn gắn được. Hai vị không có những cuộc tiếp xúc trực tiếp nhau nữa, trong khi những hình thức chống đối Trung Tướng Khánh từ các tổ chức chính trị không ngưng nghỉ, càng làm cho Trung Tướng Khánh tức tối thêm và mục tiêu chính mà ông cần triệt hạ vẫn là Đại Tướng Khiêm. Rất có thể những sự kiện chính trị nội tình Việt Nam Cộng Hòa xảy ra trong tháng 07 và 08/1964, chưa đủ để ông thẳng tay với Đại Tướng Khiêm, vì dù sao Đại Tướng Khiêm cũng là người chính yếu đưa ông đến tột đỉnh vinh quang hiện nay.
    Và rồi Trung Tướng Nguyễn Khánh có cái cớ mà tôi nghĩ là nguyên nhân của Trung Tướng Khánh, để ông xuống tay với người bạn đồng khóa và rất thân của ông. Và nếu nhìn theo góc cạnh tình cảm, Đại Tướng Khiêm cũng là ân nhân của Trung Tướng Khánh nữa.
    Ngày 13/09/1964, 07 giờ sáng, tôi đưa Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình gồm vợ và hai con của ông, cùng với Đại Úy Nguyễn Trọng Hồng -sĩ quan tùy viên- lên phi cơ đi Đà Lạt, và dự trù trở về Sài Gòn vào buổi chiều cùng ngày. Đại Úy Hồng thay thế Đại Úy Nguyễn Hữu Có đã thuyên chuyển sang Lữ Đoàn Nhẩy Dù, làm sĩ quan tùy viên cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Phi cơ rời phi trường Tân Sơn Nhất, và khi mất hút trong những đám mây lang thang trên không phận Gia Định, tôi lên xe quay về nhà với dự định đưa gia đình dạo phố vì lâu lắm mới có một ngày chủ nhật rảnh rang như hôm nay.
    Nhưng không. Vì khi về đến nhà là nghe tiếng súng ròn rã ở hướng Bộ Tổng Tư Lệnh, và hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Tôi chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Đang mở cửa văn phòng thì gặp ngay Đại Tá Huỳnh Văn Tồn, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (đồn trú ở Mỹ Tho) cũng vừa đến. Với nụ cười cố hữu trước khi vào chuyện, ông hỏi:

    “Đại Tướng đâu rồi anh Hoa?

    “Đại Tướng và gia đình đi Đà Lạt, nhưng khoảng 8 giờ mới đến trên đó. Có chuyện gì vậy Đại Tá?

    “Chúng tôi "Biểu Dương Lực Lượng" để cảnh cáo ông Khánh. Có cách nào anh liên lạc được với Đại Tướng sớm hơn không?

    “Chỉ có cách là nhờ hệ thống Bộ Chỉ Huy Không Chiến của Không Quân thì may ra, nhưng tôi nghĩ là mình không nên để bên đó biết cuộc nói chuyện như vậy, thưa Đại Tá. Với lại khoảng 20 phút nữa thì mình liên lạc được thôi mà”.

    Ngay lúc đó điện thoại reo:

    “Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.

    “Trung Tướng Khánh đây. Đại Tướng Khiêm đâu rồi?

    “Thưa Trung Tướng, Đại Tướng Khiêm đang trên không trình Sài Gòn-Đà Lạt. Trung Tướng có cần liên lạc ngay bây giờ không, thưa Trung Tướng?

    “Khi đến nơi, anh nói Đại Tướng Khiêm điện thoại ngay cho tôi”.

    “Vâng. Nhưng điện thoại Trung Tướng ở tư dinh hay ở Phủ Thủ Tướng, thưa Trung Tướng?

    “Phủ Thủ Tướng”.

    Tôi liền gọi lên Đà Lạt, dặn trên đó trình với Đại Tướng Khiêm liên lạc ngay với Trung Tướng Khánh khi đến nơi. Vừa gác ống nói vừa xoay qua Đại Tá Tồn:

    “Trung Tướng Khánh cần nói chuyện với Đại Tướng đó Đại Tá”.

    “Ổng ở đâu vậy?
    “Dạ ở Phủ Thủ Tướng. Vị lãnh đạo hôm nay là ai vậy Đại Tá?
    “Trung Tướng Đức với tôi”.

    Trung Tướng Dương Văn Đức là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Bộ Tư Lệnh đồn trú tại Cần Thơ.



    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm bị quản thúc.

    Vài phút sau, điện thoại reo:

    “Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.
    “Hồng đây anh. Anh gọi Đại Tướng có việc gì vậy?

    “Sài Gòn đang có biến động do Trung Tướng Đức với Đại Tá Tồn lãnh đạo. Trung Tướng Khánh dặn Đại Tướng khi đến Đà Lạt là gọi về ổng ở Phủ Thủ Tướng đó. Anh trình Đại Tướng ngay đi. Có tin gì thì cho tôi biết với nghe”.
    Mấy phút sau đó, Đại Úy Hồng gọi tôi:

    “Trung Tướng Khánh bảo Đại Tướng ở lại Đà Lạt cho đến khi nào ổng cho về mới được về. Đại Tướng bảo anh đến nhà lấy một ít áo quần và đồ dùng cần thiết, cho phi cơ mang lên Đà Lạt ngay hôm nay. Nhờ anh ghé nhà tôi lấy túi áo quần gởi lên giùm tôi luôn. Vợ tôi đang chuẩn bị đó. (Trong những năm 1970-1975, Đại Tướng Khiêm giữ chức Thủ Tướng, Đại Tá Hồng là chánh văn phòng. Hiện anh định cư tại Houston).

    “Chiếc (phi cơ) C47 còn trên đó không?

    “Sau khi nói chuyện với Trung Tướng Khánh, Đại Tướng cho phi hành đoàn lái về Sài Gòn rồi”.

    “Vậy tôi sẽ yêu cầu chiếc đó trở lên Đà Lạt ngay chiều hoặc tối nay. Nhớ, có tin gì thêm thì gọi tôi ngay nhé. Ngược lại, tôi cũng gọi anh khi có tin tức mới nhất”.

    Cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" của Trung Tướng Dương Văn Đức đến buổi trưa là xẹp xuống sau mấy tiếng đồng hồ ồn ào, tự lui quân về Mỹ Tho và Cần Thơ. Tình hình thủ đô cũng như những vùng lân cận trở lại yên tỉnh. Nhưng đó chỉ là bề mặt thôi.
    Và đây là lời của Đại Tá Tạ Thành Long, thuật tóm tắt cho chúng tôi nghe khi cùng bị giam tại trại tập trung tù chính trị ở Nam Hà (miền bắc) năm 1981, về cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" nói trên. Lúc bấy giờ anh Long là Trung Tá Tham Mưu Phó hành quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV tại Cần Thơ:

    "Giữa đêm 12 rạng 13/09/1964, Trung Tướng Đức ra lệnh tổ chức bộ chỉ huy hành quân và cấp tốc di chuyển sang Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho, và chuyển quân lên Sài Gòn vào sáng sớm. Làm việc suốt đêm và di chuyển trên chặng đường Cần Thơ-Mỹ Tho trong đêm tối mà không được bảo vệ an ninh lộ trình, một cuộc vận chuyển rất nguy hiểm trong tình hình lúc bấy giờ, nhưng cũng may là đến nơi bình yên. Sau khi phối hợp với Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tất cả cùng chuyển quân lên Sài Gòn".
    "Theo kế hoạch, các đơn vị phải dừng lại ở Bình Chánh (một quận của tỉnh Gia Định ven ngoại ô thủ đô), chỉ có Trung Tướng Đức và các sĩ quan cần thiết mới được vào Sài Gòn. Nhưng Trung Tướng Đức cho lực lượng tiến đến Phú Lâm, ngưỡng cửa phía tây của thủ đô. Trung Tướng Đức giao cho tôi (tức Trung Tá Long) đến tòa đại sứ Hoa Kỳ liên lạc với bộ phận tình báo ở đó xem tình hình sắp tới ra sao. Đến nơi, chờ một lúc mới tiếp xúc được với nhân viên tình báo. Ông ta lên tiếng:
    “Các ông đã không thực hiện đúng lời hứa. Tại sao các ông đưa lực lượng vào Sài Gòn? Hành động của các ông gây khó khăn cho chúng tôi và cho cả các ông nữa. Ông chờ tôi liên lạc về Hoa Kỳ nhận lệnh”.
    “Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau đó: Hoa Thịnh Đốn quyết định các ông phải rút quân về vị trí ngay, nếu không, các ông hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc biến động hôm nay.
    "Tôi quay về Bộ Tổng Tư Lệnh trình cho Trung Tướng Đức về kết quả cuộc tiếp xúc đó thì ông cho lệnh rút quân. Và chuyện kể chỉ có thế".


    Cuộc Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964, chỉ diễn ra trong khoảng mười tiếng đồng hồ thì lặng lẽ rút lui. Ngay sau đó, Trung Tướng Đức bị bắt tại Cần Thơ đưa lên phi cơ về Sài Gòn, ông đã nóng giận to tiếng khoa tay múa chân tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội "dìu" lên xe đưa về cơ quan an ninh.
    Chắc là Hoa Kỳ khó chịu về cái hơi hám "độc tài" của Trung Tướng Khánh nhưng chưa đến mức đảo chánh lật đổ, nên "nhờ" Trung Tướng Đức ra oai cảnh cáo dưới tên gọi "Biểu Dương Lực Lượng", và lực lượng cảnh cáo hăng quá nên đưa quân áp sát thủ đô suýt nữa là chiếm luôn các cơ sở trọng yếu như các cuộc đảo chánh trước đây đã làm. Thế là bộ phận tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ giáng cho một lệnh xuất phát từ Hoa Thịnh Đốn, và lực lượng biểu dương vội vàng rút lui có phần mất trật tự một chút. Rõ ràng là Mỹ chưa bật đèn xanh hoặc đèn xanh giới hạn thì cái ghế Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực không phải dễ.

    Đại Tướng Khiêm bị cách một chức.

    Xin mời trở lại với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Sau một tuần bị quản thúc trong một dinh thự tại Đà Lạt, ông và gia đình được Trung Tướng Khánh cho về Sài Gòn. Những ngày tiếp theo, Đại Tướng Khiêm rất buồn và không vào văn phòng làm việc. Buổi sáng và chiều, tôi mang hồ sơ về nhà trình ông giải quyết.
    Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Tướng Khiêm bàn giao chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng cho ông, và tôi thì bàn giao hồ sơ của văn phòng Bộ Quốc Phòng cho Trung Tá Nguyễn Khắc Bình (về sau, Trung Tá Bình là Chuẩn Tướng, Đặc Uỷ Trưởng Trung Ương Tình Báo, và Tư Lệnh Cảnh Sát). Trong hồ sơ này có cả hồ sơ 10 kí lô vàng thoi mà tôi nói ở phần cuối của cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964.
    Như vậy, Trung Tướng Khánh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Thủ Tướng, nay kiêm thêm chức Tổng Trưởng Quốc Phòng. Một mình ông nắm giữ các chức vụ tối quan trọng giống như trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm trước ngày bị lật đổ và bị giết chết vậy.
    Vào ngày cuối tháng 09/1964, Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:

    “Anh trình với Đại Tướng Khiêm, 12 giờ trưa nay tôi đến ăn cơm tại nhà Đại Tướng Khiêm”.

    “Xin Trung Tướng vui lòng điện thoại với Đại Tướng Khiêm đang có mặt tại nhà, thưa Trung Tướng”.

    “Không. Anh về trình đi”. Ra lệnh xong là ông gác ống nói.

    Thật khó nghĩ cho tôi, vì hai gia đình đang hờn giận nhau nếu không nói là Trung Tướng Khánh đang "ghìm" Đại Tướng Khiêm, và trường hợp này chẳng khác nào Trung Tướng Khánh lôi tôi vào thế trận giống như tôi đang trở thành thành viên trong nhóm sĩ quan dưới quyền ông vậy.
    Tôi đến tư dinh Đại Tướng Khiêm, trình xong, Đại Tướng Khiêm im lặng trong khi bà Khiêm tức giận:

    “Tại sao ổng không điện thoại đến đây mà lại nói chuyện với chú?

    “Bà phải hỏi ông Khánh sao lại hỏi chú Hoa? Thôi, bà lo cơm cho kịp”.

    Đại Tướng Khiêm đỡ lời cho tôi. Nếu Đại Tướng Khiêm không đỡ lời thì tôi chỉ biết trả lời là "Tôi cũng không biết tại sao nữa".

    Phần tôi, mỗi khi có khách đến nhà Đại Tướng Khiêm dùng cơm, tôi lo sắp xếp bàn ăn, tổ chức an ninh, và những gì cần thiết liên quan đến bữa ăn đó. Hôm nay cũng vậy, cộng thêm sự thận trọng cần thiết. Sau khi chỉ định công việc và cách thức xếp bàn ăn cho mấy anh làm việc tại nhà Đại Tướng Khiêm, tôi về văn phòng.

    Mưu sát Trung Tướng Khánh.

    Khoảng nửa giờ trước giờ ăn, tôi trở lại tư dinh Đại Tướng Khiêm. Như thường lệ, kiểm soát công tác chuẩn bị trong phòng ăn, tôi sang bên cạnh kiểm soát các nhân viên an ninh để biết chắc là công tác đang diễn tiến như dự định. Chợt thấy Trung Tá Luông đi tới đi lui mấy lần, điều mà chưa bao giờ xảy ra vì không liên quan gì đến chức vụ Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tư Lệnh của ông cả.
    Trung Tá Nguyễn Văn Luông, năm 1958 là Thiếu Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 35 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 12 Khinh Chiến, đồn trú tại Kon Tum. Lúc ấy tôi là Trung Úy, Trưởng ban 3 kiêm Ban 5 bộ chỉ huy Trung Đoàn này. Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, ông là Thiếu Tá Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu (lúc chưa cải danh Bộ Tổng Tư Lệnh), ngay sau đó thăng cấp Trung Tá và giữ chức Chỉ Huy Trưởng thay thế Trung Tá Lê Soạn về hưu.
    Tôi đến cạnh ông:

    “Ô! Trung Tá. Trung Tá có gì cần gặp Đại Tướng hả?

    “Không. Không có gì”.

    “Không có gì sao Trung Tá đi qua đi lại với vẻ suy tư vậy?

    Trung Tá Luông kề tai tôi với giọng ngập ngừng:

    “Hôm nay tụi tôi ám sát ông Khánh”.

    Tôi rất kinh ngạc về câu nói của ông: “Bằng cách nào?

    Ngưng một lúc, ông tiếp:

    “Vào bàn ăn độ 5 phút, ông Anh từ trên lầu gọi điện thoại xuống đây (vừa nói ông vừa chỉ điện thoại trên bàn cạnh cửa, sát phòng ăn), lúc đó tôi sang mời ông Khánh qua nghe điện thoại và nói là của Phủ Thủ Tướng gọi. Khi ông ta vừa qua khỏi khung cửa thì anh Yểm câu cổ và đâm chết”.

    “Đại Tướng có biết việc này không Trung Tá?

    “Không”.

    “Vậy là không được. Tôi muốn Trung Tá hủy bỏ dự định này, nếu không, tôi sẽ trình Đại Tướng ngay. Tôi chắc rằng, Đại Tướng không bao giờ đồng ý về một hành động như vậy đâu. Xin Trung Tá hãy hình dung việc gì xảy ra tiếp đó, vì cả tháng nay mỗi khi Trung Tướng Khánh đến đây là y như rằng, tiểu đội cận vệ của Trung Tướng Khánh với vũ khí cầm tay gần như bao quanh nhà này. Chỉ cần tiếng động lạ nào đó trong phòng ăn, là tiểu đội đó nhào vô tức thì, và liệu sự kiện xảy ra có phải là những xác chết -kể cả chúng mình- nằm la liệt ở đây không? Lịch sử sẽ lưu lại những gì cho mai sau, nếu không phải là "tiếng xấu muôn đời" chỉ vì tranh giành quyền lợi mà giết chết lẫn nhau! Hủy bỏ đi Trung Tá”

    Trầm ngâm một lúc: “Anh chờ tôi một chút”.
    Trung Tá Luông lên lầu và khoảng 5 phút sau, ông lại kề tai tôi với giọng tự nhiên: “Được rồi. Ông Anh đồng ý hủy bỏ việc đó”.
    Tư dinh Đại Tướng Khiêm gồm 3 căn nhà số 1, số 2, và số 3 có cửa thông nhau, trong dãy số 4 (của nhiều dãy) trong cư xá trại Trần Hưng Đạo, tức khuôn viên Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhà 2 tầng, vách gạch, lầu đúc bê tông, kiến trúc mang dáng vấp Châu Âu, vì do quân đội Pháp xây dựng dùng làm bản doanh bộ tư lệnh quân viễn chinh của họ. Phòng ăn ở căn số 1, ngay cạnh phòng ăn có cửa thông qua căn số 2, nơi có cái bàn dành cho sĩ quan tùy viên trực tại nhà. Trên bàn có máy điện thoại và những vật dụng cần thiết của một văn phòng thu hẹp. Tầng trệt căn này không có người ở. Căn số 3 là gia đình của vợ chồng người em gái của bà Khiêm ở. Em rể của bà là luật sư Bùi Văn Anh, chính là người mà Trung Tá Luông nhận chỉ thị sau khi tôi phản đối vụ mưu sát nói trên. Tôi không trực tiếp nghe luật sư Anh nói về vụ này, mà những gì tôi ghi lại ở đây là do Trung Tá Luông nói với tôi. (Đầu năm 1975, Trung Tá Luông là Đại Tá, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Khu 3 tại Biên Hòa, và anh Lưu Yểm là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Biên Hòa)
    Trước 12 giờ một chút, Trung Tướng Khánh đến cùng với 2 xe Jeep chở đầy nhân viên cận vệ với vũ khí trong tay. Vẫn như hành động trong thời gian gần đây, toán cận vệ có mặt quanh nhà nhưng không anh nào ngồi hay đứng yên một chổ mà luân chuyển nhau từ vị trí này đến vị trí khác, miễn sao các anh ấy trông thấy được bàn ăn bên trong.
    Vì là bữa ăn rất căng thẳng nên tôi không ra vào như lệ thường. Khoảng 10 phút đầu tiên, không khí trong phòng ăn thật yên lặng nếu có đôi mắt bàng quan nào đó nhìn vào. Nhưng, sau đó, lời qua tiếng lại tuy không đến nỗi ồn ào nhưng rõ ràng là bữa ăn đầy sóng gió. Lời lẽ gay gắt qua lại giữa bà Khiêm với Trung Tướng Khánh, cho tôi nhận xét "không cân sức" về phía bà Khiêm trong khi Đại Tướng Khiêm đăm chiêu suy nghĩ hơn là tranh cãi, vì Trung Tướng Khánh đang có trong tay tất cả quyền lực quốc gia, đâu dễ dàng bị thuyết phục cho dù ông bà Khiêm là bạn thân với gia đình ông. Chữ "bạn thân" chẳng qua là thuở chưa có quyền lực đấy thôi, chớ bây giờ thì khác. Khác xa lắm rồi!

    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong

    Khi Trung Tướng Khánh rời phòng ăn với thái độ gần như bình thường, cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Đó là cái lạnh lùng của người có quyền lực đối với "kẻ thù"! Mà liệu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm có phải là kẻ thù của Trung Tướng Nguyễn Khánh hay không? Chính trị, biết đâu mà lường phải không quí vị? Tôi vào phòng ăn:

    “Thưa Đại Tướng, điều gì xảy ra mà Trung Tướng Khánh to tiếng vậy Đại Tướng?

    “Ông Khánh "muốn" (hàm chứa ý nghĩa một mệnh lệnh) tôi phải ra ngoại quốc, nếu không thì tánh mạng tôi khó an toàn”.

    “Đại Tướng nghĩ sao?

    “Tôi quyết định đi. Chú lo thủ tục cho tôi và gia đình tôi càng sớm càng tốt. Chú với chú Châu, nếu được thì cùng đi với gia đình tôi”.

    “Tôi sẽ theo Đại Tướng. Còn anh Châu thì tôi sẽ hỏi ý kiến anh ấy và trình Đại Tướng sau, thưa Đại Tướng”.

    "Chú Châu" mà Đại Tướng Khiêm nói ở đây là Đại Úy Đặng Văn Châu. Năm 1963, anh là chánh văn phòng tỉnh Vĩnh Long, lúc ấy Trung Tá Lê Văn Phước là Tỉnh Trưởng. Sau cuộc đảo chánh 01/11/1963, Trung Tá Phước bị cách chức và anh Châu cũng mất chức luôn. Sau cuộc đảo chánh 30/01/1964, Đại Tướng Khiêm bảo tôi liên lạc phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tư Lệnh thuyên chuyển anh Châu về văn phòng chúng tôi để thông dịch Anh ngữ cho Đại Tướng Khiêm khi có phóng viên báo chí ngoại quốc phỏng vấn. Đại Tướng Khiêm nói tiếng Anh rất khá, nhưng với báo chí quốc tế nên có thông dịch để có thì giờ suy nghĩ cho câu trả lời.
    Khi hỏi ý kiến, anh Châu đồng ý đi. Vậy là số người "lưu vong" có Đại Tướng Khiêm, vợ và hai con ông, tôi, và Đại Úy Châu. Anh Châu sang Bộ Quốc Phòng xin "sự vụ lệnh", đến Sở Hành Chánh Tài Chánh số 6 lãnh phụ cấp xuất ngoại vì "sự vụ lệnh" ghi "thay mặt chánh phủ sang Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức, cám ơn hai quốc gia này đã giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản". Lại đến Bộ Ngoại Giao xin “thông hành ngoại giao" và chiếu khán ở tòa đại sứ Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức. Xong, xuống Tổng Nha Hối Đoái và Ngân Hàng để đổi ngoại tệ. Phần phụ cấp bằng tiền Việt Nam đổi được 10 ngàn mỹ kim, và phần tiền Việt Nam mà tôi giữ trong tủ sắt của văn phòng đổi được 10 ngàn mỹ kim nữa. Đó là số tiền dự trữ trong tủ sắt để Đại Tướng cấp phát cho các đơn vị tình báo sử dụng. Trong cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/9/1964, tôi mang về nhà và Đại Tướng Khiêm bảo tôi cứ giữ đó. Nay, tôi đưa Đại Úy Châu đi đổi luôn. Đúng lúc mọi thủ tục sẳn sàng thì Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:

    “Anh không được đi mà chỉ một mình Đại Úy Châu theo Đại Tướng Khiêm”.

    Ra lệnh xong là ông gác ống nói ngay. Tôi điện thoại lại thì Thiếu Tá Thịnh, bí thư, anh Thịnh cho biết Thủ Tướng không tiếp chuyện. Thế là tôi không trình bày được gì cả.

    Tôi đến trình Đại Tướng Khiêm, Đại Tướng không nói gì nhưng rõ ràng là bà Khiêm không hài lòng. Tôi nhận ra rằng, bà Khiêm không hài lòng không phải vì tôi không được đi, mà không hài lòng chỉ vì bà ngờ tôi "chưa chi đã trở mặt" đây. Tôi áp dụng câu của Đại Tướng Khiêm có lần nói với tôi rằng: "Sự trong sáng không cần phải đính chánh mà thời gian sẽ chứng minh cho mình, tuy có chậm nhưng rất hiệu quả". Tôi trở về văn phòng.

    Hôm sau tôi đến Phủ Thủ Tướng xin gặp Thủ Tướng Khánh, và ông tiếp: “Anh có chuyện gì?
    “Thưa Thủ Tướng, tôi không được đi theo Đại Tướng Khiêm trong chuyến đi chưa biết ngày nào trở về. Vậy, tôi xin Thủ Tướng vui lòng cho tôi một số tiền đủ đổi 10 ngàn mỹ kim và một giấy phép để đổi số tiền đó. Số tiền này tôi sẽ trao Đại Tướng Khiêm như là món quà nhỏ để Đại Tướng và gia đình có thêm khoản tiền chi tiêu ở ngoại quốc trong thời gian đầu. Xin thưa với Thủ Tướng rằng, tôi đến đây là tự tôi chớ Đại Tướng Khiêm không hay biết gì về hành động này, thưa Thủ Tướng”.

    Không cần suy nghĩ, ông trả lời ngay:

    “Được. Tôi cho anh”.

    “Xin cám ơn Thủ Tướng”.

    Chính tôi đi đổi tiền, và tôi thuật lại Đại Tướng Khiêm nghe khi tôi trao tiền cho ông. Ông rất cảm động:

    “Tôi cám ơn chú”.

    Chiều ngày 06/10/1964, Đại Tướng Khiêm gọi tôi đến tư dinh của ông. Vào phòng khách, ông mời tôi ngồi, điều mà chưa bao giờ xảy ra mỗi khi tôi đến nhận lệnh ngoại trừ hai lần ra lệnh về đảo chánh. Tự ông, đem bánh ngọt với nước trà ra mời tôi. Tôi hiểu rằng, "sếp" của tôi sắp tâm sự chia tay đây rồi vì ngày mai ông và gia đình rời Việt Nam lưu vong. Năm năm làm việc trực tiếp dưới quyền ông trong trách nhiệm một sĩ quan tham mưu đặc biệt, trong một chừng mực nào đó, tôi hiểu được những cử chỉ cùng những thái độ của ông thể hiện điều ông muốn hoặc ông sắp làm. Xong miếng bánh với hớp trà, ông vào chuyện:

    “Tôi cám ơn chú, trong mấy năm qua chú đã làm việc với tất cả nhiệt tình và trung thực. Giờ đây, trước khi rời Việt Nam lưu vong không biết ngày về, tôi muốn nói với chú rằng, nếu chú và những chú khác, còn nhớ đến tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì làm chính trị ít khi người ta dành lại tình cảm cho bạn bè và đôi khi cũng không còn tình cảm cho thân nhân của họ nữa”.

    Tay phải ông gỡ kiến cận xuống và tay trái ông cầm miếng nỉ lau, đó là thói quen mỗi khi ông suy nghĩ. Mang kiến vào, ông lại mời tôi:

    “Chú ăn bánh uống trà đi”.

    “Vâng. Xin mời Đại Tướng”.

    Thái độ của ông làm tôi lúng túng. Tôi nghĩ, không phải ông ngưng lại để mời tôi ăn bánh uống trà, mà là chính ông đang nén lại nỗi xúc động của ông khi ông đang sống trong góc cạnh tình cảm. Đại Tướng Khiêm là mẫu người giàu tình cảm, rất có tình có nghĩa với những quân nhân mà trước kia cùng đơn vị với ông cho dù người đó hiện là sĩ quan hay hạ sĩ quan cũng vậy. Tôi đã nhiều lần chứng kiến hình ảnh lúc ông niềm nở bắt tay những anh hạ sĩ quan cùng phục vụ tại Tiểu Đoàn 3 Việt Nam hằng chục năm trước đó.

    Đại Tướng Khiêm tiếp lời:

    “Trung Tướng Khánh đã xử sự với tôi như chú thấy đó, thật là không còn chút tình nghĩa gì hết”.

    “Có vài vị Tướng Lãnh nêu thắc mắc với tôi rằng: "Tại sao Đại Tướng lại im lìm để Trung Tướng Khánh dùng cả thủ đoạn không tốt với Đại Tướng". Riêng tôi, tôi thấy Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng chính trị, chính với Đại Tướng là người đã góp phần quan trọng đưa Trung Tướng Khánh lên đến tột đỉnh địa vị ngày nay, nhưng Trung Tướng Khánh cứ quả quyết Đại Tướng là người đang tìm cách đẩy ổng ra khỏi những chiếc ghế mà ổng đang ngồi, thưa Đại Tướng”.

    “Tôi biết chớ chú. Nhưng tranh giành làm gì!

    Trong phòng trở nên yên lặng. Một lúc sau:

    “Các sĩ quan do tôi đào tạo là người có khả năng và là người tốt nữa. Chắc chắn chú sẽ được các vị khác sử dụng, và tôi tin là không có gì khó khăn cho chú đâu. Thôi, ngày mai tôi đi, chú ở lại mạnh giỏi. Cho tôi gởi lời thăm thiếm”.

    “Thưa Đại Tướng, tôi chân thành cám ơn Đại Tướng đã dìu dắt tôi trong 5 năm qua. Tôi kính chúc Đại Tướng và gia đình được mạnh khỏe và luôn gặp điều may trên đường lưu vong. Kính chào Đại Tướng”.

    Tôi đứng thẳng người và chào ông một cách trân trọng như khi tôi chào ông để nhận chức chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh năm 1961 vậy. Đại Tướng Khiêm siết chặt tay tôi thật lâu, và cả hai đều bùi ngùi trong cuộc chia tay này!
    Ngày 07/10/1964, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình rời Việt Nam Cộng Hòa trên chuyến bay của Air France đi Paris để "lưu vong" dưới danh nghĩa thật là vinh dự (!): "Thay mặt chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sang Anh quốc và Đức quốc, cám ơn hai quốc gia đồng minh đã và đang giúp Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản".
    Ngay chiều hôm đó, tôi và gia đình dọn ra khỏi cư xá trong khuôn viên bộ Tổng Tư Lệnh, và sẳn sàng nhận lệnh thuyên chuyển đến đơn vị hay cơ quan nào đó, vì có bao giờ một chánh văn phòng của ông Tướng thất sũng lại tiếp tục phục vụ tại đơn vị cũ đâu, nhất là đơn vị cũ lại là văn phòng Tổng Tư Lệnh.

    Trung Tướng Nguyễn Khánh thêm chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực.

    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm ra đi không bàn giao chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm sau, Trung Tướng Nguyễn Khánh vào nhận thêm chức đó. Có nghĩa là Trung Tướng Khánh nắm giữ cả 4 chức vụ cao nhất nước: Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Quốc Trưởng bao gồm Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Tư Lệnh Quân Lực.
    Ngay hôm đầu tiên Trung Tướng Khánh nhận chức, tôi viết "Phiếu Trình" trình vào Trung Tướng Khánh, xin chỉ định đơn vị tôi trình diện. Ông phê 3 chữ: "Ở tại chỗ". Thế là tôi vẫn ngồi lại văn phòng này nhưng chưa rõ chức vụ. Xin nói thêm, “Phiếu Trình” là một loại văn kiện trong hồ sơ tham mưu, sử dụng khi cần trình một vấn đề gì để xin chỉ thị của cấp trên.
    Cũng ngày hôm ấy, tôi thấy thêm một thủ đoạn của Trung Tướng Khánh. Đó là hai ngày trước khi Đại Tướng Khiêm lưu vong, văn phòng tôi có nhận được một "Nghị Định" thiết lập "quỹ mật" cho ông Tổng Tư Lệnh với số tiền đầu tiên là 20 triệu đồng (Việt Nam). Phía dưới Nghị Định có ghi chú "chờ lệnh". Giới chức thiết lập quỹ là Trung Tướng Khánh nhân danh Thủ Tướng cấp cho Tổng Tư Lệnh, và bây giờ chức Tổng Tư Lệnh cũng trong tay Trung Tướng Khánh. Vậy là, giới chức cấp quỹ với giới chức sử dụng quỹ, đều là ông. Lúc ấy, hối suất chánh thức là 35 đồng Việt Nam bằng 1 mỹ kim.
    Xin giải thích đôi nét về "quỹ mật" này. Nguyên tắc của quỹ mật là chi tiêu không cần chứng minh, nhưng giới chức sử dụng phải chịu trách nhiệm trực tiếp với giới chức cấp quỹ khi giới chức cấp quỹ yêu cầu chứng minh, nhưng thực tế thì trong những năm qua tôi chưa thấy yêu cầu này xảy ra lần nào. Xem chừng lấy tiền trong ngân khố của chánh phủ quá dễ chăng?
    Nhưng còn ghê gớm hơn nữa kìa. Theo lời bà Khiêm nói với tôi rằng, khi mà gia đình Đại Tướng Khiêm với gia đình Trung Tướng Khánh không còn coi nhau là bạn bè thân thiết như trước nữa, bà biết bà Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu đồng Việt Nam Cộng Hòa để bán lấy đồng mỹ kim. Ai mua tiền Việt Nam đó nếu không phải là quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để mang trở về mua hàng trên thị trường Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế cho quân của chúng đánh lại quân ta? Sự thật đến mức nào tôi không rõ, nhưng những thông tin này là từ bà Khiêm đến tôi và tôi ghi lại đây là chính xác.
    Xin mở ngoặc để nối tiếp phần trên. Trong tạp chí Thế Kỷ 21, số 147 tháng 07 năm 2001 phát hành tại Nam California, có loạt bài "Công Cuộc Nghiên Cứu Việt Sử Tại Bắc Mỹ" (1975-2000), và bài số 10 với tựa: "Nhóm Viết Hồi Ký" của tác giả Trần Anh Tuấn, nói về "Sĩ quan cấp Tá viết hồi ký". Dưới đây là vài đoạn trích từ trong bài này.
    "Cấp Tá viết hồi ký khoảng 18 người, theo thứ tự tên gọi là: Trương Dưỡng, Trần Kim Định, Vương Văn Đông, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Đỗ Kiểm, Trần Khắc Kính, Hoàng Ngọc Liên, Vũ Văn Lộc, Phan Nhật Nam, Trần Ngọc Nhuận, Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Trịnh Tiếu, Võ Đại Tôn, Trần Đình Trụ, Tạ Tỵ, và Ngô Văn Xuân".
    "Nói một cách tổng quát, khi chúng ta rời bỏ thế giới hồi ký của cấp Tướng để đọc hồi ký của cấp Tá là chúng ta sang một thế giới khác. Một thế giới của văn nhân. Một đàng là quyền lực quốc gia, và một đàng là văn chương nhân bản".
    " ... Về hình thức, nhiều hồi ký cấp Tá với những áng văn chương trong sáng, chữ dùng nhiều khi đắc địa, có thể trích làm bài giảng văn mẫu trong các trung tâm Việt ngữ tại hải ngoại. Điển hình của hồi ký loại này là tác phẩm của Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Vũ Văn Lộc, ......."
    Sau khi tác giả điểm qua hồi ký của hai nhà văn Phan Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp, đến quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ của tôi (Phạm Bá Hoa), tác giả Trần Anh Tuấn viết:
    " ..... Hồi ký của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa có nội dung khác hẳn những hồi ký vừa kể". ".......... Đây là một hồi ký chính trị, ghi lại những biến cố trên chính trường Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 cho đến ngày 30/4/1975. Giai đoạn lịch sử này tương ứng với thời gian tác giả đóng vai trò tuy không có hào quang của một nhân vật trên mặt nổi, nhưng lại là người sắp xếp và do đó thấu hiểu những uẩn khúc của hậu trường, cùng diễn trình của nhiều biến cố có tầm mức lịch sử ngay từ lúc khởi thủy. Việc ghi nhận này rất thẳng thắn và thành thật. Ngòi bút Phạm Bá Hoa can đảm, trung thực, bất vị thân... "
    "Đặc biệt, Đôi Dòng Ghi Nhớ" ghi nhận sự kiện kinh khủng trong chiến tranh Việt Nam. Đó là việc, lấy nguồn tin từ bà Trần Thiện Khiêm, tác giả cho biết bà Nguyễn Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu, tổng cộng một tỷ bạc Việt Nam Cộng Hòa để đổi lấy đô la. Sau tiết lộ kinh khủng đó, tác giả Phạm Bá Hoa đặt một câu hỏi chắc như đinh đóng cột, rằng, "Ai mua tiền Việt Nam trên đất Hong Kong nếu không phải là Cộng Sản Việt Nam?". Câu nghi vấn đó của tác giả Phạm Bá Hoa, nay đã được phía bên kia kiểm chứng là xác thực. Nếu muốn, xin độc giả tìm đọc "Đồng Đô La Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước" dựa theo hồi ký của Thăng Long Huỳnh Bá Việt và những người làm công tác tài chánh đặc biệt trong chiến tranh với sự cộng tác của các nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Hiền Phương, Thanh Giang, và Hoàng Xuân Huy, để biết Ban Kinh Tài Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (của cộng sản) đã mua tiền Việt Nam Cộng Hòa từ đâu để đem về chi phí cho chiến trường miền Nam..... "
    Sau đoạn nhận xét rất tinh tế của tác giả về cách dùng chữ của người miền Nam trong khi có vài chữ tôi dùng chữ của người miền Bắc để giảm nhẹ ý nghĩa sự tức giận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đối với Trung Tướng Dương Văn Minh, tác giả Trần Anh Tuấn kết luận:
    "Điều tác giả Phạm Bá Hoa có thể yên tâm là, ít nhất có một độc giả tin ông, tin ở tấm lòng trung cang nghĩa khí của ông. Đôi Dòng Ghi Nhớ, vì thế, là một trong rất ít hồi ký chính trị hoàn tất sau biến cố 30/4/1975 có cơ tồn tại với thời gian. Ông là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có tư cách".
    Xin đóng ngoặc, và trở lại văn phòng Tổng Tư Lệnh.
    Trung Tướng Khánh cho giải tán văn phòng Tổng Tư Lệnh, và tổ chức thành "Nha Đổng Lý Văn Phòng Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, được Trung Tướng Khánh cử giữ chức Đổng Lý Văn Phòng. Lớn ơi là lớn, nhưng kỳ ơi là kỳ! Dưới quyền Thiếu Tướng Vỹ có: (1) Thiếu Tá Thịnh, bí thư. (2) Tôi, Trưởng Phòng Quân Sự Vụ, với toàn bộ nhân viên và trách nhiệm của văn phòng Tổng Tư Lệnh trước đây, ngoại trừ những vấn đề riêng tư của ông Tổng Tư Lệnh. (3) Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng Dân Sự Vụ. (4) Thiếu Tá Tâm (tôi không nhớ họ), Trưởng Phòng Báo Chí.
    Công tác kế tiếp là Trung Tướng Khánh giao cho Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Công Binh, đúc bê tông tầng trên phòng họp số 1 trong tòa nhà chánh (nơi tạm giữ những vị bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xem là trung thành với Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh 01/11/1963) để làm văn phòng mới của Tổng Tư Lệnh. Đồng thời xây cái hầm ngầm ngay phía dưới phòng họp số 1 để làm hầm trú ẩn với tiện nghi cần thiết cho bộ chỉ huy hành quân khoảng 30 người. Từ bàn viết của ông Tổng Tư Lệnh nhìn đến cuối phòng trước mặt, sát góc bên trái có cầu thang xoáy ốc xuống hầm. Nếu không phải nhân viên phục vụ nơi đây, phải để ý lắm mới trông thấy được cái quan trọng của cầu thang xoáy ốc này. Hầm làm xong từ mặt đất lên đến nóc là 2.2 thước, chung quanh và cả nóc hầm được tấn bằng những tấm kim khí thật dày, lớp đất trên nóc hầm dày đến 1.5 thước. Ngay trên hầm là một đoạn của con đường vòng đai bên trong hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa Bộ Tổng Tư Lệnh với một góc của phi trường Tân Sơn Nhất. Trong lúc đơn vị Công Binh đang đổ đất lấp nóc hầm thì Trung Tướng Khánh nói với Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, lúc ấy tôi đứng cạnh chờ trình công văn gấp của Phòng 3:
    “Làm xong hầm này tôi chấp tất cả phi cơ của "thằng" Kỳ đó”. Thằng Kỳ mà Trung Tướng Khánh nói là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ , Tư Lệnh Không Quâ n.
    Nói xong ông cười khoái chí, chừng như ông không còn lo ngại Thiếu Tướng Kỳ đảo chánh ông bằng Không Quân vậy. Tôi không hiểu câu nói của ông là thật hay đùa, nhưng cho dù là đùa hay thật thì tự ông nói lên nỗi lo của ông về sự chống đối của những đồng đội quanh ông. Nhưng tại sao Trung Tướng Khánh lại sợ như vậy? Mẫu người nhiều tham vọng với một bụng thủ đoạn như ông, phải tự hiểu tại sao ông bị cô lập giữa đồng đội và lúc nào cũng sợ đồng đội của ông. Qua những hành động của ông từ trong cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964 đến bấy giờ, theo tôi, ông là vị Tướng có vẻ như mang tham vọng vượt lên trên tất cả mọi người để trở thành vị lãnh đạo bậc nhất của Việt Nam Cộng Hòa trong nét nhìn thán phục của các quốc gia lân bang trong vùng, và cả Hoa Kỳ nữa. Cái tham vọng của Trung Tướng Khánh dễ dàng nhận thấy qua 4 chức vụ cao nhất nước đang trong tay ông: "Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực". Với 4 chức vụ đó, làm sao biện minh là ông không có tham vọng? Làm sao biện minh là ông không độc tài?
    Thêm nữa, Trung Tướng Khánh còn cấp cho Công Binh 10 triệu đồng để xây cái hầm sâu trong lòng núi đá ngay sau lưng Trường Thiếu Sinh Quân/Vũng Tàu nữa. Tôi không rõ những chi tiết về cái hầm này, chỉ được nghe ông nói trong buổi họp tham mưu của Bộ Tổng Tư Lệnh rằng:
    "Trường hợp cuộc chiến dẫn đến sự xâm nhập của không quân địch thì hầm này là nơi đặt bản doanh hành quân của Bộ Tổng Tư Lệnh".
    Đến khi trường này chuẩn bị di chuyển để bắt đầu phá núi xây hầm, cũng là lúc Trung Tướng Khánh lưu vong nên kế hoạch bị hủy bỏ.
    Ngay trước ngày Quốc Khánh đầu tiên 01/11/1964 -kể từ sau cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm- Trung Tướng Khánh tấn phong chánh phủ dân sự do giáo sư Trần Văn Hương làm Thủ Tướng, và kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng. Quốc Trưởng là nhà cách mạng quốc gia lão thành, hoạt động không mệt mỏi, từng vào tù ra khám vì hoạt động cách mạng, nổi tiếng là trong sạch, và chống cộng sản một cách triệt để. Thủ Tướng là nhà giáo kỳ cựu, có tiếng là thanh liêm, nhiệt tình, chống cộng sản không khoan nhượng, nhưng có dáng vẻ và phong cách của một công chức cần mẫn hơn là nhà hoạt động chính trị. Cả hai vị đều do Trung Tướng Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội (Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đổi danh xưng là Hội Đồng Quân Đội) đề cử sau khi tham khảo cơ quan do ông thành lập có tên gọi "Hội Đồng Dân Quân".
    Dưới nét nhìn nào đó cho thấy Trung Tướng Khánh muốn dư luận thấy ông giảm bớt cái hơi hám "độc tài" mà ông luôn bị cáo giác trong các cuộc mít tinh biểu tình, và nhất là trong những vị hoạt động chính trị, nên ông nhường chức Quốc Trưởng và Thủ Tướng cho hai vị dân sự. Nhưng thật ra, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, ông vẫn tự cho mình cái chức năng trên Quốc Trưởng chẳng khác dưới chế độ cộng sản độc tài bao nhiêu.
    Dù sao thì chánh phủ dân sự cũng tô điểm đôi chút cho hình ảnh chính trị Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, bớt tính cách năng nổ đầy u ám của một vị võ tướng cầm quyền có pha chút "hơi hám quân phiệt" lãnh đạo.
    Ngày 01/01/1965, Trung Tướng Khánh xuống Cần Thơ chủ tọa lễ kỷ niệm "Ngày Quân Đoàn IV hai tuổi". Ông nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội thăng cấp Trung Tướng cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Quân Đoàn này.
    Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu là Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tham gia tích cực. Đảo chánh thành công, ngày hôm sau ông được thăng cấp Thiếu Tướng, giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Chẳng bao lâu sau đó, ông bàn giao cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên để nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật cách nay vài tháng. Nay, ông được thêm một ngôi sao mỗi bên cầu vai.
    Trung Tướng Khánh là người rất xông xáo, nay đơn vị này mai đơn vị khác. Ông thường thăm và khen thưởng tại chỗ về những thành tích cá nhân cũng như tập thể đơn vị. Mỗi lần đi bằng phi cơ, tôi được lệnh mang theo tất cả hồ sơ công văn của các phòng trình lên để ông làm việc ngay trên phi cơ. Chiếc phi cơ C47 mà Không Quân dành cho ông, có trang bị bàn viết, giường nằm, tủ lạnh nhỏ, và vài tiện nghi lặt vặt khác. Thường khi như vậy, ngoài Trung Tướng Khánh ra, còn có sĩ quan tùy viên, cận vệ, vài nhân viên an ninh, vài nhân viên truyền tin, và tôi. Đến thành phố nào đó là tôi tìm phi cơ khác của Không Quân Việt Nam, Không Quân Hoa Kỳ, hoặc Hàng Không dân sự, để mang công văn trở về Bộ Tổng Tư Lệnh hoàn lại các Phòng Sở. Việc bảo vệ số công văn này luôn được quan tâm đúng mức. Đây là nét đặc biệt của Trung Tướng Nguyễn Khánh mà vị Tổng Tư Lệnh trước ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, và những vị sau ông là Trung Tướng Trần Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, và Đại Tướng Cao Văn Viên, không có. Tôi không dám đoan chắc đó là điều tốt, nhưng rõ ràng là ông không để thời gian trống trong nhiệm vụ của ông.
    Tôi không biết có phải là do vụ "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964 hoặc vụ đó chỉ là "giọt nước làm tràn ly nước" hay không, nhưng từ sau vụ ấy thì Trung Tướng Khánh với Đại sứ Hoa Kỳ -cựu Tướng Maxwell Taylor- đã bất hòa nhau, và Trung Tướng Khánh đặt bản doanh Bộ Tổng Tư Lệnh ở tòa nhà trắng Vũng Tàu. Tòa nhà này, người dân địa phương thường gọi là "bạch dinh". Hằng ngày, tôi dùng phi cơ nhỏ mang công văn của Bộ Tổng Tư Lệnh từ Sài Gòn ra Vũng Tàu trình ông, xong là quay về Sài Gòn. Ngày hai buổi sáng chiều, tôi đi đều đều như vậy. Đôi khi có công văn gấp, tôi phải đi ngay dù là ngày chủ nhật hay nghỉ lễ. Thường thì tôi sử dụng chiếc phi cơ L20 do anh bạn cùng khóa với tôi lái. Anh Nguyễn Xuân Lễ, sau khi ra trường thời gian ngắn thì anh chuyển sang Không Quân. Hiện (2006) anh định cư tại Houston.
    Trong một chuyến bay trên chiếc vận tải C7 (Caribou) từ Vũng Tàu về Sài Gòn, bị quân cộng sản bắn lên và Đại Úy Long ngồi cạnh tôi bị trúng đạn xuyên từ dưới mông lên vai, và chết liền. Không biết chúng bắn bao nhiêu viên đạn nhưng chỉ có 1 viên trúng phi cơ và đã gây tử thương một sĩ quan mới tái ngũ vài tháng trước đó, và đang phục vụ tại Bộ Tổng Tư Lệnh. Hôm ấy, chiếc L20 tu bổ, tôi ôm công văn quá giang chiếc L19 ra Vũng Tàu, và lại quá giang chiếc C7 nói trên trở về Sài Gòn.
    Quí vị nghĩ xem, ông Tổng Tư Lệnh giận ông Đại Sứ của nước "chi tiền", dời văn phòng xa hơn trăm cây số, để lại đằng sau cả một bộ tham mưu đầu não của quân đội hơn 600 ngàn người đang từng giờ chiến đấu chống cộng sản. Cho nên có những việc mà vị Trưởng Phòng cần trình bày trực tiếp với vị Tổng Tư Lệnh cũng chỉ dùng điện thoại mà điện thoại thì không hoàn toàn bảo mật được! Phải chăng Trung Tướng Khánh là vị lãnh đạo quốc gia xem chính trường như sân khấu? Đồng ý chính trường cũng là một loại sân khấu, nhưng nền tảng của sân khấu là nghệ thuật dựng lại những góc cạnh của cuộc sống, trong khi chính trường là nơi thể hiện tài năng, kinh nghiệm, bản lãnh, của người lãnh đạo xây dựng cuộc sống đó. Sở dĩ tôi nói đến "sân khấu" là vì trong năm 1964, nhiều báo chí tại Sài Gòn nói Trung Tướng Khánh có giòng máu nghệ sĩ.
    Xin mở ngoặc. Trong cuộc đàm thoại tối ngày 21/10/2003, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm từ Virginia nói với tôi liên quan đến đoạn trên đây, như sau:

    “Chú có biết tại sao ông Khánh với ông Taylor giận nhau hông?

    “Dạ không”.

    “Tại vì ông Khánh chửi ông Taylor (Đại Sứ Hoa Kỳ) về vụ ông Đức (Trung Tướng Dương Văn Đức) biểu dương lực lượng đó. Ông Khánh nói với tôi như vậy sau khi ổng bị đuổi khỏi Việt Nam qua Hoa Kỳ ở với tôi mấy ngày”.

    Xin đóng ngoặc.

    Ngày 16/02/1965, Trung Tướng Khánh ra phi trường chậm hơn nửa tiếng đồng hồ, điều mà ít khi xảy ra. Sau khi phi cơ lên đến độ cao để trực chỉ Qui Nhơn, ông ngưng tay duyệt công văn và quay sang tôi:

    “Tôi vừa thành lập xong chánh phủ”.

    “Thủ Tướng Trần Văn Hương còn không, thưa Trung Tướng?

    “Bác sĩ Phan Huy Quát thay ông Hương rồi. Với tôi thì mọi việc chẳng có gì khó khăn cả”.

    Nụ cười của ông lúc bấy giờ nếu cựu Thủ Tướng Hương trông thấy chắc là dễ tức lắm cho dù giáo sư Hương có tiếng là người trầm tỉnh. Tôi không rõ nguyên nhân thay đổi Thủ Tướng, chỉ nghe Trung Tướng Khánh nói rằng:

    “Trong giai đoạn này mà làm mất lòng tôn giáo thì không thể chấp nhận được”.

    Ông là Trung Tướng, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, "đã" ngang nhiên chỉ định Thủ Tướng trong khi Quốc Trưởng vẫn tại chức, lại còn tự cho mình là người giải quyết công việc quốc gia nhanh chóng nữa!

    Đến Qui Nhơn, không có phi cơ về Sài Gòn nên tôi phải ở lại. Tình hình quân sự tại tỉnh Bình Định ngày càng xấu đi, đến nỗi đêm hôm đó mọi người phải ngủ tại hầm chiến đấu. Tôi sang Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ngủ nhờ hầm chiến đấu của Bộ Chỉ Huy này. Lúc ấy, Tỉnh Trưởng Bình Định là Trung Tá Lê Trung Tường. Thiếu Tá Trương Bảy là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận. (Về sau, Trung Tá Tường là Chuẩn Tướng quân đội, Thiếu Tá Bảy là Chuẩn Tướng Cảnh Sát).
    Sáng hôm sau, cả đoàn dùng trực thăng bay vào Nha Trang. Sau khi thăm Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt mà Chuẩn Tướng Đoàn Văn Quảng là Tư Lệnh, Trung Tướng Khánh bay ngược ra Vũng Rô, nơi mà hôm trước Hải Quân và Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã bắn chìm chiếc tàu của quân cộng sản chở vũ khí từ ngoài bắc xâm nhập vào. Nói cho đúng, chiếc tàu này bị Hạm Đội 7 Hoa Kỳ phát hiện và liên tục theo dõi, đến khi vào duyên hải Việt Nam Cộng Hòa thì họ báo cho Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa biết. Kết quả là tàu địch bị đánh chìm. Khi trực thăng lượn nhiều vòng trên không phận Vũng Rô, tôi nhìn thấy dòng chảy của nhiên liệu từ chiếc tàu chìm phía dưới loang dài trên mặt biển. Lực lượng Người Nhái của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đang trục vớt vũ khí lên tàu, trong khi lực lượng của Quân Đoàn II đang hành quân lục soát trong khu vực núi Đá Bia, lân cận Vũng Rô. Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng, trong khu vực này có thể có kho tồn trữ của quân cộng sản. Chỉ trong ngày 17/2/1965, cả hai lực lượng thu được hơn 1000 khẩu súng đủ loại, tất cả hoàn toàn mới nguyên được bao bọc trong giấy dầu cẩn thận.
    Theo nhận định của Phòng Nhì/Bộ Tổng Tư Lệnh, hơn một năm qua, với những bất ổn chính trị trong nội tình Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, quân cộng sản miền bắc đã lợi dụng "khoảng trống an toàn" đó để gia tăng vận chuyển đơn vị chính qui và vũ khí đạn dược vào lãnh thổ chúng ta bằng đường bộ dọc dãy Trường Sơn và đường thủy dọc duyên hải từ bắc vào. Những lần trước, số vũ khí đạn dược tịch thu được ở cửa sông Bồ Đề tỉnh An Xuyên (Cà Mau), bờ biển Ba Động tỉnh Vỉnh Bình (Trà Vinh). Vụ Vũng Rô này là lần thứ 3 tịch thu được số lượng vũ khí quan trọng.
    Khi chánh thức cầm quyền sau cuộc đảo chánh thành công, với một Thông Điệp quan trọng, Trung Tướng Khánh chánh thức lên tiếng kêu gọi các quốc gia đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản, điều mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không làm theo ý muốn của Hoa Kỳ. Nhưng liệu có phải Thông Điệp mà Trung Tướng Khánh tuyên đọc là do Hoa Kỳ trao cho ông hay chánh phủ của ông chủ động viết bản văn đó? Nhìn theo góc độ quân sự, cho dù Hoa Kỳ có cần thực hiện "chiến lược Domino" bằng cách thiết lập các căn cứ quân sự trên đất nước chúng ta hay không thì sự hiện diện của quân bộ chiến Hoa Kỳ, trong một mức độ nào đó thật sự là cần thiết.
    Trong khi áp lực quân sự từ phía quân cộng sản ngày càng xấu đi thì tình tình chính trị tại thủ đô Sài Gòn vẫn trong tình trạng rối ren. Tuy là Quốc Trưởng với Thủ Tướng đều là dân sự, nhưng thực chất thì quyền hành vẫn trong tay Trung Tướng Khánh. Các nhà chính trị vẫn thường tổ chức những cuộc hội họp mít tinh nhằm tạo áp lực đòi Trung Tướng Khánh rút lui thật sự, vì vậy mà Trung Tướng Khánh luôn luôn lo sợ một ngày "xấu trời" nào đó ông sẽ bị đảo chánh bởi lực lượng quân sự. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã lưu vong từ tháng 10/1964, và Trung Tướng Dương Văn Minh cũng lên đường lưu vong 2 tháng sau đó, nhưng điều đó không có nghĩa là "họa đảo chánh" không còn.



  6. #6
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default Đảo Chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965



    - bốn -

    Đảo Chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965


    *****

    Sáng sớm chủ nhật, 19 tháng 2 năm 1965, tiếng súng nổ ở hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, hướng căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, và hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Tôi lái xe xuống Biệt Khu Thủ Đô vì gần nhà. Đường Lê văn Duyệt từ Chợ Ông Tạ đến "trại Lê Văn Duyệt" (tức Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô) phải hơn nửa tiếng đồng hồ vì kẹt xe. Đến cổng trại, tôi gặp ngay Thiếu Tá Lưu Ngọc Kỉnh -bạn tôi từ năm 1955- đang là Tiểu Đoàn Trưởng thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh, có nhiệm vụ chiếm giữ Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô:

    “Chào anh Kỉnh. Ông nào lãnh đạo vậy anh?

    “Anh Hoa, lâu quá mới gặp. Thiếu Tướng Phát (Lâm Văn Phát) lãnh đạo đó”.

    “Bây giờ Thiếu Tướng đi với cánh quân nào anh biết không?

    “Thiếu Tướng lên hướng căn cứ Không Quân và tôi đoán là ổng đang ở trên đó”.

    “Tôi nghe có tiếng súng bên hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vậy bên đó có lực lượng nào không anh?

    “Có. Trung Tá Thao với 2 Tiểu Đoàn chiếm giữ bên đó. Nè, anh nói giùm với Trung Tá Thao là tôi đến đây rồi mà chưa có lệnh gì thêm, với lại không có tiếp tế thực phẩm cho anh em. Anh nói Trung Tá Thao liên lạc với tôi và đem tiếp tế đến đây giùm nghe”.

    “Sao anh không gọi máy nói chuyện với ảnh?

    “Lệnh im lặng vô tuyến chưa giải toả nên không dùng máy. Thôi, anh đi giùm đi”.

    “Được rồi. Tôi sang Bộ Tổng Tư Lệnh ngay. Chào anh”.

    Chiếc Jeep phải lách mãi mới quay lại được đường Thoại Ngọc Hầu và chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Tại cổng số 1, Quân Cảnh Bộ Tổng Tư Lệnh kiểm soát chặt chẻ người lẫn và xe ra vào cổng. Bên trong, hầu hết là quân nhân mang phù hiệu Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Trước cửa văn phòng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tư Lệnh, tôi gặp Trung Tá Lê Hoàng Thao.

    Đầu năm 1962, anh là Thiếu Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình trong thời gian Đại Tá Trần Thiện Khiêm, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Hậu Giang bao gồm 8 tỉnh bờ nam sông Tiền, kể cả tỉnh Vỉnh Bình. Lúc ấy tôi là Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, kiêm điều hành văn phòng Ấp Chiến Lược của Khu Chiến Thuật Hậu Giang. Do công tác này mà tôi tiếp xúc thường xuyên với quí vị Tỉnh Trưởng đang trắc nghiệm Ấp Chiến Lược, từ đó chúng tôi quen nhau.

    “Anh Thao. Hôm nay trông anh oai quá”.

    “Oai cái gì. Mệt quá trời đây nè”.

    “Anh Kỉnh cần liên lạc với anh và xin anh lo tiếp tế cho Tiểu Đoàn của ảnh bên Biệt Khu Thủ Đô đó”.

    “Giờ này làm sao tôi lo được, bên đó phải tự túc chớ. Được rồi, tôi sẽ gọi ảnh”.

    “Thiếu Tướng Phát ở đâu anh Thao?

    “Bên căn cứ Không Quân. Ổng bắt được ông Khánh rồi (ý nói Trung Tướng Nguyễn Khánh). Tôi cho anh biết là có ông Thảo bên Mỹ về làm vụ này đó nghe. Xong là "sếp" về ngay”."Sếp" mà Trung Tá Thao vừa nói có nghĩa là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Còn ông Thảo, tức Trung Tá Phạm Ngọc Thảo. Trước kia ông Thảo bên hàng ngũ cộng sản về "hồi chánh" thời Tổng Thống Diệm. Với mức độ tin cậy nào đó, Tổng Thống Diệm đồng hóa cấp Đại Úy cho ông và cử ông giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre), một địa phương mà đa số đồng bào có thân nhân hoạt động trong hàng ngũ cộng sản. Do thành tích triệt hạ nhiều hạ tầng cơ sở cộng sản tại đây nên được tiến cấp Thiếu Tá, sau đó lại lên Trung Tá (cấp đồng hóa khi được thăng cấp gọi là "tiến cấp"), và do đề nghị của Trung Tá Thảo mà Thiếu Tá Thao được Tổng Thống cử giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình.

    Trung Tá Thảo có vẻ như được lòng của Đại Tá Khiêm, có thể vì ông được Tổng Thống Diệm nâng đỡ, cũng có thể do thành tích của Trung Tá Thảo tại Kiến Hòa, hoặc cả hai kết hợp lại. Nhưng có điều tôi không rõ là Đại Tá Khiêm có cảm tình với Trung Tá Thảo là thật lòng hay vì yếu tố chính trị? Bởi, theo tôi, Đại Tá Khiêm là người ít nói nhưng không phải là kém thận trọng, vì dù sao đi nữa thì những gì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo đạt được trong thời gian qua, vẫn chưa đủ sức bôi xóa được nguồn gốc quá khứ của ông, để tạo cho ông chỗ đứng vững chắc trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Trung Tá Thảo đang làm việc trong tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Do những điều tôi biết về Đại Tướng Khiêm đến trước ngày ông lưu vong (7/10/1964) thì tôi không tin Đại Tướng Khiêm phái Trung Tá Thảo về đây tổ chức đảo chánh. Nhưng có thể là nhận thức của tôi sai lầm, vì biết đâu quan điểm chính trị của Đại Tướng Khiêm từ ngày lưu vong đến nay -dù chưa đầy 5 tháng- đã thay đổi? Dù sao thì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo -theo lời Trung Tá Thao- cũng đang có mặt trong cuộc đảo chánh này vẫn làm tôi thắc mắc.
    Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan giữa tôi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)

    “Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19/02/1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?

    “Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh.

    “Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó? Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.

    “Vậy thì lời của Trung Tá Lê Hoàng Thao đã không đúng”.

    Và cựu Đại Tướng Khiêm hỏi lại tôi:

    “Chú có biết là tại sao ông Phát (Thiếu Tướng Phát) đảo chánh ông Khánh (Trung Tướng Khánh) bị thất bại, mà ông Khánh lại lưu vong hông? Ông Phát thua thì phải rồi, còn ông Khánh tại sao thua? Hồi ông Khánh qua ở đây với Anh (Đại Tướng Khánh có đến nhà Đại Tướng Khiêm khi ông Khiêm giữ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ), Anh có hỏi ổng: “Tại sao ông Phát thua mà Anh cũng thua nữa? Ông Khánh cười cười mà không trả lời.

    “Điều này em không biết rõ, chỉ biết rằng Hội Đồng Quân Đội lúc ấy có Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, và còn nữa nhưng người kể lại cho em nghe thì không nhớ hết, các vị quyết định Thiếu Tướng Phát phải lui quân. Và các vị lại họp tiếp và quyết định trục xuất Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, cách chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và buộc lưu vong”.

    “Anh có gặp Thiếu Tướng Phát khi ổng qua Mỹ này, Anh hỏi ổng tại sao ổng đảo chánh hồi năm 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Anh thấy chuyện đời mà buồn! Chú có biết là Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm), ông Khánh, ông Đức (Dương Văn), và ông Phát, bốn đứa Anh cùng học một khoá không? Vậy mà khi lên Tướng lại quay mặt đánh nhau! Chú có thấy chính trị nó làm mất tình cảm giữa anh em bè bạn với nhau không!

    “Thưa anh Tư, em còn nhớ vào chiều ngày 06/10/1964, khi chuẩn bị lưu vong, anh Tư gọi em đến nhà, anh đích thân đem bánh rót nước trà mời em. Anh Tư có nói rằng: “Tôi nói với chú cũng như mấy chú trong văn phòng, nếu như còn thương tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì chính trị đôi khi dẫn người ta đến chỗ không còn giữ lại cho mình tình cảm với người thân, với bạn bè bằng hữu”. Mà theo em nghĩ, chính trị tự nó không có gì là xấu cả, chỉ tại người làm chính trị thôi anh Tư”.

    Đến đây thì cựu Đại Tướng Khiêm bận việc gì gấp nên chấm dứt vội vàng. Một lúc sau ông gọi lại cho biết là có việc nên không tiếp tục được. Xin đóng ngoặc.

    Trước khi trở lại câu chuyện giữa tôi với Trung Tá Lê Hoàng Thao, tôi xin nói thêm về sự kiện Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết. Ngày 18/01/2004, đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại do ông Hồng Phúc phỏng vấn tôi về cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964, nhưng ở phần đầu người xướng ngôn có đọc bức thư của ông Bùi Dzũng từ Paris (con trai của cựu Đại Tá Bùi Dzinh). Theo đó thì khoảng tháng 07 năm 1965, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết chết sau đó. Theo một vị đã trả lời trong cuộc phỏng vấn cũng của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại, nguyên nhân là do bà Bùi Dzinh thường tới lui thăm nuôi chồng nên bị lộ tung tích. Lúc ấy cựu Đại Tá Bùi Dzinh, cựu Đại Tá Đỗ Văn Diễn, và Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, cùng trốn chung trong một ngôi nhà vùng ngoại ô Biên Hòa. Ông Dzũng cho biết, thật ra người đến thăm thường xuyên là bà Đỗ Văn Diễn nên bị lộ tung tích chớ không phải bà Bùi Dzinh, tức mẹ của ông Dzũng. Cuối cùng, ông Dzũng yêu cầu đài phát thanh đính chánh để mẹ ông được yên nghỉ trong lòng đất. (So với ấn bản lần 3, xin đính chánh theo yêu cầu của ông Bùi Dzũng, ông không phải là bác sĩ. Đa tạ)
    Bây giờ xin tiếp tục câu chuyện. Tôi hỏi Trung Tá Lê Hoàng Thao:
    “Anh có chắc là Trung Tướng Khánh bị bắt rồi không?
    “Chắc chắn mà. Nói thiệt anh nghe, nếu không xong thì 2 trái lựu đạn này đủ giải quyết rồi anh”.
    Trung Tá Thao vừa nói vừa đưa 2 tay nắm vào 2 trái lựu đạn móc ở giây thắt lưng. Mặc dù anh Thao quả quyết việc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đã bắt được Trung Tướng Nguyễn Khánh nhưng tôi chưa dám tin, vì bắt Trung Tướng Khánh không phải dễ dàng đâu, bởi ông có toán an ninh cận vệ xứng đáng với sự tin cậy của ông.
    Tôi lên xe với ý định xuống nhà Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Đổng lý Văn Phòng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vừa ra cổng Bộ Tổng Tư Lệnh, trông thấy xe của bác sĩ Trung Úy Nguyễn Đức Thành (em ruột của Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng. Cấp bậc lúc ấy), bác sĩ riêng của Trung Tướng Khánh, từ hướng phi trường xuống, tôi ngoắc lại:

    “Anh Thành. Anh có biết Trung Tướng ở đâu không?

    “Trung Tướng lên phi cơ đi rồi Thiếu Tá”.

    “Chắc không anh, vì tôi nghe ông Trung Đoàn Trưởng đang chiếm giữ Bộ Tổng Tư Lệnh nói là Trung Tướng bị bắt rồi?

    “Chắc chắn vì tôi đưa đi mà. Lúc phi cơ cất cánh có 2 chiếc Thiết Giáp chạy ra đường băng cản lại nhưng không kịp”.

    “Trung Tướng đi đâu anh biết không?

    “Tôi không rõ lắm, nhưng có thể là bay xuống Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Bạc Liêu)”.

    “Bây giờ tôi xuống nhà Thiếu Tướng Vỹ, anh có đi với tôi không?

    “Tôi bận chút việc, nếu tiện thì tôi đến sau”.

    “Vâng. Chào anh”.Vào nhà Thiếu Tướng Vỹ, hai ông bà rất thản nhiên chừng như không có việc gì xảy ra hết trơn.

    “Lâu quá mới gặp anh. Anh chị mạnh khỏe chớ? Bà Vỹ thật vui khi nói với tôi như vậy.

    “Cám ơn chị, tụi tôi vẫn thường thôi”.

    “Hôm nay anh ở đây dùng cơm với vợ chồng tôi à nghe. Đây này, anh điện thoại về cho chị đi”. Vừa nói chị vừa đưa ống nói điện thoại cho tôi.

    “Rất cám ơn chị và xin lỗi chị, chúng tôi có thân nhân từ Vĩnh Long lên thăm, nên chốc nữa phải quay về dùng cơm trưa chị à”.

    Tôi vào chuyện nóng bỏng luôn:

    “Thưa Thiếu Tướng, chắc Thiếu Tướng biết tin Trung Tướng Khánh đã xuống miền Tây rồi?

    “Có. Tôi có biết”.

    Lúc ấy tôi nghĩ mãi không ra là do đâu mà Thiếu Tướng Vỹ biết nhanh như vậy. Tôi thuật lại những gì tôi với bác sĩ Thành nói chuyện với nhau cho ông bà Vỹ nghe, sau đó tôi chào ông bà và trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh, tìm gặp Trung Tá Thao:

    “Anh Thao, Trung Tướng Khánh đã rời Sài Gòn bằng phi cơ lúc sáng, điều đó là xác thực. Tôi nghĩ là anh nên trình với Thiếu Tướng Phát mà cẩn thận, vì Trung Tướng Khánh nhiều thủ đoạn lắm, tôi e là không ổn đâu nghe”.

    “Thiếu Tướng Phát nói với tôi là bắt ông Khánh rồi mà”.

    “Tôi không nói Thiếu Tướng Phát nói không đúng, nhưng anh nên nghe tôi vì tin tôi nhận được là chính xác. Tùy anh”.

    Tôi vào văn phòng và chờ xem nội vụ mà tôi tin là thất bại. Buổi trưa hôm ấy, các vị Tướng Lãnh họp trong căn cứ Không Quân để tìm biện pháp giải quyết. Các vị nhiệt tình nhất là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi. Kết quả buộc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát phải rút quân.

    Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh chắc là rất bằng lòng khi biết quyết định này, vì Hội Đồng Quân Đội thu hẹp dù không có ông nhưng đã giải quyết đúng theo ý ông. Nhưng, các vị Tướng lại họp nữa, và kết quả sau cùng là "trục xuất" Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, đồng thời buộc ông phải lưu vong.
    Xin nói thêm rằng, sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, Thiếu Tướng Thi với Thiếu Tướng Kỳ là hai vị Tướng Lãnh ủng hộ Trung Tướng Khánh mạnh mẽ nhất, vì cả 3 vị này có cùng quan điểm là phải đánh ra Bắc mới giải quyết tận gốc chiến tranh. Mở cuộc chiến tranh vào lãnh thổ cộng sản miền Bắc là một quyết định chiến lược ngoài tầm tay và cả tầm vói của những vị lãnh đạo của chúng ta cho dù các vị đang nắm quyền lãnh đạo. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta được Hoa Kỳ cung cấp trang bị cho một khả năng phòng thủ, mà chỉ là phòng thủ diện địa chớ không có khả năng chống không quân của địch nữa. Với hoàn cảnh "trói tay" như vậy, quan niệm đánh ra Bắc chỉ là một chiến lược không tưởng, dù rằng quan niệm này không phải là quá sớm. Nhưng dù sao thì những vị Tướng của chúng ta có một quan niệm chiến lược như vậy cũng là điều đáng mừng, vì bộc lộ một trách nhiệm cao độ trong chiến tranh gìn giữ quê hương.
    Khi biết mình bị loại ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng:

    “Anh Hoa, anh tìm xem ông Đại Sứ Mỹ ở điện thoại nào và trình tôi ngay”.

    “Trung Tướng đang ở đâu vậy?

    “Vũng Tàu”.

    “Vâng. Tôi thi hành”.

    Sau khi tìm mãi không được, tôi điện thoại trình Thiếu Tướng Vỹ thì ông cho biết là Trung Tướng Khánh vừa liên lạc với ông Đại Sứ Mỹ rồi. Và theo Thiếu Tướng Vỹ biết thì ông Đại Sứ cho rằng, người Mỹ không can thiệp vào vấn đề chính trị nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa. Điều này được hiểu là Trung Tướng Khánh không còn lối nào để thoát. Vậy là con đường lưu vong mà Trung Tướng Khánh thiết lập cho Đại Tướng Khiêm "khánh thành", kế đó là Trung Tướng Dương Văn Minh trong chức "đại sứ lưu động", và bây giờ chính ông là người lữ hành đơn độc trên con đường mà chính ông chỉ muốn dành riêng cho những vị Tướng mà ông xem như “kẻ thù”. Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh không ngờ rằng, tên ông cũng có trong danh sách những vị một thời là “nạn nhân quyền lực” của chính ông!
    Xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của anh Võ Văn Nghi, vào một tối cuối tháng 11 năm 2003 tại thành phố Houston. Anh là bạn tôi, và anh đồng ý cho tôi bổ túc vào ấn bản lần 4 này.
    Anh Võ Văn Nghi, tốt nghiệp khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1954. Cấp bậc sau cùng (năm 1975) là Thiếu Tá, binh chủng Truyền Tin. Năm 1964, anh là Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Bộ Tổng Tư Lệnh. Anh được cử vào chức vụ Sĩ Quan Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng, với nhiệm vụ chính là cung cấp mọi dịch vụ liên lạc vô tuyến khi tháp tùng theo Trung Tướng Nguyễn Khánh. Cùng trong toán Truyền Tin lưu động với anh còn có Đại Úy Lê Văn Hòa. Anh Nghi với anh Hòa, luân phiên nhau trực đi theo Trung Tướng Khánh. Ngoài Đại Úy Nghi hoặc Đại Úy Hòa tùy phiên trực, trong toán Truyền Tin lưu động này còn có một Trung Sĩ và một Hạ Sĩ chuyên viên sử dụng máy WM2.
    Giải thích của Phạm Bá Hoa: Ngày 1/11/1964, Trung Tướng Khánh đã tấn phong chánh phủ Trần Văn Hương, sau đó là chánh phủ Phan Huy Quát. Như vậy, Trung Tướng Khánh không còn ngồi trong Phủ Thủ Tướng nữa, nhưng theo lời anh Nghi thì Trung Tướng Khánh vẫn sử dụng bộ phận Truyền Tin của Phủ Thủ Tướng, vì cơ quan này có trang bị máy vô tuyến WM2, loại máy liên lạc được với tất cả các cơ quan hành chánh cũng như tất cả các đơn vị quân đội trên toàn quốc. Do vậy mà anh Nghi thuộc đơn vị Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng. Điều này cũng được hiểu là khi bàn giao chức vụ Thủ Tướng, Trung Tướng Khánh vẫn giữ nguyên toán truyền tin đặc biệt và lưu động này theo ông, như là toán biệt phái đặc biệt. Hết phần giải thích.
    Ngày 19 tháng 2 năm 1965, khi lực lượng Sư Đoàn 25 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát điều động xâm nhập tiến chiếm một số cơ quan trọng yếu trong thủ đô Sài Gòn, thì anh Nghi đang bận việc ngoài phố dù là anh đang trong phiên trực, vì vậy mà anh không kịp đi theo Trung Tướng Khánh khi ông dùng phi cơ C47 dành riêng cho ông để thoát khỏi Sài Gòn. Sau đó, toán Truyền Tin của anh bên cạnh Trung Tướng Khánh báo tin cho anh hay, lúc ấy Trung Tướng Khánh đã đến Vũng Tàu. Và đây là lời của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi:
    ''Nghe nhân viên báo tin, tôi vội dùng xe Jeep với bảng số dân sự chạy ra Vũng Tàu. Đến nơi, thì phi cơ cất cánh đi nữa rồi nhưng chưa rõ đi đâu. Tôi quay về Sài Gòn. May quá, được tin từ toán Truyền Tin lưu động cho biết là Trung Tướng Khánh sẽ đến Biên Hòa họp với các vị Tướng Lãnh ở đó. Tôi chạy lên Biên Hòa, lúc ấy Trung Tướng Khánh chưa đến. Thiếu Tướng Kỳ trông thấy tôi, ổng nói:
    “Giờ này mà anh còn đi theo ông Khánh làm gì nữa”.
    Ngưng một lúc để moi thêm trí nhớ, anh Nghi nói tiếp:
    “Trung Tướng Khánh đến. Vào phòng họp, nhưng tôi không được vô. Một lúc sau, anh cận vệ bước ra nói với tôi là Thiếu Tướng Kỳ (Nguyễn Cao Kỳ) với Thiếu Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) muốn Trung Tướng Khánh từ chức liền, nhưng Trung Tướng Khánh không đồng ý vì ông cho rằng, vụ chiếc tàu của cộng sản chở vũ khí đạn dược xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa bị đánh chìm tại Rũng Rô (tỉnh Khánh Hòa, ngày 16/2/1965), đang là vấn đề quan trọng cần phải nghiên cứu để có biện pháp thích ứng với tình hình. Sau đó, Trung Tướng Khánh ra sân bay. Lên phi cơ. Tôi đi theo. Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Úy Đoàn, trưởng phi hành đoàn, bay ra Vũng Tàu (giải thích của Phạm Bá Hoa: từ đây, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng bảo tôi tìm ông Đại Sứ Hoa Kỳ cho ông liên lạc như tôi đã thuật ở trên).
    Anh Nghi thuật tiếp:
    “Khoảng giữa đêm, Trung Tướng Khánh ra lệnh tất cả lên phi cơ, cất cánh ra Nha Trang. Trước khi đáp xuống Nha Trang, ổng bảo tôi gọi cho ổng nói chuyện với ông Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh (dường như là Thiếu Tướng Lữ Lan). Tôi liên lạc được, nhưng khi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì đầu máy bên kia không nói nữa. Lúc ấy phi cơ đáp phi trường Nha Trang. Trung Tướng Khánh và tùy tùng xuống phi cơ thì bị một toán Không Quân võ trang bao vây. Trung Tướng Khánh chưa có phản ứng gì thì Thượng Sĩ Ngàn trong phi hành đoàn, dõng dạc nói với toán Không Quân rằng: “Đây là chuyện của những vị Tướng Lãnh, mấy chú không được hành động gì với Trung Tướng (Khánh) cả”. Thế là toán Không Quân giải tán. Thật sự thì tôi không biết Thượng Sĩ Ngàn là người như thế nào trong Không Quân mà lời nói của ổng được toán quân nhân võ trang này nghe theo, nếu không thì tôi cũng chưa biết việc gì xảy ra nữa”.
    Ngưng một lúc, anh Nghi thuật tiếp:
    “Trung Tướng Khánh bảo tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để ổng nói chuyện. Tôi liên lạc được với Thiếu Tướng Kỳ và xin ổng chờ nói chuyện với Trung Tướng Khánh, nhưng khi tôi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì Thiếu Tướng Kỳ không nói nữa. Giống như trường hợp liên lạc với Thiếu Tướng Lữ Lan (?). Như vậy có lẽ là trung ương đã thông báo cho các đại đơn vị rồi, ít ra cũng là Sư Đoàn 25 Bộ Binh tại Quảng Ngãi (giải thích của Phạm Bá Hoa: lúc thành lập, Sư Đoàn 25 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, về sau di chuyển vào Củ Chi, Hậu Nghĩa). Khoảng 2 giờ sáng (ngày 20/2/1965), Trung Tướng Khánh ra lệnh mọi người lên phi cơ và cất cánh lên Đà Lạt. Căn cứ Không Quân Nha Trang không cho phi cơ cất cánh, nhưng Trung Tướng Khánh bảo cứ cất cánh, và phi cơ rời khỏi đường băng an toàn. Đại Úy Đoàn, trưởng phi cơ báo cáo có hai chiếc khu trục AD6 đã cất cánh từ Sài Gòn ra, có thể là họ đuổi theo chiếc phi cơ này. Trung Tướng Khánh bảo tắt đèn và bay thấp, đổi hướng đi Hong Kong. Nhưng vài phút sau đó, Trung Tướng Khánh bảo quay lại và bay lên Đà Lạt, đừng đáp Liên Khàng mà đáp sân bay Cam Ly (giải thích của Phạm Bá Hoa: Cam Ly là phi trường nhỏ, sát ngoại ô thành phố Đà Lạt). Phi cơ bay không đèn, sân bay cũng không đèn, cũng may là trời có trăng nên đáp an toàn. Tôi gọi mấy anh trong biệt điện đem xe dodge ra đón một cách lặng lẽ. Trung Tướng Khánh cho Đại Úy Đoàn 20.000 đồng như để khen thưởng anh điều khiễn phi cơ đáp an toàn trong đêm tối, rồi ông bảo mọi người nghỉ ngơi.
    Tôi hỏi anh Nghi:
    “Theo anh thì liệu có giới chức nào ở Đà Lạt biết Trung Tướng Khánh đến đây không?
    “Tôi chắc là không ai biết đâu. Khoảng 10 giờ 30 trưa, anh Truyền Tin gọi tôi dậy vì Trung Tướng Khánh bảo tôi vào phòng gặp ông gấp, và ông ra lệnh: Anh (Đại Úy Võ Văn Nghi) thảo công điện gởi về Sài Gòn và phổ biến ngay, nói là tôi đồng ý thoái vị. Đồng thời yêu cầu các đơn vị đảo chánh hãy trở về vị trí”.
    Tôi xin anh dừng lại để nêu câu hỏi cho rõ:
    “Anh có nhớ rõ là Trung Tướng Khánh nói thoái vị hay nói từ chức?
    Anh Nghi lặp lại:
    “Trung Tướng Khánh nói thoái vị. Lúc ấy tôi thấy khó quá, vì đây là bản văn rất quan trọng mà ổng bảo tôi viết rồi gởi luôn. Tôi trình Trung Tướng Khánh:
    “Xin Trung Tướng viết và tôi chuyển ngay”.
    “Anh viết là được rồi”. Lời của Trung Tướng Khánh.
    “Dạ, tôi viết rồi trình Trung Tướng ký”.
    “Không cần. Viết xong anh chuyển đi ngay”.
    “Viết xong tôi gọi về Truyền Tin Phủ Thủ Tướng và đọc “bạch văn” luôn. Tôi yêu cầu phổ biến ngay trên các đài phát thanh. Sau đó thì Trung Tướng Khánh trở về Sài Gòn. Ông có yêu cầu Bộ Tổng Tư Lệnh phải để cho các quân nhân phục vụ trực tiếp cạnh ông lâu nay, được chọn đơn vị phục vụ. Và tôi trở về chức vụ Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Tổng Tư Lệnh”.
    Đến đây là hết phần tường thuật của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi. Xin đóng ngoặc và trở lại với Hội Đồng Quân Đội.
    Lời yêu cầu sau cùng của Trung Tướng Khánh là xin Hội Đồng Quân Đội cử ông giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Ban Nha, Hội Đồng Quân Đội không đồng ý. Nhưng theo lời trình của Hội Đồng Quân Đội, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ký Sắc Lệnh thăng cấp Đại Tướng cho Trung Tướng Nguyễn Khánh. Phải chăng đây là hành động của Hội Đồng Quân Đội an ủi Đại Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong?
    Dường như Đại Tướng Khánh “suy bụng ta ra bụng người” khi ông xin chức Đại Sứ, vì biện pháp mà ông loại trừ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm với Trung Tướng Dương Văn Minh là ông cử đi làm “Đại Sứ lưu động” là xong. Một chức vụ tưởng như thưởng nhưng thật ra là phạt. Chức "Đại Sứ lưu động" là một chức vụ nghe rất lớn vì không phải chỉ làm Đại Sứ tại một quốc gia mà là nhiều quốc gia, chỉ tội một điều là không có tòa đại sứ, không xe không nhà, cũng không tùy tùng hay cận vệ, bởi chức vụ này chỉ dành cho những vị Tướng sa cơ thất thế! Cũng vì vậy mà báo chí thường nửa đùa nửa thật khi ví von câu: "được làm vua, thua làm đại sứ". Trong nửa năm qua (1964) sự thật là như vậy, nhưng sự thật này đã hạ thấp vai trò và trách nhiệm của những vị Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa trên chính trường quốc tế, và làm đau lòng những ai hằng quan tâm đến Quốc Gia Dân Tộc!
    Ngày 25/02/1965, Đại Tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam tự đi làm "đại sứ lưu động" ở đâu đó. Trước khi lên phi cơ, Đại Tướng Khánh thể hiện “lòng yêu nước thương dân” của ông bằng cách hốt nắm đất cho vào cái túi nhỏ mà ông gọi là "nắm đất quê hương" để mang theo trên đường "nhậm chức đại sứ". Đến đây xem như xong màn bi hài kịch của một nghệ sĩ trình diễn. Nhưng khổ nỗi, nếu như nghệ sĩ tồi thì chỉ những khán giả thiệt hại về tiền bạc, về công sức, về thời gian, còn trường hợp Đại Tướng Khánh trong 4 chức vụ lãnh đạo cao nhất với những quyền uy tột đỉnh của đất nước Việt Nam: Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông đã gây tổn hại tinh thần, tổn hại nền nếp kỹ cương của quân đội, tổn hại uy tín quốc gia trên chính trường quốc tế, kể cả kẻ thù từ quốc gia phía bắc vĩ tuyến 17!
    Theo tôi, giá mà Đại Tướng Nguyễn Khánh giữ những chức vụ lãnh đạo quân đội, điều binh khiễn tướng ở chiến trường thì thích hợp với ông hơn là nắm giữ chức vụ lãnh đạo quốc gia. Thật ra, Đại Tướng Khánh có phong cách và cái uy của vị Tướng xông pha trận mạc. Trong cách nhìn nào đó sau khi để qua một bên về khía cạnh chính trị và những gì thuộc về riêng tư, Đại Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tướng Cao Văn Viên, và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, mỗi vị có cách riêng của mình trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh, và cả ba vị đều là Tướng Lãnh rất xứng hợp trong vai trò lãnh đạo và chỉ huy quân đội trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
    Tiếc thay, chỉ hơn một năm cầm đủ thứ quyền trong tay, Đại Tướng Khánh đã làm rối loạn nền nếp sinh hoạt chính trị lẫn kỷ cương quân đội. Phải công nhận Đại Tướng Khánh làm được nhiều việc, nhưng cái cốt lõi của vai trò lãnh đạo là đem lại sự đoàn kết mọi thành phần trong xã hội thành một khối để toàn dân một lòng gìn giữ quê hương, thì kết quả ngược lại. Liệu chúng ta có nên qui một phần trách nhiệm tinh thần cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm khi đưa Đại Tướng Nguyễn Khánh từ Tư Lệnh Quân Đoàn I lên đến chức vụ lãnh đạo quốc gia hay không, cho dẫu sự tiếp tay đó là vô tình đã tạo môi trường và cơ hội cho Đại Tướng Khánh thực hiện tham vọng chính trị? Nhưng nghĩ cho cùng, Đại Tướng Khiêm đã bị Đại Tướng Khánh bạc đãi đến mức hận thù rồi, không nên đè nặng lên tinh thần ông thêm nữa.
    Xin nói thêm là cuối năm 1965, tôi nhận được bức thư dài 8 trang viết tay của Bà Trần Thiện Khiêm, 8 trang nhưng không có nghĩa là bức thư dài vì chữ viết của Bà rất to rất dễ đọc. Có đoạn Bà cho biết, dù đối xử không tốt với gia đình Bà, nhưng Đại Tướng Khánh cùng với Trung Tướng Đỗ Cao Trí, (đã tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân vượt biên năm 1970) đã đến Washington D.C. sống trong gia đình Bà hằng tháng trời dù Bà không mời, khi Bà viết câu:
    "khách không mời mà cứ đến cứ ở".
    Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan mà tôi đã trao đổi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21 tháng 10 năm 2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)

    “Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?

    “Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh. “Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó?” Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói là khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.

    “Vậy thì anh Lê Hoàng Thao đã không đúng”.

    Xin đóng ngoặc, trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh.
    Hội Đồng Quân Đội cử Trung Tướng Trần Văn Minh giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. (Trung Tướng Minh nói ở đây không phải Trung Tướng Trần văn Minh sau này là Tư Lệnh Không Quân). Chức vụ đứng đầu quân đội hơn 600 ngàn quân, một lần nữa không có ai bàn giao cho người nhận chức. Không quốc kỳ, không quân kỳ, không vị nào chủ tọa, cũng không sĩ quan nào tham dự, chỉ mỗi Trung Tướng Minh và vài sĩ quan thân cận vào nhận việc một cách lặng lẽ! Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà "xuống giá" đến mức thảm thương như vậy đó! Thảm thương đến mức không bằng buổi bàn giao chức vụ Trung Đội Trưởng bộ binh khi tôi tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức nữa, vì dù sao cũng có Trung Úy Đại Đội Trưởng của tôi -Trung Úy Nguyễn Văn Thảo- chủ tọa giao nhận đàng hoàng, có bắt tay chúc mừng thân mật, và cùng nâng chén nước trà bên bụi chuối tại khu vực hành quân trong vùng hẻo lánh thuộc Quận Tam Bình tỉnh Vĩnh Long vào thượng tuần tháng 2 năm 1955.
    Đây là lần thứ tư thay đổi chức vụ đứng đầu quân đội mà không có bàn giao. Lần thứ nhất ngay sau ngày lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công, Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức ngày 2 tháng 11 năm 1963, lúc ấy Đại Tướng Lê Văn Tỵ nằm quân y viện. Lần thứ nhì, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm nhận chức ngày 30 tháng 1 năm 1964, lúc ấy Trung Tướng Trần Văn Đôn đã bị bắt. Lần thứ ba, Trung Tướng Nguyễn Khánh nhận chức ngày 7 tháng 10 năm 1964, lúc bấy giờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm vừa rời Việt Nam lưu vong.
    Trung Tướng Minh không thay đổi tổ chức cũng như nhân viên văn phòng, ngoại trừ Đổng Lý Văn Phòng và Bí Thư của ông. Rất có thể vì chức vụ của ông có chữ "Quyền" đứng trước có nghĩa là "tạm thời", nên ông không thay đổi gì cả, và ông cũng không hề thăm bất cứ một đơn vị nào, thậm chí ngay cả các Phòng của Bộ Tổng Tư Lệnh cũng không được ông ghé mắt vào nữa. Nhưng tại văn phòng, Trung Tướng Minh giải quyết công việc tương đối nhanh chóng và dứt khoát. Phải công nhận là ông xử sự với tất cả quân nhân viên chức rất lịch sự. Không bao giờ ông gọi anh này anh kia, mà bao giờ ông cũng dùng tiếng "vous" (tiếng Pháp) bất luận trước mặt ông là anh tùy phái hay vị sĩ quan.
    Tôi không rõ thời oanh liệt của Trung Tướng Minh ra sao, nhưng trong chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông không khác vị công chức sắp về hưu bao nhiêu, cứ như "sáng vác ô đi tối vác về" đều đặn như vậy trong mấy tháng ngồi trong phòng rộng lớn chính giữa tầng lầu 2 tòa nhà chánh của trại Trần Hưng Đạo.
    Bên phải bàn giấy của ông là những cửa kiến nhìn xuống võ đình trường rộng lớn uy nghi, với cột cờ cao vời vợi mà trên đỉnh là lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió. Cũng từ đây nhìn bao quát là những dãy nhà 2 tầng với kiến trúc khang trang mang dáng vấp phương Tây, dùng làm các phòng sở cơ quan trực thuộc ẩn hiện dưới những tán cây nhiều bóng mát, tô điểm thêm những nét chấm phá cho bản doanh cơ quan cao nhất của quân đội: "Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Một cơ quan có đến 2.000 quân nhân viên chức, trong số có rất nhiều Tướng Lãnh và sĩ quan cao cấp. Chính nơi đây, những vấn đề chiến lược chiến thuật được các phòng sở cơ quan nghiên cứu, soạn thảo, ban hành về tổ chức, trang bị, huấn luyện, nuôi dưỡng, và điều khiễn hành quân chống trả quân cộng sản xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa trong mục tiêu chiến lược bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới nói chung, và Việt Nam Cộng Hòa trong bối cảnh một Đông Nam Á cộng sản nói riêng. Nhưng không biết là Trung Tướng Minh có khi nào đứng bên cửa sổ nhìn bao quát khuôn viên trại Trần Hưng Đạo này, để mà thấy rõ trách nhiệm của người có đủ tư cách và quyền uy ngồi vào chiếc ghế Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay không?
    Chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tướng Trần Văn Minh, kéo dài đến một ngày tính ra chỉ được gần 4 tháng ….


Trang 1/2 12 cuốicuối

Similar Threads

  1. Đôi Dòng Tâm Sự
    By Lãng Du in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 2
    Bài mới nhất : 08-28-2011, 05:29 PM
  2. ... Nhớ!... Cũng một thời để nhớ
    By PhiLan in forum Liên Khóa SVSQKQ
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-25-2009, 05:08 AM
  3. Đôi dòng về WINDOW 7 .
    By loibangTQLC in forum Computer
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 11-04-2009, 08:28 PM
  4. Đôi dòng về NS Kim Cương .
    By loibangTQLC in forum Sưu Tầm, Biên Khảo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-26-2009, 01:03 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •